- Xu
- 145,268
HỒI THỨ 69 Sở Linh Vương cậy thế hùng cường Án Bình Trọng thi tài ăn nói
Trần Ai công tên là Nịch. Người chánh phi là Trịnh Cơ, sinh con là Yển Sư, đã lập làm thế tử. Còn người thứ phi sinh ra công tử Lưu; người tam phi sinh ra công tử Thắng. Người thứ phi khéo nịnh được yêu, khi đã sinh được công tử Lưu, Trần Ai công muốn lập làm thế tử, nhưng vì đã lập Yển Sư rồi, không lấy cớ gì mà bỏ đi được, mới lấy người em là công tử Chiêu làm thái phó, công tử Quá làm thế phó để giúp cho công tử Lưu. Năm ấy Trần Ai công ốm nặng, đã lâu không ra coi triều, công tử Chiêu bảo công tử Quá rằng: - Con thế tử Yển Sư là công tôn Ngô, năm nay đã lớn tuổi. Nếu thế tử Yển Sư lên nối ngôi thì tất là công tôn Ngô làm thế tử, bao giờ truyền đến công tử Lưu được. Nay chúa công ốm nặng, quyền chính ở trong tay chúng ta, chi bằng giả cách phụng mệnh chúa công giết thế tử Yển Sư đi mà lập công tử Lưu thì ngày sau khỏi hối. Công tử Quá khen phải, liền cùng với quan đại phu là Trần Khổng Hoán thương nghị. Trần Khổng Hoán nói: - Thế tử Yển Sư ngày nào cũng vào cung hỏi thăm chúa công 3 lần, sớm tối ở bên cạnh chúa công, ta không thể nói dối được, chi bằng ta sai người nấp ở cửa cung, đợi khi ra vào mà đâm chết là hơn. Công tử Quá bàn nhau với công tử Chiêu, rồi giao việc ấy cho Trần Khổng Hoán và ước với Trần Khổng Hoán rằng: - Khi đã lập công tử Lưu rồi, sẽ phong cho ấp lớn. Trần Khổng Hoán sai một người lực sĩ tâm phúc đứng lẫn vào trong đám quân sĩ canh cửa. Quân sĩ canh cửa tưởng là người theo hầu thế tử Yển Sư, vậy không nghi ngờ gì cả. Thế tử Yển Sư vào thăm bệnh xong, đang đêm ra đến cung môn, người lực sĩ tắt đèn, rồi đâm chết đi. Chỗ cung môn náo loạn. Được một lúc, công tử Chiêu và công tử Quá đến, giả cách khinh sợ, một mặt sai người tầm nã quân giặc, còn một mặt nói với vua Trần ốm nặng, nên lập công tử Lưu nối ngôi. Trần Ai công biết chuyện, có ý tức giận, rồi thắt cổ mà chết. Công tử Chiêu phụng công tử Lưu đứng chủ tang, rồi lập lên làm vua, lại sai quan đại phu là Vu Trưng Sư đến cáo với vua Sở là Trần Ai công ốm nặng mà chết. Bây giờ Ngũ Cử đang đứng hầu ở bên cạnh Sở Linh Vương thấy nói nước Trần đã lập công tử Lưu lên làm vua, không biết Yển Sư đi đâu, có ý nghi hoặc, bỗng nghe báo có người con thứ ba của Trần Ai công là công tử Thắng và người cháu gọi bằng chú là công tôn Ngô (con thế tử Yển Sư) xin vào yết kiến. Sở Linh Vương cho vào. Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy, vừa lạy vừa khóc. Công tử Thắng tâu rằng: - Đích huynh tôi là thế tử Yển Sư bị công tử Chiêu và công tử Quá bày mưu giết đi, để đến nỗi thân phụ tôi phải thắt cổ mà chết, rồi tự tiện lập công tử Lưu lên làm vua. Chúng tôi sợ bị hại, vậy phải đem nhau sang đây để nhờ ơn quí quốc. Sở Linh Vương hỏi Vu Trưng Sư. Lúc trước Vu Trưng Sư còn chối, nhưng bị công tử Thắng biện bác, không thể cãi lại được. Sở Linh Vương nổi giận mắng Vu Trưng Sư rằng: - Nhà ngươi tức là đảng công tử Chiêu và công tử Quá! Sở Linh Vương truyền đem Vu Trưng Sư ra chém. Ngũ Cử tâu với Sở Linh Vương rằng: - Đại vương đã giết Vu Trưng Sư thì nên giúp công tôn Ngô trị tội công tử Chiêu và công tử Quá; như thế thì đường đường chính chính, ai là người không phải phục. Đã dẹp yên nước Trần rồi, sẽ tiến quân sang nước Sái, tôi chắc rằng có thể noi theo được cái công nghiệp của Trang Vương ta thuở xưa. Sở Linh Vương bằng lòng, mới đem quân sang đánh Trần. Công tử Lưu nước Trần nghe tin Vu Trưng Sư bị giết, sợ có tai vạ, không dám lên làm vua, liền trốn sang nước Trịnh. Có người bảo công tử Chiêu sao không đi theo công tử Lưu. Công tử Chiêu nói: - Nếu quân Sở đến, ta sẽ có kế làm cho phải lui. Sở Linh Vương đem quân đến nước Trần. Người nước Trần đều thương thế tử Yển Sư chết oan, trông thấy công tôn Ngô về, ai cũng mừng rỡ, kéo nhau ra đón rước. Công tử Chiêu thấy việc đã nguy cấp lắm, sai người mời công tử Quá để thương nghị. Công tử Quá đến, hỏi công tử Chiêu rằng: - Khi trước ngài nói có kế làm cho quân Sở phải lui, chẳng hay là kế gì? Công tử Chiêu nói: - Tất phải dùng một vật mới lui được quân Sở, ta muốn mượn nhà ngươi. Công tử Quá lại hỏi: - Chẳng hay vật gì? Công tử Chiêu nói: - Cái đầu nhà ngươi. Công tử Quá kinh sợ, vừa toan đứng dậy thì công tử Chiêu truyền cho quân sĩ xúm lại đánh chết mà chém lấy đầu. Công tử Chiêu đem đầu công tử Quá sang quân Sở, sụp lạy Sở Linh Vương mà tâu rằng: - Việc giết thế tử Yển Sư mà lập công tử Lưu, đều là lỗi tại công tử Quá. Nay tôi nhờ uy đại vương, chém công tử Quá đem nộp xin đại vương dung thứ cho tôi. Sở Linh Vương thấy công tử Chiêu nói năng khiêm tốn, đã có ý hơi bằng lòng. Công tử Chiêu lại quì gần ở trước mặt Sở Linh Vương mà mật tâu rằng: - Vua Trang Vương nước Sở ngày xưa dẹp yên nước Trần, đã lấy nước Trần làm quận huyện, sau lại phong cho nước Trần; thành ra uổng công. Nay công tử Lưu sợ tội bỏ trốn, nước Trần không có ai làm chủ, xin đại vương lấy làm quận huyện chớ để cho lại về quyền họ khác. Sở Linh Vương mừng lắm nói: - Lời nói nhà ngươi chính hợp với ý ta! Âu là nhà ngươi hãy về trước, mà quét dọn cung thất để đợi ta sang tới đó. Công tử Chiêu lạy tạ rồi lui ra. Công tử Thắng nghe nói Sở Linh Vương tha cho công tử Chiêu về nước, lại vào tâu với Sở Linh Vương rằng: - Việc giết thế tử Yển Sư, thủ mưu tự công tử Chiêu, đến lúc định khởi sự thì công tử Quá sai quan đại phu là Trần Khổng Hoán làm, nay lại đổ tội cho công tử Quá để mong được tạ tội, như thế thì tiên quân và tiên thế tử tôi ở dưới suối vàng sao cho được hả lòng? Công tử Thắng vật mình lăn khóc, quân sĩ trông thấy ai cũng cảm động. Sở Linh Vương dỗ bảo rằng: - Công tử chớ lo, ta sẽ liệu cách phân xử. Ngày hôm sau, công tử Chiêu sắp sửa xa giá ra đón Sở Linh Vương vào thành. Sở Linh Vương ngồi ở trên triều đường. Các quan triều thần đều đến yết kiến. Sở Linh Vương gọi Trần Khổng Hoán lên mà mắng rằng: - Việc giết thế tử Yển Sư, đều bởi tay nhà ngươi, nếu không giết đi thì sao làm gương cho kẻ khác được! Sở Linh Vương truyền cho quân sĩ đem Trần Khổng Hoán ra chém, rồi đem đầu Trần Khổng Hoán và đầu công tử Quá bêu ở quốc môn. Sở Linh Vương lại bảo công tử Chiêu rằng: - Ta cũng muốn dung tha cho ngươi lắm, nhưng vì công luận, không thể đừng được. Nay ta tha tội chết cho mà nhà ngươi nên đem gia quyến ra ở xứ Đông Hải. Công tử Chiêu kinh sợ không dám cãi lại, sụp lạy rồi lui ra. Sở Linh Vương sai người đem công tử Chiêu ra an trí ở nước Việt. Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy Sở Linh Vương, tạ cái ơn dẹp hộ quân giặc. Sở Linh Vương bảo công tôn Ngô rằng: - Ta vẫn muốn lập nhà ngươi lên làm vua nước Trần, nhưng mà đảng công tử Chiêu và công tử Quá còn nhiều, tất lại thù oán, làm hại nhà ngươi, nhà ngươi nên theo ta về nước Sở. Sở Linh Vương truyền đổi nước Trần làm quận huyện nước Sở. Sở Linh Vương thấy Xuyên Phong Thú khi trước dám tranh cái công bắt Hoàng Hiệt nước Trịnh, thế là người không xiểm nịnh, mới cho Xuyên Phong Thú trấn thủ ở đó, gọi là Trần công. Người nước Trần đều lấy làm không bằng lòng. Sở Linh Vương đem công tôn Ngô về nước, nghỉ quân một năm rồi mới đi đánh Sái. Ngũ Cử hiến kế rằng: - Cái tội ác của vua Sái (tức là Sái Linh công, tên là Ban), nay đã lâu ngày, nếu ta đem quân hỏi tội thì kẻ kia tất cãi lại, chi bằng ta dụ đến để giết đi. Sở Linh Vương theo kế ấy, mới giả cách ra tuần du ở Thân Địa và sai người mang lễ vật sang mời Sái Linh công. Sứ nước Sở đem quốc thư đệ trình Sái Linh công. Sái Linh công mở ra đọc. Trong thư đại lược như sau: "Tôi khát vọng nhà vua lắm, mời nhà vua sang hội ở Thân Địa. Gọi là có các đồ lễ vật nhỏ mọn này để khao thưởng kẻ hầu hạ nhà vua, xin nhà vua nhận cho". Sái Linh công truyền sắp xa giá toan đi. Quan đại phu là công tôn Qui Sinh can rằng: - Vua Sở là người tham mà không thực, nay sai sứ tới đây mà lễ nhiều nói ngọt, tất là có ý dụ ta. Chúa công chớ nên đi. Sái Linh công nói: - Nước Sái ta không bằng một huyện của nước Sở, nếu triệu mà ta không đi, tất là kẻ kia đem quân đến đánh, tài nào mà địch lại nổi! Công tôn Qui Sinh nói: - Vậy thì xin lập thế tử đã rồi hãy đi. Sái Linh công nghe lời, lập con là Hữu làm thế tử, và giao cho công tôn Qui Sinh giúp thế tử Hữu để giữ nước, rồi tức khắc đi xe sang Thân Địa. Sái Linh công vào yết kiến Sở Linh Vương. Sở Linh Vương nói: - Tôi cùng nhà vua biệt nhau, thấm thoát đã 8 năm, thế mà mừng thay cho nhà vua, nhan sắc vẫn còn như cũ. Sái Linh công nói: - Nước tôi nhờ ơn đại vương mà được dự hội với chư hầu, chưa biết lấy gì mà đền ơn lại. Mới rồi, nghe nói đại vương đánh được nước Trần, đã toan sang mừng, chẳng ngờ đại vương lại cho sứ đến triệu, vậy tôi xin sang đây để bái yết. Sở Linh Vương bày tiệc để thết đãi Sái Linh công, hát xướng linh đình, rất là trọng thể, Sở Linh Vương sai Ngũ Cử cho các người theo hầu Sái Linh công uống rượu ở ngoài quán. Sái Linh công vui chén uống mãi thành ra quá say. Sở Linh vương ném cái chén rượu làm hiệu thì có quân sĩ ở chung quanh đổ ra, trói Sái Linh công lại, mà Sái Linh công vẫn còn say rượu chẳng biết gì cả. Sở Linh Vương sai người tuyên bá rằng: - Vua Sái giết cha cướp ngôi, nay ta phải thay trời mà trị tội; còn những người theo hầu vua Sái, ai xin hàng thì có thưởng và cũng tha cho được về. Xưa nay Sái Linh công tiếp đãi các tướng sĩ, rất có ân lễ, bởi vậy các tướng sĩ không ai chịu hàng cả. Sở Linh Vương truyền cho quân Sở vây kín lại rồi bắt tất cả. Bấy giờ Sái Linh công rượu đã hơi tỉnh, mới biết là mình bị trói, trừng mắt nhìn Sở Linh Vương nói rằng: - Tôi có tội gì? Sở Linh Vương nói: - Mày giết cha đi mà cướp ngôi, thật là một đứa càn dỡ, bây giờ mới chết, cũng là muộn lắm rồi! Sái Linh công thở dài than rằng: - Tiếc thay ta không nghe lời công tôn Qui Sinh! Những người theo hầu Sái Linh công bị giết, cả thảy 70 người, dẫu đến kẻ hầu hạ cũng bị giết cả. Sở Linh Vương ghi tội Sái Linh công vào cái mộc bản, đem yết lên cho người trong nước biết, và sai Công tử Khí Tật đem quân thẳng đường sang nước Sái. Thế tử Hữu nước Sái, từ khi Sái Linh công đi sang Thân Địa rồi, vẫn sai người dò thám tin tức, bỗng nghe Sái Linh công bị giết, quân Sở sắp sang đến nơi, liền sửa soạn quân mã để phòng giữ. Quân Sở kéo đến, vây kín thành nước Sái đến hai ba vòng. Công tôn Qui Sinh nói với Thế tử Hữu rằng: - Nước Sái ta dẫu phụ thuộc nước Sở đã lâu, nhưng khi Tấn và Sở giao ước bãi binh với nhau, tôi cũng dự vào đó, chi bằng ta sai sứ sang cầu cứu với nước Tấn, nước Tấn nghĩ đến lời giao ước ấy, tất phải cứu ta. Thế tử Hữu nghe lời, đang muốn tìm một người để sai sang sứ nước Tấn. Nguyên trong số 70 người bị Sở Linh Vương giết ở Thân Địa khi trước, có một người tên gọi là Sái Lược, là thân phụ Sái Hựu. Sái Hựu muốn báo thù cho cha, vậy mới nói với Thế tử Hữu xin sang sứ nước Tấn. Sái Hựu đang đêm trèo qua thành trốn đi sang sứ nước Tấn, vào yết kiến Tấn Chiêu công, vừa khóc vừa kể những nông nỗi Sái Linh công bị giết. Tấn Chiêu công họp các quan triều thần lại để thương nghị. Tuân Ngô (con Tuân Yển) nói với Tấn Chiêu công rằng: - Nước Tấn ta làm bá chủ thì trách nhiệm phải bênh vực các nước chư hầu. Trước đã không cứu Trần, nay lại không cứu Sái thì sao gọi là bá chủ được. Tấn Chiêu công nói: - Vua Sở nay vốn là người bạo ngược, mà binh lực ta không địch nổi thì biết làm thế nào? Hàn Khởi nói: - Dẫu biết là không địch nổi, chẳng lẽ cứ ngồi yên hay sao! Ta nên họp quân chư hầu mà đi đánh mới phải. Tấn Chiêu công liền sai Hàn Khởi hội chư hầu ở đất Quyết Ngận. Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trịnh và Tào đều sai quan đại phu đến để dự hội. Hàn Khởi nói đến việc cứu Sái, quan đại phu các nước đều lắc đầu cả, không ai dám nhận lời Hàn Khởi. Hàn Khởi nói: - Các ngươi sợ nước Sở như thế thì định để cho nước Sở cứ mỗi ngày một lấn dần như tằm ăn dâu hay sao! Nếu quân Sở đánh xong Trần, Sái, rồi dần dần đánh đến các nước thì bấy giờ Chúa công tôi cũng không dám bàn gì nữa! Các người đều nhìn nhau, không ai dám trả lời. Bấy giờ quan Hữu sư nước Tống là Hoa Hợi cũng dự hội. Hàn Khởi bảo Hoa Hợi rằng: - Khi trước quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên xướng nghị lên mà khiến cho Tấn và Sở hội nhau ở nước Tống để giao ước bãi binh, nếu nước nào trái lời thì các nước cùng đánh. Nay nước Sở bội ước đánh Trần và Sái mà nhà ngươi cứ khoanh tay không nói một câu nào, thế thì không phải là tại nước Sở thất tín, chính là tại nước ngươi khinh mạn chư hầu đó! Hoa Hợi sợ hãi mà đáp rằng: - Khi nào nước tôi dám khinh mạn chư hầu, chẳng qua là tại nước Sở mọi rợ, không nghĩ gì đến tín nghĩa, nước tôi cũng không thể làm thế nào được. Nay các nước nghỉ chân đã lâu mà bỗng nhiên khởi sự chiến tranh thì vị tất đã thắng được Sở, chi bằng ta theo lời giao ước ấy mà sai sứ đến xin vua Sở tha cho nước Sái, chắc là vua Sở không thể chối từ được nữa. Hàn Khởi thấy quan đại phu các nước đều có ý sợ nước Sở, liệu việc cứu Sái không thể nào cổ động được, mới bàn viết một bức thư sai quan Đại phu là Hồ Phủ sang Thân Địa đệ trình Sở Linh Vương. Sái Hựu thấy các nước không chịu đem quân cứu Sái, khóc mà trở về. Hồ Phủ sang đến Thân Địa, vào yết kiến Sở Linh Vương đệ trình bức thư. Sở Linh Vương mở thư ra xem. Trong thư đại lược như sau này: "Ngày trước hội thề ở nước Tống, có giao ước cùng nhau bãi binh, đến khi hội thề ở Quắc Địa lại nhắc lại ước cũ, đã có quỉ thần chứng giám. Chúa công tôi cùng chư hầu noi theo lời giao ước ấy, không dám gây việc chiến tranh. Nay Trần, Sái có tội, quí quốc đem quân đi đánh, dẫu bởi việc nghĩa, nhưng chẳng qua cũng là tòng quyền. Chư hầu thấy tội nhân đã giết được rồi mà việc binh hãy còn chưa bãi, đều đến trách Chúa công tôi sao không biết bênh vực những kẻ hèn yếu. Chúa công tôi lấy làm xấu hổ lắm, nhưng vẫn chưa dám cất quân, là vì sợ trái lời giao ước, vậy phải sai tôi là Hàn Khởi, cùng với quan đại phu các nước, đưa bức thư này, xin Đại vương tha cho nước Sái. Nếu Đại vương nghĩ đến lời giao ước mà để cho nước Sái được toàn vẹn thì Chúa công tôi và các nước đồng minh đều cám ơn Đại vương lắm, chẳng những là người nước Sái." Cuối bức thư, quan đại phu các nước đều ký tên cả. Sở Linh Vương trông thấy, cười mà nói rằng: - Ta đã sắp phá vỡ được nước Sái mà các ngươi muốn đem câu nói đến giải vây hay sao, nếu vậy thì khinh ta là trẻ con quá! Nhà ngươi về nói lại cho vua Tấn biết: Trần, Sái là nước phụ thuộc của ta, không dự gì đến nước Tấn mà nước Tấn phải trông nom hộ. Hồ Phủ toan cố ý nài xin thì Sở Linh Vương đứng dậy đi trở vào, cũng không viết giấy trả lời gì cả. Hồ Phủ căm tức mà trở về. Vua tôi nước Tấn dẫu giận nước Sở, nhưng cũng không biết làm thế nào. Sái Hựu về đến nước Sái, bị quân Sở bắt được, giải đến nộp Công tử Khí Tật. Công tử Khí Tật bắt hiếp Sái Hựu phải đầu hàng. Sái Hựu không nghe. Công tử Khí Tật đem giam ở hậu quân. Công tử Khí Tật biết quân Tấn không đến cứu, lại càng cố sức đánh thành nước Sái. Công tôn Qui Sinh nói với Thế tử Hữu rằng: - Bây giờ việc đã nguy cấp rồi, tôi xin liều mình sang dinh quân Sở để xin quân Sở rút về, nếu quân Sở nghe cho thì dân ta không đến nỗi tàn hại. Thế tử Hữu nói: - Công việc trong thành, trông cậy ở một tay ngài, sao ngài nỡ bỏ tôi mà đi. Công tôn Qui Sinh nói: - Nếu Thế tử không bằng lòng cho tôi đi thì con tôi là Triều Ngô, có thể sai đi được. Thế tử Hữu gọi Triều Ngô đến, khóc mà sai đi. Triều Ngô vào yết kiến Công tử Khí Tật. Công tử Khí Tật tiếp đãi tử tế. Triều Ngô nói: - Công tử đem quân đánh nước tôi, nước tôi chắc thế nào cũng mất, nhưng chưa được rõ là vì tội gì? Nếu vì tội Tiên quân tôi thất đức thì Thế tử nước tôi có tội gì? Tôn xã nước tôi có tội gì? Xin Công tử thương mà xét cho. Công tử Khí Tật nói: - Ta cũng biết nước Sái không đáng phải tuyệt diệt, nhưng ta phụng mệnh vua Sở sang đây, nếu không thành công thì tất có tội. Triều Ngô nói: - Tôi còn có một câu nữa, xin đuổi hết người xung quanh cho tôi được nói. Công tử Khí Tật nói: - Nhà ngươi cứ nói, người xung quanh ta không hề chi cả. Triều Ngô nói: - Vua Sở được nước không phải là chính đạo, Công tử hẳn cũng đã biết. Phàm người biết nghĩ, ai là không giận. Nay lại trong làm khổ dân về việc thổ mộc, ngoài làm khổ dân về việc can qua, lòng tham không chán, năm trước diệt Trần, năm sau lừa Sái. Công tử không nghĩ đến thù chung mà cố sức để giúp, tôi e rằng đến khi tai vạ, chắc là Công tử cũng phải chịu một phần. Công tử vốn là người hiền, mà lại có cái điềm đương bích, người nước Sở ai cũng muốn cho Công tử lên làm vua; nay Công tử đem quân quay về mà trị tội kẻ giết vua, hại dân ấy thì còn ai dám chống lại với Công tử nữa. Chẳng hơn là thờ một ông vua vô đạo mà mua oán với thiên hạ hay sao! Nếu Công tử nghe lời, tôi xin đem quân nước tôi đi làm tiên phong mà giúp Công tử. Công tử Khí Tật nổi giận, nói: - Đứa thất phu kia, dám đem lời nói khéo để làm chia rẽ vua tôi nước ta, tội đáng chém chết, nhưng ta hãy gửi cái đầu ở trên cổ nhà ngươi đó, cho nhà ngươi về truyền bảo Thế tử Hữu mau mau mà ra hàng đi thì còn được toàn tính mệnh! Công tử Khí Tật truyền quân sĩ đuổi Triều Ngô ra. Nguyên là khi trước Sở Cung Vương có một người thiếp yêu, sinh được năm con: Người con trưởng là Hùng Chiêu, tức là Sở Khang Vương; người thứ hai là Vi, tức là Sở Linh Vương; người thứ ba là Tị, tên tự là Tử Can; người thứ tư là Hắc Quang, tên tự là Tử Tích; còn người thứ năm là Công tử Khí Tật. Trong năm người con ấy, Sở Cung Vương muốn chọn một người để lập làm thế tử mà chưa biết lập ai, mới tế các thần, rồi chôn một viên ngọc bích ở giữa sân nhà Thái miếu, sai năm con vào lễ, để xem ai đứng chính giữa viên ngọc bích ấy, tức là người ấy có phúc, về sau được nối ngôi vua. Khang Vương vào trước, đứng lễ quá lên trước chỗ chôn ngọc bích; Linh Vương vào sau, lúc lễ với tay đến chỗ ngọc bích; Tử Can và Tử Tích thì cách ngọc bích xa lắm. Công tử Khí Tật bấy giờ tuổi hãy còn nhỏ, người vú ẵm vào lễ đứng chính giữa ở trên ngọc bích, Sở Cung Vương trong lòng biết là thần giúp, bởi vậy rất yêu Công tử Khí Tật. Khi Sở Cung Vương chết, Công tử Khí Tật hãy còn nhỏ, thành ra Khang Vương lên nối ngôi, nhưng các quan đại phu nước Sở nghe thấy việc chôn ngọc bích ấy, ai cũng biết rằng về sau Công tử Khí Tật lên làm vua. Bấy giờ Triều Ngô nước Sái nói đến cái điềm đương bích, Công tử Khí Tật sợ lời nói ấy truyền bá ra thì tất Sở Linh Vương ghen ghét, vậy nên giả cách đuổi Triều Ngô ra. Triều Ngô trở vào trong thành, thuật lại lời nói của Công tử Khí Tật cho Thế tử Hữu nghe. Thế tử Hữu nói: - Làm vua thì phải vì nước mà chết, đó là lẽ chính, ta đây dẫu chưa nối ngôi, nhưng ta phụng mệnh giữ nước thì cũng nên vì nước mà liều mình, chẳng hơn là chịu cúi đầu làm nô lệ mà thờ kẻ cừu địch hay sao! Thế tử Hữu cố sức chống với quân Sở. Thành nước Sái bị vây từ tháng 7 mùa hạ, đến tháng 11 mùa đông, Công tôn Qui Sinh mệt nhọc thành bệnh, nằm không dậy được. Trong thành lương hết, chết đói mất quá nửa. Quân Sở trèo lên mặt thành, đông như đàn kiến, liền phá vỡ thành nước Sái. Thế tử Hữu đành ngồi mà chịu trói. Công tử Khí Tật vào thành phủ dụ nhân dân, rồi bắt Thế tử Hữu và Sái Hựu giải về nộp Sở Linh Vương, còn Triều Ngô vì có nói về đương bích mà được tha. Chưa được bao lâu, Công tôn Qui Sinh chết, Triều Ngô mới theo Công tử Khí Tật. Bấy giờ Sở Linh Vương đã về Dĩnh Đô (kinh thành nước Sở), nằm mộng thấy một người vào yết kiến, tự xưng là thần Cửu Cương Sơn, bảo Sở Linh Vương rằng: - Nhà ngươi tế ta, ta cho nhà ngươi được thiên hạ! Khi Sở Linh Vương tỉnh dậy, mừng lắm, liền sắp xa giá ra Cửu Cương Sơn. Gặp Công tử Khí Tật báo tin diệt được nước Sái. Sở Linh Vương toan giết Thế tử Hữu để tế thần. Thân Vô Vũ can Sở Linh Vương rằng: - Ngày xưa Tống Tương công giết vua Tắng để tế thần Thư Thủy mà chư hầu làm phản, Đại vương chớ nên theo điều ấy. Sở Linh Vương nói: - Thế tử Hữu là con một người có tội (chỉ Công tử Ban), ta cũng coi như giống súc sinh mà thôi. Thân Vô Vũ lùi ra, thở dài mà than rằng: - Đại vương bạo ngược quá làm vậy thì toàn vẹn làm sao cho được! Thân Vô Vũ liền cáo lão về làm ruộng. Sái Hựu thấy Thế tử Hữu bị giết, thương khóc trong ba ngày, Sở Linh Vương cho là trung, rồi tha tội mà dùng. Sái Hựu nghĩ đến cha là Sái Lược khi trước cũng bị Sở Linh Vương giết, mới có chí định báo thù, bảo Sở Linh Vương rằng: - Các nước chư hầu theo Tấn mà không theo Sở là vì Tấn gần mà Sở xa, nay Đại vương đã đánh được Trần, Sái, tiếp giáp với Trung Nguyên, nếu đắp thành cho cao rộng, rồi đặt thêm quân để thị uy với chư hầu thì nước nào mà không phải sợ. Bấy giờ sẽ tiến sang đánh Ngô và Việt, trước tự phía Đông Nam, sau đến phía Tây Bắc, tôi chắc rằng có thể thay nhà Chu mà làm thiên tử được. Sở Linh Vương nghe nói bằng lòng, từ bấy giờ mới có ý tin dùng Sái Hựu. Sở Linh Vương truyền đắp thành ở Trần, Sái, cao rộng thêm ra, rồi cho Công tử Khí Tật trấn thủ ở nước Sái, để đền lại cái công diệt Sái. Lại đắp hai cái thành ở phía Đông và phía Tây gọi là Bất Lang thành, để giữ địa thế nước Sở. Sở Linh Vương tự lấy làm thiên hạ không nước nào cường thịnh bằng nước Sở, chẳng bao lâu nước Sở sẽ thu được cả thiên hạ, mới gọi quan Thái bốc vào để bói xem bao giờ thì được làm vương. Quan Thái bốc nói: - Ngài đã xưng vương rồi, lại còn bói làm gì! Sở Linh Vương nói: - Nay còn có nhà Chu thì Sở ta chưa phải là vương thật; có thu được hết thiên hạ mới thật là vương. Quan Thái bốc hơ mai rùa để bói. Tự nhiên mai rùa vỡ. Quan Thái bốc nói: - Thế này là việc không thành. Sở Linh Vương cầm mai rùa ném xuống đất, rồi vùng vằng đứng dậy mà kêu to lên rằng: - Trời ôi! Trời tiếc gì mà không cho ta được thiên hạ! Nếu vậy thì sinh ta làm gì! Sái Hựu tâu với Sở Linh Vương rằng: - Việc cốt tại người, chứ cái xương khô (chỉ cái mai rùa) ấy biết gì! Sở Linh Vương bằng lòng. Chư hầu thấy nước Sở cường thịnh, đều có ý sợ hãi, sai sứ đến triều cống. Quan Đại phu nước Tề là Án Anh (tên tự là Bình Trọng) phụng mệnh Tề Cảnh công sang sứ nước Sở. Sở Linh Vương bảo các quan triều thần rằng: - Án Anh mình không đầy 5 thước, mà chư hầu ai cũng khen là người hiền. Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh cả, ta muốn làm cho Án Anh phải sỉ nhục, để tỏ cái uy của nước Sở, các ngươi nghĩ xem có kế gì? Quan Thái tể là Viễn Khải Cương mật tâu rằng: - Án Anh là người tài ứng đối, tất phải dùng nhiều cách mới làm sỉ nhục được hắn. Viễn Khải Cương liền đem mưu kế nói với Sở Linh Vương. Sở Linh Vương nghe lời. Đêm hôm ấy, Viễn Khải Cương đem quân ra khoét một cái lỗ nhỏ ở bên cửa đông môn, vừa vặn độ 5 thước, rồi truyền cho quân canh cửa, đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa giữa lại, rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào. Được một lúc Án Anh mặc áo cừu rách, đi cái xe xấu và con ngựa gầy, đến cửa đông môn, thấy cửa thành đóng, liền dừng xe lại, sai người gọi cửa. Quân canh cửa trỏ vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà bảo Án Anh rằng: - Ngài đi qua cái chỗ ấy, cũng rộng rãi chán, cần gì phải mở cửa! Án Anh nói: - Đó là lỗ chó chui, chứ không phải chỗ người đi. Có sang nước chó thì mới vào cửa chó, chứ sang nước người thì tất phải đi cửa người. Quân canh cửa đem lời nói ấy phi báo Sở Linh Vương, Sở Linh Vương nói: - Ta muốn giỡn hắn, ai ngờ lại bị hắn giỡn lại! Sở Linh Vương truyền mở cửa thành cho Án Anh vào. Án Anh vào trong thành, thấy có một toán xa kỵ, người nào cũng to lớn lực lưỡng và rậm râu, tay cầm một ngọn giáo thật dài, trông như vị thiên thần, đến đón Án Anh, có ý muốn tỏ cho biết Án Anh là người thấp lùn, bé nhỏ. Án Anh nói: - Hôm nay ta sang sứ đây là vì việc giao hiếu, chứ không phải là muốn gây việc chiến tranh, dùng làm chi những kẻ vũ sĩ ấy! Án Anh nói xong bảo vũ sĩ đứng ra một bên, rồi giục xe thẳng tới triều môn. Ngoài triều môn có hơn 10 viên quan, đều mũ cao áo dài, đứng sắp hàng hai dãy. Án Anh xuống xe, chắp tay vái chào. Trong hàng các quan, có một viên trẻ tuổi hỏi Án Anh rằng: - Ngài có phải là Án Bình Trọng, người ở đất Di Duy (tức là Lai Địa) đó không? Án Anh nhìn xem ai thì là con Đấu Vi Qui, tên gọi là Đấu Thành Nhiên, hiện đang làm giao doãn. Án Anh đáp rằng: - Phải! Chính là tôi đó! Chẳng hay ngài định dạy điều gì? Đấu Thành Nhiên nói: - Nước Tề, kể từ đời Thái công thuở xưa, vốn là một nước cường thịnh, sao từ khi Hoàn công mất đi rồi mà trong nước nhiễu loạn, tranh cướp lẫn nhau, hết bị Tấn đánh, lại bị Tống đánh. Cứ như vua Tề ngày nay, cũng chẳng kém gì Hoàn công, mà cái hiền đức của Ngài phỏng có thua gì Quản Trọng (tức là Quản Di Ngô), sao Ngài không biết giúp vua Tề để chấn hưng cái cơ nghiệp cũ, mà chịu cúi đầu thờ nước lớn, như đám nô bộc, thật tôi không hiểu ra làm sao! Án Anh đáp rằng: - Có biết thời vụ mới gọi là tuấn kiệt, có thông cơ biến mới gọi là anh hào. Từ khi nhà Chu suy, Tề và Tấn làm bá chủ ở Trung Nguyên, Tần là bá chủ ở Tây Nhung, Sở làm bá chủ ở Nam Man, dẫu bởi có nhân tài, nhưng chẳng qua cũng là do khí vận. Kìa như Tấn Tương công và Tần Mục công cường thịnh biết bao mà sau cũng phải hèn yếu; nước Sở từ khi vua Trang Vương mất đi, cũng thường bị quân Tấn và quân Ngô đến đánh, cứ gì một nước Tề. Chúa công tôi hiểu cái lẽ ấy, bởi vậy vẫn luyện tập quân mã để mà đợi thời; nay sai tôi sang tới đây là theo cái lẽ giao hiếu với lân quốc, sao gọi là nô bộc được! Ngài có phải là dòng dõi Tử Văn đó không? Tử Văn khi xưa là một bậc danh thần nước Sở, biết thời vụ, thông cơ biến, mà sao lời nói của Ngài lại trái với Tử Văn nhiều lắm! Đấu Thành Nhiên thẹn đỏ mặt lên, rồi cúi đầu lui ra. Được một lúc, trong hàng bên tả lại có một người hỏi Án Anh rằng: - Án Bình Trọng tự đắc là người biết thời vụ, thông cơ biến, nhưng trong khi Thôi Chữ và Khánh Phong nổi loạn, các triều thần nước Tề, từ Giả Cử trở xuống, bao nhiêu người tử tiết. Trần Văn Tử cũng bỏ cả cơ nghiệp mà đi. Ngài là thế gia ở nước Tề, mà đã không dám đánh giặc, cũng không biết tử tiết, còn bo bo giữ lấy cái danh vị làm chi! Án Anh nhìn xem ai thì tức là quan Thượng đại phu nước Sở, tên gọi Dương Mang, tên tự là Tử Hà. Án Anh đáp rằng: - Người có tiết lớn thì không cần những sự tầm thường. Ông vua vì nước mà chết thì bề tôi nên chết theo, nay vua Trang công tôi không phải vì nước mà chết, những người chết theo, toàn là vì tình riêng. Tôi dẫu hèn mạt, có đâu dám liều chết để mua lấy cái hư danh ấy! Vả bề tôi gặp lúc trong nước có nạn, không thể làm gì được thì mới nên bỏ đi. Tôi không đi là để lập vua mới mà giữ lấy nước, chứ có phải là tham danh vị đâu! Nếu ai cũng đi cả thì việc nước còn trông cậy nỗi gì! Huống chi những sự biến loạn, nước nào không có. Ngài chắc các quan triều thần nước Sở đều là những người một lòng tử tiết cả hay sao. Ngài chỉ biết trách người mà không biết trách mình! Dương Mang nín lặng không đáp lại được nữa. Bỗng thấy trong hàng bên hữu lại có một người ra hỏi Án Anh rằng: - Ngài nói là ngài muốn lập vua mới để giữ lấy nước, câu nói ấy có ý viển vông quá! Trong khi họ Thôi và họ Khánh giết lẫn nhau, họ Trần và họ Bão tranh quyền nhau, chẳng thấy Ngài có cái mưu kế gì lạ cả. Nếu có lòng báo quốc sao lại như thế! Án Anh cười mà nói rằng: - Ngài biết điều ấy, nhưng chưa biết điều khác! Trong khi bấy giờ, tôi ở liền bên cạnh Chúa công, rồi bày mưu lập kế để giữ yên nước nhà, những kẻ bàng quan tài nào mà biết rõ được! Trong hàng bên tả lại có một người ra bảo Án Anh rằng: - Đại trượng phu gặp thời, đã có đại tài lược, tất có đại qui mô! Tôi xem ra thì Ngài khó lòng mà tránh khỏi được cái tiếng bỉ lận. Án Anh nhìn xem ai thì tức là quan Thái tể nước Sở, tên gọi Viễn Khải Cương. Án Anh nói: - Tại sao ngài biết là tôi bỉ lận? Viễn Khải Cương nói: - Thân danh ngài làm ông tướng quốc thì những mũ áo và xe ngựa, tưởng cũng nên trang sức để tỏ cái ân huệ của vua, cớ sao lại mặc áo cừu rách, cưỡi con ngựa gầy mà đi sứ nước ngoài như vậy, chẳng có lẽ lương ăn không đủ hay sao! Tôi nghe nói cái áo cừu của Ngài may từ thuở bé, đã 30 năm nay không thay, mà mỗi khi tế lễ, ngài dùng con lợn nhỏ quá, đến nỗi vai lợn không chật mâm, không phải bỉ lận là gì? Án Anh vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng: - Sao kiến thức của Ngài thiển cận như vậy! Tôi từ khi làm tướng quốc đến giờ, suốt trong họ hàng nhà tôi đều được mặc áo đẹp, ăn miếng ngon, không ai phải đói rét; những người hàn sĩ nhờ tôi mà được ấm no, cả thẩy đến hơn 70 nhà, thế thì muốn tỏ cái ân huệ của vua, còn gì bằng điều ấy! Án Anh chưa nói dứt lời thì trong hàng bên hữu lại thấy có một người chỉ tay vào mặt Án Anh mà vừa cười vừa nói: - Tôi nghe nói vua Thành Thang mình cao chín thước là bậc hiền vương, Tử Tang sức địch muôn người là bậc danh tướng, nay ngài mình thấp không đầy 5 thước, sức yếu không trói nổi một con gà, chỉ nghề bẻo lẻo mồm miệng, tự đắc là tài, tôi tưởng nên lấy làm xấu hổ lắm! Án Anh nhìn xem lại thì tức là cháu Công tử Chân, tên gọi Nang Ngõa, tên tự là Tử Thường, hiện đang làm chức xa hữu. Án Anh tủm tỉm cười mà đáp rằng: - Tôi nghe nói cái quả cân dẫu nhỏ, bao giờ cũng đè được nghìn cân; cái bánh lái dẫu dài, bao giờ cũng ngâm ở dưới nước. Trường Địch người cao mà bị giết ở Lỗ, Nam Cung Vạn sức khỏe mà bị giết ở Tống, thân thế của Ngài có khi cũng gần giống như vậy! Tôi đây có tài cán gì, nhưng hỏi thì phải nói, sao Ngài lại chê là bẻo lẻo mồm miệng. Nang Ngõa không biết nói thế nào cho được. Bỗng nghe báo có quan Lệnh doãn là Viễn Bãi đến. Các quan đều sắp hàng đứng đợi. Ngũ Cử mời Án Anh vào triều, rồi bảo các quan đại phu rằng: - Án Bình Trọng là hiền sĩ ở nước Tề, sao các Ngài lại nói quá như vậy. Được một lúc Sở Linh Vương ra ngự triều. Ngũ Cử đưa Án Anh vào yết kiến. Sở Linh Vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng: - Quái lạ! Nước Tề thiếu người hay sao! Án Anh nói: - Người nước Tề tôi, hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thì thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là thiếu người. Sở Linh Vương nói: - Thế thì sao lại sai đứa bé này sang sứ nước ta? Án Anh nói: - Nước tôi vẫn có lệ: Người hiền sang sứ nước hiền, người ngu sang sứ nước ngu, người bé sang sứ nước bé. Tôi, người bé nhỏ mà hèn mạt, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở. Sở Linh Vương nghe nói có ý hổ thẹn, nhưng trong lòng lấy làm lạ. Gặp bấy giờ có chức giao nhân đem dâng hợp hoan quất (quýt). Sở Linh Vương cầm ngay một quả đưa cho Án Anh. Án Anh cắn ăn cả vỏ. Sở Linh Vương vỗ tay cười mà bảo rằng: - Người nước Tề dễ thường không ăn quýt bao giờ! Cớ sao lại không bóc vỏ? Án Anh nói: - Cứ theo trong lễ thì vua đưa cho quả gì, bề tôi cũng không được bóc vỏ mà quẳng đi. Nay Đại vương đưa cho tôi, cũng như là Chúa công tôi đưa cho tôi vậy. Đại vương không truyền cho bóc vỏ, nên tôi phải ăn cả. Sở Linh Vương có ý kính phục, mời ngồi uống rượu. Được một lúc, có ba bốn người vũ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm. Sở Linh Vương hỏi: - Tên tù ấy người ở đâu? Vũ sĩ tâu: - Người nước Tề. Sở Linh Vương hỏi: - Tên tù ấy phạm tội gì? Vũ sĩ tâu: - Tội ăn trộm. Sở Linh Vương ngoảnh lại bảo Án Anh rằng: - Người nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao? Án Anh biết là Sở Linh Vương cố ý bày ra để chế nhạo mình, mới đáp lại rằng: - Tôi nghe nói thứ quýt ở xứ Giang Nam, đem sang trồng ở xứ Giang Bắc thì hóa ra chua, là tại thổ nghi không giống nhau. Nay người nước Tề, khi ở nước Tề thì không ăn trộm, khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, chứ có tại gì nước Tề! Sở Linh Vương nín lặng hồi lâu nói rằng: - Ta định chế nhạo nhà ngươi, chẳng ngờ lại bị nhà ngươi chế nhạo! Sở Linh Vương tiếp đãi Án Anh rất lễ phép, rồi tiễn về nước Tề! Tề Cảnh công khen cái công của Án Anh, tôn làm thượng tướng, cho một cái áo cừu giá nghìn vàng, lại muốn phong thêm thái ấp cho nữa, nhưng Án Anh đều từ chối cả. Tề Cảnh công lại muốn làm cho Án Anh một cái nhà mới. Án Anh cũng cố ý xin thôi. Một hôm, Tề Cảnh công ra chơi nhà, trông thấy vợ Án Anh, mới hỏi Án Anh rằng: - Đấy có phải là nội tử nhà ngươi đó không? Án Anh tâu rằng: - Phải! Tề Cảnh công cười mà nói rằng: - Chao ôi! Già mà xấu lắm! Ta có đứa ái nữ, trẻ mà đẹp, để ta cho nhà ngươi. Án Anh nói: - Lúc trẻ trung, người ta lấy mình là mong rằng lúc già nua có thể nhờ vả được; vợ tôi dẫu già mà xấu nhưng khi nào tôi nỡ phụ lòng! Tề Cảnh công khen rằng: - Vợ con chẳng nỡ phụ, huống chi là vua! Từ bấy giờ Tề Cảnh công có lòng tin yêu Án Anh lắm.
Quay về bài gốc
0SHARES
Quay về bài gốc
0SHARES