Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cũng có những thành tựu đáng ghi nhận, trong đó có triết học cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: Ph. Hêghen (1770 -1831) và L. Phoiơbắc (1804 - 1872); kinh tế chính trị học cổ điển Anh với A. Smith (1723-1790) và D. Ricardo (1772-1823); chủ nghĩa không tưởng phê phán mà đại biểu là Xanh Ximông (1760-1825), S. Phuriê (1772-1837) và R. O-en (1771-1858).
Triết học cổ điển Đức là dựa trên một cách nhìn biện chứng về thế giới hiện thực. Trước những bước phát triển như vũ bão của khoa học và thực tiễn xã hội ở châu Âu cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX cho thấy hạn chế của bức tranh cơ học về thế giới, các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong các di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Với giả thuyết vân tinh nổi tiếng về sự hình thành vũ trụ và cách nhìn mới về con người, Cantơ, theo nhận xét của Ph. Ăngghen, là người chọc lỗ thủng đầu tiên vào quan niệm siêu hình về tự nhiên thống trị trong khoa học và triết học suốt thế kỷ XVI - XVII. Hêghen đã phát hiện ra những quy luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở thành một khoa học về sự phát triển của tất thảy mọi sự vật và tư tưởng. Theo Heghen, "chân lý mà triết học có nhiệm vụ, nhận thức, không còn là một tập hợp những nguyên lý giáo điều có sẵn, từ nay chân lý nằm trong chính ngay quá trình nhận thức, trong sự phát triển lịch sử lâu dài của khoa học".
Với kinh tế chính trị cổ điển của Anh A. Smith (1723 – 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của kinh tế chính trị tư sản, ông là bậc tiền bối lớn nhất của Mác. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là "Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc sự giàu có của các dân tộc". Về thế giới quan và phương pháp luận của A. Smith cơ bản là thế giới quan duy vật nhưng còn mang tính tự phát và máy móc, trong phương pháp còn song song tồn tại cả hai phương pháp khoa học và tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến các học thuyết kinh tế tư sản sau này. Học thuyết của A. Smith là một trong những học thuyết có tiếng vang lớn, nó trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách quan. Học thuyết kinh tế của ông có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh tế, có lợi cho giai cấp tư sản trong nhiều năm. Những tư tưởng của A. Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, cả phương pháp khoa học và phương pháp tầm thường song ông đã xác định được nhiệm vụ của kinh tế chính trị học, đã đưa các tư tưởng kinh tế có từ trước đó trở thành hệ thống, là một trong những đỉnh cao của tư tưởng xã hội thế kỷ XVIII.
Chủ nghĩa không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX, 3 đại diện tiêu biểu H. Xanhximong (Pháp), Sáclo Phurie (Pháp), Robot R-oen (Anh) xây dựng mô hình thực nghiệm thực tế, Nuilanac theo tinh thần "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Từ cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản đã hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước tiêu. Đây là giai đoạn chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ bản chất cố hữu của nó: Phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao động vì quyền lợi của giai cấp mình, Đây cũng là dây đoạn giai cấp vô sản hiện đại hình thành và bắt đầu thức tỉnh về chính trị. Trong thời kỳ này có tư tưởng
xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học thuyết chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa phủ định nó, đồng thời để giúp con đường, biện pháp và những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai.