Phân tích, cảm nhận về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ảnh Tử Truy Quang, 3 Tháng bảy 2023.

  1. Ảnh Tử Truy Quang

    Bài viết:
    43
    Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.

    (trích thơ)

    Truyện Kiều được chia làm ba phần trong đó đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm ở phần thứ hai của bài thơ. Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của Truyện Kiều "Gia biến và lưu lạc". Khi gia đình gặp tai biến Kiều phải bán thân mình để chuộc cha và em, tưởng bán mình làm vợ lẽ không ngờ Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục rồi đẩy vào lầu xanh. Khi biết mình bị lừa Kiều rút dao quyên sinh nhưng không thành. Tú Bà sợ Kiều chết sẽ mất vốn liếng bỏ ra mua Kiều, mụ dùng lời ngon ngọt dụ dỗ Kiều, mụ hứa khi nào Kiều bình phục sẽ tìm một người tử tế để gả, nhưng thực chất mụ đang chuẩn bị một âm mưu đê tiện hơn. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả nội tâm nhân vật rất thành công đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" cho ta thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng hiếu thảo thủy chung của Thúy Kiều

    Trước hết, hình ảnh đầu tiên là hoàn cảnh cô đơn, đáng thương của Thúy Kiều:

    "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

    Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

    Bốn bề bát ngát xa trông

    Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

    Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

    Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"​

    Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Du đã miêu tả hoàn cảnh cô đơn, đáng thương của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích: "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân", "nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

    Thúy Kiều sống ở lầu Ngưng Bích, thoạt nhìn tưởng là một cuộc sống đầy đủ nhung lụa nhưng thực chất lại là hoàn cảnh bị giam lỏng. Chỉ với hai tiếng "khóa xuân" gợi trong lòng người đọc một khung cảnh xót xa của nàng Kiều khi bị khóa kín tuổi xuân, bị giam lỏng. Thúy Kiều phải đối diện với không gian "non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát". Tất cả những hình ảnh đó gợi lên một không gian mênh mông, bát ngát, vắng vẻ, cảnh vật trơ trọi, con người bị giam hãm lẻ loi nơi gần trời xa đất không một bóng người, bầu bạn với trăng. Đối diện với không gian ấy Thúy Kiều càng nhỏ bé, cô độc, ngày ngày chỉ có thể làm bạn với áng mây buổi sớm, ngọn đèn canh khuya. Từ trên lầu cao, nàng ngắm vọng ra bốn phía bát ngát, dãy núi mờ xa, những cồn cát vàng trải dài vô tận.. Nhìn lên chỉ có mảnh trăng gần ở chung. Những hình ảnh non xa, trăng gần, cát vàng, bụi hồng có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ. Để gợi sự mênh mông hoang vắng rợn nghộp không gian. Qua đó diễn tả tâm trạng bẽ bàng tội nghiệp của Kiều. Từ "bẽ bàng" là từ láy gợi tả nỗi chua xót, tủi nhục đang trào dâng trong lòng Kiều. Điệp từ "nửa" diễn tả tâm trạng ngổn ngang rối bời đầy chua xót của Thúy Kiều. Một nửa vào cảnh vật một nửa giữ trong lòng, hoặc một nửa tấm lòng ở đây nửa kia bay về quê hương.

    Sớm sớm nhìn mây, đêm đêm đối diện với ngọn đèn cảnh người cung thao thức sẻ chia. Một mình với tấm trăng – người bạn gần gũi thân thiết nhất. Trong cảnh ngộ một mình bơ vơ nơi chân trời góc bể, cô đơn tuyệt đối, Kiều càng nhớ tới những người thân yêu. Nỗi nhớ đầu là nỗi nhớ chàng Kim.

    "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

    Tin sương luống những rày trông mai chờ"​

    Lẽ ra Thúy Kiểu phải nhớ đến cha mẹ rồi mới nhớ tới Kim Trọng, nhưng ở đây với ngòi bút tài tình, tinh tế của Nguyễn Du đã thể hiện chiều sâu tâm trạng của Thúy Kiều bởi khi bán mình chuộc cha Kiều đã làm tròn chữ "hiếu", đã đem lại cuộc sống bình yên cho cha mẹ và các em. Còn với chàng Kim nàng luôn mặc cảm mình là người phụ tình khi bị Mã Giám Sinh làm nhục và bị ép làm gái lầu xanh thì nỗi đau đớn này càng lớn hơn. Nàng cho rằng mình không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa cho nên nhớ đến chàng Kim là phù hợp với logic tình cảm.

    Một chữ "tưởng" nhưng là hồi ức rất đẹp của nàng Kiều về một tình yêu của mình. Hình ảnh "dưới nguyệt chén đồng" là kỷ niệm đẹp của đêm thề nguyền hẹn ước giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đây là kỷ niệm sâu nặng và thiêng liêng nhất của hai người. Họ đã uống rượu, thề nguyện dưới ánh trăng. Hình ảnh "tin sương luống những rày trông mai chờ" Kiều đã tưởng tượng ở phương xa, chàng Kim đang mong ngóng chờ đợi tin tức của nàng trong khi nàng đang bơ vơ nơi chân trời góc bể:

    "Bên trời góc bể bơ vơ

    Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"​

    Câu thơ đã diễn tả nỗi đau đớn của Thúy Kiều khi tấm lòng son bị vùi dập, hoen ố, không biết bao giờ gột rửa cho hết. Câu thơ là tấm lòng thủy chung, son sắt của Thúy Kiều, qua đó cho ta thấy Kiều là một cô gái thủy chung.

    Bốn câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ cha mẹ của nàng Kiều:

    "Xót người tựa cửa hôm mai

    Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

    Sân Lai cách mấy nắng mưa,

    Có khi gốc tử đã vừa người ôm"​

    Nguyễn Du thật tài tình khi dùng chữ "tưởng" để diễn tả nỗi nhớ của Kiều với Kim Trọng, dùng từ dùng từ "xót" để diễn tả nỗi nhớ của Kiều với cha mẹ. Nỗi nhớ cuộc Kiều thật xót xa, da diết, dù nàng đã tự nguyện bán mình để cứu cha, nàng đã báo đáp được một phần công ơn sinh thành của cha mẹ nhưng nàng vẫn cảm thấy mình chưa làm tròn đạo làm con với cha mẹ. Nàng xót xa cho cha mẹ mình đã già yếu mà vẫn sớm hôm tượng cửa ngóng trông tin tức của nàng. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu và không thể ở bên cạnh để chăm sóc, phụng dưỡng. Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", điển cố "Sân Lai, gốc tử" để diễn tả tấm lòng hiếu thảo và nỗi nhớ thương cha mẹ của Thúy Kiều. Kiều luôn ân hận đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Trong cảnh ngộ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" Kiều là người tình thủy chung, hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha. Nỗi nhớ người thân của Kiều được diễn tả qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm lên càng chân thực cảm động.

    Sau phút giây trở về với người thân yêu, Kiều đã trở lại với cảnh ngộ chính mình. Tám câu cuối là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh, mỗi cảnh khơi gợi ở Kiều nỗi buồn khác nhau, những lí do buồn khác nhau, mỗi cặp lục bát tạo thành một cảnh.

    "Buồn trông cửa bể chiều hôm

    Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"​

    Đây là bức tranh chiều hôm nhớ nhà. Cảnh chiều hôm muôn thỏa buồn nhớ, lại giữa không gian mênh mông cửa biển chỉ có một cánh buồm thấp thoáng xa xa, cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc nỗi cô đơn buồn nhớ da diết về cha mẹ quê nhà. Đại từ ai sang âm điệu sầu thương. Câu thơ là một câu hỏi tu từ nhân lên như một niềm khao khát hoài vọng trông ngóng. Thời điểm mà các gia đình thường xuyên sum vầy bên mâm cơm thì nỗi nhớ của nàng Kiều càng thêm da diết, cháy bỏng. Ta có thể nhìn thấy hết nỗi buồn vời vợi, mênh mông trải dài vùng sông nước. Hình ảnh "thấp thoáng, xa xa" là từ láy thể hiện cảnh vật mờ nhạt, không rõ nét. Hai câu thơ đã mở ra một bức tranh cảnh vật rộng và nỗi buồn mênh mông của nàng Kiều:

    "Buồn trông ngọn nước mới sa,

    Hoa trôi man mác biết là về đâu?"​

    Nếu như hai câu thơ đầu là cạnh nhìn xa thì hai câu thơ tiếp là cảnh nhìn gần (nhìn cận cảnh). Cái nhìn của Kiều hướng về không gian gần hơn, nhìn cánh hoa trôi giữa dòng nước, Kiều lại buồn cho thân phận trôi nổi, vô định, lại sót xa cho số phận của mình. Hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ gợi nỗi thương da diết. Câu hỏi tu từ ở đây như một lỗi băn khoăn tự thương cho bản thân. Hình ảnh "ngọn nước mới sa" là chiều sâu của dòng nước có thể nhìn thấy nỗi buồn thấm thía, dồn nén, tích tụ không thể chia sẻ, giãi bày cùng ai. Hình ảnh "hoa trôi man mác biết là về đâu?" À câu hỏi tu từ gợi tả cánh hoa bập bềnh trôi dạt trên sông nước, gợi sự tan tác, chia lìa cũng như dự cảm của Thúy Kiều về chính thân phận của mình. Câu hỏi day dứt, nhức nhối là linh cảm u buồn của Kiều cho tình cảnh bơ vơ, thân phận của mình cũng giống như những cánh hoa kia không biết trôi dạt về đâu.

    "Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

    Chân mây mặt đất một màu xanh xanh."​

    "Nội cỏ rầu rầu" là hình ảnh nhân hóa, diễn tả sự héo úa, tê tái của nàng Kiều, nhà thơ đã thổi hồn vào cảnh vật, nỗi buồn sầu nguội. Bức tranh chỉ có "chân mây mặt đất" hoang vắng, trống trải trong lòng người. Cảnh vật khá ấn tượng, không phải cỏ non xanh tận chân trời đầy sức sống nhưng mà là nộ cỏ rầu rầu, héo úa buồn bã cùng mành xanh trải dài từ mặt đất đến chân mây, càng khiến Kiều thêm vô vọng về cuộc sống tẻ nhạt, khô quạnh ở nơi này, cảnh mờ mịt như tương lai cũng cờ mịt của Kiều.

    "Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

    Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."​

    Hình ảnh "gió cuốn mặt duềnh" là bão táp, sóng gió của biển khơi. Đặc biệt là từ láy "ầm ầm" diễn tả âm thanh khủng khiếp, sự gào thét của giông tố, sóng gió biển khơi. Đó là tiếng sóng thật ở ngoài biển nhưng cũng là tiếng sóng bên trong vọng lên trong lòng nàng Kiều, đó là tâm trạng cô đơn, bế tắc, hoảng loạn đến cùng cực của Thúy Kiều khiến người đọc có cảm giác nàng Kiều đang phải đối diện với sóng gió, giông bão của cuộc đời. Chiều đã muộn, màu sắc như tối hơn, cảnh hiện lên mờ nhạt, âm thanh rộn lên mạnh hơn tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dằn của đời Kiều hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vong với thiên nhiên, Kiều không chỉ buồn mà lo sợ với sóng gió cuộc đời. Sóng gió ở đây là những ẩn dụ chỉ những tai hooaj đang rình dập đổ xuống cuộc đời Kiều. Như vậy cảnh của đoạn thơ cuối được nhìn từ xa đến gần. Màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tỉnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông nung đến âu lo kinh sợ. Bốn cặp câu lục bát sử dụng điệp ngữ "Buồn trông – nghĩa là buồn mà nhìn xa" mà không ngóng một cái gì mơ hồ, vô vọng. Điệp ngữ này kết hợp với những hình ảnh các từ láy: Thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm tạo lên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng, điệp ngữ "Buồn trông" tạo âm hưởng trầm buồn là điệp khúc đoạn thơ, điệp khúc tâm trạng. Xuyên suốt bài thơ, điệp ngữ "buồn trông" được lặp đi lặp lại nhiều lần, đó là cái nhìn và tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi lần điệp ngữ "buồn trông" lặp lại là người đọc cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên và khung bậc tâm trạng. Có cảnh vật từ xa đến gần, có những hình ảnh từ cụ thể đến biểu tượng. Đó là một bức tranh thật đẹp nhưng cũng thật buồn, nỗi buồn dồn nén, cảnh hòa trong tình, tình hòa trong cảnh tạo nên bút pháp tả cảnh ngụ tình đậm nét khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Du.

    Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, miêu tả nội tâm nhân vật. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã miêu cả tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đồng thời cũng cho người đọc thấy được tài năng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du qua đó càng yêu mến các tác phẩm của ông hơn. Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh phong phú sinh động giữa tả ngoại cảnh, tâm cảnh, tâm trạng Kiều. Bẽ bàng, xót xa, thẫn thờ khi lâm vào cảnh ngộ bơ vơ, bế tắc. Qua đó người đọc thấy được tấm lòng thương cảm, sẻ chia xót xa của tác giả đối với người phụ nữ tài sắc đức hạnh, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
     
    Last edited by a moderator: 27 Tháng mười hai 2023
Trả lời qua Facebook
Đang tải...