Những Tác Phẩm Văn Học Hay Của Nam Cao

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Vân Mây, 1 Tháng tám 2018.

  1. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Đôi Móng Giò
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột, là Hạ, là Đông. Là gì cũng còn dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai.

    Đã thế cái mặt hắn lại vênh vênh, ngậu xị thế nào…đôi lưỡng quyền nhô ra như gây sự với người ta. Hai má thóp vào để tiếp sức cho hai cái lưỡng quyền. Cái mũi bóp lại ở trên để cho dưới được banh ra. Nó phệ bụng ngồi trên một cái vành trăng khuyết màu đen giống như hai cái sừng trâu chắp liền lại với nhau: ấy là những cái ria ngoắt hẳn lên. Cái hàm răng vổ làm môi trật hẳn ra. Những cái răng dọa nạt ai; y như một con chó khi nó gừ gừ với một con chó khác. Nhưng tất cả những cái ấy còn có thể tha thứ được. Lỗi ở tay bà mụ nặn. Song những con mắt, những con mắt nó là tấm gương của linh hồn. mới đáng ghét vô cùng. Chúng chỉ bé thôi nhưng chúng lăn tăn, chúng lấp lánh như nhạo, như cười, như khinh khỉnh với người ta. Chúng chẳng nhìn xuống bao giờ. Chúng nhìn thẳng, chúng nhìn nghiêng. Cái nhìn tự đắc như cái nhìn của một kẻ có thể nhắc người ta lên như nhắc một cái lông. Ghét lắm!

    Cái đầu Trạch Văn Đoành không húi như đầu của chúng ta. Một lối riêng. Hắn gọi là mốt tiền văn minh, hậu nhà sư. Đằng trước có mấy món tóc dài để chải lật lên. Đằng sau cạo nhẵn thin như quả bưởi. Cho nó sạch. Hắn tặc lưỡi và bảo thế những khi vui miệng. Bởi vì nếu hắn không vui miệng thì hắn không nói thế. Hắn không thích cắt nghĩa những việc làm của hắn. Ai nói gì, mặc họ. Hắn cứ làm theo ý hắn và không cần nói để tự bênh vực mình.

    Ngay những cái ăn, cái mặt của hắn cũng khác người. Cái ăn bất tất nói làm gì. Người ta ăn ở trong nhà. Vậy thì ai muốn ăn thế nào tùy thích. Ông cũng vậy mà tôi cũng vậy. Ít ra chúng ta cũng có có một xó để tự do. Khi cửa nhà chúng ta khép kín. Ta có thể lố lăng mà không bận gì đến ai. Nhưng chúng ta mặc áo chỉnh tề để ra đường. Vậy thì quần ao sở dĩ có, một phần lớn không phải vì ta, mà lại vì những con mắt nhìn ta. Đã vì chúng, thì chiều chúng một tý kể cũng là phải lẽ. Muốn chiều chúng thật nhiều thì cũng được. Trạch Văn Đoành không thế. Nghĩ đến cách mặc của hắn bao giờ người ta cũng nghĩ đến mùa đông. Bởi mùa đông mới thật có những người mặc chẳng vì ai, nhưng chỉ vì sự dễ chịu của mình. Đoành thuộc vào hạng ấy. Suốt một mùa, hắn chỉ mặc một cái ba-đơ-xuy sắc chó gio. Hắn mua hồi đi lính sang Tây. Có bảy mươi quan. Thế mà bền. Đến nay, tất cả, có đến ngót ba chục năm rồi đấy. Lần lót rách bươm tự bao giờ. Nhưng còn cái lần ngoài. Mặc nguyên nó cũng còn ấm bằng mười áo kép. Hắn mặc suốt ngày suốt đêm, khi ăn, khi ngủ, khi làm, khi chơi. Cái áo ba-đơ-xuy mất hết cúc rồi. Hắn đơm hai cái dải thật to hình cái bơi chèo. Những khi hắn đi cày, hai cái giải được bắt giao nhau để thắt lại ở sau lưng. Chặt chẽ và gọn gàng không kém một cái đai. Những lúc hắn đi chơi hoặc ra đình thì hai dải lại cởi ra buông xuôi cho lẩn vào hai mép áo trong. Hắn lại có vẻ ung dung lắm. Ai dám bảo cáo áo ba-đơ-xuy này là cái áo ba-đơ-xuy đi cày? Mà có bảo nữa thì đã sao?

    Theo lời mấy ông già bà lão trong làng thì Trạch Văn Đoành là con một ông lão dở hơi. Lão đi câu. Được đồng nào, rượu tất. Bởi vì lão không có vợ, nghĩa là có nhưng vợ chết. Vợ lão để lại cho lão một thằng con trai. Nó giống cha, nghĩa là lớn lên cũng đi câu và cũng rượu bét nhè. Hai bố con ở với nhau trong một cái lều ở bờ sông. Mỗi buổi tối, những người phải đi qua, nghe thấy chúng cười như những thằng điên. Bởi chúng say. Mà khi người ta say, người ta quên cả những sự lầm than của kiếp người, nghĩa là người ta sướng lắm.

    Nhưng một đêm mùa đông rét mướt kia, chẳng biết run rẩy thế nào, lão già ngã xuống sông và chết ở dưới sông. Cái xác trôi theo nước. Từ hôm ấy, trong cái lều nhỏ bên sông, người ta không nghe thấy những tiếng cười như điên nữa. Thằng con sinh ra buồn.

    Hắn bỏ làng đi đó đi đây. Đi khắp nước Nam.

    Rừng xanh, núi đỏ hắn cũng không biết sợ. Hắn sang cả Lào, sang cả Cao Miên. Rồi sang cả nước Xiêm. Những nước ấy cũng gần. Hắn muốn đi một chuyến xa xa. Một hôm hắn xin đi lính chào mào để sang Tây. Năm ấy là năm “min-nớp xăng cát-tó”.

    Đình chiến rồi, người ta lại đưa hắn xuống tàu về nước. Hắn lành mạnh như xưa. Bom đạn không làm hắn xước da. Một hôm người bạn ắc-ê của hắn trước kia vốn là một nhà nho, kể cho hắn nghe tích Trình Giảo Kim ở đời Đường. Anh chàng lỗ mãng này mấy mươi lần tính chết mà đều chết hụt. Hắn cười khanh khách, bởi hắn thấy hắn giống anh chàng ấy. Hình như hắn không thể nào chết được. Hắn bắt đầu tin ở cung mệnh hắn. Cái cung mệnh của hắn là tốt lắm, ấy thế là hắn cứ bừa. Chẳng cần gì ai.

    Hắn về làng với một con vợ theo, rất nhiều tiền (hồi ấy bạc trăm đã là to) và phẩm hàm. Hắn bỏ tiền ra, mỏ bò, mổ lợn làm khao. Làng đến ăn rồi làng gọi hắn là ông. Một thằng bạch đinh, con một lão đi câu chết mất xác dưới sông, bỏ làng đi chán đi chê, rồi đột nhiên trở về nhảy tót lên bao lan ngồi làm một ông kì mục. Thế thì ai chẳng tức? Ai ở đây là những ông kỳ mục bỗng bị hắn đè đầu đè cổ. Đó chỉ là một lối nói, thực ra thì các ông chỉ phải nhường hắn ngồi chiếu trên. Nhường một thằng không chôn nổi bố ngồi chiếu trên. Như vậy thì nhục quá. Các ông không chịu được. Các ông về hùa với nhau để chành chẽ hắn, để động hắn mở miệng ra là chèn. Hắn đã khổ với các ông khá nhiều. Hơi thấy bóng hắn ra đình là các ông nói móc ngay. Các ông bình phẩm từ cái đầu của hắn rũ rượi như đầu đứa chết trôi (ấy là các ông móc đến cái chết của bố hắn), đến cái áo ba-đơ-xuy của hắn tã như cái áo thằng đánh giậm (ấy là các ông móc đến cái nghề đi câu). Các ông nói cạnh cả đến hàm răng của hắn, cái bộ ria của hắn, cái mặt vác lên trời của hắn. Nhưng vốn bướng bỉnh, hắn không lấy thế làm nao núng. Hắn chỉ mỉm cười chế nhạo hay khinh bỉ. Đôi mắt soi mói của hắn không thèm soi mói đến cái mũi, cái mồm hay cái áo the có mùa chua của các ông. Hắn ngấm ngầm theo dõi đến những việc của các ông làm ám muội. Một hôm, đùng một cái, hắn đưa bốn ông lên huyện vì việc bao chiếm công điền. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy ông khác lên huyện vì việc làm tiêu công quỹ. Rồi đùng một cái nữa…, và cái nữa… và cái nữa. Luôn năm sáu cái đùng như vậy hắn làm các ông liểng xiểng. Bởi tội của các ông nhiều như lá trên rừng. Con em chúng nó mù, nhưng hắn không mù. Hắn bới ra từng tội một, và nhất định sẽ bới ra đến hết. Các ông đâm hoảng. Các ông đành phải dàn với hắn. Các ông đấm mõm hắn một vài mối lợi. Hắn không thèm nhận, bởi hắn thừa biết nuốt vào thì há miệng mắc quai. Nhưng hắn bằng lòng thôi không kiện nữa. Các ông bắt đầu sợ hắn mà hắn cũng bắt đầu khinh nhờn các ông. Hắn coi các ông như những đồ trẻ con. Để những khi say rượu đùa…

    Năm ngoái làng vào đám. Hôm giã đám, có mổ một con lợn tế thần rồi đồng dân hội ẩm. Đồng dân đây có nghĩa là các cụ. Bởi nếu trai em cũng thấy có hứng muốn cùng nhau hội ẩm thì đã có các hàng rượu dựng chung quanh đình.

    Lúc tế, ông Cửu Đoành còn ngủ ở nhà. Ông ấy không biết tế, và cũng không nỡ cởi cái áo ba-đơ-xuy ra để khoác cái áo thụng xanh vào mà tế. Các cụ miễn đi cho ông vậy! Điều ấy thì ông không phải nài: các cụ chẳng mong gì có ông; ông cứ ở nhà đến hết đám cho quan viên mừng!

    Nhưng ông không ở nhà. Tế xong người ta thấy ông hai tay thọc vào trong túi áo ba-đơ-xuy sắc chó gio, vênh vênh cái mặt lên trời đi ra đình. Trông từ đằng xa đã ghét rồi! Nhưng không thể đuổi ông về, các cụ đành cố tươi cười chào mời ông vồn vã:

    – Kìa! Ông Cửu!… Mời ông vào trong này. Chúng tôi ngồi đợi mãi. Mời ông ngồi thưởng trống.

    Ông xua xua cái tay trong túi áo. Cái áo thùng thình làm hai cái dải bơi chèo thỉnh thoảng lại thè lè ra. Ấy là ông từ chối…

    Mời các cụ, mời các cụ….Các cụ cho mặc ý. Con nhà binh, thích chạy nhảy hơn tĩnh tọa. Ông nháy mắt người ta mấy cái, một ông ra ý hiểu:

    Vâng! Tôi biết!… Tính ông Cửu nhà tôi nhân lão nhưng tâm bất lão? Ông còn muốn đi nhìn con gái làng.

    Bẩm vâng!

    Nhưng ông Cửu không đi nhìn con gái làng. Ông đứng chỗ này một lát, đứng chỗ kia một lát. Rồi ông đến chỗ hai bàn làm cỗ và đứng xem. Ông xem, rồi bàn tán, rồi chia cỗ hộ. Ông nhắc cỗ trên bù cỗ dưới, vặt đống nọ, bỏ đống kia. Thấy ông lanh chanh như vậy người ta cười thầm ông. Làm cỗ là việc của hai bàn. Việc của ông không ở đây. Mân mó vào làm gì cho bẩn tay?

    Một thoáng sau là đã lại thấy ông đang nói gì toang toáng ở gốc đa. Rồi một thoáng sau lại thấy ông cười hô hố giữa một đám trẻ con xúm xít xem ống nhòm. Nhưng hai bàn đã bưng mâm. Các cụ sai một ông phó đi tìm ông Cửu. Bấy giờ ông Cửu mới lẹt đẹt kéo lê đôi giày đi vào đình. Trong đình huyên náo lắm. Các cụ đang hạch hai bàn làm sao lại thiếu hai cái móng giò? Móng giò có bốn ông to nhất. Lệ làng từ cổ đến giờ vẫn thế. Tuy trong số bốn ông to nhất chẳng ông nào còn khỏe răng để có thể gặm nổi cái móng giò nhưng cũng chẳng ông nào chịu mất. Một miếng giữa làng…Đừng có tưởng…Bây giờ còn có hai cái, thì ông nào ăn ông nào đừng?… Các cụ quát hai bàn như vậy. Và hai bàn xanh mắt. Họ cãi nhau chí chóe. Anh nọ rằng anh kia để mất. Anh nào, mặc! Cứ biết là hai bàn sơ ý là hai bàn phải bắt mua can rượu tạ!… Ông Cửu Đoành không nói gì. Ông chỉ cười. Bởi ông đã đi nhiều, từng trải nhiều nên thấy nhiều cái to tát hơn cái móng giò nhiều lắm. Hai cái móng giò không đáng kể. Ra quái gì mà ngậu lên!

    Các cụ uống rượu cũng xong rồi, hai bàn đã giải mâm. Lại hát nhà tơ. Ông Cửu ngồi thưởng trống. Ông bảo đào, bảo kép:

    Hát cho thật hay vào mới được. Tôi nghe hát, nếu vừa ý, bao giờ cũng có thưởng. Cô đầu tủm tỉm cười:

    Bẩm vâng!

    Hai đầu rượu tưởng ông Cửu sộp, đến kèm sẵn hai bên…Khúc hát xong kép buông đàn, đào buông phách. Ông Cửu đứng lên để thọc hai tay vào túi áo ba-đơ-xuy màu chó gio. Ông bảo:

    Tớ đã hứa tất cả là phải có. Nhưng tiền thì thật hết. Tớ đãi cho cái này, có lẽ còn quý hơn tiền nhiều…

    Ông rút một tay áo ra, quẳng một cái móng giò cho anh kép. Ông rút nốt tay kia ra, quẳng một cái móng giò nữa cho cô đào. Rồi ông quay lại:

    – Chào các cụ! Tôi xin vô phép!…

    Ông lẹp kẹp kéo lê đôi giày qua bọn trai em, hoan hô ông bằng những tiếng cười nổ như xe phành phành.

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 442, ngày 5-12-1942
     
    ChiracatTài Phạm thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  2. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Trẻ Con Không Được Ăn Thịt Chó
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hắn hút hết điếu này là điếu thứ ba. Ba điếu thông luôn. Cái thuốc lào, hút vào một buổi sáng lành lạnh như buổi sáng hôm nay, sao mà ngon thế! Khói đậm đà như vị mật, thấm qua lưỡi để pha vào với máu, lan đi từng thớ thịt, làm da thịt đê mê. Đôi mắt hắn gà gà; hơi thở phì phò như ống bễ lò rèn; những ngón tay lờ rờ trên không khí mơn man một dáng hình tưởng tượng. Như thế trong vài ba phút. Rồi cơn say lại nhạt. Nhưng thú vị chính là ở chỗ đó. Những cơn say, nếu kéo dài ra tất thành nôn nao. Người ta đâm chúi đầu vào bức vách hoặc xều dãi ra như một con chó trước khi hóa dại! Còn cái gì thô tục bằng? Đằng này những cơn say rất chóng qua. Người hút, vừa hút xong, đã lại muốn hút luôn điếu nữa. Hút bằng nào cũng không biết chán. Hút đi, hút lại mà vẫn còn thấy ngon….

    Cái điếu là một vật vô tri mà dường như cũng biết nhịn đời. Vốn dĩ xưa nay nó là một cái điếu rất tồi. Hút không kêu. Nó chỉ xìn xịt như tiếng một vật gì bị ẩm. Nghe chán lắm. Thế mà hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, nó lại kêu. Những tiếng nổ tanh tách nảy lên trên không khí khô nỏ và trong veo của mùa thu như một chuỗi cười giòn. À, thì ra cái điếu hình như cũng có hồn. Vào một buổi sáng mát mẻ như buổi sáng hôm nay, tự nhiên nó hết ươn ao, và thấy cần phải ầm ĩ thì mới khoái. Người cũng vậy. Hắn thấy lúc này mà phải bó gối ngồi nhà thì cái đời thật khổ. Ấy thế là hắn càu nhàu chửi tục. Hắn chửi những quân hàng bưởi không chịu đến mua cây bưởi đào nhà hắn để hắn có dăm đồng bạc tiêu. Năm đồng bạc….Mắt hắn sáng hẳn lên một chút. Chúng có vẻ vừa trông thấy con chó thiu béo căng và vàng óng treo lủng lẳng bên trên cái trõng hàng nhà mụ Tam. Nước dãi tứa ra đầy miệng hắn, một hơi rượu rất mong manh thoáng qua mũi hắn rồi vụt biến. Chà! Chà! Hôm nay mát trời lắm nhỉ? Rượu với thịt chó mà lại gặp khi trời mát thì ngon biết chừng nào là ngon! Hắn nuốt nước dãi, ba lượt. Rồi hắn lại nhịt thuốc vào nõ điếu, châm đóm hút thêm điếu nữa. Cái điếu vẫn kêu tanh tách. Nhưng khói thuốc bây giờ sao nhạt thế! Khi đang hút thì nó nhạt như nước lã, mà hút xong thì lại hơi đắng miệng. Hắn nhổ bọt vào chân cột rồi vừa chép chép môi vừa hếch mặt nhìn lên nóc nhà. Rượu..thịt chó…rượu… thịt chó…óc hắn cứ luẩn quẩn nghĩ đến hai thứ ấy. Sắc vàng bóng của một cái mông chó thui nhầy nhẫy mỡ với sắc xanh nhạt của một chai Văn – điển đầy ăm ắp cứ lần lượt hiện ra. Ờ! Ờ! Mát trời thế này mà được uống rượu thì tuyệt quá! Nhưng đào đâu ra tiền? Ấy thế là hắn lại chửi những quân hàng bưởi. Rồi nhân tiện, hắn chửi luôn vợ hắn: cái “con mèo mù” đà đẫn mãi, bưởi chín đã gần muốn rụng mà vẫn chưa chịu rước người vào mua. Chửi chán, hắn tặc lưỡi một cái để bảo hắn rằng: không chửi nữa. Hắn quăng mạnh hai chân xuống đất để đứng lên và ra đi. Hắn đi cúi mặt, bước những bước mải mốt và cả quyết. Người ta tưởng như hắn đã định sẵn một nơi nào để đến. Nhưng không phải. Đến đầu ngõ, hắn tần ngần đứng lại. Bởi đến đầu ngõ hắn gặp một con đường hai ngả. Biết đi ngả dưới hay ngả trên? Đi ngả dưới tức là đến nhà con mẹ Vụ để gạ bán non cho nó mươi gốc chuối. Nhưng con mẹ Vụ sẽ nhớ ra rằng: đã có lần hắn bán cho thị mười gốc chuối lấy hai đồng bạc đi xóc đĩa rồi lại bán lại lần nữa cho người khác lấy ngót hai đồng bạc. Giá mỗi cây chuối cố sinh ra lấy hai buồng, thì hắn không đến nỗi là con người lật lọng đâu. Nhưng cái giống chuối, mỗi cây chỉ sinh được một buồng. Vậy thì hắn đích thực là một con người hay lật lọng.

    Chậc! Ừ thì hắn là người lật lọng, như vậy thì đã sao? Không sao cả. Bởi ai đã chửi hắn luôn ba hôm mới biết rằng chửi hắn vô ích thật. Chửi hắn thì mỏi miệng. Nhưng nên buộc chỉ cổ tay để nhớ cho thật kỹ: từ giờ đừng bao giờ dại dột tham lợi mà mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Con mẹ Vụ sẽ không mua chuối non cho hắn một lần thứ hai. Không những thế. Rất có thể, nó sẽ xỉa xói và mắng vào mặt hắn cho đến nhục. Vậy thì cái ngả dưới rành rành là bất lợi. Hắn quay mặt về ngả trên. Thế nghĩa là cứ đến thẳng hàng thịt chó nhà mụ Tam. Nhưng mụ Tam vốn không ưa bán chịu. Mà hắn thì lại đã chịu của mụ luôn ba bữa, chưa đào đâu ra tiền trả. Cái mặt mụ chắc là sẽ không được tươi tỉnh lắm. Mụ sẽ vác nó lên. Mụ sẽ nhìn cái tổ chim vô hình trên lưng chừng một cây tre ở trước cửa hàng nhà mụ, chứ không thèm nhìn hắn. Nếu hắn cố lài nhài lắm, thì mụ sẽ hướng đôi môi lên phía trời xanh mà bảo hắn: trả nợ cũ đi đã rồi hãy ăn. Như vậy thì cũng nhục. Hắn dùng dằng không nỡ bước. Trong khi ấy thì nước dãi từ từ dâng lên miệng hắn. Rượu…thịt chó!… Rượu…thịt chó!..Trước mắt hắn lập lòe hai sắc: vàng bóng và xanh nhợt. Hắn nuốt dãi kêu ừng ực. Rồi hắn tặc lưỡi một cái để ra hiệu cho hắn đừng do dự nữa. Việc gì mà do dự? Thịt chó của mụ Tam để bán, chứ không phải để cho ôi thối. Còn hắn muốn ăn thì phải mua. Không có tiền thì mua chịu. Trời sinh ra thế. Dẫu rằng mụ Tam không ưa bán chịu thì hắn cũng đã chịu luôn được ba bữa. Hắn bước nhanh nhẹn và vui vẻ. Y như một ông phó mới đi đến một đám mời ăn khao.

    Nhưng gần đến hàng nhà mụ Tam, hắn nghe tiếng mụ Tam the thé. Đích là mụ vừa xoắn được một kẻ ăn hàng chịu mất mặt mũi, bây giờ mới thấy. Đen đủi thực. Hắn tần ngần đứng lại. Để nghe ngóng xem sao đã! Chà cái con mụ la sát này thật là chua ngoa. Nó bảo người kia: ăn mà không muốn trả thì ăn này, ăn nọ cho con nó. Miếng ăn là miếng nhục. Thế này thì khó lòng mà nuốt cho trôi được. Hắn thở dài một tiếng quay trở về…Bây giờ thì những bước đi thẫn thờ hơn. Hắn thấy người mỏi mệt, chân tay rời rã. Đúng là một anh nghiện đến bữa chưa được hút, thỉnh thoảng hắn lại đưa tay che miệng ngáp thật to, như một con trâu nghé ngọ, nước mắt ứa ra òng ọng. Khỏi một rặng tre cao, đến cánh đồng, nắng bừng lên. Nắng mùa thu dìu dịu. Trời thì đẹp, cánh đồng lúa mởn tươi, ru gờn gợn như một làn da quen ủ kín, đột nhiên phơi ra gió lạnh. Phong cảnh quyến rũ như một nhan sắc hoàn toàn nảy nở. Chao ôi! Giá hắn không bận nghĩ đến rượu và thịt chó! Giá hắn không khổ sở vì một cái dạ dày ưa đòi hỏi thì hắn đã sung sướng lắm. Nhưng hắn lại thèm rượu và thịt chó mà lại không được uống rượu, ăn thịt chó. Bởi vậy hắn cho là đời thật đáng buồn. Kiếp người nản lắm. Trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ. Mà cái nắng hanh hao của mùa thu vô cùng khó chịu. Đầu hắn nghoẹo xuống vai. Đôi mắt hắn lim dim. Hắn có vẻ vừa đi vừa ngủ. Hắn đã gần ngủ thật thì một việc bỗng làm hắn đột nhiên tỉnh người.

    Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy choàng ra. Một tí nữa thì nó đớp vào chân hắn, hắn nhẩy cẫng lên một cái. Và hắn sực nhớ ra rằng: nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hóa cuốc, nên lắm khi chực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ, mà lại còn điều này nữa: nuôi mèo hay nuôi chó thì cũng phải tùy gia cảnh; nhà giàu nuôi là phải, bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt; còn nghèo rớt mùng tơi như nhà hắn, nuôi làm gì? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng còn được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bữa ăn phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy thì phải dở đời lắm lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm…Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó vện. Con chó vện đã lại nằm thiu thiu bên một gốc chuối. Quả thật, nó đã đến ngày tận số. Hắn đi tìm cái thúng. Hắn rón rén đi vòng lại phía đằng sau đuôi con chó…ạp! Con chó giật mình đến thót. Nỗi nguy chụp xuống. Nọ bị thu gọn trong cái thúng, không còn chỗ mà giãy giụa. Trong khi ấy, thằng người kêu rối rít:

    – Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Tao úp được con chó rồi.

    Lũ trẻ con đang nghịch đất, quăng cả những cái bẹ mèo chuối đi, xô đẩy nhau ngã kêu chí chóe, và vừa chạy về vừa reo lên:

    Chúng mày ơi! Chúng mày ơi! Thầy úp được con chó rồi!… A ha! Người cha bảo:

    Chúng mày xúm lại cả đây, đè chặt lấy. Đè thật chặt.

    Con Gái, và cu Nhớn, cu Nhỡ, cu Con xúm lại; đứa tì tay, đứa tì chân, đứa ngồi cả lên trôn thúng.

    Người bố đi tìm gậy để ngáng lên cổ chó mà nhận xuống. Lũ trẻ bắt đầu bàn tán:

    Thầy giết chó, nhỉ?

    Ừ, thầy giết chó để làm thịt chén.

    Thích nhỉ, cu Con nhỉ?

    Thầy cho cả chúng ta ăn thịt chó nhỉ?

    Tao cũng ăn thịt chó.

    Ừ, thầy cho cả mày, cả tao.

    Cả chị Gái…

    Chúng mày có im cả không, chó ra bây giờ thì mất ăn.

    *****

    Người đàn bà ở chợ về. Thị tủm tỉm cười. Thị cười vì nghĩ đến đàn con. Hôm nay, chẳng biết cao hứng thế nào, thị đã mua cho chúng những bốn cây mía lách. Những ba trinh kia đấy, như thế kể đã là nhiều lắm. Cả đội hàng của thị đem đi buổi sáng, bán được vừa sáu xu. Vì đâu lại có sự hoang phí ấy? Có lẽ bởi hôm nay trời mát. Có lẽ bởi thị thương hại thằng cu Con. Mỗi lần mẹ về chợ, cứ nghe tiếng các anh reo là thằng cu Con lại thét lên. Hình như nó sợ các anh chạy ra trước nó. Có khi nó khóc. Có khi mải mốt quá, nó ngã lộn tùng phèo từ trên hè xuống sàn. Ấy thế mà mười lần thì đến chín, mẹ nó chỉ chìa cho nó bàn tay không. Người đàn bà, nghĩ đến cái bộ mặt tiu nghỉu của con lúc nào, rỏ nước mắt ra lúc ấy. Trông thương đứt ruột. Nhưng biết làm sao được? Bà đã dành quà của nó, chỉ một đồng trinh là đủ. Nhưng không thể đong một hào chín xu rưỡi gạo. Mà cái ngữ tiêu trong nhà thị, mỗi ngày không thể không quá hai đồng hào. Vậy có thương con thì để bụng. Còn cái sự mua quà thật khó lòng thay! Nhưng thời tiết có ảnh hưởng đến người ta rất lạ lùng! Hôm nay người mẹ đáng thương kia thấy dễ chịu trong người. Khí nóng nặng nề của mùa hạ đã tan rồi. Cái rét sắc như dao của mùa đông chưa tới. Trời xanh ngắt. Nắng êm êm. Gió phơi phới trên da, cho người ta cái cảm giác nhẹ nhõm sau khi tắm. Tạo vật hiền hòa lắm. Tạo vật không đè nén và dọa nạt. Người ta tin tưởng vào đời hơn. Người mẹ nghĩ rằng: mát mẻ thế này thì làm việc là một trò chơi. Rồi thị lại nghĩ rằng: nếu mía lách đem đi chợ mà không có người mua thì chẳng ai đem đến chợ. Ấy thế là thị đành liều bỏ ra xu rưỡi và chọn lấy bốn cây vừa ngon vừa dài. Chọn xong, thị cũng thấy tiếc tiền. Và trên đường về, thị còn luẩn quẩn

    nghĩ đến xu rưỡi mãi. Nhưng thị lại nghĩ đến thằng cu Con, đến lúc nó sẽ bíu chặt lấy mấy cây mía lách mà cười nấc lên. Vậy thì thị cũng chẳng nên tiếc nữa. Có mất đâu mà tiếc? Con thị nó sẽ ăn vào miệng.

    Về đến nhà, thị cảm động quá, hơi run. Môi thị tự nhiên mỉm cười. Nhưng chẳng có đứa nào reo. Chẳng đứa nào trông thấy mẹ. Chúng nó đi đâu cả? Thị vừa gọi vừa hốt hoảng chạy ra ngoài bờ ao. À, hú vía…chúng nó đây cả rồi. Nhưng làm gì mà dao, mà thớt bừa bộn thế?

    Thị hơi sửng sốt vì bố chúng nó đang thả một con chó thui xuống nước và cầm một cái búi rơm kì cọ. Sao lại có sự long trọng ấy? Thị đã toan hỏi nhưng lại nín vì lại có cả mấy người anh em bạn chồng. À, phải rồi..có lẽ hôm nay là ngày giỗ ông nào, bà nào đây. Thị ngây mặt ra, cố nhớ…Giỗ chạp gì hôm nay? Lửa giận chợt bốc lên ngùn ngụt. Thị thâm tím mặt. Thị biết chẳng phải giỗ chạp gì cả. Và có giỗ chạp thì cũng chẳng cần giết chó. Xưa nay có bao giờ phải giết chó mới làm giỗ được? Nhà nghèo, chỉ bát cơm, bát canh, thượng số vài ba hào chỉ là đủ lắm. Gọi là có nhớ đến ông bà tiên tổ cho khỏi tội. Làm gì mà phải linh đình thế? Khốn nạn! Khốn nạn cho thị lắm! Cái số thị chẳng ra gì nên mới vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết nghĩ, chỉ thích ăn, thích uống. Con chó to bằng ấy, lúc này bán đâu không nổi ba đồng bạc? Cả nhà ăn gạo hàng nửa tháng. Ấy thế mà cái môi nó vừa máy lên một cái, nó đã phải đè ra mà giết ngay. Ăn hoang, phá hoại. Ăn uống thế, có khác gì ăn thịt con không, hả trời? Thị nghẹn ngào cả cổ. Thị muốn gào thật lớn. Nhưng còn vướng mấy người bạn đấy. Thôi cũng đành cắn răng chạy về nhà bình bịch. Thị quăng thị xuống cái phản gỗ sung đến phịch. Chao ôi là chán nản, thị thấy một nỗi chán nản rời rã xâm lấn người…

    Một lúc thật lâu, anh chồng về. Anh vừa lau tay vào vạt áo, vừa tươi cười hỏi:

    Nhà còn gạo không?

    Làm gì mà còn gạo!

    Thế thì làm sao được?

    Muốn làm sao thì làm!

    Anh bẽ mặt lắm. Giá phải lúc khác thì anh đã cho cái tát. Nhưng lúc này làm thế có khác gì đuổi bạn. Vả lại chị vợ đang tức tối. Đánh thị, chắc thị sẽ gào lên đến bảy làng nghe thấy. Còn ra quái gì! Anh cũng đành cười gượng mà nịnh nọt cho xong chuyện….

    Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy?

    Tôi không rỗi!

    Hắn đã lộn tiết lên rồi, không còn nhịn được. Mắt hắn trợn lên. Hắn gườm gườm nhìn vợ một giây, rồi hục hặc:

    – Cái giống nhà mày khó bảo!

    Mắt người vợ đã rân rấn nước. Hắn biết là hắn thắng. Chỉ cần khéo léo hơn một chút. Hắn lại xoay ra đấu dịu:

    Cái thứ người đâu mà ngang như cua vậy! Phải biết: tao muốn mất tiền làm gì chứ? Nhưng chết cái ăn của người ta mãi, chẳng lẽ không mời lại người ta một bữa thì cái mặt mình còn ra mặt gì? Nhân tiện con chó nó ăn phải bả hay sao chẳng biết, sáng hôm nay cứ rú lên rồi giãy chết…

    À, ra thế…thị hơi nguôi lòng một chút. Thật ra thì thị biết không nguôi, không được. Nó cục như chó vậy. Ương với nó, nó thượng cẳng chân, hạ cẳng tay là thường. Thiệt thân, mà kết cục cũng vẫn phải đủ gạo cho nó thổi. Thị đứng lên, vừa nguýt hắn vừa lạu bạu:

    – Đong mấy hào?

    Thế là hắn lại đổi mặt ra tươi cười:

    Thì bu mày liệu đấy. Có ba người khách với tôi là bốn. Với lại mẹ con nhà mày nữa.

    Mẹ con chúng tôi thì nhịn. Đong chịu chỉ có thể đong đến năm hào là hết đất. Ai bán cho mình hơn?

    Ừ thì đong năm hào. Với lại bảo con mẹ Xuyên bán chịu cho tao chai rượu nữa. Mà cầm cái chai nước mắm đi, mua chịu cho tao một hào.

    Bao nhiêu là thứ! Thị rên lên như một người mất cướp. Nhưng nó đã muốn chết thì mặc nó. Thị cứ mua cho nó. Rồi bán gì đi mà trả nợ thì cứ bán. Còn thì ăn, hết thì nhịn. Bố ăn lắm thì con chết đói. Cùng lắm thì bồng bế nhau đi ăn mày…Thị vừa thở dài vừa đi.

    Bây giờ thị mọi thức đã xong rồi. Con chó hơi gầy. Nhưng gầy thì cũng cũng tốt. Hai bát tiết canh đông lắm. Ấy là cái điềm lành báo rằng cuộc vui vẻ hoàn toàn. Những miếng thịt ngon thái tái hộn ngay vào hai cái bát chậu thật to cho khỏi lôi thôi. Vẽ vời đơm vào đĩa hẳn hoi thì biết bằng nào đĩa cho nó xuể? Nồi xáo bốc hơi thơm lựng. Chẳng cần múc làm gì cho rếch bát. Sau khi đã hỏi qua ý khách, chủ nhà định bê cả nồi lên để lúc nào ăn cơm hay múc ra. Múc ngay vào những bát bây giờ còn đựng tái. Như vậy, tiện. Chỉ có hai cái bát mà đủ cả. Ăn hết rồi lại múc. Ăn thịt chứ có phải ăn bát đâu mà cần…hắn lảm nhảm bênh vực cho cái dự định của hắn như thế mãi, tuy chẳng ai phản đối. Họ cũng thừa biết cả cửa nhà cơ nghiệp nhà hắn chỉ có hai cái bát chậu ấy thôi. Nhưng có gì. Miễn là được uống rượu sớm hơn một chút. Anh nào anh ấy đói ngấu. Mà cái mùi thịt chó bốc lên thơm vô cùng. Bao nhiêu là nước răng!

    Chủ nhân, sau một cái liếm môi rất nhẹn, hất hàm hỏi khách:

    Xong rồi chứ?

    Xong!

    Bưng mâm nhé?

    Ừ, làm thì làm!

    Nào, bưng mâm!…

    Hắn dang hai chân, khuỳnh hai cánh tay và thè lè cái lưỡi ra như một con chó vào mùa nắng. Trông

    như hắn muốn vần một cái cối đá nhất chứ không phải để bưng một cái mâm bằng gỗ. Nhưng thật ra đó chỉ là một cử chỉ trịnh trọng và sung sướng. Bính Hựu giơ bàn tay trái lên làm trống khẩu, dùng ngón trỏ tay khi làm dùi ưỡn ngực ra, vừa gõ vừa kêu:

    – Tung! Tung!… Tung!

    Ấy là cái hiệu trống để cho phu nhắc kiệu lên vai. Chủ nhà ý tứ nâng cái mâm thịt chó lên ngang mặt….

    – Tung! Tung!

    Thế nghĩa là: Đi! Đi! Và chúng đi. Lũ trẻ, thấy người lớn cũng làm trò như chúng, thích chí cười sằng sặc. Chúng ào ào tuôn vào nhà trước, như đàn ruồi. Cu Nhỡ ngồi lên phản ngồi xếp bằng sẵn. Cu Con trèo không kịp, khóc òa lên. Nhưng người bố trợn mắt thật to và quát:

    – Những thằng này hỗn! Chỗ chúng mày ngồi đấy à?

    Cu Nhỡ cười như mếu, vội vàng tụt xuống. Cu Nhớn lấy thế làm khoái lắm. Nó vừa kêu lêu lêu em, vừa nhạo:

    Xấu! Không ngồi đấy đi!…. Xấu! Không ngồi đấy đi!…

    Nhưng nó cũng cụt hứng ngay. Bố quay lại quát nó:

    Còn mày nữa! Không xách thằng cu Con đi à? Đưa nhau xuống bếp, rồi ăn cơm.

    Khi cả ba đứa trẻ đã lụt cụt chạy ra rồi, hắn mới đặt mâm xuống phản, nháy mắt và xếch môi lên để làm cái điệu bộ cười, rồi toang toang bảo như một kẻ cả vẫn đi ăn, đi họp:

    Láo toét! Chỗ này là chỗ quan viên uống rượu. Có phải không, các cụ? Nhiêu Cừ bẹp mồm ra:

    Bẩm cụ Bá dạy thế thật là chí lý.

    Ồ! Có chăng thì thế chứ!…. Vậy mời quan viên nào!

    Ba ông khách ngồi. Chủ nhân chắp hai tay trước ngực rồi lại đưa tay phải lên đầu gãi, lầm rầm như khấn ông vải về ăn cỗ:

    Bẩm các cụ, chẳng mấy khi các cụ có lòng chiếu cố đến chơi nhà chúng cháu…Gọi là có chén rượu nhạt, xin rước các cụ cứ thật thà đi cho.

    Ờ!

    Nghe tiếng “ờ” rất sang rung lên trong cái cổ họng của binh Hựu bắt chước giọng ông chánh Ngạc, cả bốn anh cùng cười. Chủ nhân rót rượu ra hai cái bát. Hai người uống chung một bát. Chúng bắt đầu ăn, uống, tranh nhau nói và cười rung cả mái nhà.

    Người mẹ rất cõm cõi và bốn đứa con gày ốm quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa.

    Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà lại ngửi thấy mùi thịt chó thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài ra mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, chứ nếu giá được chết thì thị chỉ thắt cổ mà chết đi cho rồi….Thị dỗ con:

    – Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ! Đợi nhà trên ăn xong, còn thừa thì ta ăn.

    Rồi muốn cho chúng quên đi, thị xổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò chơi ấy cũng hay hay. Nhưng chỉ một lúc là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hụ hị kêu:

    – Đói!… Bu ơi! Đói!….

    Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng.

    Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may tiếng người bố trên nhà gọi:

    – Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này!

    Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy. Mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại. Gái “vâng” một tiếng thật to rồi chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chỗm đợi…Một lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó cũng nâng lên ngang mặt như cha lúc nãy. Các em nó đứng cả lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét:

    Khoan! Khoan! Kẻo vỡ!.. Cu Nhớn thét:

    Thì bỏ xuống!

    Gái vênh mặt lên trêu nó:

    Không bỏ! Không cho chúng mày ăn.

    Có sợ thành tật không?

    Không cho ăn thật đấy.

    Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vặc nhau với chị:

    Làm trò mãi! Có bỏ xuống đây không nào? Gái hạ nhanh mâm xuống đất, bảo:

    Này, ăn đi!

    Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay mặt xuống. Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc òa lên. Nó lăn ra, chân đạp như một người giãy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rức khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cùng khóc theo.

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 444, ngày 19-12-1942
     
    ChiracatTài Phạm thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  3. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Đón Khách
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Có giời biết đấy; quả thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ, ấy là cái tật chung của những người trẻ tuổi. Vả lại Sinh vẫn tưởng không đời nào lại có những người ngớ ngẩn như thế được. Vẫn biết ông đồ tính thật thà. Nhưng còn bà cụ chứ! Bà phải hiểu rằng Sinh đùa cợt. Có ai ngờ bà đồ cũng lẩn thẩn như ông đồ nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được một mẻ tức cười. Nhưng nói thế thì ai hiểu. Truyện phải kể có đầu có đuôi. Vậy thì đầu đuôi như thế này….

    Sinh hay đến nhà ông Hàn Phong ở cái làng Vũ Đại này chơi. Làng Vũ Đại cách tỉnh lỵ có mười hai cây số. Ông Hàn với ông thân sinh ra Sinh là chỗ bạn cố tri. Sinh gọi ông là bác. Nhiều người cứ tưởng hai người có họ gần với nhau. Vậy thì dẫu chủ nhật nào Sinh cũng đạp xe đến chơi nhà ông Hàn từ sáng cho đến hôm, sự ấy cũng là thường. Nếu y có ý định ngấp nghé cô Duyên, con gái ông Hàn nữa, thì cũng được. Cái ấy thì chỉ có y biết, cô Duyên biết. Hoặc giả ông Hàn, bà Hàn biết nữa đã là quá lắm. Chúng ta làm gì mà biết được?

    Sinh là một công chức nhỏ mới ra. Các bạn y vẫn gọi y bằng tên tục của y: Sinh rụt. Bởi cái cổ y rụt thật. Nhưng về đây thì lại khác. Thấy người nhà ông Hàn gọi Sinh là cậu phán, người ta cũng gọi y là cậu phán. Không ai thấy cậu Phán xo vai, rụt cổ…Gặp ai, người ta chưa kịp trông thấy cậu, cậu đã chào người ta trước bô bô. Cậu hỏi người ta: “Có phát tài không?” “Lúa có khá không?” “Cháu có chịu chơi không?”, con người nhũn nhặn! Thân danh là ông phán, lương năm sáu chục, những ông chánh, ông lý có việc đến còn phải chắp tay bẩm báo, thế mà cấm khinh người. Anh bạch đinh mà có một ít râu, cậu cũng gọi là ông. Nói với bà lão móc cua cũng vâng vâng, dạ dạ…Mà lắm lúc cũng nghịch ngợm như trẻ con, gọi mấy cô làm cỏ lúa thách các cô hát đúm. Các cô không chịu hát thì cậu toang toang hát trước. Tiếng như ngỗng đực. Làm các cô đã cắn chặt hai hàm răng lại cũng không sao nín cười. Cậu là người tỉnh mà chẳng hiểu học lỏm ở đâu được nhiều câu hát nhà quê thế!

    Mình nhớ ta như cà nhớ muối,

    Ta nhớ mình như cuội nhớ giăng.

    Mình về mình có nhớ chăng?

    Ta về ta nhớ hàm răng mình cười…

    Rõ là tình tứ chưa? Cũng may họ đều biết tính cậu chỉ đùa ngoài miệng, cho nên không cô nào chết mệt

    – nhà các cô ít hồng phúc lắm, chẳng dám làm bà phán. Răng các cô toàn là răng bàn cuốc. Cậu có nhớ là nhớ cái hàm răng trắng nõn, đều tăm tắp của những cô gái tân thời quần trắng kia. Con gái nhà quê, nước gì!

    Nhưng lại có một người không nghĩ thế: ấy là bà đồ Cảnh. Và có một người đồng ý với bà đồ Cảnh: ông đồ Cảnh. Và một người nữa: cô Na con gái ông bà đồ Cảnh. Ở đường cái vào thì nhà ông đồ với nhà ông Hàn cùng một lối đi. Nhà ông đồ ở thụt mãi vào trong, có ba gian cột tre mái rạ. Nhà ông Hàn
    bên ngoài, nhưng lại phải rẽ lên phía trên một quãng. Nhà gạch, mái cong cẩn thận. Nguyên về kiểu đã mất hơn hai trăm đồng bạc – người làng họ kháo nhau như vậy.

    Vậy cứ kể lý ra, thì cậu phán Sinh không biết đến nhà ông đồ Cảnh. Nhưng bà đồ lại có một cái hàng nước ở ngoài đến ngay chỗ rẽ vào. Vậy thì mỗi lần đến ông Hàn, cậu phán xuống xe ngay ở trước cái cửa hàng nước của bà đồ. Quen nhau thì phải lắm. Trong hàng bà đồ có cô Na. Sinh thấy người ta gọi thế nên biết thế. Na trông cũng hay hay. Hay hay, đó là tiếng của Sinh. Bởi Na tuy chẳng đẹp nhưng cũng kháu. Chao ôi! Chỉ là con gái không thôi kể cũng đã dễ chịu lắm rồi. Đây cô Na lại là con gái có má hồng thì cái dễ chịu chưa biết đến thế nào mà nói! Cố nhiên là Sinh trêu.

    Một hôm y ve vẩy hai tay để làm một người đàn bà ưỡn ẹo, vào hàng bà đồ Cảnh….

    Nào cậu phán mua mở hàng cho tôi nào.

    Ồ, thế cụ chưa bán mở hàng, dư cụ?

    Chưa ạ, tôi vừa mới dọn…

    Thế thì tốt quá! Cháu mua mở hàng thật là tốt vía; hàng cụ thế nào cũng đắt. Cụ có những gì đấy kia?

    Sinh ngồi xuống ghế, dạng hay chân ra, hai tay chống xuống đùi, mắt trợn ngược lên nhìn trừng trừng cái chõng hàng như một con cóc nhìn giun. Y chép lưỡi, nuốt dãi hai ba tiếng. Na phải quay đi để cười. Bà đồ cũng cười và bảo:

    Nói thế chứ những thức này cậu phán ăn sao được? Các cậu có ăn thì lại vào cao lâu…

    Cao lâu cũng không ngon bằng hàng của cụ.

    Vậy cậu mua đi cho tôi vài hào.

    Cháu mua luôn hầu cụ vài trăm bạc. Nhưng để cháu còn tìm đã. Chuối, xôi, chè, canh cháu đều không thích lắm. Cháu chỉ muốn mua một thứ…

    Cậu muốn mua thứ gì?

    Cụ có bán Na thì cháu mua!

    Nói thật nhanh xong câu ấy, Sinh cười sằng sặc. Na lườm y một cái, mặt đỏ như gấc chín. Bà đồ cũng cười nheo cả mắt, vờ vĩnh bảo:

    Na về tháng Bảy, tháng Tám mới có chứ mùa này làm gì có? Sinh cười ngặt nghẽo:

    Cụ thì bao giờ cũng có ạ! Cháu trông thấy rồi. Phải không, cô Na nhỉ? Na lại càng đỏ mặt. Thị quay hẳn mặt đi, phụng phịu. Bà đồ hỏi:
    Cậu mua thật hay mua dối?

    Mua thật ạ! Cháu đang ao ước.

    Thế thì tôi bán cho cậu đấy. Có nuôi được thì đem về mà nuôi.

    Thế thì cháu cảm ơn cụ lắm. Cô Na ạ, cô nghe đấy!… Vậy từ nay con là con cụ nhé!…

    Từ đấy Sinh nhất định cứ bu bu, con con với bà đồ. Y nếm nồi chè. Y lắc cái hòm tiền. Y mời những khách qua đường vào nghỉ chân, uống nước. Na nguýt y và cười. Bởi vì Na đã bắt đầu không thẹn nữa. Cái gì lâu cũng thành quen. Một đôi khi, thị đã trả lời lại những câu Sinh đùa thị. Người ta đùa thế chứ đùa nữa thì cũng mặc. Có mất phấn đi đâu mà sợ? Ngoài miệng thì Nga nói thế. Ra sự rằng thị cũng biết là Sinh đùa đấy. Nhưng sự thật thì thị cũng hơi hơi hy vọng. Cả bà đồ cũng vậy. Nhất là từ cái hôm Sinh đem một chai rượu dâu làm quà cho ông đồ.

    Ồ! Lại chuyện chai rượu dâu này nữa…Chỗ này thì Sinh khí ác. Nhưng thói đời, nhiều khi ta ác mà người ta vẫn tưởng ta tử tế. Cho nên ông đồ Cảnh, bà đồ Cảnh và cô con gái cảm cái bụng Sinh rất nhiều. Nguyên do thế này, Sinh có một người quen mới mở một cửa hàng bán rượu dâu. Y biếu Sinh hai chai rượu, vừa để tạ ơn, vừa để làm quảng cáo. Hôm ấy là chiều thứ Bảy, Sinh vốn không thích rượu. Bởi vậy y nghĩ ngay đến ngày hôm sau, y sẽ về Vũ Đại. Tiện có, nếu y xách hai chai rượu dâu ấy về làm quà cho ông Hàn Phong thì cũng hay. Ấy thế là sáng hôm sau, hai chai rượu dâu cùng với Sinh lên đường. Nhưng đi được nửa đường thì một chai bị tuột tay, rơi xuống đường rạn một vết to. Rượu đổ xuống mặt đường tung tóe. Sinh ngẩn mặt ra một chút rồi ghé nửa cái chai còn lại lên miệng uống. Và tức khắc y nhăn mặt lại. Cha mẹ ơi! Rượu quái gì mà chua như thể tương oi. Y quăng chai rượu vỡ xuống ruộng. Thuận tay, y đã toan quăng cả cái chai lành, nhưng lại tiếc của giời. Y ngần ngừ một chút rồi tặc lưỡi. Thế nghĩa là y tự bảo: “Ta giữ lại”. Nhưng giữ lại làm chi vậy. Biếu ông Hàn thì cố nhiên là không được. Sinh nghĩ đến chú canh điền nhà ông Hàn. Nhưng chẳng lẽ đến chơi với người ta, quà biếu người ta không có, quà cho con người ta cũng không có nốt, lại có quà cho thằng canh điền là một thằng chẳng có ý nghĩa gì trong nhà người ta! Chi bằng đem phắt ra cánh đồng chia cho lũ trẻ. Nhưng làm thế cũng hoài đi. Rượu dẫu chẳng ngon nhưng đóng chai cẩn thận, trông khá đẹp. Ơ! Sinh quên khuấy ngay đi mất! Sao không để biếu ông đồ nhà cô Na.

    Nửa giờ sau, y xộc vào hàng Na. Na ngồi có một mình, đang mở vụng hộp sáp cô ba quệt vào đầu ngón tay xoa lên môi, lên mặt. Bấy giờ đang mùa rét. Gió heo may thổi. Trời hanh, thị lại hay phải ngồi bếp nên da mặt nẻ. Năm ngoái thì thị cứ để tha hồ cho mà nẻ. Nẻ chán rồi phải khỏi. Nhưng năm nay, thị đã hay nhìn gương lắm. Thấy cái mặt nẻ không coi được, thị giấu giếm mẹ gửi người ta mua giùm hộp sáp về để bôi…

    Nghe tiếng chuông xe đạp, Na giật mình. Thị vội vàng giấu hộp sáp vào trong túi, Sinh đã cười nhăn nhở…

    – Chào mợ phán!

    Na đỏ mặt. Đôi mắt tít lại chỉ còn bằng hai hạt đỗ. Ấy là cô ả sướng! Sinh cười khanh khách tiến vào gần sát thị:

    – Bu đâu rồi?

    Na sợ hãi, lùi lại đằng sau để tránh. Y chực đưa tay lên má thị. Nhưng bỗng có tiếng bà đồ Cảnh:

    Cậu phán lại trêu gì con bé Na nhà tôi thế? Sinh vội reo lên để chữa thẹn:

    A ha! Bu đây rồi! Con hỏi bu đâu mà nhà con nhất định không chịu nói

    Cậu hỏi tôi làm gì?

    Dạ, mời bu ngồi xuống đây đã rồi con xin thưa chuyện.

    Thưa bu, con có chai rượu gửi bu biếu thầy con.

    Cảm ơn cậu phán!

    Bà đồ nắm vội lấy chai rượu đưa cho con gái bảo:

    – Cất kỹ vào kia con! Cất thật kỹ vào cho tao.

    Bà làm thế bởi bà tưởng Sinh nói đùa, mà chai rượu ấy là chai rượu y đem lên ông Hàn. Nhưng Sinh không đòi lại. Y xin phép vào chơi nhà bác Hàn một lát, và y vào tay không. Bà đồ lấy làm lạ lắm. Không lẽ y đem rượu đến đây, chẳng cho ai, lại gửi ở hàng bà rồi đến hôm, đem về.

    Chiều hôm ấy, Sinh ra hơi muộn nên không vào hàng nhà bà đồ Cảnh nữa. Thấy y chực nhảy lên xe đạp, bà gọi lại…

    Tôi gửi cậu phán chai rượu về biếu mợ phán tôi ngoài ấy, gọi là chút quà quê. Bà cười để thưởng cho câu nói đùa có duyên của bà.

    Nhưng lúc này thì Sinh đứng đắn.

    Com gửi bà biếu ông đồ giùm con thật đấy.

    Cảm ơn cậu bằng cái lọ! Tôi chả dám

    Ô hay! Bà cứ tưởng con đùa. Con nói thật. Bà cứ cầm về giúp con.

    Nhưng..Tôi chả…vào!

    Sao bà lại tệ với con như thế?

    Không dám ạ! Vậy mời cậu vào chơi với ông đồ nhà tôi xơi nước đã, chứ thế này thì…

    Bà cứ yên tâm…Bây giờ tối rồi, con phải đi thôi. Cũng chẳng còn bao nhiêu ngày nữa đã tết rồi.

    Mồng hai tết, con xin lên mừng tuổi cụ ông, cụ bà…

    Không dám ạ!

    Với lại lễ gia tiên nữa chứ! Nói dối các cụ, các cụ rẽ duyên vợ chồng con thì chết con. Thôi u về! Y nhảy lên xe đạp và gò lưng đạp đi vù vù…

    Đêm hôm ấy, vợ chồng ông đồ Cảnh rò rầm bàn tán rất khuya. Không hiểu cậu phán có lòng thương con bé Na thật hay đùa bỡn vậy? Bởi nhũn nhặn nên bà đồ bảo cậu ấy đùa. Nhưng đùa thì đời nào lại cho ông đồ chai rượu? Cái cổ chai có bọc giấy vàng cẩn thận. Cái nhãn hiệu in đẹp lắm. Chắc là rượu bổ. Có rẻ cũng phải ba, bốn đồng. Ý tất người ta có định lấy con mình thì người ta mới chịu bỏ tiền mua biếu chứ! Vả lại, bây giờ những hạng thông, ký, phán lấy vợ nhà quê kể cũng thường. Cậu phán thương yêu đến con bé Na cũng chẳng phải là sự lạ.

    Và ông đồ kết luận:

    Bà đồ ạ! Chẳng lôi thôi gì nữa. Tháng này bà cứ mua bát họ ở nhà bà lý Vinh về cho tôi. Mọi năm tết nhất nhà mình cũng chỉ làm qua loa cho nó có thì thôi. Nhưng năm nay mình cũng phải gói mươi tấm bánh, bó mấy cái giò thật tốt. Kẻo nữa đến lúc người ta lên mừng tuổi thật, mình lại trơ thổ địa ra đấy à?

    Ừ, mà thật đấy! Cậu ấy hẹn đích đến mùng hai, thế nào cũng lên.

    *****

    Mùng hai tết. Thằng Tình, con trai ông đồ Cảnh, đang đứng chầu rìa đám quay đấy ở ngay ngoài đường cái. Bỗng nó thấy bóng một cái xe tay từ phía dưới đi lên. Nó cắm đầu chạy về nhà một mạch. Bà đồ thấy trống ngực đập mau thon thót. Bà đoán là cậu phán đã về. Nhưng bà không dám nói ra sợ tẽn. Bà chỉ hỏi:

    Cái gì mà mày chạy bình bịch thế?

    Xe cậu phán!

    Mắt ông đồ sáng hẳn lên.

    Thật?

    Thật…Cậu ấy có bánh pháo tròn to lắm, bằng cái quả giầu kia kìa với những hộp bánh gì đẹp lắm. Bà đồ cười, chửi con:

    Bố mày!

    Nhưng ông đồ đã giục vợ, giục con rối rít:

    Đi đun nước pha trà tàu! Cái ấm chuyên đâu rồi? Đem mà rửa đi!

    Rửa kỹ sáng ngày rồi ạ.

    Cứ đem rửa lại, mau lên một tí!

    Ông lẹp kẹp chạy ra rồi lại chạy vào.

    Cái khăn? Cái khăn của tao đâu rồi? Thằng Tình cười khành khạch:

    Khăn của thầy ở trên đầu thầy đấy thôi. Na bật cười. Tình nhìn Na mà reo lên:

    Ái chà! Đẹp ghê!

    Rõ dơ!

    Na mắng lấp miệng em như vậy. Nhưng thị đã đỏ bừng cả mặt. Bởi Tình nói trúng vào gan, vào ruột thị. Vừa mới nghe nói Sinh sắp tới, thị đã vội thắt cái thắt lưng nhiễu mới và mặc cái yếm còn giữ nguyên màu vàng của tơ.

    Ấm nước reo rồi ấm nước sôi sùng sục. Bà đồ dập bớt lửa rồi chạy ra sân bảo:

    Nước được rồi đấy. Có pha gì hay không?

    Đợi xem sao đã chứ.

    Thế thì nguội mất. Sao cậu ấy đi chậm thế? Bà chợt nhớ:

    Hay là cậu ấy vào mừng tuổi ông Hàn trước.

    Không có lý. Thể nào…

    Để lấp lời ông đồ Cảnh, tiếng pháo ở mạn ngoài bắt đầu nổ mạnh như một chuỗi cười chế nhạo. Bà đồ kêu lên một tiếng thất vọng:

    – Thôi đúng rồi!

    Mặt ông đồ thưỡn ra. Những tiếng pháo giãy đành đạch như một thằng bé con hỗn láo. Ông đồ nhìn bà đồ thì vừa gặp đôi mắt bà nhìn ông. Và cả hai cùng vội nhìn xuống đất. Bỗng bà hai Du, ở bên ngoài nhà ông đồ một ngõ, le te chạy vào. Chửa kịp chào hỏi ai, bà đã mà cà mà cập:

    Từ thủa cha mẹ đẻ đến giờ tôi mới được nghe một bánh pháo dài đến thế. Sung sướng chửa? Nhà người ta đã hay thì hay đủ cách. Con rể đấy!

    Bà đồ vờ vịt hỏi:

    Nhà ai thế cụ?

    Nhà ông Hàn đấy, chồng cô Duyên. Cậu phán Sinh ấy mà! Mặt ông đồ xám lại…

    Ô hay! Tôi cứ tưởng cậu ta là cháu!..

    Thì tôi cũng tưởng. Ai ngờ cậu ta lại là chồng cô Duyên. Thôi! Chào ông! Chào bà!

    Nói chưa dứt câu, bà hai đã lại le te chạy đi nhà khác để khoe cái tin quan trọng ấy. Ông đồ thở dài thành tiếng rên:

    – Thôi, thế thì nó chẳng vào nhà mình nữa đâu. Dọn cơm mà ăn thôi.

    Một lát sau cả nhà ngồi ăn. Người nhìn ra sân, người nhìn vào bát. Chẳng ai dám nhìn ai. Cơm trắng, cá ngon. Giò thịt đầy mâm. Bánh trưng rền lắm. Nhưng sao ông đồ cứ nghẹn luôn mãi thế? Cùng bất đắc dĩ, bà đồ phải bảo:

    Thôi ông ạ, con mình không lấy nó thì lấy người khác, đã ế đâu mà sợ? Ông đừng nghĩ nữa..

    Phải, phải, bà đồ ạ! Nhưng mà….Nhưng mà cả một bát họ tiêu vào cái tết!… Ông đồ lại nghẹn thêm cái nữa. Đôi mắt ông ầng ậc nước. Ông đã nhìn trước thấy con gái ông sau cái tết này, đem cái thắt lưng và cái yếm là còn mới nguyên dạm bán cho hết người này người nọ để lấy tiền đóng họ cho nhà lý Vinh…

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 447 – Xuân Quý Mùi
     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  4. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Mua Nhà
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Anh Kim.

    Buổi tối hôm ấy, sau khi đưa các anh ra thuyền trở về Nam, tôi bực tức vô cùng. Tôi bực tức với tôi.

    Tôi đay nghiến tôi trong một phút cao hứng quá, đã mời các anh về nhà.

    Anh đừng giận, anh Kim ạ. Tôi hiểu lắm. Chúng ta biết nhau không phải vì một bộ quần áo may khéo, một đôi giày đúng kiểu, một cái xe hơi tốt máy. Chúng ta biết nhau vì cái khác. Chúng ta mến nhau vì cái khác. Chúng ta đánh giá nhau cũng ở chỗ khác đâu có phải ở chỗ cái nhà to hay bé. Cổ nhân chê kẻ sĩ mà còn lấy sự cơm ăn không được ngon, áo mặc không được lành làm nhục. Người quân tử phải có thể uống nước lã, khoanh tay dưới đầu gối mà không tủi. Tôi cũng hiểu. Vậy mà tôi cứ hậm hực mãi với tôi vì cái lẽ đã để mấy người bạn trông rõ cái cảnh bần bách của tôi như thế, chẳng hóa ra tôi là người nhỏ nhen? Vâng thì tôi là người nhỏ nhen! Nhưng các anh cũng phải xét cho tôi chỗ này. Đến nhà anh, tôi ngồi trên những cái ghế kiểu mới, có nệm êm, có cách tựa rất cao, ngồi vào đấy, sự nghỉ ngơi của thân thể hoàn toàn lắm. Đến nhà anh Đề, chúng ta ngồi trên những chiếc ghế tàu nạm đá vân. Đến nhà anh Phùng, chúng ta có những bàn ghế bằng gụ khảm xà cừ. Đến nhà anh Minh, chúng ta nằm nghỉ ngơi trên những chiếc giường tây. Cùng đến nhà bác Lý, chúng ta cũng còn có thể trải chiếu hoa trên hè gạch để trông trăng. Nhưng đến nhà tôi, các anh đã phải cúi khom người để chui vào một cái lều tối om om. Nền nhà bằng đất nện âm ẩm dưới chân. Một mùi mốc khăng khẳng làm các anh nhăn mũi. Đứa con lớn của tôi, đau bụng thổ từ đêm, nằm trên cái võng nhuộm nâu căng từ đầu nhà nọ đến đầu nhà kia, chắn cả lối đi. Nó mặc một cái quần, một cái áo bằng thứ vải mà con sen nhà các anh cũng không thèm mặc. Dưới nó là một vũng bùn to tướng: nước nó thổ ra đã pha trộn vào với nền nhà lầm lên. Mặt tôi đã đỏ bừng. Và khi anh lại gần con tôi, cúi xuống để hỏi han thì chỉ thiếu một chút nữa là tôi khóc. Không, anh Kim ạ…. Anh tốt lắm. Tay anh nắm lấy tay con tôi không một chút rụt rè. Anh đã khen: cháu trông ngoan. Anh đã hỏi nó bằng những câu rất dịu dàng. Lòng trắc ẩn đối với người bạn khổ đã cho giúp anh có những cử chỉ rất tự nhiên. Nhưng nghề nghiệp của chúng ta đã luyện chúng ta thành những người nhận xét rất tinh. Dù chỉ là một cái run nhẹ của hàng mi, một chút ngập ngừng rất thoáng nhanh trên đầu một ngón tay, một gợn nhỏ trên nét mặt vô cùng bình tĩnh thì con mắt thấu suốt của chúng ta cũng không bỏ sót. Anh đừng chối, anh Kim ạ. Chúng ta phải là những người bạo nói. Tôi biết lắm. Tôi biết sau khi anh nắm bàn tay cháu, anh thầm ước một chậu nước sạch và một miếng xà phòng để rửa tay. Giá anh cứ nói ra thì cũng được. Tôi sẽ cho sự ấy là tự nhiên lắm lắm. Nhưng anh cố nhịn. Anh nhìn gian nhà mà bảo tôi:

    – Cái nhà này còn tốt đấy chứ…Nhà có bốn, năm người ở thế này rộng chán!

    Tôi biết trả lời anh sao được? Tôi chỉ cười. Tôi còn đang bận thu xếp chỗ, vợ tôi phải ẵm con bé sang nằm nhờ hàng xóm. Tôi vắt cái màn ở giường ngủ lên. Bốn người trong bọn chúng ta ngồi. Còn hai người nữa thì đứng cho nó mát, bởi chẳng còn biết ngồi vào đâu cho hết.

    Cũng may, trời tạnh ráo. Lúc ăn cơm, chúng ta có thể ra sân, trải chiếu trên mặt đất. Các anh tháo giầy ra, cởi quần tây để ngồi xấp bằng bằng. “Có làm quái gì cái vặt ấy! Chúng ta ăn vẫn ngon là được!..”. Các anh bảo thế. Anh nào cũng cố làm ra dễ tính. Sự cố gắng ấy là do lòng quý bạn. Cái nhà thật không đáng cho lòng tôi phải bận. Các anh muốn cho tôi nghĩ thế. Tôi cũng bắt tôi nghĩ thế. Nhưng không được. Suốt đêm ấy tôi đã thức để mà hành tội tôi…

    Tôi còn phải khổ với tôi lâu lắm. Bởi đến biết bao giờ tôi mới có thể làm một cái nhà khác, rộng rãi và sạch sẽ hơn một chút! Tôi làm việc ghê gớm lắm. Tôi giết dần tôi đi để kiếm tiền. Nhưng sức người ta chỉ có chừng. Mà giá tre gỗ bây giờ thì tăng lên vô hạn. Nó tăng từ tháng này sang tháng khác. Cái đích của tôi thành thử cứ lùi xa mãi. Tôi dự định phải hai trăm, tôi mới kiếm được một trăm thì cái giá hai trăm đã không đủ nữa. Phải ba trăm là ít. Vay nợ lãi thì tôi không dám. Đời tôi, đã nhiều phen vay nợ lãi….Ngay bây giờ, tháng tháng, lãi nợ cũng còn ngốn mất quá nửa số tiền tôi kiếm được. Nợ nó đẻ ra mau chóng lắm. Vay liều thì chết.

    Nhưng một tai nạn đã xảy ra. Ấy là trận bão, tận lúc đã sang tháng Chín. Nó xảy ra bất ngờ. Vợ chồng chúng tôi phải xông pha mưa gió, bế con đi. Chúng tôi đưa các cháu đi tìm chỗ ẩn. Lưng tôi cõng đứa con lớn, vừa ốm dậy. Tay tôi cầm một con dao. Nhà tôi ẵm đứa con nhỏ theo sau. Gió thổi xiêu người. Mưa như những cái roi da quất xuống đầu, xuống mặt chúng tôi túi bụi. Tôi phải chém những cành tre ngã xuống đường để phá một lối đi. Gai ở dưới chân. Gai ở hai bên. Gai chĩa xuống. Chúng tôi phải nhắm mắt lại mà đi phứa. Người lạnh giá. Chân tay tê dại. Gai cắm vào chân, gai cào rách vai, rách má, chúng tôi cũng không còn biết nữa. Chúng tôi đi quên chết. Nhà tôi chúi người đi năm, sáu lượt. Đến nhà ông nhạc tôi thì chúng tôi kiệt sức. Con gái tôi xám ngắt. Nhà tôi không còn nói được. Tôi cũng thế. Cũng may mà sẵn lửa. Chúng tôi ngồi sưởi. Trong khi ấy, hai ông bà ngoại ủ ấp và hơ cho hai cháu. Một lúc lâu, chúng tôi sưởi hoàn hồn. Chúng tôi phải trú lại nhà ông nhạc tôi một ngày, một đêm.

    Sáng hôm sau, gió ngớt. Gửi hai cháu lại, vợ chồng tôi về nhà. Cái nhà bị ụp rồi. Nó nằm ụp xuống, như một người già khuỵu gối. Khó lòng mà còn bắt nó đứng lên được nữa. Sức tre gỗ, mấy nả? Cái nhà đã lão. Nó đã qua tay ba chủ. Tôi là bốn. Chỉ gió to nó đã có quyền đổ lắm huống hồ là gặp bão. Nó trung thành với tôi được đến bây giờ, kể đã là tận tâm tận lực. Tôi không nên ép nữa. Tôi biết thế. Nhưng biết làm sao được? Có những ông bố, bà mẹ già lụ khụ, chỉ vì thương con nghèo quá không chạy được tiền chôn cất mà không nỡ chết. Cái nhà của tôi sao nó không nghĩ thế? Nó xụp đổ vào lúc này, thật là đã làm khổ tôi. Vợ tôi phát khóc. Tôi cũng ứa nước mắt. Tôi thương tiếc cái nhà của tôi như người ta thương tiếc vợ bị lâu ngày hắt hủi. Ấy chỉ là nói cho văn vẻ. Thật ra thì tôi chỉ thương tôi. Tôi bỗng nhiên thành ra không nhà. Không những thế, vườn của tôi bị tàn phá hết. Bao nhiêu tiền của, bao nhiêu mồ hôi nước mắt đổ ra chăm chút cho giàn bầu, bụi mía, thôi thế là mất toi.

    Không có cái khổ nào vô ích hẳn. Sau mấy ngày ngao ngán, tôi lại phải an ủi tôi như vậy. Bởi đằng nào tôi cũng còn phải sống. Đằng nào tôi cũng cần phải có nhà để ở. Vậy thì tôi không thể dằn dỗi với ông được. Ông trời không sợ ai dằn dỗi. Tôi gượng cười. Tôi bảo vợ tôi thế này: “Thôi mình ạ! Cái nhà của ta đổ đi cũng phải. Nếu không đổ, bao giờ ta mới làm nhà khác? Ta đã do dự mãi. Bây giờ là lúc chúng ta không cần phải so kè nữa…”

    Lẽ đương nhiên là như vậy. Không làm nhà không được. Vậy thì chẳng còn phải nghĩ. Chúng tôi tính việc mua tre, mua nứa và thuê thợ. Không có tiền thì vay nợ lãi. Không vay không được, thì vay cũng không ân hận. Rồi tôi lại làm việc hơn trước nữa. Tôi sẽ giết dần tôi nhanh hơn trước nữa. Trước sau thì cũng chết. Mà ai cũng chỉ chết một lần mà thôi. Sống sẻn so mà làm gì?

    Tôi nghĩ liều. Nhưng sau một trận bão, không thiếu gì những người phải nghĩ liều như tôi. Cũng vì thế mà tôi đã mua được cái nhà rẻ quá, anh Kim ạ. Một cái nhà gỗ, có ba trăm bạc. Giá phải thế, thì năm trăm. May cho tôi lắm. Bởi chúng tôi đã tính: làm nhà tre bây giờ cũng tốn hai trăm đồng.

    Kẻ bán nhà là một kẻ nhiều công nợ. Anh ta góa vợ. Anh ta phải nuôi hai đứa con thơ dại. Anh ta lại mới thua xóc đĩa ba, bốn canh mất tất cả đến hai trăm đồng bạc. Nợ người ta đòi rát quá. Trông vào mấy sào mía để bán đi trang trải thì mía đã bị bão làm tong cả. Anh ta tìm tôi và bảo tôi thế này:

    Tôi nghe nói chú định làm nhà. Làm nhà tre bây giờ cũng phải hai trăm đồng bạc. Chú cố gắng lên chút nữa, tôi để cái nhà gỗ nhà tôi cho.

    Bao nhiêu thì bác bán?

    Ba trăm, đúng.

    Cái giá này hời lắm. Thấy hắn thật thà, tôi ái ngại. Tôi hỏi hắn:

    Bác bán đi làm gì?

    Chẳng làm gì sất. Tôi trót thua cay quá. Chết thì chết, tôi cũng phải gỡ. Trường vốn thì dễ gỡ. Tôi bán cái nhà đi, lấy vài trăm đồng đi gỡ vài canh, xem thế nào.

    À! Nếu vậy thì tôi chưa lấy chi làm liều. Vay nợ lãi mà mua nhà thì là một cái liều bắt buộc. Bán nhà đi để gỡ bạc mới là cái liều thục mạng. Đã liều thì phải chết. Chẳng chết vì tay tôi thì chết vì tay người khác. Dù vậy, tôi vẫn chưa nỡ cầm dao đâm hắn. Thành thực hay giả trá? Tôi đã can kẻ liều lĩnh kia:

    Tôi tưởng bác không muốn ở nhà, hoặc cần tiền buôn bán nên mới bán nhà, chứ nếu chỉ bận để đi đánh bạc thì tôi can bác. Vào chiếu bạc, khó mà biết trước, tôi chỉ sợ gỡ ra chẳng được, bác lại bậm mãi vào thì sao?

    Không có lý nào như vậy. Trước tôi thua, chỉ vì ít vốn, không dám đuổi. Trường vốn, không đời nào thua. Chú lấy giùm được là phần nhất, bởi tôi biết tiền chú sẵn, có thể thu xếp cho tôi chóng vánh. Nếu như không muốn lấy thì tôi để cho người khác.

    Tôi ngẫm nghĩ: hắn đã muốn chết thì cho hắn chết. Tôi có quyền gì cấm hắn? Hắn không bán cho tôi thì bán cho người khác. Tôi bỏ lỡ một dịp tốt là tôi ngu. Vậy thì tôi mua cái nhà.

    Tôi chạy ngược chạy xuôi. Chỗ thì lãi năm phân. Chỗ thì lãi sáu phân. Cùng lắm, tám phân cũng lấy liều. Chỉ hôm sau là tôi đã có đủ ba trăm bạc. Đôi bên làm giấy má xong xuôi. Tôi trao tiền cho hắn. Vợ tôi đi mượn thợ để ngày mai dỡ nhà…

    Chưa có thợ. Sau ngày bão, thợ làm nhà bận lắm. Cái nhà ba bốn hôm sau vẫn chưa dỡ được. Một người bà con với tôi, một buổi tối đến nhà ông nhạc tôi mà bảo tôi:

    Anh nên liệu dỡ phắt về. Ba trăm bạc của anh, nó nướng hết cả rồi. Vừa ở nhà anh ra, chúng nó biết nó có một món tiền to, chúng nó vây riết lắm. Ngay đêm hôm ấy, chúng nó đã thịt cu cậu hơn trăm bạc. Cu cậu còn nhiều nợ lắm: vườn cũng cố rồi. Nếu anh không dỡ nhà ngay, nó thua quá, đi đâu mất, lại lôi thôi cho mình.

    Có thế. Nếu tôi chậm dỡ, sợ người khác hớt tay trên. Đã đành rằng mình mua bán có văn tự. Nhưng tiền tôi đã cạn. Không lẽ lúc ấy còn kiện nhau. Vậy tôi phải cố thuê cho được thợ. Chỉ ngày mai là dỡ luôn.

    Ngày hôm sau….Chúng tôi đến nhà hắn thì thấy hắn đang nằm thườn trên một cái giường tre, chiếu rách và bẩn thỉu. Đứa bé ngồi ngay dưới đất, ôm một cái chân giường, rên. Nó đau bụng từ sáng sớm. Đứa con lớn vừa cạu nhạu vừa đấm lưng cho em thùm thụp. Tôi chào hắn. Hắn khẽ hé môi đáp lại. Chúng tôi nhìn nhau ngượng nghịu như hai kẻ thù nhìn nhau. Sao lại thế? Tôi không dám nhìn hai đứa con của hắn. Hình như tôi thẹn với lòng tôi thế nào…

    Tôi nhìn xuống đất mà bảo hắn:

    Bác làm ơn cho tôi dọn đồ đạc ra để cho người ta dỡ… Hắn cười chua chát:

    Đồ đạc thì có gì mà dọn? Chỉ có một cái giường này. Cứ quăng bố nó ra ngoài kia cho tôi, rồi dỡ đi. Hắn đứng dậy mà bảo con:

    Chúng mày cũng đứng lên. Sang nhà bác Vi nằm nhờ.

    Con chị phải quát tháo, gắt gỏng với em một lúc, hai đứa mới lếch thếch cõng được nhau sang nhà bác

    Vi. Vẫn một đứa làu bà lạu bạu, một đứa oằn oại và rên la. Thợ trèo lên mái, dỡ gianh quăng xuống.

    Tôi ngồi ở sân, trông họ.

    Một lúc sau, chẳng biết đã gửi em cho ai được, đứa con gái lân la gần tôi, xem dỡ nhà. Tôi có dịp trông gần nó. Nó gầy ốm quá. Cổ tay, cổ chân chỉ con con. Mặt chau chau. Quần áo rách thượt lượt. Hàm răng cả nó cứ nhe ra một cách trông thương hại lắm. Tự nhiên tôi ngán ngẩm. Tôi thở dài một tiếng. Rồi tôi buột mồm hỏi nó:

    – Từ sáng đến giờ, em đã có cái gì ăn chưa?

    Nó không đáp, chỉ lắc đầu uể oải. Hình như nó đang bận nghĩ ngợi điều gì. Mắt nó nheo lại. Cái mặt nó cau cau. Có lẽ chỉ vì quáng nắng. Nhưng tôi cứ thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm lắm. Tôi nhắc thầm trong trí: ta không mua thì người khác…

    Những mè, rui đã dỡ xong rồi. Người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ. Tiếng dùi đục kêu chan chát. Những tiếng rắn chắc vang lên, lọng óc. Tôi thấy con bé con đỏ bừng mắt. Nó không nhe răng ra nữa. Đôi môi nó bụm lại. Hai má nó phình ra một chút. Cứ thế, nó chẳng nói chẳng rằng, chạy bình bịch sang nhà hàng xóm. Nó định làm gì vậy. Lòng tôi thắc mắc nỗi lo không rõ rệt. Bỗng tôi nghe thấy một tiếng trẻ con khóc nức nở và hờ:

    – Mẹ ơi….

    Tim tôi động một cái giống như bước hụt. Rồi nó đập loạng choạng. Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ thì tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi được nữa. Tôi ác quá! Tôi ác quá! Tôi phải thú nhận với tôi nhiều rồi….

    Phải, tôi ác quá, anh Kim nhỉ. Rồi đây, hối hận sẽ tỏa một bóng đen vào trong cái nhà mới của tôi, rộng rãi và sạch sẽ hơn cái trước. Những chiều đông lạnh lẽo, một con thạch sùng nấp trên một cái xà ngang sẽ tặc lưỡi nhắc cho tôi biết: Tôi ác quá! Tôi ác quá!… Nhưng mà thôi anh Kim ạ! Nghĩ ngợi làm gì nữa! Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia hở. Đâu phải tôi muốn tệ? Nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khe khắt vậy? Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai!…

    Tiếu thuyết thứ Bảy.

    Số 448, ngày 13-2-1942

     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  5. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Quái Dị
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Năm ấy mất mùa. Lúa làng xấu lắm. Chúng tôi gặt ruộng nhà xong, mới đi gặt thuê được mỗi người vài ba buổi mà lúa làng đã vãn. Chúng tôi bàn nhau ra Đông gặt.

    Bọn chúng tôi có bốn người. Trong số ấy, có ông nhiêu Tiêm đã đi gặt xa nhiều lắm; chẳng một xó nào mà ông không biết. Ông đã từng gặt ở những nơi lúa phải mò, ăn cơm phải đứng dưới ruộng, nước lên đến thắt lưng, mâm cơm đặt trên bốn cái cọc cắm ngay giữa ruộng. Trên thì nắng đốt đầu, dưới nước nóng đến làm da phải bỏng, người thợ gặt buông cái hái ra một cái là vơ lấy đũa, bụng thì đói mà cơm với thịt kho cũng không sao nuốt được; chỉ uống, uống không biết chán. Được cái công cao lắm. Cũng có nơi, công đã chẳng lấy gì làm cao, mà ăn uống lại kham khổ quá. Canh riêu đã không có thì thôi. Đến tương, mắm cũng không có nốt. Cơm, toàn một thứ gạo cuống rơm đã bốc hơi. Cái ăn, độc một thứ cà nén; chạt vào những muối; ăn mặn như thợ đường bể cũng chỉ một quả là đủ bữa. Hạng mình thì chưa đặt vào đầu lưỡi, vị đắng đã bắt nhăn mặt vào. Về cái tích cà này, ông nhiêu kể lại một chuyện buồn cười lắm. Mùa ấy, ông cũng đi gặt ở mạn Đông, với mấy anh em nữa, toàn người làng cả. Họ gặt cho một nhà cũng khá giàu, mà có vẻ quí người. Trưa đến, quẩy lúa về, chủ nhà mời quan viên thợ gặt ngồi lên cái giường giữa trước bàn thờ để nghỉ ngơi cho nó mát rồi xơi cơm. Quan viên khấp khởi mừng thầm. Ngồi như vậy, thế nào ăn chẳng khá. Họ đã nghĩ đến riêu mè, thịt lợn kho, hay ít ra thì cũng được bát canh bí xào nấu với cua để húp cho mát ruột. Nhưng quan viên nhầm cả. Mâm cơm bưng lên toàn một thứ cà, cái thứ cà to bằng một bát con, thâm sịt và mặn như “cô” muối vào. Anh nào muốn sắt ruột lại thì cứ ăn! Ấy thế mà quan viên ăn rất nhiều. Chính cô dâu nhà chủ, có lẽ đã quen ăn mặn lắm, mà cũng phải chịu bọn thợ gặt này là ăn mặn. Một bữa ăn, cô phải lấy thêm cà năm, sáu lượt. Cứ vừa đem một đĩa lên, đã lại thấy họ gào đem đĩa nữa. Sau cùng, thấy đĩa thì không xuể, cô xúc luôn cho họ một bát tàu to thật đầy. Chỉ có bốn người ăn mà vại cà vơi đi…Chiều hôm ấy, thấy cô con dâu ra đồng đội lúa, ông nhiêu Tiêm hỏi: “Cô ơi cô! Tôi hỏi thế này khí không phải. Cô đã lấy nước cho các cụ chưa?”. Người con dâu ngơ ngác. Cô không hiểu vì ý gì mà người ta hỏi thế. Hỏi họ thì họ chỉ cười khúc khích. Cô ngờ ngợ. Về nhà cô đem chuyện ấy khoe với chồng. Chồng cô không hiểu nốt. Y khoe với bố. Ông bố có học được ít chữ nho thì phải. Người có chữ như thâm thúy. Ông nghĩ ngợi. Ông vào nhà, cụ soát lại bàn thờ ông vải. Khi ông mở bốn cái đài, ông thấy đài nào cũng đầy lên những cà. Cho biết bọn thợ gặt này cũng thâm! Những kẻ đã vác cái đòn càn đi ăn cơm của người tứ xứ giở mặt nào cũng được, không chịu kém cạnh ai nước gì. Ông nhiêu vẫn bảo bọn đàn em chúng tôi như vậy. Có lần ông đã gặt thuê cả cho một bọn cướp lúa, giữa ban đêm xách liềm hái sang cánh đồng làng khác, mà vẫn giữ được cái đầu đem về nhà. Ông xã Mích với chú cu Xiêng thì cũng chỉ mới đi ít vậy thôi. Thường thường ở nhà họ cũng không thiếu việc làm. Bởi vậy chỉ thỉnh thoảng có vui anh vui em họ mới đi một vụ cho nó biết. Duy có tôi, mới xách hái, vác đòn càn đi gặt xa lần này là một.

    Đen tôi quá! Ông nhiêu Tiêm bảo: ông đi gặt thuê kể đã nhiều mà chưa bao giờ khổ thế này. Chúng tôi cơm đùm cơm nắm đi luôn bốn năm hôm giời mà chẳng gặp ma nào đón. Thì ra lúa mạn Đông năm nay chín sớm. Phần nhiều người ta gặt rồi. Chiều ngày thứ năm, chúng tôi đứng lại một làng xác xơ và có vẻ nghèo nàn. Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa những khu vườn rộng thì có rộng, nhưng xấu lắm: mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như những cây rau diếp ngồng, dĩ chí đến cây khoai, cây ráy cũng không lên được. Người xấu xí và rách rưới. Cái số trẻ con bụng ỏng, mắt toét ngoài đường sẵn lắm. Đàn bà móc cua, mò ốc. Đàn ông đi bắt chuột, riu tép hay xúc dậm. Chỉ vào một hàng nước của họ cũng biết rằng họ khổ. Xôi thì xôi đậu mắt cua. Bánh đúc hột sặc mùi vôi. Giá có bát canh bún cua thì ba phần rau mới được một phần bún. Mà nào có ra hồn bún! Những sợi to bằng cái đũa màu xam xám chứ không trắng hẳn. Ăn vào rắn mà lại chua. Ấy thế mà đã gọi là danh giá lắm. Hàng nào cừ mới có. Còn thì chỉ cái giống bánh sắn, bánh khoai hoặc cái bánh rán làm bằng cơm nguội là nhiều lắm. Ngon hay không, chẳng cần phải hỏi. Quí hồ thật to…

    Chúng tôi vào một cái hàng tồi tàn ấy, uống bốn người mới hết một trình nước vối. Bà hàng hỏi:

    – Chư ông đi gặt hẳn?

    Anh cu Xiêng mau mồm miệng đáp:

    Vâng, chúng cháu xem có ai thuê thì gặt. Ở ta đây đã gặt xong chưa cụ?

    Xong từ bao giờ rồi. Chúng tôi ít ruộng lắm.

    Muốn tỏ mình thông thuộc, ông nhiêu Tiêm tắc lưỡi:

    – Ruộng ở đây còn hiếm hơn ở mình. Gặt có già cơ chỉ dăm ngày là xong.

    Rít một hơi thuốc lào rồi ông ngẩng mặt lên, vừa thở khói ra vừa cau mặt bảo:

    – Anh em mình chết dở! Đi muộn quá. Đến cũng phải quay giở về.

    Một người đàn ông trẻ tuổi, mắt hấp hem, cố tách đôi mi mọng đỏ ra nhìn chúng tôi, khìn khịt mũi mấy cái rồi bảo:

    Tôi bảo nhé? Chỗ này thì còn nhiều lúa chưa gặt lắm. Các ông có dám đến thì tôi mách. Ông nhiêu Tiêm cười khểnh:

    Hừ! Chúng tôi thì âm phủ chúng tôi cũng dám đến. Cứ có người thuê là được.

    Người thuê thì khối. Già nửa làng chưa gặt được.

    Ở đâu vậy, bác?

    Các ông có dám đến không đã?

    Tôi đã bảo: hùm tinh chúng tôi cũng không biết sợ. Có phải bên Mai không nào?

    Ừ, bên Mai.

    Tưởng gì!

    Tiếng ông kéo dài nó ra để tỏ vẻ khinh thường và chế nhạo. Mũi anh kia khìn khịt một hồi lâu. Bây giờ tôi mới hiểu thế là anh ta cười. Bà hàng bảo:

    – Ông nói thế chứ tôi thách ông dám sang gặt bên Mai.

    Cụ không phải thách. Chúng tôi đi ngay giờ. Làm cái thằng đàn ông, có thế mà đã sợ, không bõ vợ nó cười vào mặt cho. Chẳng nói giấu gì các cụ ở ta đây, các cụ nhiều tiền lắm của nên sợ chết, chứ người làng chúng cháu nghèo khổ nên chẳng coi cái chết ra mùi gì.

    Câu nói rõ ràng có ý khích bác. Ông này đến làng người ta, mà nói miệt người ta quá. Bà hàng sa mặt xuống. Bà trả miếng:

    Thì đấy! Không sợ thì cứ sang mà gặt. Người ta đang cần thợ gặt. Chỉ sợ lại được chôn vỉa đường. Ông nhiêu Tiêm cũng cáu:

    Cho ngay rằng chôn vệ đường! Anh em mình cứ đi.

    Bà hàng không thèm nói nữa. Bà chỉ bĩu cái môi ra một chút. Và cái mặt bà vác lên. Ghét cái tính hay cà khịa của ông nhiêu Tiêm, chúng tôi không ai nói nửa lời. Tôi rất bực mình. Sao ông ấy cứ muốn gây ác cảm với thiên hạ làm gì vậy? Ông vác đòn càn đi trước. Ba chúng tôi cúi gằm mặt, theo.

    Ông hiểu: chúng tôi gắt với ông chăng? Ông vừa đi vừa lẩm bẩm.

    Mẹ kiếp! Dọa! Dọa thì ông cũng không sợ. Lòe thằng nào chứ lòe thế nào được ông. Tôi hỏi:

    Ở làng ấy có cái gì mà chúng nó bảo: chúng ta không dám đến?

    Ông cười nhạt:

    À! Cả làng nó chỉ có đầu, có đuôi mà không có khúc giữa.

    Thế là cái gì?

    Thấy tôi ngờ nghệch, ông nhiêu Tiêm cười khanh khách. Chú cu Xiêng cắt nghĩa:

    Chuyện phường chèo bảo…Đầu trộm đuôi cướp. Khúc giữa làm gì có? Đến lượt tôi cười vuốt đuôi. Nhưng cười xong tôi bảo:

    Thế thì bố ai dám gặt cho chúng nó! Gặt xong công chúng nó không giả, chúng nó lại cho một nhát dao thì được theo ông bà.

    Ông nhiêu Tiêm nhạo ngay:

    Vợ mày còn trẻ lắm hay sao mà mày tiếc đời đến thế? Cũng đòi làm con giai! Tao ấy à? Xin cho ngay là quỷ sứ!… Kẻ cướp thì đây còn cho là xoàng!….

    Chập choạng tối thì chúng tôi đến làng Mai. Đường vắng ngắt. Có một vẻ gì lạnh lẽo đến làm người ta rờn rợn như khí áp lưỡi dao cạo sắc lên trên gáy. Văng vẳng những tiếng khóc tỉ ti bay theo gió chiều.

    Chỗ chúng tôi dừng lại là một cái chợ. Những quán gianh vắng ngắt xơ rơ như những con gà xù lông ra, ngủ ròm. Những con gà quái gở! Tôi đột nhiên thấy rợn. Có lẽ cả ông xã Mịch và chú cu Xiêng cũng vậy, họ đi sát vào tôi. Riêng có ông nhiêu Tiêm bình tĩnh lắm. Ông ngồi phịch xuống:

    – Làng Mai đây rôi. Quan nào muốn bứt đầu lão thì ra đây!

    Ông cười the thé. Tiếng cười nghe ghê rợn quá. Tôi nhìn tròng trọc vào cái bụi tre tối om bên đường… Ồ! Cái gì thế vậy? Tóc gáy tôi dựng ngược. Chân tay tôi bủn rủn. Trời ơi! Có một bóng người…có một người…từ bụi tre đen ngòm đi ra. Vụt một cái, hắn đã sừng sững ngay trước mặt tôi, như mọc từ đất lên. Tôi hốt hoảng quát to:

    – Ai thế?

    Một thứ tiếng rất nhẹ nhàng đáp lại:

    – Tôi đây mà. Các ông đi gặt hẳn?

    Đó là một người con gái. Tuy giời tối, chẳng trông rõ mặt, nhưng nghe nói là đủ biết. Tôi hơi yên lòng.

    Bốn người đàn ông khỏe mạnh không có lý gì lại sợ một con đàn bà. Ông nhiêu Tiêm hỏi:

    Mợ thuê gặt à?

    Vâng, các ông chưa gặt cho ai thì về nhà cháu nghỉ rồi sáng mai gặt giùm cho cháu.

    Được, nhưng mợ cho chúng tôi thế nào?

    Người đàn bà ngần ngừ một chút rồi bảo:

    Các ông đã gặt ở các nơi thì các ông biết đấy. Các ông định thế nào, cứ cho nhà cháu biết. Các ông định lấy mỗi công gặt là bao nhiêu?

    Mợ cứ cho một đồng.

    Một đồng thì đắt quá

    Chúng tôi gặt mấy nơi đều thế cả.

    Làm gì đến.

    Sốt ruột, chú cu Xiêng hỏi phắt:

    Thế mợ cho bao nhiêu?

    Tám hào.

    Tôi nghĩ bụng: ông nhiêu Tiêm hớ rồi. Chắc công gặt ở đây cao lắm. Đáng nhẽ ông phải nói đồng rưỡi hai đồng. Có lẽ ông nhiêu Tiêm cũng nghĩ như tôi vậy. Ông giao hẹn:

    Tôi nói cho mợ thế này này: chúng tôi gặt thì chỉ biết gặt thôi chứ không biết đập, giũ: miễn là làm sao cắt được lúa, bó lại quẩy về nhà là được; tối đến, chúng tôi chỉ buông xuôi cái đòn càn là xong việc.

    Đó là một cách để mà vòi đấy. Tôi dẫu chưa gặt ở đây nhưng cũng đã từng nghe người ta nói: cái lệ ở các nơi, thóc lên cót rồi mới có thể gọi là xong việc; mới buông xuôi cái đòn càn đã đòi lấy tiền của người ta sao được? Ấy thế mà người đàn bà cũng chịu:

    Vâng, thì các ông cứ làm sao lôi được lúa về nhà cho cháu là được.

    Ồ! Nhưng mợ vẫn phải cho một đồng.

    Ông nói một đồng, chẳng lẽ ông lấy cả một đồng.

    Mợ đã nói thế thì chúng tôi xin bớt đi một hào. Cứ chín hào một công, chẳng còn phải nói đi nói lại.

    Vâng, thì mời các ông về nhà.

    Chúng tôi đi theo thị. Qua một cái ngõ sâu hoăm hoắm, chúng tôi đến một nếp nhà khá to, có tường hoa sân gạch. Người đàn bà đánh diêm châm đèn. Ngọn đèn dầu leo lét. Vẻ vắng lặng lại làm tôi sinh ngờ. Bởi trong cái nhà ngói rộng như cái đình, chỉ có mỗi một người đàn bà ấy. Không còn ai nữa. Ở một đầu nhà, một lá màn buông sẵn. Một mùi gì là lạ. Cái khí lạnh ở ngoài đường lúc nãy, chưa vào đâu với cái lạnh trong căn nhà hoang vắng này.

    Người đàn bà biến đi đâu một lát. Rồi y lại hiện ra. Bây giờ tôi mới có thì giờ nhìn rõ. Y còn trẻ lắm. Mặt đẹp nhưng xương xương, lành lạnh. Một cái khăn vuông đen chùm gần hết trán. Cái khăn vuông ấy hắt bóng tối lên làn da xanh. Thú thật, trông cái mặt ấy, tôi không ưa tí nào. Không hiểu sao, tôi thấy nó không ra mặt người. Nó là giống ma quái gì. Bởi vậy tôi giật mình khi người đàn bà bước thẳng lại phía tôi và bảo:

    Bác còn trẻ nhất, chịu khó ra ngoài này, tôi mượn. Tôi lưỡng lự, ông nhiêu Tiêm dụ:

    Kìa! Ra đi!

    Tôi đi theo y mà trống ngực đập thình thịch. Y đưa tôi ra đầu chái. Cạnh đấy là một cái ao, nước đen ngòm ngòm. Y biến vào một cái nhà tối như hũ nút. Tôi đứng đợi ở ngoài, không dám vào. Bỗng y lại chui ra, tay cầm một vật gì. Nhờ có ánh ngọn đèn con để ở đầu chái, tôi nhận ra một con dao nhọn. Thứ dao chọc tiết lợn. Tôi không động đậy, nhưng trong lòng bối rối. Y bình tĩnh bảo:

    – Bác cắt tiết giùm tôi con gà.

    Tôi hoàn hồn. Nhưng giết gà để làm cơm thợ gặt? Sự này cũng lạ. Bàn tay tôi nắm con dao cứa trên cái cổ con gà, run rẩy. Con gà hé một mắt ra, chừng chừng nhìn tôi. Người thiếu phụ, cầm chân gà, chúm đôi môi ra một cách sầu não lắm. Ơ! Sao lại thế? Tôi vụt nghĩ đến những chuyện yêu tinh làm thịt con. Và tôi sinh bàng hoàng. Cái cổ gà giãy trong tay tôi như một khúc rắn. Tôi kinh sợ rụt ngay tay lại. Người thiếu phụ mở to đôi mắt trắng dã nhìn tôi, rồi bảo:

    – Thôi được rồi. Bác về nhà mà nghỉ.

    Tôi nhẹ lâng cả người. Về đến nhà, tôi muốn kể những điều mắt thấy với ba người họ, nhưng sợ họ cười, lại thôi.

    Chừng một giờ sau, người đàn bà bưng về một mâm cơm. Mâm đồng tử tế, thức ăn toàn gà luộc. Lại có cả hai chai rượu.

    – Mời các ông xơi rượu rồi ăn cơm. Xong đâu vào đấy, nhà cháu còn nhờ các ông việc này.

    Ông xã Mịch và chú cu Xiêng nhìn nhau ra ý hỏi: sao ở đây người ta lại quý thợ đến thế? Tôi thì tuy không phải ngạc nhiên, nhưng vẫn còn thắc mắc. Duy có ông nhiêu Tiêm thấy rượu thì mừng ra mặt, nhỏm ngay dậy, bảo:

    – Mợ đã cho, anh em ta đi uống rượu!

    Trong khi chúng tôi ăn uống, người đàn bà tháo tất cả những cánh cửa nhà, hạ xuống. Lại là một sự kì dị nữa? Y tháo hết cánh cửa ra làm gì?

    Ăn uống xong, ông nhiêu Tiêm mặt đỏ gay, gọi chủ nhà bảo:

    Bây giờ chúng tôi no, say cả rồi. Mợ định bảo chúng tôi làm gì thì bảo đi. Tôi hồi hộp. Người thiếu phụ đứng trong nhà nói với ra:

    Mời các ông vào trong này.

    Ông nhiêu Tiêm đứng dậy, gật chúng tôi, cùng vào. Tôi gần chết khiếp, bởi lá màn đã vén lên. Trên bộ ghế nhựa, nằm duỗi dài ba cái xác, một cái đàn bà, hai cái đàn ông, chân tay xám như gio, má hõm, lỗ mắt sâu hoắm vào. Ông xã Mịch rú lên:

    – Giời ơi! Sao thế này?

    Và cả bốn chúng tôi, người nọ bám vào người kia. Người đàn bà vội sụp ngay xuống, lạy chúng tôi và rưng rức khóc:

    Đây là bố chồng tôi, mẹ chồng tôi, với chồng tôi. Chẳng may Giời bắt tội chết cả, không ai dám chôn. Tôi đàn bàn, con gái, lại có một mình. Các ông đã đến đây, các ông ghép qua loa vào làm áo quan.

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 450, ngày 27-2-1943
     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  6. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Từ Ngày Mẹ Chết
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hôm nay mưa rét. Mỗi khi trời mưa rét Ninh lại nhớ đến bu. Hồi bu còn sống, những ngày mưa rét, không ra vườn hái trầu, bóc mía hay làm cỏ được, bu hay mang cái bị giẻ và một ôm quần áo rách vào rơm ngồi vá. Những mũi kim nhỏ, đều đặn và thẳng tắp. Người vô ý trông không biết là áo vá. Mà bu Ninh vá thật không biết gì là sốt ruột. Ai đâu mà ngồi đến tê cả mông, mờ cả mắt cũng không thôi. Những lúc đau lưng quá, bu Ninh chỉ ngừng kim một lát, vươn vai hoặc bẻ lưng vào cái cạnh giường kêu răng rắc, rồi lại cúi đầu xuống vá, vá hết cái này sang cái khác. Bao nhiêu là quần áo rách! Những cái quần trắng, áo cánh trắng của thầy, đầy nhựa chuối. Những cái váy bạc phếch của bu. Những cái váy bằng vải to nhuộm sồng với nhuộm bùn, dày cồm cộp. Trông cái váy, người ta tưởng như nó bền đến thiên niên vạn đại. Ấy thế mà cũng rách. Tội nghiệp, thì ra nó đẫm nhiều nước tiểu của thằng Đật quá. Về mùa rét, cậu Đật ta đêm nằm cứ tuồn hai chân vào lòng mẹ. Chả thế thì nó ấm mà! Nhưng tính cậu ta lại đái dầm, càng rét càng khỏe đái. Ấy thế là cứ mỗi đêm ba bốn lần, cậu rót tồ tồ vào váy mẹ. Chẳng sáng nào, mẹ không phải thay váy đem ra ao giặt. Còn gì mà chẳng mục? Không mục có họa là bằng gỗ lim!… Nhưng nhiều nhất là những quần áo của Ninh, của Đật. Cái nhuộm son, cái giãi nâu, cái để trắng. Nhưng chẳng cái nào còn giữ trọn vẹn được cái mầu của nó. Bởi vì cái thì mốc xanh, cái thì mốc vàng, cái thì lấm tấm hoa bèo, cái thì trạt những nhựa chuối, những tương, những mắm, mũi dãi cùng đất cát. Vò đến sái tay cũng không còn sạch được. Mà cái thì mất cúc, cái thì xoạc nách, cái thì xoạc túi, cái thì rách lưng, cái thì rách vai, cái thì rách ống tay. Chỉ tại nó nghịch quá. Không thế chưa đến nỗi. Nhiều cái vải còn dai lắm, xé kêu xoàn xoạt. Chúng nó mặc hại quần áo lắm. Cứ gọi là vừa mặc vừa xé áo. Bu Ninh tay vá, miệng chửi cho không còn tai nào mà nghe… Đật và Ninh chiếm mỗi đứa một bên cạnh mẹ. Chúng nó nằm phục vị, đều chúi vào đít mẹ, Ninh kêu bên Ninh ấm, Đật cãi bên Đật ấm, hai đứa cãi nhau chí chóe. Mẹ đùa con, bảo:

    – Có im, không thì tao đánh cho một cái… tha hồ ấm.

    Chị em cười khành khạch rồi cãi nhau bô bô. Ninh mồm mép quá, Đật không nói kịp. Đật òa khóc. Mẹ ngừng kim, cốc vào đầu con gái. Ninh rụt cổ lại, ôm đầu cười hí hí. Mẹ Ninh bật cười. Ấy thế là Ninh sằng sặc cười thật to, khiến Đật đang khóc cũng khanh khách cười… Chao ôi! những ngày mưa rét hồi ấy vui quá nhỉ?

    *****

    Bu chết đã ngót ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh cứ tưởng bu Ninh chết đã lâu lắm. Nhưng trách gì!… Xưa kia, những ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần tối chưa về Ninh đã thấy mong. Ấy là mới vắng bu có một ngày. Mà nào đã hết cả ngày. Bây giờ vắng bu bằn bặt những ba năm. Bao nhiêu ngày tháng! Ninh thấy lâu là phải. Biết bao giờ mẹ lại về với con? Ninh bâng khuâng cả người. Y như là nằm mơ. Ấy là Ninh đã nguôi nguôi đấy. Hồi mẹ Ninh mới chết, cứ nghĩ đến mẹ là Ninh khóc. Ninh khóc ằng ặc như người nuốt phải ngụm gì đắng quá, nó quánh vào cổ họng. Khóc đến lặng hẳn người đi, không còn ra tiếng nữa. Chẳng ngày nào không thế. Mỗi ngày hai, ba lần.

    Bây giờ thì Ninh không khóc nữa. Nhưng Ninh vẫn còn buồn lắm. Buồn rũ rĩ. Ninh ngơ ngẩn như mất vía. Có lúc Ninh làm gì mà cũng không biết nữa. Ninh vừa cất con dao hay cái chổi, giá thầy Ninh có hỏi, Ninh đã lại chẳng biết đâu mà lấy. Thầy Ninh cũng hiểu Ninh nhớ mẹ, nên không nỡ mắng. Thầy rân rấn nước mắt. Bố nhìn con, con nhìn bố. Hai bố con cùng cúi đầu lẳng lặng. Bố thở dài và con thở dài….

    Mẹ Ninh chết sau ngày giỗ ông nội Ninh có hai ngày. Ninh nhớ rõ thế, bởi vì ngày giỗ ông năm ấy, hai mẹ con đã khóc lóc với nhau từ non trưa cho đến tối. Sáng dậy thầy Ninh hâm thuốc cho bu Ninh uống rồi thầy quét nhà, quét sân, giặt quần áo cho bu. Rồi lại còn phải lấy gạo thổi một niêu cơm để đấy cho Ninh nữa. Xong đâu đấy thầy cõng Đật đi ăn giỗ. Ninh phải ở nhà coi mẹ. Thầy Ninh bảo: “Con chịu khó ở nhà với bu kẻo bu buồn, thầy cho em đi một lát, lúc về thầy lấy phần cho một nắm xôi, vài miếng thịt, tính con thịt mỡ chỉ ba miếng là chán ứ. Đi, con cũng chả ăn được mấy, mà ở nhà thì thầy cũng đem về cho con. Đằng nào con cũng được ăn, nhưng bu con ốm thế, để bu ở nhà một mình thì thầy lo lắm”. “Con ở nhà với bu…”. Việc gì mà thầy phải nói nhiều đến thế? Ninh có đòi đi đâu? Thịt mỡ thì Ninh không thích thật. Nhưng dù có thích, Ninh cũng không đi cơ mà! Đi cũng khó mà nuốt được. Ninh thương bu lắm. Ninh thích ở nhà với bu. Thầy Ninh còn phải cúng ông, thì thầy Ninh phải đi. Thằng Đật còn bé, dở người, không cho nó đi thì nó khóc. Chẳng lẽ Ninh to đầu rồi mà cũng bắt chước em? Có mà đồ hư? Không, Ninh không đi đâu, thầy ạ. Ninh không muốn đi đâu, thầy ạ! Thầy cứ cõng thằng Đật đi kẻo muộn. Ninh ở nhà thích lắm. Thầy đừng thương Ninh…

    Nhưng thấy Ninh cứ nhìn theo thầy cõng thằng Đật đi ra ngõ, bu Ninh lại tưởng Ninh muốn đi ăn giỗ lắm, nhưng sợ bố mà không dám đòi đi. Bu Ninh thương hại. Bu gọi Ninh vào mà bảo:

    – Con muốn đi thì cứ đi cũng được. Hôm nay bu dễ chịu.

    Ôi! Không!… Không!… Ninh không muốn… Ninh lắc đầu hăng hái:

    Không! Con ở nhà.

    Sao thế?

    Chẳng sao cả, nhưng con không thích…

    Nhưng ngộ bà không thấy con, bà lại hỏi…

    Hỏi gì! Bà biết thừa là bu ốm nặng. Ninh phải ở nhà để bu sai vặt chứ!… Ninh nghĩ thầm như vậy, nhưng không nói. Ninh chỉ hơi lắc đầu. Nhưng có lẽ bu cũng hiểu. Bu nhìn Ninh âu yếu. Mắt bu ầng ậc nước. Bu chửi yêu Ninh:

    – Bố mày!

    Rồi bu lại bảo Ninh:

    – Không đi thì ngồi xuống đây… Bóp tay cho bu một lúc. Tay bu buồn lắm.

    Ninh nắm lấy cái bàn tay bu, chỉ còn rặt những xương, mà lạnh giá. Nó lỏng la, lỏng lẻo. Những ngón trông rõ từng đốt, từng đốt một. Những đường gân xanh nổi thày lày lên. Ninh bóp tay bu nhẹ nhẹ. Ý hẳn bu thích lắm. Mắt bu lim dim và đôi môi nhợt nhạt của bu hé mở như chực cười. Rồi tay bu nắm lấy tay Ninh. Thành ra chính bu lại bóp tay cho Ninh chứ không phải Ninh bóp tay cho bu nữa. Bu vừa bóp vừa hỏi:

    – Sao lớp này con gầy thế?

    Ninh không đáp được. Bu Ninh soi tay Ninh lên trước mặt nhìn rồi bảo:

    Chết thôi, con ạ! Tay mày đầy những mụn. Không khéo ghẻ…

    Ninh cúi mặt. Bu căng từng kẽ tay Ninh ra xem, rồi kêu lên:

    Bỏ bố mày! Đích thị mày ghẻ rồi, con ơi! Yên, tao xem nào. Bu ngồi hẳn lên. Mắt bu tỏ ra vẻ sợ hãi. Bu vén ống tay áo Ninh lên. Cổ tay Ninh sây sứt. Bu lắc đầu:

    Bố con! Con bẩn quá! Cái cổ tay gồ lên những ghét… Hèn nào mà chả ghẻ?

    Bu bắt Ninh đi múc nước. Bu rửa cho Ninh lâu lắm. Vừa rửa bu vừa bảo:

    Sẩy mẹ ra một cái là khổ ngay, con ạ. Ấy là mới rời tao ra hơn một tháng… Chúng mày đã gầy giơ xương, mình mẩy, chân tay thì ghẻ gún. Ngộ tao chết thì có lẽ chúng mày rã xương ra được. Này, cái cổ tay… có khác gì cái cẳng gà hay không?

    Ngừng một lát, bu lại thở dài mà bảo:

    Mẹ mà chết thì các con đi ăn mày mất! Đàn ông chả mấy người biết thương con cái. Cha chết thì ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá dọc đàng. Mẹ mà chết đi thì… con ơi!…

    Ấy thế là nước mắt bu chảy ra ròng ròng. Ninh cũng khóc. Hai mẹ con cứ ngồi trông nhau mà khóc đến tận lúc thầy Ninh với Đật đi ăn giỗ về. Thầy đem về một nắm xôi đỗ con với một cái đùi gà toàn những thịt. Bà thương Ninh nên bảo chặt để lại cho Ninh đấy. Nhưng Ninh thương bu quá, ăn cũng chả còn biết gì là ngon… Ồ! Ninh cứ bảo: bây giờ nghĩ đến bu, Ninh không khóc nữa… Không khóc mà lại có nước mắt, nước mũi Ninh đang chảy ra đây này… Đật! Đật ơi! Ô hay! cái thằng Đật chạy đi đâu rồi?

    *****

    Đàn ông chả mấy người biết thương con cái… Thật thế ư? Không có lẽ. Thầy Ninh thương chị em Ninh lắm chứ!… Hồi bu mới chết, thằng Đật khóc suốt ngày. Nó gào bu. Nó đã hiểu là thế nào đâu. Nó cứ đòi gọi bu về với nó. Thầy phải cõng nó ra chợ mua bánh. Thầy mua cho nó nhiều bánh lắm. Thầy mua cả cho Ninh nữa. Thầy với Ninh bày cỗ chơi với Đật. Thầy làm cho Đật những con quay bằng những quả bưởi con, những cái giường, những cái ghế tràng kỷ bằng cây chót. Trông thích lắm. Nhờ vậy Đật mới không khóc nữa.

    Đêm, Đật và Ninh ngủ với thầy. Ninh nằm trong cùng. Đật nằm giữa. Thầy nằm ngoài. Thầy bảo Đật luồn chân vào lòng thầy cho thầy ủ. Khi nó đã ngủ mệt rồi, thầy vươn tay qua người nó để sờ Ninh. Thầy kéo Ninh nằm sát vào với Đật. Thầy co chăn, co chiếu về phía Ninh thật nhiều, sợ Ninh giãy, trật ra ngoài, bị rét. Mùa bức thì thầy đặt hai đứa nằm cách nhau xa cho mát. Thầy ngồi quạt. Quạt cho đến tận lúc nào con ngủ mệt, thầy mới chịu ngả lưng xuống giường. Nhưng nằm thì nằm, thầy có ngủ đâu. Ninh thấy thầy quạt rất khuya. Có đêm, ngủ được một giấc dài, tỉnh dậy, Ninh vẫn còn nghe phành phạch. Thầy thở dài luôn ấy. Có khi sụt sịt. Thì ra đêm đêm thầy vẫn khóc. Thầy nhớ bu….

    Ấy, cái hồi bu mới chết thì thế đấy. Nhưng ít lâu nay, hình như thầy đổi tính. Thầy vẫn thương Ninh và Đật. Thỉnh thoảng thầy vẫn cho mỗi đứa vài xu ăn quà. Nhưng thầy vắng nhà luôn. Thầy phải gửi gạo bên nhà bác Vụ để thổi cơm cho Ninh và Đật. Bởi thầy đi từ sáng cho đến tối. Có khi tối cũng không về. Có khi đi luôn hai, ba ngày. Chị em Ninh phải ăn nhờ, ngủ nhờ nhà bác Vụ. Đi đâu vậy? Nào ai biết! Bác Vụ bảo thầy đến nhà cô Miện, thầy phải lòng cô ấy. Nhưng chắc là chả phải. Nếu phải, sao cô Miện lại đi lấy lẽ ông ký Bản? Đám cưới vừa đi qua đây hôm nọ. Ninh cõng Đật ra tận đường, đứng xem. Từ hôm ấy thầy lại càng khỏe đi. Đi suốt ngày suốt đêm. Mưa rét thế này, chả biết thầy đi làm gì cho khổ? Chả biết có được ăn gì hay không? Hay là nhịn đói luôn ba, bốn ngày?…

    Lại còn cái ông Đật nữa! Đi đâu mà đi mãi thế! Ý dáng lại lần sang nhà bác Vụ. Còn sang làm gì? Gạo của thầy gửi đã hết từ đời nảo, đời nào. Bác ấy phải cho ăn lận nhà bác ấy năm, sáu bữa. Nhà bác ấy cũng túng. Chồng chết đi, để lại đẫy bốn con. Bốn đứa cũng lúc nhúc như Ninh và Đật. Bác ấy nuôi được chúng nó cũng đến điều vất vả. Còn lấy gì mà nuôi cả Ninh và Đật nữa? Bác ấy đã phải bảo Ninh: “Cháu về mà đi tìm thầy, nhà bác cũng hết gạo rồi, nếu thầy không đưa thêm cho bác thì bác lấy gì thổi cho chúng mày? Các anh cũng đói…”. Thế là Ninh đủ hiểu. Bác ấy muốn bảo: “Chúng mày liệu sao thì liệu, đừng ăn rình nhà tao mãi!”. Ninh đưa em về. Tìm thầy, thì biết đâu mà tìm được? Ninh chẳng tìm. Không có ăn thì nhịn! Ninh nhịn từ bữa chiều hôm qua. Đật khóc, Ninh đi moi được một củ dong về nướng. Đật một nửa. Ninh một nửa. Ninh bảo Đật ăn cho đỡ đói thôi, còn cố nhịn, đợi thầy về, ăn nữa. Nhưng Đật không nhịn được. Đật chạy sang nhà bác Vụ. Bác ấy phải lấy trộm nắm cơm tối của thằng cu Chúc nhà bác ấy, đưa cho Đật, Đật mới ăn được một miếng thì Chúc biết. Chúc chạy vào nhà tìm nắm cơm của nó. Thấy mất, nó biết là nắm cơm của nó đương ở trong tay Đật. Nó chạy theo, giằng lại. Đật mất ăn, mếu xệch mồm đi, chạy về. Ninh đứng ở hè bên này, trông rõ cả. Ninh tức lắm. Chẳng biết tức Chúc hay tức Đật. Chỉ biết Ninh nghẹn ngào cả cổ. Vừa thấy Đật, Ninh nhảy xổ lại, tát đen đét vào má Đật. Đật òa lên khóc. Ninh òa khóc theo.

    Một lát sau, Ninh nghĩ thương em quá, Ninh lại đi tìm dong, nhưng hết. Ninh moi luôn một củ ráy. Ráy nước, ăn ngứa lắm. Nhưng đói còn biết gì là ngứa? Ninh đem về nướng. Ninh gọi Đật về, lau nước mắt cho nó, rồi chị em ăn ráy nước. Đật ăn tợn lắm, chẳng thấy kêu ca gì cả. Ninh rơi nước mắt. Ninh dặn em: “Từ giờ đừng ăn cơm nhà thằng Chúc nữa”. Đật gật đầu. Thế mà hôm nay nó lại lần sang nhà bác Vụ. Có bực mình hay không?

    *****

    Ninh reo lên:

    – A bà!

    Đấy là bà ngoại Ninh. Bà ở xa xôi lắm. Hôm nay, tiện ra mạn này lấy thuốc, bà tạt vào chơi với cháu.

    Bà đưa cho cháu một đùm xôi lạc.

    Bố mày đi đâu?

    Con không biết.

    Đi từ bao giờ mà mày không biết?

    – Đi lâu lâu là rồi.

    Bà ngồi xuống ngưỡng cửa, mặt hầm hầm như giận dữ. Ninh hơi ngượng. Bà chíp chíp mồm luôn ba, bốn cái rồi bảo cháu:

    Có phải bố mày bán nhà rồi không?

    Con không biết.

    Bán rồi! Thua xóc đĩa… Thua đâu những ngót ba trăm bạc…

    Đật chạy về. Nó vồ lấy bà, nhưng trông thấy đùm xôi ở tay Ninh, lại bỏ bà ra để vồ lấy đùm xôi. Ninh hất tay nó ra, mắng:

    Làm gì thế? Nhưng bà bảo:
    Cởi ra, chị em ăn với nhau. Để làm gì?

    Đật giằng lấy đưa cho bà cởi. Bà chia cho mỗi đứa một nửa. Hai cháu ăn. Đật ngồm ngoàm. Ninh thong thả. Bà nhìn cháu mà ái ngại. Bà chép miệng:

    Đến chết đói thôi, các cháu ạ! Bố chúng mày không ra giống người… Một tiếng thở dài tiếp theo…

    *****

    … Buổi sáng hôm ấy trời ấm áp. Có nắng hanh. Nắng luôn mấy hôm rồi, nên vườn khô ráo… Đật và Ninh đã chạy tung tăng được…

    Bỗng một bọn năm, sáu người, kẻ cầm lạt, kẻ cầm dùi đục, tuôn vào đầy sân. Mồm họ nhai trầu. Họ nói chuyện toang toang như một bọn đồ tể đi bắt lợn. Mấy người trèo lên nóc nhà nhà Ninh. Họ dỡ tranh quăng xuống sân rào rào. Ninh chạy về…

    – Ô hay! Sao các ông phá nhà tôi?

    Một người chít khăn mỏ rìu, nhe những cái răng cải mả ra cười mà bảo:

    A! Thầy mày thuê chúng tao phá đi để làm nhà tây đấy mà. Một người nữa cười ìn ịt như con lợn, bảo:

    Chả cái này bé quá!…

    Và người nữa:

    – Thầy mày thích làm nhà tây kia… Làm nhà bên Tây – Trúc ấy mà, mày biết không?

    Cả bọn cười ầm lên. Trông người nào cũng dữ. Họ nói như quát vậy. Ninh sợ hãi. Ninh chạy bình bịch sang nhà bác Vụ. Ninh định cầu cứu bác. Vừa bước vào nhà bác, Ninh sửng sốt. Thầy Ninh ở đấy. Thầy Ninh nằm thườn thượt trên một cái giường, hai tay chít lại đặt bên dưới gáy. Ninh mếu máo:

    – Thầy ơi! Thầy…

    Rồi Ninh nghẹn ngào, không nói được nữa. Nước mắt ứa ra. Thầy Ninh ngồi dậy, bảo:

    Việc gì mà khóc? Thầy bán cho người ta đấy. Bán lấy tiền mua vài phiến lim về xẻ. Chuyến sau, ta làm một cái nhà toàn lim!

    Thầy nhếch mép ra cười. Cái cười vạch hai nét nhăn trên đôi má hõm. Thầy cười thế, trông già sọm. Có lý nào thầy chóng già đi quá thế. Ninh trố mắt lên nhìn thầy… Bỗng từ bên nhà đưa sang những tiếng dùi đục kêu chan chát. Nghe ghê rợn lắm. Ninh đã được nghe những tiếng dùi đục ấy một lần rồi, vào cái ngày mẹ chết: người ta đóng cả chiếc săng của mẹ… Vết nhăn trên má thầy Ninh sâu thêm, rộng thêm ra. Trông như thầy Ninh mếu. Ninh òa lên khóc…

    Bu ơi là bu ơi!…

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 452, ngày 13-3-1943
     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  7. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Làm Tổ
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thuận rồi đấy!…

    Phải, nếu thời gian vẫn giữ được cái nhịp thường của nó thì rày đêm dài, ngày ngắn; ban đêm đã có sương, người ta đắp một cái chăn đơn vừa dễ chịu; ban ngày thì mát mẻ, trời đất xanh, không khí trong veo, nắng dịu, heo may giãi đồng. Nhưng các cụ già thường nói rằng: thời tiết bây giờ có khác đi, không còn được đúng như xưa. Ngày xưa, thời nào tiết ấy rất phân minh, mưa gió thuận hòa. Bây giờ thì các mùa liên tiếp nhau xem chừng cũng chẳng còn đúng mực. Chao ôi! Ở trên đời này có cái gì bền vững mãi đâu?

    Có như vậy thật. Ai dám ngờ rằng sang tháng Chín rồi mà còn có bão to? Thấy trời trở heo may, người ta tưởng đấy là thu. Những người giàu lấy áo mặc thêm. Những người nghèo mơ ước một nồi ngô bung để ăn cho chắc dạ trước khi đi ngủ. Trời lạnh lại càng khỏe đói. Nếu có mà ăn, người ta có thể ăn suốt ngày. Trong lúc người ta đang rất yên lòng nghĩ đến mặc và ăn, gió cứ mỗi lúc một thêm to. Gió suốt đêm. Hình như lại có mưa. Đến gần sáng thì những cái nhà tre đã bắt đầu chuyển mình kêu răng rắc. Người ta giật mình choàng dậy. Gió đã hung hăng lắm. Lấn át những tiếng kêu của lá, gió chồm lên hồng hộc.

    Bây giờ thì chẳng còn ai ngủ nữa. Ngay trong những căn nhà vững chãi, người ta cũng thức. Người ta thở dài, chép miệng, rên lên như sốt rét. Người ta lo chết đói. Lớp lúa này đang trỗ. Cây cối mà trận bão trước còn để sót vừa mới hơi hơi lại. Trận này nữa là không một giống cây gì còn sống nổi. Rồi đây vườn sẽ chỉ còn đất trắng, củ chuối mà ăn cũng không còn nữa. Nhà nào nhà nấy lại sắp sửa xem còn có thể đi nơi nào được, thì vợ chồng con cái bồng bế nhau mà đi…Khốn nạn nhìn lũ con vô tư ngủ lăn ngủ lóc dưới một cái nóc nhà lẩy rẩy! Một tiếng két lại làm cho họ giật mình thon thót. Họ lo lắng nhìn những cái xà cựa quậy. Nhà khó lòng mà khỏi đổ. Biết làm sao bây giờ được? Trời đen như mực. Không đèn đóm nào chống chọi lại được với mưa, với gió. Ngay người cũng khó lòng mà đi vững. Làm thế nào mà khuân được ba, bốn đứa con đi trú nhờ? Họ tự hỏi họ như vậy, rồi lại tự trả lời bằng những tiếng kêu trời thật to. Bởi vậy, ánh sáng trở lại thật đã đẩy một khối nặng đè lên ngực họ. Mắt họ sáng lên một chút. Nhưng chúng sáng lên để lập tức lại tối sầm ngay lại. Chúng vừa nhận thấy cái cảnh đổ nát ghê gớm bên ngoài. Biết bao nhiêu chuối đổ, cây gẫy gục, cây chốc gốc. Biết bao nhiêu mía đổ. Bưởi, cam rụng lở tở. Những cành xoan bị gãy cành, nát lá. Những cây tre rũ rượu như gần kiệt sức. Gió đã tuốt đi của chúng bao nhiêu lá! Những chiếc còn sót lại tướp ra thành những sợi nhỏ, như những chùm lá thông…

    Những người nhà quê nhìn ra vườn, thương xót cây cối của họ như thương xót những con vật sống. Họ thương cây và thương chính họ. Bao nhiêu là mồ hôi, nước mắt! Chỗ mía kia giá trời để nguyên lành, cuối năm nay làm gì không có ba chục bạc. Mấy buồng chuối tiêu kia tháng sau bán thật vừa: bán cho người ta ăn tết cơm mới. Cây bưởi có người trả mười đồng còn dùng dằng chưa chịu bán. Còn cam, còn trấp, còn cây hồng sai chíu chít…Bao nhiêu tiền của vào đấy. Tối hôm qua đi ngủ, còn nguyên vẹn. Bây giờ đã sạch sành sanh cả rồi.

    Những người đàn bà khóc thật. Họ khóc hu hu như cha chết. Những người đàn ông sốt ruột quát om sòm. Những thằng liều nghiến răng lại chửi trời. Những thằng nhút nhát hơn chửi trống không. Mặc!

    Gió vẫn gào, vẫn thét, vẫn hồng hộc như những con ngựa chiến. Và trên cao, cái thứ tiếng u u vẫn kéo dài ra mãi, như có người chọc tiết hàng trăm con bò…

    Nhưng trận bão ít nhất cũng làm cho một người sung sướng. Ấy là Thai cao kều. Không phải Thai là một kẻ dở hơi. Nhưng hắn chỉ có hai bàn tay trắng, những thằng không có của không bao giờ mất của.

    Vốn xưa kia Thai cũng có vườn. Có ba sào. Chẳng phải của ông cha để lại cho. Ông cha hắn cũng nghèo. Lúc sống cơ nghiệp có bao nhiêu thì lúc chết lại quây gói vào mà mang đi hết. Bởi vì người ta không phải là con chó, người ta không thể chết như con chó chết: chết còn làm lợi cho kẻ khác. Người chết phải đem chôn. Lại không thể cầm cái mai, moi một đống đất lên mà chôn như chôn một con mèo chết vào gốc cây khế cho cây khế ngọt. Phải mua cỗ gỗ, phải mời xóm mời làng. Phải có bát nước, miếng trầu. Phải biện lưng cơm cho những người khiêng. Ấy nói phận nghèo. Nếu có thể còn xoay mượn được thì còn phải đến trăm thứ khác. Cái chết ở thôn quê là một cái gì rầy rà to. Vậy thì dẫu bố mẹ Thai có vườn để lại cho Thai thì Thai cũng phải bán đi rồi. Nhưng thật tình là không có. Ba sào vườn của hắn, nguyên do là của ông lý Biên cho hắn. Hồi ấy hắn làm đầy tớ nhà ông lý. Chính vào hồi kinh tế. Thóc có hào tám, hai hào một thúng. Làm ruộng không đủ tiền trâu bò với tiền nộp thuế. Người ta lũ lượt kéo nhau đi mộ phu, đi lên rừng. Vườn, ruộng ế. Những mảnh tốt còn có người muốn giữ. Những mảnh xấu, chẳng có ai còn thiết. Người ta bỏ thuế. Lý trưởng sợ không có gì mà nộp đậy lại được, mang gán cho bà con thân thuộc, người một mảnh, người vài mảnh. Còn lại mảnh ba sào đất bãi, không ai chịu nhận, ông bèn cho Thai. Cho thì lấy vậy. Dẫu chẳng được lợi lộc gì thì cũng không phải thiệt. Đủ nộp thuế là phần nhất. Không đủ thì cứ ì ra đấy. Hắn là đầy tớ của ông lý, không lẽ ông giết hắn? Ngày ấy hắn chưa vợ, chưa con gì.

    Mấy năm sau, ông lý Biên từ lý trưởng. Người khác lên thay. Thai không thể ăn vườn mà không nộp thuế. Hắn đã toan bỏ phắt, nhưng không bỏ được. Bởi bây giờ hắn đã trót đa mang vào cái cảnh vợ con. Vợ hắn bảo rằng: cái vườn cũng như một cái xương để gặm dần. Thị nhất định cứ giữ khư khư lấy cái xương ấy, không chịu nhả. Sự co quắp của đàn bà thật là khó chịu nhưng nhiều khi có lý. Bởi vì cái thời mọi cái rẻ như bèo dần dần phải qua đi. Thóc gạo trở lại giá bình thường, rồi quá giá bình thường. Một thùng sắt tây đã có kì lên đồng tám. Gấp mười lần khi trước. Những người ăn đong méo mặt. Ngày nắng còn có thể đong được gạo, ngày mưa, nhiều khi có tiền mà cũng đành phải nhịn. Cầm rá ra hàng gạo, đố ai thấy đầu hàng gạo đâu; người đi đong chen chúc. Hàng gạo vừa bán vừa mắng xa xả, người mua cũng phải lăn lưng vào. Ờ! Bây giờ thì vườn, ruộng sao mà quý thế! Ba sào vườn của Thai bỗng nhiên có giá. Nó đã không còn là xương nữa. Nó là miếng nạc. Biết bao nhiêu anh thèm! Hồi đầu năm, có người trả trăm hai. Rồi có người trả trăm ba. Rồi có người trả trăm tư. Hồi tháng năm vừa rồi, thấy hắn phải chạy tiền nộp thuế, có anh cay mua quá, trả luôn trăm sáu. Đã ghê chưa? Chưa bao giờ hắn tưởng hắn có cả một cơ nghiệp to đến thế. Ngót hai trăm đồng bạc! Vợ hắn vênh mặt lên mà bảo hắn:

    Đấy! Chả đòi bán mãi đi! Giá bàn rồi thì bây giờ được nhìn người ta ăn mà xít xoa. Hắn cười:

    Người ta đùa đấy chứ ai chịu bán? Có ba sào vườn bán đi thì ở đâu?

    Úi chào!…..

    – Thật chứ!…. Bây giờ ai cứ trả hai trăm bạc, tôi có bán thì cho cứ phỉ vào mặt tôi.

    Có người biết thế. Người ấy dòm ngó cái vườn của Thai lâu lắm. Y biết rằng Thai túng, nghĩa là cái mồi còn có thể giằng ra được. Miễn là phải khéo. Y chờ từng cơ hội. Mà cơ hội thì này đây: một hôm y thấy Thai đến sòng sóc đĩa. Dấu hiệu này rất tốt. Bởi đến sòng sóc đĩa thì phải đánh. Đánh thì thua hoặc được. Được thì đánh nữa cho đến bao giờ hóa thua. Kết cục thì bao giờ cũng thua.

    Y chờ lúc đó. Lúc đó đã đến, như lời y đoán. Y cho Thai vay vài chục. Rồi y lại cho Thai vài chục nữa, rồi vài chục nữa. Sau cùng thì y gạ Thai cố vườn. Cố thôi, chứ y không có tiền mua đâu. Không muốn cố thì xoay tiền mà trả y. Y không cho vay thêm nữa. Vay nhiều rồi. Xoay? Nhưng mà xoay ở đâu? Xoay đâu cũng phải lãi mười phân. Thôi thì cố mẹ nó cái vườn cho xong! Thai nghĩ thế, bởi vì hắn đã thua cay lắm. Cần phải gỡ. Dẫu phải bán thân hắn đi để mà gỡ, hắn cũng không ngần ngại. Ấy thế là cái vườn mất. Bởi vì cái vườn bán có đắt khét mới được hai trăm thì người lấy cố lấy luôn cho hắn những trăm hai. Trăm hai, trăm hai, viết là hai trăm cho cẩn thận, do cái lẽ trong văn tự chỉ có thể nói: lãi y như quốc lệ. Y như quốc lệ nghĩa là đồng bạc, tháng có một xu. Tiền để có mục ra, cũng không cho vay nhẹ lãi như thế. Vậy thì viết tăng lên hai trăm cũng được, nhưng đến lúc chuộc thì cứ số trăm hai tính lãi mười phân mà trả. Người có tiền bỏ ra, bao giờ cũng muốn nắm đằng chuôi như vậy. Được! Được! Muốn thế nào thì thế! Thai cần tiền…

    Cái lịch sử vong gia thất thố bắt đầu như vậy. Tiếp đến những ngày vợ chồng nghiến ngấu nhau. Rồi thì chị vợ bỗng tẩn mẩn nghĩ rằng: cho cái thằng chồng bạt mạng này ăn thật phí cơm. Thị không cho chồng ăn nữa. Muốn ăn thì đi mà kiếm gạo. Anh chồng nghĩ: về nhà thế này thì cũng vô ích quá. Hắn không về nữa. Ban ngày hắn ở lại nhà chủ đến sáng mai lại làm. Chị vợ đi mò cua, bắt ốc hoặc cắt cỏ đem sang chợ. Chị bán lấy tiền để nuôi thân và nuôi đứa con nhỏ. Đứa con lớn cho đi ở. Thế là ai lo phận ấy. Tay có làm thì hàm mới nhai. Trong khi ấy, số lãi cố vườn – mỗi tháng mười hai đồng bạc – cứ chồng chất lên.

    Trận bão tháng Sáu bùng ra. Giá không sợ người ta chửi, Thai đã reo lên một tiếng reo đắc chí. Bởi vì lúc ấy cái vườn đã đến cái độ không còn lấy gì mà chuộc được. Tiền chuộc quá giá vườn rồi. Vậy thì những cây cối đổ la liệt, hoa màu bị tàn phá chẳng ăn nhập gì đến hắn. Chỉ có vợ hắn là hơi bị thiệt: cái nhà bị đổ. Nhưng cũng được, thị dỡ củi đi bán dần lấy tiền đong gạo. Rồi thì đi ở nhờ. Có sao.

    Sau trận bão, nhà nào cũng phải dọn vườn, phải chữa nhà. Không ai rỗi để làm thuê. Bây giờ mới là lúc những anh làm thuê “lên râu tợn”. Thai tự nhiên thấy người ta cần mình. Cần thì bắt chẹt, để bù lại những lúc sức làm việc của con người bị rẻ rung, hắn ngồi mốc lên cũng chẳng ai thuê. Mọi khi ăn cơm nhà, hắn vẫn được người ta trả công ba hào. Cơm chủ thì hào rưỡi. Họ cho ăn tệ lắm, được miếng cơm chín đã là tốt phúc. Bây giờ không thế được. Hắn đã làm, cứ phải cơm ngày ba bữa, có cái tôm, cái tép hoặc bát canh, bát riêu tử tế. Rồi tối về lại phải xỉa ra luôn bốn hào công. Có bằng lòng thế thì thuê, không thì lại để hắn chơi mà nhịn đói. Cố nhiên là người ta phải bằng lòng. Hắn gạt ra không hết việc. Luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng cơm no phĩnh độ, tiền bỏ túi lúc la lúc lỉu. Một lớp ấy, tính ra hắn để được năm, sáu đồng.

    Bởi vậy, khi trận bão bất ngờ đầu tháng Chín xảy ra, Thai mừng rỡ. Hắn thấy hắn cố vườn là phải lắm. Để vườn, bây giờ chỉ việc trông mà khóc. Không có vườn, không phải dọn, lại được đi làm thuê lấy tiền. Ôi! Chí lý thay là những anh cố vườn! Hắn ngửa mặt lên trời cười ằng ặc.

    Nhưng hôm nay thì công việc cũng đã vãn rồi. Người ta không còn phải tranh nhau một người như trước nữa. Công trở lại ba hào không cơm. Gạo thì kém. Không những thế lại sắp sửa đến cái dạo không có việc. Thai đã phải vác xác ra bờ đê ngồi tán chuyện với những kẻ vô công rồi nghề.

    Trời lành lạnh. Gió thổi trên những ruộng lúa xanh cuồn cuộn. Thai nghĩ bụng không khéo thì lại bão!… Nhưng không phải, trời có vẻ như đã thuận. Mà thuận là phải lắm. Gần sang tháng Mười rồi còn chi? Mùa lạnh tới. Thai buồn rầu nghĩ đến bộ quần áo độc nhất của hắn đã xác như tổ đỉa. Giá vải như giá vải năm nay, thì hắn chẳng dám mong có thể may bộ khác. Bộ cũ cần vá víu….

    – Thuận rồi đây!…

    Hắn nhắc theo những người khác như cái máy, nhưng mắt hắn lờ đờ. Gió may thổi đám lá tre bối rối. Trong lòng hắn, những nỗi niềm không rõ rệt, nhưng buồn bã lắm, cũng rối lên bời bời. Trời lạnh lẽo. Con chim nhớ tổ. Người ta thấy yêu gia đình. Thai nghĩ đến vợ, đến đứa con nhỏ, đến những buổi tối của những mùa rét trước. Cái ổ rơm ấm nóng, mẻ ngô rang thơm ngọt, tiếng trẻ con cười giòn. Và người đàn bà, người đàn bà ấm hơn chăn chiếu.

    Chiều hôm ấy, Thai đi tìm vợ. Chúng điều đình với nhau một cuộc tái hợp. Không có gì ngăn trở cả. Người đàn bà rất muốn có một chốn để đi về như con chim có tổ. Cái khó bây giờ là làm sao có nhà….

    Thai bảo vợ:

    Kể thì cũng dễ. Cái vườn tuy cố rồi nhưng vẫn chưa mất hẳn. Ta vẫn có thể ở nhờ họ được. Còn nhà thì mỗi đứa chung hai đồng. Ta đi mua vài chục nứa, vài gánh lá mía về làm một cái lều con con.

    Ngày hôm sau, cái chương trình ấy được đem ra thi hành. Thai bỏ ra hai đồng bạc, vợ hắn cũng có tiền bỏ ra hai đồng bạc. Người chồng hí hửng đi sắm sửa. Vừa tre, vừa nứa hết hai đồng chín. Cứ nói là ba đồng cho gọn. Sáu hào lá mía. Còn thì để xem ai có lạt vàng, giả lại vài ba trăm cái. Mua tre về chẻ đã mất công, mà cái lạt trắng không được bền. Bây giờ thì khởi công. Vốn tính phân minh, hắn giao với vợ:

    Tớ mất công làm thì đằng ấy mất cơm. Cái gì cũng vậy. Ở thì cả hai cùng ở, vậy chịu cũng cả hai cùng chịu. Nhịn đói thì trời cũng không làm được.

    Chị vợ lừ lừ đôi mắt. Thị cho là hắn định xoay thị.

    Đã góp hai đồng bạc, lại mỗi ngày vài hào gạo cho hắn nữa, thì ra phần thị phải đến ba đồng à? Thị nguây nguẩy chối:

    Thôi! Thôi! Tôi xin kiếu!… Đừng vòi nữa. Tôi đã giao hẹn tôi chỉ có hai đồng bạc.

    Dở lắm, thế tôi không phải hai đồng bạc à?

    Ừ, thì mỗi người hai đồng bạc, còn thì cơm ai người ấy ăn.

    Nói chó cũng không ngửi được!… Ồ, nếu vậy thì mỗi ngày giả công tôi ba hào.

    – Có ngay!

    Thị gân cái cổ lên một cách vô cùng bướng bỉnh. Hắn phải đọc đường đọc lối cho thị hiểu:

    Thế này này….Để yên tôi nói: mỗi ngày làm của tôi đáng ba hào, thế tức là cứ làm một ngày cũng như tôi góp ba hào; nhà chẳng góp hào nào cả.

    Việc gì tôi phải góp.

    Thì cứ để tôi nói nốt! Bây giờ nhà thổi cho tôi độ hào rưỡi gạo, có phải tôi còn thiệt hào rưỡi không?

    Rành rọt quá. Chị vợ cứng họng, không cãi được. Thị đành chịu vậy. nhưng thị đã hậm hực không vui rồi. Thị thấy cứ hơi dây với hắn là y như hắn tìm đủ cách để co phần hơn về cho hắn. Phương ngôn nói “Cuốc giật vào lòng” thật không sai tí nào. Nhưng mà thôi! Đã trót bỏ ra hai đồng bạc, bây giờ có đòi về cũng không được nữa. Thị đành nín nhịn cho xong việc. Thành thân cái nhà rồi sẽ liệu….

    Nhưng mấy hôm sau, khi cái nhà được lợp rồi, hắn lại giở giọng bảo thị như thế này:

    Tôi quên đi mất. Còn trúc buộc dừng chưa có. Nhà bỏ ra vài, ba hào đi mua… Thị không đợi cho chồng nói hết…

    Thôi! Thôi! Thôi!… Tôi không biết!

    Thị vừa lắc đầu vừa chạy lụt cụt để tỏ ý nhất định không nhượng bộ một tí nào nữa, hắn gọi với theo:

    Này! Thì yên tôi bảo đã!

    Tôi không biết! Tôi không biết!….

    Thị ngoắt ra tận ngõ. Mồm thị lẩm bẩm gì như chửi rủa. Hắn bực mình lắm lắm. Hắn quăng phắt con dao xuống đất…

    – Nó làm như ông ở một mình không bằng…

    Hắn xoa bàn tay nọ vào bàn tay kia và vỗ bèn bẹt cho hết đất. Rồi hắn đi. Cổ hắn cứ nghèn nghẹn suốt từ giờ cho đến tối. Có lúc nước mắt ứa ra một chút. Hắn ngao ngán quá. Cái ý nghĩ liều lĩnh lại trở về óc hắn:

    – Kệ bố nhà! Kệ tiên nhân vợ! Ông lại đi làm cút rượu!

    Ấy thế là số phận của cái lều đã định. Nó đành bỏ dở. Kèo, cột đâu vào đấy cả rồi. Nóc buộc rồi, hai mái lợp gần xong. Chỉ còn thiếu vách. Nó trống bốn bề như quán chợ. Gió, sương vào mặc sức. Giun dế đùn cả lên mặt nền.

    Một hôm người chủ lấy cố vườn trông thấy, và bỗng nghĩ ra một việc. Gặp vợ Thai, y bảo:

    Thôi, chị ạ! Cái lều của anh chị không dùng nữa, có dỡ đi bán củi cũng chẳng được bao nhiêu. Tôi trả hai đồng đấy; chị có bán thì để lại cho tôi, tôi trả tiền.

    Nài thêm được năm hào nữa, thị bằng lòng bán. Người chủ vườn sai đầy tớ buộc dừng, trát vách. Rồi ít lâu sau, đêm nào cũng vậy, người ta thấy thằng ở nhóc con nhà ông ta nằm trong lều hát toáng lên như để bảo trộm rằng “có ta đây”, rồi một lúc sau đã lăn ra ngủ khì khì, giá trộm có vào vần xuống sông cũng chưa tỉnh hẳn. Ấy là hắn ta coi vườn.

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 455, ngày 3-4-1943
     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  8. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Thôi, Đi Về...
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuộc khám khung cửi bắt đầu. Quan đã sức cho tất cả ban hội đồng và các hương chức trong làng phải làm chung. Tiên, thứ chỉ, lý, phó trưởng, và tất cả những người có chân trong ban hội đồng kỳ hào phải hợp sức với nhau, đi khám tất cả các nhà có khung cửi trong làng, xem mỗi nhà đích thực có bao nhiêu khung cửi máy, khung cửi tay, về làm bản kê khai rành mạch, đệ lên cho quan xét. Tờ sức rất rõ ràng.

    Và các cụ phen này hình như đã thề thật độc với nhau: quyết làm việc rất phân minh. Cụ nào cũng thẳng băng; nhà nào có bao nhiêu khung cửi thì khai bấy nhiêu thôi, bất cứ nhà ai chẳng vị nể gì. Ông tiên chỉ cũng vậy, mà thằng bạch đinh cũng vậy. Cụ chỉ, biết cái trách nhiệm của mình rất lớn lao, và cũng muốn là gương cho những cụ dưới noi theo, hăng hái chửi đứa nào còn ăn bẩn. Ăn bẩn, nghĩa là thiên tư cho con cháu nhà mình, có ít xít ra nhiều để mua sợi thật nhiều về lấy lãi ăn cho cái dạ thật đầy. Như vậy, tất nhiên là bọn đàn em chúng nó kêu. Trước là rát tai mình. Sau là thiệt một mối lợi to của dân làng. Nghĩ khổ.

    Cứ xét lần trước là đủ biết. Lần trước, quan cũng đã sức về cho lý trưởng khai. Các cụ trên quá tham lam. Các cụ vào hùa với nhau, cụ nào cũng khai cho mình một vé riêng, vợ mình một vé riêng, các con mình mỗi đứa một vé riêng, rồi đến thằng ở cũng làm một vé riêng nốt, cho đầy đủ cả. Số sợ Nhà nước cấp cho có hạn. Các cụ và bầu đàn thê tử nhà các cụ chiếm hết rồi, tất nhiên là lũ đàn em phải ngồi trơ. Hoặc giả có còn lại năm, ba chục vé vào tên bọn đàn em, thì các cụ lại lợi dụng sự trùng tên để mà chiếm nốt. Những kẻ bị chiếm, đó là manh mối biết ai là người chiếm của mình rồi, mua cau chè đem đến tận nhà lạy van xin. Khổ một điều: mối lợi khá to, ai dại gì lại nhả ra? Chúng có có lạy van mấy cũng hoàn toàn vô ích. Chúng bèn không lạy nữa. Ngọt không được thì chúng xẵng. Chúng bàn nhau dùng cách chửi. Ôi chao! Ở cái làng này, người ta chửi đã nhiều nhưng thật tự cổ chí kim, chưa có bao giờ người ta chửi hăng đến vậy. Từ rạng đông cho tới hoàng hôn, trên đường cái, trên cái đường nhỏ, các ngõ con, trong chợ, ngoài bến đò, trước cửa đình, thôi thì khắp mọi nơi, lũ năm, lũ ba, chỗ này là một anh chàng say rượu mặt đỏ gay, mắt gườm gườm, chân nam đá chân xiêu, chỗ kia là mấy chị đàn bà, vạt áo vắt vai, quần vén lên quá đầu gối, cũng có khi là một người mẹ yếm áo xộc xệch, tha một đứa bé mũi thò lò, mắt toét toe….chúng chửi bằng đủ giọng, đủ lời, đủ mọi cách gớm ghê. Cái cổ duỗi ra, cái mặt kéo gân lên, cái mồm ngoác thật to, vỗ đùi, vỗ đoi, nhẩy cẫng lên hoặc dậm chân bèn bẹt đến gần thụt đất….

    Tên mày là cái Thút, tên tao là cái Thút, mày cướp vé của tao, thì ông bà, ông vải nhà mày bật săng lên! Cha bố tiên nhân mày!

    Rồi chúng tìm những cái xấu của nhà người ta để rêu rao. Chúng kể ra vanh vách, kể bằng lối văn tả chân mà chưa một nhà văn tả chân nào dùng đến…Sống suốt ngày nọ sang ngày kia như thế. Làng cứ sôi lên. Không còn biết bao nhiêu là đám đánh nhau. Những người bị chửi, nghe chửi nhiều, cũng nhuốc nhơ. Nhưng quá bước rồi. Lúc nó xin, mình trót không cho. Không lẽ bây giờ nó chửi lại đem trả nó. Tránh sao người ta bảo: nuốt của nó không trôi, lại phải mửa ra mà trả. Mặc kệ, thằng nào chửi thì cứ chửi. Chửi lắm thì mỏi miệng. Lớp này, những thằng không phải nghe chửi là những thằng vô phúc, có phải nghe chửi thì mới no…Họ tự an ủi như thế ấy. Thành thử cái cách chửi cũng lại vô ích nốt. Người ta dùng đến cái phương sách cuối cùng: đi kiện. Không có lửa thì lấy đâu ra khói? Trong việc này, hẳn cũng có điều ám muội chi đây…Các ngài phải sinh nghi. Và chưa rõ đen trắng thế nào, quan trên hãy ra lệnh cho việc phát sợi đình tạm lại. Rồi hội đồng kỳ hào và toàn ban hương chức phải lập tức mở cuộc điều tra mới.

    Các cụ chừng như cũng đã hiểu rằng: tham quá không thể được, có thuận dân thì mới ổn. Tốt hơn là cứ thu xếp sao cho trên dưới đều có phần; và các cụ định bảo nhau làm rất thẳng. Bởi vậy mới có sự thề thốt nặng lời như ta vừa thấy trên…

    Chị cu Thiêm đội một đội rau đi chợ, mới đi được nửa đường thì gặp các cụ vào khám khung cửi nhà bà mục Đảng. Chị bèn không đi chợ nữa. Chị quẳng đội rau vào nhà một người chị em gần đấy, rồi ù té chạy một thôi về nhà. Về đến sân, chị đứng lại, hồng hộc thở, mặt không còn một hột máu. Anh cu Thiêm đang đào một con giun để gài bẫy hét, ngẩng đầu lên, trố đôi mắt ngạc nhiên nhìn vợ. Chị chỉ vào mặt anh mà hổn hển.

    Mày chết đi!…. mày chết đi!… mày chết đi cho rồi!…

    Ô hay! Cái gì mà ghê gớm thế?

    Anh cu Thiêm quắc mắt, toan quát lên với vợ. Nhưng vợ anh rên rỉ:

    Trời ơi là trời! Mày giết tao!… mày giết tao!… có một tí khung cửi thì mày đem mày bán.

    Mẹ! Không có sợi, không bán thì để mà thờ ông tổ nhà mày, hở?

    Không có sợi! Ấy thế cho nên mày mới giỏi…Không có sợi mà người ta đang đi khám khung cửi từng nhà đây kia.

    Anh cu Thiêm đứng phắt lên, như một cái lò xo bật, mặt anh tái mét:

    Người ta đi khám thật?

    Ấy đấy! Tao đi kiếm….Cái thẻ của tao đâu rồi?… À, trong kèo nhà..

    Anh chạy xô vào nhà một loáng rồi chạy ra, một tay đút vào túi áo. Cứ vậy, anh huỳnh huỵch chạy ra ngoài đường cái, chạy lên mạn làng Trịnh. Chị cu thì vẫn xốc váy lên quá gối, chạy đi, chạy lại, kêu trời, kêu đất. Thỉnh thoảng chị lại chạy ra ngõ nhìn trở lên, trở xuống. Các cụ còn xa lắm…À, mà kia! Anh cu Thiên kia rồi! Chị thấy từ đằng xa, bóng một người vác một cái khung cửi nghênh ngang, chạy lại. Các cụ thì bây giờ khéo lắm mới đi hết xóm nhà bà mục Đảng. Còn cách hai xóm nữa. Chị mừng quá đến nỗi cười khành khạch. Chị vừa vẫy vừa gọi chồng rối rít:

    – Mau lên! Mau lên! Hết rồi!…

    Hai vợ chồng cười với nhau. Chị chạy lại, đỡ một đầu cái khung cửi, cho anh bỏ xuống. Chồng vừa cười vừa thở, họ khiêng cái khung vào nhà. Anh cu Thiêm lăn ra giường thở. Chị cu nhìn chồng, ái ngại. Chị vừa toan hỏi xem: mượn ở đâu được thế thì bỗng thấy bốn năm người hàng xóm, mặt hoảng hốt, tuôn vào và bâu tất cả chung quanh cái giường anh cu nằm….

    – Tôi lạy bác!…

    Tôi cắn cỏ tôi lạy bác!…

    Bác giùm chúng tôi không chúng tôi chết mất!..

    Họ cũng bán mất khung cửi như anh vậy. Có người bán không được, lại phá ra làm củi bán. Bây giờ mới quýnh. Họ van lạy anh cu, nhờ anh xem có còn thuê đâu được, thì thuê giúp mỗi người một cái.
    Bao nhiêu tiền cũng được. Họ lại xin trả công vác của anh mỗi khung ba hào….Anh Thiêm vội đứng lên:

    Đồng bạc, cứ đồng bạc một khung, bằng nào cũng có.

    Vâng, thì đồng bạc.

    Với ba hào vác là đồng ba đấy.

    Vâng, thì đồng ba. Bác giúp chúng tôi, làm phúc.

    Họ tranh nhau đưa tiền trước. Anh cu Thiêm lại huỳnh huỵch chạy. Anh chạy được đủ năm khung cho năm người hàng xóm, mới nghe tiếng các cụ láo quáo ở ngoài đê. Anh chạy sang tôi:

    Nhà chú đủ khung cửi rồi đấy chứ?

    Vâng, tôi trước sau chỉ có hai khung, vẫn để nhà.

    Chú đứng hai hay thím ấy?…

    À, đấy là của nhà tôi, bởi tôi có nghề riêng.

    Thế thì chú ở nhà cũng vô ích. Đi đằng này với tôi một chút.

    Việc gì thế? Có cần không?

    Cần lắm.

    Tôi ngần ngại. Thú thật rằng tôi có hơi ích kỷ, xét theo một vài phương diện. Tôi thích giữ trung lập, đối với các cuộc gây gổ trong dân xã. Tôi muốn đứng ngoài tất cả các việc lôi thôi. Bởi vì cái mà tôi cần trước nhất, khi ở hẳn đây, ấy là sự bình tĩnh của tâm hồn. Tôi muốn óc tôi hoàn toàn rảnh rang, để chỉ nghĩ đến công việc văn chương. Ấy thế mà anh cu Thiêm gọi tôi đi, nếu không phải để đánh nhau, ắt là để hỏi mưu mẹo kiện cáo một người nào đó. Tôi thực lòng muốn từ chối quá. Nhưng từ chối sao cho tiện? Tôi với anh vừa là chỗ láng giềng, lại vừa là chỗ họ hàng. Anh có dịp giúp tôi luôn. Có lần, giữa đêm khuya, tôi phải nhờ anh khoác áo tơi dận mưa đi lấy thuốc cho con. Lần khác, anh xoay trần ra, đẵn cau chống hộ cái nhà, bão lung lay. Còn biết bao nhiêu việc cấp bách tương tự thế, tôi phải nhờ anh giúp. Lần nào tôi cũng có trả tiền, nhưng chẳng lần nào anh chịu lấy. Đã đành anh không lấy, thì tôi càng phải nghĩ: tôi làm bữa rượu xoàng xoàng để mời anh hay cho con anh vài ba hào để ăn quà. Nhưng như thế không thể gọi là trả công người ta được. Dẫu sao thì tôi vẫn mắc nợ anh ấy một chút lòng tử tế. Gặp lúc anh cần đến tôi, tôi phải lấy sự tử tế ra mà đối lại. Không lẽ tôi ghẻ lạnh? Tôi đành xếp tập giấy đang viết dở lại, đi theo anh ấy vậy…

    Chúng tôi ra đường cái. Đến hàng thịt chó nhà Mạo khiễng, anh khẽ đẩy tôi vào…

    – Làm vài cút rượu đã.

    Nguy tai thật!… Thế này thì đích là anh ấy định kéo tôi đi cà khịa với anh nào thật. Tôi nghiêm mặt, bảo:

    Bác có chuyện gì thì cứ nói. Tôi giúp được, xin hết lòng giúp bác. Đừng vẽ vời làm gì nữa, cho thêm tốn.

    Tốn quái gì? Chuyện trò gì thì cũng phải ăn đã chứ!…

    Không bác ạ. Chẳng lẽ chỗ tôi với bác, mà bác có việc tôi lại đợi bác cho uống rượu rồi tôi mới giúp bác hay sao?

    Không phải thế, nhưng tôi muốn mời chú uống chén rượu cho vui.

    Nhưng tôi không biết uống.

    Thì ăn bún. Nồi xáo hôm nay khá lắm.

    Thấy tôi vẫn ngần ngừ, anh đẩy phứa tôi vào, rồi vừa cười vừa bảo:

    Chẳng chó gì cả!… Chú thì chú chỉ tiếc vài ba trang giấy; tôi kéo chú đi thế này làm mất thì giờ của chú…

    Tôi toan cãi lại nhưng anh nói át đi:

    Với lại chú cũng sợ tốn tiền của tôi nữa, nhưng cần quái gì, chú ạ…Nay mai có sợi, anh em mình lại rủng rỉnh. Làm làm gì lắm? Con người ta giàu tự số, nếu làm mà giàu được, thì tôi đã giàu ức triệu. Mấy năm về trước, tôi làm khiếp lắm; ban ngày đi làm thuê cho người ta, tối về có trăng lại đi cuốc vườn nhà, ấy thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo; có thằng chỉ ăn chơi suốt đời vẫn có tiền để ăn chơi. Ấy thế thì chú bảo sao nào? Tôi nghĩ chán cả ra, nên đã ít lâu nay, cái sự làm ăn, tôi chỉ tiềm tiệm xong thôi, không tham bò như trước nữa. Số mình khá, tự khắc ông trời cho khá, chứ không phải cứ nai lưng ra làm mà khá. Tôi thấy chú gầy gò thế này mà cứ viết suốt ngày, tôi lo cho chú lắm: nó bại sức đi một cái là chú chết.

    Tôi cười nhạt. Anh gọi lấy rượu và tái chó, với một bát xáo để tôi ăn bún. Anh uống, tôi ăn. Ăn uống xong, anh vất năm hào ra trả…

    Ta đi chứ?

    Đi đâu vậy bác?

    Để tôi còn nghĩ….Lên nhà ông chánh Thiện.

    Làm gì vậy?

    – Thì chú cứ đi, rồi sẽ biết.

    Tưởng là gì! Đến nhà ông chánh Thiện, tôi mới biết ở đấy người ta đang chơi xóc đĩa. Anh cu Thiêm định phá chăng? Không, anh ghé mồm vào tai tôi bảo nhỏ:

    Chẳng nói giấu gì chú cả. Lúc nãy tôi đi vác khung cửi cho người ta, phát tài được đồng rưỡi bạc. Anh em mình chén mất năm hào rồi. Còn đúng một đồng. Tôi định đặt một tiếng xóc đĩa chơi. Nhưng chết cái, tôi còn nợ lung tung, chúng nó đòi, chỉ khất lần. Bây giờ mà chúng nó trông thấy tôi có tiền chơi xóc đĩa thì chúng nó thịt mất. Vậy tôi đưa tiền cho chú, chú cứ làm như chú đánh.

    Nhưng tôi không biết đánh.

    Thì đã có tôi. Chúng mình cứ đứng xem, để tôi nghe. Tôi nghe trúng một tiếng rồi, tôi sẽ bấm cho chú đặt. Chú hiểu chưa?

    Hiểu rồi.

    Anh tuồn vào tay cho tôi đồng bạc. Chúng tôi lại gần đám xóc đĩa, im lặng đợi. Anh cu Thiêm có vẻ chăm chú lắm. Bỗng một lúc kia, mắt anh sáng hẳn lên. Nhà cái vừa buông cái bát, anh đã bấm tôi, khẽ bảo:

    – Chú đặt đi: một đồng bạc, chẵn.

    Tôi ngượng nghịu vất đồng bạc xuống. Làng nước đặt. Ông chánh Thiện kiểm qua số tiền mặt nọ, mặt kia, xướng “cái cân” rồi mở bát. Trăm mắt đổ dồn cả vào cái đĩa có bốn đồng trinh Khải Định. Nhà cái xướng:

    – Sấp ba!

    Anh cu Thiêm tái mặt đi. Trán anh và mũi anh râm rấp mồ hôi. Những giọt mồ hôi có vẻ lớn dần lên.

    Anh đứng thừ người ra một lúc lâu. Rồi anh bỗng vỗ vai tôi, cười gượng, bảo:

    Thôi, đi về!…

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 458, ngày 24-4-1943
     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  9. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Truyện Tình
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Buổi sáng sướng nhất của một cậu học trò có lẽ là buổi sáng đầu tiên trong vụ nghỉ hè. Tối hôm trước, người ta thắp đèn, đi chơi thật khuya mới chịu về. Người ta lên giường nằm, hơi mỏi chân và hơi mệt trong người, nhưng cái đầu nhẹ thênh thênh. Bao nhiêu sự lo lắng trút ra rồi. Người ta không còn phải nhắc lại với mình: sáng mai dậy năm giờ…Ngày mai có địa dư, có ám tả, có sinh lý học…Đến chiều, luận Pháp văn…Bài kỳ trước, mình bí quá nên viết chày, viết cối…Chắc là hỏng chữ hỏng câu nhiều lắm. Cụ Đậu lùn lại tha hồ mà cáu! Người ta thở ra, hít vào mấy hơi dài như thể tống nốt ít chất độc còn lại ở người ta. Người ta ngủ rất ngon một giấc ngủ trẻ thơ. Và sáng hôm sau, khi đồng hồ đánh năm giờ, người ta cũng mở mắt ra bởi thói quen, nhưng không thèm dậy vội. Người ta mỉm cười với ý nghĩ: ta muốn nằm đến bao giờ cũng được…Cái cửa sổ trên đầu giường mở suốt đêm. Ánh sáng tuôn vào tự bao giờ, không khí được tắm trong bóng tối mát dịu của đêm, bây giờ rất sạch trong. Gió êm êm và mơ hồ như một làn hương. Nó vuốt ve cái trán phẳng phiu, mấy sợi tóc lòa xòa và luồn qua cái cổ áo không cài cúc để mơn man cái ngực nở nhô lên, dẹp xuống một cách thong thả và đều đặn. Cái cảm giác nghỉ ngơi thật hoàn toàn. Người ta thấy lòng thư thới, trí óc thư thới, khắp thân thể đều thư thới, sự khoan khoái tràn lan trong mạch máu, thấm đượm trong da thịt. Và tuy không buồn ngủ nữa, người ta cũng nhắm đôi mí lại, để chẳng trông thấy gì cả, chẳng nghĩ ngợi gì cả, cố làm một khoảng rỗng bên trong đầu….

    Những giác quan của tôi đang lịm đi trong nỗi êm đềm lười biếng ấy thì đột nhiên lại bị một tiếng dặng rất gần đánh thức. Tôi giật mình một cái. Mắt tôi mở ra chưa kịp nhìn rõ là ai thì một thứ tiếng rất quen đã bảo:

    Vẫn còn ngủ kia à?

    Mẹ…

    Tôi ấp úng và vội vàng nhổm dậy. Mẹ tôi đứng sát đầu giường, nhìn tôi bằng đôi mắt loang loáng ướt, miệng cười âu yếm phô ra những chiếc răng đen bóng….

    Sao mẹ ra được sớm thế?

    Mẹ ra đi bằng chiều đi chợ vải, đến cầu sắt thì giời mới sáng.

    Mẹ đi bán vải?

    Không…còn vải đâu mà bán. Mẹ ra xem còn có gì phải đội về hay không? Đi sớm một tí để về sớm cho nó mát.

    Tôi cúi mặt. Bởi vì câu nói của mẹ làm tôi vụt nhớ đến Kha, Kha đã bảo tôi:

    Nghỉ hè này Lưu ở đây cho vui nhé! Chúng mình đọc dictée cho nhau viết. Lưu dạy tôi làm tính đố cho kha khá hơn một chút; tôi bí tính ghê lắm nhé! Rồi tôi đi mượn đàn của con Thọ về cho Lưu tập. Lưu về quê thì Kha buồn chết!…

    Tôi thích lắm. Không phải vì việc tập đàn hay viết ám tả: tôi tập đàn và viết ám tả chẳng cần đến Kha cũng được. Nhưng chính vì tôi sẽ được gần gũi Kha trong suốt ba tháng hè…Tôi nghĩ ngợi một chút rồi thưa với mẹ tôi:

    Con không biết. Giá con biết thì con bảo mẹ đừng ra đón con; năm nay con không về. Mẹ tôi sầm mặt. Tôi vội vàng cắt nghĩa:

    Sang năm lên lớp, chương trình nặng lắm. Con phải ở đây để học ôn bài cũ và xem trước ít nhiều bài mới. Ở đây học với anh em cho vui, về nhà có một mình ngại không học được; vả lại mình còn cần mượn sách của họ và có điều gì quên hay chưa biết thì hỏi nhau.

    Mẹ tôi tin ngay. Người chỉ bảo:

    Nghỉ những ba tháng kia mà?… Hãy nghỉ ngơi một vài tuần rồi lại học thì cũng được chứ sao? Chả lẽ đi quanh năm, đến lúc được nghỉ cũng không về thăm cửa, thăm nhà một tí? Không muốn ở nhà lâu thì cũng về chơi dăm, ba ngày.

    Biết rằng chối không xong, tôi bèn tìm cách đánh lừa.

    Vâng, thế thì cũng được. Nhưng hôm nay con phải lại nhà ông giáo soạn sách cho ông ấy, nhân tiện mượn vài quyển về để đọc. Vậy mẹ cứ về đi, độ mai hay ngày kia con về.

    Còn nói làm sao được? Mẹ tôi định mang quần áo tôi về trước, nhưng tôi bảo: không định ở nhà lâu thì không cần đem quần áo. Ấy thế là một lúc sau, mẹ tôi đành cởi ruột tượng đưa cho tôi đồng bạc để đi xe rồi buồn bã xách cái thúng không ra về. Nghĩ đến cái vẻ luyến tiếc trên đầu những ngón tay run run của mẹ tôi khi đưa cho tôi cái giấy bạc gấp làm tư, tiếng thở dài và vẻ thẫn thờ của người khi bước ra về, và tưởng tượng đến những bước chân vương vương, đến cái bóng dáng lủi thủi của người đi bộ trên con đường dài tràn nắng bụi, tôi thấy lòng nặng trĩu và sầm tối lại. Nhưng hỡi Kha! Kha rất phù phiếm và vô cùng ích kỷ! Kha có biết rằng những lúc như lúc ấy thì hình ảnh Kha, gọn ghẽ và thon nhỏ, với đôi mắt nhí nhảnh, với nụ cười tinh nghịch, đã lọt vào hồn tôi như một tia nắng đẹp? Tôi xua đuổi nỗi ân hận bằng cách đánh lừa; tôi tự bảo: “Thật ra thì mình ngại lắm! Về vài ngày chẳng bõ bèn gì mà cũng mất công về; thà ở đây để bắt đầu từ ngày mai viết ám tả với Kha ngay…”.

    Nhưng ngày mai, Kha bận đi chơi suốt một ngày với chị em. Rồi ngày hôm sau thì Kha lại bận tiếp chị em đến nhà chơi suốt một ngày. Luôn hai ngày. Kha chẳng thèm giáp mặt tôi. Đến ngày thứ ba cũng thế, rồi ngày thứ tư, thứ năm, thứ sáu. Tôi bắt đầu khó chịu. Bởi vì tôi bỗng nhận ra rằng: giá thử tôi có về quê thì Kha cũng chẳng buồn gì; tôi không phải là một người cần đối với Kha; và trong khi tôi cau có, bực tức, khổ sở ở nhà đợi mong Kha, thì Kha rất thản nhiên đi hết đó, hết đây, để nhí nhảnh để cười đùa với các cô bạn và những người anh chải đầu sừng của họ. Tôi đã toan bảo vào mặt cho Kha biết. Nhưng hèn vô cùng là những thằng yêu! Lúc vắng Kha thì tôi hùng hổ nghiến răng, phùng má, tưởng có thể nhiếc mắng Kha bằng những lời nhiếc mắng đến điều sỉ nhục, thế mà khi có dịp gặp Kha tôi lại lúng túng, ngượng nghịu, gắng sức đến đâu cũng chỉ có thể thốt ra một lời mát mẻ nó làm Kha lườm tôi và cười tủm tỉm, hoặc chìa môi ra chế nhạo, ấy thế là nỗi giận dữ của tôi lại tiêu tan đi hết. Tuy vậy, cũng có một lần tôi can đảm hơn mọi lần kia. Chiều hôm ấy, tôi trông thấy Kha đi đâu về với một gã con trai ở sau mông. Gã theo Kha đến tận nhà. Kha có vẻ thích cái trò chơi chạy đuổi ấy. Kha bước thật nhanh cho gã phải rảo chân theo. Và trước khi ngoắt vào nhà, Kha quay lại ném cho chàng một cái nhìn và nụ cười không rõ nghĩa. Tôi tái mặt. Tình cờ thế nào mà Kha lại xồng xộc chạy ngay sang. Nỗi giận của tôi vẫn còn nguyên. Bởi thế tôi mới có đủ hứng để bảo Kha là đồ lẳng lơ, đồ ích kỷ, chỉ được cái mồm leo lẻo…Đến lượt Kha tái mặt. Kha cự tôi:

    – Anh có quyền gì được “chửi” tôi như vậy?

    Tôi đưỡn mặt. Bởi vì quả tôi không có quyền gì thật. Tôi cố tình một lẽ:

    Người ta định về quê thì giữ người ta ở lại…

    Ai bảo anh ở lại?

    Ai bảo…! Con chó bảo!

    Anh bảo ai là chó? Anh láo vừa vừa chứ!

    Biết vậy mình về quê cho rảnh.

    Thì ai cấm? Có giỏi thì về quê ngay giờ. Đây ít cần!

    Kha vênh mặt, bĩu môi ra, làm “Psi!” một cái, rồi vùng vằng đi ra. Tôi nằm lăn ra giường khóc. Tình ái và tự ái bắt đầu xung đột. Tôi thấy tôi bẽ lắm! Không những thế, tôi lại lố. Tôi có vẻ ghen bóng ghen gió, trong lúc tôi không có quyền gì được ghen. Tôi xấu hổ. Sự giận không còn mấy, nhưng thẹn nhiều. Và tôi cũng thất vọng nhiều lắm nữa. Đã đến lúc này tôi chẳng còn mong gì được Kha yêu. Có ở đây nữa, cũng chỉ thêm mà nhục thôi. Tôi nhỏm dạy, nhảy phắt xuống, thu xếp quần áo, sách vở để sáng sớm hôm sau thuê xe về nhà quê.

    Sáng hôm sau, tôi đang rửa mặt thì Kha đã tất tưởi xách cái lồng sáo của Kha sang, Kha toe toét cười để làm lành. Thấy tôi có vẻ lầm lì, kha búng tai tôi một cái:

    Trông cái mặt đẹp chưa! Vẫn còn giận đấy à?

    Giận quái gì! Tôi có quyền gì mà giận?

    Ái chà. Cậu cả cũng biết đay hẳn hoi kia đấy!… Rồi đột ngột…

    Kha đi Sầm Sơn vài ngày đây.

    Cái ấy can dự gì đến tôi?

    Kha quắc mắt, chỉ một ngón tay nhỏ xíu và trắng muốt vào má tôi, ra lệnh:

    – Im ngay! Tôi cấm đấy.

    Rồi vẫn dùng cái giọng sai khiến ấy, Kha đưa cho tôi cái lồng chim và bảo:

    Đây, tôi giao cho cậu đứa con tôi. Cậu phải trông nom nó cho tôi trong khi tôi đi vắng, nhé? Mèo nó “xực” mất con tôi thì cậu liệu hồn với tôi. Cái giọng bà tướng ấy – Buồn cười thật! – lại làm tôi hả dạ. Tôi cầm lấy cái lồng, ngắm nghía con chim rồi cười mà bảo:

    Đây vật một cái thì chết cả con lẫn mẹ!

    Kha thách đấy!

    Rồi mà xem….Tôi vật thật. Để làm gì những thứ…chim ác thế?

    Kha mỉm cười, nũng nịu:

    – Đừng…Phải tội…Yêu chứ lị!

    Tôi tỉnh người. Và tôi đồ rằng: đêm qua, Kha cũng như tôi, đã trằn trọc suốt đêm và đã nhận ra rằng chúng tôi không thể rời nhau; bởi vậy Kha mượn cớ trông hộ con chim để làm lành; vả Kha cũng sợ khi Kha đi Sầm Sơn thì tôi tức Kha mà về quê chăng; con chim sẽ khuây khỏa tôi trong lúc vắng Kha, và giữ tôi ở lại. Nếu Kha không yêu tôi, sao phải bày trò ra như vậy?…

    Ấy thế là cái việc về quê đành xếp xó. Tôi ở lại với con sáo của Kha để đợi Kha đi nghỉ về.

    Bây giờ ngồi nhớ lại chuyện xưa, càng nghĩ tôi lại càng phục Kha là con người sớm biết, sớm khôn. Tuổi chửa bao nhiêu mà Kha đã hiểu tâm lý loài người một cách rất sâu. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được bài học của Kha. Và bây giờ, nếu có một anh chồng đa nghi nào bắt buộc phải bỏ một cô vợ trẻ măng ở nhà để đi xa, muốn xin tôi một lời khuyên, tôi sẽ xui hắn mua một con chim thả trong một cái lồng mà trao cho vợ nhờ nuôi hộ; lúc trở về, nếu con chim của hắn chưa chết, thì hắn có thể chắc đến một nửa rằng người đàn bà chưa phụ hắn. Cứ xét tôi là đủ biết: con sáo Kha giao cho tôi săn sóc đã giúp tôi thấy những ngày Kha xa tôi, bớt dài. Tôi bận bịu suốt ngày với con chim và không còn thì giờ để nghĩ đến sự ghen tuông, đến những nụ cười, những khóe mắt, những cuộc gặp gỡ của Kha ở Sầm Sơn. Công việc quan trọng của tôi là đổ nước cho con sáo của Kha, đi bắt cào cào cho con sáo của Kha, và dạy con sáo của Kha gọi: “Kha! Kha!… ”. Còn thừa chút thì giờ nào thì tôi ngồi nói chuyện với con sáo của Kha về chủ nó. Sung sướng thay là những người yêu! Tôi đem bao nhiêu ngày giờ quý hóa ăn cắp của mẹ tôi đang mỏi mắt chờ tôi, để phụng sự cho một con sáo mua cả lồng mới đáng giá ba hào rưỡi, và cho thế là hạnh phúc…

    Một hôm tôi đi bắt cào cào về thì thấy cậu tôi ngồi đợi ở nhà. Mặt cậu tôi có vẻ băn khoăn. Tôi chột dạ, đoán ngay là mẹ tôi không thấy tôi về, nhớ quá nhờ cậu tôi ra đón. Không phải thế. Cậu tôi vừa thấy tôi, đứng lên ngay:

    Cháu mặc quần áo đi về. Em Thi sắp chết rồi, đòi gặp mặt anh cả nó. Tôi sửng sốt:

    Thi sắp chết? Nó làm sao?

    Nó ốm đã lâu. Hôm nay mệt lắm rồi. Cậu tới đây lúc ba giờ. Cháu đi đâu mãi…Không nhanh thì không kịp mất.

    Tôi thấy mắt mờ nước mắt. Tôi vội vàng mặc áo rồi đi theo cậu. Chúng tôi thuê xe không mặc cả, trèo lên, thúc người phu chạy riết. Nhưng không kịp. Khi tôi tới nhà, thì nhà đã om tiếng khóc. Độ mười lăm phút trước thầy tôi xem mạch cho em tôi xong, khẽ lắc đầu và đưa mắt ra hiệu cho mẹ tôi lấy sẵn quần áo của nó ra. Thi trông thấy mẹ tôi mang quần áo lại gần, sợ hãi kêu lên:

    – Thôi! Đúng chết rồi…

    Rồi nó hoảng hốt, bíu lấy tay thầy tôi ngồi cạnh nó…

    – Anh Lưu? Anh Lưu? …Anh Lưu đâu, hở thầy?…

    Bây giờ thì đôi mí mắt tím bầm của nó đã phủ kín đôi mắt nhắm…Em Thi? Em Thi? Anh Lưu đã về đây, em Thi ạ!… Hỡi ôi! Hàng mi thưa chẳng bao giờ còn động đậy…Em tôi chẳng còn trông thấy mặt tôi bao giờ.

    Lưu viết đến đấy thì tôi đến. Nỗi cảm động còn để lại trên mặt anh vài vệt nước. Anh có vẻ hơi bối rối. Vì đang khóc hay vì đang viết? Không một người đàn ông nào muốn một người đàn ông khác trông thấy mình sướt mướt. Không một người mới viết văn nào muốn một người làm nghề viết bắt gặp mình đang ngồi viết văn…Tôi vờ hỏi:

    Thư từ gì mà dài khiếp thế? Anh cười ngượng nghịu:
    Không…Tôi đang bắt chước anh: viết truyện.

    Truyện gì thế vậy?

    À…Anh đọc thử…Tôi cũng định viết xong thì nhờ anh chữa hộ…

    Mặt Lưu hơi đỏ lên một chút trong khi tôi đọc. Tôi đoán: anh nhìn theo nét mặt tôi kỹ lắm. Và khi tôi đã đọc xong vừa ngước mắt lên, anh đã run run hỏi:

    – Được không anh?

    Muốn tránh việc trả lời, tôi hỏi lại:

    Đã hết chưa?

    Còn cái kết.

    Anh định kết như thế nào?

    Như sự đã xảy ra, bởi vì truyện này là truyện thật….Tôi về nhà quê vắng, nên lồng sáo không có ai coi sóc. Ngay đêm hôm đầu, một anh chuột rúc vào lồng cắn chết sáo, rồi lúng túng ở trong ấy không ra được, đến nỗi sáng hôm sau bị thằng ở nhà tôi trọ bắt. Kha trở về, thấy nói sáo của mình bị chết, trách tôi là đồ ác, ích kỷ, chỉ leo lẻo cái mồm…Rồi Kha báo thù lại bằng cách cho tôi xem bức ảnh

    Kha mặc quần áo tắm đứng với một anh chàng mặc vỏn vẹn có một cái quần tắm, chụp ở Sầm Sơn.

    Anh ghen chứ?

    Tất nhiên! Tôi xui thằng em Kha mách mẹ; bà mẹ chửi Kha một trận nên thân rồi bắt Kha bỏ học ở nhà buôn bán. Chắc con bé chửi thầm mình ghê lắm, bởi nó không chửi vào tận mặt tôi được nữa: tôi dọn đi chỗ khác. Nhưng nếu kể đúng như vậy, thì truyện có một tính cách tầm thường lắm. Vậy tôi sẽ viết: tôi hy sinh tình yêu và hạnh phúc đi vì nàng…

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 462, ngày 22-5-1943
     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
  10. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Truyện ngắn: Mua Danh
    Tác giả: Nam Cao
    Nguồn: sách vui
    ___
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nhà Bịch được một sào trầu tốt. Cái tin ấy đồn đi. Dân làng kháo nhau rằng hắn có tiền. Mà có tiền là phải. Chỉ tính ra cũng biết. Trầu làng năm nay chết rất nhiều. Do trận bão vừa qua. Có những cái nát như tương; chẳng khác gì có người giật đổ xuống rồi lấy chân mà dận; người ta dỡ róng trúc, cắt gốc đi, rồi trồng thế vào đấy vài trăm con rau diếp; gỡ được đồng nào hay đồng ấy. Có những cái khác được dựng lên; nhưng dựng lên thì cũng chết, bởi gió đã lay dữ quá, làm đứt rễ. Những cái còn sống sót không có lá: lá cũ bị vò tan; lá mới gặp vụ rét này không ra được; có ra được thì cũng chột. Cái trầu của Bịch không thế. Âu cũng là trời thương riêng hắn. Năm nay, giá hắn không được cái trầu thì chết đói. Vườn chưa được ba sào. Nhà với sân đã chiếm ngót một sào. Chỉ còn hơn một sào trồng trọt. Nhà những sáu miệng ăn: hai vợ chồng với bốn đứa con. Bốn đứa lau nhau, cũng chưa làm gì được cả. Sợi vé không có, khung cửi để ba, bốn gia đình nhện đến chăng tơ.

    Vợ đi làm cỏ thuê mỗi ngày được hai hào; mỗi tháng cũng làm được độ mươi ngày. Những ngày không có ai thuê, thị mua buôn đọt lá, mấy cái hoa chuối, hoặc bó mía cẳng gà đem mãi sang chợ Phương Yên bán. Phát tài ra thì phiên được một hào. Thường thường được dăm ba xu, hoặc không đến năm xu. Cũng có ngày lỗ tiền đò.

    Chồng làm nghề xúc dậm. Đêm nào hắn cũng đi từ chập tối. Rét đến đâu cũng mặc, hắn chỉ bịt một cái khố rách bươm, cái áo luội thuội cuốn lên gần đến nách, lội bì bõm ở ven sông, đập sùng sũng, cứ lần mò như một con ma, đi từ quãng sông làng lên đến cống Lư, rồi lại quay trở lại, đi từ cống Lư về đến quãng sông làng. Ấy thế là vừa đúng sáng. Đêm nào cũng như đêm nào. Như vậy, hơn bù kém, mỗi đêm hắn kiếm được vài hào chỉ. Kể thì cũng không là ít. Nhưng chết cái gạo năm nay kém quá. Thêm một nỗi: ít lâu nay tôm tép hiếm. Cái lúc trời bắt tội khó làm ăn, hình như chúng cũng ít đi. Đã phải mấy đêm, hắn chẳng xúc được gì. Cả vợ lẫn chồng, mặt lúc nào cũng nhăn nhó như mặt khỉ. Rồi lại bão. Hắn đã chắc là chết đói. Nhưng cái may cũng như cái rủi, nó đến nhà ta như một thằng kẻ trộm; giữa lúc ta không ngờ nhất. Cái lúc hắn tưởng là hắn chết thì lại chính là lúc hắn bắt đầu lên lưng. Do cái trầu.

    Cái vườn trầu nhà Bịch, thật là trời cho hắn. Nó tốt đâu mà tốt lạ lùng. Bão cũng có làm dập lá ít nhiều. Nhưng lớp lá ấy hái đi, nó lại nẩy luôn lớp mới, còn tốt hơn lớp cũ. Cành chi chít, cành nọ giằng với cành kia. Lá chồng chất tầng dưới tầng trên, xây lại với nhau thật chặt, tràn cả lên bên trên miệng cặp, đầy lù lù như một mâm xôi. Mà chẳng lột lá nào. Chúng xanh đều, rất mỡ màng, đẹp như một mái tóc được bôi dầu, vuốt sáp. Ấy là một cái trầu dư sức, hái bao nhiêu cũng không sợ cụt. Trầu năm nay lại đắt: mới tháng mười mà những cái xấu rẻo cùn rẻo cụt, đã bán nổi mỗi trăm tám, chín hào hoặc một đồng. Cái của Bịch chẳng lứa nào chịu thế. Vợ hắn vẫn bán mỗi trăm đồng rưỡi, đồng sáu, với hơn thế nữa; có trăm hai đồng. Trầu còn đắt từ giờ đến cuối năm, đắt sang cả giêng, hai. Vậy thì Bịch phất bạc trăm là thường. Người ta bàn tán với nhau như vậy.

    Một hôm, ông cựu Túy là họ xa với Bịch, cho tìm Bịch đến…

    Nhà anh được một sào trầu tốt lắm phải không?

    Bẩm ông, cũng gọi là tốt đấy thôi, chứ so với trầu của người ta thì chẳng nước gì.

    Chào! Anh kín của vừa vừa chứ! Chửa nước gì thì anh cũng đã bòn được ba trăm.

    Bẩm ông, không được ạ

    Không được ạ? Giấu ai chứ giấu tôi sao nổi. Tôi thì bảo thật: bây giờ trong nhà anh ít ra cũng có vài trăm bạc. Không có thế cứ cổ tôi mà chặt.

    Bịch chưa biết đáp sao thì ông lại bảo:

    Ấy là tôi nói thế…Dẫu anh có bạc nghìn, cũng mặc anh. Tôi chả thèm vay đâu mà phải chối đây đẩy mãi. Anh sợ tôi vay anh, hở?

    Bịch vội cãi:

    – Bẩm ông, ông dậy thế thật…

    Hắn định nói: “…thật oan con quá”. Nhưng hắn chưa kịp nói. Ông nói lấp:

    Tôi tưởng anh có tiền, thì tôi thu xếp cho anh ra mà làm hương trưởng.

    Thôi! Thôi! Thôi! Con lạy ông! Nhà con không có đất.

    Hắn lắc đầu hăng hái quá đến nỗi ông sinh ngượng. Ông nói gắt:

    Thì cứ để bạc mà đem chôn! Mẹ kiếp! Có tiền có của, làm người đàn anh không muốn, cứ muốn đứa khác nó cưỡi lên đầu, lên cổ. Ngu như bò!

    Ông đứng hẳn lên, làm như muốn chạy ra ngoài, không thèm nói nữa. Ấy là ông giận quá. Mặt ông phình ra và đỏ bừng như bao nhiêu máu đã lộn lên hết. Bịch vừa sợ, vừa thẹn, cắm mặt nhìn xuống đất. Ông cựu thoáng nhìn thấy, nghĩ thầm: thằng này dễ bảo; cứ liệu nói vài câu nữa là phải được. Và ông giở cái trò nhân nghĩa…

    Tôi tưởng anh là cái chỗ con cháu trong nhà, nên muốn dắt díu anh một tí; còn tôi đây, thế nào cũng còn dễ hơn là phải nhờ người khác. Nhưng cái dễ anh không muốn, anh lại muốn đi tìm cái khó, thì tùy ý. Sau này tôi chết đi, anh muốn ra góp mặt với người ta một chút, phải nhờ đến người khác rồi mới biết. Anh đừng tưởng có tiền thì lúc nào làm cũng được. Tôi cho lại không van ông lạy bà chán! Bấy giờ mới tiếc…

    Cái ấy thì cũng có. Bịch thấy người ta lo được chút danh vị thật là chật vật. Nào tiền chồng quỹ. Nào chè lá đi nói với các ông kỳ cựu trong làng: từ hàng phó lý cựu trở lên, chẳng ông nào là có thể bỏ qua; ông một vài đồng, ông dăm ba đồng; cũng có ông phải đưa chục bạc; riêng cụ chỉ phải hai chục là ít nhất. Rồi lại còn phải một bữa rượu khao: gạo lợn năm nay, không có năm trăm bạc đừng nói chuyện. Năm trăm bạc, nguyên bữa rượu. Vậy tất cả chẳng đến ngót một nghìn đấy ư? Ngót một nghìn đồng bạc, eo mẹ ơi!… Hắn lại thấy hắn có đủ can đảm để mà từ chối. Hắn xun xoe bảo:

    Bẩm ông, ông có bụng thương, thật phúc cho nhà chúng con lắm. Giá con lo được, để ông che đỡ cho thì còn gì bằng nữa.

    Phải, các anh cũng là con, là cháu.

    Bẩm vâng, nhưng thật cảnh con còn bấn quá. Ông lại gắt:

    Ai chả biết! Nhưng bấn thì phải cố chứ! Cứ đợi thừa tiền rồi mới làm thì một đời anh cũng không làm nên công trạng gì.

    Nhưng bẩm ông, cái cảnh nhà chúng con thì cố cũng không được. Chỉ không bới đâu ra tiền.

    Không bới đâu ra tiền! Hừ!… Thôi được! Cứ để tiền mà chôn. Mẹ kiếp! Lại có thứ người ngu như vậy. Bảo bỏ tiền ra làm hương trưởng thì kêu không có đấy, thế mà mai kia nó có đến bắt phu, thì lại có tiền xì ran gay. Muốn ăn gio thì cứ để cho mà ăn gio!

    Ông cụ quát chán, bước phắt ra ngoài hè. Bịch nghe tiếng giày ông lệt sệt rất mau ra đầu chái. Một lúc sau, ông lại lệt sệt đi trở về. Nhưng ông không vào nhà nữa. Ông làm như quên hẳn Bịch. Ông bước xuống sân. Ông gọi con để hỏi xem cái ruộng đã cày chưa. Ông mắng đứa ở để mía um tùm thế mà chưa buồn bóc. Ông ngồi xuống, uốn nắn mấy cây cảnh trồng trước cửa… Bịch đứng bần thần một lúc, rồi rón rén bước ra. Hắn lại đứng bần thần ở sau lưng ông một lúc nữa. Ông vẫn loay hoay với những cây sung, cây si. Hắn chào ông rất khẽ. Ông không quay lại, đáp hai tiếng “không dám” thật to và kéo dài ra. Hắn lủi thủi ra về, lòng vừa buồn vừa lo…

    Mấy hôm sau, làng lại nhốn nháo lên về việc bắt phu. Người ta đồn rằng: lớp này bắt những tám mươi người đàn ông với bốn chục đàn bà. Bịch tự hỏi: không biết họ bắt làm gì lắm thế?… Thật ra thì chỉ là một khóe làm tiền của bọn hương lý. Họ thấy bở nên đào mãi. Cũng có người đoán thế. Nhưng chết một nỗi; có giấy quan sức hay không, họ chỉ biết mà thôi. Dân làng không ai biết chắc là có hay không có. Thành thử người ta đành chịu ức. Những người chẳng may bị tóm, bỏ tiền ra đút lót. Những người khác trốn như chạch cả.

    Bịch lấy làm khó nghĩ. Trốn cũng rầy rà, không trốn cũng rầy. Trốn thì đêm hôm, nhà cửa để cho ai? Khổ một nỗi ai cũng tưởng hắn nhiều tiền lắm. Mà không trốn thì chắc là bị bắt; lại vài chục bạc chuộc. Đằng nào cũng chết. Mà đã chắc gì vài chục bạc mà xong? Này, chúng nó đang thù, chúng nó lại biết mình non, mà lại cứ nhất định rằng mình được trầu được cau, nhà bây giờ bạc trăm lúc nào cũng có. Ngộ chúng nó cứ khăng khăng đòi giải, không bằng lòng cho chuộc thì sao?

    Mẹ kiếp! Lại chực bắt bí nhau…Chúng nó làm già thì mình cũng làm già! Mình chẳng thí cho một đồng xu dính dỉ, mình cứ đi phu, xem sao nào!

    Bịch bàn như vậy. Nhưng vợ hắn lắc đầu quày quạy:

    – Thôi! Thôi! Thôi! Thôi!…. Đừng đâm ba chày củ ra!…

    Không thể liều. Hắn liều được, nhưng thị không liều được. Thị bây giờ những bốn đứa con thơ. Hắn đi rồi, thị không làm gì nuôi chúng được. Ở làng này, khó lắm. Không có người đàn ông ở nhà, làm được một miếng, chúng nó cũng chẳng để cho mà ăn đâu…Thế làm sao bây giờ?

    – Muốn làm sao thì làm. Nhưng bố nó mà đi thì mẹ con tôi cũng phải bỏ làng mà đi nốt.

    Bịch cũng chẳng còn biết nghĩ ra sao nữa. Hắn ngồi bó củi, cằm ghếch lên đầu gối. Mặt hắn thườn ra, vừa tức tối vừa chán nản. Một chút nước mắt chảy vòng quanh. Hắn thấy tất cả nỗi khổ cực của một người lép vế trong thôn xã. Đầu hắn gần như là buốt nhức. Có cái gì ở bên trong rậm rựt, ngùn ngụt như muốn nổ tung ra ngoài. Nhưng cái ấy không nổ được. Nó theo nước mắt mà rỉ ra dần dần. Bịch chép miệng bảo:

    Biết vậy thì hôm nọ nghe ông cựu, làm hương trưởng đi cho rồi.

    Ấy thế!

    Khốn nỗi sáu, bảy trăm đồng bạc một lúc, chưa bán ông Hà bá cho ai được.

    Làm quái gì hết sáu, bảy trăm?

    Chứ lại không sáu, bảy trăm à? Này nhé!

    Hắn ngồi tính rành mạch từng khoản một. Vợ hắn lắc đầu mà bảo:

    Không làm gì có thế? Hôm nọ ông cựu cũng có bảo tôi. Ông ấy bảo: bây giờ dân đang cần tiền vào đám, ai muốn làm chỉ phải chồng quỹ rồi nộp thêm cho đám bảy chục, chiết can bữa rượu; như vậy chẳng còn phải khao khiếc gì.

    Dở lắm! Không khao thì ai biết mình làm hương trưởng?

    Sao người ta chả biết? Mình không khao, mà đã phải nộp tiền thì cũng như khao. Việc dân ở trong tay các ông ấy, chứ còn ở tay ai. Các ông ấy biết cho mình, là cả làng phải biết. Đứa nào dám nói không biết, người ta vả vào mặt ấy.

    Bịch ngẫm nghĩ. Hắn thở dài ba, bốn cái. Rồi hắn hỏi vợ:

    Hay là ta lại vào nhà ông cựu hỏi xem sao. Liệu có nhè nhẹ thì ta cố lo một chút.

    Ừ, thì bố nó thử vào hỏi xem.

    Có như vậy thật. Ông cựu bảo: từ cổ chí kim, chưa có bao giờ chức hương trưởng làng này lại rẻ như thế ấy; ai không làm cũng dại…Và ông bằng lòng nhận khoán Bịch một trăm tất cả. Ba mươi đồng quỹ, với bảy mươi đồng chiết can bữa rượu. Còn việc tạ chỗ này, chỗ khác, ông nói miệng với người ta là đủ. Ông đã nhận đứng ra giúp Bịch, chẳng cụ nào nỡ đòi ăn chè của ông…Sự thể là thế đấy. Cứ có một trăm đồng bạc là xong tất. Bịch chỉ việc ngồi nhà, chẳng cần phải đi nói với ông nào nửa tiếng. Đã có ông đi nói hộ. Cái chỗ quan viên với nhau, người ta nói với nhau nó dễ. Vậy thì Bịch muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Liệu có thể thu xếp mà lo được thì nên lo…

    Cố nhiên là Bịch lo. Bây giờ tuy chưa đủ cả, nhưng cũng chẳng còn thiếu mấy. Thiếu tí chút, thì vay tạm vậy. Nhờ có cái trầu, bây giờ chẳng thiếu gì người dám bỏ tiền cho hắn vay.

    Ông cựu nhận lấy một trăm đồng bạc. Bịch chỉ việc ngồi nhà thật. Mọi sự đã có ông cáng đáng. Ông cáng đáng như thế này: Ông bỏ ra mười đồng sung vào quỹ của làng. Lệ ấy có ghi trong hương ước. Nhưng hương ước chỉ là một quyển thần chú để mấy ông kỳ mục hô tiền. Nó được giấu kín trong tủ nhà hội đồng. Bịch làm gì biết được. Thấy ông cựu bảo phải chồng quỹ ba chục bạc thì hắn cũng tưởng ba chục bạc….Xong món tiền sung quỹ rồi, ông đưa thêm năm chục đồng để các cụ chia nhau. Trong số bảy chục tiền làm rượu, ông dắt mối được xơi hai chục. Các cụ đã giao ước nhau như vậy. Thế là ông cựu được tất cả vừa bốn chục. Bịch đâu biết đến cái chỗ ngoắt ngoéo ấy. Hắn thấy công việc xong xuôi thì mừng rỡ lắm. Vẻ mừng rỡ hiện ra tận mắt, ngày vào đám, hắn được cầm cái roi đứng trước cửa nhà thâu dẹp trẻ. Trông ra phết ông hương mới lắm! Nhưng bỗng hắn nghe thấy mẩu chuyện sau này trong đám người đứng xem chèo:

    Ái chà! Đứa nào cầm roi đứng trên kia?

    Hương Bịch đấy.

    Bịch đi xúc dậm ấy à? Ai khiến nó…

    Đừng nói láo! Ông hương đấy!

    Hương cái con khỉ! Chưa làm rượu đã vác mặt ra đình! Bộ thằng tớ có chào nó là ông Hương.

    Mặt Bịch đột nhiên đỏ gay lên. Hai tai hắn trông như hai cục tiết. Hắn không dám giơ nhăm nhăm cây roi nữa. Hắn đứng ngây người, mặt nhăn nhó nhìn chân trời qua bên trên đầu những người đứng xem. Trẻ con lợi dụng lúc ấy lấn bừa vào….Cụ tiên chỉ sang sảng quát:

    Hương mới đâu? Chèo cho các cụ xem hay trẻ con xem thế này? Anh dẹp đám thế à? Muốn cách không? Ái chà!….

    Tiểu thuyết thứ Bảy.

    Số 464, ngày 5-6-1943
     
    Chiracat thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng tám 2018
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...