[Tiểu luận] Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Mạnh Thăng, 23 Tháng mười hai 2022.

  1. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 2

    SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN,

    CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC

    THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC

    2.1. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920)

    2.1. 1.2. Những chuyển biến của tình hình chính trị thế giới


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã xác lập được sự thống trị trên phạm vi thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành xâu xé, vừa hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ bé. Cùng với những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đời sống nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vô cùng cực khổ, trong đó có nhân dân Việt Nam dưới xiềng xích của chế độ thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc bắt đầu phát triển và có xu hướng lan rộng.

    Tuy nhỏ bé, lạc hậu, nhưng các nước này không cam chịu làm nô lệ cho thực dân, đế quốc mà quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, từ đó phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Sự kiện này tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận thức của người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành, trong việc so sánh đối chiếu với dân tộc Việt Nam, dân tộc ta quyết không làm nô lệ cho thực dân Pháp, mà phải đấu tranh giành lại nền độc lập cho dân tộc, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

    Phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước thuộc khu vực châu Á nổ ra như: Indonesia, Trung Quốc nổ ra nhưng đều thất bại, mà nguyên nhân là thiếu tổ chức, thiếu đoàn kết, đoàn kết rời rạc, nên Hồ Chí Minh không sang Trung Quốc hay Nhật tìm đường cứu nước, mà sang Pháp để tìm đường cứu nước.


    2.1. 1.3. Phẩm chất và trí tuệ của Nguyễn Tất Thành



    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nguyễn Tất Thành sinh ra tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi quê hương giàu truyền thống yêu nước, thương dân, hiếu học. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một vị quan giáo dục có tinh thần yêu nước, thương dân; là Người cha thân ra Nguyễn Tất Thành, đã dạy dỗ Nguyễn Tất Thành chu đáo về các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như: Yêu nước, thương dân, đoàn kết, cộng đồng, dân chủ, trung, hiếu, v. V. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc cũng định hướng cho Nguyễn Tất Thành muốn thắng giặc Pháp thì phải hiểu văn hóa Pháp, muốn hiểu văn hóa Pháp thì phải học ngôn ngữ của Pháp. Trong gia đình, anh ruột Nguyễn Sinh Khiêm và chị ruột Nguyễn Thị Thanh đã tích cực tham gia chống giặc Pháp xâm lược bị bắt giam, bị đánh đập dã man. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên phải chứng kiến cảnh lầm than của nhân dân ta khi nước mất, nhà tan. Xuất phát từ thương dân rồi trăn trở vì dân và quyết tâm ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước nhân văn Việt Nam là cội nguồn động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

    Có thể nói, Nguyễn Tất Thành là một thanh niên Việt Nam yêu nước, thương dân có lý tưởng, có khát vọng, có hoài bão, có quyết tâm; hy sinh trọn vẹn đời mình cho dân tộc Việt Nam, Người nói: "Lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi" [1] . Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, một mình Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước và đã thành công, tạo ra bước ngoặt chuyển hướng cho cách mạng Việt Nam, thay đổi hướng phát triển cho cả dân tộc. Việc lựa chọn, đi theo con đường cách mạng vô sản đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và đem lại nhiều thành tựu vĩ đại cho cách mạng Việt Nam. Cuộc đời - sự nghiệp, tài năng - trí tuệ, đạo đức - phong cách Hồ Chí Minh luôn là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ, là tấm gương soi, lời dạy cho các nhà lãnh đạo, quản lý hôm nay, trăn trở, suy tư, xác định trách nhiệm, rèn đức, luyện tài vì sự phát triển toàn diện con người Việt Nam. Nhân dân ta luôn tự hào về Hồ Chí Minh, bởi vì Bác Hồ là ánh sáng, là niềm tin cho muôn dân, là tấm gương soi chung cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ thanh thiếu niên hiện nay.
     
  2. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 2

    SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN,

    CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC

    THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC

    2.1. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920)


    2.1. 2. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Các phong trào yêu nước, chống thực dân, đế quốc ở nước ta diễn ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều thất bại do không có một đường lối đấu tranh phù hợp. Trước thực tế đó, vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc quyết định sang phương Tây, sang nước Pháp, quê hương của tư tưởng "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" và cũng là dinh lũy kẻ thù đang trực tiếp thống trị dân tộc để xem xét, khảo nghiệm, quyết tâm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, hạnh phúc cho nhân dân. Quyết định sang nước Pháp, sang phương Tây của Nguyễn Ái Quốc thể hiện tư duy độc lập và cách nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.

    Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu "chủ nghĩa Uyn Xơn" và thấy rõ đây là "một trò bịp lớn". Người chứng kiến thực trạng xã hội TBCN; nghiên cứu diện mạo, bản chất bóc lột tàn bạo của CNTB, đế quốc, thực dân; thấy rõ tính chất dân chủ giả hiệu, "không đến nơi" của các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Đây là tiền đề quan trọng để Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, nắm bắt được "ánh sáng lý luận" từ bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin.

    Tiếp xúc với bản Luận cương của Lênin (đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và 17-7-1920), bằng sự mẫn cảm về chính trị, tư duy nhạy bén và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của 10 năm lăn lộn trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa và tư bản, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. "Tình hình chính trị thế giới hiện nay đã đặt vấn đề chuyên chính vô sản thành vấn đề trước mắt.. Tất cả các phong trào giải phóng dân tộc trong các thuộc địa và trong các dân tộc bị áp bức mà kinh nghiệm đau đớn đã làm cho họ tin chắc rằng đối với họ không có con đường cứu vãn nào khác ngoài sự chiến thắng của Chính quyền Xô viết đối với chủ nghĩa đế quốc thế giới" [1] .

    Với 12 luận điểm quan trọng, bản Luận cương của Lênin đã tác động mạnh mẽ đến Nguyễn Ái Quốc và Người đã tiếp thu, bổ sung và phát triển sáng tạo các luận điểm này trong việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, xây dựng cơ sở lý luận tiến lên CNXH ở Việt Nam. Sau này Người nhớ lại: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:" Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"[2] .
     
  3. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 2

    SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN,

    CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC

    THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC

    2.1. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920)


    2.1. 2. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nguyễn Ái Quốc là một trong số ít các nhà yêu nước ở các nước thuộc địa tiếp thu được "ánh sáng kỳ diệu" từ bản Luận cương của Lênin, nhận thức và nắm bắt được xu hướng phát triển của thời đại từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Sự kiện Người gia nhập Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (12-1920) có ý nghĩa quan trọng: Trở thành người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, chính thức đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, gắn liền độc lập dân tộc với CNXH. Đây là "sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng" [1] .

    Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: Làm thế nào để giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân; và lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới. Nói cách khác, với việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc kéo dài 2/3 thế kỷ.

    Từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn vận động của phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh kết luận: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" [2] . Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên, phản ánh sự lựa chọn khách quan của lịch sử, cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của đại đa số các tầng lớp nhân dân Việt Nam. "Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta trong lúc các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại" [3] .

    Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn đúng đắn, khoa học, hợp quy luật phát triển của dân tộc và thời đại, là lý tưởng, mục tiêu, là ngọn cờ hành động của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, vận động và phát triển theo quỹ đạo cách mạng vô sản, hòa nhập vào trào lưu phát triển của thời đại mới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
     
  4. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 2

    SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN,

    CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC

    THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC


    2.2. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam (1921 - 1929)


    Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm 1921 Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam.

    2.2. 1. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Với tư cách là trưởng tiểu ban Đông Dương của Đảng Cộng sản Pháp, Người đã viết nhiều bài đăng trên báo (Báo Người cùng khổ, Nhân Đạo, Đời sống công nhân, Tập san thư tín quốc tế, Tạp chí Cộng sản ). Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đây là thời gian Người thu thập tư liệu cho tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp".

    Đặc biệt, từ ngày 17-6 đến 18-7-1924, Người đã tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế cộng sản. Tại Đại hội này, Người đã trình bày bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bằng nhiều số liệu và tư liệu cụ thể, bản báo cáo đã làm sáng rõ và phát triển một số luận điểm của Lênin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và giải phóng đấu tranh ở các thuộc địa.

    Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, lý luận cho quá trình thành lập Đảng: "Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động.. chỉ có theo lý luận cách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong" [1] . "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam . Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" [2] .

    Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị (sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng).

    1. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.

    2. Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.

    3. Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia đông đảo các giai tầng khác.

    4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin.

    5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của một vài người. "công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ.. là bầu bạn cách mệnh của công nông" [3] . Cách mạng "là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người" [4] . Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.

    Những quan điểm đó được Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên truyền bá về trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.
     
  5. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 2

    SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN,

    CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC

    THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC


    2.2. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam (1921 - 1929)


    2.2. 2. Sự chuẩn bị về tổ chức

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngay từ giữa năm 1923, trước khi rời nước Pháp sang Liên Xô, trong một bức thư gửi cho các bạn cùng hoạt động, Người đã nói rõ ý định của mình: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập".

    Vì vậy, sau một năm rưỡi hoạt động ở Liên Xô, tháng 11-1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi có rất đông người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng mác xít. Người lấy tên là Lý Thụy, công tác trong phái đoàn cố vấn của Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên, do Bô-rô-đin làm trưởng đoàn. Tháng 2-1925 Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.

    Tháng 6-1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Sau khi thành lập, từ năm 1925-1927 đã mở trên 10 lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho những người trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Hội còn xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ, số đầu tiên ra ngày 21-6-1925. Ngoài ra ban lãnh đạo Hội còn cử người đi học trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Hà Huy Tập.. và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc) như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Trương Văn Lĩnh.. Tháng 7-1925 Nguyễn Ái Quốc cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia.. tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.

    Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ ở Quảng Châu được tập hợp thành cuốn Đường cách mệnh và những hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào công nhân, phong trào yêu nước, đưa lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tôn chỉ, mục đích đấu tranh của Hội vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

    Từ năm 1928, bằng phong trào "vô sản hóa" của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã giác ngộ sâu sắc tinh thần yêu nước và cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, bước đầu kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nhờ vậy, phong trào công nhân và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân ngày càng phát triển. Trước sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam chuyển mạnh sang xu hướng cách mạng vô sản, đến năm 1929 các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhận thấy sự cần thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay thế Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để lãnh đạo và đưa cách mạng đi đến thắng lợi.
     
  6. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 2

    SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN,

    CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC

    THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC


    2.3. Phát triển phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng vô sản

    2.3. 1. Sự phát triển của phong trào công nhân


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của tư sản, thực dân cũng diễn ra rất sớm. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam chống giới chủ diễn ra với hình thức sơ khai, như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đưa đơn phản kháng, về sau tiến đến hình thức đấu tranh cao hơn như bãi công. Trong những năm 1919 – 1925, phong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức (1925) và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định (ngày 30/4/1925), đòi chủ tư bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập, giãn đuổi thợ..

    Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919-1925 đã có những bước phát triển mới so với trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, các cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.

    Trong những năm 1926 – 1929, phong trào công nhân đƣợc sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

    Cũng vào thời gian này, phong trào yêu nƣớc phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào nông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước. Năm 1927, nông dân làng Ninh Thạnh Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và địa chủ chiếm đất; nông dân các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất, đòi chia ruộng công.. Phong trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.

    "Điều đặc biệt và quan trọng nhứt trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự tranh đấu của quần chúng công nông có tính chất độc lập rất rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc trước nữa".

    Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cuối tháng 3/1929, ở Hà Nội, một số hội viên tiên tiến của tổ chức Thanh niên ở Bắc kỳ đã lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, do đồng chí Trần Văn Cung là Bí thư chi bộ.
     
  7. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 2

    SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN,

    CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC

    THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC


    2.3. Phát triển phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng vô sản

    2.3. 2. Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cuối

    Tháng 3/1929, ở Hà Nội, một số hội viên tiên tiến của tổ chức Thanh niên ở Bắc kỳ đã lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, do đồng chí Trần Văn Cung là

    Bí thư chi bộ.

    Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929) đã

    Xảy ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu về vấn đề thành lập đảng cộng sản, mà thực

    Chất là sự khác nhau giữa những đại biểu muốn thành lập ngay một đảng cộng sản

    Và giải thể Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn

    Thành lập Đảng cộng sản nhưng "không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội Thanh

    Niên và cũng không muốn phá Thanh niên trước khi lập được đảng" [1] . Trong hoàn

    Cảnh đó, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.

    Đông Dương cộng sản đảng: Ngày 17/6/1929, tại Hà Nội, đại biểu các tổ

    Chức cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội, quyết định thành lập Đông Dương cộng sản

    Đảng
    . Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ: Đảng cộng sản Đông Dương tổ chức đại đa số

    Và thực hành công nông liên hiệp mục đích là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa; đánh đổ

    Tƣ bản chủ nghĩa; diệt trừ chế độ phong kiến; giải phóng công nông; thực hiện xã

    Hội bình đẳng, tự do, bác ái, tức là xã hội cộng sản.

    An Nam cộng sản đảng: Trước sự ra đời của Đông Dương cộng sản đảng và để

    Đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, mùa thu 1929, các đồng chí trong Hội

    Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam kỳ đã thành lập An

    Nam cộng sản đảng
    . Về điều kiện kết nạp đảng viên, Điều lệ của Đảng viết: "Ai tin

    Theo chương trình của Quốc tế cộng sản, hăng hái phấn đấu trong một bộ phận đảng,

    Phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí, có thể cho vào đảng được" [2] .

    Đông Dương Cộng sản Liên đoàn: Việc ra đời của Đông Dương cộng sản

    Đảng và An Nam cộng sản đảng đã làm cho nội bộ Đảng Tân Việt phân hóa mạnh

    Mẽ, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập Đông Dương Cộng sản

    Liên đoàn
    . Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9/1929) nêu rõ:

    "Đông Dương Cộng sản Liên đoàn lấy chủ nghĩa cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để thực hành cách mệnh

    Cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xóa

    Bỏ nạn người bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ Công Nông chuyên chính tiến

    Lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương" [3] .

    Mặc dù đều giƣơng cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ

    Nghĩa cộng sản ở Việt Nam nhưng 3 tổ chức cộng sản trên đây hoạt động phân tán,

    Chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy,

    Việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu khẩn thiết

    Của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng

    Sản Việt Nam.
    TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

    Việc xây dựng được một hệ thống tổ chức và phong trào cách mạng trên cả nước; khơi dậy tinh thần sục sôi, hoài bão cách mạng trong những thanh niên yêu nước; và đưa phong trào "vô sản hóa" vào sâu các cuộc đấu tranh, truyền bá lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng đúng đắn trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã phản ánh tư duy sáng tạo và thành công của Nguyễn Ái Quốc trong công tác chuẩn bị về mặt chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là điều kiện chín muồi, hợp quy luật cho sự ra đời tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
     
  8. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 3

    CHỦ ĐỘNG TRIỆU TẬP, CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ SOẠN THẢO CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN

    3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong bối cảnh vào năm 1929, nước ta có 3 tổ chức cộng sản hoạt động gồm: Đông Dương Cộng sản đảng, An nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn.

    Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kỳ họp Đại hội tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận, cử Ban Chấp hành Trung ương và phát truyền đơn kêu gọi quần chúng đấu tranh. Đông Dương Cộng sản đảng xây dựng nhiều cơ sở ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ.

    Sau Đại hội của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, các đại biểu về nước đã thấy Đông Dương Cộng sản đảng ra đời và hoạt động. Tháng 8-1929, các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ thành lập An Nam Cộng sản đảng, ra tờ báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận; xúc tiến chuẩn bị và họp Đại hội (11-1929), thông qua đường lối chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Đảng có một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc và một số chi bộ ở Nam Kỳ.

    Trong nội bộ Tân Việt Cách mạng đảng cũng có sự chuyển hóa. Một số đảng viên tiên tiến tích cực vận động thành lập các chi bộ cộng sản và tiến hành công tác chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 9-1929, những đảng viên tiên tiến ra Tuyên đạt, nêu rõ việc chính thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đông Dương Cộng sản liên đoàn xây dựng nhiều cơ sở ở Trung Kỳ và Nam Kỳ.

    Cả ba tổ chức cộng sản đều tích cực hoạt động, tuyên truyền, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, làm cho phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn. Tuy nhiên, "từ khi Hội An Nam Thanh niên Cách mạng tan rã, hai nhóm cộng sản sử dụng nhiều - nếu không nói là tất cả - nghị lực và thời gian trong các cuộc đấu tranh nội bộ và bè phái". Sự hoạt động riêng rẽ giữa các tổ chức cộng sản làm cho lực lượng và sức mạnh của cách mạng bị phân tán. "Cả hai đều cố gắng thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày càng rộng bấy nhiêu". "Nhiều thì giờ và sức lực đã bị lãng phí vì sự rối ren chia rẽ đó, đảng vien của mỗi bên đều bị thiệt hại, chỉ trích lẫn nhau là không Bônsơvích". Điều đó không đúng với nguyên tắc tổ chức Đảng Cộng sản và không phù hợp với lợi ích của phong trào cách mạng. Đó là một nguy cơ trước mắt của cách mạng Việt Nam.

    Cần thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng là yêu cầu khách quan của lịch sử. Nhưng tự bản thân các tổ chức cộng sản lại không thống nhất được với nhau do ảnh hưởng của tư tưởng bản vị, cục bộ, vốn là con đẻ của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phân tán.
     
  9. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 3

    CHỦ ĐỘNG TRIỆU TẬP, CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ SOẠN THẢO CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN

    3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên


    3.1. 1. Hội nghị thành lập Đảng


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam.

    Ngày 27/10/1929, Quốc tế cộng sản gửi cho những cộng sản Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương, yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Quốc tế cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế. Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, họp từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc.

    Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 2 đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng, 2 đại biểu của An Nam cộng sản đảng, 1 đại biểu của Quốc tế cộng sản. Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm năm điểm lớn, với nội dung:

    "1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các

    Nhóm cộng sản ở Đông Dương.

    2. Định tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam.

    3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng.

    4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;

    5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm 9 người, trong đó có 2 đại biểu chi

    Bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương".

    Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên đảng là Đảng cộng sản Việt Nam.

    Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng.

    Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, quyết định ra báo, tạp chí của Đảng cộng sản Việt Nam.

    Ngày 24/2/1930, theo yêu cầu của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban chấp hành Trung ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, đến ngày 24/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn tất việc hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
     
  10. Mạnh Thăng

    Bài viết:
    8,780
    Chương 3

    CHỦ ĐỘNG TRIỆU TẬP, CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ SOẠN THẢO CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN

    3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên


    3.1. 2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên


    Bấm để xem
    Đóng lại
    Các văn kiện được thông qua tại hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam như: Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu

    Tiên của Đảng cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách

    Mạng Việt Nam:

    Thứ nhất, Đảng xác định phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam là "tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Trong xã hội nước ta lúc bấy giờ tồn tại 2 mẫu thuẫn chính là mâu thuẫn dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn nông dân với địa chủ phong kiến. Song mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến không quá gay gắt như mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp và có thể điều hòa được vì đều là người dân Việt Nam và đều chịu áp bức nặng nề của thực dân Pháp. Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ ấy có quan hệ khăng khít với nhau. Vì thế Đảng quyết định thực hiện đường lối tư sản dân quyền nhằm mục đích kêu gọi toàn dân đánh đuổi kẻ thù chính là thực dân pháp để giành lại độc lập, thống nhất đất nước. Sau đó Đảng tiến hành thổ địa cách mạng để giành lại đất đai từ tay thực dân Pháp và giai cấp phong kiến chia cho dân nghèo để đem lại lợi ích cho nông dân. Từ đó Đảng đã có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa người dân Việt Nam và thực dân Pháp cũng như điều hòa được mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến.

    Thứ hai, Đảng đã đưa ra được nhiệm vụ rõ ràng cho cuộc cách mạng:

    Về kinh tế, Nước ta đang đối mặt với nhiều ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lúc bấy giờ làm cho kinh tế suy thoái. Nông nghiệp, công nghiệp bị suy sụp, xuất nhập khẩu bị đình đốn, hàng hóa khan hiếm (do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào Pháp). Khủng hoảng kinh tế đã tác động tới tất cả các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam, làm cho đời sống của các tầng lớp nhân dân vô cùng cực khổ (nhà máy bị đóng cửa, công nhân không có việc làm hoặc có việc làm thì lương rất thấp ; sản xuất nông nghiệp sa sút do xuất khẩu lúa gạo bị đình trệ, nông dân bị bần cùng hóa.. ; đời sống của tư sản, tiểu tư sản bấp bênh). Thực dân Pháp còn tăng cường chính sách thuế khóa, làm cho đời sống của nhân dân càng thêm cùng cực. Do đó, Đảng đã ra chính sách thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v. V) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ. Từ đó giải quyết được vấn đề ruộng đất bỏ hoang mà không sử dụng, sản xuất hàng hóa tiêu dùng, tạo việc làm cho người dân và nắm được quyền quản lí các hoạt động kinh tế từ tay thực dân Pháp.

    Về chính trị, Đảng nêu ra chủ trương đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông. Đảng thành lập nhiều Chi bộ Cộng sản, Thành ủy, tỉnh ủy ở nhiều nơi trên đất nước như Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Bình Đinh (3/1930), ở Hòn Gai, Cẩm Phả - Cửa Ông, Uông Bí - Vàng Danh, thành ủy Hà Nội, tỉnh ủy Quảng Nam, tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh.. để nhằm trực tiếp lãnh đạo công tác xây dựng Đảng và tổ chức quần chúng trung kiên ở từng địa phương. Bên cạnh đó, một số Tỉnh ủy như Nam Định kết hợp với công nhân và nông dân để chống đánh đập, đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ những quy định vô lý, đuổi những đốc công và giám thị độc ác, không được khủng bố những công nhân bãi công.. cuộc đấu tranh nổ ra từ xưởng dệt sang xưởng sợi bao gồm trên 4.000 công nhân, làm tê liệt toàn bộ hệ thống sản xuất dây chuyền của nhà máy. Sau 21 ngày đấu tranh, cuộc bãi công giành được những thắng lợi bước đầu: Giới chủ buộc phải tăng lương 10% và giảm mỗi ngày nửa giờ làm việc cho công nhân và hứa thực hiện các yêu cầu khác. Cuộc đấu tranh thắng lợi, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc và toàn diện của đội ngũ công nhân nhà máy. Sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào bãi công của công nhân ở nhà máy và phong trào biểu tình của nông dân ở nông thôn đã hình thành khối liên minh đấu tranh của hai giai cấp nông dân và công nhân, làm cho đế quốc Pháp vô cùng lúng túng và bị động.

    Về văn hóa – xã hội, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị. Dựa vào tình hình đất nước, Đảng ra quyết định cho dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, v. V; phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Theo chính sách của Đảng, các tổ chức quần chúng đã xây dựng với nhiều hình thức phong phú như Công hội đỏ, Thanh niên Cộng sản Đoàn, Hội Phụ nữ, Hội đá bóng, Hội học chữ quốc ngữ.. ở Quảng Ninh; việc tổ chức nhân dân trong tỉnh diễn thuyết, rải truyền đơn, treo cờ Đảng, dán khẩu hiệu.. tuyên truyền, giáo dục sâu rộng đường lối cách mạng của Đảng trong quần chúng ở Bến Tre; bài trừ các hủ tục lạc hậu, cấm hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc.. giáo dục, trừng trị bọn lưu manh trộm cắp, mở những lớp dạy chữ quốc ngữ, tổ chức nhân dân giúp đỡ lẫn nhau.. trong phong trào Xô- Viết Nghệ Tĩnh. Từ đó, Đảng dần dần ăn sâu bám rễ vào quần chúng nhân dân ở nhiều địa phương tạo nên điều kiện để những phong trào phát triển mạnh mẽ.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...