[Tiểu luận] Sự sàng lọc của lịch sử dân tộc Việt Nam trong thời đại mới

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Mạnh Thăng, 6 Tháng tư 2023.

  1. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản.

    2.3. 1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920)


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những yếu tố tác động đến quyết định rời Việt Nam đi phương Tây (trước năm 1911) Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, các tầng lớp nhân dân trong xã hội bị phân

    Hóa sâu sắc, điêu đứng trong cảnh nước mất, nhà tan, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị tha hóa về con người, bị đọa đày trong đói rách về bệnh tật. Giai cấp cần lao lâm vào số phận nô lệ bi thảm, quyền sống của con người bị chà đạp

    Thảm hại. Xã hội Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khai thác tài nguyên và bóc lột dã man của cải và sức lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc.

    Trong khi đó, tình hình thế giới trong thời gian này lại có những chuyển biến mạnh mẽ. Chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Trước sự hung hăng của chủ nghĩa đế quốc, phần lớn các nước Mỹ La-tinh, châu Á, châu Phi đã trở thành thuộc địa của chúng, trong đó có đất nước ta. Bên cạnh những mâu thuẫn xã hội đã tồn đọng nhiều năm trời, sự lan rộng của chủ nghĩa đế quốc đã làm phát sinh mâu thuẫn mới, đó là mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Vì thế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa lan rộng, trong đó có đất nước ta.

    Mặt khác, phong trào kháng chiến chống Pháp bùng lên và lan rộng trong cả nước. Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và ý chí căm thù giặc Pháp sôi sục. Song, trước sau đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Nhiều phong trào cứu nước do các sĩ phu và văn thân theo ý thức hệ phong kiến. Các phong trào Duy Tân, Đông Du dựa trên lý luận dân chủ tư sản đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Sự thất bại của các phong trào này, đặc biệt trong số đó là phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu đã khiến Nguyễn Ái Quốc thấy được nhiều hạn chế của con đường cứu nước của các bậc tiền bối: Không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ. Trước tình cảnh ấy, Nguyễn Tất Thành, khi đó mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với quyết tâm cháy bỏng: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu".

    Trong khi đó, xét đến nước Pháp, đất nước đang là kẻ thù của Việt Nam, Người cần tìm hiểu về kẻ thù của mình, tìm hiểu về bản chất của kẻ cai trị mình. Bên cạnh đó, trong lịch sử, Pháp là nước nơi khai sinh ra bản tuyên ngôn Nhân quyền năm 1789 với khẩu hiệu: "Tự do, bình đẳng, bác ái". Đây là khẩu hiệu đã lôi cuốn Người quyết tâm xác thực và tìm kiếm những yếu tố làm nên khẩu hiệu ấy. Không những thế, Pháp còn là nước có nền văn minh tiên tiến và khoa học phát triển, vận dụng và học hỏi được từ sự phát triển này là một lợi thế rất lớn cho dân tộc ta. Hội tụ những yêu cầu thiết yếu, Người đã quyết định chọn Pháp là điểm đến đầu tiên trong quá trình học hỏi, nghiên cứu của mình. Như vậy, có thể thấy việc Nguyễn Tất Thành chọn châu Âu làm điểm đến không phải là một quyết định ngẫu nhiên mà là sự kết tinh của quá trình phân tích, suy luận kết hợp với bối cảnh trong nước và thế giới.
     
  2. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản.

    2.3. 1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920) (Tiếp)


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quá trình từng bước lựa chọn con đường cách mạng vô sản (từ năm 1911 đến năm

    1920)

    Trong khoảng thời gian từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã bôn ba khắp các đại lục và tìm hiểu về các nước thuộc địa. Đặc biệt hơn cả, Người đã dừng chân tại các nước đế quốc lớn như Mỹ, Pháp, Anh. Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành đã tranh thủ học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, tự mình tham gia vào cuộc sống lao động sản xuất. Qua đó, Người đã hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở cả các nước tư bản và thuộc địa. Điều này rất quan trọng vì đã giúp Người nắm bắt rõ thực tiễn thế giới, đồng cảm được với tình cảnh của người lao động. Trên cơ sở

    Đó, Người đã rút ra kết luận có tính chất căn bản đầu tiên: "Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề", và "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột". Những nhận biết căn bản đó càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra phương hướng giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, Người đã đến với chủ nghĩa quốc tế.

    Năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại nước Pháp. Được Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường giúp đỡ, Người hăng hái hoạt động chính trị trong Việt kiều và những người lao động Pháp. Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Người. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/06/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tám yêu cầu không được chấp nhận, nhưng đã vạch trần bản chất giả dối của các cường quốc thống trị, đồng thời cũng đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức tỉnh táo là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản thân mình. Từ thực tế ấy, Người kết luận: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình".

    Từ những hoạt động thực tiễn trên và nhất là tháng 7 năm 1920, lần đầu tiên Người tìm thấy con đường giải phóng dân tộc thông qua bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của V. I. Lê-nin. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.. Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Qua đó, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc có sự chuyển biến lớn lao, từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, đến với chủ nghĩa quốc tế. Người đã nhìn thấy khả năng thực hiện ba mục tiêu lớn: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

    Từ thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc theo sát những sự kiện chính trị thế giới đang diễn ra dồn dập, tác động mạnh đến chính trường nước Pháp, đặc biệt là Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (QTCS) và Đại hội I các dân tộc phương Đông. Người tham dự cuộc mít tinh lớn của hàng vạn công nhân tại rạp xiếc ở Pa-ri. Tiếp sau đó, tháng 9-1920, Người theo sát tiến trình Đại hội I các dân tộc phương Đông, nhằm đưa đường lối, chính sách của Đại hội II QTCS vào cuộc sống, mà trước hết là tư tưởng "đoàn kết phương Tây vô sản và phương Đông bị áp bức".

    Những sự kiện chính trị trên góp phần củng cố niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa Mác Lê-nin, củng cố lập trường và bản lĩnh chính trị của Người. Cuối cùng, ta thấy được những thay đổi rõ rệt về chất trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc sau qua một hành trình dài bôn ba xứ lạ.
     
  3. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản.

    2.3. 2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng - chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động cả thực tiễn và lý luận. Người tập trung nghiên cứu và hoàn thiện tư tưởng để bắt đầu quá trình cứu nước. Trong thời gian này, Người nhận thấy cần tập trung chuẩn bị những điều kiện cần thiết về tư tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập một chính Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.

    Về chính trị

    Tác phẩm Đường Cách mệnh (1927) của Người là sự chuẩn bị tập trung và chu đáo về lý luận chính trị cho Đảng ta, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đường Cách mệnh đã chỉ ra mục tiêu giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu, trước hết của cách mạng Việt Nam và các nước thuộc địa là giải phóng dân tộc; về sự cần thiết phải đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với giai cấp vô sản thuộc địa, đoàn kết giữa các nước thuộc địa hình thành mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc; về khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa; cách mạng Việt Nam sau khi giành thắng lợi sẽ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Cách mạng muốn thắng lợi phải có Đảng lãnh đạo, phải có lý luận khoa học dẫn đường và có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn.

    Về tư tưởng

    Sự chuẩn bị về tư tưởng rõ nét nhất của Nguyễn Ái Quốc là thông qua hoạt động báo chí và tuyên truyền. Thời gian ở Pháp, Người cho xuất bản và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho tờ Le'Paria (Người cùng khổ). Người viết khoảng 30 bài, tập trung tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.

    Ngoài ra, Người còn tham gia viết những bài báo khác như Nhân đạo, Đời sống công nhân, Thanh niên. Bên cạnh đó, tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Ngoài ra, Người còn tham gia giảng dạy, thảo luận. Có thể thấy, Người đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để tuyên truyền tư tưởng của mình đến nhân dân.
     
  4. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản.

    2.3. 2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng - chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam (tiếp)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Về tổ chức

    Năm 1923, Người đến Quảng Châu thành lập Tâm Tâm Xã. Thấm nhuần nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Chủ nghĩa Mác – Lênin,

    Nguyễn Ái Quốc xác định Đảng Cộng sản phải có lý luận tiên phong dẫn được, phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kỷ luật tự giác và nghiêm minh, đoàn kết thống nhất, gắn bó với nhân dân.

    Tin tưởng vào thanh niên - thế hệ trẻ và là tương lai của dân tộc, Nguyễn Ái Quốc không những tập hợp thanh niên vào một tổ chức mà còn đào tạo họ thành những lớp người kiên trung của Đảng. Đó là Nguyễn Đức Cảnh, Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong..

    Tháng 02/1925, Người thành lập "Cộng sản đoàn".

    Tháng 06/1925, Người thành lập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội", tổ chức trung kiên là "Cộng sản đoàn".

    Ở đây, chúng ta không khỏi thắc mắc, tại sao Nguyễn Ái Quốc không thành lập ngay một Đảng Cộng sản, mà chỉ thành lập tổ chức Hội, lấy một nhóm "Cộng sản đoàn" làm hạt nhân? Câu trả lời là, Đảng Cộng sản phải là sự kết hợp giữa lý luận Mác – Lenin và phong trào công nhân. Trong hoàn cảnh của những năm 1925, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin mới chỉ được truyền bá một cách sơ lược trong nhóm thanh niên trí thức, chưa được truyền bá rộng rãi và thấm nhuần vào phong trào công nhân Việt Nam, nên chưa thể đặt vấn đề thành lập Đảng Cộng sản. Thành lập một tổ chức Hội, trong đó lấy "Cộng sản đoàn" – một tổ chức gần với Đảng hơn, mang tính cộng sản hơn làm hạt nhân, đây là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc.
     
  5. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản (tiếp)

    Những điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin.

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách

    Mạng vô sản.

    Đứng trước tình cảnh mất nước nhà tan của Việt Nam, cùng với những kinh nghiệm học hỏi từ những sự thất bại các cuộc cách mạng của các bậc tiền bối, ngày 05/06/1911, Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra đi tìm được cứu nước. Trải qua nhiều năm học hỏi và làm việc xa xứ, Người đã tìm đến chủ nghĩa Mác-Lê nin. Dựa vào nền tảng đó, Người đã tìm ra được con đường đúng đắn cho dân tộc ta. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Ngalà đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật". Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Trên con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh vận dụng lý luận Mác - Lênin để xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Sau khi giành lại độc lập, nước ta phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề của chủ nghĩa xã hội. Không có độc lập dân tộc thì không có gì cả. Độc lập dân tộc thể hiện ở việc giành và làm chủ chính quyền dân chủ nhân dân đặt nền móng cho chủ nghĩa

    Xã hội. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được tự do hạnh phúc thì độc lập cũng vô nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là hạnh phúc và tự do. Vì vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải được coi là tất yếu của sự phát triển độc lập của dân tộc, nhằm bảo đảm độc lập tự do của dân tộc và tạo ra một giai đoạn phát triển mới ở trình độ cao hơn trong toàn bộ quá trình cách mạng. Đây là luận điểm của Lê-nin về cách mạng vĩnh viễn - là sự phát triển sáng tạo của cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, không có khoảng cách giữa hai phương diện này.

    Nhận thức được thực tiễn rõ ràng đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin, áp dụng con đường cách mạng vô sản cho dân tộc ta và đem lại những thắng lợi vang dội.
     
  6. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2



    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản (tiếp)

    Những điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin.

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

    Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: Chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Điều sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một Đảng cộng sản dành cho nhân dân.

    Theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta được xây dựng là đảng có đạo đức, văn minh, được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức trong sáng, giàu trí tuệ, biết giải quyết mọi vấn đề nảy sinh ở Việt Nam. Và bắt kịp với thời đại. Đảng phải xây dựng mặt trận dân tộc rộng rãi, vững mạnh, bền vững, chân thành và đoàn kết, trong đó sức mạnh của Đảng là toàn dân tộc, toàn dân Việt Nam, con Lạc cháu Hồng. Đảng cũng biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, thực hiện mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ: Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

    Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông.

    Nhận thức được việc Việt Nam ta là đất nước với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, họ cũng là những người trực tiếp chịu nhiều sự áp bức, bóc lột nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Chính vì thế, Người khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Bên cạnh

    Đó, lực lượng nông dân luôn mang trong mình truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn, lực lượng đông đảo. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng. Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất.

    Đây là sự phát triển và bổ sung của Hồ Chí Minh thêm cho lý luận Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, định hướng cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Đảng có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối với nhân dân lao động và cả dân tộc.
     
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng tư 2023
  7. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản (tiếp)

    Những điểm sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin.

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Học hỏi từ những thất bại của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi

    Nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Tuy quan điểm của Người có xu hướng bạo lực, điều này không hề mâu thuẫn với tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân Việt Nam. Trong suốt quá trình đấu tranh, việc sử dụng bạo lực nhằm đạt được mục đích tối thượng là giải phóng dân tộc.

    Dựa vào chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi". Từ đó, Người đã nhận thức được độc lập tự do không thể có được bằng cầu xin. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.

    Nhận xét: Những luận điểm trên của Nguyễn Ái Quốc là sự bổ sung quan trọng cho chủ nghĩa Mác – Lê nin để phù hợp hơn với đặc điểm xã hội Việt Nam. Đây là kết quả của mười năm lao động trí tuệ miệt mài của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, là di sản quý giá Người để lại cho đời sau.
     
  8. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản


    2.3. 3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản

    Giai đoạn trước năm 1925


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau sự trở về của Nguyễn Ái Quốc, Người đã thấm nhuần tư tưởng cách mạng vô sản và tích cực truyền bá hệ tư tưởng vào Việt Nam. Với sự nhiệt huyết và lòng yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh đã thành công trong việc truyền bá hệ tư tưởng và tạo ra những sự thay đổi mạnh mẽ lên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam.

    Trong giai đoạn tự phát từ trước năm 1925, các phong trào vẫn còn diễn ra trong quy mô nhỏ hẹp, lẻ tẻ do chưa có người lãnh đạo cũng như chủ trương cách mạng đúng đắn. Đặc điểm chung của cách mạng trong thời gian này là trình độ giác ngộ của nhân dân vẫn còn thấp, số lượng người tham gia còn ít. Mục đích của các cuộc đấu tranh chủ yếu xoay quanh việc đòi quyền lợi, tăng lương, giảm giờ làm.. Hình thức đấu tranh chủ yếu của công nhân vẫn là đập phá máy móc, phá giao kèo hoặc bỏ trốn tập thể.

    Từ năm 1922, phong trào bắt đầu có những khởi sắc, trong đó sự kiện đặc biệt là cuộc bãi công của 600 công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Đây chính là một dấu hiệu mới trong việc tổ chức các phong trào công nhân, "lần đầu tiên một phong trào như thế đã nhóm lên ở thuộc địa". Năm 1925, phong trào công nhân đã xuất hiện nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn và có tổ chức lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Cuộc đấu tranh tiêu biểu là cuộc nổi dậy của công nhân Ba Son vào tháng 08/1925 đã giúp ngăn chặn mưu đồ đàn áp phong trào công nhân của thực dân Pháp.

    Có thể thấy, đặc điểm chung của phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này còn ở mức độ thấp cả về tổ chức lẫn tư tưởng. Hầu hết các phong trào đều mang tính tự phát và không hề có mối liên kết. Tuy nhiên, có thể thấy cuộc bãi công Ba Son là dấu hiệu chuyển mình rõ rệt: Mục tiêu của các cuộc cách mạng đã được mở rộng từ kinh tế sang chính trị. Đây là dấu hiệu khởi đầu cho sự nhận thức về vai trò của công nhân trong các cuộc cách mạng của Việt Nam.
     
  9. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Chương 2

    QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

    2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản


    2.3. 3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản (tiếp)

    Giai đoạn sau năm 1925

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động, truyền bá tư tưởng vào sâu trong nhân dân. Nhờ đó, giai cấp công nhân lần đầu được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trên cơ sở đó, giai cấp công nhân dần dần phát triển chủ nghĩa cộng sản và nhận thức rõ hơn vai trò của mình trong cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân càng ngày càng phát triển mạnh mẽ và có những thay đổi rõ rệt về chất.

    Trong năm 1926, hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra mạnh mẽ. Có thể kể tên các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản ở giai đoạn này như: Cuộc bãi công của công nhân ở nhà máy sợi Nam Định, xi măng Hải Phòng.. đặc biệt là 2 cuộc đấu tranh với quy mô lớn như các đồn điền Cam Tiêm, Phú Riềng ở phía Nam. Các cuộc đấu tranh này đều nhằm vào hai mục tiêu chung là tăng lương và thay đổi giờ làm việc thành 8 giờ / ngày như công nhân Pháp. Ta có thể thấy rõ công nhân đã biết tới mục tiêu chung của giai cấp bằng cách đề ra các yêu sách phù hợp với quần chúng nhân dân.

    Trong khoảng thời gian đó, những cán bộ đã được huấn luyện bởi Nguyễn Ái Quốc tại Quảng Châu đã về nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mạnh mẽ phong trào công nhân cũng như truyền bá tư tưởng đến cho công nhân. Những cán bộ này không chỉ trực tiếp tham gia lãnh đạo đấu tranh mà còn tham gia vào phong trào "vô sản hóa". Cụ thể, những cán bộ được đưa đến các nhà máy, xí nghiệp, trực tiếp tham gia vào đời sống của công nhân. Điều này một mặt giúp họ tự rèn luyện bản thân, mặt khác có những điều kiện thuận lợi để truyền bá tư tưởng cho công nhân, nông dân Việt Nam.

    Năm 1928 - 1929 là giai đoạn đỉnh cao của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản với hơn 40 cuộc đấu tranh có quy mô và chất lượng. Có thể thấy, đặc điểm của phong trào công nhân trong giai đoạn này là đã vượt ra khỏi phạm vi của một nhà máy, công xưởng, bước đầu có sự liên kết giữa nhiều ngành, nhiều địa phương và đã trở thành một phong trào liên tục, mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt và giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đi đầu và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng. Cùng với sự lớn mạnh và trưởng thành của phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp yêu nước khác cũng phát triển, tạo nên một làn sóng cách mạng dân tộc khắp cả nước.

    Sự chuyển biến mạnh mẽ đó đã đem đến một kết quả là ba tổ chức cộng sản đầu tiên của Việt nam ra đời trong năm 1929: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (07/1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929). Ba tổ chức được thành lập trong vòng nửa năm đã cho ta thấy hệ tư tưởng cộng sản đã chiếm ưu thế trong phong trào yêu nước Việt Nam. Qua đó, càng khẳng định lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thấm nhuần vào trong cách mạng Việt Nam. Tuy việc thành lập 3 chính đảng thể hiện rằng phong trào yêu nước đã triển mạnh hơn, điều này cũng làm suy yếu và phân tán lực lượng cách mạng. Qua đó, những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín muồi và yêu cầu thành lập một chính quyền chung đã được đặt ra.
     
  10. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,773
    Tiểu kết Chương 2

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngay khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược nước ta, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước, đã đúng lên đấu tranh dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến. Suốt hơn 30 năm, từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi cho đến miền ngược, các cuộc đấu tranh liê tiếp nổ ra, nhưng tựu chung đều thất bại một cách nhanhh chóng. Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến đều gặp kết cục thất bại, thứ nhất, là do họ đã giương lên ngọn cờ "trung quân ái quốc" lỗi thời, nêu lên khẩu hiệu phục hồi quyền lực cho dòng họ Nguyễn đã nhiều lần bán nước, nên hạn chế torng việc tập hợp lực lượng. Thứ hai, các phong trào này chủ yếu phụ thuộc vào uy tín của các thủ lĩnh địa phương, nên không thể hình thành được một trung tâm chỉ huy thống nhất cho các phong trào trong cả nước, và các phong trào tan rã nhanh chóng nếu thủ lĩnh bị bắt hoặc hy sinh. Thứ ba, vì mắc kẹt rong tư tưởng phong kiến, các sĩ phu, nông dân không nhìn thấy được sức mạnh của thời đại, không nhìn thấy được sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế nên cô độc trong chiến đấu. Tuy thất bại, nhưng các phong trào này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho các phong trào cứu nước thời kỳ sau, và cũng là minh chứng rõ ràng rằng, tự tưởng phong kiến không thể là lời giải cho vấn đề dân tộc ta đang gặp phải.

    Chịu ảnh hưởng từ các trào lưu tư tưởng tiến bộ từ Nhật Bản, Trung Hoa và Pháp, các sĩ phu yêu nước đầu thế kỉ XX, tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, hăm hở lao đầu vào khuynh hướng cứu nước mới: Khuynh hướng dân chủ tư sản. Dù với hai phương thức hành động khác nhau: Bạo động và cải cách, nhưng do không có cơ sở cả về kinh tế và chính trị trong nước, và cùng xem thường vai trò của công nông – hai lực lượng xã hội to lớn, hai ông đều gặp nhau ở một điểm: Trông chờ vào sự giúp đỡ của ngoại bang.

    Đây không thể là con đường dẫn tới thành công, vì không một đế quốc nào mong một thuộc địa béo bở như Đông Dương được độc lập. Phong trào cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX đã để lại cho chúng ta một bài học lớn: Trong cách mạng, không thể nào trông đợi một sự giúp đỡ từ bên ngoài.

    Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam được hình thành và bước lên vũ đài chính trị. Các phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản diễn ra rầm rộ trên khắp các mặt trận với nhiều hình thức đa dạng. Tuy nhiên, không giống như giai cấp tư sản các nước, giai cấp tư sản bản xứ Việt Nam vốn đã nhỏ bé số lượng, èo uột và lệ thuộc về kinh tế, lại còn xem nhẹ vai trò của công nhân và nông dân, nên họ không có khả năng kinh tế cũng như lực lượng quần chúng đủ mạnh để tổ chức một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, mà chỉ có thể đòi hỏi một số quyền lợi kinh tế trước mắt hoặc tổ chức một cuộc bạo động bột phát, nhất thời như khởi nghĩa Yên Bái. Tóm lại, khuynh hướng chính trị tư sản cũng không phải là lời giải cho vấn đề giải phóng dân tộc Việt Nam.

    Trong hoàn cảnh bế tắc về đường lối cứu nước đó, năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành – với lòng yêu nước thương dân tha thiết, nhãn quan chính trị nhạy bén cùng tinh thần ham học hỏi – đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Trong khoảng thời gian từ năm 1911 – 1920, Người đã đi nhiều nơi, làm đủ mọi nghề, tiếp xúc với nhiều tầng lớp dân cư ở các nước khác nhau. Từ đó, Người nhận ra bản chất của chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng như nhau, và bắt đầu tham gia hoạt động trong phong trào công nhân. Năm 1920, nhân đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của V. I. Lê-nin, Người chính thức từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản. Người đã tìm thấy ở bản Luận cương của Lênin con đường để dẫn dắt dân tộc mình tới tự do, hạnh phúc.

    Sau một thời gian ở Liên Xô, Người trở về Trung Quốc, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên gồm những phần tử thnah niên ưu tú, tích cực xuất bản báo chí, huấn luyện chính trị, học tập lý luận, đào tạo thực tiễn.. chuẩn bị thật vững chắc về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một Đảng Cộng sản. Lý luận Mác – Lênin được Người truyền bá không phải là lý luận được bê nguyên từ Phương Tây về, mà đã có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với đặc điểm Việt Nam, là thành quả lao động sáng tạo của Người.

    Những hạt giống đươc Nguyễn Ái Quốc ươm từ Hội Việt nam Cách mạng Thanh niên được gửi về nước. Kể từ năm 1925, nhờ có lý luận Mác – Lênin, phong trào công nhân diễn ra rất mạnh mẽ, sôi nổi và rộng khắp, có phương pháp đấu tranh và mục đích chính trị rõ ràng – phong trào công nhân đã chuyển từ tự phát lên tự giác. Kể từ thời điểm năm 1925, giai cấp công nhân đã chính thức bước lên vũ đài chính trị với tư cách một lực lượng chính trị độc lập. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân những năm 1928 – 1929 đã dẫn đến sự hình thành các tổ chức cộng sản, báo hiệu điều kiện để thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam đã chín muồi.
     
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...