Những Tác Phẩm Văn Học Hay Của Nam Cao

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Vân Mây, 1 Tháng tám 2018.

  1. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    CÁC SÁNG TÁC SAU CÁCH MẠNG
     
  2. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Nỗi Truân Chuyên Của Khách Má Hồng
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Suốt đêm hôm ấy, ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh không sao ngủ được. Tôi hỏi ông rằng: sáng mai ông đi cưới vợ ông rồi thì đêm nay ông có ngủ được không? Ông có là thánh, tôi chắc là ông cũng không ngủ được!

    Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh không là thánh. Ngày mai là ngày ông được ra thề với các quan Tây. Đó là điều kể ra thì cũng không thú vị gì… – Thề thốt làm chi cho nó nặng lời! Nhưng thú vị ở chỗ thề xong, ông tức khắc trở thành thủ tướng kiêm nội vụ. Thủ tướng kiêm nội vụ, ngài nghe rõ chưa? Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh tưởng có thể điên người lên được.

    – Thủ tướng kiêm nội vụ… Thủ tướng kiêm nội vụ…

    Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh cười lặng tiếng một cái cười rộng lớn, nhắc đi nhắc lại một cách say sưa như vậy. Hai bàn tay múp míp của ông, mở rộng ra, khoát một cái hình tròn trước mặt ông. Ông vuốt ve trong tưởng tượng cái thủ tướng kiêm nội vụ hiện hình thành khối.

    – Thủ tướng kiêm nội vụ!… Thủ tướng kiêm nội vụ!…

    Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh nhắm hẳn hai mắt lại, rên lên những tiếng sung sướng ấy, đúng như một anh chàng dâm dục rên lên ở trong ngực một ả giang hồ: “Thủ tướng kiêm nội vụ!… Thủ tướng kiêm nội vụ!…”

    Ông lịm đi một phút. Người không biết đã tưởng ông mệt quá, chợp mắt làm một giấc. Nhưng bỗng ông bật người lên như một con lật đật. Cái lò xo giường tung ông ra khỏi giường. Ông vội vã đi lại gần cái tủ áo có gương kê ở một góc nhà. Một hình người múp míp hiện ra trong gương, với một bộ mặt phởn phơ. Cái mặt mãn nguyện ấy mỉm cười, mấp máy môi. Ông Nguyễn Văn Thinh nhắc lại câu điệp khúc yêu quý của ông: “Thủ tướng kiêm nội vụ!… Thủ tướng kiêm nội vụ!…”

    Ông mở tủ. Từng chồng quần áo cao ngất hiện ra. Ông Nguyễn Văn Thinh gật gù nhìn từ trên xuống dưới, lại từ dưới lên trên.

    Ông lục chồng này lại chồng kia. Ông lần lượt lấy ra ngắm nghía, rồi lại cất vào ba cái sơ mi. Đến cái thứ tư thì ông tạm vừa lòng. Một tay ông giơ nó ra xa, ông ngả đầu về đằng sau, ngắm nghía. Mồm ông cười một cái cười xếch lên đến mang tai. Đôi mắt híp lại, ông vừa gật gật đầu, vừa lẩm bẩm: “Cũng phải thế này mới coi được chứ! Thủ tướng kiêm…”.

    Ông giật mình. Một hồi chuông gắt gỏng đã phạt đứng một mẩu câu nói của ông. Ông lắng tai nghe. Mặt hơi tái đi một chút. Ai? Ai có thể đến vào lúc khuya khoắt thế này? Máu ông như ngừng lại, lạnh giá trong huyết quản, tuy mồ hôi ông toát ra đẫm trán. Nghe tiếng người bồi dậy, ông vội vàng gọi hắn:

    Bồi!

    Me-xừ!

    Viens ici! (Vào đây!) Anh bồi vào

    Chi vậy?

    Ông thở ra hai tiếng ấy thì đúng hơn là ông nói: hai tiếng nói bị hơi thở hổn hển đẩy ra. Mắt ông như mắt một người mất vía…

    Chi vậy mày? – Ông nhắc lại

    Bẩm có chuông kêu cứu

    Ai kêu cứu?

    Dạ, chưa biết… Để ra coi…

    Nè!

    Ông nắm lấy tay áo anh bồi, giữ lại, thì thầm bảo:

    Coi chừng, nghe không! Ngó cẩn thận rồi hãy mở. Tụi nó ghê lắm đó.

    Dạ!

    Anh bồi cố giấu một nụ cười mai mỉa rồi lui ra. Ông Nguyễn Văn Thinh ngồi thịch xuống một cái ghế bành, thở hắt ra một tiếng lớn, giơ một tay lên và lắc đầu chán nản. Tụi chúng nó thật là khó chịu! Sao không muốn làm Tây, lại cứ khăng khăng làm người Việt Nam!

    Anh bồi vào…

    Bẩm, một người to lớn, mặc quần áo quan võ, đeo nhiều mề đay lắm, tự xưng là đại tá… Ông sửng sốt:

    Tự xưng là đại tá? Người Việt Nam hay người Pháp?

    Bẩm, không thể biết, bởi vì trông cũng giống như bác sĩ.

    Ông Nguyễn Văn Thinh chợt nhớ ra

    – A! Vậy thì chắc là ông Côlônen Xuân. Đúng rồi. Ra mời ông vô.

    Anh bồi ra rồi, mặt ông thầy thuốc có vẻ băn khoăn, lo lắng. Ông Xuân đến làm gì khuya khoắt thế?

    Hay là lại có sự đổi ý kiến gì của ông quan Tây chăng?

    Đại tá Nguyễn Văn Xuân. Ông đúng như anh bồi tả thật: to lớn, mặt đỏ gay, mũi chính thật không lõ nhưng ông đã cố kéo ra cho nó lõ, ngực nhiều mề đay ngang với ông Tạ Duy Hiển, khi ông này cầm roi

    điện ra bắt hổ nhảy qua vòng lửa.

    Chẳng kịp chào nhau, ông Nguyễn Văn Thinh vội hỏi:

    Thế nào? Lành hay dữ? Có việc chi mà đến chơi khuya thế?

    Có việc này, cần lắm…

    Chợt trông thấy chiếc áo của ông Thinh còn mở và chiếc sơ mi lúc nãy ông đã vất tạm lên chiếc ghế, ông Xuân hỏi:

    Định đi đâu hay sao mà thay áo thế? Ông Thinh hơi bẽn lẽn:

    À!… Không!… Tôi định lấy lễ phục mặc thử, rồi tập đọc những lời tuyên ngôn ngày mai xem nó ra thế nào. Phải tập cho quen, lúc đọc trông ra vẻ một chút. Xập xệ, người ta cười cho chết. Thủ tướng kiêm nội vụ kia mà! Quan trên trông xuống, người ta trông vào. Có phải không ông phó?

    Trời ơi! Giá ông biết việc gì vừa xảy ra!…

    Ông Thinh hoảng hốt:

    – Việc gì? Việc gì vậy?

    Người Pháp định không cho chúng mình thề vội.

    Không cho chúng mình thề vội? Sao lại có thể vô lý như thế được? Họ sợ chúng mình trung thành với họ quá chăng?

    Thì chính thế. Thí dụ như tôi chẳng hạn, ai còn biết tôi trung thành với họ hơn chó “béc-giê”? Trong lúc tất cả người Việt Nam vùng dậy chống họ, thì một mình tôi lủi vào thành với họ, dạy họ tập giáo, tập gậy để đánh người Việt Nam.

    Ngờ rằng Nguyễn Văn Xuân kể công như vậy là có ý tranh ngôi thủ tướng của mình, bác sĩ vội bảo:

    Tôi còn trung thành với họ bằng mười ông ấy, ông bạn ạ. Trong thời kì người Nhật ở đây, các quý phu nhân còn cần phải giao thiệp với họ nhiều, tôi đã phải đem hết tâm lực ra mà phụng sự những người bỏ nước Pháp để phụng sự quân đội của đức Thiên Hoàng ấy. Như thế là tôi trung thành với họ cả trong sự không trung thành của họ.

    Ấy thế cho nên chúng mình mới hỏng. Chúng mình là những con đĩ lữa quá rồi. Họ muốn có những con đĩ kín đáo hơn một chút để có thể lòe thiên hạ là vợ chứ không phải là hạng đĩ.

    À! Ra vậy!

    Bây giờ thì ông bác sĩ mới vỡ lẽ như vậy. Ông thâm tím mặt. Ông thâm tím hai tai. Ông sắp thâm tím cả đến hai bàn tay thì may sao đại tá Xuân lại bảo:

    Nhưng mà phúc làm sao lại chỉ có bọn mình là trung thành với họ thôi. Họ không biết làm sao đành lại ưng để cho bọn mình thề vậy.

    Ừ, thế chứ!

    Bác sĩ Thinh vỗ tay xuống đùi, đắc ý, cười lên ha hả. Ông bảo tiếp:

    Ta cứ thách già họ tìm được những người Việt Nam ghét người Việt Nam hơn chúng mình. Một đồng nghiệp của tôi đấy, ông Xuân ạ. Họ mua chuộc chân không được, xoay ra dọa dẫm, có ép hắn đứng ra đòi Nam Kỳ cho họ. Hắn trốn đi. Họ chỉ còn một cách là đốt nhà hắn cho hả giận. Ông xem đấy: tìm được những người như chúng mình có phải là dễ đâu?

    Đã đành!… Nhưng trách móc họ có ích gì? Chúng mình đã nhất định trung thành với họ thì chúng mình cứ trung thành…

    Ông Nguyễn Văn Thinh lại vội vàng giơ cả hai bàn tay ra trước mặt như phân bua với bạn.

    Vâng, vâng… Chính thế! Tôi thề với ông rằng tôi rất trung thành với họ. Tôi mà dám trách họ thì tôi không phải là tôi nữa. Có ông biết đấy!

    Đại tá Xuân mỉm một nụ cười mỏi mệt.

    Vâng, tôi biết lắm. Nhưng tôi đến đây để hỏi xem ông đã sửa soạn gì chưa?

    Có rồi! Có rồi! Đủ cả… Ông Thinh bảo vậy

    Quốc kỳ?

    Đã! Đã! Các quan Tây đã đưa kiểu cho tôi chế tạo.

    Cái cờ vàng có ba gạch xanh giữa hai gạch trắng ấy à?

    Vâng, các quan đưa cho tôi hôm ấy có cả ông ở đấy đấy.

    Ông có hiểu ý nghĩa của nó ra thế nào không?

    Hiểu lắm chứ! Thế ông không nghe các quan Tây bảo đấy à? Màu vàng là màu Việt Nam.

    Nhưng chúng mình còn là Việt Nam đâu?

    Không biết, nhưng các quan Tây bảo thế tất nhiên là như thế. Ba gạch xanh là con sông Cửu Long Giang.

    Đại tá Xuân lắc đầu:

    – Tôi ngờ rằng họ xỏ chúng ta. Có lẽ chính ra màu vàng là màu hoàng kim, tổ quốc của bọn mình, còn màu xanh là màu mắt các bà đầm, vì là màu mắt nên mới viền thêm tí trắng.

    Ông thủ tướng kiêm nội vụ tương lai trở nên nghĩ ngợi. Đại tá Xuân bảo tiếp:

    Cả Quốc ca cũng thế. Tôi ngờ rằng anh chàng nhạc sĩ cũng muốn xỏ chúng mình. Ông nghe nhé!

    Thủa trời đất nổi cơn gió bụi

    Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

    Xanh kia thăm thẳm từng trên

    Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!…

    Đúng là giọng một con nhà thổ ế vào hồi loạn lạc.

    Ông thủ tướng vẫn cúi đầu nghĩ ngợi, sau cùng ông tặc lưỡi.

    Chà! Thì đã sao! Tôi hỏi ông, ông có muốn làm phó thủ tướng kiêm phó nội vụ không? Đại tá Xuân toét miệng ra cười

    Tôi đùa ông đấy. Thật ra thì tôi cũng nghĩ rằng cái gì các quan Tây bảo đều tốt cả. Chúng mình chỉ việc nghe là có phận nhờ đấy. Tôi đã mạn phép ông đi lùng được một bọn đào kép ở Phú Nhuận trước để ngày mai chúng nó cử Quốc ca.

    Ấy chết! Ấy chết!… Thủ tướng Thinh trợn tròn hai mắt, xua tay lia lịa và kêu lên như thế.

    Sao vậy?

    Bọn cô đầu ở nước Bắc Kỳ vào cả đây.

    Đại tá Xuân mỉm cười, trợn mắt, đập mạnh nắm tay xuống bàn một cái.

    Chẳng hề chi cả! Tôi sẽ ra lệnh cho chĩa hết súng vào mặt chúng. Đứa nào lếu láo là… “Đoàng!” một phát cho về âm phủ mà đòi Việt Nam thống nhất. Ông hiểu chưa?

    Ông sùi bọt mép, mắt quắc lên, nảy lửa. Bác sĩ Thinh tái mặt đi, run cầm cập, cười gượng để lấy lòng nhà võ:

    – Vâng… vâng… ông nói phải. Ông không kém gì Hítle.

    Hai người bắt tay nhau. Ông Thinh chỉ tay trái vào ngực mình, mỉm cười dõng dạc

    Thủ tướng kiêm nội vụ Ông Xuân cũng làm như vậy

    – Phó thủ tướng kiêm phó nội vụ

    Rồi hai người cùng ngả nghiêng cười ha hả.

    – Hà hà!… Nam Kỳ tự trị và tự do…

    Sáng hôm sau, lễ tuyên thệ cử hành rất long trọng trong thành phố Sài Gòn. Người đến dự khá đông. Người ta đếm được sáu ngàn một chục người, trong đó có mười ông Chính phủ (ông Lưu Văn Lang không hiểu vì cớ gì vắng mặt) và sáu ngàn lính kín chuyên việc giữ tự do cho địa hạt Sài Gòn – Chợ Lớn. Ấy là chưa kể một đoàn ca nhạc gồm một kép ba đào, một đội lính Pháp có xe tăng với liên thanh và mấy quý quan người Pháp.

    Đúng giờ, ông Lơ-cờ-léc, nụ cười hóm hỉnh ở trên môi, một tay dắt bác sĩ Thinh, một tay dắt đại tá Xuân lên đài. Công chúng – cái công chúng toàn là lính kín – nhìn nhau: anh nào cũng nghĩ đến việc nhìn xem người bên cạnh mình có tỏ ý phản đối không. Thành thử không ai nhớ vỗ tay. Bọn lính Pháp chĩa súng vào đám đông, hô:

    – Vỗ tay đi, không ta bắn!

    Tức thì tiếng vỗ tay nổi lên như pháo nổ. Đại tá Xuân ưỡn cái ngực mề đay ra. Bác sĩ Thịnh cười chúm chím, đung đưa đôi mắt. Bọn lính Pháp lại hô:

    – Im! Im không ta bắn!

    Tức thì im. Súng chĩa vào bọn cô đầu. Đàn nổi điệu phưng phưng. Tiếng ca ai oán của “khách má hồng” cũng nổi lên theo hòa với tiếng đàn. Lá cờ màu vàng điểm mắt xanh từ từ kéo lên như một tấm khăn người ta vừa rút ở trong một cái hộp quỷ thuật ra.

    Giữa lúc ấy thì ông Nguyễn Văn Tâm, nguyên chủ huyện Cai-Lậy, tỉnh Mỹ Tho hiện giờ giữ chức tổng trưởng phụ trách chính trị, lật đật ở đâu chạy đến. Tay ông cầm một cái hộp có nắp kín, to bằng cái hộp bánh bích quy.

    Xin lỗi các ngài! Tôi đến hơi muộn quá! Nhưng tôi còn phải cố tìm cho được cái bảo vật này. Ông vừa giơ cái hộp của ông ra, vừa bảo vậy. Mọi người ngơ ngác.

    Hộp gì? Ấn ngọc chăng? Hay bạc giấy? – Ông lắc đầu, cười

    Sai! Sai! Thưa các ngài đoán sai tất cả. Bẩm, chính là tổ kiến. Vâng, tổ kiến! Tổ kiến để trị những đứa nào cứ khăng khăng quay về tổ quốc.

    Công chúng, dù chỉ là cái công chúng toàn lính kín, bật cười. Ông quắc mắt lên.

    Chúng bay cười? Trói cổ những đứa nào cười lại cho ta! Bỏ tổ kiến vào ống quần chúng nó, thắt cho chặt lại.

    Ý chừng ông chợt nhớ ra bọn người đứng đấy toàn là thủ hạ của ông, ông hơi bẽn lẽn, nhưng vốn nhanh

    trí vội quát tiếp một câu, chữa thẹn:

    Quân này ngu quá! Chỉ biết cười! Ngoài kia, chỗ nào cũng nhan nhản những đứa đòi thống nhất Việt Nam, không biết đi tóm cổ mấy mụ đàn bà về để ta cho kiến đốt chơi!

    Bọn lính kín dạ ran. Một lát sau, một bọn lôi về một xâu đến chín, mười người đàn bà quần áo khá sang. Nguyễn Văn Tâm hếch mũi lên, hít vào, như một con thú dữ đánh hơi thấy mồi ngon. Đôi mắt vọ của y sáng lè lên. Y cầm cái hộp, xăm xăm chạy ra đón sẵn.

    Nhưng khi y tiến đến chỗ chỉ còn cách những người đàn bà chừng mười bước, y bỗng dưng dừng lại, há hốc mồm. Ôi chao! Y lóa mắt chăng? Này đây là bà Nguyễn Văn Thinh, bà Trần Văn Tánh… các bà Nguyễn Thành Lạp, Bảo Toàn, Nguyễn Thành Vinh… đủ mặt các bà chồng có chân trong Chính phủ Nam Kỳ tự trị. Lại có bà Nguyễn Văn Tâm nữa mới chết người ta chứ! Bọn lính kín này định xược ông tổng trưởng Nguyễn Văn Tâm đây phỏng.

    Mở đầu, ông Nguyễn Văn Tâm nổi giận. Rồi bỗng ông sợ hãi. Ông lấm lét nhìn thật nhanh về phía các quan Tây, rồi cuống quýt nhìn đó, nhìn đây như muốn tìm một cái lỗ nẻ để chui, sau cùng ông đành phải quát bọn lính kín quá ư sốt sắng kia:

    Chúng bay đáng chém đầu! Ta bảo chúng bay đi bắt những con mụ nào đòi Nam Kỳ là đất Việt Nam kia mà!

    Bọn lính kín nhao nhao thưa một lượt.

    Bẩm chính những mụ này đi biểu tình, đòi Nam Kỳ phải là đất Việt Nam đấy.

    Bậy nào! Chúng mày không biết đây toàn là những bà vợ của các ông tổng trưởng đấy ư?

    Bọn lính kín đứng sững người, chưa biết đáp ra sao thì chính bà Nguyễn Văn Tâm đã sấn sổ bước lên, chỉ vào tận mặt chồng:

    Phải, chúng tôi chính là vợ của các ông đây. Nhưng vợ các ông cũng không muốn chịu lấy cái nhục bán nước của các ông. Vợ các ông ăn cơm hẳn hoi, chứ không ăn bẩn bao giờ nên không lú lẫn cho Nam Kỳ không phải là đất Việt Nam, người Nam Kỳ không phải cùng nòi giống với tất cả người Việt Nam ở Bắc, Trung và giở trò đòi Nam bộ tự trị để bán đất nước, bán đồng bào cho người ngoài.

    Ông tổng trưởng Nguyễn Văn Tâm chết đứng như Từ Hải. Cái hộp tổ kiến từ cái bàn tay rã rời của ông buột rơi xuống đất. Người ta vội khiêng ông vào nhà thương Sài Gòn tiêm.

    Nam Bộ, ngày 9-6-1946

    Tiền phong 1946
     
  3. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Đường Vô Nam
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong thực tế thì chưa có, nhưng đã có một thời trong văn chương nước mình, phát ra một chứng bệnh người ta gọi là “bệnh giang hồ”. Cũng như phần nhiều những thời bệnh khác ở nước mình mấy năm trước, bệnh ấy vốn cội rễ ở nước ngoài. Chẳng biết nó phải bệnh truyền nhiễm nào – hình như có một quyển sách của một tên Pôn Môrăng (Paul Morand) nào đó từ bên Pháp tải sang – một nhà văn ở đây mắc phải nó trước tiên. Mà bởi nhà văn ấy lại là một con người nổi tiếng tài hoa nên bệnh lan ra cũng khá nhanh. Chẳng bao lâu, trong giới trí thức lau nhau gồm những ông tập ngông nghênh và tập viết văn, chỗ nào người ta cũng nói đến giang hồ, cũng thở dài, rên lên nỗi thèm đi, tuy rằng phần đông vẫn nhà vì không có thuốc gì cai được cái cơm hằng ngày hai bữa của mẹ hay của vợ và mặc dầu họ vẫn bô bô chủ trương rằng họ: “đi chỉ để mà đi, đi chẳng để đến đâu”, phần nhiều các cuộc “giang hồ vặt” của họ chỉ đến các xóm cô đầu đã cùng đường để sa vào một chị Cúc, chị Liên nào đó, học lấy một thứ bệnh khác ít người muốn họ rên không kém và tai hại cũng rất mực là tai hại.

    Nhắc đến chuyện cũ này, tôi chẳng có ý gì bới móc đâu. Mà bới móc ai? Trừ ra một số người thật cứng cỏi và sáng suốt được giống nòi ký thác cho cái phần tinh anh và bất diệt của dòng máu Việt Nam, còn thì trong cái thời đại mà ông Hoài Thanh gọi là “thời đại cái tôi”, hầu hết chúng ta, nếu không phải là một “tội nhân” thì cũng là một “nạn nhân”, thường thường vừa là kẻ nọ, vừa là kẻ kia, lẫn lộn. Nhưng là gì thì kết quả cũng chỉ có một mà thôi: chúng ta đã phá sức chúng ta vào những việc chẳng có nghĩa lý gì… Không! Chúng tôi không dám nói rằng tất cả chúng ta đây đều đã mắc phải cái bệnh loăng quăng, cái bệnh “đi chỉ để mà đi, đi chẳng cần phải đến đâu”. Có những người có chỗ đến hẳn hoi, nhưng họ lại lạc đường. Thành thử họ đi có một cái đích mải miết, can đảm, hăng hái bước, bước không hề trầy chân trật gối ở dọc đường, bước chí chết đến mà kết cục vẫn không đến được nơi cần đến, nhưng họ vẫn định tâm rằng phải đến. Trái lại, lại càng xa ra nữa. Mà lại thiệt riêng cho chính họ cái thú đi la cà, đi vớ vẩn. Cân nhắc điều khôn dại của hai hạng người nói trên chẳng ích gì. Vả lại tôi đã nói rằng: tôi nhắc những chuyện cũ lại đây chẳng hề có ý gì chê hoặc trách ai. Chính tôi cũng chỉ là một người trong bọn đó thôi. Tôi nhắc lại đây để mà cười, như người ta cười khi nhắc đến những cái lầm lỗi, điên rồ của chính mình một thời đã qua rồi. Và tôi chắc các bạn đọc, đọc đến đây, nếu các bạn nào cũng thấy mình có chỗ giống tôi, cũng chỉ cười theo cái kiểu tôi cười đó. Chẳng ai lấy làm phật ý.

    Bởi vì mấy năm chiến tranh và đói khổ vừa qua và hiện vẫn còn dư vang trên mảnh đất này, đã làm thức tỉnh hẳn chúng ta. Chúng ta đã biết nhìn hẳn vào sự thật rồi. Những kẻ đi lầm đường thấy ngay rằng mình phải trở về con đường đúng mà đi. Cả dân tộc đã dồn cả vào một con đường, ấy là con đường ra mặt trận, con đường cứu nước. Con đường vào Nam…

    – Con đường vào Nam là con đường vui có phải không?

    Lúc khởi hành, ông bộ trưởng bộ Nội vụ, thấy cả chúng tôi hớn hở vì được ra đi, bảo đùa chúng tôi như vậy. Chỉ là một câu nói đùa thôi, nhưng mà đúng như thế thật. Những buổi mang sáng sủa, có những tù nhân tuyệt vọng ngồi trong phòng giam chật hẹp và kiên cố, thẫn thờ nhìn mẩu không gian bên ngoài cái cửa sổ song sắt vừa to bằng một cái bàn tay mà để cho hồn mình đi lang thang trên các nẻo đường của những kẻ tự do. Đời có hàng nghìn lối đi thênh thang, nhưng chúng ta là những kẻ bị giam cầm. Cái “Gió đã lên!…” của Nguyễn Tuân là một tiếng thở dài hơn là một tiếng reo. Nhưng bây giờ thì gió đã lên rồi. Gió mạnh mà chỉ có một chiều. “Gió gieo, gió gieo, gió Việt Nam gieo!”[2]. Con đường vô Nam phơi phới bóng cờ đỏ sao vàng và vang Tiến quân ca. Dưới bóng ngọn Quốc kỳ và cuốn theo nhạc Quốc ca, từng đoàn thanh niên hùng dũng và vui vẻ tiến vào Nam, nơi đang bị xâm lăng. Nỗi vui, hăng của họ, tất nhiên là không giống nhau tất cả đâu. Người thì như những kẻ bị ức hiếp lâu ngày, vừa thoát khỏi ngục tù, vội xông vào đâm chết những kẻ ức hiếp mình và đập tan những bức tường dày đã giam hãm mình trong bấy nhiêu lâu. Người thì nghĩ đến Tổ quốc, non sông. Người thì nghĩ đến cái bổn phận làm dân. Người thì muốn phá cái chế độ thực dân. Người thì chỉ thích làm một người lính là thôi… Tất cả đầu giống nhau ở chỗ này: họ đi đến chỗ nguy hiểm, nếu không vui vẻ thì ít nhất cũng bình tĩnh, vững dạ như tin chắc chắn rằng thế nào mình cũng trở về, hoặc nghĩ bụng: “Mình chẳng về nữa thì cũng chẳng làm sao cả!”. Họ đi, lòng nhẹ nhõm, không bịn rịn, không lo lắng. Ai cũng bằng lòng vì được đi.

    Tôi có một anh bạn người làng, nhà chẳng giàu gì, nhưng cũng thừa ăn – trong cái xã hội nhà quê, như vậy đã có thể gọi là sướng lắm rồi. Anh có học hẳn hoi, lanh lợi, thông minh, tính tình có thể gọi là ngay thẳng nữa, mà thật ra thì chưa vị tất đã lười, anh kể cũng có nhiều đức tính. Tất cả cái lỗi của anh, có lẽ chỉ là không cần phải làm mà cũng có ăn. Bởi vậy cho nên học xong ban thành chung đỗ được cái bằng rồi, anh nhất định chẳng làm gì. Anh lĩnh cái bằng đem về nhà quê, lấy một người vợ vừa đẹp vừa ngoan, vừa có tiền lại đảm đang. Chị vợ gánh vác cả gia đình, làm cho những của chìm, của nổi của hai vợ chồng đẻ ra hoa lợi để nuôi chồng ăn trắng mặc trơn. Còn anh chồng chỉ việc “trông coi cho chị làm ăn” nghĩa là không cần làm gì cả, nghĩa là cũng không cần trông coi gì cả, chỉ cốt làm sao có mình ở đó để người đàn bà không bị ai nhũng nhiễu – cái trò ở làng trước đây bao giờ mà chả thế. Nói vậy để hiểu rằng anh có lẽ chỉ là làm thế nào cho vợ anh đẻ đều vài năm một đứa con. Cái việc ấy, anh làm cũng đều đều. Chị vợ rất bằng lòng và anh lại càng bằng lòng anh lắm. Anh bằng lòng anh quá, đến nỗi có hồi tôi phải sốt ruột lên. Tôi cố kéo anh đi Hà Nội với tôi. Hai chúng tôi chung nhau mở một cái trường tư. Con người ta đã là người, cho dẫu là người không cần phải kiếm tiền, thì cũng phải biết làm việc đi một tí chứ cứ ngồi không mà hú hí với vợ con, ai mà chịu được? Tôi thật thà bảo anh như vậy. Anh cũng cho là có lý. Anh cộng tác với tôi chăm chỉ lắm. Rõ là một giáo viên tận tụy. Chỉ khổ một cái là tối nào tôi cũng phải nghe anh nói đến vợ con anh. Anh lại rất hay về. Thế rồi đến hồi chiến tranh bắt đầu ảnh hưởng đến nước ta, tàu xe đi lại khó khăn, anh ngại sự đi về và nhất định về ở nhà quê hẳn, không dạy học ở Hà Nội nữa. Vợ anh mừng lắm. Riêng có tôi thì tôi đã thở dài. Tôi chua chát bảo tôi: “Vợ đẹp, con khôn, một gia đình quá êm đềm, nhiều khi chính là cái khăn nhung ấm áp nó làm người ta hèn đến thế!…”. Mãi đến hồi tháng Chín, tháng Mười vừa rồi, tôi mới gặp lại anh. Chính anh tìm đến tôi. Tôi tưởng tôi mơ! Anh bạn tôi mặc y phục Vệ quốc đoàn. Anh hớn hở bảo tôi biết rằng anh vừa học xong lớp quân chính và sắp đi Nam Bộ…

    – Đi Nam Bộ?

    Tôi tròn hai mắt, hỏi anh như vậy. Anh cười đắc chí.

    Anh đã thèm hay chưa? Thật cũng phúc đời nhà tôi đấy! Đáng nhẽ thì không được đi đâu nhé! Và anh kể:

    Tôi dại quá! Hôm hết khóa học, chúng tôi có phải trả lời bằng giấy câu hỏi này: “Nguyện vọng của anh thế nào?”. Tôi ngờ nghệch tưởng không được ra mặt trận ngay nên trả lời: muốn về làm việc ở địa phương nhà. Thành thử đến lúc chọn người vào Nam thì những anh kia được đi cả, chỉ trừ tôi với mấy người học kém quá thôi. Những anh kia khôn, chỉ trả lời: “Xin sẵn sàng đợi lệnh của Chính phủ để đi bất cứ đâu, miễn là được giúp ích cho nước”. Có anh lại trả lời thẳng: “Xin ra trận”. Vì thế họ được đi mà tôi thì tưng hửng, tuy tôi vào hạng khá. Tôi ức quá. Tôi cố kêu nài mãi. Anh hiệu trưởng sốt ruột, phải cho tôi đi nốt, cho đỡ phải nghe tôi lải nhải mãi.

    Anh lại cười ầm ĩ, như cho đó là một cái khóe của mình, tài lắm. Tôi nghĩ ngay đến cái mặt sa sầm của chị vợ khi nghe thấy tin này, và cười ranh mãnh, hỏi anh.

    Anh không sợ chị ở nhà khóc hết nước mắt ư?

    Chẳng đến nỗi thế đâu! Tôi bỏ nhà tôi ở nhà ra đi còn chẳng sao thì nhà tôi ở nhà không có tôi cũng không sao. Anh không nên quá khinh đàn bà!

    Anh lại cười…

    Tôi có một thằng cháu, năm nay mới xấp xỉ hai mươi, cũng con nhà giàu ở nhà quê. Xưa kia, nó là một thằng mất dạy, nói thẳng ngang là như thế. Cho đi học, thì lười biếng, lếu láo, tháng tháng tiêu bạc trăm mà chữ vào bụng thì cơ hồ chẳng được chữ nào. Đó chính là những lời của ông bố nó. Có một cái bằng tiểu học mà thi mãi không đỗ nổi, cậu cả đành bỏ học. Một cớ nữa: cũng tại bố mẹ nó sợ nó còn ở tỉnh mãi thì phá hết cơ nghiệp mất. Nhưng về quê, nó vẫn cứ phá như thường. Không tiêu phí quá quắt như trước nữa thì lại đánh bạc. Răn dạy không được, đánh mắng không được, bố mẹ nó đã chán nản, coi nó là một con người hư hỏng, chẳng còn trông mong gì nữa. Tôi cũng vẫn đinh ninh như vậy. Và tôi nghĩ bụng: “Nuông nó lắm, nó hư là phải lắm!”.

    Trước hồi tổng khởi nghĩa vài ba tháng, tôi ở Hà Nội về quê. Một sự ngạc nhiên: ông cháu bất trị của tôi đến thăm tôi, việc ấy không thường lắm, và việc này mới lại không thường nữa: ông ấy hỏi thăm tôi về tình hình Hà Nội, về Nhật, về Pháp, về các mặt trận, về sự hoạt động của Việt Minh trên các chiến khu và trong khắp nước – Ông ấy thở ra mùi chính trị. Tôi hơi chột dạ: Coi chừng nhé! Thằng nào chứ thằng này thì đủ tư cách làm mật thám!”. Tôi nghĩ vậy. Trong câu chuyện tôi hết sức dè dặt và kín đáo.

    Ngay từ hôm sau, tôi bắt đầu ngấm ngầm điều tra về y ngay. Lại một sự ngạc nhiên: y đã chừa hẳn chơi bời cờ bạc. Bây giờ động nói đến đánh bạc là y chửi. Bố mẹ y cũng không ngờ y lại có thể đột nhiên thay đổi thế, cho là sự gở và chỉ lo y chết. Tôi thì tôi hiểu. Tôi cứ thầm phục mãi ông cán bộ nào đã giác ngộ nổi một con người như vậy.

    Tổng khởi nghĩa xong, y được bầu vào ủy ban làng. Y làm việc rất hăng, cấm cờ bạc, bài trừ trộm cướp, mở các lớp học bình dân, thúc đẩy việc tăng gia sản xuất… Làng đổi khác đi nhiều lắm. Tôi nghĩ bụng: “Thằng này thế mà có nhiều năng lực. Nó cứ chịu khó làm việc làng vài năm chắc là làng khá giả lắm”. Nhiều người ở làng cũng nghĩ như tôi vậy. Ông bố và bà mẹ thì hả lắm. Thỉnh thoảng ông lại bảo: “Lạ thật! Tôi cứ nghĩ ngợi, cho rằng cũng tại cái vận nước mình đến hồi khá rồi, nếu không thế thì sao người ta lại đổi khác hẳn đi như thế được? Nay, tôi xem nhiều thằng trước kia thì ngu độn lắm, ăn không nên đọi, nói chẳng nên lời, thế mà bây giờ cũng hiểu biết hẳn hoi, đến như thằng cháu nhà tôi mới lạ lùng: có ai tưởng nó lại thành ra như bây giờ được? Tôi mừng quá, thật không dám nói sai, nó ăn cơm nhà, làm việc làng, đi lại tiêu tốn của tôi, tôi vẫn thích, còn hơn để nó đánh bạc!…”. Khỏi phải nói rằng ông quý nó và chiều nó lắm.

    Tôi cũng sinh mến hắn. Mỗi lần về làng, tôi không bao giờ quên đến thăm hắn, khuyến khích hắn, khuyên hắn cố mà theo đuổi công việc ở làng, đừng đi đâu cả (bởi vì có lần hắn ngỏ ý muốn đi với tôi ra Hà Nội). Lần vừa rồi, tôi về thì được tin hắn đi rồi…

    Đi đâu?

    Đi mặt trận.

    Tôi hỏi thì người ta cho biết tin như vậy.

    Sao vậy?

    Còn ai biết vì sao? Hắn thích đi. Mà có riêng gì hắn? Làng này, nếu xin đi dễ thì còn biết bao nhiêu người nữa xin đi. Nhất là từ hôm hắn đi, người ta mới lại càng rối mãi lên. Anh nào cũng nóng lòng sốt ruột, đúng như những “con cháu nhà Thánh” đến kỳ hội Vương, hội Mẫu chưa đi trẩy hội được thì khó ngồi đâu, đứng đâu cho yên, cho nên dù bận việc nhà cửa đến đâu, cũng phải thu xếp đi cho bằng được.

    A! Thì ra bây giờ như vậy đó. Ở Hà Nội người ta háo hức đi ra trận. Ở các tỉnh, người ta háo hức đi ra trận. Ở các làng người ta háo hức đi ra trận. Cái thú đi ra trận quyến rũ cả đến các ông già. Một ông bác tôi, đầu tóc bạc phơ, thấy tôi về tỏ vẻ ngạc nhiên:

    – Thế ra anh vẫn ở Hà Nội đấy à?

    Ông hỏi tôi như vậy. Và khi thấy tôi cường ngượng nghịu, thú nhận rằng tôi vẫn cầm cây bút hiền lành ngồi trong một cái tòa soạn báo ở chốn thủ đô yên ổn, ông không giấu nổi vẻ bực mình

    Hiền nhỉ! Tôi mà còn trẻ như các anh thì không khi nào tôi chịu thế. Thế nào tôi cũng đi đánh giặc. Rồi, không biết định khích tôi hay nói thật, ông lại hỏi:

    Không biết tôi xin đi đánh giặc, Chính phủ có cho đi không anh nhỉ?

    Chính phủ chưa đến lúc cần các ông già đi vác súng. Ngay đến tôi đây chưa chắc đã cần. Một anh bạn tôi bảo với tôi rằng:

    Cái cổ tay như cẳng gà như thế thì cứ ao ước cầm súng làm gì cho khổ? Cầm bút trong lúc này chưa hẳn đã là cái nhục.

    Thì đã hẳn. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy tui tủi thế nào ấy. Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc ra lửa và đạn như cây súng. Nó ì ạch chạy theo phong trào mãi mà không kịp. Các bạn tôi cũng đều thấy na ná như tôi. Họ thấy rằng bàn tay họ, nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về. Sống đã rồi hãy viết. Lắm lúc chúng tôi muốn vứt cả bút đi để cầm súng. Tất cả con dân nước Việt Nam lúc này chỉ muốn được cầm súng đi ra trận…

    Thời bệnh!… Có người sẽ mỉm cười bảo thế. Sao lại gọi là thời bệnh? Hiếu động, cương cường, quả cảm là thói thường của những kẻ mới lớn mà sung sức. Những cái ấy báo hiệu một cái tuổi hai mươi thừa máu và khí lực. Sức sống của dân tộc chúng ta đang độ lớn lên, rất dồi dào. Nay mai, những xiềng xích tháo tung rồi, chúng sẽ lớn rất mau và rất mạnh.

    20-1-1946

    Tiền phong 1946
     
  4. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Đợi Chờ
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Liễu cẩn thận đưa Huyền vào tận giường trong, giúp cho nó nằm xuống cạnh em bé và đặt cái quạt vào tận tay cho nó. Chị lại trở ra giường ngoài. Quân, đứa con trai lên năm tuổi, nằm dạng chân tay, ngủ mệt, đầu hơi ngoẹo đi một chút, mặt nghiêng về phía cửa. Chị đi vòng về phía đầu giường, ngồi ghé xuống cạnh đầu con, đặt bàn tay lên trán nó. Trán và tóc Quân ướt đẫm mồ hôi. Chị vừa lẩm bẩm chửi yêu con, vừa lau mồ hôi và quạt cho con. Chị quạt cho con như vậy một lúc lâu, vừa quạt vừa nghĩ vẩn vơ. Những lúc được ngồi bên cạnh một đứa con này hay đứa con kia, bao giờ chị cũng muốn kéo dài ra không biết chán.

    Nhưng chị ngáp. Gió hiu hiu lọt qua những kẽ mành, trải hơi mát len nhè nhẹ trên da thịt. Tuy cả ngày hôm nay, chị mới chỉ cuốc được vẻn vẹn vài luống đất, nhưng lục đục chạy Tay ba bốn lần cũng đủ mệt nhoài rồi. Chị muốn ngả lưng một tí, nhưng rồi chống lại ý muốn ấy, bởi vì biết trước rằng bây giờ mà đặt mình xuống một lúc, thế nào cũng ngủ say như chết. Chị chưa thể ngủ. Tiện sáng trăng, chị muốn cuốc xong mảnh vườn trước cửa, vì ban ngày vừa làm vừa ngay ngáy lo Tây đến, không làm được mấy. Mà không cố làm thì lấy tiền đâu mà thuê người? Lấy gì mà nuôi con?

    Chị tần mần vuốt tóc Quân một lúc rồi quả quyết đứng lên, vươn vai ngáp và ra sân. Trăng lồng lộng. Trăng giãi bao la trên những khu vườn bằng phẳng như liền cả với nhau. Bóng chuối ngổn ngang. Những tàu chuối rườn rượt ánh trăng khẽ đu đưa uể oải. Ánh trăng và không khí bên ngoài làm chị tỉnh táo và khỏe khoắn. Chị nhanh nhẹn đi lại chỗ cái cuốc dựa vào cây na cầm lại chỗ vườn đang cuốc dở, bắt đầu chăm chúi cuốc. Những nhát cuốc đều đặn vang như tiếng “sụt” gọn và ngon xớt. Những tiếng cuốc khác đáp lại ở bên vườn hàng xóm, như những tiếng vang. Lắng nghe còn những tiếng khác xa hơn. Thì ra ở chung quanh người ta cũng đang cuốc vườn đêm. Cả làng chẳng ai chịu thua ai. Ai cũng cố lợi dụng tuần trăng để làm bù vào thì giờ phải chạy Tây, bù cả cho những người vì việc nước mà đi vắng. Chị mỉm cười, nghĩ đến một lúc này ai cũng nói: “Tăng gia sản xuất!”… Sản xuất! Sản xuất! Những tiếng cuốc xa tấp tới như vọng lại những tiếng trong lòng chị. Đêm tĩnh mịch. Những tiếng cuốc mỗi lúc một rõ thêm. Trăng từ từ lên cao.

    Trăng đã lên cao lắm. Đêm về khuya càng vắng lặng. Người ta nghe rõ cả tiếng rì rầm của lá tre. Tiếng cuốc thưa dần. Nó tắt ở vườn này rồi tắt ở vườn kia. Giấc ngủ lan tràn, trải rộng dần và đè nặng trĩu xóm làng, tĩnh mịch. Vài tiếng cuốc lẻ tẻ còn sót lại. Liễu đã ngáp mấy lần. Cái cuốc bắt đầu loạc choạc. Nhưng vẫn còn tiếng cuốc ở vườn bên cạnh. Liễu nhất định chưa chịu đi nghỉ. Người ta không có con thơ, ban ngày có thể làm tận đến lúc chắc chắn là có Tây đến mới cần chạy trốn. Liễu những ba con, cùng bé cả. Chị phải chạy sớm hơn mọi người. Công việc ban ngày chẳng bao nhiêu, chị phải cố kéo lại bằng cách làm khuya hơn người khác. “Rồi ban ngày ngủ”, chị tự nhủ như vậy.

    Tiếng cuốc ở vườn bên tắt nốt. Tay Liễu rã rời thêm. Mỗi lần cất cuốc lên, chị phải vận động cả người. Người chị cũng đã thành một cái gì nặng trĩu, chị phải lấy sức ra mà lay động. Giấc ngủ đè nặng trên mi mắt chị. Bóng tối lẩn vào trong đầu chị. Tiếng cuốc rời rạc của chị vang lên khó nhọc và cô độc quá. Không còn gì vây bọc chị, nâng đỡ và kích thích. Một mình sao người ta yếu đuối và buồn nản thế!

    Trăng đã đứng đỉnh đầu. Những bụi chuối, bụi tre như ngủ gục trên cái bóng của chúng đã thu gọn lại.

    Liễu thở hổn hển, xách cái cuốc về. Ngồi xuống đầu hè nghỉ một lúc cho ráo mồ hôi, rồi chị lấy quần áo đi ra sân tắm. Nước làm cho chị nhẹ nhõm và khoan khoái lại.

    Về đến sân, chị nghe thấy tiếng người hát nho nhỏ từ ngoài ngõ đưa vào.

    Chiều về trên cánh đồng xanh

    Có nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù,

    Từ ngày chinh chiến mùa thu…

    Chị nhận ra ngay là Nhàn. Nhàn hay hát những câu ấy quá đến nỗi Liễu chỉ nghe mà cũng thuộc. Tiếng hát êm êm ngân trong đêm khuya và trong lòng Liễu. Nhàn thấy Liễu cởi trần đứng ở sân, ngạc nhiên hỏi:

    Chị chưa đi ngủ kia à?

    Chưa, vừa cuốc vườn xong

    Hoan hô phụ nữ tăng gia sản xuất!

    Cô con gái đang tuổi ngổ ngáo, reo lên to quá

    Liễu ra hiệu tay, ngăn lại.

    Khẽ mồm chứ. Cô ả! Để cho con người ta ngủ. Nhàn chợt nhớ ra.

    Chết thật! Tôi vô ý quá. Cháu nó chịu ngủ với chị nó, hở chị?

    Cũng phải chịu chứ! Thời kháng chiến này mà không thế thì chết đói… Bây giờ mới tan học kia à?

    Tan lâu rồi. Nhưng em còn phải đi khai hội nên đến bây giờ mới về.

    Bàn gì mà khuya thế?

    Định chương trình thi đua ái quốc.

    Nhàn nhìn kỹ Liễu, nắm lấy cổ tay chị.

    Bà chị tôi lớp này đen mà gầy lắm. Trông già sọm hẳn đi khéo ông anh tôi về không nhận nữa thì nguy đấy.

    Liễu cười

    – Tôi ba con rồi, chả sợ. Nhưng cô chưa chồng thì mới lo!

    Nhàn thẹn đu đưa tay Liễu

    – Em cũng chả lo!

    Liễu nhìn Nhàn âu yếm. Nhàn là vợ chưa cưới của em trai Liễu. Chính Liễu mối manh. Sắp cưới nhau thì súng nổ. Đường vào du kích rồi vào vệ quốc, đi ra mặt trận suốt từ hồi ấy…

    Nhàn hỏi:

    Anh có thư về không chị?

    Nhà tôi đi xa không bao giờ viết thư về. Nhàn nhìn Liễu như ái ngại, rồi buột miệng.

    Anh gan quá!

    Liễu mỉm cười. Chị biết rằng Nhàn cũng hiểu lầm chồng chị. Kiện, chồng Liễu được mọi người mến phục, nhưng ai cũng hơi phàn nàn anh hững hờ với vợ con. Người ta cho rằng anh ở tỉnh thành lâu, thích con gái tân thời, chê vợ vì vợ quê mùa. Thật ra thì không ai yêu vợ bằng Kiện.

    Đời làm vợ của Liễu khổ cực rất nhiều, nhưng chị vẫn coi mình sung sướng hơn người vì được chồng quý mến. Chưa bao giờ Kiện nói nặng Liễu nửa lời.

    Còn Liễu, Liễu chẳng được hiểu rõ lắm những công việc của chồng, nhưng chị yêu tính nết và phục tư cách của chồng, chị tin chồng nên chồng làm việc gì chị cũng cho là phải. Chị yêu những cái chồng yêu và ghét những cái chồng ghét. Chị không bao giờ đòi hỏi chồng điều gì, mà cũng không bao giờ ngăn cản chồng điều gì cả.

    Súng nổ được độ một tuần, Kiện ở tỉnh về. Trái hẳn lại với mọi lần, anh trốn lủi tất cả các anh em đồng chí ở làng. Sợ họ biết anh về mà kéo đến tìm anh. Anh bảo Liễu: “Tôi muốn dành cho chúng mình vài ngày hoàn toàn riêng của chúng mình”. Kiện sắp đi xa. Anh biết rằng kháng chiến sẽ rất gian nan. Có thể rằng giặc sẽ tràn đến làng. Giặc sẽ phá làng. Liễu sẽ phải đem con đi tản cư xa. Rời vườn ruộng, không quen buôn bán, trong tay không có một đồng vốn liếng, một thân một thân đàn bà với ba đứa con thơ, rồi Liễu sẽ ra sao? Anh trông thấy tất cả những nỗi đau đớn khổ cực, nguy nan đang chờ vợ con anh. Nhưng đoàn thể gọi anh đi. Đoàn thể – đó là một cái gì đó rất thiêng liêng đối với anh. Anh sống chết với nó. Không bao giờ anh từ chối nó một điều gì. Nước nhà đang cần đến những bàn tay, những hy sinh.

    Hy sinh không phải là không đau đớn. Đêm hôm ấy, sau khi ba đứa con đi ngủ cả rồi, Kiện và Liễu nằm sát đầu nhau trên một gối, thức gần hết cả đêm để chẳng nói gì nhiều lắm. Liễu đã nhận thấy cả lòng yêu tha thiết của chồng đối với mình. Đêm từ biệt ấy, chị vừa sung sướng vừa buồn rũ rượi. Tiếng súng từ đằng xa vọng lại lúc mau lúc thưa. Nằm sát bên chồng nghe tiếng súng, chị thấy cùng với hơi nóng của chồng thấm sang người chị, một cảm giác êm đềm và ảo não. Ôi chao! Hạnh phúc có thể rất dễ dàng. Nhưng bàn tay tàn nhẫn của những kẻ lòng tham không đáy đã chụp xuống những cuộc đời và đã gây ra tủi nhục, đau đớn, chia lìa, chết choc! Chưa bao giờ Liễu hiểu rõ như lúc này, câu nói hằn học của chồng vẫn nói với chị xưa: “Chưa đuổi cổ được thằng Tây ra khỏi đất này, thì hãy khoan nói đến hạnh phúc. Đời người dân mình chỉ là đời con chó”.

    Kiện rầu rầu bảo Liễu: “Lấy tôi, mình thật khổ. Những lúc điêu đứng nguy nan nhất, những lúc mình cần đến sự giúp đỡ của tôi nhiều nhất thì tôi lại để mặc mình bơ vơ với lũ con thơ. Mình có giận tôi không?”. Liễu không nói gì, chỉ âu yếm vuốt tóc chồng. Và Kiện cười buồn, bảo tiếp: “Kháng chiến thành công, nếu còn sống về làng này tìm nhau nhé?”. Liễu hé trông thấy cả một cảnh chia lìa tan tác. Chị lạnh người. Chị muốn khóc òa lên, nhưng cố nghiến răng không khóc. Kiện nhè nhẹ nắm lấy bàn tay chị, như những ngày mới cưới. Họ gục mặt vào nhau mà ngủ.

    Hôm sau Kiện ra đi. Anh tránh nhìn các con. Liễu biết rằng anh sợ khóc. Liễu cũng không khóc, chị tươi cười, chế giễu chồng: “Bộ áo rét của anh tã lắm rồi. Mặc vào trông già hẳn đi”. Nhưng chồng đi được một lúc thì chị xua lũ con đi chơi, ngồi khóc. Nhớ lại phút chia ly ấy, Liễu nghẹn ngào.

    Nhàn càng tưởng chị uất ức vì chồng, an ủi.

    Thôi bây giờ chịu khổ, bao giờ độc lập tha hồ mà sung sướng. Độc lập thì anh ấy làm to lắm. Liễu lắc đầu.

    Cũng chẳng làm gì mà to. Độc lập rồi, vợ chồng lại gặp nhau làm ăn dễ dàng hơn, con cái được học hành. Tôi chỉ mong ước thế thôi, nhà tôi cũng không ưa danh vị, chỉ thích sống xuềnh xoàng. Tôi cũng thế.

    Độc lập rồi, anh lại về làng làm việc vậy. Có anh đứng ra, kiến thiết tha hồ chóng.

    Liễu và Nhàn cùng nhớ lại những buổi sáng trăng xưa anh chị em tụ tập ở cái sân này nói chuyện. Kiện phác những việc sẽ làm: “Xây một cái cổng ở chỗ giáp làng Sơn, cứu được non một trăm mẫu ruộng, mỗi năm lợi cho làng được hàng chục vạn đồng. Không cờ bạc, khao vọng, ma chay phí phạm, lại chịu khó làm ăn hợp lý, lợi dụng từng cái đầm cái ao, chỗ thả cá, chỗ thả sen, giồng nhãn khắp vệ đường, khuếch trương việc trồng bông kéo sợi, mấy lúc làng mình khá? Chỉ ba năm. Nhất định tất cả những đường làng này đều lát gạch. Trường học phải làm thêm hai cái nữa. Chúng mình phải có câu lạc bộ, thư viện ra hồn. Phòng thông tin phải có máy vô tuyến điện… Hợp tác xã của chúng mình lúc ấy to lắm nhé!”.

    Nhàn chép miệng.

    Mẹ cha thằng Tây! Chúng nó chỉ muốn bóp cổ chúng mình cho chúng mình không sao ngóc đầu lên được. Nhưng ai người ta chịu nó?

    Như trả lời vào đúng câu của Nhàn, tiếng súng và lựu đạn bỗng nổ ran. Nhàn reo lên.

    Đã bảo mà! Chắc lại du kích làng ta. Các anh ấy bây giờ đánh khá lắm rồi. Liễu bảo:

    Cố đánh làm sao cho tan hẳn vị trí của nó đi, để chúng mình đỡ phải chạy, làm được nhiều hơn nữa.

    Rồi nó cũng phải đi. Thấy các anh ấy nói lúc này ta chú ý diệt các đồn lẻ của Tây, giai đoạn thứ hai rồi, chị ạ.

    Tuy chẳng hiểu rõ thế nào là giai đoạn thứ hai, Liễu cũng mừng. Ta đã đi được một đoạn đường rồi.

    Liễu thấy cuộc kháng chiến của nước nhà gần thắng lợi hơn một bước.

    Khổ thật, nhưng rồi cũng quen đi, Nhàn ạ. Sáng sớm mai lại chạy. Đêm nay mà nó chết mấy chục thằng thế nào sáng mai cũng lên đấy khủng bố. Lại đến đốt mấy cái nhà nữa là cùng thôi chứ gì! Bây giờ đốt, người ta ít cần… Đi ngủ chứ, cô?

    Vâng, đi ngủ để mai dậy sớm. Chị nhớ đánh thức em nhé. Ít lâu nay, đổ đốn ra, hay ngủ mệt.

    Nhàn chỉ còn có bà ngoại già ngót tám mươi đi tản cư hẳn không về. Mình Nhàn ở nhà trông coi vườn đất. Đêm nào Nhàn cũng sang ngủ nhà Liễu, vừa để cho có bạn, vừa để giúp đỡ Liễu những khi cần chạy. Hai người vào nhà. Trăng chênh chếch ngả bóng trên nửa ngoài mấy cái giường. Liễu trông thấy Huyền, đứa con gái lớn ngủ gục mặt vào em, khẽ kêu lên.

    Con đĩ! Sao nó lại gục mặt vào con tôi thế này? Bức chết thôi! Nhàn cũng chạy lại xem, khẽ cười hi hí

    Để tôi ẵm nó ra giường này cho

    Nhàn luồn tay xuống bên dưới gáy và đùi Huyền nhấc nó lên đem ra giường giữa.

    Ối chà! Cháu tôi nặng quá! Bao giờ có chồng cho cô ăn trầu? Liễu cười, mắng yêu Nhàn

    Rõ chán! Cô hãy hỏi cái thân cô ấy!

    Chị gục vào hôn con, má chạm vào cái áo sơ mi rách của chồng. Cái áo lụa mềm nhũn, mát rượi da tay Liễu. Từ khi chồng đi vắng, chiếc áo sơ mi cũ ấy không đêm nào rời Liễu.

    Chị nhắm hai mắt lại, nựng con

    Thương con tôi quá! Con tôi phải ngủ với nó từ chập tối đến giờ. Mẹ bỏ con đi mất. Mẹ hư quá! Bố thằng Tây làm khổ con!

    Chị ôm chặt thằng bé vào sát ngực. Hình ảnh Kiện tươi cười hiện ra… Ngày thắng lợi! Ngày độc lập! Chị như trông thấy một thằng bé lon xon chạy ra đón bố! Và Kiện reo lên: “A ha! Con tôi đã nhớn thế này rồi kia?”.

    Những hình ảnh đẹp đẽ ấy chập chờn trong đầu chị đi vào giấc mơ.

    1948

    In trong tập Đôi mắt
     
  5. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Ở Rừng
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    (Nhật ký)

    19-10-47 – Thỉnh thoảng cơ giới của địch chạy rầm rập ở ngoài đường lớn cách chỗ chúng tôi chỉ độ ba cây số. Dân chúng đã làm vườn không nhà trống, đi ở lán bí mật cả rồi. Không còn một tiếng gà, một bóng người. Suối vẫn chạy ào ào tiếng vọng rõ hơn. Những tiếng ken két của cái cối nước vẫn điểm vào đây, hôm nay không còn nữa. Vắng vẻ cả tiếng rất quen thuộc của những cái nhạc gỗ lủng lẳng ở cổ những con trâu thả rông, kêu lốc cốc. Mình tiếng suối ào ào nhất thống khoảng vắng lặng mênh mông quá.

    Công việc cất giấu của chúng tôi đã tạm xong. Luôn ba ngày khuân vác, mỏi dừ người. Đêm qua ngủ rừng, sáng dậy, mặt, cổ và chân tay be bét máu vì vắt cắn. Chưa buồn rửa ráy, chúng tôi mở một cuộc khai hội bất thường, bên cạnh một cái kho bí mật vừa làm xong. Cuộc họp không đầy mười lăm phút.
    Cũng chẳng có gì phải bàn cãi lâu dài. Mọi việc được giải quyết gãy gọn và chóng vánh. Bộ phận quan trọng nhất của cơ quan sẽ rời ngay đến một địa điểm xa, dự bị từ lâu. Một bộ phận nhỏ sẽ ở lại đây, tiếp tục hoạt động theo một số chương trình mới: Tư, Khang và tôi thuộc trong số những người ở lại.

    Ngay sau cuộc họp, chúng tôi sửa soạn ba lô lên Mán. Mán còn là một thế giới hoàn toàn bí mật đối với tất cả chúng tôi. Ngay người Thổ cũng rất ít khi lên. Làng Thổ ở ngay dưới chân ngọn núi có làng Mán ở trên. Thế mà có những ông già Thổ ngoài sáu mươi, chưa lên Mán một lần nào. Hỏi đến người Mán từ đồng chí chủ nhiệm Việt Minh xã là người đã bỏ được hết những thành kiến sai lầm xưa nay vẫn chia rẽ hai giống người sống sát cạnh nhau đã lên khai hội với các đồng chí Mán nhiều lần, còn hầu hết người Thổ chúng tôi quen đều lộ vẻ kinh sợ và khinh bỉ: Úi già! Ké không được biết Mán đâu! Không dám lên đâu! Mán nó ở nhà đất đấy, không ở nhà sàn như người Thổ đâu! Có con rắn bò vào nhà đấy! Mán không biết nói tiếng Kinh đâu! Mán có nhiều rận lắm! Mán nó bí mật lắm, không muốn cho ai lại gần đâu. Lại gần nó giết đấy!…

    Cần phải nói ngay rằng tiếng “nó” người Thổ dùng không có ý gì khinh bỉ cả. Nói đến người trên, họ cũng dùng tiếng “nó”. Nhưng vẻ mặt và giọng nói của họ, khi nói đến người Mán tỏ rõ ý nghĩ sợ và khinh bỉ.

    Nhưng Tư, người giữ cái nhiệm vụ đi tìm chỗ đặt cơ quan cho bọn chúng tôi, đã lên tận Mán. Anh chỉ cho chúng tôi một cái sườn dốc gần như dựng đứng. Không có đường đi. Cả đến lối mòn cũng gần như không có. Rất ít người qua lại đấy. Chúng tôi sẽ phải cố tìm ra những vết trên lá rơi, cỏ rậm mà đi.
    Không có một cái mặt bằng bằng con dao nào để mà ngồi. Chỗ nào cũng là dốc cả. Luôn sáu cây số, người ta đi, đường đi lù lù ngay trước mũi. Tất cả cái đáng sợ chỉ thu vào có thế. Người Mán chẳng có gì đáng sợ. Họ khác người Thổ, người Kinh ở chỗ khỏe, tìm ra lối đi trong rừng rất giỏi, giỏi đến mức mắt họ có thể nhận thấy đường đi lại của một con chuột trên bãi cỏ. Họ mặc rách rưới hơn người Thổ, người Kinh. Họ ăn ở khổ hơn. Họ thích ở thật cao, thật xa lánh mọi người. Có thế thôi. Họ chẳng biết ai và cũng chẳng có gì là quái gở.

    Vì mới đi lần đầu, nên những cẳng chân Hà Nội của chúng tôi đi chậm và khó nhọc lắm. Tháng Mười miền núi tiết trời khá lạnh. Chúng tôi để nguyên áo rét, ra đi. Qua một cái suối phải lội, anh nào cũng rùng mình.

    Nhưng mới trên một quãng dốc xoàng xoàng, chúng tôi đã theo nhau hạ ba lô, cởi áo rét ra. Anh nào cũng mặt đỏ gay, mồ hôi vã đầm đìa. Nóng quá! Và khát! Anh đi đằng sau chỉ trông thấy gót chân anh đằng trước, nhưng nghe rất rõ tiếng anh đằng trước hồng hộc thở, có anh nghiến chặt răng để bước.

    Mỗi bước là một động tác thể thao hạng nặng. Cứ độ vài trăm bước chúng tôi lại dừng lại, chân trước cong, chân sau thẳng, nhìn nhau thở phì phì và cười với nhau. Tôi cứ vừa đi vừa nắn bắp thịt đùi và có cảm giác như nó to ra, rắn lại, sờ thấy được.

    Càng đi càng vào sâu trong rừng rậm. Đường cao rắc rối quanh co. Hết cây lại đến cây. Chẳng chỗ nào ra vẻ lối đi, nhưng nếu nhìn kỹ để tìm chỗ nào cũng có thể có ba bốn lối đi. Thế mới rầy! Vòng quanh vòng quẩn nhiều quá đến nỗi phương hướng cũng không biết lối nào mà nhận nữa. Nhìn lên thì những cành với lá. Cành lá chồng lên nhau, che kín cả trời. Ánh sáng âm u, không còn biết là trưa hay đã chiều. Chỉ thấy mỗi lúc một tối hơn. Rừng rậm thêm hay mặt trời đã nhạt? Không một túp lều, một người đi để hỏi đường. Tư qua lại bốn lần mà vẫn lạc, chúng tôi phải đi trở lại ba lượt. Chân đã mỏi nhừ, cổ đã khô cháy thì may quá, đến một chỗ kia, chúng tôi đột nhiên gặp một người. Tư reo lên:

    – A! Nhình Pin!

    Tư giảng cho chúng tôi biết Nhình là chị. Anh chàng phải giao thiệp với đồng bào địa phương luôn, đã học được ít nhiều tiếng Thổ. Để nói chuyện với người Thổ thì chẳng đủ đâu. Anh thích dùng tiếng Kinh, tiếng phổ thông để họ khỏi cười. Trừ những bà già, còn hầu hết người Thổ đều nói thạo tiếng Kinh. Nhưng người Mán nắm chắc cẳng keo. Tiếng Thổ họ cũng chỉ biết tạm đủ dùng thôi. Vì thế, tiếng Thổ của anh Tư rất có ích ở đây. Anh cũng thích nói tiếng Thổ với người Mán lắm.

    Chị Pin là một thiếu nữ vào hạng “chân tròn như cột”. Người vạm vỡ, mặt tròn vành vạnh, trán nhẵn thín dưới cái khăn xếp màu đỏ thêu chỉ trắng che cái đầu cọc trọc. Nhình cũng mặc áo dài quần chàm như phụ nữa Thổ, nhưng cũ kỹ và rách rưới hơn. Cổ, cổ tay đeo vòng bạc, vòng đồng. Chị em miền núi ưa những đồ trang sức lắm.

    Cái chúng mình không quen, chính là cái khăn to vành bọc vải thêu. Nó gợi trong tôi một cảm giác sờ sợ mơ hồ, cảm giác khi ta gần những cái man rợ và bí mật. Gần giống như ngày còn bé, tôi gần những bà đồng áo khăn sặc sỡ.

    Nhưng chị Pin chẳng man rợ và bí mật một tí nào. Đứng trước mặt Tư, mặt chị đỏ bừng lên. Miệng chị, đôi mắt chị cười. Khi cười cũng đưa ngang cái tay che miệng như những cô gái e lệ dưới xuôi. Và khi Tư đùa hỏi “Kỷ lai pi” (Bao nhiêu tuổi), chị càng thẹn thò trả lời “Nắm chắc” (Không biết).

    Nhình Pin ở rẫy về. Chị cõng một cái giỏ đầy thóc còn cả bông ở trên lưng. Tay chị cầm một quả dưa to. Tư hỏi:

    Mắc ca lăng? (Quả gì?)

    Mắc qua (Quả dưa).

    Kin đầy bó? (Ăn được không?)

    Kin đầy (Ăn được).

    Chị đưa tay về phía đằng sau lưng, rút con dao, bổ quả dưa, đưa cho Tư.

    Kỷ lai chèn? (Bao nhiêu tiền?)

    Nắm âu chèn (Không lấy tiền).

    Tư chỉ lấy một nửa thôi. Chị bảo Tư đưa nốt nửa kia cho bọn tôi ăn. Đang khát, trông thấy dưa, thích mê người. Nhưng quái lạ! Mình vẫn thấy ngài ngại, như sợ bẩn. Tại sao mà bẩn? Quả dưa vừa mới lấy ruộng về. Cái bàn tay to lớn và múp míp của người cho bẩn thỉu chăng? Mới đến giang sơn Mán, mình vẫn nhìn mọi cái với con mắt của người Hà Nội. Nhưng Tư đã cắn vào miếng da rồi. Chúng tôi cũng mỗi người một miếng, ngoạm ăn. Giống dưa to như dưa hấu, nhưng thịt và ruột lại giống dưa gang. Chất dai hơn. Và sau khi chúng tôi đã đỡ khát rồi, chúng tôi thấy nó có vị hơi chua, chứ không được ngọt.

    Xẩm tối, chúng tôi bước vào nhà một ông già. Cái nhà bằng gỗ còn cả vỏ bương, tre, đứng đơn độc có một mình, ấy thế mà là cả một làng, có tên riêng của nó hẳn hoi. Chuồng lợn, chuồng gà ở ngay trong nhà, lẫn với người. Nhưng không có lợn gà. Chỉ có phân với bọ hung. Chủ nhà bảo Tư: “Gà lợn đã pây cơ”. Nghĩa là đi lán cả rồi. Tư cắt nghĩa thêm:

    Cơ, tức là cơ quan. Tiếng này chắc có ngay từ thời kỳ bí mật trước đây. Người Mán đã phải làm vườn không nhà trống, ở lẩn lút ngay từ thời kỳ ấy kia rồi. Vì vậy, nhà nào cũng có cơ quan bí mật để giấu thóc lúa, lợn gà. Lán bí mật riêng của nhà họ, họ cũng gọi là cơ quan.

    Anh Đức bảo Tư hỏi xem cơ của ông ké có xa không. Ông ké bảo “Quây lại” (Xa lắm)! Thế là khổ chúng tôi! Vẫn tưởng đến nơi có thể mua được một con gà làm thịt, thổi cơm ăn. Nhưng gà lại đi cơ mật cả rồi. Đành lại cơm với muối.

    Cơm xong, cả bọn lăn quay ra đất, chung quanh bếp lửa. Ông già nhường cái giường độc nhất cả nhà ông cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không chịu nhận. Ông già bèn lẳng lặng đi lấy củi, thêm vào bếp, lại đốt một đống lửa nữa ở phía ngoài. Ấm cúng chán rồi. Hơi khói át hết cả những mùi xú uế đi. Vì vậy, tuy rải áo vét tông, đầu ghé ngay gần cái chuồng gà, tôi vẫn ngủ ngon lành lắm. Luôn mấy đêm lạnh và chập chờn rồi. Lại đến nửa ngày leo dốc, ba lô bị gạo nặng ê vai. Nằm một lúc, ngủ ngay. Nửa đêm, tỉnh dậy vẫn thấy lửa cháy đều. Bên đống lửa, một thiếu phụ ngồi. Người đàn bà còn xuân mà lúc mới đến chúng tôi đoán là vợ kế ông già. Nhà chỉ có hai người, một đàn ông, một đàn bà, thì tất nhiên là vợ với chồng. Nhưng hai tuổi chênh lệch nhau một cách đáng băn khoăn. Chúng tôi đã trao đổi với nhau đôi ý chế nhạo tối hôm qua. Lúc đi ngủ, tôi thấy ông già vào buồng, còn người thiếu phụ nằm cong queo một mình ở trên giường. Lửa xa mà chăn chiếu cũng không. Bây giờ người đàn bà lại ngồi đây. Ánh lửa hồng hắt lên khuôn mặt trái xoan điểm một cái miệng nhỏ thanh và đôi mắt lá răm hơi xếch. Người ta nghĩ đến những nàng công chúa Đông phương, đẹp lặng lẽ và bí mật, tả trên màn ảnh. Đêm khuya vắng lặng giữa những người ngủ mệt ngáy khò khò, người đàn bà thức một mình, ngồi coi đống lửa. Ánh lửa đỏ vờn nhau với những miếng tối lung linh. Tôi thấy buồn, nhơ nhớ, chẳng hiểu nhớ ai và buồn vì sao.

    20-10-47 – Sáng sớm thức dậy đã thấy ông ké ra máng nước đầu nhà, lấy nước và đun cho chúng tôi rửa mặt. Ông già cao lớn, lúc nào cũng lom khom như sợ đụng mái nhà, cử chỉ chậm chạp, mắt chất phác, phúc hậu, lúc nào cũng cười và lầm rầm những tiếng ấp úng chúng tôi không hiểu nổi vì ông chỉ biết dăm ba tiếng Thổ, trông đẹp và đáng yêu đến nỗi anh chàng Khang họa sĩ tấm tắc khen và chỉ muốn thế nào vẽ được một bức chân dung của ông. Nhưng không hiểu họ có kiêng kỵ gì không, anh chàng không dám nhờ ông ngồi để cho anh vẽ. Vả lại cũng chẳng biết nói thế nào cho họ hiểu. Anh chàng đành để đến khi nào đôi bên quen thuộc nhau hơn đã.

    Tôi ra ngoài để quan sát quanh nhà. Rừng, cỏ ngập đầu. Chỉ ba bước đã vào rừng. Mấy hôm trước còn một chỗ súng nổ loạn xạ, người chạy nháo nhác và hoảng hốt, đến đây tôi thấy an toàn, chắc chắn lạ lùng, mặc dầu vẫn nghe thấy tiếng súng rất gần. Giặc có bao giờ còn lập lại nổi chính quyền, nắm hết dân chúng trong tay? Chỉ khi ấy, chúng mới dám sục sạo đến đây. Đặt cơ quan ở chốn này, chúng tôi có thể yên lòng làm việc lâu dài được.

    Tôi bỗng giật mình, chỉ vì đột nhiên thấy bóng người. Tôi không đợi gặp một người nào khác ở chỗ hoang vắng này. Một cái đầu nhấp nhô trên cỏ. Mặt to, da vàng xạm, hai mắt xếch, khăn quấn rối, trông như một cái đầu tướng Tàu nặn bằng bột, một anh Khách vẫn bán cho trẻ con chơi, hồi tôi còn nhỏ. Một cái mặt trông vừa buồn cười, vừa dữ dội, không ra già, không ra trẻ, không biết cho vào hạng tuổi nào cho đúng. Những cái búi tó bé ngắn ngủn cho tôi cái cảm giác anh chàng vừa mới lớn.

    Đôi mắt xếch thao láo nhìn tôi. Một tiếng to tát và vồn vã:

    Chào đồng chí!

    Chào đồng chí!

    Tôi đáp lại. Cái đầu bập bềnh trôi trên sóng cỏ, đến gần tôi. Một người to nhưng thấp hiện ra, gò cúi dưới một cái giỏ gì nặng lắm. Cái áo chàm ngắn cũn cỡn để hở một cái bụng lồi ra, và cái quần không thể bám vào cái bụng rồi trật cạp xuống gần đến háng. Học được mấy tiếng Thổ tối hôm qua, tôi hỏi:

    Ca lăng à, đồng chí (Gì đấy, đồng chí)

    Mắc qua.

    Dưa! Dưa cũng tốt rồi. Cắt nhỏ ra, chấm muối mà ăn cơm còn tốt hơn chỉ có muối không. Tôi bảo anh đem vào để chúng tôi mua. Anh vào, đặt cái giỏ nặng xuống, rút hai tay ra khỏi cái dây đeo, thở dài thật to thành một tiếng rên. Anh ra máng rửa chân. Anh lại gần lửa để hơ. Bỗng anh kêu lên một tiếng.

    – Ú già!

    Anh tặc lưỡi. Chúng tôi hỏi:

    Cái gì?

    Con vắt! Con vắt cắn.

    Anh gỡ nó cho vào bếp. Đức reo lên:

    – A! Đồng chí biết tiếng Kinh!

    – Không biết nói đâu! Biết ít thôi.

    Chúng tôi xúm lại giỏ của anh. Hàng chục quả dưa. Lại có rau bí nữa. Chúng tôi hỏi:

    Đồng chí lấy bao nhiêu?

    Không lấy tiền đâu! Cho các đồng chí ăn thôi.

    Đức cố nhét hai cái giấy mười đồng thật mới vào tận tay anh. Anh ngần ngừ mãi mới chịu cầm một cái.

    Ông già thong thả đeo con dao vào thắt lưng, khoác khẩu súng kíp, cười cười, lắp bắp nói những tiếng lầm rầm, ý chừng là từ biệt chúng tôi. Ông đi rừng. Trông ông đeo dao, khoác súng vào, càng đẹp. Nhưng ra ngoài vẫn lom khom, cái đầu hơi hơi lao về đằng trước. Không phải vì già. Đó chỉ là dáng đi của một kẻ quen cái đời chui lách trong rừng rậm. Ông đi lừ đừ như một con thú dữ. Tôi mới chợt nhận ra rằng người đàn bà cũng đã biến đi mất từ lúc nào, chính tôi cũng không để ý. Trơ lại trong nhà còn bọn chúng tôi với anh chàng bán dưa. Tự anh đi tìm mẹt, xếp dưa, xếp rau ra cho chúng tôi. Anh quét. Anh thở dài thành tiếng rên (cứ độ 15 phút anh lại thở dài thật to như vậy, chẳng ra sao cả!).

    – Nhà bẩn quá! Không có giường nằm. Các đồng chí ở dưới xuôi sướng, lên đây khổ quá!

    Anh làm như anh là người nhà vậy. Nói chuyện với anh một lúc, chúng tôi mới biết anh là người nhà thật. Anh là con rể cụ. Người đàn bà trẻ tuổi là con gái ông cụ và là vợ anh ta. Ông cụ góa vợ đã lâu. Người ta gọi ông là ké Nhàn – ông già Nhàn – còn anh, tên như tên trong tiểu thuyết Tàu: Triệu Vân Hương. Và thật không ngờ, anh đã bốn mươi hai tuổi.

    Tối hôm ấy, cả nhà ông ké Nhàn ngủ lán. Tối hôm sau cũng vậy. Ban ngày, có người nào về cũng chỉ một chốc một lát thôi, về để lấy một vật gì, hay lấy củi hộ chúng tôi. Chúng tôi hoàn toàn làm chủ cái nhà. Chúng tôi e mình có làm phiền đến đời sống họ chăng. Nhưng Tư bảo:

    – Họ ưa như vậy. Vả lại ở, đối với họ có thành vấn đề đâu. Họ ngủ đây cũng được.

    21-10-47 – Tư vẫn chưa cho chỗ ông ké Nhàn là kín! Anh dùng làm một chỗ tạm đó thôi. Hôm nay anh sẽ đưa Khang và tôi đi xem một chỗ khác để hỏi ý kiến chúng tôi. Cơm nước xong, thì một người Mán đeo súng đến. Anh chàng trạc độ ngoài ba mươi. Búi tó, quấn khăn, mặt sáng sủa, người nhàn như một anh đồ trẻ vào thời Nguyễn Trãi. Nhưng áo cũng ngắn cũn cỡn vào quần mòn mất gấu, luội thuội, lựng chựng những cái bắp chân chắc nịch nhưng bẩn và có những vết lở to rỉ mủ. Tư gọi anh ta là đồng chí Quân. Đồng chí Quân sẽ thay mặt cho đồng chí Chấn trưởng thôn đi vắng, để dẫn chúng tôi đi tìm địa điểm.

    Sau ngót một giờ lội suối chui rừng, vắt bám gỡ ra không kịp, qua hết rừng cây lớn, rừng lau, rừng chuối rồi lại rừng cây lớn, men, lách, leo, trờ bở hơi tai, chúng tôi đến Vang Khẹt. Lại một làng! Ba nóc nhà như ba cái chuồng chim đeo lủng lẳng ở ngọn núi. Được cái quang đãng nhìn ra một phong cảnh sáng sủa và tuyệt đẹp. Núi lại núi. Núi kế tiếp nhau, cuốn những đợt sóng mềm mại vờn trời. Chỉ có trời với núi. Tôi có cảm tưởng như trên trái đất chúng ta ở, ngoài núi ra, không còn gì nữa. Anh chàng Khang yêu màu sắc và ánh sáng chắc phải thỏa lòng. Những quả núi gần khoe những mảnh áo rất xinh. Từng miếng vàng tươi của ruộng. Những miếng khác màu vàng rơm. Và màu xanh, đủ các thứ xanh.

    Những buổi chiều, ánh sáng chiếu rọi đúng như đèn pha rọi những phong cảnh rạp hát. Phong cảnh đổi từng khắc một, đúng như trên sân khấu. Khang ghi chép cẩn thận, nói là để dùng vào việc bài trí sân khấu khi về Hà Nội.

    Đêm trăng. Một cây trụi lá, đen, rướn lên trời xanh phớt. Một nét đẹp đơn sơ. Núi đằng sau. Và trăng nằm giữa mây, mềm xốp như đệm gối.

    Nhưng nhà thì bẩn ghê gớm quá. Chuồng lợn ở ngoài hè. Gà lợn đi lại, ăn nằm và phóng uế rất tự do, trong nhà ngập đất và rác rưởi. Cả bếp ở giữa một gian, thẳng hàng với chạn bát nhơm nhớp như phủ một lượt bùn ở đầu trong và cái lò nấu “ruốc mu” (thức ăn của lợn) ở đầu ngoài. Cối giã gạo cũng ở trong nhà. Mồ hóng khắp nơi. Ba cái buồng nhỏ vừa một cái giường, chưa bao giờ quét. Mạng nhện đầy tro, bụi, mồ hóng bám chằng chịt trên mái, trên các tấm phên làm vách. Đất lầm lên, rác rưởi ngập gầm giường và cả trên những cái giường không chiếu.

    Cả làng đã đi gặt vắng. Chỉ còn một ông già, một người đàn bà bận con thơ, và một thằng bé mười một tuổi mũi quệt đất vẽ hề trên mặt. Thấy có người lạ đến, tất cả trốn vào rừng. Chúng tôi thấy nhà không. Nhưng một lát sau, nghe tiếng đồng chí Quân, người đàn bà ẵm con về tiếp chúng tôi. Thằng bé con cũng chạy về hếch mặt nhìn vào mặt chúng tôi một cách rất tò mò, khẽ chạm ngón tay vào tay áo tôi rồi vội rụt lại như ta sờ một con vật lạ để xem nó động tĩnh ra sao, rồi lè lưỡi ra một cái, cười nhăn nhó cả mặt nhưng không thành tiếng. Một hôm sau tôi mới biết cái điệu lè lưỡi và cười câm ấy cũng thịnh hành ở nó chẳng kém gì tiếng thở dài của đồng chí Vân Hương. Cho tận đến lúc đó, tôi không nghe thấy nó nói lần nào. Không hiểu có phải nó câm không. Người đàn bà không biết tiếng Thổ. Đồng chí Quân đưa chúng tôi đến cái nhà ở trên cùng, gặp ông già đã lò dò ở bụi rậm chui ra. Quân gọi ông là ké Xếch. Nói gì ông cũng chỉ cười. Quân bảo, mới biết ông ta điếc. Chẳng chuyện trò gì được với ông. Đồng chí Quân cứ tự tiện đưa chúng tôi đi xem cả ba nhà và bảo chúng tôi tùy ý muốn ở nhà nào cũng được. Chúng tôi chọn cái nhà đầu tức là cái nhà ngoài phòng chính hình thước thợ, còn có ba phòng nhỏ tả ở đoạn trên. Nó rộng rãi nhất và sạch nhất.

    Ngay từ sáng hôm sau, chúng tôi bắt đầu chuyển vận gạo, muối, đồ dùng từ đằng nhà ông ké Nhàn sang. Vẫn không thấy chủ nhà nhưng nhà đã được dọn sạch sẽ hơn. Chúng tôi chỉ cần quét dọn thêm một lượt nữa là ở cũng tạm được rồi.

    Chủ nhà tên gọi là Kinh, anh ta đi rừng, đi ruộng suốt ngày. Vợ anh ta ngủ ở cơ. Từ hôm chúng tôi đến, anh cũng ngủ cơ. Thỉnh thoảng mới về nhà một hôm, vác theo một đoạn cây chuối thật to. Anh ta kê đoạn chuối nghiêng nghiêng, cưỡi lên trên, mồm ngậm một cái tẩu thuốc lá bằng đồng lấy một cái cán làm bằng một đoạn cành tre, cả hai tay cầm một con dao dài và mỏng xoèn xoẹt thái cây chuối rất nhanh, rất nhẹn. Thái xong, anh hót tất cả, cho vào một cái chảo to đặt trên lò, đổ nước vào ninh. Anh ninh suốt một ngày cho cây chuối nhừ tươm. Thế là thành ruốc mu, nấu một ngày đủ cho lợn ăn năm ngày. Lúc cho ăn, chỉ cần vầy với nước, rắc thêm vài nắm cám như rắc hạt tiêu. Thức ăn chỉ có vậy, nên phân người là mỹ vị đối với tu mu (con lợn). Mỗi buổi sáng ra ngồi ở gốc cây, phải cầm một cái roi để xua chúng nó đi. Lợn lớn, lợn con chực ở chung quanh, hầm hè nhau, liều chết xông vào, xộc ăn toang toác. Chúng nó tranh nhau, cắn nhau như chó vậy. Lại còn trâu! Một khám phá đối với chúng tôi, cứ thấy người ta đứng vén quần là các chú tu vài (con trâu) nghênh ngang hai cái sừng đến, hếch mõm lên nhìn và đợi. Dòng nước tiểu tía ra, các chú tranh nhau há mõm, lè lưỡi, đón lấy uống, thở phì phì.

    Nước tiểu vào cả mũi. Xong rồi, còn chũi mõm, liếm những giọt vương trên đất. Mới đầu, tôi tưởng trên núi xa nước nên chúng nó khát. Nhưng trước cửa nhà, có những vũng nước đầm đìa mà trâu không uống. Có lẽ trâu thèm chất muối.

    Muối trên này quý lắm. Chúng tôi cho mỗi nhà một bát. Họ rất mừng. Thế mà muối chúng tôi để ở nhà họ có hàng bồ, họ không động đến bao giờ. Có lần chúng tôi đi vắng mấy ngày luôn. Lúc về thấy thằng Hùng – Lý Kỳ Hùng – con ông ké Xếch, mách với chúng tôi, vợ anh Kim, người đàn bà có đôi mắt to và môi nở như đầm thỉnh thoảng chúng tôi mới thấy về nhà, hết muối ăn, định lấy muối của chúng tôi.

    Kể chị ta có lấy cũng chẳng sao, vì chúng tôi đã dặn anh ta khi cần thì cứ lấy mà ăn. Nhưng người chồng bảo vợ: “Việt Nam độc lập, không ăn trộm của nhau”. Và vợ chồng nhà anh ăn cơm nhạt.

    Anh ở nhà bên cạnh cũng tên là Kim. Kim này đã đi giao thông hồi bí mật. Chiều chiều, tôi nghe thấy anh hát Tiến quân ca. Gần đúng giọng, nhưng mất chữ luôn. Anh là bố thằng bé hay lè lưỡi và là anh ruột Nhình Pin. Cô con gái cho chúng tôi dưa hôm nọ.

    Nhình Pin vẫn hay đỏ mặt. Chị hay nói chuyện với Tư. Một lần chị cho Tư mấy bắp ngô. Tư không lấy, bởi vì thấy một lần hỏi mua, chị không chịu lấy tiền. Chị hỏi Tư:

    – Ngô già, có phải không?

    Tư không để ý đến câu nói ấy. Nhưng chiều hôm ấy khi chúng tôi ngồi quây quần với ông ké Xếch và hai đồng chí Kim, cùng nướng ngô ăn. Tư kêu ngô già thì ông ké Xếch cười mà bảo:

    – Ngô không già, người già

    Hai anh Kim cùng cười to. Tư bỗng sinh ngờ. Một lối nói tình tứ chăng?

    Nếu Tư đi là tôi với Khang gặp khó khăn ngay. Bởi vì ở Vàng Kheo người ta không biết tiếng Kinh. Tiếng “Tày” cũng biết ít thôi. Chúng tôi cũng chẳng biết được bao nhiêu. Họ nói hơi dài, ngoài mấy tiếng thường dùng, là mình ngẩn mặt ra. Mình nói, họ cũng lắc đầu: nắm chắc! (không biết!). Nhưng hỏi đến cụ Hồ thì ai cũng chắc (biết). Chắc cả đồng chí Văn (tức là đại tướng Võ Nguyên Giáp), đồng chí Thạch.

    Vì không nói cho họ hiểu được, mới đầu Khang với tôi cứ ăn cơm muối tràn. Hỏi mua gì họ cũng năm mi (không có) về sau học được lối của Tư: muốn gì, cứ bảo họ pày đông (đi rừng) hay pây cơ du hở khỏi (đi cơ lấy cho tôi). Quả nhiên có rau ăn. Họ bán rất rẻ, ít thì cho không, không chịu lấy tiền. Rau cải luộc chấm muối, ăn mãi cũng chán mồm. Tôi phát minh ra lối nấu canh rau cải với muối và nước lã, cho thêm một ít gừng. Cũng tốt. Gà cu, thịt dai như thịt trâu cũng không mua được. Ở đây nuôi gà đến lúc nó hết sức lớn rồi cũng không chịu bán đi, nuôi gà nhỏ cho có lãi. Những cụ gà già, phú quý ra thì con cháu tế thượng thọ cũng đáng rồi, vẫn được sống như thường. Họ nuôi, như để làm cảnh vậy.

    Cũng may mà mật ong thì được ăn luôn. Có lần mua được của một người đi giao thông cả một cái tổ ong, anh ta gặp ở rừng, dúm lá đem về. Cầm cả cái hoai mà ăn, thú vô cùng. Có khi ăn cơm trộn mật ong. Thuốc lá Mán tẩm mật ong, hút thì ngon tuyệt. Chẳng bao lâu, Khang và tôi đã nổi tiếng khắp mấy làng Mán là những thằng đốt thuốc lá chứ không phải là hút nữa.

    Một cái thú nữa ở Vàng Kheo là đi tắm. Quãng suối chảy xiết, đá sỏi trắng và vàng óng ánh dưới lòng. Những hòn đá tròn trĩnh nhẵn nhụi để ngồi. Có một chỗ, những tảng đá kết chung quanh thành một cái bồn ngồi lọt cả người. Một thác nước trắng xóa đổ trên đầu. Nước rất trong. Mặc dầu trời lạnh, ngày nào tôi cũng đến chỗ ấy tập thể thao, rồi nhoai người xoai xoải dưới thác nước cho nước chảy từ cổ đến chân. Khoái lắm!

    Nhưng từ nhà đến suối, phải đi qua một cái hốc chừng vài trăm thước. Mỗi ngày trèo mấy lượt có mệt thật, nhưng lấy làm thích vì đó cũng là một cách vận động để cho đùi to ra. Càng thấy phải khuân vác, phải vất vả, càng vui. Cách mạng đã đổi hẳn óc mình. Kháng chiến chẳng những làm già dặn thêm khối óc đã đổi mới kia, còn thay đổi ngay chính thân thể mình, một ngày kia khi trở về!…

    1-11-47 – Trong khi đợi anh em công nhân thu xếp cơ quan in, Khang và tôi in đá. Nhưng mới làm việc được độ một tuần thì Tư lại lên, bàn nên thiên lại chỗ nhà đồng chí Chẩn, liên lạc ở dưới tiện hơn.

    Lại chuyển vận gạo, muối, vải, đá luôn hai ngày. Mình khuân vác đã khá khỏe rồi. Đi núi, cũng nhanh hơn, đỡ mệt hơn. Đường đi đến nhà đồng chí Chẩn, bây giờ mình thấy thường rồi. Nhưng đường lên cơ thì thật là cơ cực. Hoàn toàn không có đường đi. Dốc chết người. Nhiều chỗ phải bám lấy cây, đánh đu lên. Thế mà mình vẫn đeo nửa bị dó gạo, cố đi cho bằng được. Đi ba, bốn chuyến liền, mỗi chuyến vừa lên vừa xuống đến một giờ. Lúc này mình mới biết được sức của mình. Thì ra mình cũng khỏe chẳng kém gì ai. Thường thường, người ta chưa bao giờ dùng đến tất cả sức lực của mình. Một phần khả năng của người ta vẫn bỏ phí hoài, đến nỗi ta không biết rằng ta có nó. Tôi thấy rằng sau kháng chiến, nếu tôi thích đi cày, đi cuốc hơn cầm bút, tôi có thể đi cày, đi cuốc được. Cực nhọc không đáng sợ.

    Anh bạn hỡi! Hôm đi Phú Thọ, mới phải ngồi thuyền chật, anh đã cằn nhằn suốt cuộc hành trình. Anh thật là thảm hại!

    Thiên ơi! Cha sẽ mạnh dạn ném con vào cuộc đời và cuộc đời sẽ luyện cho con chóng hơn cha luyện.

    Con sẽ không chết. Con sẽ thành cứng rắn.

    Tôi nghĩ đến Liên. Vợ tôi từ trước đến nay chưa bao giờ rời quê hương. Làng tôi, địch chiếm rồi. Liên đã tay bồng tay dắt, bỏ nhà cửa vườn đất, đưa con nhỏ và một bị quần áo ra đi. Tôi đã bỏ liều Liên ở một chỗ đối với Liên hoàn toàn xa lạ, Liên có oán tôi chăng? Riêng tôi, mặc dầu có thương Liên, tôi vẫn đinh ninh rằng Liên sẽ chẳng chết đói đâu. Liên sẽ đổi, như tôi đã đổi. Phải bơi mới biết rằng mình bơi khỏe. Và thật ra, ai cũng bơi được cả.

    2-11-47 – Đêm qua, hơi đau mình mẩy. Nửa đêm trăng sáng. Dậy uống nước rồi thao thức mãi không ngủ được. Gần sáng, lạnh.

    Sáng dậy, cơm nước xong rồi đi chặt tre, chặt cây về điểm lại nhà. Nhà: lán bí mật của đồng chí Chẩn, đứng giữa hai lán nữa. Vừa bằng một cái quán bán báo Tết ở Sài Gòn. Cành cây làm cột, buộc sơ sài. Mái lợp bương tươi, trông đẹp. Sàn hơi thấp, bằng một cái giường to. Cạnh sàn, một khoảng đất trống chạy từ cửa nọ sang cửa kia, dùng làm bếp. Hai người ở vừa thích.

    Lán bên cạnh: ba đứa trẻ con, một anh Mán. Tội nghiệp! Anh ta sốt rét nặng quá rồi. Bụng báng to phình. Mặt phù. Chân tay phù. Da bủng và mốc meo. Mấy hôm sau, biết tên anh, chúng tôi gọi anh là đồng chí Minh. Anh ốm quá, không đi làm được, nên lên lán ở với mấy đứa con. Sang chơi bên lán chúng tôi, anh ta chỉ ngồi lừ thừ nhìn chúng tôi làm việc, mồm ngậm một cái tẩu giống như cái tẩu của Kim, thong thả hút và thở khói. Hiếm họa lắm anh ta mới nói. Tiếng anh rạn vỡ.

    Làm được một cái giá để giầy, ba lô, sách vở, một cái nữa để bát đĩa, thức ăn, vừa lát tre chung quanh cái bếp để chân cho sạch xong thì vừa trưa. Buổi chiều, nghỉ ngơi cho lại sức. Mình định đọc sách. Nhưng viết nhật ký xong thì đã gần hết chiều rồi. Ngày nào cũng ngắn, vì mình muốn làm việc nhiều quá.

    Đồng chí Chẩn mang một cuộn giấy và một cái chải lên để chúng tôi dùng, cho biết Tư bị sốt. Có lẽ vì hôm qua anh chàng làm gắng quá.

    3-11-47 – Tư chỉ mệt xoàng, không sốt. Anh vẫn đi tìm một con đường bí mật đi xuống cơ quan dưới. Cơm chiều xong, tôi đi rửa bát về thì Khang, đang đọc mảnh giấy nhỏ Tư gửi bà mẹ Chẩn lên. Tối nào, bà cũng đèo thằng con mồ côi của Chẩn lên lán ngủ. Cùng với bức thư, bà cụ còn đem cho chúng tôi củi – Tội nghiệp! Củi ở trên này có thiếu gì! – Một mớ rau bí, hai quả bí ngô non, bốn củ sắn và một cái bị của Tư. Trong bị, ngoài mấy đồ dùng lặt vặt để in đá, có một cái chân giò. Thế có bực mình không? Lúc nãy, ăn nửa bát hết vừng, tôi tức mình rang hẳn một bát để ăn cả ngày mai. Khang thái thịt ra, kho với nước lã và muối, để ăn dè. Xương cho vào nồi với một nắm gạo ninh nhừ để sáng mai ăn.

    Ông láng giềng tốt bụng, sợ đêm chó nhà ông ăn mất thịt của hai đồng chí, sang tận nơi dặn cất vào trong cho cẩn thận. Nhưng Khang đã cẩn thận lắm rồi. Liễn thịt để trên cao. Nồi cháo bắc xuống cạnh đống than, đã bịt lá lên trên vung và buộc chặt còn phủ một lượt tre tươi và đè những súc củi nặng trình trịch lên trên. Anh chó chắc phải rất sầu đời! Khang hứa sáng hôm sau sẽ cho một bữa xương xứng đáng. Nhưng sáng hôm sau, nó theo bào cụ về nhà. Đen nó quá!

    Hôm nay, lạnh ngay từ chập tối. Chúng tôi đốt một đống lửa to, nhưng về khuya tắt mất. Cái chăn hơi hẹp, hai thằng nằm co quắp, xương đau mỏi.

    Thức giấc, nghe gió thổi ào ào. Trăng xiên qua kẽ mái, qua bức phên thưa, lọt vào nhà. Tôi dậy thổi lửa, mũi hít phải tro. Sờ bếp, lạnh. Đành lại vào màn nằm đắp chăn, nhưng không sao ngủ được. Nghĩ lăng quăng. Vợ con. Bà cụ nhà Chẩn. Gia đình anh ta. Người Mán…

    Băn khoăn rất nhiều đến thằng con đồng chí Chẩn. Nó gầy như một con nhái bén, mềm như một lá rau úa, suốt ngày vắt trên lưng bà cụ, trong khi bà cụ đun bếp cũng như lúc đi lấy nước, nhặt củi hay vò lúa.

    Mẹ chết sớm. Có lẽ bà nuôi nó từ thủa mới sinh. Mỗi lần bà mớm cơm cho nó, tôi thấy nó khóc, sặc, ho rũ rượi. Không sữa, lại mang trong máu bao nhiêu vi trùng sốt rét rừng, thằng bé quặt quẹo và thiểu não. Nó sống được cũng là sự lạ.

    Bố nó năm nay hăm tám tuổi. Trông anh già hơn thế. Từ hôm có chiến sự ở đây, không ngày nào không có người đến nhà anh tạm trú và nhờ dẫn lối. Anh tốt lắm. Một lần dẫn Tư đến một địa điểm kia, ngờ có Tây ở đó rồi, anh bắt Tư đứng chờ ở ngoài để anh một mình vào thăm dò trước. “Đồng chí vào, tôi không yên lòng!”, anh bảo Tư như vậy.

    Một lần Tư hỏi anh

    Sợ Tây không?

    Không sợ!

    Súng kíp bắn Tây chết không?

    Chết chứ!

    Sao đồng chí không đi đánh Tây?

    Người Thổ không lên rủ.

    Anh đợi người Thổ lên rủ đi đánh Tây, như rủ đi săn chung một con gấu vậy.

    Anh có một em trai, đồng chí Bảo, hăm hai tuổi. Biết nhiều tiếng Kinh hơn tất cả những người khác ở đây. Đọc được chữ quốc ngữ và dạy được cả cho anh đọc. Bảo bị gấu vồ, hôm chúng tôi mới đến, anh đã gần lành. Nhưng vẫn ăn kiêng, ăn cơm nguyên với muối ớt, không dám chạm đũa đến món trứng tráng lẫn đậu nành đồng chí Chẩn chính tay làm để thết chúng tôi. Thường thường, chẳng ăn kiêng thì món ăn cũng chỉ có muối ớt thôi. Cơm gạo rẫy thổi nát, ăn dẻo như cơm nếp, nhưng chóng ngán. Họ quen thổi một bữa, nắm một nửa cất đi để bữa sau ăn. Họ ăn chậm rãi và ăn rất ít. Không dám ăn nhiều hay sức chỉ ăn được thế? Đời sống như vậy, chống lại với vi trùng sốt rét thế nào? Nếu nước mình không độc lập, đời sống của họ không được nâng cao, họ sẽ chết mòn hết mất thôi. Trông những làng Mán xơ xác, lèo tèo, buồn như một cái gì sắp tắt.

    Thế mà người Mán tốt. Nhắc lại chuyện những nhà cách mạng hoạt động ở đây hồi bí mật, người vợ

    Triệu Vân Hương luôn luôn bảo với Tư:

    – Càn cách mạng khổ lai! (Người cách mạng khổ lắm!).

    Chị cảm động nhắc lại lời của một đồng chí bảo chị ngày xưa:

    – Người Mán đừng giết người cách mạng, đừng bắt người cách mạng nộp cho Tây nhé!

    Người Mán không bắt người cách mạng. Người Mán đã cưu mang người cách mạng. Họ nhịn ăn, giấu cơm đem cho người cách mạng ăn. Tây mà bắt được cơm ấy thì họ mất đầu. Nhưng họ vẫn ủng hộ cách mạng như thường. Tôi nhớ lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp một lần nói chuyện với tôi.

    Nếu khởi nghĩa chậm một tháng, cả một làng Mán sẽ chết đói vì nhịn ăn ủng hộ một đội quân giải phóng.

    Cứ xem cách họ săn sóc chúng tôi, đủ biết họ có cảm tình với cách mạng thế nào… Thấy Khang cựa mình, tôi biết anh cũng thức dậy rồi. Tôi nói những ý nghĩ đang nghĩ ngợi với anh. Anh cũng ca tụng những nhà cách mạng say mê đã rọi ánh sáng giác ngộ vào tận rừng sâu, nhóm nổi ngọn lửa đấu tranh trong tâm hồn chất phác của những người gần như chưa có ý thức gì về xã hội. Những người ấy, trước kia xa lánh mọi người. Bây giờ họ cũng nói đến Việt Nam dân chủ cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh

    phúc, cũng biết Pháp dân chủ và Pháp thực dân, cũng treo ảnh cụ Hồ và viết khẩu hiện dán lên phên, cũng đi dự mít tinh và khai hội.

    Một buổi tối chung quanh bếp lửa, chúng tôi với anh em đồng chí Chẩn dạy nhau học lẫn tiếng của nhau. Tôi chỉ vào cái nồi đồng hỏi:

    Cằng Tầy, cẳng ca lăng? (Tiếng Thổ gọi là gì?)

    Mỏ toòng: Cẳng heo? (Nồi đồng, tiếng Kinh gọi là gì?)

    Cẳng keo: Nồi đồng (Tiếng Kinh nói: Nồi đồng)

    Anh dán to mắt nhìn tôi. Nồi đồng? Thế còn anh? Sao người ta lại gọi là hội đồng nhân dân?

    Thật ngây ngô! Nhưng con người “ngây ngô” ấy đã ăn củ cả hàng tháng để nhường gạo cho những người cách mạng. Cả gia đình anh, cả làng anh, mọi người trìu mến, săn sóc, bảo vệ, chia ngọt sẻ bùi với chúng tôi, cũng chỉ vì coi cúng tôi là những người cách mạng.

    Nghĩ như vậy, tôi thấy rất phàn nàn về một bọn người xuôi qua đây, ngủ nhờ một đêm ở làng này. Họ tranh nhau, đòi mua hết thức nọ đến thức kia, người ta không muốn bán cũng cố vật nài. Trả tiền thì rẻ. Lúc ăn người ta ăn, người không có ngồi nhìn. Ăn xong, bày bừa ra nhà, phóng uế bừa bãi ở quanh nhà. Lúc đi, đem cả bát của nhà người ta đi.

    Sau khi họ đi rồi, đồng chí Bảo bảo chúng tôi:

    Nó không đoàn kết. Nó là cái đàn bò! Và anh nói những điều nhận xét của anh:

    Các đồng chí với “bọn khỏi” (bọn tôi) tốt. Các đồng chí ăn, bọn khỏi ăn. Nhưng người kia không tốt. Người nào có ăn. Người không có, không được ăn. Không “đàn kết”.

    Chúng tôi đỏ mặt, bởi vì chúng tôi thấy nhục lây. Nhưng nghĩ kĩ, chẳng qua bọn này vụng xử đấy thôi. Họ không chịu luôn luôn nhớ rằng dân chúng rất chú ý nhìn vào họ để phán đoán về tinh thần của người miền xuôi. Chúng tôi cố giải thích cho Bảo hiểu họ chỉ là số ít. Bảo gật đầu:

    Đâu cũng thế. Có người tốt, có người không tốt. Người Mán cũng có người không tốt. Hồi bí mật, cũng có người Mán bắt người cách mạng nộp cho Tây. Người giác ngộ thì tốt.

    Gần gũi với những người Mán đói rách và dốt nát, thấy họ rất biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành sốt sắng và tận tụy, chúng tôi thấy tin tưởng vô cùng. So sánh họ với mấy thằng “bố vấu” mà Khang gọi là trí thức nửa mùa, Khang rất bất bình đối với hạng này. Chúng nó chẳng yêu một cái gì, chẳng làm gì. Chúng nó chỉ tài chửi đổng.

    4-11-47 – Mở mắt ra, trăng lấp ló qua kẽ mái bên mặt. Lạnh, gió to, nghe ở lán bên cạnh có tiếng thổi lửa phù phù, chúng tôi cũng thức dậy đốt lửa cho đỡ rét.

    – Dên lai! (Rét lắm!)

    Khang kêu lên thế. Mấy người đàn bà ở lán bên cười, nhắc lại

    – Dên lai!

    Nướng mấy củ sắn, ăn xong vừa sáng hẳn. Sau khi rửa ráy, Khang mài đá, mài mực viết. Tôi ghi nhật ký. Gà bay loạn xạ, kêu quang quác ở chung quanh. Có tiếng máy rền: ô tô hay máy bay?

    Có lẽ Tư đi Píc Cáy, hay đi hội nghị tỉnh ở Lùng Trang? Nếu ở nhà, thế nào chẳng lên. Định để ngày nay đọc sách. Nhưng chẳng biết có thì giờ đọc không. Lát nữa phải đi chặt củi, sắp sửa thổi nấu ăn. Rồi gì nữa? Có lẽ cũng nên hạ sơn, lấy thêm gạo hay một thứ gì để luyện chân cho dẻo.

    6-11-47 – Đêm qua, thằng bé bên cạnh khóc, nghe giống Thành khóc quá! Buồn… Nhớ con!

    Sáng nay, trời u ám. Tập thể thao và tắm xong, trời hơi mưa. Đọc nốt một quyển sách nói về Liên Xô.

    Đẹp đẽ biết bao công trình xây dựng của nước Xô viết đầu tiên ấy.

    Hai thằng xuống nhà đồng chí Chẩn lấy gạo. Bà cụ nhìn khắp nhà, chẳng tìm được thức gì cho, đong cho một ống gạo rẫy và đưa cho một củ gừng. Lên lán được một lúc thì mưa to. Rừng có bao nhiêu lá! Lá rừng rên rỉ dưới những giọt mưa tới tấp. Thanh âm rậm và buồn.

    12-11-47 – Tư gửi một con vịt lên, rồi lên định ở với chúng tôi vài ngày. Tôi lấy làm ưng ý vì thấy mình tự nhiên thành một tay đầu bếp khá. Pha thịt gọn. Rán thịt khéo. Thổi cơm nếp đậu xanh không nát. Món bí ngô nấu với đậu xanh và gạo nếp để làm món ăn tráng miệng, anh em cho là tuyệt lắm. Làm bếp thành một cái thú. Tôi là tay bếp trên “cơ quan Một” này. tô giặc chạy rầm rập dưới đường. Súng nổ nhiều. Lắm lúc nghe như ngay ở chân núi chúng tôi. Nhưng Tư bảo: thật ra còn cách những năm quả núi. Chúng tôi cứ ung dung hút thuốc và nói chuyện.

    Bỗng Noọng Liễu, em gái Chẩn và Bảo, lên tìm Tư xuống. Có người muốn gặp. Cơ quan dưới đã gặp sự gì chẳng hay chăng? Chúng tôi rất nóng ruột, vì công việc xếp đặt mãi chưa xong. Tờ báo định ra vẫn chưa ra được. Cơ quan “nhận tin” cũng chưa bắt đầu làm việc được. Hàng tháng nay, chỉ biết ít tin tức quanh vùng, do Tư liên lạc với các cơ quan địa phương, lấy về. Một tiểu đoàn hoạt động ở quãng này. Một đại đội luôn luôn chú ý bảo vệ mấy cơ quan, trong đó có cả cơ quan của chúng tôi. Địch chết lẻ tẻ khá nhiều, nghe chừng chúng chẳng ăn thua gì cả. Ta chặn giữ, chúng không tiến được. Mặt Cao Bằng nhờ mượn đường của Tàu[3] để tiến, chúng lợi thế hơn, nhưng cũng bị mấy vố điếng người rồi.

    chợ Mới, chợ Đồn, chúng nó thiệt nhiều. Đánh Việt Bắc quả là chẳng dễ. Mình hở cơ tí chút, một vài cơ quan bị thiệt hại ít nhiều. Thế thôi!

    Người tìm Tư chỉ là một chú giao thông, nghe súng sợ tái mặt chạy một mạch lên đây. Tư cáu lắm. Không thể nhút nhát, hoảng hốt như thế được. Cơ quan đặt sát địch, cần những người gan dạ, luôn bình tĩnh. Tư tin rằng địch không dám tiến vào chỗ cơ quan dưới.

    Anh lại lên họp mặt với chúng tôi. Cơm chiều xong, đốt lửa. Đốt lửa thật to rồi nằm nhìn, đó là một cái thú mới của chúng tôi. Hôm nào ấm, không đốt lửa được, hơi buồn. Ba thằng nằm, hát bố láo đủ mọi thứ bài, từ cổ chí kim. Nhiều bài chỉ nhớ một vài câu. Lũ trẻ bên cạnh cùng hát với chúng tôi. Chúng thuộc một bài điệu lạ chúng tôi không biết, một bài nữa theo điệu Hướng đạo sinh tạm biệt chúng tôi có thể hòa theo bằng lời riêng của chúng tôi, mấy câu trong bài Hồ Chí Minh muôn năm và trọn bài Tiến quân ca, thành thử gặp nhau nhiều nhất, chỉ ở bài Quốc ca.

    Quên chưa nói rằng: tối hôm nay, hàng xóm đông hơn. Có lẽ vì tiếng súng nổ dữ lúc ban chiều. Thêm ba đứa trẻ nữa. Và bà cụ nhà đồng chí Quân.

    Thằng con đồng chí Quân mặt mũi sáng sủa nhưng bẩn lắm. Những đứa kia cũng bẩn. Riêng con Pú, ở với chúng tôi luôn, đã theo chúng tôi rửa mặt hàng ngày và rửa cả cho thằng Lý, em trai nó, cho nên hai đứa sạch sẽ hơn. Chúng nó cởi truồng. Con gái cũng vậy tuy đội khăn và đeo vòng, nhẫn. Có đứa trần truồng ngồi sưởi, mặc dầu trời rét. Quần áo thiếu.

    Họ cho chúng tôi gạo nếp, bánh chưng, chanh, sắn, bí, rau. Ai có gì cho thức ấy. Họ cho luôn. Chúng tôi có gì ở dưới gửi lên cho, cũng cho lại họ. Thân mật như người nhà. Nhiều khi con Pú nấu đậu nành, cũng đong cho chúng tôi một bát. Cười, lẳng lặng đưa, không nói, bởi vì nó không biết tiếng Thổ. Lần đầu, cầm cho vui lòng nó.

    Hát, đùa với lũ trẻ một lúc, thấy mệt và buồn. Tư nghĩ đến làng, đến những nơi làng quê ngày trước đi gặp gỡ người yêu. Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của Nhà hát lớn, sân khấu, người xem. Tôi, đến vợ con. Những ngày nghèo khổ sống bên nhau. Ngày trở về, gặp nhau… Khao khát được ôm chặt lấy thằng Thiên gầy một cái… Ngoạm cái chân múp míp của thằng Thành đang chúi mặt vào vú mẹ. Vuốt ve mái tóc mềm của con Hồng. Nghĩ đến những lúc ở nhà, mình mắng mỏ con Hồng, thương nó quá… Nghĩ loăng quăng, đôi lúc nhớ đến Sâm. Ôi! Thằng đàn ông!…

    13-11-47 – Tư đổi ý. Anh sốt ruột. Anh không thể ngồi đây nghỉ vài hôm như đã định. Cơm sáng rồi anh đi.

    Khang và tôi bắt đầu in truyền đơn cho cô Vẩu. Chúng tôi gọi đùa chị là cô Vẩu. Hơi vẩu thật, nhưng thùy mị và nhanh nhẹn. Con nhà đặc! Người mảnh khảnh, da trắng xanh, đã sốt rét nhiều, nhưng say mê công tác, có tư cách và hăng hái lắm. Chị thuộc vào lớp cán bộ đầu tiên, xung phong lên Việt Bắc. Đồng bào địa phương rất mến.

    Bóc tờ giấy ở phiến đá lên, Khang có vẻ vừa ý lắm.

    – Rõ và đẹp lắm. Cô Vẩu tha hồ thích nhé!

    Giọng anh âu yếm. Lần đầu tiên tôi thấy anh như vậy. Quen anh rất lâu, tôi chưa nghe thấy anh nói chuyện trai gái bao giờ. Người họa sĩ đã ngoài ba mươi tuổi ấy hình như chưa bao giờ nghĩ đến tình. Anh ghét vẽ đàn bà. Đứng trước một phụ nữ, mặt anh lạnh như tiền. Nói như Tư thì giáp mặt mỹ nhân, mấy cái râu chuột trên mép không hề động đậy. Cảnh hiu quạnh hay cái gì đã xui dại anh buột miệng nói ra câu nói êm ái ấy! Tôi cười nụ.

    Chúng tôi vừa in vừa cắn hạt bí bà cụ Quân cho. Bà cụ sang xem chúng tôi in, nói chuyện. Người phúc hậu, mặt đẹp. Hay chuyện. Âu yếm cháu.

    Buổi chiều, thấy chúng tôi không có rau ăn, chỉ có một ít nấu canh lõng bõng, bà ái ngại. Bà chạy vào rừng, lấy về một cái hoa chuối và một nắm lá gì trông giống lá ngội. Bà gọi là “phiếu phan” – rau phan vậy. Bà bảo chúng tôi đợi bà xào cho một bát. Ăn hơi chát, vì hoa chuối không luộc trước. Cũng cứ khen là ngon đi! Một lần Chẩn mời ăn thịt chuột nướng rồi nấu với muối và nước lã. Tư cũng gắp ăn không nhăn mặt và khen ngon.

    Tối nay, nôn nao và mệt rũ. Làm nhiều? Hút thuốc lá nhiều? Hay say hạt bí?… Đi nằm sớm, chuyện lẻ tẻ. Lửa tắt cũng không buồn dậy thổi. Nhưng một lúc sau, buồn quá, tôi lại dậy thổi lửa, chất thêm củi cho cháy thật to, cuộn thêm một điếu thuốc lá nữa, trầm ngâm hút. Có lửa, vui hơn một chút.

    Con hươu lại kêu. Nó kêu luôn mấy đêm rồi. Tiếng man rợ và thảm thiết. Nghe gần lắm, sao không ai đi bắn nó?

    14-11-47 – Trẻ con người lớn lại xuống hết cả, trừ con Pú, thằng Lý và thằng em chúng nó, địu trên lưng con Pú. Vắng, thức ăn hết. Cơm gạo tẻ trộn lẫn đậu xanh rắc vừng. Tư và Khang vẫn gọi đùa tôi là bác sĩ, vì khi ăn tôi hay tính xem bữa ăn có đủ chất bổ không. Thiếu thịt tôi cố tìm đậu để thay. Chất mỡ ở vừng. Đủ lắm.

    Hôm nay nghỉ in li-tô, đọc sách. Tôi muốn nhân lúc này, học thật nhiều, để có đủ một số vốn tri thức giúp tôi khi cần có thể trông coi một tờ tuần báo chẳng hạn.

    Chiều nay lại nôn nao và mỏi mệt. Viết nhiều? Thuốc lá? Ký ninh vàng? Đói? Hay là thể thao nặng quá?

    15-11-47 – Đêm qua, bà ké Chẩn ho nhiều, rên và lảm nhảm nói mê luôn. Thằng bé con anh Chẩn ho rũ rượi, ho như xé phổi, không còn khóc được.

    Sáng nay, súng liên thanh nổ ran. Chừng hơn chục phát đại bác tiếp theo. Nghe rất gần, súng tắt một lúc, có tiếng động cơ.

    Trời giở mưa. Con Pú mải mốt cầm dao đi chặt lá chuối về che lán. Em vẫn địu ở trên lưng. Con bé mới tám, chín tuổi mà làm đủ việc: kiếm củi, thổi cơm, giữ hai em. Nó là nội trợ. Bố mẹ nó đi ruộng, đi rẫy suốt ngày. Nó phải quán xuyến tất cả các công việc ở nhà. Đứa em bé không lúc nào rời lưng nó, có thể vẫn ngủ lắc lư cái đầu ngoẹo xuống hết bên nọ đến bên kia trong khi con chị làm các việc, kể cả việc chặt những cành cây súc. Thằng em lớn muốn khóc lúc nào thì khóc, rồi khắc lặng. Mới độ ba, bốn tuổi, nó đã và cơm lấy. Tôi thấy nó gắp mấy miếng bí ngô xào, chấm muối ớt, rồi trộn vào bát cơm rẫy, lắm nhựa như cơm nếp. Trên này, ớt như muối vậy, trẻ con cũng ăn mà không xuýt xoa. Ớt nướng, có một cái vị hay hay, chúng tôi thích lắm.

    Mưa. Mưa thì buồn. Nhà có thể dột. Rừng nhiều vắt. Lần mưa trước, tôi đã bị một con vắt chui vào tận háng lúc nào không biết, máu đầm đũng quần và chảy đến tận chiều mới cầm lại được.

    19-11-47 – Nhiều lần chúng tôi bắt gặp lũ trẻ đọc khá đúng những bài đọc trong những quyển sách quốc ngữ của Bình dân học vụ. Tưởng chúng nó học, nhưng chạy sang xem, không có sách. Chúng nó đọc thuộc lòng. Chắc là nghe người lớn học. Ai? Chỉ có Bảo đã học hai mươi ngày ở cơ quan bí mật của cán bộ bên rừng Vang Kheo ngày trước.

    Anh chàng ấy tối hôm qua lên chơi với chúng tôi. Nhân tiện mang cho chúng tôi cái va li xách chúng tôi chưa kịp đem lên. Lân la nói chuyện và Bảo nói nhỏ cho biết rằng cả nhà đồng chí Quân có ma gà. Có ma gà, không tốt. Hay “làm cắn” lắm. Đến nhà ai cũng “làm cắn”, không trẻ con thì trâu, bò, gà, lợn.

    Ma gà là thế đấy! Người trên này, ai chẳng có vi trùng sốt rét trong người? Bệnh có thể đến bất cứ lúc nào. Ốm đột ngột là thường. Họ bảo ma làm.

    Vô phúc cho anh, nếu luôn mấy lần, sau khi anh đến chơi nhà một người nào, tự nhiên một người trong nhà sinh ra ốm hay lợn, gà nhà ấy chết. Họ nhất định bảo nhà anh có ma gà. Tiếng dữ ấy đồn đi. Mọi người sợ anh, ghét anh, coi anh như người hủi. Có ma gà là một cái khổ, cái nhục của ông cha truyền lại. Không ai muốn có. Không ai muốn lấy vợ, lấy chồng có ma gà, như người không có mả hủi lấy những người mả hủi. Người ta cho rằng có ma gà thì phải cúng nó vào mỗi năm nhuận. Ít nhất phải cho nó vật chết một người hay một con gì, nếu không thì nó vật chết người nhà hay gà lợn của nhà.

    Tôi hỏi:

    Đồng chí Quân làm ma gà cắn tôi có được không? Bảo trả lời:

    Muốn làm gì cũng được.

    Ma gà cắn có chết không?

    Trẻ con chết. Người lớn, cúng thì khỏi.

    Thật là dễ hiểu. Trẻ con, sức chống bệnh yếu, dễ chết vì bệnh sốt. Người lớn khỏe và đã quen với bệnh hơn, ốm ốm, khỏi khỏi là thường. Cứ theo Bảo thì trong số những người Mán chúng tôi quen, có đến sáu, bảy người có ma gà. Tôi thấy họ đều rất hiền lành. Chưa ma gà, ma rừng nào cắn chúng tôi. Tôi cười, bảo người bạn Mán.

    – Chúng tôi mới chập tối đã vào màn, mỗi tuần lại uống ba viên ký ninh vàng, ma không làm ốm được.

    Cố nhiên là Bảo không tin. Trách gì anh? Chán người miền xuôi, học khoa học hẳn hoi, nhưng vẫn sợ ma gà đấy!

    20-11-47 – Lớp này rau hiếm lắm. Mỗi lần lên, trông thấy chúng tôi, bà cụ lại cười ngượng nghịu:

    – Nằm mì phiếc (Không có rau).

    Bà có vẻ băn khoăn, bịn rịn vì nỗi không có gì để cho chúng tôi ăn. Chúng tôi cười bảo:

    Cơm với muối cũng ngon, ké ạ! Bà cười:

    – Cơm với muối, ăn khổ lắm. Các đồng chí ở đây, khổ lắm.

    Hôm nay bà đem cho chúng tôi một dúm lớn đậu đen. Không giống hẳn đậu đen ở dưới xuôi. Hạt nhỏ hơn. Tôi hỏi nấu thế nào, bà không đủ tiếng để nói cho tôi hiểu. Khang bảo:

    – Chắc lại như món đậu nành: rang qua, cho một tí mỡ vào, đổ nước rồi bỏ muối thôi chứ gì?

    Mỡ cũng hết rồi. Tôi cho đậu với nước vào, đun dừ rồi bỏ muối. Chỉ có thế mà vẫn nuốt nổi năm, sáu bát cơm. Từ ngày chui vào rừng ở, phát minh ra nhiều món lạ!

    Và cũng phát minh ra nhiều điều lạ nữa. Lạ nhất là chúng tôi thấy rừng núi chẳng có gì lạ cả! Hồi còn dưới xuôi, cứ nghe mấy ông hàng xóm đi bè về nói chuyện rừng rú, hổ báo, gấu, trăn là đủ rợn tóc gáy lên rồi. Mình tưởng lên đến rừng là phải ở nhà sàn thật cao, rào giậu kiên cố ở chung quanh, đi đâu phải đông người và phải mang theo cái thanh la để dọa hùm, đêm đến muốn đi đái cũng không dám mở cửa ra ngoài, đành cứ đứng trong nhà đái! Bây giờ chúng tôi ở những chỗ sâu thẳm trong rừng rậm, chót vót trên đỉnh núi. Nhà ở không bao giờ đóng cửa, vì không có cửa. Nhiều đêm chỉ có hai người. Đi đâu cũng chỉ có hai người, đôi khi lại chỉ một mình tôi. Hay chỉ một cái gậy nhỏ, để chống mà trèo núi chứ không phải để phòng thân. Thế mà vẫn ung dung như ở trong nhà mình, đi trong vườn nhà mình vậy. Mà “nhờ giời thương thánh độ”, cũng chưa một anh nào trong bọn chúng tôi được táng hàm hổ cả!

    Anh chàng Khang ngạo mạn với các ngài chúa sơn lâm, thỉnh thoảng lại hỏi tôi:

    Mẹ kiếp! Chúng nó đi đâu hết nhỉ? Ở rừng hàng nửa năm giời, chẳng trông thấy mặt chú cọp, chú beo nào cả!

    Có đêm con Pú, thằng Lý và cả đến “con tằm lơ lơ” (con chó nhà Pú) cũng xuống nhà để “mo phi” (cúng ma) mà còn trơ lại hai thằng trên lán. Khang cười, bảo:

    Quái lạ! Sao không có hồ ly tinh nào đến trêu chúng mình? Một lần tôi hỏi Bảo:

    Rừng này có hổ không?

    Đã lâu không thấy. Năm ngoái có bắn được một con.

    Sao năm nay không thấy?

    Không biết. Hôm nọ bên Píc Cáy bắn được một con. Nó về tha một con bò, người ta biết.

    Có gấu không?

    Nhiều lắm.

    Sao không thấy?

    Mùa rét nó ở nhà, không đi đường.

    Không ra ngoài, nó lấy gì mà ăn?

    Nó không ăn.

    Không ăn, sao sống được?

    Sống, nhưng nó không có mỡ. Đi ăn được, nó nhiều mỡ lắm. Mấy hôm sau, họ rủ nhau đi giết gấu. Tôi hỏi

    Ở đâu?

    Ở rẫy đồng chí Quân. Nó đến ăn ngô. Bẫy được.

    Chẩn trả lời tôi vậy, rồi anh hỏi:

    Đồng chí có thấy nó không?

    Không

    Nó đi qua lán đồng chí đấy.

    Sao biết?

    Xem vết chân. Nó ở trên núi đi qua đây để xuống rẫy đồng chí Quân. Nó ăn ngô. Ái chà! Nó ăn mất nhiều ngô lắm. Đêm nào cũng ăn.

    Khang cười

    Cũng lạ, người anh em toàn đi ăn mảnh. Qua nhà mà không vào rủ chúng mình cùng đi, làm mấy bắp nướng ăn.

    Chúng tôi bảo nhau: từ rầy coi chừng, đêm lơ mơ ra ngoài mà có khi nát mặt. Nhưng chỉ giữ được mấy hôm, rồi lại cứ ra vào bạt mạng. Và tặc lưỡi.

    – Bao nhiêu Giải phóng quân hồi trước, có thấy nói đến một người nào chết vì hùm, vì gấu đâu?

    23-11-47 – Đang sốt ruột mãi chưa ra được báo thì Tư và Tâm lên. Hai cậu mang theo một con vịt, măng khô, một nắm thư, sách báo mới và tin tức.

    Quý nhất là tin tức. Quân ta thắng lớn ở Sông Lô. Hạ máy bay ở Cao Bằng. Các mặt trận khác cũng lãi rất nhiều. Các anh em đã về đến cơ quan mới đều được vô sự và đã bắt đầu làm việc ngay.

    vùng chúng tôi, địch đã bỏ mấy đồn. Ở những đồn còn giữ, chúng nó chỉ cố thủ, không dám xông xáo nữa. Tiếp tế hoàn toàn bằng máy bay.

    Tình hình như vậy, chúng tôi phân tán lắm, chỉ mất thì giờ. Chúng tôi sắp hạ sơn để tiện việc hơn. Cơ quan dự bị.

    Khang thấy sắp phải rời chỗ tu tiên, ngày nào cũng đem giá vẽ ra, chăm chú vẽ.

    30-11-47 – Nhà in đã có thể bắt đầu làm việc được rồi. Cơ quan nhận tin điện cũng gần xong. Chúng tôi xuống nhà đồng chí Chẩn đã hai hôm, đợi ngày trở về làng. Nay mai, báo ra chúng tôi sẽ bận hơn. Có lẽ khá lâu không có thì giờ đến chơi đây. Chúng tôi muốn xuống ở hẳn với họ mấy hôm để được chuyện trò với họ nhiều hơn.

    Tối hôm nay, ngồi quây quần chung quanh bếp lửa với gần đủ mặt cả làng, chúng tôi hỏi đồng chí Văn, đồng chí Tống[4]. Họ tả lại mấy trận đánh đồn. Họ hát lại những bài hát cách mạng hồi ấy cho chúng tôi nghe.

    Chúng tôi nói với họ về miền xuôi, về Hà Nội, những ngày khởi nghĩa, về Trung Bộ, Nam Bộ, có ý cho họ hiểu nước mình rộng lớn thế nào, nhiều người nhiều của thế nào và họ thuộc vào một khối người dự vào một cái phong trào to lớn đến đâu. Chúng tôi nói với họ cả về thế giới, về phong trào cách mạng đang sôi nổi khắp từ Á sang Âu. Nói một cách thật giản dị, thật cụ thể thôi. Chúng tôi nói đến cụ Hồ nhiều lần cụ đi đêm. Đi đêm, những con đường dốc ngược, gồ ghề, quanh co và rậm rạp thế này? Thì ra chúng tôi mới chỉ là những anh chàng “con nhà” tập tọng sống cái đời gian khổ của những con người tranh đấu. Nỗi thiếu thốn vất vả của chúng tôi hiện nay chỉ như một hạt cát bụi bên cạnh trái núi lớn, nếu so với nỗi gian lao của những nhà cách mạng thời bí mật. Cuộc kháng chiến rồi đây có thể đẩy chúng tôi vào những hoàn cảnh khó khăn hơn hiện nay gấp nghìn lần. Nhưng chúng tôi không nản sợ một chút nào. Chúng tôi tin ở sức chịu đựng của chúng tôi và sự giúp đỡ, che chở của đồng bào. Khi mà ở tận chốn thâm sơn cùng cốc này, vẫn còn những người Mán sống nghèo khổ, lẻ tẻ, tha thiết với cách mạng và độc lập, tự do thì chúng tôi có quyền vững lòng và tin tưởng.

    Câu chuyện mỗi lúc thêm náo nhiệt. Mắt những người Mán ngồi với chúng tôi sáng và nhanh nhẹn hẳn lên. Một cái gì như vừa thức dậy trong những tâm hồn rừng núi âm u. Chuẩn và Bảo hát vang. Họ bảo nhau: khi nào kháng chiến thành công sẽ kiếm tiền may mấy cái áo tốt, về dưới xuôi chơi. Triệu Vân Hương cũng hứng chí lên, nói toang toang. Anh ta hứa sẽ cố bắn một con hươu, lấy da may áo để mặc về Hà Nội.

    Liên cũng tươi tỉnh hẳn lên. Cô thiếu nữ mảnh người như liễu ấy rất hay nhìn trộm Tư. Khi những tiếng cười nói đã ngớt rồi, cô rủ rỉ bảo Tư:

    Kháng chiến thành công, đồng chí Tư giú nảy au mê cần đồng, thu mà (Kháng chiến thành công, đồng chí Tư ở đây rồi lấy vợ người Mán mà làm ruộng).

    Muốn tránh tất cả những sự lôi thôi có thể làm cho chúng tôi đánh mất cảm tình của đồng bào địa phương, từ đấy mỗi lần ở đâu lâu, chúng tôi thường tìm cách khéo, cho mọi người biết tất cả chúng tôi đã có vợ, có con rồi. Nhưng khổ cho chúng tôi, những anh chàng trai trẻ vẫn khát khao chuyện yêu đương nhưng lại phải luôn luôn kiềm chế lòng mình! Các cô con gái Thổ da trắng đỏ, mắt rất xinh và cử chỉ hồn nhiên lại rất hay cười đùa, bảo chúng tôi

    – Không phải đâu! Các anh ấy chưa có vợ! Việt Minh không lấy vợ.

    Có những lúc con người cũ của chúng tôi chồm dậy, con người phóng túng và ích kỷ. Những lúc ấy là những lúc chúng tôi bảo nhau, nửa đùa cợt, nửa chua chát.

    – Giá chúng mình không phải là Việt Minh!

    Những cử chỉ đứng đắn, lễ độ của chúng tôi khiến mọi người chung quanh rất mến phục chúng tôi. Có người, khi nói chuyện với chúng tôi, đã đem cái tư cách gương mẫu của chúng tôi so sánh với những thằng Tây đồn ngày xưa, bắt các làng phải thay phiên nhau nộp cho nó mỗi ngày một cô con gái thật đẹp để hầu hạ nó và quạt cho nó ngủ. Chúng tôi lại càng thấy sự giữ gìn tư cách là cần lắm. Và mỗi khi gặp một người đẹp chỉ đành thở dài vụng thôi.

    2-12-47 – Hôm nay xuống núi, cả làng Mán quyến luyến tiễn đưa. Nhà đồng chí Chẩn cho chanh, đậu nành với trứng gà. Bà ké nhà đồng chí Quân chạy theo, đưa cho một bó rau cải thật to. Đi được một quãng còn thấy thằng con trai đồng chí Minh đuổi theo, gọi ơi ới. Tưởng quên gì. Nhưng không. Nó vừa thở hồng hộc, vừa đưa cho một xâu gừng. Tuy đã “thồ” đủ mọi thứ nặng chết người, vẫn còn phải cầm tất, để cho vừa lòng họ. Mọi người bảo: bao giờ được nghỉ, các đồng chí lên chơi.

    Chiều hôm sau, xuống đến chân núi. Những anh em đã lâu ngày chưa gặp chúng tôi, mới trông thấy chúng tôi, đều phải kêu lên. Họ cho rằng chúng tôi tu tiên đã gần đắc đạo, nghĩa là gần hóa ra gấu cả rồi. Tóc gần lấp cả vai, chờm xuống gáy. Da và quần áo ám khói, vàng khè, râu ria tua tủa. Chúng tôi có cảm giác như chợt đến một chỗ đông đúc, sáng sủa, văn minh lắm. Trông người nào người nấy cũng đẹp, quần áo ai cũng như mới cả. Đi đường ria núi, bờ ruộng đã cho là bằng phẳng lắm.

    Hôm nay đi mượn cái “tông đơ” húi đầu lẫn cho nhau. Nhẹ hẳn người. Ra một cái suối thật to, ngụp cả đầu xuống gội. Khoái lắm, tuy rét tím cả da. Mặc quần áo mới đi về, thấy mình đã hoàn toàn lột xác. Gặp một chuỗi cô gái Thổ đi theo một ông già vào lán bí mật, mình chào:

    Chào ông ké! Chào các đồng chí! Ông ké gật đầu “Ừ!”, các cô líu ríu.
    Chào hai đồng chí!

    Đồng chí đẹp lắm!

    Các cô phá lên cười. Mình đỏ mặt lên, sướng tỉnh người. Tiếc rằng không tìm đâu ra một cái gương để xem mình có đẹp thật không. Nhưng ngay buổi chiều, tôi trở về biết rõ mình hơn. Bởi vì Tư cho rằng có đến quá nửa số anh em trong cơ quan được các cô khen là đẹp. Non nửa kia chưa được cái may mắn gặp một cô nào cả. Vai lệch lại trở về vai lệch!

    2-3-48 – Từ hôm ra báo, bận nhiều việc quên hẳn việc ghi nhật ký. Và cũng chẳng có gì nhiều đáng ghi.

    Mỗi ngày ngồi cặm cụi viết bài. Từ bài “phòng” đến một cái tin vắn đều phải cố viết sao cho thật ngắn, thật dễ hiểu, viết xong đưa cho một chú giao thông Thổ đọc trước, hỏi xem có hiểu cả không. Chỗ nào chú không hiểu, viết lại. Chữ nào chú chưa quen, thay bằng chữ khác.

    Đã từ lâu, tôi mong ước có một tờ báo nhỏ, hợp trình độ của người mới biết đọc, nghĩa là với số đông.

    Trước ngày kháng chiến toàn quốc ít lâu, tôi đã bỏ Hà Nội về một tỉnh nhỏ để làm một cuộc xem sao. Dịp may mắn cho tôi thử thực hành đã đến đây. Tôi làm rất chăm chú, rất ham thích cái công việc mà giá bốn năm trước đây người ta bắt tôi làm, tôi có thể điên người lên được. Hồi ấy, tôi viết văn để cho người ta biết đến cái tên tôi. Tôi ao ước tạo một cái gì đó sẽ sống lại sau tôi. Tôi thèm lời khen của các bạn văn, của những kẻ sành văn, của những nhà phê bình có tiếng. Những người ấy là tất cả. Tôi không hề quan tâm đến sự được những người sơ học đọc. Họ đọc để làm gì? Họ hiểu thế nào được văn chương? Và văn chương có ích gì cho họ, những người cằn cỗi về tình cảm, thấp kém về học thức. Họ muốn giải trí thì đã có đồ mười, lắc đĩa hay rượu và thịt chó. Họ không cần đến sách và đôi khi có đọc sách, cũng chẳng bao giờ thèm nhớ đến tác giả.

    Tôi đã nghĩ đến tôi nhiều quá. Sau cuộc cách mạng tháng Tám, càng ngày tôi càng thấy rằng cái “tôi” của mình thật ra chẳng có nghĩa lý gì. Nó có một chút giá trị nào là khi nó biết hòa hợp nó vào với những người chung quanh. Nhiều khi phải biết quên mình đi. Quên cái tên tuổi của mình nếu muốn thành một người có ích. Có cần gì phải cầy cục tìm cách ghi tên mình lại cho lịch sử? Tạo ra lịch sử là một việc làm lớn lao hơn. Nhưng tạo ra lịch sử lại là sự nghiệp của số đông. Ta nên nghĩ đến số đông nhiều hơn ta. Tôi đã cố gắng rất nhiều và vẫn còn đang cố gắng để có thể thích những công việc nhũn nhặn, thầm lặng, nhưng có ích…

    Tôi biết tôi còn phải cố gắng nhiều hơn nữa. Vẫn còn những lúc thằng nghệ sĩ cũ trong người tôi vùng dậy. Tôi chợt thấy buồn rầu vì luôn mấy năm nay không viết được một tác phẩm nào khiến cho các bạn tôi nhắc nhở! Hết làm Chủ tịch làng thì lại đi tuyên truyền lớn, không mấy đêm tôi không nghĩ đến, luôn mấy năm nay!

    Nhưng cái tác phẩm mơ ước ấy, có phải tận đến bây giờ tôi mới phải gác nó lại đâu? Tôi đã gác nó lại ngay từ ngày nó mới chớm nở trong óc tôi. Phần lớn thì giờ của tôi trước đây đều dùng vào việc viết những truyện ngắn, truyện dài, truyện trẻ con tôi không vừa ý một chút nào, nhưng nó giúp tôi moi được tiền của bọn buôn văn, để đem về nuôi cái thân tôi và nuôi vợ con. Nước mình còn nô lệ thì nước mình còn bị chê khinh và bọn nhà văn còn bị rẻ rung, bạc đãi, coi như một hạng người không có cũng chẳng thiệt thòi gì. Tôi đã làm ngược hẳn ý muốn của tôi, chỉ vì cần duy trì đời sống của tôi. Sao tôi lại không thể dằn cái ý muốn kiêu căng của tôi xuống, để góp sức vào công việc “không nghệ thuật” lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn. Nếu tôi có đủ tài để viết cái tác phẩm lớn của đời tôi, nó sẽ được hàng chục triệu người đọc chứ không phải chỉ vài ba nghìn người như trước nữa.

    Chiều chiều, các anh, các chị Thổ ở các lán chung quanh đến lán chúng tôi nói chuyện hay đọc báo. Tôi càng có dịp hiểu trình độ hiểu biết, lời ăn tiếng nói, cách làm ăn và những băn khoăn, mong muốn của họ hơn. Dựa vào đây, tôi uốn nắn lời văn và tìm ra những đầu đề viết. Nói được một điều thiết thực, đăng được một cái tin làm người ta phải kể lại với nhau, làm được những câu ca dao thật mộc mạc nhưng không đến nỗi thành vè, viết được một bài thật ít lời nhưng vẫn đủ ý và đọc lên đàn bà, trẻ con nghe cũng hiểu, tôi cũng thấy sung sướng như viết được một truyện ngắn chính tôi ưng ý. Đôi lúc, anh em và chính tôi cũng lo rằng lối viết như vậy có thể làm hỏng lối văn tiểu thuyết đã có ít nhiều người thích của tôi. Nhưng số người đọc tờ báo nhỏ của chúng tôi cứ mỗi ngày một tăng lên. Các bạn tuyên truyền, các cán bộ cho biết nó rất hợp với đồng bào ở trên này. Bốn năm nghìn người này ít ra cũng đọc hay nói lại cho bốn, năm nghìn người khác nghe. Làm sao có thể nói rằng hàng vạn độc giả trực tiếp lẫn gián tiếp mới này không đáng cho tôi chú ý bằng bốn, năm nghìn người đọc những tiểu thuyết của tôi ngày trước. Lúc nào tôi cũng rất băn khoăn về ảnh hưởng những tác phẩm cũ của tôi. Bây giờ đây, tôi thấy yên lòng về những bài cỏn con của tôi hơn. Nó chẳng nói được những điều gì sâu sắc lắm đâu. Nhưng nó làm cho người đọc hiểu biết hơn, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của ta hơn, nó đẩy họ cùng hăng hái giúp ích cho cuộc kháng chiến của toàn dân và gợi cho họ những việc họ có thể làm để giúp ích cho kháng chiến. Tôi chỉ mong có thế.

    Ngoài thì giờ viết báo, tôi đọc sách. Chúng tôi tổ chức những lớp học trong nhóm anh em cùng trình độ và mở những lớp huấn luyện cho anh em trình độ kém ở “cơ quan ấn”. Buổi tối, ngồi bên bếp lửa, tôi dùng lối hỏi chuyện, giảng những điều thường thức về địa dư, lịch sử, chính trị… cho chú giao thông Thổ ở với tôi. Và nửa đêm, trong lúc chú giao thông ngủ, tôi lặng lẽ chui ra khỏi chăn, cần lấy ống tre đi chân không lần từng bước xuống một cái dốc khá lớn để đi lấy nước ở một cái vũng nước nhỏ, ban ngày cạn vì nhiều người lấy quá. Từ chủ nhiệm, chủ bút đến giao thông, tiếp tế, chúng tôi ăn ở với nhau thân mật và bình đẳng, hòa thuận hơn anh em ruột. Vì vậy mà ai cũng hết lòng cố gắng. Và mặc dầu khí hậu độc, ăn ở khổ, lương rất ít, xa gia đình, quê hương, chúng tôi đều vui vẻ và lưu luyến cơ quan lắm. Đồng bào ở chung quanh trông vào có lòng yêu. Nhiều người đem con em nhờ chúng tôi dạy học hay xin vào hẳn trong cơ quan, vừa học nghề vừa học chữ. Họ hứa cơ quan đi đâu, họ bằng lòng cho con họ theo đấy.

    Trong khi ấy, Tư giao thiệp mật thiết với chính quyền, với các đoàn thể dân chúng và đồng bào địa phương. Anh nhận làm giảng viên các lớp huấn luyện và làm cán bộ phụ trách việc dân trong vùng ấy. Khang mở một lớp dạy in đá và trình bày báo cáo cho anh em tuyên truyền ở mấy tỉnh chung quanh về học. Cuộc đời cũng khá vui. Và cũng chẳng thay đổi gì nhiều. Thỉnh thoảng anh, chị Mán xuống thăm cho rau cải, nấm hương, hạt bí, sắn, gừng, hay thịt gấu.

    Chúng tôi gọi đùa trên Mán là nhà quê của chúng tôi. Tết đến, Tư bảo tôi phải cố gắng bỏ ra một ngày “Về quê” đi chúc Tết tất cả mọi nhà. Vớ được trong cái va li của một anh bạn gửi, mấy cái kiềng, xuyến mạ vàng, chúng tôi đem theo làm quà cho mấy cô gái chưa chồng và lũ trẻ con. Những bà mẹ trông thấy mừng rú lên. Thịt lợn sống để từ hôm nảo hôm nào ở trong bồ, họ lấy ra xào nấu cho chúng tôi ăn. Cũng phải cố ăn. Anh chàng Tư ăn quá thực thà, đêm hôm ấy nôn mửa và đi tả. Tôi nhờ lẩn khéo chỉ toàn ăn đậu nên không việc gì.

    Mấy ngày nghỉ Tết, tôi dùng để viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ. Truyện “Tiên sư thằng Tào Tháo”.

    Nhưng sau tôi đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn “Đôi mắt”.

    4-3-48 – Lợi nhận được thư nhà. Vùng ấy lập tề rồi. Thế là nửa năm trời, thằng Tây nhích được vừa đúng một làng! Nhưng nếu nó tiến song song cả hai mé sông như trước, thì làng tôi cũng ở trong vùng địch mất rồi. Tôi nghĩ đến bố mẹ, anh em, nhà cửa, ruộng vườn. Tôi nghĩ đến các đồng chí thanh niên. Các anh còn có giữ vững được tổ chức không? Các anh hãy bảo vệ lấy làng yêu quý của chúng ta…

    Hồi Tây, tôi ghét làng tôi. Từ ngày độc lập, tôi thấy yêu làng tôi tha thiết. Khang và Tư đã khổ lắm vì cứ phải nghe tôi kể chuyện làng tôi và chuyện các anh thanh niên làng tôi.

    7-3-48 – Trời mưa. Lớp này mưa nhiều quá. Vắt vào tận trong nhà.

    Tôi xắn cao quần, mặc áo mưa, chống gậy đi sang một làng bên, nói về tình hình thế giới và trong nước cho một lớp huấn luyện, thay Tư có việc vừa mới về xuôi.

    Hơn hai chục học viên vừa trẻ vừa già. Toàn anh em Thổ, Mán. Có người đã ngoài năm mươi, bệ vệ như chánh tổng. Hầu hết, chỉ biết vừa đủ tiếng Kinh. Giảng cách nào đây?

    Tôi rất sung sướng khi thấy đôi mắt rất chú ý của một đồng chí có tuổi đột nhiên lóe sáng vì hiểu được điều tôi nói. Đến giờ nghỉ, đồng chí ấy vui vẻ bảo tôi:

    – Giờ tôi mới được biết đấy. Trước kia không hiểu gì đâu. Không có báo đọc. Đọc không hiểu hết.

    9-3-48 – Vẫn ở lớp huấn luyện. Ngồi bếp, hút thuốc lào, nói chuyện với an hem. Họ đều than phiền thuở bé không được học.

    Nói là không được học, không ai tin. Không học, sao biết chữ, sao được đi làm cán bộ? Nhưng cán bộ có được đi học bao giờ đâu! Ngày bé, coi trâu, lớn lên đi phu, làm để đóng thuế. Con quan, con nhà giàu mới học.

    Một anh sừng sộ bảo tôi như vậy. Các anh phần lớn đều tự học, nhiều anh vừa chăn trâu vừa vạch chữ lên mặt đất, thế mà rồi cũng biết.

    Thế mà nhiều thằng con nhà giàu cho đi học chỉ chơi, ba, bốn năm không biết chữ. Tôi có vẻ không tin. Anh trợn mắt.

    Thật đấy. Nó ngu quá. Không biết chim gái, lấy vợ, vợ bằng tiền đấy.

    Các anh kể lại những chuyện Pháp khủng bố ngày xưa…

    Người đi hoạt động khổ một phần, người ở nhà khổ mười phần. Nhưng đến lúc chúng nó đem gia đình các cán bộ tập trung cả vào một chỗ để giam giữ, thì các cán bộ không cần gì nữa. Không lo cho gia đình nữa, càng hoạt động già. Việt gian lo sốt vó.

    16-3-48 – Cái giọng nghiện trong đài phát thanh của bù nhìn ở Hà Nội sáng nay cho biết: hôm qua, chúng nó đã ký với nhau hiệp ước năm trước. Trong cái mào đầu hiệp ước, có nói đến phẩm cách của con người, tự do của mỗi cá nhân trong xã hội… Mình như đột nhiên bị một cái cật nứa gại vào cân não. Y như hồi nào nghe chính miệng một thằng quản đề lao chuyên môn hành hạ những người bị giam để tống tiền, nói đến chuyện nhà nó ba đời tu nhân tích đức. Muốn chửi to một tiếng.

    Những tin tối hôm qua cho biết Giải phóng quân Trung Hoa vẫn tiến. Khi mà làn sóng dân chúng đã đang lên! Nó cứ tràn đi mạnh mẽ và cuốn đi, và rửa sạch tất cả những nhây nhớp của một xã hội đã thối nát. Vàng của bọn tài phiệt sẽ vô hiệu quả. Hỡi những anh bạn chiến đấu đang tiến mạnh! Chúng tôi đợi ngày giờ nắm tay chào các anh…

    19-3-48 – Vẫn mưa. Đêm qua càng mưa dữ dội hơn. Bị nước lọt qua màn rỏ vào mặt, tôi thức giấc, quay đầu lại phía chân. Cố thu hẹp người lại để tránh nước từ trên mái nhà dột xuống. Rất lâu không ngủ được. Mưa đến từng đợt như đợt sóng, ào ào rồi ngớt, rồi lại ào ào, rồi lại ngớt. Nước không gõ trống trên lá nữa. Nước chảy thành thác trên lá rậm. Tiếng dòng suối dưới gầm sàn như một cái nhọt vỡ mủ, ăn loang đêm tối.

    Ôi chao! Cái giống bọ vô hình ở cái chăn bông rách bò ra, ngứa ran trên mặt, trên cổ. Không sao ngủ được. Cố nhiên là lại nhớ đến Liên, nhớ các con. Những lần mưa trong đời mình. Đời mình như toàn mưa cả, mưa vào những dịp quan trọng. Mưa vào những ngày bước ra đi. Mưa! Mưa! Cái đêm mưa trên thuyền mía. Những đêm mưa nhà dột trong cái lều nhà bà cụ Xoan…

    Nhưng mỗi lúc ngớt mưa, lại nghe tiếng súng nổ ran. Tiếng súng đã nổ ran suốt ngày hôm qua, mặc dầu mưa. Trong cái đêm mưa tầm tã này, súng vẫn nổ như thường. Súng không biết có giời mưa. Lòng súng không ỉu xịu bao giờ. Ôi súng! Ôi những cây súng thép! Ôi những anh Vệ quốc quân. Tôi biết các anh nhiều khi phải nhịn cơm ăn cháo, đứng dưới trời mưa suốt ngày, suốt đêm mà đánh giặc. Lòng các anh cũng như lòng súng thép. Mưa có bao giờ cho làm ỉu xịu một tấm lòng bằng thép tôi già? Tôi xấu hổ cho tâm hồn ủy mị của tôi. Vẫn chưa mạnh hẳn ư? Các anh! Các anh chiến sĩ không tên! Các anh hãy dạy tôi biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu không nghĩ đến cái tên mình, không nghĩ gì cả đến thân mình nữa. Các anh hãy rọi vào lòng tôi ánh sáng rực rỡ trong đôi mắt và cõi lòng của các anh. Lòng tôi vẫn còn u ám lắm. Những đám mây đen xưa cũ vẫn còn lởn vởn. Các anh hãy quét sạch nó hộ tôi. Quét sạch! Để cho tâm hồn quang quẻ và mới hẳn!…

    Súng vẫn nổ giòn. Tôi lắng tai, cố nghe tiếng súng. Tiếng súng máy cười khành khạch. Hôm qua hai lính Pháp ở Phủ Thông ra hàng. Chúng nó chịu làm sao nổi cảnh u ám và những ngày mưa ở miền rừng? Chúng nó chịu làm sao cảnh ăn cháo đánh nhau? Mưa! Mưa! Mày cứ mưa mãi cho tao! Chúng nó sẽ còn ra hàng nhiều nữa!…

    1948

    In trong tập “Đôi mắt”
     
  6. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Đôi Mắt
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Anh thanh niên làng chỉ một cái cổng gạch nhỏ, quay lại bảo tôi:

    Ngõ này đây, ông Hoàng ở đây.

    Cám ơn anh nhé. Lát nữa tôi sẽ sang nhà anh chơi.

    Tôi vỗ vai anh bảo vậy. Tôi toan vào. Anh vội ngăn tôi lại:

    – Khoan đã. Anh để em gọi cho anh trong nhà xích con chó lại. Con chó to và dữ lắm.

    Tôi mở to đôi mắt, khẽ reo lên một tiếng thú vị. Tôi nhớ đến những lần đến chơi nhà anh Hoàng ở Hà Nội. Bấm chuông xong, bao giờ tôi cũng phải chờ anh Hoàng thân hành ra nắm chặt cái vòng da ở cổ một con chó Tây to bằng con bê, dúi đầu nó vào gầm cái cầu thang, rồi mới có đủ can đảm bước vội qua đằng sau cái đuôi nó để vào phòng khách.

    Tôi rất sợ con chó giống Ðức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi một lần đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứng tấn để giữ nó lại buồn rầu báo cho tôi biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với anh, thật tình thấy nhẹ cả người. Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình. Không phải vì chủ nó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò để nó ăn. Anh Hoàng là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen rất tài tình. Khi chúng tôi đến nơi chỉ còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo chẳng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn phong lưu, con chó của anh chưa phải nhịn bữa nào. Nhưng xác người chết đói ngập phố phường. Nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay vì hút phải nhiều xú khí. Thảm hại thay cho nó!

    Thế mà bây giờ đến thăm anh Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về, cách Hà Nội hàng trăm cây số, tôi lại được nghe đến một con chó dữ. Thật là thú vị!…

    Tôi cười nho nhỏ. Chẳng biết tôi cười gì, anh thanh niên cũng nhe răng ra cười. Ðáp lại tiếng anh gọi, tiếng những chiếc guốc mỏng mảnh quét trên sân gạch nổi lên, lẹc khẹc và mau mắn. Một thằng bé mũ nồi đen, áo len xám, chạy ra. Một đôi mắt đen lay láy nhìn tôi…

    – Bác Ðộ, ba ơi! Bác Ðộ!…

    Thằng Ngữ, con anh Hoàng. Nó chẳng kịp chào tôi, ngoắt chạy trở vào, reo rối rít.

    – Cái gì? Cái gì? Hừm!

    Tiếng trầm trầm nhưng lại có vẻ nạt nộ của anh Hoàng hỏi nó. (Bao giờ nói với con, anh Hoàng cũng có cái giọng dậm doạ buồn cười ấy). Thằng bé líu ríu những gì tôi nghe không rõ. Rồi thấy tiếng thanh thanh của chị Hoàng giục con:

    – Ngữ xích con chó lại. Xích con chó lại cái cột tít đằng kia.

    Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả, bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá. Cái dáng điệu nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội anh mặc quần áo tây cả bộ, trông chỉ thấy là chững chạc và hơi bệ vệ. Bây giờ nó lộ ra khá rõ ràng trong bộ áo ngủ màu xanh nhạt, phủ một cái áo len trắng nó nịt người anh đến nỗi không còn thở được.

    Anh đứng lại bên trong cổng, một bàn tay múp míp hơi chìa về phía tôi, đầu hơi ngửa về đằng sau, miệng hé mở, bộ điệu một người ngạc nhiên hay mừng rỡ quá. Tôi có thì giờ nhận rõ một sự thay đổi trên bộ mặt đầy đặn của anh: trên mép một cái vành móng ngựa ria, như một cái bàn chải nhỏ.

    Sửng người ra một lúc, rồi anh mới lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng

    Ối giời ơi! Anh! Quý hoá quá! Anh quay lại:

    Mình ơi! Anh Ðộ thật. Xa thế mà anh ấy cũng chịu khó đến thăm chúng mình.

    Chị Hoàng lúc bấy giờ đã chạy ra, tay còn đang cài nốt khuy chiếc áo dài màu gạch vừa mới mặc vội vào để ra đón khách. Người đàn bà vồn vã:

    Mong bác mãi. Lúc thằng cháu mới chạy vào, nhà tôi cứ tưởng nó trông nhầm. Cứ tưởng bác ở cách hàng mười lăm hai mươi cây số…

    Bắt tay tôi xong, anh Hoàng dịu dàng đẩy tôi đi trước. Chị vợ đã nhanh nhẹn chạy trước vào nhà, dọn bàn dọn ghế. Sao lại có sự săn đón cảm động như thế được? Tôi đâm ngờ những ý nghĩ không tốt của tôi về anh, từ hồi Tổng khởi nghĩa trở đi.

    Sau Tổng khởi nghĩa, anh Hoàng đối với tôi đột nhiên nhạt hẳn đi. Mấy lần tôi đến chơi với anh, định để xem anh thay đổi thế nào trong cuộc thay đổi lớn của dân tộc chúng ta, nhưng đều không gặp anh. Cửa nhà anh đóng luôn luôn. Thằng nhỏ nhà anh đứng bên trong cái cửa nhìn qua một lỗ con, bao giờ cũng hỏi cặn kẽ tên tôi, để một lúc sau ra bảo tôi rằng ông nó không có nhà. Mấy lần đều như vậy cả nên tôi đã sinh nghi. Lần cuối cùng, trước khi bấm chuông, tôi còn nghe thấy tiếng vợ chồng anh. Nhưng thằng nhỏ vẫn quả quyết rằng ông bà nó về trại những từ tối hôm trước kia rồi. Ðã đích xác là anh không muốn tiếp tôi. Chẳng hiểu vì sao. Nhưng từ đấy tôi không đến nữa. Mỗi lần gặp nhau ở ngoài đường, chúng tôi chỉ bắt tay nhau một cách rất lạnh lùng, hỏi thăm nhau một câu chiếu lệ, rồi ai đi đường nấy. Tôi đã biết Hoàng vẫn có tính tự nhiên “đá” bạn một cách đột ngột, vì những cớ mà chỉ mình anh biết. Có khi chỉ là vì một tác phẩm của người bạn ấy được cảm tình của một nhà phê bình đã chê một vài tác phẩm của anh. Có khi cũng chẳng cần đến thế. Anh có thể là một người bạn rất thân của anh Hoàng khi anh chỉ là một nhà văn ở tỉnh xa chỉ góp mặt với Hà Nội bằng những bài gửi về đăng báo, nhưng nếu anh lại về sống hẳn ở thủ đô, giao thiệp với ít nhiều nhà văn khác, anh sẽ không phải là bạn anh Hoàng nữa. Có lẽ anh Hoàng biết cái giới văn nghệ sĩ Hà Nội chửi anh nhiều quá.

    Riêng tôi, trước đây, tôi vẫn không hiểu sao người ta có thể khinh ghét anh nhiều thế. Tận đến lúc bị anh đá tôi mới hiểu. Tôi còn được hiểu rõ ràng hơn. Vào cái hồi quân đội Ðồng minh vào giải giáp quân Nhật ở nước ta, một số gái kiếm tiền trút bộ đầm ra để mặc bộ áo Tàu. Còn anh bạn của tôi, chẳng biết bám được ông má chín nào, ra một tờ báo hằng ngày để chửi vung lên. Chửi hết cả mọi người rồi anh mới lôi đến một số bạn cũ của anh ra. Toàn là những người hiền lành, xưa nay chưa hề chạm đến một sợi tóc của anh. Nhưng tên họ trên những tờ báo của phong trào giải phóng quốc gia được hoan nghênh làm ngứa mắt anh. Anh hằn học gọi mỉa họ là những nhà văn vô sản và cho họ là một bọn khố rách áo ôm đã đến ngày mả phát, ăn mặc và tẩm bổ hết cả phần thiên hạ. Tôi cười nhạt. Không phải tôi khó chịu vì những lời vu cáo của anh. Tôi khó chịu chính vì thấy đến tận lúc ấy mà vẫn còn một số nhà văn Việt Nam dùng ngòi bút mình để làm những việc đê tiện thế. Anh Hoàng vẫn là con người cũ. Anh không chịu đổi. Tôi đã tưởng anh với tôi chẳng bao giờ còn thân mật với nhau trở lại…

    Nhưng sao gặp tôi lần này anh lại hân hoan đến thế? Anh đã đủ thì giờ để lột xác rồi chăng? Hay cuộc kháng chiến mãnh liệt của dân tộc đã quét sạch khỏi đầu anh những cái gì cũ còn sót lại? Thật tình, tôi rất cảm động khi nghe thấy anh kể lể:

    Chẳng ngày nào chúng tôi không nhắc đến anh. Nguyên một hôm xem tờ báo của ông hàng xóm thấy có bài của anh, tôi đoán anh làm tuyên truyền ở tỉnh này. Tiện gặp một cán bộ về làng, tôi nhờ gửi cho anh một bức thư. Cũng là gửi cầu may. Thật không dám chắc thư đến tay anh. Mà có đến, có lẽ anh nhiều việc, cũng khó lòng về chơi với chúng tôi. Thế mà lại được gặp anh. Trông anh không lấy gì làm khoẻ mà sao anh đi bộ tài thế? Mà sao anh lại tìm vào được đúng làng này? Hồi mới đến đây, tôi ra khỏi nhà độ mươi bước là đã lạc. Nhiều ngõ quá mà ngõ nào cũng giống ngõ nào. Có khi ra đồng về cũng nhầm ngõ…

    Cái nhà Hoàng ở nhờ có thể gọi là rộng rãi. Ba gian nhà gạch sạch sẽ. Hàng hiên rộng ở ngoài. Sân gạch, tường hoa. Một mảnh vườn trồng rau tươi rười rượi. Xinh xắn lắm.

    Thích nhất là gia đình anh được ở cả nhà. Chủ nhân cũng là người buôn bán trên Hà Nội. Ông thường nhờ vốn liếng và mối hàng của vợ chồng anh. Còn gì hơn là lúc này trả nghĩa lại nhau. Ông đã dọn sang nhà ông bố ở liền bên, nhường lại nhà cho anh hoàn toàn sử dụng. Anh cho tôi biết thế và bảo tiếp:

    Giá chúng tôi chưa tìm được nhà ông thì chưa biết ra sao. Tôi thấy nhiều người tản cư khổ lắm. Anh tính có đời nào anh ruột tản cư về nhà em mà đến lúc vợ đẻ, em bắt ra một cái lều ngoài vườn mà đẻ!

    Tôi cho anh biết người nhà quê mình có tục kiêng…

    Thì đã đành là vậy – Anh nói giọng tức tối và bất bình – Thì đã đành là vậy, nhưng lúc này còn kiêng kị gì? Mà có những thế thôi đâu! Thấy anh bây giờ khổ sở, em đã chẳng thương, lại còn xỉa xói, nhắc đến những lúc hoang phí trước mà xỉ vả. Nào “lúc có tiền thì chẳng biết ăn biết nhịn để dè, chỉ biết nay gà mai chó!”. Nào “lúc buôn bán phát tài, bảo gửi tiền về quê tậu ruộng vườn thì bảo không cần vườn ruộng, để tậu nhà ở tỉnh kia, bây giờ không bám lấy nhà ở tỉnh đi?…”. Tệ lắm! Anh tính mấy đời mới có một phen loạn lạc thế này? Có tiền, thằng nào chẳng ăn chơi? Có mấy người cứ còm cọm làm như trâu, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, ở thì chui rúc thế nào cho xong thôi, để tiền mà tậu vườn, tậu ruộng như họ?

    Chị Hoàng tiếp lời chồng:

    Họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một trăm người thì chín mươi người cho rằng Tây không đời nào dám đánh mình. Mãi đến lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để doạ nó thôi. Thế rồi đùng một cái, đánh nhau. Chúng tôi chạy được người chứ của thì chạy làm sao kịp?

    May mà còn vớt vát được ít tiền, một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi, ở ngoại thành. Khéo lắm thì ăn được độ một năm. Ðến lúc hết tất nhiên là phải khổ rồi. Chỉ sợ đến lúc ấy, họ lại mỉa lại. Thành thử bây giờ, lý ra thì có muốn ăn một con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này người ta nói cho thì nhục. Họ tàn nhẫn lắm cơ, bác ạ!

    Anh Hoàng cười:

    Mà sao họ đã bận rộn nhiều đến thế mà vẫn còn thì giờ chú ý đến những người chung quanh nhiều đến thế? Anh chỉ giết một con gà ngày mai cả làng này đã biết. Anh chỉ giết một con gà, ngày mai cả làng này sẽ biết. Này, anh mới đến chơi thế mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp nom rồi. Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh béo gầy thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái.

    Tôi mỉm cười, cắt nghĩa cho anh hiểu: lúc này họ cần để ý đến những người lạ mặt tới làng. Tôi chắc mấy người nấp nom tôi là mấy người có trách nhiệm trong uỷ ban hay mấy anh tự vệ.

    Lại còn các ông ủy ban với các bố tự vệ nữa mới chết người ta chứ! Họ vừa ngố vừa nhặng xị. Ðàn bà chửa mà đến nỗi cho là có lựu đạn giắt trong quần! Họ đánh vần xong một cái giấy ít nhất phải mất mười lăm phút, thế mà động thấy ai đi qua là hỏi giấy. Anh đi, hỏi. Anh về, hỏi nữa. Anh vừa ra khỏi làng, sực nhớ quên cái mũ, trở lại lấy, cũng hỏi rồi mới cho vào. Lát nữa anh ra, lại hỏi. Hình như họ cho cái việc hỏi giấy là thú lắm.

    Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm cả người tôi, hỏi:

    Anh sống ở nhà quê nhiều, anh có hiểu tâm lý của họ không? Anh thử cắt nghĩa hộ tôi tại làm sao họ lại nhiêu khê đến thế? Từ trước đến nay, tôi chỉ toàn ở Hà Nội, thành thử chỉ mới biết những người nhà quê qua những truyện ngắn của anh. Bây giờ gần họ, tôi quả là thấy không chịu được. Không chịu được!

    Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối. Vợ chồng anh thi nhau kể tội người nhà quê đủ thứ. Toàn là những người đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện cả. Cha con, anh em ruột cũng chẳng tốt với nhau. Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng lố lăng. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả tân dân chủ nữa mới khổ thiên hạ chứ! Họ mà tóm được ai thì có mà chạy lên trời! Thế nào họ cũng tuyên truyền cho hàng giờ. Có lẽ họ cho những người ở Hà Nội về như vợ chồng anh đều lạc hậu, chưa giác ngộ nên họ không bỏ lỡ một dịp nào để tuyên truyền vợ chồng anh. Mà tuyên truyền như thế nào!…

    Anh trợn mắt bảo tôi:

    Tôi kể cho anh nghe chuyện này thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa một tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Ðành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi. Chờ mãi mới thấy một ông thanh niên nghễu nghện vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: “Ði chợ huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi!”. Anh ta trố mắt nhìn tôi chẳng nói chẳng rằng, như nhìn một giống người lạ mới từ Hoả tinh rơi xuống. Tôi biết hiệu, rút giấy đưa cho anh xem rồi lại hỏi. Bấy giờ anh ta mới bảo: “Ông cứ đi lối này, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cách đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng qua đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa là đến chợ”. Ðại khái thế, chứ không hoàn toàn đúng thế. Chỉ biết là nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái quá, đến nỗi tôi không tài nhận được. Anh ta bày cho tôi một cách: đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì theo. Tôi cho là phải. Anh ta cười bảo: “Thôi thế chào ông. Cháu vô phép ông đi trước. Cháu vội lắm. Cháu phải vác ngay bó tre này lên Thượng để làm công tác phá hoại, cản cơ giới hoá tối tân của địch. Cuộc trường kỳ kháng chiến của ta phải chia làm ba giai đoạn: giai đoạn phòng ngự, giai đoạn cầm cự, giai đoạn tổng phản công. Giai đoạn phòng ngự nghĩa là…”. Anh ta cứ thế, đọc thuộc lòng cho tôi nghe cả một bài dài đến năm trang giấy.

    Chị Hoàng cười rú lên. Tôi cũng cười, nhưng có lẽ cái cười chẳng được tươi cho lắm. Anh thấy cần phải thề lần nữa:

    Tôi có bịa thì tôi chết. Mà tôi lại thề với anh rằng lúc ấy tôi ngạc nhiên quá, không còn cười được, vả lại cũng không dám cười. Cười, nhỡ anh ta đánh cho thì tai hại. Nhưng từ hôm ấy ngày nào tôi cũng bắt nhà tôi đóng cổng suốt ngày không dám đi đâu nữa.

    Tôi cười gượng. Ðiều muốn nói với anh, tôi đành giấu kín trong lòng không nói nữa. Tôi biết chẳng đời nào anh nhận làm một anh tuyên truyền nhãi nhép như tôi. Vả lại dầu có rủ được anh làm như tôi, khoác cái ba lô lên vai, đi hết làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một cách kỹ càng hơn cũng chẳng ích gì. Anh đã quen nhìn đời và nhìn người một phía thôi. Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó mà không nhìn thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản…

    Tôi biết lắm. Trước mặt người đàn anh trong văn giới ấy, tôi chỉ là một kẻ non dại, mới tập tọng học nghề. Bởi vậy tôi không dám nói hết những ý nghĩ của tôi ra. Tôi chỉ rụt rè và đưa ra vài điểm nhận xét:

    Có nhiều cái kỳ lạ lắm. Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn là một cái bí mật đối với chúng ta. Tôi gần gũi họ rất nhiều. Tôi dã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Nghe các ông nói đến “sức mạnh quần chúng”, tôi rất nghi ngờ. Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà nông dân nước mình thì vạn kiếp nữa cũng chưa làm cách mạng. Cái thời Lê Lợi, Quang Trung, có lẽ đã chết hẳn rồi, chẳng bao giờ còn trở lại. Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngả ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng, mà làm cách mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh, mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm. Mà không hề bận tâm đến vợ con, nhà cửa, như họ vẫn thường thế nữa. Gặp họ, anh không thể tưởng tượng được rằng chính những người ấy, chỉ trước đây dăm tháng, giá có bị anh lính lệ ghẹo vợ ngay trước mặt cũng chỉ đành im thin thít mà đi, đi một quãng thật xa rồi mới dám lẩm bẩm chửi thầm vài tiếng, còn bao nhiêu ghen tức đành là đem về nhà trút vào má vợ.

    Hoàng nhếch một khoé môi lên, gay gắt.

    Nhưng anh vẫn không thể chối được rằng họ có nhiều cái ngố không chịu được. Tôi thấy có nhiều ông tự vệ hay cả Vệ quốc quân nữa táy máy nghịch súng hay lựu đạn làm chết người như bỡn. Nhiều ông cầm đến một khẩu súng kiểu lạ, không biết bắn thế nào. Như vậy thì hăng hái cũng vất đi. Nhưng mà thôi! Nước mình như vậy, suốt đời không được mó đến khẩu súng thì làm gì biết bắn, họ đánh mãi rồi cũng biết. Thì cứ để cho họ đánh Tây đi! Nhưng tai hại là người ta lại cứ muốn cho họ làm uỷ ban nọ, uỷ ban kia nữa, thế mới chết người ta chứ! Nói thí dụ ngay như cái thằng Chủ tịch uỷ ban khu phố tôi ở Hà Nội lúc chưa đánh nhau. Nó là một anh hàng cháo lòng. Bán cháo lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm uỷ ban thế nào mà bắt nó làm uỷ ban? Ông Chủ tịch làng này, xem giấy của nhà tôi, thấy đề Nguyễn Thục Hiền, cứ nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy, thì đàn bà ai cũng phải là thị này, thị nọ.

    Chị Hoàng cười nhiều quá, phát ho, chảy cả nước mắt ra. Rút khăn tay lau nước mắt xong, chị chép miệng lắc đầu, bảo tôi:

    Giá bác ở đây thì nhiều lúc bác cũng cười đến chết. Thế mà ông Chủ tịch ấy cứ nằn nì mãi hai ba lượt, yêu cầu nhà tôi dạy bình dân học vụ hay làm tuyên truyền giúp. Anh chồng tiếp:

    Tôi chẳng có việc gì làm, lắm lúc cũng buồn. Nhưng công tác với những người như vậy thì anh bảo công tác làm sao được? Ðành để các ông ấy gọi là phản động.

    Muống lảng chuyện, tôi hỏi:

    Lúc này nhiều thì giờ thế, chắc anh viết được. Anh đã viết được cái gì thú chưa?

    Chưa, bởi vì ngay đến một cái bàn viết ra hồn cũng không còn nữa. Nhưng thế nào chúng mình cũng phải viết một cái gì để ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Phụng nó còn sống đến lúc này phải biết!

    Cơm chiều xong vào lúc bốn giờ, Hoàng mời tôi cùng đi với vợ chồng anh đến chơi nhà mấy người ở phố cũng tản cư về. Có đâu một ông tuần phủ về hưu, một ông đốc học bị thải hồi vì một vụ hiếp học trò, một cụ phán già trước đây chuyên môn sống về nghề lo kiện, hay chạy cứu phẩm cho thiên hạ. Anh chẳng ưa gì họ bởi vì họ chẳng biết gì đến văn chương nghệ thuật, chỉ tổ tôm là giỏi. Nói chuyện với họ chán phè. Nhưng nếu chẳng giao thiệp với họ thì cũng chẳng biết đến chơi nhà ai được nữa… Anh vừa đi vừa tâm sự nhỏ với tôi như vậy, và thì thầm kể sát tai tôi những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của từng người một, trong khi chúng tôi bước chầm chậm để đợi chị Hoàng ra sau chúng tôi một chút.

    Chị Hoàng rảo bước để theo kịp chúng tôi. Hai má đỏ ứng vì lửa bếp. Chị cắt nghĩa sự chậm trễ của chị:

    Tôi xem lại nồi khoai lang vùi, để lát nữa về ăn. Ở đây cao lương mỹ vị chẳng có gì, nhưng được cái thức ăn vặt thì sẵn. Bác ở chơi đây, mai tôi xem nhà ai có mía to mua mấy cây về ướp hoa bưởi ăn thơm lắm.

    Ðến một cái cổng gạch lớn có dây leo, anh Hoàng giật dây chuông. Một thằng bé chạy ra, lễ phép chào:

    Lạy ông!

    Không dám. Cụ Phạm có nhà không cậu?

    Bẩm ông, cụ sang bên ông đốc.

    Sao thấy nói ông đốc ở đây chơi từ sáng?

    Bẩm không ạ! Sáng nay không thấy ông đốc sang chơi bên này.

    Chúng tôi quay trở lại. Qua mấy cái ngõ ngoằn ngoèo khác, đến một cái cổng gạch có dây leo khác.

    Một chị vú ẵm em đứng cổng:

    Lạy ông! Lạy bà!

    Không dám. Ông đốc có nhà hay đi chơi vắng?

    Bẩm ông, ông đốc con sang cụ tuần.

    Sao bên cụ tuần bảo sang đây?

    Bẩm ông, không ạ!

    Anh Hoàng quay ra. Ði được mấy bước, anh quay lại khẽ bảo vợ.

    Các bố lại tổ tôm. Mụ Yên Ký cũng không có nhà, phải không? Con mụ ấy cũng là đệ tử tổ tôm hạng nặng. Chắc họ tụ tập ở đây hay ở bên nhà cụ Phạm, sai người nhà gác cổng.

    Chị Hoàng không có ý kiến gì. Anh Hoàng vỗ vai bảo tôi:

    – Anh nghĩ có buồn không? Trí thức thì thế đấy. Còn dân thì… như anh đã biết.

    Tôi thầm rủa sự tình cờ sao lại xô đẩy anh về đây cùng với bằng ấy thứ cặn bã của giới thượng lưu trí thức. Sao anh không đi theo bộ đội, đi diễn kịch tuyên truyền nhập bọn với các đoàn văn hoá kháng chiến để được thấy những sinh viên, công chức xung vào Vệ quốc quân, những bác sĩ sốt sắng làm việc trong các viện khảo cứu hay các viện quân y, những bạn văn nghệ sĩ của anh đang mê mải đi sâu vào quần chúng để học họ và dạy họ học, đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ?

    Tôi cười nhạt:

    Nghe anh nói, tôi nản quá. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến hỏng à? Anh chộp lấy câu của tôi, nhanh như một con mèo vồ con chuột:

    Ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kỹ thì rất nản. Nhưng tôi chưa nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào ông Cụ. Tôi

    cho rằng cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho ông Cụ lắm. Anh tính tượng trưng cho phong trào giải phóng cả một cái đệ tứ cường quốc là Ðại Pháp, mà chỉ có đến thằng Ðờ-Gôn.

    Tôi nhắc đến tên mấy nhân vật kháng chiến cũ khác của Pháp, còn đáng tiêu biểu bằng mấy Ðờ-Gôn.

    Anh lắc đầu:

    Bằng thế nào được Hồ Chí Minh! Và anh tiếp:

    Ông Cụ làm những việc nó cừ quá, đến nỗi tôi cứ cho rằng dù dân mình có tồi đi nữa, ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường. Những cú như cú Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 thì đến chính thằng Mỹ cũng phải lắc đầu: nó cho rằng không thể nào bịp ông già nổi. Thằng Pháp thì nghĩa là gì? Bệt lắm rồi. Không có thằng Mỹ xúi thì làm gì Pháp dám trở mặt phản Hiệp định mồng 6 tháng 3? Mình cho nó như vậy đã là phúc đời nhà nó lắm rồi. Ðáng lẽ nó phải bám chằng chằng lấy chứ?

    Buổi tối ăn khoai vùi xong, uống mấy tuần trà rồi đi nằm sớm. Anh sợ tôi đã đi hàng mười cây số, lại ngồi nói chuyện suốt từ lúc đến, chắc không thể ngồi được nữa. Vả lại tuy chưa buồn ngủ nhưng nằm đắp chăn cho ấm và buông màn cho khỏi muỗi thì vẫn tốt.

    Hai cái giường nhỏ kê song song, cách nhau có một lối đi nhỏ. Màn tuyn trắng toát. Chỉ trông cũng đã thấy thơm tho và thoải mái.

    Hoàng với tôi đi nằm trước. Một gói thuốc lá thơm và một bao diêm đặt ở bên cạnh cái đĩa gạt tàn thuốc lá ở đầu giường. Tôi để nguyên cả quần áo Tây và chỉ ngay ngáy lo đêm nay một vài chú rận có thể rời sơ-mi tôi để du lịch ra cái chăn bông thoang thoảng nước hoa. Mọi hôm tôi vẫn đắp chăn chung với anh em thợ nhà in, cái giống ký sinh trùng hay phản chủ ấy, ở người tôi, không dám cam đoan là tuyệt nhiên không có.

    Chị Hoàng thu dọn đồ đạc, đóng cửa, rồi đem một cây đèn to lại chỗ cây giường chúng tôi, lấy ra một cái chai. Anh Hoàng trông thấy, hỏi:

    Mình thắp đèn to đấy à?

    Vâng, tôi đổ thêm dầu đã. Anh Hoàng hỏi tôi:

    Anh có thích đọc Tam Quốc không?

    Tôi thú thật là chưa bao giờ được xem trọn bộ.

    Thế thì thật là đáng tiếc. Trong tất cả các tiểu thuyết Ðông Tây, có hai quyển tôi mê nhất là Tam Quốc và Ðông Chu Liệt Quốc. Về cái môn tiểu thuyết thì thằng Tàu nhất. Nhưng cũng chỉ có hai bộ ấy thôi. Thuỷ Hử cũng hay, chẳng kém Tam Quốc và Ðông Chu Liệt Quốc. Những tiểu thuyết khác hay đến đâu, anh cũng chỉ đọc một lần. Ðọc đến lần thứ hai là giảm thú rồi. Nhưng Tam Quốc với Ðông Chu thì đọc đi đọc lại mãi vẫn thấy thú như mới đọc.

    Anh có hai bộ ấy ở đây không?

    Bộ Ðông Chu mất ở Hà Nội, không đem đi được. Thế mới sầu đời chứ! Hận quá, may mà bộ Tam Quốc lại để ở ngoại thành, đem đi được. Nếu không thì buồn đến chết.

    Anh gạt tàn thuốc lá rồi bảo tiếp:

    Sở dĩ lúc nãy tôi hỏi anh là có thích đọc Tam Quốc không là vì mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng tôi có cái thú đọc một vài hồi Tam Quốc rồi mới ngủ. Nhưng hôm nay có anh không biết có nên bỏ cái lệ ấy đi không? Nếu anh thích nói chuyện thì nghỉ một tối để chúng mình nói chuyện cũng chẳng sao.

    Cố nhiên là tôi mời vợ chồng anh cứ giữ lệ thường. Anh có vẻ mừng rỡ lắm.

    Vâng, nếu anh cho phép thì ta cứ đọc. Chúng mình cùng nghe rồi lúc nào buồn ngủ thì ta ngủ. Tôi trông anh hơi mệt có lẽ cần ngủ sớm. Không biết đèn sáng lại đọc thế có phiền anh không?

    Tôi cho anh biết là tôi vẫn ngủ ngay trong nhà in, đèn sáng và máy chạy ầm ầm, ở đây chăn ấm thế này thì dẫu súng có nổ ngay ở liền bên tôi vẫn ngủ ngon lành lắm… Anh cười cùng cục trong cổ như một con gà trống.

    – Vâng, thế thì ta cứ đọc. Mình lấy ra đi.

    Chị Hoàng chạy lại buýt-phê lấy một quyển sách bìa dày, gáy da, đem lại.

    Mình đọc hay tôi đọc?

    Mình đọc đi.

    Chị để cây đèn lên trên cái đôn thấp ở đầu giường, cởi áo dài lên giường nằm cạnh thằng con đã chui vào chăn trước.

    Hôm qua đọc đến đâu rồi nhỉ. Hình như…

    Không cần, mình đọc lại cái đoạn thằng Tào Tháo nó tán Quan Công ấy. Thế nào? Theo ý anh thì Tào Tháo có giỏi không?

    Tôi trả lời qua loa cho xong chuyện:

    Tôi thấy nói là nó giỏi.

    Giỏi lắm anh ạ! Giỏi nhất Tam Quốc. Sao nó tài đến thế. Chị Hoàng đã tìm thấy, bắt đầu cất tiếng thanh thanh đọc. Anh Hoàng vừa hút thuốc lá vừa nghe. Mỗi khi đọc đến đoạn hay anh lại vỗ đùi kêu:

    Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào Tháo…

    1948

    (In trong tập Đôi mắt)
     
  7. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Những Bàn Tay Đẹp Ấy
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ba thằng nói láo, bảo rằng “Phún có xấu và ế chồng, chiến đấu mới hăng!”. Tôi đã được gặp nữ du kích ấy rồi. Những thằng nói thế là những thằng nói láo. Các chị không xấu, cũng không ế muộn.

    Chị tổ trưởng ngồi tiếp chuyện tôi, mới độ mười chín đôi mươi. Chị đẹp như một cô gái Bắc Ninh. Khăn vuông mỏ quạ, yếm trắng bong, áo nâu dài, hai vạt trước lỏng lẻo bắt chéo nhau bên ngoài hai dải thắt lưng xanh, quần nái đen buông đến mắt cá chân. Đấy là lúc nghỉ ngơi, không phải lúc đánh giặc các chị vẫn duyên dáng lắm. Và cũng thùy mị nữa, khuôn mặt trái xoan rất dịu dàng. Da nhỏ, mơn mởn trắng hồng. Mắt bồ câu. Miệng nhỏ xinh xinh. Mỗi khi cười, đâu má bầu bầu má lúm đồng tiền. Cô con gái nền nếp xứ quê này, mặc dầu cái mộc mạc nâu sồng cũng khả dĩ làm nhiều chàng trai mơ ước. Tôi không biết lúc xông vào trại giặc thì chị có dữ dội, ngổ ngáo không. Lúc này đây, chị cũng khép nép như bất cứ cô thôn nữ đẹp nào ngồi trước mặt đàn ông. Trong khi nói chuyện, đôi mắt chị luôn luôn nhìn xuống, đôi bàn tay trắng mịn đặt lên đùi. Những ngón tay búp măng muồn muột chít vào nhau. Những bàn tay nhỏ nhắn này đã từng cầm súng bắn Tây, hoa đao lăn xả vào Tây, nó vẫn không kém mềm mại chút nào. Trước kia, hẳn là nó đưa thoi rất nhẹ nhàng. Và ẵm em rất khéo.

    Tôi nhìn những bàn tay xinh ấy, những bàn tay rất mềm yếu, nhưng cũng biết rời mái tóc mềm như tơ của trẻ con, để cầm vũ khí giết quân thù, bảo vệ tấm thân trong trắng của mình và tương lai của những đứa con mình đẻ ra. Tôi thương hại cho mấy cái bàn tay nam nhi tận đến lúc này mà vẫn chưa biết gì. Hay là chỉ biết chiều vuốt mái tóc buồn của người yêu, nhớ tiếc những chiều mộng, nắm tay nhau đi trên đường Cổ Ngư hay trên bờ hồ Hoàn Kiếm viền liễu rủ. Những bàn tay ủy mị! Chúng có còn nhiều nữa không vào cái lúc hàng triệu thanh niên đang náo nức đầu quân và toàn quốc phấn khởi đang thi đua tổng phản công này? Ngay từ lúc giặc tràn đi như nước lũ làm lung lay những cái đầu thiếu lòng tin, đã có những bàn tay “mềm yếu” cương quyết cầm dao súng. Đâu có phải những bàn tay ấy không có mái đầu nào để vuốt ve? Đâu có phải những bàn tay ấy không biết làm món ăn ngon miệng người chồng hay một cái áo xinh xinh cho đứa con mong đợi của vợ chồng.

    Chị tổ trưởng du kích bảo tôi

    – Hai phần ba chúng em đã có chồng, một vài người đã có con.

    Tôi băn khoăn không hiểu những đứa con ấy bây giờ ở với ai. Chúng nó có thấy thiếu mẹ lắm không?

    Và những người chồng có vui lòng thành thật khi thấy vợ vào du kích không?

    Chị mỉm cười:

    Các anh ấy rất bằng lòng. Bởi vì các anh ấy cũng đi công tác cả. Hiểu nhau lắm.

    Còn các em?

    Anh không biết đấy thôi, chứ ở những vùng buôn bán không mấy khi chính người mẹ được nuôi con. Bán hàng cứ lần lượt đi hết chợ nọ đến chợ kia. Thường thường ở cữ xong được mấy tháng hay hơn một tháng, chị em đã phải đem con đi gửi u nuôi để đi chợ. Các chị phụ nữ nông dân cũng chẳng làm gì có thì giờ ôm ấp trẻ một ngày. Chị em chúng tôi, người nào có con đã có chị em họ giúp. Có thể nói rằng chúng nó được săn sóc chu đáo lắm. Chị em phụ nữ địa phương coi sóc chúng nó hơn chính con các chị. Chúng nó nhiều mẹ lắm!

    Chị cười hóm hỉnh. Đôi mắt đen lay láy rời đôi bàn tay đẹp để nhìn một chút, vẻ hơi chế nhạo.

    Ý các anh thế nào? Nếu các anh có con, các anh có thích để vợ đi công tác hay nghỉ công tác ở nhà thôi?

    Tôi chưa từng đặt với tôi câu hỏi ấy bao giờ. Bây giờ có người đột ngột đặt nó ra trước mặt tôi, tôi mới chợt nhận thấy rằng trong đầu óc đàn ông của tôi vẫn còn nhiều thành kiến với đàn bà lắm. Tại sao chúng ta lại cứ muốn giữ rịt phụ nữ ở nhà, cấm họ không được làm cái bổn phận công dân của họ trước khi họ muốn?

    Tôi chợt nghĩ đến anh con trai cầu tự của một bà hiếm hoi kia. Bà không dám cho con ra tỉnh học, vì không dám xa con. Mặc dầu anh đã ngoài hai mươi, đã lấy vợ bảy năm rồi, đêm đêm bà vẫn thích nằm cùng giường với con, quạt cho con. Kết quả của sự nâng niu ấy là mặc dù đã lớn lộc ngộc rồi, anh vẫn chỉ là một đứa con bé bỏng thôi. Trong khi những đứa trẻ lên sáu đã biết tìm cái vui tập đoàn trong đoàn thể nhi đồng, anh vẫn chỉ ru rú ở nhà. Anh muốn vợ anh cũng ru rú ở nhà. Anh càu nhàu vợ, khi tối tối vợ cắp sách đến lớp học bình dân. Anh ấm ức như bị hóc xương gà, khi thấy vợ vào Phụ nữ. Không biết bao nhiêu năm rồi, người vợ đáng thương kia tủi vì chồng. Chị cứ đi học, cứ vào Phụ nữ như tất cả các chị em. Chị tham gia công việc gấp bội trước kia. Một chuyến địch tiến đến gần làng, mặc cho chồng run sợ cuống cuồng, chị đã nai nịt gọn ghẽ, xách mã tấu, đeo lựu đạn, theo anh chị em du kích đi phục địch.

    Tôi thành thực nghĩ rằng trong một gia đình như gia đình ấy, nếu họ có con, có lẽ anh chồng nên yên phận ẵm con để cho chị vợ thay anh làm bổn phận công dân!… Vấn đề không phải thích hay không thích. Vấn đề chính là cần hay không cần…

    Chị phụ nữ du kích ngồi trước mặt tôi vẫn mỉm cười. Bây giờ thì chị không e lệ một chút nào. Chị nhìn thẳng vào mặt tôi, chị bảo:

    Cần thì có lẽ cũng cần lắm. Phụ nữ còn khối việc làm ở hậu phương. Nhưng chúng tôi khó chịu vì có những người đàn ông nhút nhát. Vả lại chúng tôi cũng muốn thử xem phụ nữ có thể đi đánh giặc được như đàn ông không.

    Chị thấy thế nào?

    Anh muốn nói sao?

    Tôi muốn biết các chị đi chiến đấu có thấy vất vả lắm không?

    Đôi mắt chị lại cười. Chị tủm tỉm trả lời tôi.

    – Chúng tôi không thấy vất vả bằng làm ruộng.

    Người thiếu nữ này muốn nhạo báng tôi. Đôi bàn tay trắng muốt kia chưa từng quen với nắng tháng Sáu đốt cánh đồng. Nhưng còn các chị đứng xung quanh. Trông các chị đen giòn. Các chị cho tôi biết bây

    giờ các chị vẫn làm ruộng như thường. Làm ruộng giúp đồng bào. Cả chị trắng trẻo đang ngồi tiếp chuyện tôi trước kia thật ra chỉ chăn tằm, dệt lụa ở nhà, cũng đã học chị em, hoạt động trong vùng địch mà không biết làm ruộng thì thiệt lắm.

    Tôi muốn biết trình độ học thức của các chị em thế nào.

    – Phần nhiều kém…

    Chị bảo tôi như vậy. Hầu hết các chị là con nhà nông, trước kia chưa bao giờ được học. Mới học từ sau hồi khởi nghĩa cả đó thôi. Có chị từ khi vào du kích mới bắt đầu. Lại có chị hiện giờ vẫn chưa đọc thạo. Tất cả đều lấy làm đau xót vì trình độ văn hóa quá thấp kém của mình và đang ráo riết học thêm. Cả đội, chỉ có một mình chị chính trị viên là đã học hai năm trung học…

    – Chị N. học trường Hà Nội trước, chắc anh có biết.

    Chị bảo thêm như vậy. Làm như Hà Nội chỉ có một trường và có ở Hà Nội thì người ta phải biết tất cả những người Hà Nội khác! Nhưng dù sao thì đó cũng là một điều rất lý thú, đối với tôi. Một nữ sinh Hà Nội làm chính trị viên đội du kích phụ nữ này. Bây giờ lại có quyền đội trưởng chỉ huy cả về quân sự nữa. Mà xung trận rất gan, đánh rất hăng. Thì ra không phải chỉ những phụ nữ nông dân đã quen với công việc nặng nề có thể trở thành đội viên du kích…

    Các cụ ở nhà đối với việc các chị vào đội du kích như thế nào?

    Đều vui lòng cả… Chúng tôi không nhận những chị không được gia đình ưng thuận.

    Nghĩa là vẫn có những cụ không ưng thuận?

    Tất nhiên là phải có. Các cụ lo con đua chị, đua em như vậy rồi thành ra lêu lổng. Bây giờ thì hầu hết các cụ đã hiểu rồi. Một người hư thì không phải đợi vào du kích mới hư, trái lại vào du kích, được rèn luyện theo kỷ luật, còn ngoan ra nhiều nữa. Vả lại ở trong vùng địch, Tây khủng bố, phụ nữ muốn giữ thân cần biết quân sự. Có thể nói rằng phụ nữ trong vùng địch thích quân sự hơn chính trị.

    Mấy hôm trước mấy anh cán bộ vùng địch cũng đã bảo tôi như vậy. Kể cũng là một điều đáng cho chúng ta suy nghĩ. Trong vùng địch phần lớn nam giới thích đi làm cán bộ, chị em phụ nữ thì lại thích vào du kích, hơi nghe nói có lớp quân sự nào là các chị đòi đi học. Mà không phải chỉ học cho biết thôi đâu. Các chị thích đi đánh lắm. Bộ đội tới thường được các chị đem xôi chuối, quà bánh ủng hộ luôn. Ủng hộ để được ngắm nghía khẩu súng cho đỡ thèm. Và để gạ: “Các anh cho chúng em đi đánh với!”.

    Người ta kể với tôi mẩu truyện nhỏ, nhiều ý nghĩa. Hôm ấy là một ngày kỉ niệm. Trong một gia đình có hai vợ chồng và một đứa con kia, cơm chiều xong, anh chồng chực ra đi. Chị vợ gọi giật lại hỏi:

    – Đi đâu?

    Anh chồng bảo:

    – Đi có việc!

    – Việc gì?

    Trong vùng địch không bao giờ hỏi thế. Bởi vì việc ai người ấy biết thôi.

    Nhưng dễ thường chị không có việc của chị sao?

    Chị nằng nặc bảo anh

    Việc gì thì cũng phải giữ em hộ tôi một lúc. Tôi phải đi đằng này một lát. Anh chồng gắt

    Đi đâu hãy để đấy đã. Người ta không đợi được. Việc cần.

    Anh đi. Chị vợ đứng tần ngần… Chị em bây giờ chắc đã đến cả rồi. Họ đang đợi mình đây. Mình đã hứa chắc chắn kia mà!… Chị băn khoăn, nóng lòng, sốt ruột lạ lùng. Y như là có một tai nạn gì lớn sắp xảy ra. Nếu lỡ việc của chị em? Nếu vì mình mà chị em hỏng việc? Trong vùng địch, một người hẹn đến mà không đến là một việc gieo hoang mang vào đầu óc mọi người. Phải chăng bị chộp giữa đường? Nhiều khi chỉ vì thế, mà cả một kế hoạch đã định, không dám đem ra thi hành nữa. Hôm nay là ngày kỉ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh. Để lỡ việc thì chị em trách chết! Chị “chặc” lưỡi một cái, chị đem con sang nhà bà hàng xóm gửi, nói là bà mẹ đẻ cho tìm đến ngay có việc. Chị đến chỗ hẹn với chị em. Vì để hôm ấy chị cùng chị em đi đột kích.

    Ai khen? Ai trách? Tôi chỉ muốn tìm để hiểu. Cái gì đã thúc chị em ở vùng địch thích vào du kích? Một chút lãng mạn chăng? Hay là nỗi căm giận lũ giặc đi đến đâu cũng giở trò hãm hiếp? Thà chết còn hơn bị nhục. Và biết đâu không phải lòng phẫn nộ đối với cái nhỏ nhen, cái hèn hạ, cái bất công của những kẻ đàn ông lạc hậu, ruồng bỏ, hắt hủi những chị phụ nữ đáng thương và bị sa vào tay giặc? Hay là một lời thách thức nói với bên nam giới?

    Dù sao, cuộc giải phóng dân tộc không thể bỏ qua một nửa lực lượng nhân dân, ở trong những bàn tay đẹp mà những người đàn ông ích kỷ, tưởng chỉ có thể dùng để làm bếp và giặt quần áo ở nhà. Và cuộc giải phóng phụ nữ phải do chính bàn tay phụ nữ săn sóc lấy. Đấu tranh không làm mất vẻ dịu dàng. Đôi mắt nảy lửa phóng vào mặt lũ giặc mọi rợ, dâm cuồng vẫn biết tình tứ với chồng và âu yếm với con.

    Những bàn tay du kích khi chịt cổ quân thù cứng cáp như kìm, những khi nắm lấy cái bàn tay bé tí xíu và hồng hồng của đứa con yêu, vẫn êm đềm như tay của tất cả những bà mẹ trên đời. Người đàn bà bó chân của đất nước Trung Hoa phong kiến và những cô gái cấm cung trong cổ tích Việt Nam đã thành cổ tích rồi. Người đàn ông tự do và tự trọng không cần đến những nô lệ, những con hầu, những đồ chơi. Chúng ta sung sướng nhìn vẻ đẹp dũng mãnh của người nữ chiến sĩ điều khiển khẩu phóng lựu đạn trong trận đầu tiên đánh vào thị xã H.Đ

    Những bàn tay đẹp cầm súng chiến đấu cùng một lúc giải phóng cho dân tộc và giải phóng cho phụ nữ.

    Sự ấy không chướng mắt. Sự ấy đáng cho ta cảm phục.

    (Trích ở tập tài liệu “Sức mạnh dân quân” do Nhà xuất bản Quân du kích xuất bản năm 1948)
     
  8. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Trên Những Con Đường Việt Bắc
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ông ké cầm tay tôi, tần ngần nhìn vào mặt tôi. Lối lịch sự Tây phương ấy không ngờ lại được gặp ở đây. Vốn dĩ là đồng bào miền ngược rất thích tỏ tình thân ái, lòng lưu luyến bằng những nắm tay, bá vai một cách nhè nhẹ, yêu yêu. Đúng như chúng ta xoa đầu, vuốt tóc một đứa trẻ nhỏ, trong khi nói chuyện…

    – Đồng chí đi, ké thương nhớ để đâu cho hết!

    Những câu nói rất thường ở trên này, nghe ra cũng bóng bẩy như thế đấy. Ké còn nói rắng ké tiếc tôi như tiếc một con ba ba rơi xuống bể. Có lẽ ông già miền núi ấy suốt đời chưa trông thấy bể bao giờ. Lời ông thành thật hay khách sáo? Thì cũng có cả hai thứ ở trong. Người trên này chẳng chất phác quá như người ta vẫn thường thích tả đâu. Cũng thích mua rẻ bán đắt, cũng thích có thể nào cho được thật nhiều lợi về mình. Cái đấy dẫu có làm cho ta đôi lúc phải bực mình nhưng ta cũng thừa hiểu rằng đó chỉ là thói thường của hầu hết mọi người trong một cái xã hội có tục bán và mua. Cũng nhiều khi họ thiển cận hơn nhưng đó là tại trình độ hiểu biết và suy nghĩ kém miền xuôi. Nhưng được cái cũng yêu nước, cũng ghét Tây, cũng thích Cụ Hồ, rất ghét Tây và rất thích Cụ Hồ. Thế là đủ lắm rồi, chúng tôi dễ hiểu nhau, dễ yêu nhau lắm.

    Vả lại gần gũi đồng bào trên này, tôi thấy rằng họ cũng dễ thân. Chúng tôi đến ở chỗ nào, chỉ vài tháng là đã quen cả bản rồi. Đám ma, đám cưới nào cũng có mặt chúng tôi. Các anh thanh niên đến xem báo cáo, đọc sách nhờ, hoặc nói oang oang ở lán chúng tôi. Các ông già đến ông chè, nói chuyện trầm ngâm. Và cả thiếu nữ, các lục sao má đỏ hây hây, thì đến xin ảnh Cụ Hồ hay xin bài hát. Mỗi khi phải rời một chỗ để đi chỗ khác, bao giờ cũng có sự dùng dằng, quyến luyến.

    Ông ké vẫn không chịu buông tay tôi ra, cứ ngoẹo đầu ngoẹo cổ dặn mãi:

    – Đồng chí đi mạnh khỏe chứ! Bao giờ đi công tác qua đây, nhớ ghé vào chơi với ké nhé!

    Ba, bốn lần như vậy rồi tôi mới rút tay ra được để đi. Chẳng biết ông già trở về có vương vấn gì không, nhưng riêng lòng tôi cũng thấy bùi ngùi. Thì ra những người, vật ở đây với tôi đã như có một chút tình nghĩa gì rồi. Lúc đầu chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ làm việc dân vận thôi: chúng ta cố gây cảm tình với đồng bào địa phương đối với chúng ta. Dần dần chính chúng ta sinh ra có cảm tình với họ, cái cảm tình ấy nó đến êm thấm quá đến nỗi chính chúng ta không hay biết.

    Từ khi xảy ra chiến tranh, có dịp thay đổi chỗ ở rất nhiều, tôi mới tìm ra điều này thật ấm lòng, là ở bất cứ chỗ nào trên đất nước Việt Nam, chúng ta đều có những người thân thuộc của chúng ta. Ta chỉ tỏ cho họ biết chúng ta là những người thân thuộc họ, lòng yêu nước, lòng quý mến đồng bào, lòng xót xa đến những người cùng mục đích, cùng số phận với mình, hồi này mới được đồng bào ta ở khắp nơi tỏ ra một cách thật rõ rệt. Không đến chỗ nào chúng ta bị cái cảnh quê người đất khách. Trái lại, ở đâu ta cũng có cảm giác là ở một nơi thân thuộc.

    Hồi tôi mới bước chân lên Việt Bắc, một anh bạn hỏi cảm tưởng đầu tiên của tôi khi tới miền rừng núi.

    Tôi nghĩ mãi, chẳng thấy cảm tưởng gì. Tôi trả lời một câu có vẻ tuyên truyền:

    Tây không đời nào dám lên đến đây. Nó sẽ chết vì vấn đề tiếp tế. Anh bạn không được thỏa. Anh nói rõ ý anh hơn:

    Tôi có muốn hỏi cảm giác của riêng anh kia. Anh thấy thế nào? Khi qua các núi rừng, có thấy rợn không?

    A! Rợn thì không rợn một tí nào, tôi chỉ thấy thú như một người đi ngắm cảnh. Con đường tôi đi cũng tấp nập in như con đường ở dưới xuôi. Và khi đi sâu vào những con đường nhỏ, vượt qua núi hoặc xuyên rừng, tôi cũng chỉ coi như đi qua đồng vắng… Chỉ có giống vắt là làm tôi hơi khó chịu.

    Anh bạn tôi cười khẽ một tiếng rồi lại hỏi:

    Trước đây, anh đã lên Việt Bắc lần nào chưa?

    Tôi lên lần này là lần thứ nhất.

    Thế thì anh không nhận thấy sự thay đổi đấy. Ngày xưa, nghe nói đến mạn ngược là đã thấy một cái gì bí mật, ghê gớm. Thổ, Mán, Mèo là những giống người gì khác hẳn chúng ta khiến chúng ta ghê gớm, sờ sợ. Một phần nữa, các con đường mà anh thấy tấp nập bây giờ, ngày xưa vắng ngắt. Năm chừng mười họa mới có người đi bộ. Thành thử ngày xưa đi qua các con đường mạn ngược, rợn lắm.

    Đúng như thế thật. Cuộc cách mạng đã đổi hẳn bộ mặt xứ này đi. Đổi cả những con người. Con người mới, tin tưởng ở chính quyền nước mình, tin tưởng ở chính mình và những người sống quanh mình, mất hết cả tính e dè sợ sệt. Anh ta không còn sợ núi rừng. Tỉnh thành đã trà trộn với thôn quê và miền xuôi đã hòa lẫn cùng miền ngược. Vẫn đóng khung trong những biên giới cũ, lãnh thổ Việt Nam có vẻ như mở rộng. Trước mắt chúng ta là cả một vùng rừng núi rộng mênh mông không còn là chỗ ma thiêng nước độc, bất khả xâm phạm như xưa mà là một miền rộng rãi có rất nhiều khả năng khai thác. Những nhà máy sau này mọc lên rất nhiều ở trên này, bên cạnh những thác nước dùng làm động lực. Những đồn điền chăn nuôi lớn sẽ lập nên cùng với các nông trường. Đèn điện sẽ sáng trưng. Bệnh sốt rét sẽ không còn chốn nương thân. Hà Nội sẽ lên đây nghỉ hè. Những thanh niên nam nữ Thổ, Mán, Mèo về học trường đại học ở thủ đô. Không còn phân biệt miền ngược với miền xuôi, cũng như sẽ hết sự ngăn cách giữa thôn quê và thành thị. Những ngày kiến thiết sau này vui biết mấy…

    Ra gần đến bờ suối, tôi gặp chị Quyên. Chị đem gạo ra đổ vào cái cối nước về. Hôm qua tôi đã đến chào mừng “người già” nhà chị, nên vừa trông thấy tôi, chị hỏi ngay bằng tiếng Kinh rất sõi.

    Anh Tâm về xuôi hả?

    Vâng, chào chị nhé!

    Chào anh Tâm. Anh Tâm đi mạnh khỏe nớ. Anh Tâm về xuôi có nhớ chị Tình không.

    Chị cười tít mắt. Hai má bầu và trắng hồng của chị lũng xuống hai lỗ đồng tiền nhỏ tí. Tôi cười, trả lời lại bằng tiếng Thổ:

    – Xướng chứ lại! Xướng chứ nhình Quyên lai (Thương nhớ lắm! Thương nhớ chị Quyên lắm)

    Má chị đỏ thêm. Đôi mắt long lanh chị nhìn tôi:

    Không thương nhớ tôi đâu! Thương nhớ vợ anh Tâm ấy. Chị lại cười rồi đột ngột.

    Thôi anh Tâm đi nớ, mạnh khỏe nớ! Chúc công tác thắng lợi nớ!

    Chị lướt qua tôi và soàn soạt vạt áo chàm, thoăn thoắt đi về bản. Hồn nhiên như vậy đấy. Các cô nói chuyện tình tứ rất tự nhiên. Nói một cách vui vẻ thẳng thắn thế đấy thôi. Có lẽ chỉ nửa giờ sau là Quyên đã quên tôi.

    Cũng chẳng làm sao cả. Nhưng tôi cúi đầu vơ vẩn một mình, thích nghĩ rằng khi đi khỏi mấy bước rồi chị còn ngoảnh lại nhìn tôi. Để cho đời đẹp thêm lên một chút. Cũng chẳng làm sao cả!…

    Qua một cái dốc đi một mạch vừa đúng ba giờ, trong lúc đó mỗi bước sức nặng của ta cứ như gì ta xuống. Tôi đến một làng Mán bám cheo leo vào lưng chừng một quả núi cao. Cả làng vẻn vẹn có ba nhà, xếp bậc lên nhau. Cột kèo ở trong nhà là những cây gỗ để nguyên cả vỏ. Không có một cái lỗ đục, một con xỏ vì dụng cụ độc nhất của người Mán là con dao rừng mà đi đâu anh ta cũng đeo lủng lẳng ở sau lưng. Tre gỗ buộc vào với nhau bằng những sợi dây leo. Cái lò bếp nấu “ruốc mu” (thức ăn của lợn) với cái chảo to tướng ở trên lù lù ngay ở giữa nhà. Ở đây người ta vẫn sống gần gũi và bình đẳng lắm.

    Nhưng hôm nay, người và vật đi lán cả. Nhà cửa vắng teo. Người Mán ở tận đây, đúng như một cái tổ chim giữa rừng sâu trên gần đỉnh núi cao, vẫn còn thấy chỗ ở của mình trống trải và vẫn thấy cần phải vườn không nhà trống, đem hết trâu bò, gà, lợn, ngô, thóc gạo, muối và người già, con trẻ vào cơ quan bí mật ở một chỗ mà trừ họ ra khó có ai biết và tới được. Có khi rồi họ bỏ hẳn chỗ nhà cũ, chẳng cần về nữa. Ở rừng, tre, gỗ sẵn. Làm nhà mới lúc nào cũng được và chẳng tốn kém gì. Vì thế, người Mán rời chỗ ở, rời một chỗ đất hết màu hay một chỗ mà họ cho là chẳng được lành, hoặc có nhiều người qua lại quá, dễ dàng như một người đi đường rời quán trọ. Phong tục du mục vẫn còn vương lại đôi chút trong tâm tính họ.

    Tôi đứng lại trước cái làng bé con kia, thở những hơi dài cho đỡ mệt. Vì cố gắng đi một mạch, mắt tôi hơi hoa lên một chút. Áo đẫm mồ hôi. Cổ thì khô cháy. Không thể vào nhà xin nước uống, tôi nhặt những quả trám trắng rụng nhan nhản ở dưới chân ăn. Trám trắng chan chát, lờ lợ, chẳng lấy gì làm ngon lắm, nhưng nuốt xong, còn chút vị ngọt lững lờ trong cổ. Cũng là một cách cho đỡ khát.

    Anh em Mán thường bảo tôi rằng: chỗ nào có nhiều quả trám thì gấu thường hay đến. Tôi đứng đấy có một mình. Tôi nhớ đến một anh Mán bị gấu vồ nát cả mặt, cả cổ và vai. Nhưng ở rừng đã nhiều, chính mắt tôi chưa trông thấy gấu bao giờ. Người bị gấu vồ, tôi cũng chỉ trông thấy có một anh Mán ấy thôi. Vì thế, tôi vẫn cho rằng việc bị thú dữ vồ ở giữa rừng chẳng qua cũng chỉ như việc bị ô tô đè ở những thành phố náo nhiệt như Hà Nội, Sài Gòn. Tất nhiên là cũng có thể xảy ra luôn. Nhưng không phải vì thế mà động ra đường là người ta nơm nớp. Cảnh hoang vắng lúc này không gợi cho tôi một tí thấp thỏm nào.

    Bên dưới tôi một suối nước chảy xiết đổ ào ào. Cái thứ tiếng giông bão ấy dâng lên tận chỗ tôi và tỏa

    rộng ra làm một cái nền hơi sẫm tối cho những tiếng chim lanh lảnh, vui và sáng. Trước mắt tôi là những ngọn núi trọc hoặc um tùm ấy là trăm ngọn núi khác, lớp lớp, nhấp nhô, hòa hợp với trời xanh như những đợt sóng xanh lơ vô cùng tận. Đó đây một vài điểm mây trắng lởn vởn, là bọt sóng. Không khí trong và dịu. Nắng rất êm. Một ngày xuân đẹp như hôm nay kể cũng là một sự hiếm có ở miền rừng, nơi mà mùa xuân chỉ là một chuỗi dài những ngày mưa xám xịt và bẩn thỉu. Xuân ở đây là mùa của vắt.

    Rừng mênh mông. Rừng hỗn độn. Rừng lại rừng tiếp giáp nhau, trà trộn lên nhau, chồng chất lên nhau. Núi trùng trùng điệp điệp, hết núi này sang núi khác, vô cùng tận. Rừng núi không có đường đi, nhưng lại có hàng vạn lối đi. Thằng Tây liều mạng nhảy dù xuống mấy điểm chính ở Việt Bắc, tưởng làm bế tắc được chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn đi lại, chuyên chở được như thường. Sự chật vật, khó khăn đối với chúng ta chẳng nghĩa lý gì. Một dòng máu mạnh có những cách lưu thông rất lạ lùng, lưu thông mà bất cần đến những mạch máu thường ngày, mặc kệ những bế tắc ở đoạn này hay đoạn khác, nó khơi ra hàng trăm đường khác nhau.

    Thử để mà xem! Có phải từ ngày chúng ta bắt đầu phá đường thì những con đường của ta mới bắt đầu thật là tấp nập không? Nghĩ một tí thì thú vị lạ lùng! Trước đây đường nhựa, đường đá thênh thang xe lửa, ô tô sẵn, những phương tiện xê dịch có thiếu gì đâu, mà cuộc đời của chúng ta ngừng trệ biết bao! Kiếp sống tù hãm thật là thảm hại. Từ ngày phá đường, cuộc sống lưu thông. Tôi không ghét gì bằng thi vị hóa cuộc đời. Nhưng thật tình từ hồi kháng chiến, mặc dầu những tàn phá, chết chóc chia lìa cực kỳ đau đớn, bộ mặt nước mình vẫn có vẻ tươi trẻ, vui mạnh hơn lên. Chỉ cần bước ra đường là đủ biết.

    Đường phá, đường tắc nghẽn, nhưng dòng người thì vẫn chảy như thường, chảy lưu loát, mạnh mẽ, chưa bao giờ mạnh mẽ và lưu loát thế. Thì ra máu chúng ta ngừng trệ ngày xưa, không phải vì mạch máu mà chỉ vì những ký sinh trùng. Mạch máu nước ta, những con đường thời kháng chiến này bị cào nát, cắt đứt lung tung, nhưng máu lành mạnh vẫn chảy như thường, huyết mạch vẫn lưu thông. Chỉ phiền cho những ký sinh trùng, những sinh vật phá hoại chở bệnh tật bằng xe tăng. Chúng nó bị những mạch máu kháng chiến của ta đọng lại.

    Rồi đây rút lui khỏi Việt Bắc, có nơi chúng phải đốt hàng chục xe hơi, chôn hàng tấn đạn dược và đồ hộp, vì không có đường về. Chúng nó chỉ ỉ vào sức mạnh của máy móc tối tân. Nhưng khi ta đã làm máy móc tối tân của chúng nó hết sức mạnh thì chúng nó còn gì? Một lũ người buồn nản, sợ sệt, cáu kỉnh, mất tinh thần, lúc nào cũng kêu ca, càng ngày càng sốt ruột.

    Người mình thì kiên nhẫn. Cái nghị lực của dân tộc ta là một thứ nghị lực bình tĩnh, lặng lẽ, tiềm tàng. Nó không nổ tung ra một cách ầm ỹ như trái phá, cốt mìn. Nó không chuyển đất trời như núi lửa. Nó là dòng sông cần cù, đêm ngày mài giũa đôi bờ để tạo cho mình một con đường rộng mãi ra, đêm ngày bồi đắp những cánh bãi phì nhiêu và ngày càng bát ngát. Nó biểu lộ ra ngoài một cách giản dị thản nhiên, gần như không tự biết.

    Ai đã đi lại nhiều trên những con đường Việt Bắc, những con đường vượt núi, xuyên rừng, luồn khe, lội suối, lên xuống hàng trăm cái dốc, mũi chạm đất và chân cứ sắp khô thì lại được dẫm xuống nước– ai đã từng đi lại nhiều như vậy, đều phải ngạc nhiên về cái tài chịu đựng và sự cố gắng của dân mình để vượt những khó khăn. Dường như chẳng có một cái gì khó đối với chúng ta. Cái gì cần làm, cái gì muốn làm, chúng ta đều cho là làm được, và cố làm cho bằng được.

    Tây vừa nhảy dù hôm trước thì hôm sau, những xưởng máy hàng ba bốn trăm người làm đã biến dần dần từng bộ phận của nó đi, bắt đầu là những bộ phận quan trọng nhất. Anh em công nhân xuất lực hơn bốn ngày thường để tháo, chuyển và chôn giấu. Họ quần quật suốt ngày đêm, ăn vội vàng, ngủ qua loa, bỏ cả đánh răng rửa mặt. Chỉ mấy hôm sau là ngay đến cái xác nhà cũng không còn. Cái nhà máy đã ra đi, không còn để lại một vết tích gì đặc biệt. Cả một cái nhà máy lên đường. Nó tự phân nó ra thành từng phần nhỏ, vượt hàng trăm cây số núi rừng để đi nơi khác.

    Việc chuyển đi thật là nặng nhọc, công phu. Gang sắt thì khiêng ngay trên con đường rộng rãi, bằng phẳng cũng đã đủ nhức vai, sụn xương sống lưng rồi. Đằng này không có đường đi. Toàn là những lối nhỏ lầy lội và lắm vắt, những dốc gần dựng đứng, những khe suối lởm chởm đá tai mèo, hết trèo thì lại lội. Có những cái dốc khổ sở, chỉ một người với một cái ba lô cũng đã phải đu vào từng cái cây để kéo người lên. Làm thế nào mà khiêng được ở những chỗ như thế này? Đứng vào đâu mà khiêng? Nếu mà tuột chân hay tuột tay một cái thì tránh làm sao khỏi bị gang sắt đè giập xương hay gẫy cẳng? Người ta phải dịch đi từng bước một, vừa dịch vừa chèn, vừa dùng xẻng cuốc đào bực để dịch cho một bộ máy chỉ nặng chừng nửa tạ. Nếu nặng hơn thì lại càng nhiều sự vất vả.

    Ấy thế mà người ta cứ nhất định tha đi cho bằng được, tha đến hết. Đúng là một đàn kiến tha mồi, đánh vật với mồi. Hàng mấy chục tấn sắt đã qua đoạn đường này và đã vượt hàng trăm cây số. Và chỉ chừng một tháng sau, cái nhà máy của chúng ta lại đã tái sinh ở một chỗ khác chắc chắn hơn, ung dung sản xuất những thức cần thiết cho kháng chiến.

    Như vậy đấy, thằng Tây đấm chúng mình cứ như đấm bị, đau tay mà chẳng được tích sự gì. Đấm vào chỗ này thì sức mạnh của chúng ta lại bật ra ở chỗ kia. Chẳng có cái gì gãy nát, chỉ tay chúng sứt mẻ thêm một chút, hay là thêm rất nhiều.

    Tôi nghĩ đến những đô thị mới của chúng ta. Những đô thị nhỏ tí nhưng cũng khá sầm uất, vui tươi. Chúng nó mọc lên một cách rất tự nhiên. Mới đầu là một vài hàng cơm, để tiện cho khách qua đường. Rồi thì hàng cà phê, hàng tạp hóa cũng đến bâu vào. Hiệu may, hiệu giầy cũng hiện ra. Các căn nhà lá cứ làm thêm, nó cứ dài thêm. Thấy đồn chỗ ấy vui, những người tản cư kéo đến, góp thêm vào chỗ ngôi hàng và những khách qua đường cố thu xếp độ đường, để có thể ngừng một đêm ở đây, hưởng cái thú đông người. Ta cứ căng thẳng mãi thì chịu làm sao được? Một cốc cà phê, một điếu thuốc lá, một con phòng sáng sủa và tấp nập, cô bán hàng vui vẻ và mau mồm miệng, những cái ấy kể thì chẳng có cũng chẳng chết ai, nhưng lâu lắm mới được sống trong cái bầu không khí ấy một vài giờ cũng làm cho đời thêm vị lên nhiều lắm. Kháng chiến thì kháng chiến. Người ta vẫn cần phải giải trí, vui vẻ. Có điều cũng đừng vô ý thức.

    Có những thức quyến rũ nó giống như thuốc phiện, làm sức lực của chúng ta hao mòn. Bởi vậy, thà nhạt miệng một tí còn hơn là nhấp vào những chất độc nồng thơm, nhưng giết chết người. Rượu của Tây, thuốc lá của Tây, xa xỉ phẩm của Tây chúng ta thèm chết thì thôi chứ nhất định không để những thức ấy giết chúng ta. Một cốc cà phê đường hoa mai, một điếu thuốc lá sừng bò cũng khả dĩ làm cho ta vui chốc lát. Lúc này đừng khó tính.

    Có những cái cây nếu người ta cắt ngọn nó đi, nó sẽ mọc lên rất nhiều cành. Nếu người ta cắt một cái cành của nó đi, nó sẽ mọc mười cái cành khác. Sức sống mạnh mẽ, cần chỗ để vọt ra. Mỗi đô thị cũ của chúng ta bị phá hay bị thối, hàng chục mầm đô thị khác mọc ra. Sức sống quá dồi dào, không bao giờ chịu để vùi dập cả. Tôi có thể đoán được trước rằng một số những mầm đô thị mới hiện nay sẽ thành những đô thị lớn ngày mai. Ngay trong cảnh tàn phá chiến tranh, ngay trong cơn rung chuyển bão táp, những mầm non đã nhú, bộ mặt của Việt Nam tương lai đã lờ mờ hiện ra.

    1948
     
  9. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Từ Ngược Về Xuôi
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Việt Bắc nhiều rừng núi. Núi rừng Việt Bắc kín đáo và hiểm trở. Tôi đã sống ở đây hơn một năm, chắc chắn và yên ổn quá.

    Tôi rời núi rừng Việt Bắc để trở về rừng người ở miền xuôi. Rừng người ấm áp biết bao!

    Người miền xuôi mở to đôi mắt ngạc nhiên và cảm phục khi nghe tôi nói chuyện về cuộc đời Việt Bắc của tôi. Người miền xuôi rất sợ cái bí mật của rừng sâu. Sợ từ con chim lợn trở đi. Tôi đã ở toàn rừng. Đi cũng toàn rừng. Chúng tôi chỉ còn biết có rừng. Những cánh đồng phẳng, những bãi dâu xanh, những con đường có xe chạy là những kỉ niệm kiếp trước, còn sót lại trong tiềm thức.

    Đồng bào Mán thích ở cao. Có lần tôi ở một chỗ cao hơn họ. Một cái lều không cửa chơ vơ trên đỉnh núi. Nhưng ngọn núi tôi ở còn phải tựa vào một quả núi khác, cao hơn. Và ở cao hơn chúng tôi là một anh chàng gấu. Ban đêm, khi anh Thọ họa sĩ và tôi đã chui vào màn nằm hút một thứ thuốc lá Mán tẩm mật ong rất đậm vị, nhìn đống lửa to bằng nửa cái nhà tí hon của chúng tôi, thì chú gấu len lén đi ở bên ngoài, xuống rẫy để ăn trộm bắp. Gấu chưa vồ chúng tôi lần nào cả. Người Mán đã bẫy được gấu một lần. Người Mán cho chúng tôi ăn thịt gấu. Chúng tôi không sợ gấu.

    Một hồi, tôi rất ham đọc những truyện đường rừng của Lan Khai. Bây giờ thấy rằng Lan Khai mới chỉ đứng ở ven rừng để nhìn vào. Nhà văn đoán ra đủ điều rùng rợn ở bên trong. Nhưng nhà văn lại đoán nhầm. Người đã sống ở giữa rừng – giữa rừng đại ngàn của những đợt Giải phóng quân đã đánh các đồn Phay Khắt, Nà Ngần… người ấy chỉ thấy rừng rất bình thường. Chẳng có gì bí mật. Cũng chẳng có gì ghê gớm.

    Khi chưa biết được rừng, tôi cũng tưởng rừng ghê gớm lắm. Tôi từ biệt vợ con ra đi, như làm một việc hy sinh. Bạn bè tôi ái ngại nhìn tôi. Họ cười buồn, bảo tôi rằng: “Anh sẽ không phải sốt đến hai cơn”. Tôi đã sốt đúng hai cơn. Nhẹ nhàng thôi. Trước sau vừa đúng một năm hai tháng mười một ngày, mới phải tiêm có hai ống ký ninh.

    Các bạn cũ của tôi lạ lắm. Vợ tôi đã khóc nức nở khi đột nhiên thấy tôi về. Người đàn bà ấy mới khóc có một lần, vào độ chết một đứa con. Tôi mỉm cười, nhìn tất cả những cái ngây thơ của người miền xuôi, nghĩ đến núi rừng. Người miền xuôi vẫn không dám tin tôi. Nhưng sự thực trờ trờ là tôi vẫn sống mà về được đến đây. Có đen đi, có già đi, nhưng lại rắn rỏi hơn. Giao nước cũng chẳng sốt siếc gì. Cái thân thể cò hương, cái tâm hồn chỉ một chiều u ám cũng đủ làm rũ hết, không ngờ lại có sức chống trọi ngang bướng ấy. Họ cho là ngang bướng lắm.

    Riêng tôi, về giữa họ, tôi thấy tôi là một thằng nhút nhát. Và lạc hậu. Đồng bào miền xuôi đã đi sâu vào cuộc kháng chiến. Tàu bay, tiếng súng, giặc cướp làng, ở một vài vùng đã thành chuyện hàng ngày. Họ đã quen. Cũng như ở miền rừng núi, người ta đã quen với ve, với vắt.

    Tôi đã cười rất nhiều một anh bạn mới ở xuôi lên. Lúc nào, làm gì, đi đâu cũng sợ hổ vồ. Ban đêm, anh đứng trong nhà đái ra ngoài. Nằm giữa sáu người, anh vẫn giật mình mỗi khi nghe tiếng sột soạt ở những bụi cây quanh nhà. Dường như anh cứ đinh ninh rằng: nếu hổ nó bỗng thấy hứng muốn chộp một người để điểm tâm, thì nhất định nó soi đèn tìm đích xác anh để mà vồ, chứ không chịu vồ người khác.

    Tôi đã bị anh em cười lại còn dữ hơn tôi đã cười anh bạn. Mới về đến Sơn, tôi đã hỏi người ta đủ thứ. Đêm ngủ ở đấy có được không? Chúng nó tiến thế nào? Nếu gặp chúng nó thì nên chạy như thế nào? Nên đi bộ hay đi đò? Đi đêm hay đi ngày?…

    Ngờ nghệch! Muốn yên lòng, tôi chỉ việc nhìn ra chung quanh một tý. Cánh đồng rất thanh bình. Lúa xanh rờn, lúa có đòng đòng xen lẫn với những mảng lúa đã vàng, đã hoe vàng hay đã chín hẳn, bông nặng trĩu. Đã lác đác có người đi gặt. Họ nói rằng: đáng lẽ lúa năm nay tốt lắm, mấy cơn bão có hại ít nhiều, nhưng tình hình thóc gạo không có gì đáng ngại.

    Người đi buôn ồn ào trong các chợ, tấp nập trên các con đường, tươi cười trong quán nước, hàng cơm. Phần nhiều là những người đầu đội vai mang, đổ hàng suối mồ hôi để cho hàng hóa đất nước được lưu thông. Có những người khác chỉ khoác một cái bị con con hay xách một cái túi nhỏ xinh xinh. Đó chính là hạng buôn to. Họ cũng mặc quần áo vải nâu hoặc đen, nhưng lối may đỏm dáng hoặc “du”. Nói năng thì thầm, dùng nhiều tiếng lóng, mà mặt mũi thì láu lỉnh. Tiêu xài lớn. Họ ghét công an lắm. Các bố ấy bây giờ hắc tợn! Nhiều tay chợ đen lão luyện đã nghĩ đến cái sự bỏ nghề hại nước hại dân ấy, để tìm nghề khác.

    Tàu bay sục suốt ngày. Chúng nó bắn gì mà bắn luôn luôn, trút luôn hàng chục quả bom. Một lúc, một chiếc lượn vèo vèo ở chỗ tôi. Tôi tưởng nó bắn ngay trên nóc nhà tôi trọ. Một lát sau, hỏi ra mới biết là nó bắn sông. Có gì đâu! Một chiếc thuyền nhỏ chở chuối qua sông trên chỉ có hai người. Hai người nhảy cả xuống sông. Một người bám lấy một sợi dây buộc vào thuyền, cứ chạy quanh cái thuyền để tránh làn đạn của máy bay. Nước bắn tóe lên ở chung quanh. Nhưng họ không chết. Thuyền cũng không trúng đạn.

    Trong khi ấy, ở cánh đồng vẫn gặt. Người đi đường vẫn cứ đi. Ông giáo ở trường bên đọc chính tả vẫn choang choang. Thằng bé ẵm em ngồi ở võng bảo tôi:

    – Pi-phai, anh ạ!

    Lúc sáng ngày nó bảo:

    – Bố già!

    Nó phân biệt tiếng động cơ máy bay giỏi thật!

    Ngay sau đấy, một anh tuyên truyền xã vác loa mời mọi người đi dự cuộc mít tinh tuyên bố kết quả ba tháng thi đua. Tối nay có diễn kịch ở thôn trên. Tiếng trống ếch và tiếng hát của đoàn thiếu nhi thúc giục mọi người. Đàn ông, đàn bà, phụ lão, thanh niên ơi ới gọi nhau đi. Ông cụ chủ nhà mải đập lúa không đi được, luôn miệng xin lỗi các cụ đi qua ngõ:

    Đón các cụ đi thôi. Nhà cháu dở nắm lúa, làm cho xong phơi phóng rồi còn cất đi. Ta cái gì cũng cẩn thận là hơn. Đề phòng nó tấn công. Nhà cháu xin khất các cụ đến lần sau…

    Bà cụ buồn chi? Hình như đôi vợ chồng già ấy cho cái sự mình bận việc nhà bỏ việc công là đáng lấy làm xấu hổ. Họ phân trần mãi với tôi. Họ bảo nhau: “Tăng gia sản xuất cũng là giúp nước”.

    Tăng gia sản xuất cũng là giúp nước. Cố nhiên. Và không để thóc lúa lọt vào tay giặc cũng là đánh giặc… Những khẩu hiệu đưa ra rất hợp với quyền lợi của dân. Bởi vậy người dân bây giờ nói và nghĩ toàn bằng khẩu hiệu. Sốt sắng thực hành khẩu hiệu.

    Tối hôm sau, chúng tôi vào ngủ nhờ một làng đã bị địch cướp phá nhiều lần. Mấy hôm nay báo động luôn. Tôi vẫn tưởng người ta sống ở đây lặng tiếng im hơi như ở các làng gần vị trí địch, khi địch mới tràn ra. Nhưng người ta chỉ xem những mảnh lúa nào gặt được thì gặt gấp thôi. Vào một nhà, thấy thóc lúa đầy sân. Người đập lúa, giữ lúa tấp tới dưới trăng. Con gái con trai. Những bó lúa quật xuống cối đá thình thịch. Lúa bắn tóe, rào rào. Tiếng cười giòn. Chỉ nghe tiếng cười cũng đoán ra được những cặp má đầy căng lúm đồng tiền và những con mắt long lanh. Bỗng nhiên chó sủa ran. Những tiếng gắt gỏng gọi nhau. Một anh con trai quăng cái néo xuống sân, lững thững vào nhà. Anh hút một điếu thuốc lào, hỏi chuyện tôi một vài câu có tính cách xã giao. Rồi anh lùi lại gian bên, trật khăn vải bịt đầu, giũ sạch những hạt thóc bám ở đó đi, dùng nó phủi quần, phủi áo. Du kích đang gọi nhau đi họp. Anh đi họp.

    Cuộc đời bình thường. Ở những vùng như vùng này, súng nổ là chuyện bình thường. Súng không nổ, đó mới là bất thường. Những hôm ấy, người ta bảo: “Hôm nay, chưa thấy súng”. Nhưng đừng tưởng sống như vậy, người ta chỉ còn nghĩ đến một việc là đối phó với tiếng súng thôi đâu! Ông cụ chủ nhà vừa cưới vợ cho thằng con trai thứ hai, tốn hơn một vạn đồng. Tôi rất ngạc nhiên. Tiêu hơn một vạn đồng vào việc cưới lúc này? Một đám cưới nhà quê?…

    Thưa ông, ăn uống đã tinh giảm đi nhiều rồi đấy ạ! Nhà cháu có dám bày vẽ gì đâu? Nhưng chết cái may mặc bây giờ đắt quá!

    Ông phân trần như vậy. Ngoài đường bây giờ hiếm họa lắm mới gặp cái áo dài. Nhưng vẫn còn có những cô dâu, lúc sắp về nhà chồng đòi cho được đủ áo đơn, áo kép, khuyên vàng, xà tích.

    Tảng sáng hôm sau, chúng tôi ra đi được mấy bước thì có tiếng súng máy nổ ran. Giặc hay đánh vào các làng lúc tang tảng sáng. Cũng chẳng sao. Một người đàn bà gánh nặng, từ một cái ngõ tối ra. Đặt gánh nhìn lại phía sau lưng một chút rồi lại đi, cái đòn gánh kĩu kịt trên vai. Chúng tôi đi theo chị.
    Thanh niên một làng đang tập thể thao. Họ chỉ mặc mỗi người một cái quần đùi. Vũ khí đặt sẵn bên bờ sông.

    Súng nổ mỗi lúc một xô xát thêm. Tôi có cảm giác như không phải vì nó gần thêm, nhưng trời càng sáng thêm làm cho người ta nghe càng rõ. Là vì đường càng sáng thì lại càng đông người qua lại. Người đàn bà chúng tôi theo đã nhập vào một chuỗi đàn bà, con gái gồng gánh khác. Họ chuyện giòn, cũng cười giòn. Chuyện chạy Tây, vừa kể vừa cười. Ngày xưa họ kể chuyện nhà chuyện cửa, chuyện chồng đánh bạc, chuyện nàng dâu, chuyện mẹ chồng. Bây giờ họ chuyển sang chuyện đánh giặc và đi học.

    Mặt trời đã nhô lên, nắng buổi sáng xiên chênh chếch. Súng càng dữ dội. Giặc đuối thế hay sao mà chúng nó bắn rất nhiều súng lớn. Một tiếng súng, người ta kêu: “Đấy! Đấy!”. Nhưng người ta vẫn bước đều. Người mải chuyện vẫn chuyện đều. Những cái gánh vẫn nhấp nhô nhấp nhính theo nhịp bước chân thoăn thoắt.

    Chúng tôi dừng lại ở một cái chợ nhỏ họp ngay trên mặt đường, để ăn cơm. Tôi hỏi bà hàng.

    Cụ có biết súng ở đâu không?

    Ở T.

    T. ở mạn nào, cụ nhỉ?

    Ở ngay trước mặt này. Cứ đi thẳng con đường này, sáu cây số. Tôi sửng sốt

    Cách có sáu cây thôi à? Ta có đánh chặn không?

    Nếu ta không đánh, nó đến đây từ bao giờ rồi.

    Thế mà cụ không chạy à?

    Nó đã đến được đâu mà chạy? Nhiều khi chúng nó đến tận nơi chúng tôi mới chạy.

    Chạy lối nào?

    Tùy đấy. Nó ở đầu kia lại thì chạy đầu này. Nó ở đầu này lại thì chạy đầu kia. Nó ở cả hai đầu lại chạy vào mạn núi. Có khi nó đi cả trong con đường ven núi, vây ba mặt, chúng tôi ở giữa.

    Thế mà không sợ nhỉ?

    Nhiều khi cũng sợ

    Thật ra không ai sợ. Người ta ăn cơm vẫn ăn cơm. Người ta hút thuốc lào vẫn phồng má thổi cái mồi rơm. Một thiếu phụ bế nách một thằng bé con phụng phịu đang mặc cả mua cho nó mấy quả hồng. Bà hàng phở ở trước cửa, ý chừng vào hàng tản cư, nheo nhéo mời khách qua đường.

    – Mời các ông nghỉ chân, vào xơi cơm, xơi phở!

    Miền xuôi quả có khinh địch thật. Tôi cứ tưởng sau vụ Vân Đình, những đất chợ có tiếng của miền xuôi tản cư hết cả rồi. Nhưng mấy cái chợ ấy vẫn còn chật nứt người. Đông, nhộn không khác gì Hà Nội trước. Hàng tạp hóa, hàng thuốc, hàng vải, hàng cơm, tiệm cà phê, có phòng ngủ và buồng tắm. Có cả những tiệm ăn rất sang, đủ các món ăn Tây. Cũng may mà cạnh những phố xa xỉ ấy, những phố kỹ nghệ đang cựa quậy để thành hình. Người ta đang làm khá nhiều những máy cán bông, máy dệt, máy in. Thuyền san sát ở bến sông. Vẫn vui vẻ, sầm uất lắm.

    Miền xuôi đã đi sâu vào chiến tranh, song những vùng tự do miền xuôi – nghĩa là chín phần mười đất miền xuôi – là có vẻ rất thái bình. Một vài quãng sông, vẫn còn ca nô chở khách. Nhiều con đường có xe tay. Rất nhiều vùng địch chưa chạm đến bao giờ, người dân vẫn sống rất yên ổn ở nhà mình, chưa phải xê xích một bước. Những vùng khác phần nhiều mới bị địch lướt qua vài ba trận. Người ta gạt đi trong chốc lát rồi lại kéo nhau về. Họ sửa sang lại nhà cửa, lại làm ăn. Lúa lại xanh. Chợ lại đông hơn ngày trước bội phần. Dân quân, du kích, không có Tây để đánh, thay phiên nhau đem tiền lưng gạo bị, mỗi tháng mươi ngày ra các mặt trận dự chiến cho quen tiếng súng. Tập trận giả mãi cũng nhạt trò. Họ muốn chơi trận thật.

    Nhiều nơi như vậy. Chiến tranh mới chỉ lướt qua một đôi lần như những cơn bão ngắn.

    Và cả những cơn bão nữa. Năm nay bão hai lần. Có vùng thiệt hại ít nhiều. Nhưng có những vùng đã không thiệt còn lợi thêm ra nữa. Người ta bảo:

    Đáng lẽ thì lúa xấu, vì lúa có sâu. Bão không làm đổ lúa nhưng lại giũ sạch sâu. Thành ra được mùa. Nếu gặt hái trót lọt, nhất định không sợ đói.

    Sự thật, dân mình no hơn trước. Gà lợn nuôi nhiều. Số thịt bán ở các chợ tăng lên. Bông vải cũng đã tăng chút ít. Hạng người vay nợ hầu như không còn nữa. Quỹ nghĩa sương lập ở hầu khắp các làng. Nhưng ở hầu khắp các làng hiện nay, quỹ nghĩa sương không thể sinh sôi nảy nở. Không có người vay thóc.

    Tình cảnh đồng bào ở các thành phố tản cư, bối rối hồi đầu, cũng ổn lại dần dần. Mỗi người cố kiếm ra nghề nghiệp để làm. Cố nhiên là cuộc đời có chật vật hơn xưa. Đôi khi, có thể nói: thảm thê. Nhưng nói chung, vẫn sống. Có người lại sống đường hoàng hơn trước nữa.

    Một người quen bảo tôi:

    Anh cứ mở một lớp dạy tư. Tôi cam đoan rằng anh có thể kiếm mỗi tháng từ năm trăm đến một nghìn. Bây giờ người ta ham học lắm.

    Người ta ham học thật. Các trường học, mặc dầu mở thêm khá nhiều, vẫn không đủ nhận hết học trò. Người lớn đã hai, ba con cũng cố xin vào học lớp với trẻ con. Ở một trường tiểu học kia, có cả một nhà sư trong số các học sinh. Những lớp dạy tư mở nhan nhản ở các làng. Nhiều ông chủ tịch xã, buổi sáng ra trụ sở, buổi chiều đi học trường trung học. Đến đâu cũng thấy kêu thiếu sách. Tôi đem theo mấy quyển sách để xem, bị anh em cướp hết. Nhất định không trả lại. Muốn lấy bao nhiêu thì lấy!

    Trong cuộc thi đua ái quốc vừa mới nhóm, việc thi đua học tập sôi nổi và có kết quả nhiều hơn hết.

    Tháng Mười 1948
     
  10. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Bốn Cây Số Cách Một Căn Cứ Địch
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những người ở vùng chung quanh cho biết rằng thường thường cứ độ bốn giờ chiều hay quá bốn giờ một tí là những toán quân Pháp đi ăn cướp đã trở về căn cứ hết. Mặc dầu vậy, tôi đợi tận tối mịt mới sang đò. Sang ở một bến cách làng tôi hai làng.

    Tôi có cảm tưởng như đêm đã khuya lắm. Làng xóm im lìm. Không có một tiếng chó cắn. Không một ánh lửa. Không một tiếng người ho. Người canh gác cũng không. Tản cư hết rồi sao. Tôi không khỏi hơi thấp thỏm và gần như không nghĩ đến, tôi tự nhiên đi chậm lại và cố bước cho thật nhẹ. Mắt tôi chăm chú nhìn vào trước mặt. Nghi ngờ từng bụi cây lù lù ở bên đường, tai nghe ngóng. Chẳng có gì. Tôi chỉ nghe thấy tiếng tim tôi đập. Đường vắng quá. Tôi chợt thấy hơi ngần ngại. Biết đâu giặc đã chẳng xích vị trí đến gần hơn? Tôi đứng lại một chút nhưng rồi lại bước. Bỗng có tiếng hô: “Ai! Đứng lại!”. Tôi có cảm giác như không phải tôi giật mình mà chính không đoán được tiếng hô từ chỗ nào ra. Hai bên đường là giậu che kín mít. Chừng nửa phút sau mới có bóng hai người tiến lại trước mặt tôi.

    Ai đi đâu đấy?

    Tôi về Đại

    Ông ở đâu đến?

    Tôi đưa giấy. Một người tự vệ biến đi một lúc để xem rồi trở ra trả lại.

    Mời ông.

    Ông cho tôi hỏi thăm một chút. Từ đây đến Đại có Tây không?

    Không có đâu. Nó cách Đại một làng, ở làng Bái Thượng.

    Tôi vững dạ hơn một chút. Rõ thật là một anh chàng nhát gan vừa ở một chỗ an toàn đến! Tôi tự cười tôi như vậy. Trời lành lạnh. Đến tận bây giờ tôi mới biết là trời lành lạnh. Tôi bỗng ngừng phắt lại. Có người. Tôi vội né ra vệ đường, nép người vào một bụi tre để họ không nhìn thấy. Họ lại gần. Mấy người vừa đàn ông vừa đàn bà, đội gánh đi lặng lẽ, mải miết.

    Các ông các bà đi đâu thế này?

    Chúng tôi đi tản cư đây

    Các ông các bà ở tận đâu?

    Chúng tôi ở Bái.

    Ở Bái, sao người ta nói có Tây ở đấy?

    Có Tây nhưng chúng tôi vẫn lén về luôn luôn. Lén về lấy lương thực hàng hóa đi.

    Tôi lại càng thấy tôi là hèn. Tôi không sợ nữa. Nhưng đã đến địa phận làng tôi được một lúc rồi. Chỉ còn một quãng nữa là đến nhà tôi. Vẫn hoang vắng, vẫn im lìm. Vẫn tối tăm. Vẫn cái nhà lặng lẽ không lửa không người. Ôi chao! Đâu là cảnh tấp nập những buổi tối trước đây: Những thanh niên tập gậy chan chát ở đường, nhi đồng hát, những ông già ngồi nói chuyện, hút thuốc lào trong quán nước, lớp bình dân học vụ mới bắt đầu, tiếng giáo viên choang choang và tiếng học trò râm ran… Gia đình tôi chạy đâu rồi? Xóm tôi có còn ai ở nhà nữa không? Sau nửa năm trời xa vắng chính làng tôi, tôi lại không thể nằm một đêm ấm cúng bên vợ con, ở trong cái nhà gỗ xinh xắn mà tôi đã phải chật vật mãi mới làm nên được?

    Nhà tôi bây giờ chắc đã có cái mùi ẩm mốc và lạnh lẽo của những nhà không người ở. Liệu có còn một chiếc chiếu nào ở nhà không? Tôi thấy trước rằng đêm nay nằm co quắp ở đây, tôi sẽ thao thức suốt đem, lòng tê tái chết lịm đi trong cảnh cô quạnh, mênh mông của căn nhà rộng quá. Không có cái đèn ấm áp hắt lên tường, không có tiếng nói cười ríu rít của thằng Thiên, con Hường xúm xít quanh mẹ, đùa với thằng em nhỏ mười lăm tháng đang vừa cười với chúng vừa áp má vào ngực vợ tôi, không có nụ cười dịu dàng của vợ tôi cúi xuống các con, căn nhà của tôi chỉ là một căn nhà chết. Tôi biết trước rằng nước mắt tôi sẽ lặng lẽ chảy suốt đêm nay ở trong căn nhà này. Tôi thấy một cảm giác uất ức xông lên mạnh trong óc và một cục gì nghèn nghẹn trong cổ họng. Đôi mắt căm giận của tôi nhìn qua bóng tối về làng Bái Thượng, nơi có quân hùm sói đang gây ra cảnh chết chóc điêu tàn này. Làng tôi… Chao ôi! Chốn làng quê yêu dấu của tôi sao lại đến nỗi thê thảm như thế này! Tôi dừng lại ở dốc đê đầu lối rẽ xuống con đường nhỏ đưa vào xóm tôi, do dự. Tôi nhìn vào con đường nhỏ ấy, con đường chỉ thấp thoáng giữa những cái ao lớn, nước đen loang loáng rồi lại nhìn trở xuống. Về nhà chăng? Hay là đi đâu?… Tôi muốn đi tìm một người nào để nói chuyện, để được nghe tiếng người một chút. Nhưng mà tìm ai, còn những ai ở nhà?… Tôi lại gần một cái nhà ở vệ đường: cổng đóng. Cửa chắn liếp, im lìm. Tôi dặng hắng: chẳng có ai ra. Có lẽ đi đến nhà nữa thì cũng chỉ thế thôi!… Tôi lại do dự một lúc toan quay trở lại.

    Nhưng bỗng có tiếng cười đột ngột. Những tiếng cười vui vẻ thật to, thật mạnh bạo rung lên giữa cảnh im lìm tha ma ấy, rung lên một cách lẻ loi, nghe lạ lắm. Tôi mừng rỡ: cái thứ tiếng lanh lảnh ấy là tiếng Hiến, một anh thanh niên làng. Còn cái tiếng hơi hơi ồm ồm pha vào đấy, tôi nhận ra là tiếng Khôi. Hai người trẻ tuổi khoác tay vào nhau, vừa đi vừa kể cho nhau chuyện ông chi Bình ghẹo gái. Khôi bắt chước ông chi Bình, dặng đến “ề” một tiếng trịnh trọng, và nhai cái thứ tiếng khệnh khạng của ông, hỏi:

    Ai?

    Tôi

    Tôi là đàn ông hay đàn bà?… Đàn bà à? Già hay trẻ?

    Hiến lại cười khanh khách, cười ngặt nghẽo. Khôi hòa tiếng cười hừ hừ của anh theo. Họ nghiêng ngả, vừa cười đùa như vậy vừa đi tới.

    Tôi đột nhiên thấy lòng sáng rực. Không! Làng tôi không chết, làng tôi vẫn sống. Một dòng nhựa thanh xuân vẫn ứ đầy trong nó. Cái thứ tiếng trẻ trung ở đây, nghe sao nó phấn khởi lạ lùng! Tôi thấy mạnh mẽ thêm lên. Hết cả nỗi buồn nhà vắng vườn hoang. Có gì thất vọng đâu? Người tạm đi nhưng màu đất vẫn phì nhiêu, cây cối vẫn tốt tươi. Và giữa cảnh tĩnh mịch này, tiếng cười vẫn vang lên. Chỉ có hai tiếng cười thôi nhưng nó đã dám vang lên bất chấp tất cả, và mạnh mẽ, và ngạo nghễ. Vẫn có những người ở lại. Vẫn có những mầm sống đầy căng và cựa mạnh như một tấm thân mười tám tuổi, nó đang lớn rất nhanh, nó phù phù, chống chọi cái chết, ăn lấn cái chết, cố bửa toang nó ra, trồi ra ánh sáng không khí và khoảng rộng để lớn mạnh, lớn nhanh gấp trăm nghìn lần nữa. Không có gì bóp ngạt được cái sức mạnh tuổi trẻ đang lớn ấy…

    Tôi hỏi to như một tiếng reo.

    Khôi, Hiến đấy phải không?

    Ai đấy?

    Tôi lại gần họ, đặt tay lên vai họ. Trời tối và quần áo tôi có khác nên phải một lúc họ mới nhận ra tôi…

    A, anh Vinh! Anh ở đâu về thế? Khôi nắm chặt lấy tay tôi. Hiến rú lên:
    Úi giời ơi, anh Vinh, anh Vinh! Sao mãi anh không về thế? Chúng tôi cứ tưởng anh đã xa mất rồi.

    Tôi cảm động. Tôi vốn yêu họ và họ vốn yêu tôi lắm. Chúng tôi là những người đồng chí cùng hoạt động với nhau ngay từ hồi bí mật. Tổng khởi nghĩa xong, tôi phải xa làng, xa họ, theo đuổi những công việc hợp với sở trường của tôi hơn, nhưng dù sao tôi vẫn không quên những bạn tranh đấu rất trung thành của tôi ở quê nhà. Tên tôi vẫn có trong bản danh sách những đoàn viên thanh niên cứu quốc ở làng tôi. Tôi vẫn gửi Hiến tiền để đóng góp dần nguyệt phí cho tôi. Mỗi lần về thăm nhà tôi lại đến họp với anh em. Tôi gây một cái quỹ chung có nhiều tiền rồi dùng tiền ấy mở hợp tác xã, chăn nuôi, thầu các ao đầm thả cá, trồng sen, mua ruộng đất để tăng gia sản xuất. Dần dần, đoàn thanh niên trở thành đoàn thể cột trụ, đông nhất, vững vàng nhất, chặt chẽ nhất, hoạt động nhất trong làng. Lúc này được thấy họ vẫn ở lại, và tinh thần vững, tôi sướng lắm.

    Tôi hỏi họ:

    Các anh vẫn ở nhà?

    Thanh niên mà cũng chạy thì hỏng bét: chúng tôi đã quyết nghị thanh niên cũ ở làng tất cả.

    Thế gia đình?

    Gia đình thì phải chạy, chứ ở nhà lúc nó đến thì làm sao được?

    Bọn mình có chết nhiều không?

    Mới có sáu người.

    Hiến kể tên. Anh kể lại những chiến công và cái chết anh hùng của từng người. Tôi không khỏi đau đớn nhưng đồng thời lại thấy lòng kiêu hãnh nữa. Hiến cho tôi biết gia đình tôi đã tản cư hết cả, nhà không còn chăn chiếu. Tôi hỏi họ.

    Có chỗ nào ngủ không?

    Nhiều lắm. Đi vào Ngữ. Ở liền ngay đây.

    Sao lại ở liền ngay đây?

    Ấy thế. Chúng tôi đổi chỗ lung tung. Không anh nào ngủ ở nhà. Mẹ chúng nó! Chúng nó sục bọn mình ghê lắm!

    Tôi phải bám lấy vai Hiến để Hiến dắt tôi đi. Mấy hôm trời mưa, cái lối đi hẹp vừa trơn, lại vừa khúc khuỷu quanh co hết ruộng đến ao, bên những rặng tre rậm rạp. Khỏi một cái cầu tre chúng tôi vào một cái giậu vừa tre vừa duối sang một cái ngõ khác cũng có ao ở hai bên, rồi lại chui giậu, lại tạt qua vườn. Quanh co một lúc tôi bỗng trông thấy lập lòe ánh lửa. Lại gần thì là một cái nhà tre nhỏ. Ngữ đang cởi trần ngồi, vừa đun bếp vừa bắt rận bỏ vào bếp nướng. Chị vợ ngồi một bên đang vừa xếp chuối vào một cái rổ sề to và cười. Anh chồng vừa mới bảo: “Phải tiễu trừ hết cái giống thực dân hút máu này đi mới được! Mình tóm đến một đại đội rồi mà vẫn chưa ra sự hết”.

    Tôi bịt mũi bắt chước giọng Tây mũi lõ, hỏi bằng một câu tiếng Pháp.

    – E, tu ve, làm gì đấy?

    Anh quay ra, chắp hai tay vái:

    – Lạy quan lớn ạ. Mời quan lớn vào đây mà xơi trống.

    Anh tưởng chỉ có Khôi, với Hiến. Thấy có người thứ ba, anh dán mắt nhìn và nhận ra tôi.

    Cậu nào như Vinh, có phải không?

    Đúng rồi, Vinh đây.

    Anh vất áo ngay xuống đất, chạy ra:

    Úi giời ơi, mày thì chết với ông! Mày bỏ chúng ông đi đâu mãi nửa năm giời không thấy ló mặt về? Ngộ Tây nó xơi hết chúng ông rồi thì mày sống mà ở với ai? Lần này thì mày có chạy đằng giời. Đội du kích của chúng ông còn thiếu chính trị viên cừ, chúng ông cứ tiếc mãi không có mày.

    Tôi chỉ còn biết gì chặt lấy cổ anh, cười. Khôi bảo:

    Lần này thì cứ cột cổ cậu ấy ở nhà. Bây giờ thì dụng võ cứ uỵch Tây cho cẩn thận chứ còn văn chương gì!

    Hiến cũng chêm vào

    Nói thật đấy chứ chẳng đùa đâu. Lớp này cậu cứ ở nhà với chúng tớ, vui lắm. Tôi vừa bước vào nhà vừa bảo:

    Vui thật! Nhưng ở nhà thì tôi lấy gì mà ăn. Vợ con đi hết cả rồi còn bá víu vào đâu được? Ngữ bĩu môi và đưa vội bàn tay lên, xua xua trước mũi.

    Cậu thật xoàng! Có cần quái gì đến vợ con. Vẫn sống như thường. Chúng tớ tổ chức thần tình lắm…

    Họ tổ chức thần tình thật. Thanh niên bỏ một số tiền ra. Dân làng góp vốn thêm, họ đi mua bông và sợi rồi đem đến chỗ tản cư cho đàn bà, con trẻ kéo sợi và dệt vải. Đàn ông và đàn bà khỏe mạnh mà không bận con thơ có thể đi về được thì ban đêm cứ việc về, thu hoa lợi ở vườn, đem đi bán mà ăn. Ai nhanh nhẹn trốn lẩn tài, cứ việc ở nhà, làm nhưng phải dự bị sẵn chỗ bí mật để phòng khi giặc đến. Lại chỉ được giữ trong nhà một số ít lương thực đủ năm này, hết sẽ lấy thêm: giữ nhiều ở nhà, sợ Tây về cướp mất. Đó là chung cho cả làng. Còn riêng đoàn thanh niên, họ sống tập đoàn, làm hợp tác xã và tổ chức đổi công giúp đỡ lẫn nhau. Còn rồi thì làm thuê cho các làng. Họ lại còn sắm thuyền để giúp sự vận tải lương thực và hàng hóa của dân làng được dễ dàng, giao tiền cho mấy người thành thạo đi buôn, kiếm thêm về để anh em ăn mà làm công việc. Làng chia ra thành từng khu, mỗi khu đặt một tiểu tổ thanh niên, có nhiệm vụ giữ gìn vườn đất và nhà cửa cho những gia đình ở trong khu vực của mình. Giặc đến thì báo hiệu cho nhau, liệu đánh được thì đánh. Nếu không đánh được thì chỉ việc chui vào chỗ bí mật nằm mà nhịn thở. Thỉnh thoảng kéo nhau theo bộ đội đi đột kích. Cũng có khi mình anh em đi quấy rối địch cho quen và để có thêm kinh nghiệm về quân sự…

    Nhờ những cách tổ chức khá hoàn bị ấy mà dân làng đi tản cư vẫn có việc làm, có cơm ăn, vườn ruộng không đến nỗi bỏ hoang, hoa màu vẫn thu hoạch được gần đầy đủ như xưa, và mặc dầu là không mấy ngày là không có Tây đến thăm làng, chính quyền vẫn giữ được như thường, không hề xảy ra một vụ trộm cướp nào, tài sản của nhân dân vẫn không suy chuyển, số người bị hiếp, bị bắt có thể nói là ít hơn nhiều vùng khác…

    Ngữ bảo tôi:

    Như vậy cũng là tạm ổn rồi. Không như hồi mới đầu, dân chúng rất hoang mang. Bây giờ họ đã quen. Riêng trong bọn chúng mình thì tinh thần lên một cách không ngờ. Số đoàn viên tăng gấp năm lần. Ấy thế mà đã mất đi đến 100 người xin vào Vệ quốc đoàn, hay vào các cơ quan khác. Kỷ luật vẫn chặt chẽ như thường, có phần còn chặt chẽ hơn xưa. Những nhân tài mới nảy rất nhiều cho nên một số bị hỏng không thấm tháp. Thí dụ như thằng Còm chẳng hạn. Mày có bao giờ dám ngờ rằng có ngày nó dám một mình mang lựu đạn theo Tây để ném không? Thế mà nó chơi ngang như vậy đã mấy lần. Một lần chết hai thằng, Tây cáu vào đốt mẹ hai cái nhà của xã Ngân. Một lần nó với Khôi, một thằng phục bên này đường, một thằng trèo lên nóc cổng xây nằm, đợi một bọn Tây tám thằng qua. Tây đến, Còm ở trên nóc cổng xây mở chốt lựu đạn choảng luôn. Lựu đạn câm, Khôi ở bên này đường vội tương luôn một quả theo. Cũng may mà quả ấy nổ, nên cả hai thằng cùng chạy thoát. Chắc là Tây có chết, chết bao nhiêu thằng. Chỉ biết là có vết máu ở đường. Nhưng buồn cười nhất là có một lần cu cậu đang nằm ở trong nhà thấy có ba thằng Tây với một thằng Việt gian đi qua ngoài đường, ngứa mắt quá, còn hai quả lựu đạn thủ vào túi đi theo. Đến chỗ ngõ nhà ông cửu Biểu, cu cậu tương một quả. Lựu đạn rơi đến bịch một cái như một quả na xanh rồi lăn lông lốc. Thằng Việt gian sấn lại túm ngực cậu, gọi Tây “Ê xừ! Việt Minh, Xừ!…”. Bí thế còn một quả nữa, cu cậu rút nốt ra nhưng không thèm mở kíp, chỉ việc nắm thật chặt trong tay nhè mặt thằng Việt gian mà quật vào sống mũi. Thằng Việt gian đau quá phải buông ra. Cậu chạy thoát. Hụt chết rồi cu cậu vẫn còn nói khoác “Mẹ kiếp, ông chỉ có lựu đạn thối, Tây cũng đếch làm gì nổi ông. Ném không nổ thì ông dùng làm quả đấm. Không vỡ mặt Việt gian đấy à?”

    Tôi cười bò ra. Sao mà có những con người thú thế! Tôi thấy yêu họ lạ. Thật tình lúc ấy tôi rất muốn ở quách làng làm chính trị viên du kích để được sống chung với họ…

    Khôi chợt bảo

    – Này, cái tay lý Tôn bây giờ hay lắm nhé! Hẩu với tụi mình ghê lắm!

    Tôi sửng sốt. Sửng sốt không phải vì lý Tôn có thể thành tử tế với thanh niên nhưng vì thanh niên đã dám tin rằng lý Tôn có thể là người tốt. Tôi đã vất vả vì chuyện ấy mấy lần mà vẫn chưa được kết quả gì. Họ thì chủ trương rằng khăng khăng những người ấy đục khoét quen rồi, không thể đưa họ ra làm việc. Phép lạ nào đã gây được sự hợp tác tôi vẫn mong chờ ấy?

    Ngữ cười.

    Có gì đâu! Cu cậu có mấy trăm thùng thóc chưa kịp tải đi. Muốn thuê người chẳng có ai. Thanh niên chúng tôi tình nguyện tải cho muốn trả công hay không cũng chẳng cần. Thật ra thì chúng mình chỉ muốn tải đi để khỏi thóc sa vào tay giặc. Nhưng cu cậu thì mừng sút đầu gối cảm kích, sáng mắt ra, đã chịu cho chúng mình thật có công tâm. Vì thế hết sức ủng hộ an hem, lại lôi kéo cánh tổng lý theo. Chưa lúc nào làng mình đoàn kết hơn lúc này.

    Tôi vỗ đùi nói

    Đã thấy chưa! Tôi đã nói mãi rồi rằng phải tin “ông già” rằng ai cũng có thể tốt được mà các cậu cứ đa nghi, chủ trương hẹp mãi, không chịu lôi kéo họ.

    Ngữ bĩu môi chiệp chiệp mồm

    Không có thời cơ thuận lợi thì có mà lôi. Phải có những dịp như dịp này để họ hiểu lòng dạ chúng mình mới ăn cờ chứ!

    Dù sao thì đó cũng là việc rất đáng mừng. Tôi còn mừng hơn được khi nghe họ nói họ giết được Tây.

    Tôi bảo họ.

    Phen này độc lập rồi tha hồ mà kiến thiết. Thành một khối rồi không còn những người cản trở, mở mang gì mà chẳng được?

    Hiến gật đầu

    Tất nhiên như thế rồi. Nhưng các cậu định nói chuyện suốt đêm đấy à? Có lặng im cho chị Ngữ chị ấy ngủ không? Sáng mai chị ấy còn đội chuối đi sớm kẻo lại gặp Tây thì đi đời nhà chuối!

    Ngữ bảo.

    – Cứ việc nói. Nhà tôi xếp thuyền đi ngay bây giờ, không ngủ nhà.

    Tờ mờ sáng hôm sau, cơm nước xong rồi, tôi mải miết ra đi. Thế mà vẫn muộn quá rồi. Mới đi được nửa quãng đã nghe thấy tiếng súng nổ dữ dội ở mạn trên. Các anh tự vệ bảo tôi.

    – Anh trở lại đi. Tây về chợ Vu. Chúng nó đi lối đường Nam-Trử.

    Tôi sợ nó có thể đi cả lối đường dưới nữa nên không trở lại. Tôi rẽ xuống bờ sông. Nghe báo động người ta dìm hết cả thuyền rồi. Tôi cởi quần áo cho vào bị, đội lên đầu rồi lội qua sông. Nước lạnh toát như nước đá. Sang được đến bờ bên kia tôi tím cả người, run lập cập. Nhưng cái ấy có nghĩa lý gì với tôi lúc bấy giờ. Một đêm gần gũi Hiến, Ngữ, Khôi tôi không nhiễm được cái tính vui, hăng, bất chấp tất cả của những thanh niên phải chiến đấu hàng ngày trong những vùng sát địch kia? Tôi vừa mặc quần áo vừa cười rất khinh thường những tràng liên thanh rèn rẹt ở cách mình có hai cây và mỗi lúc một gần thêm. Ở bên bờ này, trống báo động cũng đang truyền dây hết làng nọ đến làng kia. Còi của tự vệ rít lên những tiếng ngắn gọi nhau. Họ rình rịch chạy, bố trí ở trong làng, ở cánh đồng, ở vệ sông. Mắt anh nào cũng nảy lửa lên.

    1949.
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...