HỒI THỨ 30 Tấn Huệ công bội ước cử binh Tần Mục Cơ giận thân tự tử Bấm để xem Quản Di Ngô đau nặng, dặn Tề Hoàn công đuổi Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, lại tiến dẫn Thấp Bằng. Có người đem tin ấy báo với Dịch Nha. Dịch Nha vào yết kiến Bão Thúc Nha, rồi nói với Bão Thúc Nha rằng: - Ngày trước ngài tiến dẫn trọng phụ lên làm tể tướng, nay trọng phụ ốm, chúa công hỏi chuyện, trọng phụ lại nói ngài không có tài chính trị mà tiến dẫn Thấp Bằng, tôi rất lấy làm không bằng lòng! Bão Thúc Nha cười mà nói rằng: - Ấy chỉ vì thế mà ta mới tiến dẫn trọng phụ; trọng phụ là người trung với nước mà không vì bạn. Giả sử chúa công cho ta làm chức tư khấu để khu trừ những đứa gian nịnh thì ta làm được, chứ cho ta cầm quyền chính trong nước thì tức như nhà ngươi, còn dung thân vào đâu. Dịch Nha xấu hổ cáo lui. Ngày hôm sau, Tề Hoàn công lại đến thăm Quản Di Ngô thì Quản Di Ngô đã không nói được nữa. Bão Thúc Nha và Thấp Bằng đều chảy nước mắt khóc. Đêm hôm ấy, Quản Di Ngô mất. Tề Hoàn công vật mình lăn khóc, thương xót vô cùng, vừa khóc vừa nói: - Thương thay trọng phụ! Trọng phụ chết đi thật là trời bẻ cánh tay ta! Nói xong, liền sai quan thượng khanh là Cao Hổ (con Cao Hề) coi việc làm ma Quản Di Ngô. Bao nhiêu những thái ấp của Quản Di Ngô lại cho người con tất cả, và cho phép được nối đời làm quan đại phu. Dịch Nha nói với quan đại phu là Bá Thị rằng: - Ngày trước chúa công lấy đất Biền Ấp của nhà ngươi thưởng cho trọng phụ, nay trọng phụ mất rồi, nhà ngươi nên nói với chúa công mà đòi lại cái đất ấy, rồi ta cũng liệu cách nói giúp nhà ngươi. Bá Thị khóc mà nói rằng: - Vì ta không có công trạng gì, vậy nên chúa công mới lấy đất của ta mà thưởng cho trọng phụ. Nay trọng phụ dẫu mất rồi, nhưng công trạng của trọng phụ hãy còn, ta có mặt mũi nào mà xin đòi lại. Dịch Nha than rằng: - Trọng phụ mất rồi, mà còn khiến cho Bá Thị phải tâm phục như vậy, thế thì lũ chúng ta là tiểu nhân thật! Tề Hoàn công theo lời Quản Di Ngô dặn lại, liền giao quyền chính cho công tôn Thấp Bằng. Chưa được một tháng thì Thấp Bằng mất. Tề Hoàn công nói: - Trọng phụ thật là bậc thành, sao lại biết rằng Thấp Bằng không sống được bao lâu. Nói xong, liền sai Bão Thúc Nha thay Thấp Bằng. Bão Thúc Nha có ý xin từ chối. Tề Hoàn công nói: - Nay trong triều không ai bằng nhà ngươi, nhà ngươi còn nhường cho ai? Bão Thúc Nha nói: - Tôi là người yêu điều thiện mà ghét điều ác, chắc hẳn chúa công cũng đã biết, nếu chúa công dùng tôi thì tôi xin đuổi Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương. Tề Hoàn công nói: - Trọng phụ ngày xưa cũng có dặn ta như vậy, nay ta xin vâng lời. Nói xong, ngay ngày hôm ấy hạ lệnh đuổi Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, không cho được vào triều. Bão Thúc Nha mới nhận chức tể tướng. Bây giờ có nước Hoài Di đem quân xâm phạm nước Kỷ. Nước Kỷ sai người sang cấp báo với nước Tề. Tề Hoàn công hội quân các nước chư hầu thân hành đi cứu nước Kỷ. Các nước chư hầu thấy Tề Hoàn công dùng Bão Thúc Nha làm tể tướng, không đổi chính trị của Quản Di Ngô, vậy nên vẫn phải theo lệnh. Tấn Huệ công từ khi lên nối ngôi, trong nước mất mùa liền 5 năm trời, kho tàng hết sạch cả, dân không lấy gì mà ăn. Tấn Huệ công muốn đong thóc ở nước khác về, mới nghĩ đến nước Tần là một nước láng giềng gần, mà lại có tình thân thuộc, chỉ hiềm vì một nỗi ngày trước phụ ước chưa đền, muốn nói mà không dám nói. Khước Nhuế nói: - Ta không phải phụ ước với nước Tần, chẳng qua ta chỉ xin hoãn mà thôi; nếu nay ta xin đong thóc mà Tần không cho, thế là Tần xử tệ với ta trước, bấy giờ ta sẽ phụ ước. Tấn Huệ công khen phải, rồi sai quan đại phu là Khánh Trịnh đem lễ vật sang nói với Tần Mục công xin đong thóc. Tần Mục công họp các quan lại hỏi rằng: - Nước Tấn khi trước hẹn biếu ta năm thành mà không chịu biếu, nay nhân trong nước mất mùa, lại sai sứ sang xin đong thóc, chẳng biết có nên cho hay không? Kiển Thúc và Bách Lý Hề đồng thanh nói rằng: - Thiên tai lưu hành, nước nào không có, nay ta giúp người thì trời tất giúp ta. Tần Mục công nói: - Ta làm ơn nước Tấn nhiều lắm rồi! Công Tôn Chi nói: - Làm ơn mà Tấn biết đền ơn thì có thiệt gì đến nước Tần ta, nếu Tấn không biết đền ơn thì trái tại nước Tấn, bấy giờ ta sẽ liệu kế, chúa công cứ cho. Phi Báo nghĩ đến thù cha ngày xưa, vùng vằng nói rằng: - Vua nước Tấn vô đạo, trời làm phải tai hại, ta nên thừa cơ đem quân sang đánh lấy nước Tấn. Do Dư nói: - Người có lòng nhân đức, không thừa cơ lúc người ta nguy cấp mà cầu lợi. Chúa công nên cho là phải. Tần Mục công nói: - Phụ ơn ta là vua nước Tấn, bây giờ bị đói là dân nước Tấn, ta không nỡ vì một ông vua mà làm khổ muôn dân. Nói xong, liền sai người vận tải mấy vạn hộc thóc sang nước Tấn. Dân nước Tấn đều cảm ơn Tần Mục công. Sang năm sau, nước Tần đói kém, nước Tấn lại được mùa. Tần Mục công bảo Kiển Thúc và Bách Lý Hề rằng: - May mà năm ngoái ta nghe lời hai ngươi cho nước Tấn đong thóc, nếu không thì năm nay ta mất mùa, cũng khó lòng mà sang đong thóc ở nước Tấn được. Phi Báo nói: - Vua nước Tấn là người tham mà vô tín, nay ta xin, vị tất đã cho. Tần Mục công không nghe, liền sai Lãnh Chi đem lễ vật sang nói với Tấn Huệ công xin đong thóc. Tấn Huệ công toan sai người vận thóc ở đất Hà Tây sang giúp nước Tần. Khước Nhuế nói: - Chúa công giúp thóc cho nước Tần, thế thì định lại cho cả đất hay sao? Tấn Huệ công nói: - Ta chỉ giúp thóc mà thôi, khi nào lại chịu cho đất. Khước Nhuế nói: - Vì cớ gì mà chúa công phải giúp thóc. Tấn Huệ công nói: - Vì năm trước Tần giúp thóc cho ta, vậy nên ta phải báo ơn. Khước Nhuế nói: - Nếu lấy việc nước Tần giúp thóc làm ơn, thế thì năm xưa nước Tần giúp chúa công về nối ngôi, cái ơn ấy to biết dường nào nay chúa công bỏ cái ơn lớn mà báo cái ơn nhỏ nghĩa là làm sao? Khánh Trịnh nói: - Năm ngoái tôi phụng mệnh sang nước Tần xin đong thóc thì vua Tần nhận lời cho ngay, thế là xử với ta rất tử tế, ta lại không cho nước Tần đong thóc, chắc là nước Tần oán giận ta lắm. Lã Di Xanh nói: - Tần cho ta đong thóc, không phải là có lòng yêu ta, chỉ cốt muốn cho ta nộp đất. Nay ta không giúp thóc thì nước Tần oán; ta giúp thóc mà không nộp đất thì nước Tần cũng oán, như vậy thì thế nào Tần cũng oán, cần gì mà giúp. Khánh Trịnh nói: - Thấy người ta có tai nạn mà không giúp là bất nhân, người ta làm ơn với mình mà mình quên ơn là bất nghĩa. Bất nhân, bất nghĩa thì sao giữ được nước. Hàn Giản nói: - Khánh Trịnh nói phải đó! Nếu năm ngoái Tần không cho ta đong thóc thì ta nghĩ thế nào? Quắc Xạ nói: - Năm ngoái trời làm ta đói, nước Tần không biết đánh lấy ta mà lại cho ta đong thóc, thế là nước Tần ngu; năm nay trời làm nước Tần đói, để cho ta lấy nước Tần, ta không nên trái ý trời. Cứ như ý tôi thì nên hội với nước Lương mà thừa cơ cùng đánh nước Tần. Tấn Huệ Công theo lời Quắc Xạ, liền chối từ mà bảo Lãnh Chi rằng: - Nước tôi mấy năm mất mùa luôn, dân phải phiêu bạt cả. Năm nay hơi được mùa một chút thì những dân phiêu bạt năm trước mới kéo nhau về, vậy nên thóc trong nước đủ dùng mà thôi, không có thể giúp quí quốc được. Lãnh Chi nói: - Chúa công tôi nghĩ tình thân thuộc, không bắt nộp đất, lại cho đong thóc, có lòng giúp quí quốc như vậy, mà quí quốc không đền ơn lại thì nay tôi trở về, biết nói ra làm sao cho được! Lã Di Xanh và Khước Nhuế quát to lên rằng: - Ngày trước nhà ngươi thông mưu với Phi Trịnh Phủ, toan đem lễ vật sang để dụ ta, may mà ta không mắc lừa, bây giờ lại còn nói khéo gì nữa! Nhà ngươi nên về nói với vua Tần; muốn ăn thóc của nước Tấn ta thì tất phải đem quân sang đánh mới được. Lãnh Chi tức giận mà lui ra. Khánh Trịnh nói riêng với Quách Yển rằng: - Chúa công ta bội ơn mà làm cho nước Tần tức giận như vậy thì tất có tai vạ. Quách Yển nói: - Nước Tấn ta sắp đến ngày mất! Lãnh Chi về đến nước Tần, nói với Tần Mục công rằng: - Nước Tấn không cho đong thóc, lại toan hợp quân Lương để sang đánh ta. Tần Mục công nói: - Không ngờ vua nước Tấn vô đạo đến thế là cùng! Để ta đánh nước Lương trước, rồi sau đánh nước Tấn. Bách Lý Hề nói: - Vua nước Lương hay làm khổ dân để đắp thành xây thành, người trong nước ai cũng ta oán, tất không có thể giúp được nước Tấn. Nay chúa công nên đem quân sang đánh Tấn, rồi sau sẽ đánh Lương. Tần Mục công khen phải, liền giao cho Kiển Thúc và Do Dư giúp thế tử Oánh giữ nước, rồi đem đại binh đi đánh nước Tấn. Tấn Huệ công họp các quan lại mà hỏi rằng: - Nay nước Tần tự nhiên vô cớ đem quân sang xâm phạm đất ta thì nên dùng kế gì để mà chống giữ? Khánh Trịnh nói: - Nước Tần vì chúa công bội ơn mà đem quân sang đánh, sao lại bảo là tự nhiên vô cớ được, cứ như ý tôi thì theo lời ước cũ mà nộp năm thành, rồi cùng với Tần giảng hòa. Tấn Huệ công nổi giận, nói: - Nước Tấn ta đường đường là một nước lớn như thế này mà phải nộp đất để giảng hòa thì ta còn mặt mũi nào mà làm vua nước Tấn nữa! Nói xong, truyền chém Khánh Trịnh. Quắc Xạ nói: - Chưa đem quân đi đánh, đã chém quan tướng thì tôi e rằng bất lợi, xin chúa công hãy tha Khánh Trịnh, để cho hắn được lập công mà chuộc tội. Tấn Huệ công nghe lời, rồi cử binh đi đánh, Tấn Huệ công vẫn dùng con ngựa tiểu tứ để kéo xe là ngựa của nước Trịnh đem biếu khi trước. Con ngựa ấy tầm nhỏ, lông mỡ, đi nhanh và êm lắm. Khánh Trịnh lại can rằng: - Cổ giả đi đánh giặc bao giờ cũng dùng ngựa nước mình, vì ngựa nước mình đã quen thủy thổ, không mấy khi lầm đường. Nay chúa công đi đánh giặc, lại dùng ngựa nước Trịnh, tôi thiết tưởng không nên. Tấn Huệ công lại mắng rằng: - Con ngựa ấy ta dùng đã quen rồi, nhà ngươi chớ nên nói lắm. Quân nước Tần sang đến nước Tấn, ba lần đánh ba lần được, các quan trấn thủ đều bỏ chạy cả. Quân Tần kéo thẳng đến đất Hàn Nguyên. Tấn Huệ công nghe tin quân Tần đã đến đất Hàn Nguyên, liền nhăn mặt lại nói rằng: - Quân giặc mạnh thế thì ta biết làm thế nào! Khánh Trịnh nói: - Chúa công tự làm cho giặc đến, còn nói gì nữa! Tấn Huệ công sai Hàn Giản đi dò thám xem quân nước Tần nhiều hay là ít. Hàn Giản trở về báo rằng: - Quân nước Tần dẫu ít không bằng ta, nhưng xem khí thế hăng say hơn ta nhiều lắm! Tấn Huệ công hỏi: - Tại làm sao vậy? Hàn Giản nói: - Chúa công lúc trước nhờ nước Tần giúp binh cho mà được về nối ngôi, sau nhờ nước Tần giúp thóc cho mà dân khỏi đói, mấy lần chịu ơn nước Tần mà không đền lại, bởi vậy vua tôi nước Tần đều một lòng tức giận mà đem quân đến đánh, thành ra khí thế mạnh lắm, không biết thế nào mà kể! Tấn Huệ công có ý giận mà rằng: - Đó là câu nói của Khánh Trịnh thì mới phải, sao nhà ngươi cũng nói thế? Ta đây quyết cùng với Tần đánh nhau một phen. Nói xong, liền sai Hàn Giản sang nói với Tần Mục công rằng: - Quí quốc lui quân về thì chúa công tôi cũng bằng lòng, nhược bằng không lui thì chúa công tôi dầu không muốn đánh, nhưng quân sĩ không nghe, biết làm thế nào? Tần Mục công cười mà nói rằng: - Đứa trẻ con ấy nay cũng kiêu lắm nhỉ! Nói xong, liền sai công tôn Chi ra đáp lại rằng: - Hiền hầu muốn làm vua thì tôi giúp quân, Hiền hầu muốn lấy thóc thì tôi giúp thóc, nay Hiền hầu muốn đánh nhau thì cớ đâu tôi lại dám trái ý. Hàn Giản lui về mà nói rằng: - Lý nước Tần thẳng như vậy thì ta tất phải thua chết mà thôi! Tấn Huệ công sai Quách Yển bói xem: Ai nên làm chức xa hữu. Quách Yển bói, không ai tốt cả, chỉ có Khánh Trinh tốt mà thôi. Tấn Huệ công nói: - Khánh Trịnh vào đảng với nước Tần, không nên dùng. Nói xong, liền sai Gia Bộc Đồ làm chức xa hữu, mà Khước Bộ Dương ngồi cầm cương xe. Bách Lý Hề trèo lên trên lũy, trông thấy quân nước Tần đông lắm, bảo Tần Mục công rằng: - Tấn hầu cố sức liều chết, chúa công chớ nên đánh. Tần Mục công trỏ lên trời mà nói rằng: - Nước Tấn phụ ơn ta nhiều lắm, không có trời thì thôi, nếu có trời thì ta đánh được nước Tấn. Nói xong, liền bày trận ở dưới chân núi để đợi quân nước Tấn đến. Được một lúc quân nước Tấn kéo đến. Đồ Ngạn Di cậy khỏe, tay cầm cái côn sắt nặng hơn một trăm cân, xông vào đánh nhau với Kiển Bính. Đánh được hơn 50 hiệp, hai người bỏ khí giới rồi quần thảo với nhau. Đồ Ngạn Di nói: - Ta liều chết với nhà ngươi, nếu nhà ngươi gọi người khác đến đánh hộ thì không giỏi! Kiển Bính nói: - Một mình ta quyết bắt sống nhà ngươi, mới là anh hùng. Hai người đều cấm quân sĩ không ai được đánh hộ, rồi vật nhau đi dần mãi về phía sau trận. Tấn Huệ công chia quân ra làm hai đạo để tiến vào. Tần Mục công cũng chia quân ra làm hai đạo để đối địch. Tấn Huệ công sai Khước Bộ Dương dong xe để vào giáp chiến, công tôn Chi trông thấy, hét lên một tiếng, to tiếng sấm. Con ngựa tiểu tứ của Tấn Huệ công chưa quen ra trận bao giờ, nghe tiếng công tôn Chi hét, liền kinh sợ lồng chạy, sa vào trong đám bùn lầy. Khước Hộ Dương cố sức gia roi đánh mãi, nhưng ngựa nhỏ sức yếu, không sao lên được. Đang lúc nguy cấp, gặp Khánh Trịnh đi đến. Tấn Huệ công gọi lại bảo rằng: - Khánh Trịnh! Nhà ngươi mau mau cứu ta với! Khánh Trịnh nói: - Quắc Xạ ở đâu mà gọi đến Khánh Trịnh này! Tấn Huệ công lại gọi Khánh Trịnh mà bảo rằng: - Nhà ngươi mau mau đem xe khác đến để cứu ta. Khánh Trịnh nói: - Chúa công dùng con ngựa tiểu tứ đã quen, để tôi đi gọi người khác đến cứu. Nói xong, liền quay xe đi về phía tả. Đạo quân Hàn Giản tiến lên đánh nhau với tướng nước Tần là Tây Khất Thuật. Đánh trong 30 hiệp, Tây Khất Thuật không thể đương nổi, Hàn Giản đâm cho một nhát, Tây Khuất Thuật bị thương. Lương Do Mỹ bảo Hàn Giản rằng: - Bắt một viên đại tướng ấy làm gì, chúng ta nên đuổi theo mà bắt vua Tần. Hàn Giản liền cùng với Lương Do Mỹ thúc quân đi đuổi bắt Tần Mục công. Tần Mục công than rằng: - Ngày nay ta lại bị nước Tấn bắt thì còn có trời nào nữa! Bỗng có một toán tráng sĩ hơn 300 người ở phía Tây kéo đến, vừa đi vừa reo ầm lên rằng: - Chớ làm hại ân chủ của ta! Tần Mục công ngẩng đầu lên xem thì thấy bọn tráng sĩ đều đầu bù tóc rối, chân đi giày cỏ, lưng đeo cung tên, tay cầm dao nhọn xông vào đánh quân nước Tấn. Hàn Giản và Lương Do Mỹ đang hoảng hốt nghênh chiến thì Khánh Trịnh chạy đến gọi mà bảo rằng: - Chúa công ta bị quân Tần vây sa vào trong đám bùn lầy, nhà ngươi phải mau mau đem quân đến cứu. Hàn Giản vội vàng kéo quân trở lại để đi cứu Tấn Huệ công. Không ngờ Tấn Huệ công đã bị công tôn Chi bắt được rồi; bọn Gia Bộc Đồ, Quắc Xạ và Khước Bộ Dương đều bị bắt cả. Hàn Giản dẫm chân xuống đất mà than rằng: - Khánh Trịnh làm hại ta rồi, vậy để cho ta bắt lấy vua Tần thì có phải hay không! Lương Do Mỹ nói: - Chúa công đã bị bắt thì chúng ta còn về làm gì nữa! Nói xong liền cùng với Hàn Giản bỏ binh khí chạy đến dinh quân Tần. Bọn tráng sĩ hơn 300 người cứu được Tần Mục công, lại cứu được cả Tây Khất Thuật nữa. Quân Tần thừa thế đuổi đánh. Quân Tấn chết không biết bao nhiêu mà kể. Khánh Trịnh nghe tin vua nước Tấn đã bị bắt rồi, tức khắc tìm đường bỏ trốn, gặp tướng nước Tấn là Nga Tích bị thương, nằm ở ngang đường, liền vực lên xe cùng trở về nước Tấn. Tần Mục công về đến đại dinh, bảo Bách Lý Hề rằng: - Ta không nghe lời nhà ngươi, suýt nữa thì bị người nước Tấn cười. Bọn tráng sĩ hơn 300 người vào yết kiến Tần Mục công. Tần Mục công hỏi rằng: - Các ngươi ở đâu mà lại liều chết để cứu ta như vậy? Bọn tráng sĩ nói: - Chúa công không nhớ chuyện mất ngựa năm xưa hay sao? Chúng tôi chính là bọn ăn thịt ngựa đó! Nguyên là năm xưa Tần Mục công đi săn ở núi Lương Sơn, đang đêm bỗng mất mấy con ngựa. Tần Mục công sai người đi tìm. Khi tìm đến dưới chân núi Kỳ Sơn, có một bọn hơn 300 người đang họp nhau ăn thịt ngựa, quân sĩ về báo với Tần Mục công, xin đem người đến vây thì có thể bắt cả được. Tần Mục công than rằng: - Ngựa đã chết rồi mà nay lại giết người nữa thì dân trong nước tất bảo ta là quý ngựa hơn người. Nói xong, lại truyền đem mấy chục hũ rượu ngon, sai người đưa đến núi Kỳ Sơn cho bọn ăn thịt ngựa mà bảo rằng: - Chúa công tôi thấy các ngươi ăn thịt ngựa mà không uống rượu thì hay sinh bệnh, vậy có sai tôi đem rượu ngon đến để cho các ngươi. Bọn ăn thịt ngựa chia nhau uống rượu, rồi bảo nhau rằng: - Chúng ta ăn trộm ngựa, đã không bắt tội thì chớ, chúa công lại lo chúng ta mắc bệnh mà đem cho rượu ngon, thế thì bao giờ chúng ta đền được cái ơn to này! Đến bấy giờ nghe tin Tần Mục công đi đánh Tấn, bọn tráng sĩ ấy rủ nhau đến đánh giúp. Lại vừa gặp Tần Mục công bị vây, bọn tráng sĩ mới xông vào để cứu. Tần Mục công hỏi chuyện đầu đuôi, rồi thở dài than rằng: - Bọn ăn trộm ngựa còn biết đền ơn, ai ngờ Tấn hầu mà lại tệ bạc như vậy! Nói xong, liền truyền hỏi trong bọn tráng sĩ ấy có ai muốn làm quan thì phong chức cho. Bọn tráng sĩ đồng thanh mà đáp rằng: - Chúng tôi chỉ đến để đền ơn chúa công đó thôi, chứ không muốn làm quan. Tần Mục công sai đem vàng lụa ra thưởng cho bọn tráng sĩ. Bọn tráng sĩ nhất định không nhận rồi cáo từ lui ra. Tần Mục công khen ngợi bọn tráng sĩ không biết dường nào. Khi thu quân về, điểm duyệt các tướng thì thấy thiếu một mình Kiển Bính. Tần Mục công sai quân sĩ đi tìm khắp mọi nơi, bỗng nghe thấy ở trong một cái hố đất có tiếng người thở, vội vàng đến xem thì Kiển Bính cùng với Đồ Ngạn Di hai người ôm nhau nằm ở trong hố; hai bên cùng mệt lử ra, không động đậy được nữa, nhưng tay vẫn còn nắm chặt lấy nhau, chẳng ai chịu buông. Quân sĩ xuống gỡ hai người ra, rồi vực lên xe đưa về. Tần Mục công hỏi thì Kiển Bính không thể nói được, có người biết chuyện đầu đuôi, thuật lại cho nghe. Tần Mục công khen rằng: - Hai người đều là người giỏi cả! Tần Mục công lại hỏi các quan xem có ai biết người tướng nước Tấn họ tên là gì không? Công tử Trí đến gần xem kỹ, mới nói với Tần Mục công rằng: - Đấy là Đồ Ngạn Di, một dũng sĩ ở nước Tấn. Khi trước tôi phụng mệnh sang thăm Trùng Nhĩ và Di Ngô thì hắn cũng có phụng mệnh đến đón Di Ngô, bởi vậy tôi có biết. Tần Mục công nói: - Người ấy ta có nên dùng không? Công tử Trí nói: - Giết Hề Tề, Trác Tử và Lý Khắc, đều một tay người ấy cả, bây giờ ta nên trị tội mà giết đi. Tần Mục công truyền đem Đồ Ngạn Di ra chém, rồi lại cởi áo cẩm bào trùm cho Kiển Bính, sai Bách Lý Hề xe về nước Tần để chữa thuốc, đến hơn nửa năm mới khỏi. Tần Mục công bảo Tấn Huệ công rằng: - Nhà vua không tha tôi, tôi cũng không có thể tha nhà vua được. Tấn Huệ công nín lặng mà cúi đầu xuống. Tần Mục công sai Công Tôn Chi đem quân giải Tấn Huệ công về nước Tần. Bọn Quắc Xạ, Hàn Giản, Lương Do Mỹ, Gia Bộc Đồ, Khước Bộ Dương, Quách Yển và Khướt Khất, đều đầu bù tóc rối, lũ lượt theo sau, trông rất thê thảm! Tần Mục công lại bảo các quan đại phu nước Tấn rằng: - Vua tôi nhà ngươi khi trước có bảo ta muốn lấy thóc nước Tấn thì phải đem quân đến mà lấy, nay ta bắt vua nước Tấn, chẳng qua là muốn để đòi thóc của nước Tấn đó mà thôi, không hề chi đâu, các ngươi chớ có lo ngại. Bọn Hàn Giản sụp lạy mà nói rằng: - Nhà vua thương chúa công tôi là người ngu mà có lòng khoan nhân thì hoàng thiên hậu thô, thật chứng giám cho câu nói của nhà vua đó. Tần Mục công về đến bờ cõi nước Tần, hội các quan để thương nghị. Tần Mục công hỏi: - Ta chịu mệnh trời mà dẹp loạn nước Tấn mà lập Di Ngô, nay vua nước Tấn bội ơn ta, tức là một kẻ có tội, ta định vua nước để tế trời, phỏng có nên không? Công tử Trí nói: - Chúa công nghĩ rất phải! Công tôn Chi can ngăn: - Không nên! Tấn là một nước lớn, ta bắt vua nó cũng đã quá lắm rồi, nay lại giết đi thì tất nhiên người nước Tấn thêm oán. Khi bấy giờ người nước Tấn báo thù nước Tần ta, lại tệ hơn nước Tần ta báo thù nước Tấn ngày nay! Công tử Trí nói: - Tôi thiết tưởng chẳng những giết vua nước Tấn mà thôi, lại còn lập Trùng Nhĩ lên làm vua nước Tấn, như thế thì dân nước Tấn ơn ta chẳng hết, lại còn oán về nỗi gì! Công tôn Chi nói: - Trùng Nhĩ là người nhân từ, khi trước đã không chịu vì việc cha chết mà về nối ngôi, huống chi ngày nay lại chịu nhân việc em chết mà về nối ngôi hay sao! Trùng Nhĩ không về mà lập người khác thì cũng chẳng khác gì Di Ngô; nếu Trùng Nhĩ chịu về thì tất lại nghĩ đến em mà oán nước Tần ta lắm. Như thế thì bỏ mất cái ơn của Di Ngô, mà mua thêm cái oán của Trùng Nhĩ, tôi thiết tưởng không nên. Tần Mục công nói: - Thế thì một đằng đuổi đi, một đằng giam lại và một đằng cho về; trong ba cách ấy cách nào lợi hơn? Công tôn Chi nói: - Giam lại thì có ích gì với nước Tần mà đuổi đi thì tất hại có người lập mưu đem vào nước Tấn, chi bằng ta cho vua nước Tấn lại về nối ngôi. Tần Mục công nói: - Thế ra mình đem quân sang đánh, chịu mất công không hay sao! Côn tôn Chi nói: - Tôi thiết tưởng nên bắt vua nước Tấn nộp cho ta năm thành ở đất Hà Đông, lại bắt thế tử Ngữ phải sang nước ta để làm tin rồi mới cho giảng hòa. Như thế thì vua nước Tấn không bao giờ dám quên ơn nước Tần; vả ngay sau cha chết con nối, nước Tấn đời ấy đời khác qui phục nước Tần ta thì còn gì lợi hơn nữa! Tần Mục công nói: - Nhà ngươi lại tính trước đến những mấy đời người! Nói xong, truyền đem Tấn Huệ công an trí ở Linh Đài Sơn, rồi thu quân về kinh thành. Bỗng thấy một lũ nội thị kéo đến, đều mặc đồ tang. Tần Mục công thấy lạ, liền hỏi. Lũ nội thị thuật lời nói của Mục Cơ rằng: - Trời làm tai vạ hai nước Tần và Tấn bất hòa với nhau; nay vua Tấn bị bắt thì thiếp cũng lấy làm xấu hổ lắm. Nếu đem vua Tấn về đây buổi sớm thì thiếp chết buổi sớm, đem về buổi chiều thì thiếp chết buổi chiều. Thiếp sai lũ nội thị mặc đồ tang đi đón chúa công, xin chúa công tha cho vua Tấn, tức là cho thiếp được khỏi chết! Tần Mục công giật mình kinh sợ, hỏi lũ nội thị rằng: - Hiện nay phu nhân ở trong cung, sự thể thế nào? Lũ nội thị nói: - Từ khi phu nhân tôi nghe tin vua Tấn bị bắt, liền đem thế tử mặc đồ tang, lên cái nhà tranh ở trên Sùng Đài; xung quanh dưới Sùng Đài bắt chất những củi khô nhiều lắm. Chúng tôi đưa cơm vẫn phải trèo qua đống củi mà đi. Phu nhân tôi lại có nói rằng: "Chờ khi nào đem vua Tấn về thì phu nhân tôi đốt lửa lên mà tự tử, để tỏ cái tình anh em". Tần Mục công thở dài mà than rằng: - May sao công tôn Chi lại khuyên ta đừng giết vua nước Tấn nếu không thì phu nhân chết rồi! Nói xong, liền truyền cho nội thị bỏ đồ tang phục đi, rồi về nói với Mục Cơ rằng: - Chúa công sắp tha cho vua nước Tấn đó! Lũ nội thị báo với Mục Cơ. Mục Cơ mới chịu về cung. Lũ nội thị quì xuống mà hỏi rằng: - Vua nước Tấn là người tham lợi, đã quên ơn chúa công tôi, lại không theo những lời ủy thác của phu nhân, đến nỗi ngày nay phải tù nhục, phu nhân còn thương nỗi gì! Mục Cơ nói: - Người nhân giả dẫu thù oán thế nào, cũng không bỏ được cái tình thân thuộc, nếu để cho vua Tấn chết ở nước Tần này thì cũng là lỗi của ta. Các nội thị đều ca tụng Mục Cơ là người hiền. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 31 Tấn Huệ công nổi giận giết tướng Giới Tử Thôi cắt thịt nuôi vua Bấm để xem Tấn Huệ công bị giam ở Linh Đài Sơn, vẫn tưởng rằng Mục Cơ thù oán với mình, không biết những việc Mục Cơ lập kế để xin hộ, liền bảo Hàn Giản rằng: - Ngày trước tiên quân ta nếu biết nghe lời Sử Tô mà không kết thân với Tần thì không đến nỗi có việc này! Hàn Giản nói: - Có phải là lỗi tại tiên quân kết thân với Tần đâu! Nếu Tần không nghĩ tình thân thuộc thì sao chúa công được về nối ngôi. Đã giúp cho chúa công về mà lại đem quân sang đánh, để gây sự thù oán thì nước Tần có muốn đâu thế, chúa công nên nghĩ lại. Tấn Huệ công nín lặng. Chẳng bao lâu, Tần Mục công sai công tôn Chi đến Linh Đài Sơn bảo Tấn Huệ công rằng: - Các quan nước tôi ai cũng dứt tình với nhà vua, nhưng chúa công tôi nể lời phu nhân tôi xin mà không dám dứt tình, vậy thì ngày trước nhà vua có hẹn với chúa công tôi xin nộp năm thành, nay phải nộp ngay đi, và lại phải sai thế tử Ngữ sang ở làm tin thì chúa công tôi cho nhà vua về. Bấy giờ Tấn Huệ công mới biết là Mục Cơ có lòng thương mình mà xin hộ cho, xấu hổ không biết dường nào, liền sai quan đại phu là Khước Khất về nước Tấn bảo Lã Di Xanh về việc nộp đất và đem thế tử Ngữ sang. Lã Di Xanh nước Tấn đem địa đồ và những sổ sách và dinh điền trong năm thành sang dâng nộp Tần Mục công. Tần Mục công hỏi: - Sao còn thế tử Ngữ chưa thấy đến? Lã Di Xanh nói: - Bởi nay trong nước không được yên, vậy nên thế tử tôi còn phải ở lại, chờ khi chúa công tôi về thì sẽ cho thế tử sang. Tần Mục công hỏi: - Vì cớ gì mà nước Tấn không được yên. Lã Di Xanh nói: - Trong nước tôi ngày nay thành ra hai đảng: Đảng quân tử thì tự xét lỗ mình, mà biết cám ơn quí quốc; còn đảng tiểu nhân thì không tự xét lỗi mình, mà đem lòng thù oán quí quốc, bởi thế thành ra không được yên? Tần Mục công nói: - Người nước Tấn có còn mong cho vua trở về hay không? Lã Di Xanh nói: - Đảng quân tử thì chắc là thế nào cũng được về, mà muốn đưa thế tử sang để giảng hòa với quí quốc; còn đảng tiểu nhân thì chắc là không về được, mà muốn tôn lập thế tử để chống cự nhau với quí quốc. Cứ như ý tôi nghĩ thì quí quốc bắt chúa công tôi cũng đủ lập uy, mà tha cho chúa công tôi lại càng tỏ đức. Vừa có uy, vừa có đức, cái công nghiệp của một bậc bá chủ đấy! Nếu ngày nay quí quốc không tha cho chúa công tôi thì chỉ làm cho đảng quân tử đau lòng mà đảng tiểu nhân căm dạ, phỏng có ích gì cho quí quốc, vậy tôi dám chắc rằng quí quốc không khi nào chịu bỏ cái nghiệp bá chủ ấy. Tần Mục công cười mà nói rằng: - Nhà ngươi nói cũng hợp ý với ta lắm! Nói xong, liền sai Mạnh Minh (con Bách Lý Hề) đi nhận lấy địa giới năm thành và đặt quan trấn thủ. Lại sai công tôn Chi đem quân cùng với Lã Di Xanh đưa Tấn Huệ công về nước. Các quan đại phu nước Tấn bị bắt khi trước cũng đều theo về cả, chỉ có Quắc Xạ ốm chết ở nước Tần. Nga Tích nước Tấn nghe tin Tấn Huệ công sắp về, bảo Khánh Trịnh rằng: - Ngày trước nhà ngươi gọi Hàn Giản đi cứu chúa công làm cho chúa công bị bắt, nay chúa công được về, nhà ngươi tất phải tội, âu là nhà ngươi liệu mà trốn sang nước khác. Khánh Trịnh nói: - Cứ như binh pháp: Làm tướng đem quân đi đánh giặc bị thua, cũng còn đáng tội chết, huống chi ta làm cho chúa công không về, ta cũng định đem gia quyến sang nước Tần xin chịu tội chết. Nay chúa công được về thì ta để cho chúa công trị tội ta mà làm gương cho kẻ khác, chứ việc gì phải trốn. Nga Tích nghe nói, thương mà thở dài, Tấn Huệ công về đến nước Tấn. Thế tử Ngữ đem các quan ra nghênh tiếp. Tấn Huệ công trông thấy Khánh Trịnh, có ý tức giận hỏi rằng: - Nhà ngươi còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa! Khánh Trịnh nói: - Lúc trước chúa công biết theo lời tôi mà báo ơn nước Tần thì nước Tần tất không sang đánh; lần thứ hai biết theo lời tôi mà giảng hòa với nước Tần thì nước Tần cũng không sang đánh; đến lần thứ ba biết theo lời tôi mà không dùng ngựa Tiểu Tứ thì cũng không đến nỗi thua, thế là tôi tận trung với chúa công đó, sao tôi lại không dám ra đây để nghênh tiếp chúa công. Tấn Huệ công hỏi: - Ngày nay nhà ngươi còn nói gì nữa không? Khánh Trịnh nói: - Tôi có ba tội đáng chết: Cỏ lời nói trung mà khiến vua không nghe, thế là một tội; bói được làm chức Xa Hữu mà khiến vua không dùng, thế là hai tội; đi gọi người cứu vua mà khiến vua bị bắt, vậy là ba tội. Vậy tôi xin chịu tội chết. Tấn Huệ công không biết nói thế nào, sai Lương Do Mỹ kể tội Khánh Trịnh. Lương Do Mỹ bảo Khánh Trịnh rằng: - Nhà ngươi nói bấy nhiêu lời, đều không phải tội chết, nhưng có ba tội đáng chết, nhà ngươi có biết không? Chúa công đang ở trong đám bùn lầy, gọi nhà ngươi đến cứu mà nhà ngươi không đến đó là một tội đáng chết; ta sắp bắt được vua nước Tần, nhà ngươi gọi đi cứu chúa công, làm cho ta không bắt được, đó là hai tội đáng chết; các quan đều cố sức đánh mà bị bắt cả, chỉ có nhà ngươi thoát thân trốn về, đó là ba tội đáng chết. Khánh Trịnh ngoảnh lại bảo các quân sĩ rằng: - Các quân sĩ nghe tôi nói một lời: Có ai là người không dám cố sức đánh giặc, mà dám ngồi yên để xin chịu tội chết bao giờ? Nga Tích nói với Tấn Huệ công rằng: - Khánh Trịnh biết là tội chết mà không trốn thì thật là một kẻ dũng sĩ, chúa công nên tha, rồi sai đi đánh báo thù. Lương Do Mỹ nói: - Đánh nhau đã thua rồi, bây giờ lại dùng người có tội đi đánh báo thù, thế thì chỉ làm cho thiên hạ cười nước Tấn ta là không còn ai nữa! Gia Bộc Đồ cũng can Tấn Huệ công rằng: - Khánh Trịnh ba lần dâng lời nói trung, cũng đủ chuộc tội chết, bây giờ theo phép giết đi, chi bằng nghĩ lại mà tha cho thì chúa công cũng được cái tiếng nhân từ. Lương Do Mỹ lại nói: - Nước mà cường thịnh được là bởi biết theo phép, nếu không theo phép thì ai còn sợ hãi. Tôi chắc rằng tha một Khánh Trịnh thì từ nay trở đi, không ai chịu đem quân đi đánh giặc nữa! Tấn Huệ công truyền đem Khánh Trịnh ra chém. Nguyên Lương Do Mỹ khi trước vây Tần Mục công, đã sắp bắt được, bị Khánh Trịnh gọi đi cứu Tấn Huệ công, thành ra không bắt được vua Tần, bởi vậy thâm thù Khánh Trịnh, cố nói với Tấn Huệ công để giết Khánh Trịnh. Khi Khánh Trịnh bị giết, trời đất tối tăm, các quan đại phu, có nhiều người thương mà chảy nước mắt khóc. Nga Tích xin đem thi thể Khánh Trịnh về làm ma, để đền ơn Khánh Trịnh cứu mình khi trước (khi đánh nhau với Tần, Nga Tích bị thương, Khánh Trịnh vực lên xe đem về). Tấn Huệ công đã về nước rồi, sai thế tử Ngữ theo công tôn Chi sang ở nước Tần để làm tin, và xin thi thể Đồ Ngạn Di đem về làm ma, phong cho con trai Đồ Ngạn Di làm chức trung đại phu. Một hôm, Tấn Huệ công bảo Khước Nhuế rằng: - Trong ba tháng ta còn ở nước Tần, chỉ lo Trùng Nhĩ nhân dịp biến loạn mà đem quân về cướp ngôi đến bây giờ ta mới yên tâm. Khước Nhuế nói: - Còn Trùng Nhĩ ở ngoài thì vẫn là một cái họa tâm phúc, ta nên nghĩ cách mà trừ bỏ đi, để khỏi di hại về sau. Tấn Huệ công hỏi các quan rằng: - Có ai vì ai mà giết được Trùng Nhĩ thì ta sẽ trọng thưởng. Khước Nhuế nói: - Bột Đề năm trước đi đánh đất Bồ, đã chém đứt vạt áo Trùng Nhĩ; hắn vẫn sợ Trùng Nhĩ được về nối ngôi thì tất trị tội hắn. Nếu chúa công muốn giết Trùng Nhĩ thì tất phải dùng hắn mới được việc. Tấn Huệ công gọi Bột Đề vào, mật bảo lấy việc giết Trùng Nhĩ, Bột Đề nói: - Trùng Nhĩ ở nước Địch đã 20 năm nay, người nước Địch đánh nước Cao Như, bắt được hai người con gái: Thúc Ngỗi và Quí Ngỗi, đều có nhan sắc đẹp. Người nước Địch đem Quí Ngỗi gả cho Trùng Nhĩ, mà đem Thúc Ngỗi gả cho Triệu Thôi. Hai người đã có con cả, đều vui về vợ con, mà xử với nhau rất thân thiết. Nay tôi đem quân sang thì người nước Địch giúp Trùng Nhĩ mà sinh sự đánh nhau, chưa chắc đã bắt được; chi bằng tôi thuê mấy người lực sĩ, lẻn sang nước Địch, rình lúc Trùng Nhĩ ra chơi mà giết đi là tiện hơn. Tấn Huệ công khen phải, rồi cho Bột Đề 100 nén vàng để đi tìm kẻ lực sĩ, hẹn trong ba ngày phải khởi hành sang nước Địch. Hồ Đột là một vị lão quốc cữu ở nước Tấn bấy giờ, thấy Bột Đề tìm kẻ lực sĩ gấp lắm, dẫu tổn phí bao nhiêu tiền bạc, cũng không quản ngại, mới có lòng nghi, đi hỏi dò những kẻ nội thị. Trong đám nội thị có người biết chuyện, thuật lại cho Hồ Đột nghe. Hồ Đột giật mình kinh sợ, tức khắc viết một bức thư sai người sang nước Địch báo cho Trùng Nhĩ biết! Trùng Nhĩ đang cùng với Hồ Mao, Hồ Yển (hai con của Hồ Đột) theo vua nước Địch đi săn ở bến sông Vị. Bỗng có người xin vào yết kiến, nói có thư của lão quốc cữu (Hồ Đột) đưa sang. Hồ Mao và Hồ Yển nói: - Thân phụ ta vốn không hay viết thư gởi sang, tất là trong nước có việc gì đây! Nói xong liền cho vào yết kiến. Người nhà đệ trình bức thư của Hồ Đột. Hồ Mao và Hồ Yển mở thư ra xem. Trong thư nói: "Chúa công lập mưu định giết Công tử (Trùng Nhĩ), hiện nay sai Bột Đề, hạn trong ba ngày thì phải khởi hành. Anh em mày nên bẩm với Công tử, liệu mau mau trốn sang nước khác, chớ có chậm trễ mà mắc tai vạ!" Hồ Mao và Hồ Yển kinh sợ, vội vàng đem bức thư đệ trình Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ nói: Vợ con ta đều ở đây cả thì đây tức là nhà ta, bây giờ ta biết trốn đi đâu được! Hồ Yển nói: - Chúng ta tới đây, không phải là định lập nhà, là có chí muốn để lập nước, chỉ vì sức chưa đi xa được, vậy nên tạm dừng chân ở đây mà thôi. Nay ở đây đã lâu, cũng nên tìm sang nước lớn khác. Việc Bột Đề đến đây, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến, để giục cho Công tử phải lập chí. Trùng Nhĩ nói: - Nay định đi thì nên sang nước nào? Hồ Yển nói: - Nay Tề hầu dẫu già, nhưng công nghiệp bá chủ hãy còn, ta nên sang nước Tề. Trùng Nhĩ khen phải, mới không đi săn nữa, rồi về nói chuyện với vợ là Quí Ngỗi rằng: - Vua nước Tấn sai người đến đây để rình giết ta, vậy ta phải tránh nạn mà sang nước khác, rồi kết liên với Tần và Sở để về phục quốc. Nàng ở nhà trông nom hai con cho ta, đợi ta trong 25 năm, nếu không thấy ta về thì nàng sẽ đi lấy chồng. Quí Ngỗi khóc mà nói rằng: - Làm tài trai chí ở bốn phương, thiếp không dám ngăn trở, nhưng nay thiếp đã 25 tuổi, lại chờ 25 năm thì thiếp già đời mất, còn lấy ai nữa. Thôi thì thế nào thiếp cũng cố chí mà đợi Công tử, Công tử chớ lo ngại. Triệu Thôi cũng từ giã với vợ là Thúc Ngỗi. Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ sai Hồ Thúc sắp sửa xe ngựa và Đầu Tu thu xếp tiền bạc để chực khởi hành. Bỗng thấy Hồ Mao và Hồ Yển hoảng chạy đến, nói là Hồ Đột ở nhà thấy Bột Đề đã khởi hành rồi, vậy nên không kịp viết thư, lại sai người sang giục Công tử phải đi ngay. Trùng Nhĩ nghe tin, kinh sợ mà rằng: - Sao Bột Đề đến chóng như vậy! Nói xong, không kịp chỉnh đốn đồ hành trang, tức khắc cùng với Hồ Mao và Hồ Yển dời bước đi ngay. Hồ Thúc thấy Trùng Nhĩ đã đi rồi, vội vàng sắp được một cái xe bò để đem theo cho Trùng Nhĩ ngồi, còn bọn Triệu Thôi thì lục đục đi đất theo sau. Trùng Nhĩ hỏi đến Đầu Tu sao không thấy đến, thì ra Đầu Tu đã cuốn hết vàng bạc bỏ trốn mất rồi! Trùng Nhĩ đã không có chỗ nương tựa, lại hết cả lương thực, tình trạng lúc ấy, trông rất thảm thương. Khi Trùng Nhĩ đi đã nửa ngày rồi, vua nước Địch mới biết, muốn đưa tặng những đồ tư trang, nhưng không thể nào kịp được. Vua nước Địch biết chuyện Tấn Huệ công sai Bột Đề sang chực giết Trùng Nhĩ, mới truyền cho các nơi quan ải, phàm người qua lại, phải khám xét thật kỹ. Bột Đề ở nước Tấn, nguyên là một kẻ hoạn quan, nay thay hình cải dạng để sang giết Công tử Trùng Nhĩ, bởi vậy mỗi khi bị quân nước Địch khám xét, không biết đàng nào mà ứng đối, thành ra không sang qua được nước Địch, lại phải uất ức mà trở về. Tấn Huệ công cũng không biết nghĩ cách gì cho được. Công tử Trùng Nhĩ định sang nước Tề, đường đi qua nước Vệ. Quan giữ cửa ải nước Vệ hỏi lai lịch từ đâu mà đến. Triệu Thôi nói: - Thầy ta là Công tử Trùng Nhĩ ở nước Tấn đi tránh nạn, được sang nước Tề, phải mượn đường của quí quốc. Quan giữ cửa ải vội vàng phi báo cho Vệ Văn công biết. Quan thượng khanh nước Vệ là Ninh Tốc nói với Vệ Văn công xin mời vào thành, Vệ Văn công nói: - Khi trước ta đắp thành ở đất Sở Khâu này, không nhờ gì đến người nước Tấn. Vả Trùng Nhĩ là một người đi trốn, có quan trọng gì, nếu mình đón vào thì lại phải thết đãi, tốn phí nhiều lắm, chi bằng ta không tiếp là hơn. Nói xong, liền truyền quân sĩ cấm Công tử Trùng Nhĩ vào thành. Trùng Nhĩ phải vòng quanh phía ngoài thành mà đi. Ngụy Thù và Điên Hiệt nói với Trùng Nhĩ rằng: - Vệ hầu vô lễ như vậy, Công tử nên sai người trách. Triệu Thôi nói: - Con rồng vàng mà thất thế thì cũng chẳng khác gì con giun, Công tử chớ nên trách người ta làm gì! Ngụy Thù và Điên Hiệt nói: - Hắn đã tệ bạc thì ta cướp dân thôn để lấy lương ăn, chắc hắn cũng không trách ta được nữa! Trùng Nhĩ nói: - Nếu cướp phá như vậy thì là quân đạo tặc, chẳng thà ta chịu nhịn đói còn hơn! Ngày hôm ấy, mấy thầy trò đi với nhau, chưa ai ăn cơm sáng cả, vừa nhịn đói, vừa đi. Buổi trưa, đi đến một chỗ gọi là đất Ngư Lộc, trông thấy bọn thợ cày ngồi ăn cơm ở trên bờ ruộng. Trùng Nhĩ sai Hồ Yển đến xin cơm. Bọn thợ cày hỏi: - Các người từ đâu đến đây? Hồ Yển nói: - Ta là người nước Tấn, thầy ta ngồi ở trên xe kia. Đi đường hết cả lương ăn, xin các người làm ơn cho một bữa. Bọn thợ cày cười mà nói rằng: - Người khỏe mạnh thế kia, không làm gì được mà ăn, lại đến xin cơm chúng ta. Chúng ta đi cày ruộng, có ăn no mới làm nổi việc, còn cơm đâu mà cho các ngươi. Hồ Yển nói: - Các ngươi không cho cơm thì cho ta xin một cái bát. Bọn thợ cày mới chơi nghịch, cầm một nắm đất đưa cho mà bảo rằng: - Nắm đất này đem nặn làm bát được! Ngụy Thù tức giận, mắng người thợ cày, rồi giằng lấy cái bát, đập vỡ tan ra. Trùng Nhĩ cũng tức giận, toan giơ roi đánh. Hồ Yển vội vàng ngăn lại mà nói rằng: - Được cơm thì dễ, chớ được đất thì khó! Được đất tức là cái triệu được nước. Đó chẳng qua cũng là trời mượn tay người thợ cày để cho Công tử đấy, sao Công tử lại giận? Công tử nên lạy tạ mà nhận lấy. Trùng Nhĩ theo lời xuống xe lạy tạ. Bọn thợ cày chẳng hiểu ý tứ ra sao, đều xúm nhau lại, cười mà bảo rằng: - Anh này thật là người điên rồ! Lại đi hơn mười dặm, thầy trò đều đói lả, không thể đi được nữa, ngồi nghỉ ở dưới gốc cây. Trùng Nhĩ đói quá, gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm, Hồ Mao nói: - Triệu Thôi đi sau, hãy còn hồ cháo, ta nên đợi hắn đến. Ngụy Thù nói: - Có còn hồ cháo nữa thì một mình Triệu Thôi ăn chẳng đủ no, lấy đâu mà thừa. Các người bảo nhau đi lấy rau sam về luộc lên mà ăn, Trùng Nhĩ không thể nào nuốt được. Bỗng thấy Giới Tử Thôi đem một bát cháo thịt đến dâng. Trùng Nhĩ ăn lấy làm ngon lắm. Ăn xong, hỏi Giới Tử Thôi rằng: - Nhà ngươi lấy đâu được thế? Giới Tử Thôi nói: - Ấy là thịt đùi của tôi đó! Tôi nghe nói người hiếu tử bỏ thân để thờ cha mẹ, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử không có gì ăn, vậy nên tôi phải cắt đùi tôi mà dâng Công tử. Trùng Nhĩ ứa nước mắt xuống mà rằng: - Ơn này biết bao giờ đền lại được! - Tôi chỉ mong cho Công tử về được nước Tấn, ấy là trọn cái đạo thần tử của tôi, khi nào tôi dám mong đền ơn. Được một lúc, Triệu Thôi đi đến, các người xúm lại hỏi: - Vì cớ gì mà đi chậm như vậy? Triệu Thôi nói: - Tôi bị gai đâm vào chân, không thể đi nhanh được. Nói xong, liền mở tráp ra, đem cái hồ Cháo đưa dâng Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ nói: - Nhà ngươi có biết đói hay không mà sao lại không ăn? Triệu Thôi nói: - Tôi dẫu đói, nhưng khi nào dám quên Công tử mà ăn lấy một mình. Hồ Mao ngoảnh lại, nói bỡn Ngụy Thù rằng: - Hồ cháo này giả sử vào tay anh thì đã tiêu hóa hết rồi! Ngụy Thù có ý hổ thẹn. Trùng Nhĩ cầm hồ cháo ấy đưa cho Triệu Thôi. Triệu Thôi đem hòa thêm nước lã vào rồi đun sôi lên, để chia cho khắp cả mọi người. Khi đi đến nước Tề. Tề Hoàn công vốn biết tiếng Trùng Nhĩ là người hiền, sai người ra mời vào công quán, bầy tiệc để thết đãi. Trong khi ăn tiệc, Tề Hoàn công hỏi Trùng Nhĩ rằng: - Công tử có đem nội quyến đi đó không? Trùng Nhĩ nói: - Cái thân trốn tránh này một mình còn chẳng kham nổi, khi nào lại dám đem cả nội quyến đi. Tề Hoàn công cười bảo rằng: - Tôi quen tính: Hễ đêm ngủ một mình thì lấy làm khó chịu, coi dài như một năm. Nay Công tử đi thế này mà không có người nâng khăn sửa túi, tôi lấy làm buồn cho Công tử lắm! Nói xong, liền chọn một người con gái đẹp ở trong họ gả cho Trùng Nhĩ, lại tặng cho 20 cỗ ngựa. Từ bấy giờ các người theo hầu Trùng Nhĩ đều có xe ngựa đi cả. Tề Hoàn công lại sai người đưa cấp các đồ lương thực. Trùng Nhĩ bằng lòng mà than rằng: - Trước ta vẫn nghe nói Tề hầu là người biết trọng đãi kẻ hiền sĩ, nay quả nhiên như vậy! Người ta làm nên được một bậc bá chủ cũng là phải lắm! Tề Hoàn công từ khi giao quyền chính cho Bão Thúc Nha, theo lời Quản Di Ngô đuổi bỏ Thụ Điêu, Dịch Nha và Khai Phương. Khi đã đuổi bỏ ba người ấy rồi thì ăn không được ngon, ngủ không được yên, trông mặt lúc nào cũng buồn bã, không thấy tươi cười. Trưởng Vệ Cơ nói với Tề Hoàn công rằng: - Chúa công đuổi Thụ Điêu, Dịch Nha và Khai Phương đi mà chính trị trong nước chẳng thấy hơn được cái gì! Thiếp thấy dung nhan chúa công mỗi ngày một giảm, chắc rằng những người hầu hạ xung quanh có nhiều điều không vừa ý, sao chúa công chẳng cho triệu mấy người cũ về. Tề Hoàn công nói: - Ta cũng nhớ mấy người ấy lắm, nhưng đã đuổi đi rồi lại triệu về thì sợ mất lòng Bão Thúc Nha chăng? Trưởng Vệ Cơ nói: - Dẫu Bão Thúc Nha cũng cần phải có người hầu hạ; nay chúa công già rồi, tội gì mà khổ thân! Chúa công cứ mượn cớ không có người nấu ăn mà triệu Dịch Nha về thì tự khắc Thụ Điêu và Khai Phương không phải triệu cũng về cả. Tề Hoàn công theo lời, sai người triệu Dịch Nha về để nấu ăn. Bão Thúc Nha can rằng: - Chúa công quên mất lời nói của trọng phụ rồi hay sao, sao lại triệu về? Tề Hoàn công nói: - Ba người ấy có ích cho ta mà không hại gì đến nước; lời nói của trọng phụ ngày xưa cũng khắc nghiệt quá! Nói xong, liền không nghe lời Bão Thúc Nha, lại triệu cả Thụ Điêu và Khai Phương nữa. Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương đều được phục chức như cũ, lại ngày đêm hầu hạ Tề Hoàn công. Bão Thúc Nha tức giận, thành ra ốm nặng, uất ức mà chết. Từ bấy giờ nước Tề lại sinh ra biến loạn. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 32 Án Nga Nhi thủ tiết chết theo Tề Công tử tranh ngôi nổi loạn Bấm để xem Tề Hoàn công không theo lời nói của Quản Di Ngô, lại dùng Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương. Bão Thúc Nha can bảo không được uất lên mà chết. Từ bấy giờ, ba người ấy lại càng không sợ hãi gì nữa, khinh Tề Hoàn công già cả không làm gì được, mới thông đồng nhau mà chuyên quyền. Bấy giờ có một người nước Trịnh tên là Tần Hoãn, tên tự là Việt Nhân, làm thuốc giỏi lắm: Sang ở đất Lư Thôn nước Tề, bởi vậy mới gọi là Lư y. Lúc Tần Hoãn còn nhỏ, mở một nếp quán xá, có Trường Tang Quân đến trọ, Tần Hoãn biết là người khác thường, không lấy tiền trọ. Trường Tang Quân cảm ơn, cho uống một viên thần dược, tự nhiên mắt sáng như gương, trông thấy cả ma quỉ; dẫu đứng cách bên kia tường mà cũng trông thấy được, bởi vậy đi làm thuốc, trông rõ hết cả lục phủ ngũ tạng trong mình người, thành ra nổi tiếng là một người tài xem mạch, người ta ví với Biển Thước ngày xưa, cũng gọi là Biển Thước tiên sinh. Biển Thước (tức là Tần Hoãn) sang chơi nước Quắc gặp thế tử nước Quắc ngộ cảm chết. Biển Thước nói chuyện với người nội thị rằng: - Tôi có thể chữa được bệnh cho thế tử. Người nội thị nói: - Thế tử đã chết rồi, còn sống lại thế nào được nữa! Biển Thước nói: - Hãy thử cho tôi chữa xem. Người nội thị vào báo với vua nước Quắc. Vua nước Quắc cho triệu Biển Thước vào. Biển Thước sai người học trò là Dương Lệ đem cái kim đá chích cho thế tử. Được một lúc, thế tử sống lại. Biển Thước lại cho uống thuốc chén, hơn hai tuần nữa thì khỏi hẳn. Từ bấy giờ Biển Thước nổi tiếng là một người cải tử hoàn sinh cho người ta được. Biển Thước đi chơi khắp thiên hạ, cứu được nhiều người lắm. Một hôm đi đến đất Lâm Tri vào yết kiến Tề Hoàn công, nói với Tề Hoàn công rằng: - Chúa công có bệnh ở thịt, nếu không chữa thì thành ra bệnh nặng. Tề Hoàn công nói: - Tôi chẳng có bệnh gì cả! Biển Thước lui ra. Sau 5 ngày lại vào yết kiến; nói với Tề Hoàn công rằng: - Bệnh chúa công đã ở huyết mạch, thế nào cũng phải chữa. Tề Hoàn công không trả lời. Sau 5 ngày nữa lại vào yết kiến, nói với Tề Hoàn công rằng: - Bệnh chúa công đã ở trong ruột và dạ dày rồi, nên phải chữa ngay đi. Tề Hoàn công lại không trả lời. Biển Thước lui ra. Tề Hoàn công than rằng: - Tệ quá! Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò! Người ta không có bệnh mà bảo là có bệnh. Qua 5 ngày nữa. Biển Thước lại vào yết kiến, trông thấy nét mặt Tề Hoàn công, vội vàng lui ra mà bỏ chạy. Tề Hoàn công sai người hỏi. Biển Thước nói: - Bây giờ bệnh chúa công vào đến xương tủy rồi! Bệnh ở da, thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn tiêm thuốc được, bệnh ở ruột và dạ dày thì còn uống thuốc được, nay bệnh đã vào đến xương tủy thì dẫu trời cũng không chữa được nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra. Lại qua 5 ngày nữa, Tề Hoàn công quả nhiên ốm nặng, sai người đến triệu Biển Thước. Người nhà Biển Thước nói: - Thấy tôi bỏ đi đã 5 hôm nay rồi! Tề Hoàn công hối hận vô cùng. Tề Hoàn công nguyên trước có 3 vị phu nhân là: Vương Cơ, Từ Cơ và Sái Cơ. Ba người đều không có con trai. Vương và Từ Cơ đều ốm chết cả, còn Sái Cơ cho về nước Sái. Sau lại lấy thêm 6 vị phu nhân nữa, đều có con trai cả: 1. - Trưởng Vệ Cơ, sinh Công tử Vô Khuy; 2. - Thiếu Vệ Cơ, sinh Công tử Nguyên (tức là Tề Huệ công) ; 3. - Trịnh Cơ, sinh Công tử Chiêu (tức là Tề Hiếu công) ; 4. - Cát Doanh, sinh Công tử Phan (tức là Tề Chiêu công) ; 5. - Mật Cơ, sinh Công tử Thương Nhân (tức là Tề Ý công) ; 6. - Tống Hoa Tử, sinh Công tử Ung. Còn những tỳ thiếp có con cũng nhiều, nhưng không được kể vào trong số 6 vị phu nhân ấy. Trong 6 vị phu nhân ấy, chỉ có Trưởng Vệ Cơ là hầu hạ Tề Hoàn công đã lâu; trong 6 vị công tử cũng chỉ có Vô Khuy là nhiều tuổi hơn cả. Trưởng Vệ Cơ thông nhau với Dịch Nha và Thụ Điêu, nói với Tề Hoàn công xin lập Công tử Vô Khuy làm thế tử. Sau Tề Hoàn công lại yêu Công tử Chiêu là người hiền, bàn với Quản Di Ngô, rồi đem Công tử Chiêu ủy thác cho Tống Tương công. Khai Phương quen nhau với Công tử Phan, cũng vì Công tử Phan mà mưu việc nối ngôi. Công tử Thương Nhân tính hay bố thí, nhiều người có lòng mến, lại nhân người mẹ được Tề Hoàn công yêu, cũng có ý muốn dòm dỏ sự nối ngôi. Trong đám 6 vị công tử ấy, chỉ có Công tử Ung là biết yên phận, còn 5 vị công tử kia đều lập bè đảng riêng, cùng nghi kỵ nhau. Tề Hoàn công dẫu là một ông vua anh hùng, nhưng vốn say mê tửu sắc, nay đã già rồi chí khí cũng sinh ra mê quẫn, lại tin dùng những lũ tiểu nhân, bởi vậy 5 vị công tử đều nói với mẹ xin Tề Hoàn công lập mình làm thế tử. Tề Hoàn công cứ hàm hồ không quyết định, đến bây giờ có bệnh ốm, phải nằm một chỗ; Dịch Nha thấy Biển Thước không chữa, biết là bệnh nguy, mới cùng Thụ Điêu thương nghị, rồi giả cách phụng mệnh Tề Hoàn công, yết thị ra ngoài cửa cung rằng: "Ta đang có bệnh ốm, không muốn nghe tiếng người nói, phàm các quan và họ tôn thất, cấm không cho ai được vào cung cả, truyền cho Thụ Điêu phải nghiêm giữ cửa cung, còn Dịch Nha thì đem quân đi tuần phòng xung quanh. Bao nhiêu chính sự trong nước, đợi khi ta khỏi rồi sẽ vào tâu". Thụ Điêu và Dịch Nha chỉ cho Công tử Vô Khuy cùng với Trưởng Vệ Cơ được ra vào trong cung, còn các vị công tử khác, dẫu muốn hỏi thăm cũng không được vào. Qua 3 ngày nữa, Tề Hoàn công cũng chưa chết, Thụ Điêu và Dịch Nha lại đuổi hết các thị vệ xung quanh, bất cứ trai gái, bắt ra tất cả, rồi đem khóa chặt cửa cung lại. Lại đắp một bức tường cao 3 trượng ở xung quanh chỗ ngủ của Tề Hoàn công, làm cho trong ngoài ngăn cách, không giao thông với nhau được; chỉ để một cái cửa nhỏ ở dưới chân tường, sớm tối sai một kẻ tiểu nội thị chui vào để dò xem Tề Hoàn công đã chết hay chưa. Tề Hoàn công nằm ở giường, không cựa quậy được nữa, gọi người hầu xung quanh, cũng chẳng thấy ai thưa, bỗng nghe đánh xịch một tiếng, có người đẩy cửa sổ bước vào. Tề Hoàn công trừng mắt lên nhìn xem ai thì thấy một người tiện thiếp là Án Nga Nhi. Tề Hoàn công nói: - Trong bụng ta thấy đói, chỉ muốn ăn cháo, nhà ngươi đi lấy cháo cho ta. Án Nga Nhi nói: - Bây giờ lấy đâu cho được cháo! Tề Hoàn công nói: - Được chén nước nóng thì cũng đỡ khát. Án Nga Nhi nói: - Nước nóng cũng không lấy đâu được! Tề Hoàn công hỏi: - Tại làm sao thế? Án Nga Nhi nói: - Dịch Nha và Thụ Điêu làm loạn, nghiêm giữ cửa cung, đã đắp một bức tường cao 3 trượng, làm cho trong ngoài ngăn cách, không giao thông với nhau được, còn ai đem được thức ăn, thức uống vào đây! Tề Hoàn công nói: - Nhà ngươi làm thế nào vào được? Án Nga Nhi nói: - Thiếp chịu ơn chúa công thương đến, vậy nên liều thân trèo qua tường vào đây, là để muốn được trông thấy lúc chúa công nhắm mắt mà thôi. Tề Hoàn công nói: - Thế tử Chiêu ở đâu? Án Nga Nhi nói: - Bị hai gã ấy ngăn cấm, không cho vào cung. Tề Hoàn công than rằng: - Trọng phụ (Quản Di Ngô) ngày xưa thật là bậc thánh! Vì ta không minh, để đến nỗi nên cơ hội này! Nói xong, liền cố sức kêu lên một tiếng thật to rằng: - Trời ôi! Ai ngờ ta đến nỗi này! Kêu luôn mấy tiếng, hộc máu ra đằng miệng, rồi lại bảo Án Nga Nhi rằng: - Ta có 6 người vợ yêu và 10 người con, mà không một người nào ở trước mặt cả, thành ra lúc ta chết, chỉ có một mình nhà ngươi; tiếc rằng ngày xưa ta không biết trước mà trọng đãi! Án Nga Nhi nói: - Chúa công cứ yên lòng, một may có điều gì, thiếp xin tình nguyện chết theo. Tề Hoàn công than rằng: - Ta chết xuống âm phủ, còn mặt mũi nào mà trông thấy trọng phụ nữa! Nói xong, lấy vạt áo phủ vào mặt, rồi thở dài mấy tiếng mà chết. Án Nga Nhi thấy Tề Hoàn công đã chết, liền lăn ra khóc một hồi. Muốn gọi người ngoài, nhưng tường cao, gọi không nghe tiếng được; muốn trèo tường ra, nhưng phía trong tường không có chỗ nào mà bám chân, nghĩ quanh nghĩ quẩn, lại thở dài mà than rằng: - Ta đã nói xin chết theo chúa công, còn những việc khâm liệm không dự gì đến ta. Nói xong, liền cổi áo trùm lên thi thể Tề Hoàn công, lấy hai cánh cửa sổ che kín lại, rồi ngồi dưới chân giường, lạy mấy lạy mà khấn rằng: - Xin linh hồn chúa công chớ đi xa vội, để đợi cho thiếp theo. Khấn xong, Án Nga Nhi đập đầu vào cột, vỡ óc ra mà chết. Đêm hôm ấy, đứa tiểu nội thị chui vào, trông thấy ở dưới chân cột, máu chảy lênh láng, có một cái thây người chết, giật mình kinh sợ, vội vàng bỏ ra, báo với Thụ Điêu và Dịch Nha rằng: - Chúa công đã đập đầu vào cột mà tự tử rồi! Thụ Điêu và Dịch Nha không tin, sai một lũ nội thị đục rộng tường ra, rồi hai người thân hành vào xem, thấy một cái thi thể đàn bà, có ý sợ hãi lắm. Trong đám nội thị có người nhận được mặt, nói với Thụ Điêu và Dịch Nha rằng: - Đây là thi thể của Án Nga Nhi. Lại mở hai cánh cửa ở trên đầu giường, thấy thi thể Tề Hoàn công, không biết chết từ bao giờ! Thụ Điêu bàn đến việc phát tang. Dịch Nha nói: - Thong thả! Ta hãy nên tôn lập Công tử Vô Khuy đã, rồi sau sẽ phát tang thì mới khỏi tranh nhau được. Thụ Điêu lấy làm phải. Hai người đến thương nghi với Trưởng Vệ Cơ rằng: - Chúa công nay đã mất rồi, cứ theo thứ tự lớn nhỏ thì nên lập Công tử Vô Khuy, nhưng khi chúa công hãy còn, đã có đem Công tử Chiêu ủy thác cho Tống Tương công để lập làm thế tử, các quan ai cũng biết cả, nếu nay nghe tin chúa công mất thì tất nhiên họ về đảng với thế tử Chiêu. Cứ như ý chúng tôi thi đêm hôm nay nên đem quân giết thế tử Chiêu đi mà lập Công tử Vô Khuy. Trưởng Vệ Cơ nói: - Ta là đàn bà, còn có biết gì, tùy ý các ngươi đấy! Bấy giờ Thụ Điêu và Dịch Nha đem quân đến Đông cung để định bắt thế tử Chiêu. Thế tử Chiêu từ khi không được vào cung thăm, có ý buồn bã, tối hôm ấy đang ngồi ở dưới bóng đèn, mơ mơ màng màng, trông thấy một người đàn bà đến bảo rằng: - Thế tử không đi ngay thì tai vạ sắp đến nơi! Thiếp là Án Nga Nhi, phụng mệnh chúa công đến đây để báo cho thế tử biết. Công tử Chiêu vừa toan hỏi chuyện đầu đuôi thì người đàn bà ấy lấy tay đẩy cho Công tử Chiêu một cái, ngã lăn xuống vực sâu. Công tử Chiêu giật mình tỉnh dậy, chẳng thấy người đàn bà đâu cả, thành ra một giấc chiêm bao. Công tử Chiêu thấy lạ, vội vàng sai người thắp đèn mở cửa sau đi sang nhà quan thượng khanh là Cao Hổ, thuật lại chuyện đầu đuôi trong giấc chiêm bao. Cao Hổ nói: - Chúa công mắc bệnh đã hơn nửa tháng nay, bị đứa gian thần làm cho trong ngoài ngăn cách, nay thế tử chiêm bao thấy như vậy, tất là sự chẳng lành, nên tạm tìm nơi để tránh nạn. Công tử Chiêu nói: - Bây giờ biết tránh đi đâu cho được! Cao Hổ nói: - Ngày xưa chúa công đã đem thế tử ủy thác cho vua nước Tống, nay thế tử nên sang nước Tống, thế nào vua Tống cũng có lòng giúp. Hổ này là một kẻ bề tôi để giữ nước, không dám đi theo thế tử, nhưng có một tên người nhà là Thôi Yển hiện đang làm chức giữ chìa khóa ở Đông môn, để tôi sai người bảo hắn mở cửa thành cho thế tử đêm hôm nay trốn ra. Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe báo có quân đến vây nhà thế tử Chiêu. Thế tử Chiêu sợ xám cả mặt. Cao Hổ bảo thế tử Chiêu thay hình đổi dạng, rồi sai mấy người tâm phúc đưa ra Đông môn, dặn Thôi Yển mở cửa thành cho thế tử Chiêu ra. Thôi Yển nói: - Nay chúa công chưa biết còn hay là mất, tôi mở cửa thành cho thế tử trốn, tất là có tội; mà thế tử đang thiếu người theo hầu, nếu có lòng yêu mà cho tôi cùng theo sang nước Tống thì tôi xin đi. Thế tử Chiêu mừng lắm, nói: - Nhà ngươi cùng đi thì còn gì hơn nữa! Nói xong, Thôi Yển liền mở cửa thành, rồi đem xe ngựa cùng ngồi với thế tử Chiêu, thẳng đường trốn sang nước Tống. Thụ Điêu và Dịch Nha đem quân vây nhà thế tử Chiêu, chẳng tìm thấy tông tích đâu cả. Bấy giờ đã sang trống canh tư, Dịch Nha nói: - Chúng ta vây bắt thế tử Chiêu là muốn nhân lúc bất ngờ để làm cho được việc, nếu chậm đến sáng ngày mai mà các vị công tử khác biết tin, vào chiếm giữ lấy ngôi vua thì hỏng mất cả; chi bằng ta hãy trở về, tôn lập Công tử Vô Khuy đã, rồi dò xem ý các quan ra làm sao, ta sẽ liệu xử. Thụ Điêu nói: - Tôi cũng nghĩ như vậy! Nói xong, hai người cùng thu quân trở về. Các quan đại phu nghe tin Thụ Điêu và Dịch Nha đem quân đi, mới kéo nhau đến cửa cung để dò tin tức thì đã nghe nói Tề Hoàn công mất rồi; lại nghe tin thế tử Chiêu bị vây, biết rằng lũ gian thần thừa cơ nổi loạn, mới bàn nhau rằng: - Thế tử Chiêu là tự ý chúa công ta khi xưa lập nên, nếu thế tử có sự gì thì ta còn mặt mũi nào mà làm quan ở nước Tề này nữa! Khắp cả các quan đều nhao nhao bàn nhau để đi cứu thế tử Chiêu. Bỗng gặp Thụ Điêu và Dịch Nha kéo quân về, các quan đều xúm lại trước mặt hỏi: - Thế tử đâu? Dịch Nha chắp tay vái chào đáp lại rằng: - Thế tử Vô Khuy nay đang ở trong cung. Các quan đều nói: - Vô Khuy chưa lập làm thế tử bao giờ, không phải là vua chúng ta; nên lập thế tử Chiêu mới được. Thụ Điêu chống thanh kiếm xuống đất quát to lên rằng: - Thế tử Chiêu đã đuổi đi rồi! Nay phụng di mệnh của tiên quân lập Vô Khuy lên nối ngôi, nếu ai không bằng lòng theo thì chém cổ đi. Các quan đều hầm hầm nổi giận, sỉ mắng ầm lên rằng: - Lũ chúng bay là bọn gian thần, dối người chết lừa người sống, dám thừa cơ nổi loạn; nếu lập Công tử Vô Khuy thì chúng ta quyết không chịu theo. Quan đại phu là Quản Bỉnh (con Quản Di Ngô) bước ra nói rằng: - Nay ta đánh chết hai đứa gian thần này đi để trừ gốc loạn, rồi sau sẽ thương nghị. Nói xong, giơ cái hốt ngà, đánh ngay vào đầu Thụ Điêu. Thụ Điêu cất thanh kiếm lên đỡ. Các quan đang sắp sửa xông vào giúp Quản Bình, bỗng thấy Dịch Nha quát to lên rằng: - Quân giáp sĩ đâu, sao không kéo vào! Mấy trăm giáp sĩ tức khắc xông đến, đâm chém bừa đi. Các quan bấy giờ, trong 10 phần chết mất 3 phần, còn bị thương nhiều lắm, đều bỏ chạy cả. Dịch Nha và Thụ Điêu đánh tan các quan rồi thì trời vừa sáng rõ, liền vào trong cung đem Công tử Vô Khuy ra triều, sai nội thị rung chuông nổi trống, rồi bắt quân giáp sĩ bày hàng phục lạy để tôn Vô Khuy lên nối ngôi. Các quan chỉ có Dịch Nha và Thụ Điêu mà thôi. Vô Khuy vừa thẹn, vừa giận. Dịch Nha nói: - Nay ta chưa phát tang, vậy nên các quan triều thần chưa được tống cựu thì đã biết nghênh tân là cái gì! Việc này nên phải triệu họ Cao và họ Quốc đến, mới sai bảo các quan được. Vô Khuy theo lời, mới sai nội thị đi triệu họ Cao và họ Quốc. Nguyên Quốc Ý Trọng và Cao Hổ là hai nhà quí tộc ở nước Tề bấy giờ, nối đời làm chức thượng khanh, trong hàng các quan, ai cũng kính phục, bởi vậy Vô Khuy mới sai người triệu đến. Quốc Ý Trọng và Cao Hổ thấy nội thị đến triệu, biết là Tề Hoàn công đã mất rồi tức khắc mặc đồ tang phục đi vào trong triều. Dịch Nha và Thụ Điêu đón ở ngoài cửa mà bảo rằng: - Ngày nay vua mới lên ngôi, xin quan lão đại phu hãy tạm thay đồ cát phục đã. Quốc Ý Trọng và Cao Hổ nói: - Chưa tống táng vua cũ, mà đã lạy vua mới trước thì sao cho phải lễ. Trong các công tử, ai không phải con tiên quân, lão phu này có ý gì đâu, hễ ai chủ được việc tang thì lão phu xin theo. Dịch Nha và Thụ Điêu nín lặng, không nói gì được nữa! Quốc Ý Trọng và Cao Hổ khóc ầm lên rồi trở ra. Vô Khuy nói: - Nay chưa phát tang mà các quan lại có ý không phục thì biết làm thế nào? Thụ Điêu nói: - Công việc ngày nay khác nào như người bắt hổ, hễ có sức khỏe thì được, xin chúa công cứ ngồi yên, chờ khi các công tử vào triều, ta sẽ lấy binh lực mà hiếp dọa. Vô Khuy nghe lời. Trưởng Vệ Cơ bắt các nội thị trong cung đều mặc đồ quân trang cả, các cung nữ có người nào to lớn khỏe mạnh, cũng bắt mặc đồ quân trang để giả cách cho được nhiều quân giáp sĩ. Khai Phương nghe tin Dịch Nha và Thụ Điêu tôn lập Vô Khuy, liền bảo Công tử Phan (con Cát Doanh) rằng: - Thế tử Chiêu bây giờ không biết đi đâu, nếu Vô Khuy có thể lập được thì công tử lại không đáng lập hay sao! Nói xong liền cùng với Công tử Phan đem quân vào chiếm cứ nhà Hữu Điện. Công tử Thương Nhân (con Mật Cơ) cùng với Công tử Nguyên bàn nhau rằng: - Chúng ta cùng là huyết mạch của tiên quân cả, cơ nghiệp giang sơn, ai cũng có phần. Nay Công tử Phan đã chiếm cứ Hữu Điện; chúng ta nên chiếm cứ Tả Điện hễ thế tử Chiêu về đây thì ta sẽ nhường, bằng không thì chúng ta nhất định bắt chia nước Tề ra mới được. Công tử Nguyên lấy làm phải, liền đem quân vào chiếm cứ nhà Tả Điện. Còn Công tử Thương Nhân thì đem quân đóng ở triều môn, để cùng với Công tử Nguyên tiếp ứng lẫn nhau. Dịch Nha và Thụ Điêu sợ thế ba vị công tử, không dám ra đánh. Ba vị công tử cũng sợ thế Dịch Nha và Thụ Điêu, không dám xung đột, thành ra cứ giữ lẫn nhau cả. Bấy giờ chỉ có Công tử Ung là không muốn sinh sự bỏ trốn sang nước Tần. Tần Mục công dùng làm quan đại phu. Các vị công tử giữ nhau đến hơn hai tháng, không ai chịu lui. Cao Hổ nói: - Các vị công tử chỉ biết tranh ngôi, mà không nghĩ đến tang sự, nay ta nên liều chết mà nói việc này mới được. Quốc Ý Trọng nói: - Ngài vào nói trước, rồi tôi xin theo; hai ta cùng liều chết để báo ơn nước. Cao Hổ nói: - Chỉ có hai ta thì làm gì được, âu là ta rủ thêm nhiều người nữa cùng đến chốn triều đường để tôn Công tử Vô Khuy làm chủ tang, phỏng có nên chăng? Quốc Ý Trọng nói: - Vô Khuy nhiều tuổi hơn cả thì lập Vô Khuy cũng là phải chứ sao! Bấy giờ Quốc Ý Trọng và Cao Hổ rủ được các quan cùng mặc đồ tang phục kéo vào trong triều. Thụ Điêu ngăn lại hỏi rằng: - Lão đại phu đến đây là có ý gì? Cao Hổ nói: - Các vị công tử cứ tranh nhau mãi thì không biết bao giờ thôi, nay chúng tôi định đến để tôn Công tử Vô Khuy lên làm chủ tang. Thụ Điêu vái chào Cao Hổ mà mời vào. Cao Hổ lấy tay vẫy một cái, Quốc Ý Trọng và các quan kéo nhau cùng vào, nói với Công tử Vô Khuy rằng: - Chúng tôi nghe nói cái ơn sâu của cha mẹ to bằng trời đất, vậy nên lúc cha mẹ sống thì con phải tôn kính, lúc cha mẹ chết thì con phải phụng thờ, không bao giờ cha chết nằm đấy chưa tống táng mà các con cứ tranh nhau phú quý như thế; vả lại vua làm gương cho bề tôi, nếu vua bất hiếu, sao cho bề tôi trung được. Nay tiên quân chết đã 67 ngày rồi mà còn chưa nhập quan, trong lòng Công tử nghĩ có yên không? Nói xong, các quan đều phục xuống đất khóc. Vô Khuy cũng ứa nước mắt xuống nói rằng: - Cái tội bất hiếu của tôi thật là to lắm! Nào phải tôi không nghĩ đến, nhưng bọn Công tử Nguyên xử như vậy thì biết làm thế nào! Quốc Ý Trọng nói: - Thế tử đã bỏ đi mất rồi, nay chỉ có Công tử là nhiều tuổi hơn cả, nếu Công tử làm chủ tang được thì còn ai vào đấy mà nối ngôi; tôi xin lấy đại nghĩa trách bảo bọn Công tử Nguyên phải thôi đi. Vô Khuy gạt nước mắt nói rằng: - Tôi cũng muốn như vậy! Cao Hổ bảo Dịch Nha và Thụ Điêu cứ nghiêm giữ cửa cung, hễ các vị công tử có mặc đồ tang phục thì mới cho vào, nếu ai dám đem đồ binh khí vào thì tức khắc trị tội. Vô Khuy vào trong cung để định khâm liệm Tề Hoàn công. Thi thể Tề Hoàn công để đã lâu ngày, thịt nát cả ra, hôi thối không thể chịu được, dòi bọ bò ra cả ngoài tường, trông rất thê thảm. Vô Khuy vật mình lăn khóc. Các quan cũng đều khóc cả. Vô Khuy sai người lấy áo cẩm bào bọc lại để nhập quan. Còn thi thể Án Nga Nhi vẫn tươi như lúc sống, Cao Hổ khen là một người đàn bà trung liệt, cũng sai người nhập quan. Cao Hổ và các quan tôn Vô Khuy làm chủ tang, rồi đêm hôm ấy cùng ngủ cả bên linh cữu Tề Hoàn công. Công tử Nguyên, Công tử Phan và Công tử Thương Nhân nghe tin các quan đã khâm liệm Tề Hoàn công và tôn Vô Khuy lên làm chủ tang, biết là không thể tranh nổi, cũng đều rút quân về, và mặc đồ tang phục để vào cung. Thế tử Chiêu chạy sang nước Tống, vào yết kiến Tống Tương công, sụp lạy ở dưới đất, thuật lại chuyện Dịch Nha và Thụ Điêu nổi loạn. Tống Tương công họp các quan lại hỏi rằng: - Ngày xưa Tề Hoàn công có đem Công tử Chiêu ủy thác cho ta để lập làm thế tử, thấm thoát đã 10 năm trời, ta vẫn còn đinh ninh nhớ trong lòng; nay Dịch Nha và Thụ Điêu nổi loạn đuổi thế tử Chiêu, ta muốn hội các nước chư hầu để đem quân giúp cho thế tử Chiêu về nước. Nếu làm xong việc này thì có thể nối được cái cơ nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công ngày trước, các ngươi nghĩ thế nào? Bỗng có một viên đại thần đứng ra tâu rằng: - Nước Tống ta có 3 điều không bằng nước Tề, làm bá chủ thế nào được. Tống Tương công nhìn xem ai thì tức là người thứ huynh của Tống Tương công tên gọi Công tử Mục Di, năm trước nhường ngôi cho Tống Tương công không chịu làm vua, vậy nên Tống Tương công cho làm chức thượng khanh. Tống Tương công hỏi Công tử Mục Di rằng: - Nhà người nói 3 điều không bằng nước Tề là những điều gì? Mục Di nói: - Nước Tề có núi Thái Sơn, bể Bột Hải là nơi hiểm trở, có đất Lang Gia, đất Tức mặc là chỗ phì nhiêu; mà ta thì nước nhỏ, đất xấu, quân ít, lương ít, thế là một điều không bằng; nước Tề có họ Cao và họ Quốc, lại có Quản Di Ngô, Ninh Thích, Thấp Bằng, và Bão Thúc Nha để sửa sang chính trị; mà ta thì trong triều không có người hiền tài, thế là hai điều không bằng; Tề Hoàn công đi đánh Đông dẹp Bắc, thường thấy những sự tốt lành; mà ta thì trong nước chỉ thấy những điều tai dị, thế là ba điều không bằng. Có ba điều không bằng nước Tề ấy thì giữ mình còn chẳng nổi, lấy sức đâu mà quản cố đến người khác được! Tống Tương công nói: - Ta lấy điều nhân nghĩa làm chủ, nếu không cứu người mồ côi thì sao gọi là nhân! Đã nhận lời người ta mà bỏ đi thì sao gọi là nghĩa! Nói xong, liền truyền hịch đi các nước chư hầu, hẹn đến tháng giêng năm sau cùng hội nhau đem quân đưa thế tử Chiêu về nước. Khi tờ hịch đến nước Vệ, quan đại phu nước Vệ là Ninh Tốc nói với Vệ Văn công rằng: - Không có đích tử thì lập trưởng tử, đó là lẽ thường, nay Công tử Vô Khuy nhiều tuổi hơn cả. Vả ngày trước có công đem quân sang giữ hộ nước Vệ ta thì tức là ân nhân của ta, xin chúa công chớ nên dự vào việc ấy. Vệ Văn công nói: - Chiêu được lập làm thế tử, thiên hạ ai cũng biết cả. Việc giữ hộ nước Vệ ta là tư ân, việc lập thế tử là công nghĩa, nếu vì tư ân mà bỏ công nghĩa thì ta không muốn. Khi tờ hịch đến nước Lỗ, Lỗ Hi công nói: - Tề Hoàn công ngày xưa đem thế tử Chiêu ủy thác cho vua nước Tống, chứ có ủy thác cho ta đâu. Nay ta chỉ biết người nào nhiều tuổi hơn thì nên lập, nếu Tống đánh Vô Khuy, ta quyết đem quân đi cứu. Đến năm sau, Tống Tương công hội quân nước Vệ, nước Tào và nước Châu cùng giúp thế tử Chiêu sang đánh Vô Khuy. Vô Khuy sai Dịch Nha đem quân đi đánh, lại sai Thụ Điêu cầm quyền chính trong nước, còn Cao Hổ và Quốc Ý Trọng thì chia giữ các nơi hiểm yếu. Cao Hổ bảo Quốc Ý Trọng rằng: - Trước ta lập Vô Khuy là vì khi bấy giờ chưa có ai đứng lên mà lo việc tang cho tiên quân, nay thế tử Chiêu đã về, lại được quân nước Tống giúp thì lý thuận mà thế mạnh lắm! Vả Dịch Nha và Thụ Điêu giết hại các quan, chuyên giữ quyền chính, tất có ngày nổi loạn, chi bằng ta trừ bỏ đi mà đón thế tử Chiêu về, để lập lên làm vua, cho các công tử khỏi có lòng dòm dỏ, họa may nước Tề ta mới yên ổn được. Quốc Ý Trọng nói: - Dịch Nha đang cầm quân ở ngoài cõi, nay ta mời Thụ Điêu đến, giả cách bàn việc, nhân mà giết đi, rồi đem các quan đi đón thế tử Chiêu về thay Vô Khuy, ta chắc Dịch Nha không làm gì nổi. Cao Hổ nói: - Kế ấy hay lắm! Nói xong liền sai quân giáp sĩ phục cả xung quanh, cho người mời Thụ Điêu đến bàn việc. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 33 Thế tử Chiêu trở về nước Tề Tống Tương công mắc lừa quân Sở Bấm để xem Cao Hổ nhân khi Dịch Nha đã đem quân đi rồi, mới sai người mời Thụ Điêu đến để bàn việc. Thụ Điêu không có ý nghi ngại, nghiễm nhiên đến ngay. Cao Hổ bày tiệc để thết đãi. Uống được vài chén rượu, Cao Hổ hỏi Thụ Điêu rằng: - Nay vua nước Tống hội quân các nước chư hầu đưa thế tử Chiêu về đây thì ta biết dùng cách gì chống lại được? Thụ Điêu nói: - Đã có Dịch Nha đem quân ra đánh rồi. Cao Hổ nói: - Nhưng quân Tống nhiều mà quân ta ít thì chống cự làm sao nổi? Lão phu muốn nhờ nhà ngươi một việc để cứu cho nước Tề ta. Thụ Điêu nói: - Tôi làm gì được! Nhưng ngài có sai việc gì thì tôi xin vâng mệnh. Cao Hổ nói: - Muốn mượn cái đầu của nhà ngươi, để xin lỗi với nước Tống. Thụ Điêu ngạc nhiên, liền đứng ngay dậy. Cao Hổ quát to lên rằng: - Quân giáp sĩ đâu? Quân giáp sĩ xông vào chém chết Thụ Điêu. Cao Hổ sai người mở toang cửa thành ra, rồi truyền bá cho dân trong nước biết rằng: - Thế tử Chiêu đã sắp về tới nơi rồi, ai bằng lòng thì đi theo ta. Dân trong nước vốn ghét Dịch Nha và Thụ Điêu, bởi vậy không phục Vô Khuy, nay thấy Cao Hổ đi đón thế tử Chiêu, đều kéo nhau đi theo, đến hơn nghìn người. Quốc Ý Trọng vào cung nói với Vô Khuy rằng: - Nay dân trong nước mến phục thế tử Chiêu, kéo nhau đi đón, lão phu không thể ngăn lại được, xin chúa công nên mau mau tìm phương tránh nạn. Vô Khuy hỏi: - Dịch Nha và Thụ Điêu ở đâu? Quốc Ý Trọng nói: - Dịch Nha đem quân đi chưa biết được hay là thua. Còn Thụ Điêu thì đã bị dân trong nước giết chết rồi! Vô Khuy nổi giận, nói: - Dân trong nước giết Thụ Điêu, có lẽ nào nhà ngươi lại không dự biết đến! Nói xong, toan sai người bắt Quốc Ý Trọng, Quốc Ý Trọng bỏ chạy. Vô Khuy tay chống thanh kiếm, đi ra cửa cung, truyền nội thị gọi quân để đi đánh giặc. Nội thị đi gọi khắp mọi nơi, chẳng ai chịu theo cả. Những người nhà trong bọn các quan khi trước bị Dịch Nha và Thụ Điêu giết hại, vì nỗi không theo Vô Khuy, nay nghe tin Cao Hổ giết Thụ Điêu mà đi đón thế tử Chiêu, đều có ý mừng rỡ, cùng kéo nhau cầm đồ binh khí đến Đông Môn để dò la tin tức, lại gặp Vô Khuy đi vừa đến đấy, liền xúm nhau lại vây bắt Vô Khuy. Nội thị quát ầm lên rằng: - Sao các ngươi dám vô lễ với chúa công? Mọi người đều nói: - Nào ai là chúa công? Nói xong, liền xông vào chém giết lũ nội thị. Vô Khuy chống cự không nổi, vội vàng xuống xe bỏ chạy, cũng bị chết nốt. Trong ngoài náo động cả lên, sau Quốc Ý Trọng phải đi phủ dụ, mọi người mới đâu về đấy. Quốc Ý Trọng sai người phi báo cho Cao Hổ biết. Dịch Nha đóng quân ở ngoài cõi, để chống nhau với quân Tống, tự nhiên đang đêm quân sĩ náo động, huyên truyền nhau rằng: - Vô Khuy và Thụ Điêu đều chết cả rồi, Cao Hổ đem người đi đón thế tử Chiêu về làm vua, chúng ta không nên theo bọn phản nghịch. Dịch Nha biết là quân sĩ có ý biến loạn, liền cùng với mấy tên người nhà tâm phúc, bỏ trốn sang nước Lỗ. Sáng hôm sau, Cao Hổ đến phủ dụ quân sĩ, rồi cùng nhau đi đón thế tử Chiêu. Cao Hổ đưa thế tử Chiêu về đến Lâm Tri, ở tạm ngoài nhà công quán, sai người vào báo cho Quốc Ý Trọng biết để đem các quan ra đón. Công tử Nguyên và Công tử Phan nghe tin thế tử Chiêu đã về, đến rủ Công tử Thương Nhân cùng đi đón. Công tử Thương Nhân không bằng lòng nói rằng: - Khi phát tang tiên quân ta thì thế tử Chiêu có dự đến đâu, mà nay lại cậy thế nước Tống để về nối ngôi, thật là một sự trái lẽ; bây giờ quân các nước chư hầu đã rút về cả, chúng ta nên đem quân ra giết thế tử Chiêu đi, để báo thù cho Công tử Vô Khuy, rồi trong bọn ba người chúng ta, tùy ý các quan đại thần, lập một người lên nối ngôi, cần gì mà phải sợ hãi nước Tống, làm cho cái uy phong bá chủ của tiên quân ta ngày xưa phải giảm mất đi. Công tử Nguyên nói: - Nếu vậy thì ta nên vào nói với Trưởng Vệ Cơ, rồi ta phụng mệnh mà làm thì phải lẽ hơn. Trưởng Vệ Cơ khóc mà nói rằng: - Nếu các ngươi vì Vô Khuy mà báo thù được thì ta dẫu chết cũng thỏa lòng. Nói xong, liền đem những người tâm phúc của Vô Khuy trước, hợp với bọn Công tử Nguyên, Công tử Phan và Công tử Thương Nhân cùng đem nhau ra để chống cự với thế tử Chiêu. Những người tâm phúc của Thụ Điêu cũng muốn vì chủ báo thù, mới nhập bọn với ba vị công tử, đem quân giữ các cửa thành. Quốc Ý Trọng sợ hãi, đóng chặt cửa lại, không dám ra đối địch. Cao Hổ bảo thế tử Chiêu rằng: - Vô Khuy và Thụ Điêu dẫu chết rồi, nhưng đảng phái hãy còn, vả có ba vị công tử làm chủ, đóng cửa thành không cho vào; nay mình muốn vào thì tất phải đánh, đánh mà không được thì thành ra lắm sự dở, chi bằng ta lại sang cầu cứu nước Tống là hơn. Thế tử Chiêu nói: - Việc này tùy ý quốc lão. Cao Hổ lại đem thế tử Chiêu chạy sang nước Tống. Tống Tương công mới thu quân về đến bờ cõi, lại thấy thế tử Chiêu đến, giật mình kinh sợ, hỏi vì cớ gì, Cao Hổ kể hết sự tình đầu đuôi. Tống Tương công nói: - Điều đó là chỉ vì ta thu quân về vội quá, nhưng còn có ta đây, thế tử lo gì chẳng vào được thành Lâm Tri. Nói xong, lại đem quân đưa thế tử Chiêu trở về nước Tề. Công tử Thương Nhân bảo Công tử Phan và Công tử Nguyên rằng: - Chúng ta cứ hợp sức nhau đem quân ra mà đánh, nếu đánh không được, khi ấy ta sẽ tìm phương tránh nạn. Công tử Nguyên và Công tử Phan lấy làm phải, đêm hôm ấy mở cửa thành cùng với Công tử Thương Nhân đem quân ra đánh, bị quân Tống đánh cho một trận thất điên bát đảo, Công tử Nguyên biết sức không địch nổi, liền cùng với mấy người tâm phúc bỏ trốn sang nước Vệ. Công tử Phan và Công tử Thương Nhân rút quân vào thành, toan đóng cửa lại, nhưng đóng không kịp, quân Tống kéo ồ vào. Thôi Yển đánh xe cho thế tử Chiêu thẳng vào trong thành. Quốc Ý Trọng nghe tin thế tử Chiêu đã vào thành rồi, liền cùng với Cao Hổ đem các quân ra đón, tôn thế tử Chiêu lên nối ngôi, tức là Tề Hiếu công. Tề Hiếu công được lên làm vua phong cho Thôi Yển làm quan đại phu, và đem các đồ vàng lụa ban thưởng cho quân nước Tống. Tống Tương công ở lại nước Tề mấy ngày, mới rút quân về. Lỗ Hi công đem đại binh sang nước Tề để định giúp Công tử Vô Khuy, đi đến nửa đường, nghe tin Tề Hiếu công đã lên nối ngôi rồi liền thu quân trở về. Từ bấy giờ nước Lỗ và nước Tề thành ra hiềm khích với nhau. Công tử Phan và Công tử Thương Nhân bàn nhau đổ lỗi cả cho Công tử Nguyên. Quốc Ý Trọng và Cao Hổ cũng biết, nhưng muốn cho Tề Hiếu công bỏ những điều hiềm khích, mới làm thinh không nói đến, chỉ trị tội mấy đứa thủ xướng là Dịch Nha và Thụ Điêu, giết hết những đồ đảng, còn thì tha tội cả. Đến tháng 8 năm ấy, Tề Hiếu công làm lễ an táng Tề Hoàn công ở trên núi Ngưu Thủ, và đem Án Nga Nhi phụ táng ở bên cạnh. Lại vì cớ Công tử Vô Khuy và Công tử Nguyên, mà đem hết cả nội thị trong hai cung, Trưởng Vệ Cơ và Thiếu Vệ Cơ bắt phải chôn theo cả, chết kể hàng mấy trăm người. Tống Tương công từ khi đưa được thế tử Chiêu về làm vua nước Tề, tự lấy làm có công to lắm, muốn đại hội thay Tề Hoàn công làm bá chủ, nhưng lại sợ các nước lớn khó lòng thu phục được, mới ước với các nước nhỏ là nước Đằng, nước Tào, nước Châu và nước Tắng đến hội ở phía Nam nước Tào. Vua nước Tào và vua nước Châu đã đến rồi, bấy giờ vua nước Đằng là Anh Tề mới đến. Tống Tương công không cho Anh Tề dự hội bắt giam vào một chỗ. Vua nước Tắng sợ uy nước Tống, cũng vội vàng đến dự hội, nhưng đã quá mất hai ngày rồi. Tống Tương công hỏi các quan rằng: - Nay ta mới khởi xướng việc hội chư hầu, mà nước Tắng là nước nhỏ lại dám khinh thường, bỏ quá hai ngày mới đến, nếu ta không trị tội thì còn uy lệnh gì nữa! Quan đại phu là Công tử Đãng nói: - Ngày xưa Tề Hoàn công đánh Nam dẹp Bắc, chỉ còn có nước Đông Di là chưa đánh nổi, nay chúa công muốn lập uy cho người ta sợ thì nên dùng vua nước Tắng để mà thu phục lấy nước Đông Di. Tống Tương công nói: - Dùng vua nước Tắng thì dùng thế nào? Công tử Đãng nói: - Nước Đông Di có thờ thần gió và thần mưa ở bên sông Thư Thủy, nay chúa công giết vua nước Tắng đi để dùng làm lễ vật mà tế các vị thần ấy thì chẳng những là các vị thần giáng phúc cho chúa công mà nước Đông Di nghe thấy việc ấy, tất cũng sợ hãi mà phải qui phục. Bấy giờ ta lại mượn sức Đông Di để mà đánh dẹp các nước chư hầu, như thế thì chắc làm nên được công nghiệp bá chủ. Công tử Mục Di can rằng: - Không nên! Đời xưa lấy việc sát sinh làm quan hệ, vậy nên việc tế lễ nhỏ không dám sát sinh, huống chi lại giết người mà tế lễ. Việc tế lễ là để cầu phúc cho người ta, nếu giết người mà tế lễ thì quỷ thần nào còn chứng giám. Vả thần gió mưa ở sông Thư Thủy chẳng qua là giống yêu quái mà thôi, nay chúa công lại theo tục Đông Di mà tế vị thần ấy thì còn ai là người phục chúa công. Tề Hoàn công làm bá chủ trong 40 năm, chỉ đi cứu giúp những kẻ hèn yếu để làm ơn cho thiên hạ, nay chúa công mới hội chư hầu đã giết người để tế giống yêu quái, tôi chắc rằng các nước chư hầu ai cũng khiếp sợ mà phản chúa công, chứ không khi nào người ta chịu phục. Công tử Đãng nói với Công tử Mục Di rằng: - Công tử nghĩ lầm! Công việc bá chủ của chúa công ta ngày nay cùng với Tề Hoàn công khác nhau nhiều lắm: Tề Hoàn công sửa sang chính trị trong nước hơn 20 năm mới hội chư hầu, nay chúa công có đợi được như thế hay không? Việc hoãn thì nên dùng ân đức, việc cấp thì nên dùng uy nghiêm, một đàng chóng, một đàng chậm, nên phải xét rõ mới được, nếu ta không theo Đông Di thì Đông Di tất có lòng nghi ngờ, ta không dọa chư hầu thì chư hầu tất có lòng khinh bỉ; trong chư hầu khinh bỉ, ngoài thì Đông Di nghi ngờ sao cho nên nghiệp bá chủ được. Ngày xưa vua Vũ Vương nhà Chu còn là chư hầu mà dám chém đầu thiên tử là vua Trụ, bởi thế lấy được thiên hạ, huống chi vua nước Tắng là một nước nhỏ, phỏng có hề gì, xin chúa công cứ làm. Tống Tương công liền giết vua Tắng để tế thần sông Thư Thủy, sai người triệu vua các nước Đông Di đến hội tế. Các nước Đông Di không ai đến cả. Vua nước Đằng là Anh Tề thấy vậy sợ hãi, sai người đem nhiều lễ vật đến để xin với Tống Tương công. Tống Tương công tha cho về. Quan đại phu nước Tào là Hi Phụ Cơ bảo vua Tào rằng: - Vua nước Tống là người nóng nảy mà bạo ngược như vậy thì chắc không làm gì nên, chi bằng ta bỏ về. Vua nước Tào bỏ về. Tống Tương công nổi giận, toan đem quân đánh nước Tào. Công tử Mục Di lại can rằng: - Nước Tào bỏ về, cũng chẳng hại gì đến chúa công, cần gì mà chúa công phải đem quân đi đánh. Tống Tương công không nghe, liền sai Công tử Đãng đem quân sang vây kinh đô nước Tào. Hi Phụ Cơ nghĩ kế để cùng với Công tử Đãng chống giữ, đã trong ba tháng mà Công tử Đãng không đánh nổi. Bấy giờ Trịnh Văn công ước với Lỗ, Tề, Trần, Sái cùng với Sở Thành Vương hội ở đất nước Tề. Tống Tương công nghe tin, sợ nước Tề và nước Sở tranh mất quyền bá chủ, vội vàng triệu Công tử Đãng thu quân trở về. Vua nước Tào sợ quân Tống lại đến đánh, sai người sang xin lỗi, từ bấy giờ Tào và Tống lại giảng hòa với nhau. Tống Tương công muốn làm bá chủ, nhưng thấy các nước nhỏ có nhiều nước không phục, còn nước lớn lại cùng với Sở hội thề, có ý tức giận, mới cùng với Công tử Đãng thương nghị. Công tử Đãng nói: - Các nước chư hầu ngày nay, có Tề và Sở là lớn hơn cả. Tề dẫu là dòng bá chủ, nhưng con cháu tranh nhau, thế nước suy yếu, chỉ có nước Sở là cường thịnh, nay tiếm hiệu xưng vương, ai cũng phải sợ, chúa công nên sai người sang lễ nước Sở để mượn thế mà hội chư hầu, rồi lại mượn thế chư hầu để trị lại nước Sở, ấy là kế quyền nghi tạm trong một thời. Công tử Mục Di lại can rằng: - Nước Sở dẫu vì ta mà hội chư hầu, nhưng khi nào nước Sở chịu nhường quyền cho ta, tôi e rằng làm như thế thì lại gây ra mối tranh chiến. Tống Tương công không nghe lời Công tử Mục Di, liền sai Công tử Đãng đem đồ lễ vật sang nói với Sở Thành Vương. Sở Thành Vương hẹn đến đầu năm sau thì hội ở đất Lộc Thượng (đất nước Tề). Công tử Đãng về nói với Tống Tương công. Tống Tương công nói: - Lộc Thượng là đất nước Tề, vậy thì ta cũng nên báo cho vua nước Tề biết. Tề Hiếu công cũng bằng lòng. Đến tháng giêng năm sau, Tống Tương công lập đàn sẵn ở đất Lộc Thượng để chờ Tề Hiếu công và Sở Thành Vương đến. Sang đầu tháng hai, Tề Hiếu công đến. Tống Tương công cậy cái công giúp Tề Hiếu công khi trước, trong khi tiếp kiến, có ý kiêu ngạo tự đắc. Tề Hiếu công cũng cảm ơn nước Tống, vậy nên tỏ lòng kính nể. Lại qua đến hơn 20 ngày nữa, Sở Thành Vương mới đến. Khi trèo lên đàn, Tống Tương công nghiễm nhiên tự nhận làm chủ tọa. Sở Thành Vương không bằng lòng. Tống Tương công nói với Sở Thành Vương và Tề Hiếu công rằng: - Tôi muốn nhờ uy linh của hai nhà vua để định đến tháng tám năm nay đại hội chư hầu ở nước tôi, nếu hai nhà vua có lòng yêu mà xướng bảo các nước chư hầu cho thì tôi được đội ơn nhiều lắm. Tề Hiếu công chắp tay vái nhường Sở Thành Vương. Sở Thành Vương cũng chắp tay vái nhường Tề Hiếu công. Hai vua cứ nhường nhau mãi, không ai chịu ký tên trước. Tống Tương công vẫn cầm tờ biên bản không đưa cho Tề Hiếu công, lại đưa cho Sở Thành Vương trước. Tề Hiếu công cũng có ý không bằng lòng. Sở Thành Vương mở xem tờ biên bản, thấy Tống Tương công đã ký tên trước rồi, mới cười thầm mà bảo Tống Tương công rằng: - Nhà vua cũng có thể hội được chư hầu, cần gì phải mượn đến tôi. Tống Tương công nói: - Nước Trịnh lâu nay vẫn chịu ơn với quí quốc, mà nước Trần và nước Sái thì mới rồi cũng cùng với quí quốc hội thề ở đất nước Tề, nếu không nhờ cái uy linh của nhà vua thì tôi e rằng các nước không chịu đến hội. Sở Thành Vương nói: - Thế thì vua nước Tề nên ký tên trước, rồi sau sẽ đến tôi. Tề Hiếu công nói với Sở Thành Vương rằng: - Nước tôi cũng là một nước chịu ơn nước Tống, có cần gì cho lắm, nghĩa là muốn nhờ cái uy linh của quí quốc thì hơn. Sở Thành Vương cười mà ký tên, rồi cầm bút đưa cho Tề Hiếu công. Tề Hiếu công nói: - Có nước Sở ký tên là đủ, bất tất phải có nước Tề. Nói xong nhất định không chịu ký. Số là Tề Hiếu công thấy Tống Tương công trọng Sở khinh Tề, nên có ý bất bình mà không chịu ký tên. Tống Tương công vẫn cậy mình có ơn với Tề Hiếu công vậy nên tưởng là Tề Hiếu công nói thực, liền cầm tờ biên bản mà cất đi. Sở Thành Vương về nước, nói chuyện lại cho quan lịnh doãn là Tử Văn nghe. Tử Văn nói: - Vua nước Tống là người cuồng bội như vậy, sao đại vương lại giúp nước Tống để hội chư hầu làm gì? Sở Thành Vương cười mà nói rằng: - Ta vẫn muốn làm chủ hội ở trung quốc đã lâu lắm, nhưng chưa có dịp nào cả, nay ta nhân nước Tống mà hội chư hầu, chẳng cũng nên lắm sao! Quan đại phu là Thành Đắc Thần nói: - Vua nước Tống là người hiếu danh mà không có mưu trí gì cả, khi hội chư hầu, ta đem quân giáp sĩ đến phục sẵn thì có thể bắt được. Sở Thành Vương nói: - Ta cũng nghĩ như vậy! Tử Văn nói: - Giúp người ta để hội chư hầu mà lại bắt người ta thì sao cho các nước chịu phục. Thành Đắc Thần nói: - Vua nước Tống muốn làm chủ hội, tất có ý kiêu ngạo với chư hầu, bấy giờ ta bắt vua nước Tống, để thị uy, rồi lại làm ơn mà tha cho, như vậy thì chư hầu phải phục mà theo nước Sở ta cả; chớ nên nệ điều nhỏ nhặt ấy mà bỏ mất cái cơ hội hay. Sở Thành Vương liền sai Thành Đắc Thần và Đấu Bột tuyển 500 giáp sĩ để đến hôm hội chư hầu thì phục sẵn mà bắt Tống Tương công. Tống Tương công từ khi ở đất Lộc Thượng về, có ý hớn hở vui mừng mà bảo Công tử Mục Di rằng: - Nước Sở đã thuận giúp ta để hội chư hầu rồi! Công tử Mục Di can rằng: - Nước Sở là giống man di, ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong lòng chưa biết thế nào, tôi e rằng chúa công mắc lừa nước Sở. Tống Tương công bảo Công tử Mục Di rằng: - Nhà ngươi hay đa nghi lắm, ta đem lòng trung tín mà đãi người ta, khi nào người ta lại nỡ lừa dối. Nói xong, liền không nghe lời Công tử Mục Di, sai người truyền hịch đi các nước, hẹn đến hội ở đất Vu Địa (đất nước Tống) ; lại sai người sửa sang các công quán để nghênh tiếp vua chư hầu. Đến tháng bảy năm ấy, Tống Tương công sắp sửa xa giá đến đất Vu Địa. Công tử Mục Di can rằng: - Nước Sở cậy sức mạnh mà không biết giữ nghĩa, chúa công nên đem quân sĩ đi theo mới được. Tống Tương công nói: - Ta đã ước với chư hầu cùng nhau hòa hiếu, không dùng đến quân sĩ, nếu nay ta lại đem quân sĩ đi theo thì sao cho các nước chư hầu tin phục. Công tử Mục Di nói: - Chúa công muốn thư tín mà không dùng quân sĩ thì xin chúa công cứ đi trước, tôi sẽ đem quân sĩ phục sẵn ở ngoài 3 dặm để phòng khi có sự nguy cấp. Chúa công nghĩ thế nào? Tống Tương công nói: - Không nên! Nếu nhà ngươi đem quân sĩ đi theo thì khác nào như ta dùng quân sĩ. Khi Tống Tương công sắp đi, lại sợ Công tử Mục Di ở nhà đem quân đi tiếp ứng thì thành ra mình thất tín với các nước chư hầu, mới bảo Công tử Mục Di cùng đi. Công tử Mục Di nói: - Tôi ở nhà cũng không thể đành lòng được, vậy xin đi theo. Bấy giờ Tống Tương công và Công tử Mục Di cùng đi. Vua 6 nước: Sở, Trần, Sái, Hứa, Tào, và Trịnh đúng hẹn cùng đến cả. Chỉ có Tề Hiếu công có ý không bằng lòng, Lỗ Hi công chưa giao thông với nước Sở bao giờ, vậy nên hai vua ấy không đến hội, Tống Tương công sai nghênh tiếp vua 6 nước vào nghỉ ở các nhà công quán. Tống Tương công thấy các nước đều không có quân sĩ đi theo, bằng lòng mà nói rằng: - Ta vẫn biết nước Sở không khi nào đánh lừa ta! Quan thái sử chọn ngày để khai hội. Đầu trống canh năm hôm ấy ở trên đàn có đốt các cây đình liều sáng rực như ban ngày. Tống Tương công đến trước để đợi các vua chư hầu. Còn năm nước chư hầu là: 1. - Trần Mục công (Cốc), 2. - Sái Trang công (Giáp Ngọ), 3. - Trịnh Văn công (Tiệp), 4. - Hứa Hi công (Nghiệp), 5. - Tào Cung công (Tương). Năm nước đều lục tục đến dần. Đợi mãi đến sáng rõ, Sở Thành Vương (Hùng Vận) mới đến. Tống Tương công giữ lễ địa chủ vái chào các vua chư hầu, rồi sắp hàng hai bên cùng đứng. Các vua chư hầu đều sợ uy Sở Thành Vương, nhường Sở Thành Vương đứng đầu. Thành Đắc Thần và Đấu Bột đứng hầu sau lưng Sở Thành Vương. Vua các nước cũng đều có người đi theo hầu cả. Tống Tương công muốn làm chủ tọa, nhưng tự mình nói ra không tiện, mới đưa mắt để cho Sở Thành Vương nói. Sở Thành Vương cứ cúi đầu nín lặng, không nói gì cả. Các vua chư hầu cũng đều nhìn nhau, không ai dám nói trước, Tống Tương công không thể nhịn được, mới nghiễm nhiên đứng ra nói rằng: - Ngày nay tôi muốn theo lối Tề Hoàn công thuở trước, trên thì phụng mệnh thiên tử, dưới thì giao hiếu với các nước chư hầu, các quí quốc nghĩ thế nào? Các vua chư hầu nghe nói, cũng chưa ai đáp lại thế nào. Sở Thành Vương đứng thẳng ra phía trước nói với Tống Tương công rằng: - Nhà vua nói phải lắm! Nhưng không biết việc hội chư hầu ngày nay, ai làm chủ tọa? Tống Tương công nói: - Một là nhiều công trạng, hai là cao phẩm tước thì được làm chủ tọa, còn phải nói gì nữa! Sở Thành Vương nói: - Nước tôi nguyên là tước vương, nước Tống dẫu là tước công, nhưng cũng không ở trên tước vương được, như vậy thì tôi xin lỗi với các nước mà nhận làm chủ tọa. Nói xong, liền lên đứng ở đầu hàng trên nhất. Công tử Mục Di giằng tay áo Tống Tương công, để muốn cho Tống Tương công hãy chịu nhịn đi, rồi sau sẽ liệu. Tống Tương công vẫn đinh ninh rằng ngôi chủ tọa đã cầm lỏng trong tay, nay thấy Sở Thành Vương cư xử như vậy, tài nào mà không tức giận, liền xầm nét mặt lại mà bảo Sở Thành Vương rằng: - Nước tôi là tước công, lại là con cháu sau thiên tử nhà Ân trước, dẫu thiên tử nhà Chu ta bây giờ cũng phải có lòng kính trọng; nước Sở nay chẳng qua là tiếm hiệu xưng vương, vậy thì khi nào tước vương giả lại được ở trên tước công thật bao giờ! Sở Thành Vương nói: - Tôi đã là tước vương giả thì ai bảo nhà vua mời tôi đến đây? Tống Tương công nói: - Nhà vua đến đây là theo lời ước ở đất Lộc Thượng, có phải tôi không giao hẹn trước đâu. Thành Đắc Thần đứng bên cạnh quát to lên rằng: - Công việc ngày nay chỉ nên hỏi các vua chư hầu là vì nước Sở mà đến đây hay là vì nước Tống mà đến. Các vua chư hầu xưa nay vốn sợ thế nước Sở, đồng thanh mà đáp rằng: - Chúng tôi phụng mệnh vua nước Sở, vậy nên phải đến đây. Sở Thành Vương cười khanh khách mà nói với Tống Tương công rằng: - Nhà vua còn nói gì được nữa! Tống Tương công vừa toan cãi lại thì Thành Đắc Thần và Đấu Bột cởi ngay áo lễ phục ở ngoài ra, trong đã mặc áo giáp sẵn, sau lưng lại đeo một lá cờ lệnh. Thành Đắc Thần và Đấu Bột cầm lá cờ lệnh giơ cao lên rồi vẫy một cái, quân sĩ của Sở Thành Vương ở dưới đàn, đến hơn nghìn người cầm đồ binh khí kéo lên. Các vua chư hầu đều sợ mất vía cả. Thành Đắc Thần nắm ngay lấy hai tay áo Tống Tương công trói chặt lại, rồi cùng với Đấu Bột truyền cho quân sĩ thu hết các đồ vàng ngọc bày ở trên đàn. Tống Tương công trông thấy Công tử Mục Di đứng ở bên cạnh, liền ghé tai bảo thầm rằng: - Ta tiếc rằng không nghe lời nói của Công tử, đến nỗi thế này. Công tử nên mau mau về đi mà giữ lấy nước nhà, đừng nghĩ gì đến ta nữa. Công tử Mục Di biết là đi theo cũng vô ích mới bỏ Tống Tương công mà trốn về. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 34 Tống Tương công, lá cờ nhân nghĩa Tề Khương Thị, chén rượu biệt ly Bấm để xem Sở Thành Vương bắt Tống Tương công đem về công quán, rồi cho mời tất cả các vua chư hầu đến, kể tội Tống Tương công có 6 điều: 1. - Nước Tề đang có tang mà dám đem quân sang đánh, bỏ người nọ lập người kia, đó là một tội. 2. - Vua nước Đằng đến hội, hơi chậm một chút, mà dám giam trói làm nhục người ta, đó là hai tội. 3. - Giết vua nước Tắng để tế dâm thần, đó là ba tội. 4. - Vua nước Tào bỏ về là một điều lỗi nhỏ, mà dám cậy sức mạnh, đem quân đến vây đánh, đó là bốn tội. 5. - Con cháu sau một nước đã mất, mà không biết tự lượng tài đức mình, dám nhận làm bá chủ, đó là năm tội. 6. - Nhờ sức ta để hội các nước chư hầu, mà lại kiêu ngạo tự đắc, không biết giữ lễ, đó là sáu tội. Sở Thành Vương lại nói với các vua chư hầu rằng: - Lòng trời không tựa nước Tống, mà làm cho nước Tống mê mẩn, một mình dẫn thân đến đây để bị bắt, nay ta quyết đem quân vào phá thành Thư Dương (kinh đô nước Tống) báo thù cho nước Đằng và nước Tắng, xin các vua hãy ở cả lại đây, chờ khi tôi lấy được nước Tống rồi, sẽ cùng với các vua uống rượu chơi trong mươi ngày. Các vua chư hầu vâng dạ cả. Tống Tương công cứ ngây người ra như tượng gỗ, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Sở Thành Vương khao thưởng quân sĩ, rồi đem cả Tống Tương công tiến vào Thư Dương. Các vua chư hầu đều phụng mệnh Sở Thành Vương, ở cả lại đất Vu Địa, không ai dám về. Công tử Mục Di từ khi ở Vu Địa trốn về nước Tống, đem chuyện Tống Tương công bị bắt kể lại cho quan tư mã là công tôn Cố rằng: - Quân nước Sở chẳng bao lâu sẽ kéo đến đây, ta nên nghĩ cách để phòng bị. Công tôn Cố nói: - Trong nước chớ nên để một ngày nào không có vua, nay Công tử hãy quyền nhận ngôi vua để giữ lấy quyền chính thì mới yên nước được. Công tử Mục Di ghé tai công tôn Cố mà bảo thầm, nói tất phải như thế thì nước Sở mới tha cho chúa công ta trở về. Công tôn Cố khen phải, liền tuyên cáo với các quan trong triều rằng: - Chúa công ta vị tất đã về được, chúng ta nên tôn lập Công tử Mục Di lên nối ngôi. Các quan biết Công tử Mục Di là người hiền, đều bằng lòng cả. Công tử Mục Di lên nối ngôi, truyền cho quân sĩ canh các cửa thành rất nghiêm mật. Sở Thành Vương kéo đại binh đến, sai Đấu Bột nói với quân Tống rằng: - Vua Tống đã bị ta bắt tại đây rồi, sống chết ở trong tay ta, nay nước Tống nên phải mau mau mà nộp đất đầu hàng đi thì vua Tống sẽ được toàn tính mệnh. Công tôn Cố ở trên mặt thành đáp lại rằng: - Nước ta đã lập vua mới rồi, không khi nào chịu đầu hàng. Đấu Bột nói: - Vua Tống hãy còn đây, sao nước ngươi dám lập vua khác. Công tôn Cố nói: - Vua là để làm chủ trong nước, nước đã không có chủ thì tất phải lập vua khác. Đấu Bột nói: - Chúng ta định trả lại vua Tống thì nước Tống định lấy gì để mà tạ ơn? Công tôn Cố nói: - Vua cũ đã bị bắt, thế là làm nhục cho nước, dẫu về cũng không được làm vua nữa. Trả lại hay là không trả lại, điều đó tùy ý nước Sở, nếu nước Sở cố ý sinh sự đánh nhau thì nước Tống tôi cũng xin vâng mệnh. Đấu Bột thấy công tôn Cố nói ngang như vậy, liền tâu lại với Sở Thành Vương. Sở Thành Vương nổi giận, truyền cho quân sĩ xông vào phá thành. Quân Tống ở trên mặt thành, bắn tên xuống như mưa. Quân Sở chết và bị thương nhiều lắm. Đánh luôn ba ngày mà không thể phá nổi nước Tống. Sở Thành Vương nói: - Kẻ kia đã không thiết đến vua nữa thì ta giết quách đi. Thành Đắc Thần nói: - Ngày trước đại vương bẻ vua Tống về tội giết vua Tắng, bây giờ đại vương lại giết vua Tống thì còn ra thế nào. Vả lại giết vua Tống cũng không ích gì, đã chẳng lấy được nước Tống mà lại thêm oán, thì chi bằng tha cho thì hơn. Sở Thành Vương nói: - Ta không đánh nổi nước Tống mà lại phải tha cho vua Tống thì còn ra thế nào. Thành Đắc Thần nói: - Tôi có một kế: Mới rồi chỉ có Tề và Lỗ là không dự hội ở đất Vu Địa. Nước Tề đã hai ba lần cùng ta giao hiếu, chẳng kể làm gì; còn nước Lỗ là một nước lễ nghĩa, xưa nay vẫn giao hiếu với Tề, không biết Sở là đâu cả, nay ta đem những đồ lấy được của nước Tống đưa biếu vua Lỗ, và mời vua Lỗ đến hội ở đất Bạt Đô, Lỗ và Tống vốn thân thuộc với nhau, tất nhiên vua Lỗ phải thương tình mà xin hộ cho vua Tống, bấy giờ ta sẽ tha vua Tống để làm ơn với Lỗ, có phải là khiến cho hai nước cùng phải qui phục nước ta. Sở Thành Vương vỗ tay cười ầm lên và nói rằng: - Nhà ngươi thật là một người cao kiến! Nói xong, liền rút quân về đóng ở đất Bạc Đô, rồi sai người đem những đồ lấy được của nước Tống sang biếu Lỗ Hi công và đệ trình một bức thư. Thư rằng: "Vua nước Tống là người kiêu ngạo vô lễ, tôi đã bắt giam lại ở Bạc Đô rồi, vậy xin đem các đồ lấy được của nước Tống sang dâng quí quốc, và mời nhà vua sang hội để xử quyết việc ấy". Lỗ Hi công xem thư giật mình, trong lòng thương xót thay cho Tống Tương công, vẫn biết rằng nước Sở đem cho các đồ lấy được của nước Tống là có ý khoe khoang để dọa mình, nhưng sợ thế nước Sở, cũng phải nhận lời sang đất Bạc Đô hội với nước Sở. Bấy giờ 5 nước chư hầu: Trần, Sái, Trịnh, Hứa và Tào, khi trước đóng ở đất Vu Địa, cũng kéo sang đất Bạc Đô cả, kể cả Lỗ Hi công cộng thành 6 nước. Trịnh Văn công muốn tôn Sở Thành Vương làm bá chủ. Các vua chư hầu đều nhút nhát không ai dám nói. Lỗ Hi công cả quyết nói rằng: - Bá chủ tất phải chọn người nào có nhân nghĩa thì người ta mới phục, nay vua nước Sở cậy sức mạnh bắt giam vua Tống, làm cho lòng người nghi sợ. Chúng ta cùng với nước Tống cũng là bạn đồng minh với nhau, nay ta cúi đầu chịu theo nước Sở mà không biết cứu vua Tống thì chắc rằng thiên hạ người ta chê cười. Nếu nước Sở tha cho vua Tống để giữ lấy tình hòa hiếu thì chúng ta sẽ vâng mệnh. Các vua chư hầu đều nói rằng: - Vua Lỗ nói phải lắm! Thành Đắc Thần đem lời nói của Lỗ Hi công tâu với Sở Thành Vương. Sở Thành Vương nói: - Các vua chư hầu thuận cho ta làm bá chủ thì có đâu ta lại dám trái ý! Nói xong, truyền lập đàn để cùng với các vua chư hầu hội thề. Ngày hôm trước, Sở Thành Vương tha cho Tống Tương công được cùng với các vua chư hầu làm lễ tương kiến. Tống Tương công vừa thẹn vừa giận, có ý không được vui, nhưng bất đắc dĩ cũng phải vào tạ ơn các vua chư hầu. Trịnh Văn công cùng với các vua chư hầu tôn Sở Thành Vương lên làm bá chủ. Tống Tương công căm tức mà không dám nói ra. Khi hội thề xong, các vua chư hầu đều về nước cả. Tống Tương công nghe tin Công tử Mục Di đã lên làm vua nước Tống rồi, toan bỏ trốn sang nước Vệ. Công tử Mục Di sai người sang nói với Tống Tương công rằng: - Công tử Mục Di phải tạm quyền lên ngôi là để giữ hộ cho chúa công đó mà thôi, xin chúa công cứ về. Tống Tương công về nước. Công tử Mục Di lại trả ngôi lại cho Tống Tương công. Tống Tương công nguyên trước định làm bá chủ, bị Sở Thành Vương ăn hiếp, trong lòng oán giận, chỉ vì sức kém, không thể địch nổi; lại thấy Trịnh Văn công xướng nghị tôn Sở Thành Vương làm bá chủ, có ý căm tức, vẫn muốn đem quân đánh nước Trịnh. Đến năm sau, Trịnh Văn công lại sang triều kiến Sở Thành Vương. Tống Tương công nghe tin, giận lắm, liền cử đại binh sắp sang đánh Trịnh, mới giao quyền chính cho Công tử Mục Di để giúp Thế tử Vương Thần mà giữ nước. Công tử Mục Di can rằng: - Trịnh đang giao hiếu với Sở, nếu ta đánh Trịnh thì Sở tất sang cứu, vị tất ta đã đánh nổi, chi bằng ta hãy sửa sang chính trị trong nước để đợi thời là hơn. Quan tư mã là công tôn Cố thấy vậy, cũng tìm lời khuyên can. Tống Tương công nổi giận nói rằng: - Nhà ngươi không muốn đánh thì để ta đi một mình! Công tôn Cố không dám nói nữa, liền cùng với Tống Tương công đem quân sang đánh Trịnh. Có quân thám tử báo tin cho Trịnh Văn công. Trịnh Văn công sợ lắm, vội vàng sai người sang cáo cấp với Sở Thành Vương. Sở Thành Vương nói: - Nước Trịnh thờ ta như cha, ta nên đem quân sang cứu mới được. Thành Đắc Thần nói: - Ta cứu Trịnh không bằng đi đánh Tống. Sở Thành Vương hỏi: - Tại sao? Thành Đắc Thần nói: - Từ khi vua Tống bị bắt, người nước Tống đều sợ mất vía, nay vua Tống không tự lượng sức mình, dám cử đại binh đi đánh Trịnh, tất là trong nước bỏ không, ta đem quân sang đánh, chắc hẳn phải được, dẫu vua Tống kéo quân về, cũng không thể nào địch nổi. Sở Thành Vương khen phải, liền sai Thành Đắc Thần làm chánh tướng. Đấu Bột làm phó tướng, đem quân đi đánh Tống. Tống Tương công đánh nhau với Trịnh, nghe tin quân nước Sở kéo sang đánh Tống, vội vàng thu quân trở về, đóng ở phía nam sông Hoằng Thủy để đối địch với quân Sở. Thành Đắc Thần sai người đưa chiến thư cho Tống Tương công. Công tôn Cố bảo Tống Tương công rằng: - Nước Sở đem quân tới đây là cốt để cứu nước Trịnh, nay ta nói với nước Sở, xin không đánh Trịnh nữa thì nước Sở tất rút quân về. Tống Tương công nói: - Ngày xưa Tề Hoàn công đem quân sang đánh Sở, nay Sở đến đánh mà mình lại thôi thì, sao cho nối được công nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công. Công tôn Cố lại nói: - Ngày nay áo giáp của ta không bền bằng nước Sở; đồ binh của ta không tốt bằng nước Sở; quân sĩ của ta không mạnh bằng nước Sở. Người nước Tống ta sợ quân nước Sở như giống rắn rết, chúa công chắc về cái gì mà dám đánh? Tống Tương công nói: - Kể binh giáp thì nước Sở hơn ta, nhưng kể nhân nghĩa thì ta hơn nước Sở. Ngày xưa Vũ Vương nhà Chu chỉ có ba nghìn quân mà đánh nổi ức vạn quân của vua Trụ, cũng nhờ về giữ được nhân nghĩa đó thôi, can chi mà sợ. Nói xong, liền phê vào chiến thư hẹn ngày giao chiến. Tống Tương công sai chế một lá cờ thật to để cắm ở trên xe; trong lá cờ có đề hai chữ "Nhân Nghĩa". Công tôn Cố phàn nàn mà nói riêng với quan đại phu là Dược Bộc Y rằng: - Sự tranh chiến cốt phải sát phạt mà lại nói nhân nghĩa, thì tôi thật không hiểu cái nhân nghĩa của chúa công ra thế nào! Chẳng qua là trời thu mất hồn phách của chúa công, tôi lấy làm nguy lắm. Bây giờ chúng ta nên nghĩ thế nào để giữ cho không đến nỗi mất nước. Thành Đắc Thần đóng quân ở phía Nam sông Hoằng Thủy. Đến ngày khai chiến, Đấu Bột nói với Thành Đắc Thần xin bắt đầu trống canh năm cho quân sĩ sang đò, kẻo sợ người nước Tống đánh chận ở bên kia bờ sông chăng. Thành Đắc Thần cười mà nói rằng: - Vua nước Tống là người gàn dở, có biết binh pháp là cái gì! Ta sang sớm thì đánh được sớm, sang trưa thì đánh được trưa, có cần gì mà sợ. Trời sáng rõ, quân Sở mới lục tục kéo sang. Công tôn Cố nói với Tống Tương công rằng: - Quân nước Sở chờ trời sáng rõ, mới kéo sang đò, thế là có ý khinh ta. Nay ta nhân lúc đang sang đò mà xông vào đánh thì tất có thể phá vỡ được, nếu để cho quân Sở sang xong thì Sở nhiều ta ít, địch làm sao nổi? Tống Tương công trỏ vào lá cờ mà bảo công tôn Cố rằng: - Nhà ngươi không trông thấy hai chữ "Nhân Nghĩa" hay sao? Ta dùng quân rất là đường hoàng, có lẽ nào nhân lúc người ta đang sang đò mà xông vào đánh bao giờ! Công tôn Cố lại nghĩ thầm mà phàn nàn một mình. Được một lúc, quân Sở sang đò xong rồi, Thành Đắc Thần đầu đội mũ ngọc, mình mặc áo giáp, tay cầm cái roi, đang trỏ bảo quân sĩ để sắp hàng bày trận, khí thế ngang nhiên, trông ra bộ không sợ ai cả. Công tôn Cố lại nói với Tống Tương công rằng: - Quân Sở còn đang sắp hàng bày trận, xin chúa công xông vào mà đánh ngay đi thì tất phải vỡ. Tống Tương công nhổ vào mặt công tôn Cố mà mắng rằng: - Chao ôi! Nhà ngươi chỉ tham cái lợi một lúc, mà không nghĩ đến điều nhân nghĩa muôn đời hay sao! Ta dùng quân rất là đường hoàng, có lẽ nào nhân lúc người ta chưa sắp hàng bày trận xong mà xông vào đánh bao giờ! Công tôn Cố lại bứt đầu bứt tai mà phàn nàn mãi. Quân Sở đã sắp hàng bày trận xong, quân Tống trông thấy khí thế hùng dũng, đều có ý sợ hãi. Tống Tương công truyền cho quân sĩ nổi hiệu trống. Quân Sở cũng nổi hiệu trống. Tống Tương công cầm cái giáo dài, cùng với hai tướng là Công tử Đãng và Hướng Si Thủ xông vào đánh trướng, bị quân Sở vây kín lại. Công tôn Cố theo vào để hộ giá thì lại bị tướng nước Sở là Đấu Bột đón đánh, may có tướng nước Tống là Hoa Tú Lão xông đến giao chiến với Đấu Bột. Công tôn Cố ra sức phá vòng vây của quân Sở, bỗng gặp Hướng Si Thủ (tướng nước Tống) mặt đầy những máu, gọi công tôn Cố mà bảo rằng: - Ngài mau mau vào mà cứu lấy chúa công! Khi công tôn Cố vào đến nơi thì thấy Công tử Đãng bị thương nặng nằm ở trên xe; lá cờ nhân nghĩa đã bị quân Sở lấy mất rồi. Tống Tương công mình bị mấy vết thương, phía đùi chân phải lại bị một mũi tên, đứt gân không đứng dậy được. Công tử Đãng trông thấy công tôn Cố đến, trừng mắt nhìn mà bảo rằng: - Quan tư mã cố sức mà giúp lấy chúa công, tôi đành chết ở đây thôi! Nói xong thì chết ngay. Công tôn Cố thương xót vô cùng, vực Tống Tương công lên xe, rồi cố sức phá vòng vây mà chạy. Hướng Si Thủ đi sau để ngăn quân Sở. Công tôn Cố và Tống Tương công về đến kinh đô nước Tống. Quân Tống chết không biết bao nhiêu mà kể, cha mẹ vợ con họ đều khóc lóc than thở, oán Tống Tương công không nghe lời công tôn Cố để đến nỗi thua. Tống Tương công nghe nói, thở dài mà than rằng: - Người quân tử ra trận, không đâm người đã bị thương rồi, không bắt người già hai thứ tóc, ta đây cũng chỉ cốt lấy điều nhân nghĩa, bắt chước chi những thói tàn bạo ấy. Người trong nước nghe thấy Tống Tương công nói như vậy, ai cũng chê cười. Quân Sở đã thắng trận rồi, lại thu quân sang đò sông Hoằng Thủy, định trở về nước Sở; vừa ra khỏi địa giới nước Tống thì nghe báo Sở Thành Vương đem đại binh đi tiếp ứng, hiện đang đóng quân ở đất Kha Trạch (đất nước Trịnh). Thành Đắc Thần liền sang đất Kha Trạch để yết kiến Sở Thành Vương và dâng các đồ lấy được của nước Tống. Sở Thành Vương nói: - Ngày mai vua nước Trịnh có định đem cả phu nhân đến đây khao thưởng quân sĩ; ta nên bày các đồ vật lấy được của nước Tống để khoe với vua Trịnh. Nguyên Trịnh Văn công lấy em gái Sở Thành Vương là Vu Thị, tức là nàng Văn Vu. Văn Vu nghĩ tình anh em, cũng theo Trịnh Văn công đến đất Kha Trạch để yết kiến Sở Thành Vương. Sở Thành Vương cho xem các đồ vật lấy được của nước Tống. Vợ chồng Trịnh Văn công cùng chúc mừng Sở Thành Vương, và khao thưởng các hàng quân sĩ. Ngày hôm sau. Trịnh Văn công mời Sở Thành Vương vào trong thành rồi bày tiệc để thết đãi rất là trọng thể. Văn Vu sinh được hai người con gái Bá Vu và Thúc Vu, bấy giờ chưa gả chồng, hãy còn ở nhà, Văn Vu sai lấy lễ cậu cháu ra yết kiến Sở Thành Vương. Sở Thành Vương mừng lắm. Trịnh Văn công cùng với vợ và con gái thay đổi nhau để mời rượu Sở Thành Vương, làm cho Sở Thành Vương rượu say túy lúy. Sở Thành Vương bảo Văn Vu rằng: - Nay ta quá vui, uống rượu say lắm, em và hai cháu nên đưa ta về. Văn Vu xin vâng lời. Trịnh Văn công tiễn Sở Thành Vương ra đến cửa thành, rồi trở về trước, còn Văn Vu và hai con gái theo Sở Thành Vương sang tận chỗ quân dinh. Sở Thành Vương trông thấy hai cháu gái có sắc đẹp, đêm hôm ấy bắt vào trong phòng ngủ để trêu ghẹo. Văn Vu tức giận, một mình thơ thẩn ở trong màn, cả đêm không ngủ được, nhưng sợ uy Sở Thành Vương, không dám nói ra. Ngày hôm sau, Sở Thành Vương đem các đồ lễ vật lấy được của nước Tống chia cho Văn Vu một nửa, rồi bắt hai cháu gái đem về nước Sở. Quan đại phu nước Trịnh là Thúc Thiêm than rằng: - Vua Sở càn dỡ như vậy thì toàn vẹn thế nào được! Lại nói chuyện Công tử Trùng Nhĩ nước Tấn sang đến nước Tề ở được 7 năm, gặp khi Tề Hoàn công mất, các con tranh nhau nối ngôi, trong nước đại loạn; đến khi Tề Hiếu công lên ngôi, lại đổi hết cả chính sự, giảng hòa với Sở, gây thù với Tống, thành ra nhiều chuyện lôi thôi. Bọn Triệu Thôi bàn riêng với nhau rằng: - Chúng ta theo Công tử Trùng Nhĩ sang đây là muốn nhờ binh lực nước Tề để về phục quốc, nay nước Tề lắm việc như vậy, thì tất là không giúp được Công tử ta rồi, chi bằng chúng ta sang nước khác để lo liệu. Nói xong, định thương nghị với Công tử Trùng Nhĩ. Bấy giờ Công tử Trùng Nhĩ say đắm nàng Tề Khương, ngày đêm chỉ uống rượu vui, chẳng thiết việc gì cả. Bọn Triệu Thôi chầu chực mãi trong 10 ngày mà không được gặp mặt. Ngụy Thù giận lắm, nói: - Chúng ta tưởng Công tử là người có chí, nên ra công lặn lội theo tới đây, nay ở nước Tề, thấm thoát đã 7 năm trời mà lười biếng ham mê như vậy, khiến cho chúng ta đến 10 ngày nay không được gặp mặt, thế thì bao giờ cho thành sự được! Hồ Yển nói: - Đây không phải là chỗ chúng ta họp nhau nói chuyện, các ngươi theo ta đến đằng kia. Nói xong, liền kéo nhau ra ngoài Đông môn, đến một chỗ gọi là Tang Âm. Chỗ ấy là một bãi dâu, dâu mọc xanh um cả, bóng mặt trời không chiếu đến đất. Triệu Thôi cùng với các vị hào kiệt xúm quanh một vòng ở dưới đất mà ngồi. Triệu Thôi hỏi Hồ Yển rằng: - Nhà ngươi định thế nào? Hồ Yển nói: - Công tử đi hay không cũng bởi ở chúng ta thôi. Chúng ta cứ thu xếp sẵn hành trang, rồi giả cách mời Công tử đi săn mà bắt ép phải đi thì mới được việc, nhưng trước hết hãy bàn định xem nên đi nước nào hơn. Triệu Thôi nói: - Nay vua Tống đang có chí muốn làm bá chủ, mà lại hay hiếu danh, ta nên sang đấy; bằng sang đấy mà không được bấy giờ ta sẽ sang Tần và Sở, tất thế nào cũng có nước giúp ta. Hồ Yển nói: - Tôi cùng với quan tư mã nước Tống là công tôn Cố có quen biết nhau, nay sang qua, thử xem hắn xử ra làm sao! Các người bàn định nhau một lúc thì tan, vẫn tưởng rằng ở nơi bãi dâu vắng vẻ không ai biết cả, ngờ đâu trong bụi dâu có một bọn thị nữ của Tề Khương hơn 10 người đang hái dâu về nuôi tằm nghe tiếng các người bàn định, liền đứng nép một chỗ rình xem sự tình ra làm sao. Khi nghe được hết cả sự tình rồi, về nói lại với Tề Khương. Tề Khương mắng rằng: - Chúng bay chỉ nói càn, có đâu những việc ấy! Nói xong, liền bắt bọn thị nữ ấy giam vào một cái phòng kín, đến nửa đêm giết chết cả đi; để cho công việc khỏi tiết lộ ra ngoài rồi vào đánh thức Trùng Nhĩ dậy mà bảo rằng: - Các ngươi theo hầu Công tử, định đem Công tử đi nước khác, có mấy đứa thị nữ hái dâu nghe được, về nói với thiếp, thiếp sợ công việc tiết lộ ra ngoài, hoặc sinh ra sự ngăn trở gì chăng, hiện đã giết bỏ mấy đứa ấy đi rồi, Công tử nên mau mau thu xếp để mà khởi hành. Trùng Nhĩ nói: - Người ta ở đời, quí hồ được vui vẻ sung sướng thì thôi, ta đành ở đây cho yên thân, nhất định không đi đâu cả! Tề Khương nói: - Từ khi Công tử đi trốn đến giờ, nước Tấn không năm nào được yên, ấy là lòng trời có ý đợi Công tử đó. Công tử đi chuyến này, tất thu phục được nước Tấn, xin Công tử phải quyết đoán mới được. Trùng Nhĩ ham mê Tề Khương, vẫn không chịu đi. Ngày hôm sau, bọn Triệu Thôi đứng ở ngoài cửa cung, sai người nói xin mời Công tử Trùng Nhĩ đi săn. Trùng Nhĩ còn đang nằm nghỉ chưa dậy, sai người ra bảo rằng: - Công tử hơi mệt trong mình, chưa dậy chải gội được, hôm nay không đi. Tề Khương nghe nói, sai người mời một mình Hồ Yển vào, rồi đuổi hết người chung quanh và hỏi Hồ Yển rằng: - Nhà ngươi mời Công tử đi săn là có ý gì? Hồ Yển nói: - Khi trước Công tử ở nước Địch, chẳng ngày nào không đi săn, từ khi sang đây, đã lâu lắm không đi, chúng tôi sợ sinh lười biếng, vậy phải đến mời, chứ có ý gì đâu! Tề Khương cười tủm tỉm mà nói rằng: - Lần này đi săn, không sang nước Tống thì tất sang nước Tấn và nước Sở, có phải thế không? Hồ Yển giật mình kinh sợ, nói: - Đi săn, có đâu lại xa như vậy! Tề Khương nói: - Các người muốn đem Công tử trốn đi, tôi đã biết cả rồi, lại còn giấu giếm gì nữa! Đêm mới rồi, tôi cũng cố khuyên Công tử, nhưng mà Công tử nhất định không nghe, âu là chiều hôm nay tôi bày một tiệc rượu, đổ cho Công tử thật say, rồi các người vực lên xe mà đem đi thì mới được việc. Hồ Yển sụp lạy nói rằng: - Nếu phu nhân dứt bỏ tình riêng, để giúp nên việc lớn cho Công tử thì hiền đức ấy thật không mấy người theo kịp! Nói xong, Hồ Yển cáo từ lui ra, về nói chuyện với bọn Triệu Thôi, rồi thu xếp các đồ hành trang, kéo nhau ra đợi sẵn ở ngoài cõi chỉ có Hồ Yển, Ngụy Thù và Điên Hiệt ba người đem hai cái xe nhỏ chực ở ngoài cửa cung, để chờ tin Tề Khương. Chiều hôm ấy, Tề Khương bày tiệc ở trong cung, mời Công tử Trùng Nhĩ uống rượu, Trùng Nhĩ nói: - Có việc gì mà bày tiệc làm vậy? Tề Khương nói: - Thiếp nghe nói Công tử có chí muốn về nước, gọi là có chén rượu nhạt để tiễn chân. Trùng Nhĩ nói: - Người ta ở đời, khác nào như bóng ngựa câu đi qua cửa sổ, quí hồ yên phận thì thôi, còn cầu cạnh làm chi nữa! Tề Khương nói: - Đã gọi là trượng phu thì nên lập chí! Nay các người theo hầu hết sức giúp Công tử, Công tử phải nghe lời mới được. Trùng Nhĩ có ý giận, bỏ chén rượu không uống nữa. Tề Khương nói: - Công tử thật không muốn đi, hay là nói dối thiếp? Trùng Nhĩ nói: - Ta quyết không đi, khi nào lại nói dối! Tề Khương vừa cười vừa nói: - Đi là cái chí của Công tử, mà không đi là cái tình của Công tử. Tiệc rượu này thiếp định để tiễn Công tử, bây giờ dùng để lưu Công tử chớ sao! Thiếp xin cùng với Công tử uống rượu thật vui! Trùng Nhĩ bằng lòng. Hai vợ chồng cùng nhau chén thù chén tạc, lại sai các thị nữ múa hát để dâng rượu cho Trùng Nhĩ, Trùng Nhĩ không thể uống được nữa. Tề Khương lại cố ép mãi, thành ra say quá, nằm phục xuống giường, Tề Khương lấy chăn đắp lại, rồi sai người gọi Hồ Yển. Hồ Yển biết là Trùng Nhĩ đã say rượu rồi, vội vàng đem Ngụy Thù và Điên Hiệt vào cung, cứ để nguyên cả chăn chiếu mà khiêng Trùng Nhĩ ra để lên trên xe. Hồ Yển cáo từ Tề Khương, rồi lên xe đem Trùng Nhĩ đi. Tề Khương ứa nước mắt xuống mà trở vào. Đi đến ngoài cõi nước Tề, cùng với bọn Triệu Thôi hợp làm một, đi suốt đêm hôm ấy được năm, sáu mươi dặm; gà gáy tứ phía, trời đã gần sáng, Trùng Nhĩ ở trong xe, mới lục đục cựa dậy, gọi người lấy nước uống. Bấy giờ Hồ Yển cầm cương xe ngồi ở bên cạnh, trả lời rằng: - Muốn uống nước thì xin đợi đến trời sáng. Trùng Nhĩ thấy chỗ nằm lúc lắc không được êm ái, lại nói: - Chúng bay đỡ ta xuống khỏi giường này. Hồ Yển nói: - Giường ở đâu! Xe đây mà! Trùng Nhĩ trừng mắt nhìn hỏi rằng: - Ai thế? Hồ Yển nói: - Tôi là Hồ Yển. Trùng Nhĩ hoảng hốt, tung chăn mà ngồi dậy, quát mắng rằng: - Chúng bay không nói trước cho ta biết, định đem ta đi đâu thế này! Hồ Yển nói: - Chúng tôi định đem nước Tấn mà dâng Công tử đó! Trùng Nhĩ nói: - Tấn chưa thấy đâu, đã bỏ mất Tề, ta không muốn đi! Hồ Yển nói dối rằng: - Bây giờ đi khỏi nước Tề đã hơn 100 dặm rồi! Nếu vua Tề biết Công tử trốn đi, tất nhiên cho quân đuổi bắt, ta chớ nên trở lại. Trùng Nhĩ hầm hầm nổi giận, trông thấy Ngụy Thù cầm ngọn giáo đi ở bên cạnh, liền giật lấy mà đâm Hồ Yển. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 35 Tấn Trùng Nhĩ trở về nước nhà Tần Hoài Doanh vui vầy duyên mới Bấm để xem Công tử Trùng Nhĩ tức giận Hồ Yển dùng kế đánh lừa mình, liền giật lấy ngọn giáo của Ngụy Thù để đâm Hồ Yển. Hồ Yển vội vàng xuống xe bỏ chạy. Trùng Nhĩ cũng xuống xe, cầm giáo đuổi theo. Bọn Triệu Thôi xúm nhau lại để khuyên can. Trùng Nhĩ vứt ngọn giáo xuống đất mà vẫn chưa nguôi cơn giận. Hồ Yển sụp lạy xin lỗi rằng: - Công tử giết tôi mà nên việc được thì tôi chết cũng còn hơn sống. Trùng Nhĩ nói: - Chuyến này đi được việc thì thôi, bằng không được việc thì ta quyết ăn thịt nhà ngươi! Hồ Yển cười mà đáp rằng: - Nếu không được việc thì Hồ Yển này chưa biết sống chết ở đâu, Công tử muốn ăn thịt cũng không được, nhược bằng được việc thì bấy giờ Công tử chẳng thiếu gì các đồ ngọc thực, thịt Hồ Yển này tanh hôi, bõ gì mà ăn. Bọn Triệu Thôi nói: - Chúng tôi thấy Công tử là người có chí, vậy nên bỏ cửa nhà và vợ con mà theo Công tử, cũng mong được chút công lưu truyền sử sách về sau. Nay Di Ngô là người vô đạo, người trong nước ai cũng muốn Công tử về làm vua, nhưng Công tử không nghĩ cách để về thì ai sang đây để đón Công tử cho được. Việc này thật là tự ý chúng tôi bàn nhau, không phải tại một mình Tử Phạm (tên tự của Hồ Yển), xin Công tử chớ nghĩ lầm. Ngụy Thù cũng nói to lên rằng: - Kẻ trượng phu nên lập chí để lưu truyền danh tiếng về sau, cớ sao lại cứ khu khu ham mê cái tình nhi nữ mà không nghĩ đến cơ nghiệp to tát của mình. Trùng Nhĩ nghiêm nét mặt lại đáp rằng: - Đã như vậy thì ta xin theo ý các ngươi. Hồ Mao dâng lương khô. Giới Tử Thôi dâng nước uống. Trùng Nhĩ cùng mọi người đều ăn. Bọn Hồ Thúc đi cắt cỏ cho ngựa, rồi sửa soạn hành trang, thẳng đường tiến sang nước Tào. Tào Cung công tính hay chơi bời, không thiết nghĩ gì đến chính trị, chỉ tin dùng những kẻ tiểu nhân xu nịnh. Bọn tiểu nhân ấy thấy những người theo hầu Công tử Trùng Nhĩ đều là tay hào kiệt cả, đem lòng ghen ghét, không muốn cho ở lâu tại nước Tào, liền xui Tào Cung công chớ nên tiếp đãi. Quan đại phu là Hi Phụ Cơ can rằng: - Nước Tào ta cùng nước Tấn nguyên là thân thuộc với nhau. Nay Công tử Trùng Nhĩ gặp lúc cùng khổ mà qua nước ta, ta nên tiếp đãi mới phải. Tào Cung công nói: - Tào là một nước nhỏ mà ở giữa các nước, những công tử các nước đi lại nhiều lắm, nếu ai cũng hậu đãi cả thì tốn kém vô cùng, chịu sao cho nổi. Hi Phụ Cơ nói: - Công tử Trùng Nhĩ có tiếng là người hiền, vả lại con mắt hai đồng tử, xương sườn dính liền nhau, ấy là một người có quí tướng, không nên coi như các vị công tử tầm thường khác. Tào Cung công nói: - Trùng Nhĩ con mắt hai đồng tử thì ta đã biết rồi, còn xương sườn dính liền với nhau là thế nào? Hi Phụ Cơ nói: - Nghĩa là mấy cái xương sườn dính liền với nhau làm một, đó là quí tướng lắm! Tào Cung công nói: - Ta không tin, hãy để Trùng Nhĩ ở nhà công quân, đợi khi nào tắm rồi ta sẽ đến xem. Nói xong, liền sai người mời Trùng Nhĩ vào công quán, và cấp các đồ ăn uống, chứ Tào Cung công không ra tiếp đãi. Trùng Nhĩ giận lắm không ăn. Tào Cung công lại sai người mời Trùng Nhĩ ra tắm. Trùng Nhĩ nhân khi đi đường sá bụi bẩn, cũng muốn tắm rửa cho được sạch sẽ, mới cởi áo để đi tắm. Tào Cung công cùng với mấy người cận thần, lẻn đến tận nơi để xem, cười nói ầm ĩ, rất là vô lễ, một lúc lại kéo nhau về cả. Bọn Hồ Yển thấy nói có người lạ, vội vàng chạy đến, cũng nghe tiếng cười nói rầm rĩ, hỏi ra mới biết là vua nước Tào. Trùng Nhĩ và bọn Hồ Yển đều không bằng lòng. Hi Phụ Cơ từ khi can Tào Cung công không nghe, trở về đến nhà, vợ là Lã Thị trông thấy nét mặt âu sầu, liền hỏi Hi Phụ Cơ rằng: - Chẳng hay trong triều hôm nay có việc gì mà phu quân coi ra ý buồn bã như vậy? Hi Phụ Cơ đem chuyện Trùng Nhĩ đến mà Tào Cung công không tiếp đãi kể lại cho vợ nghe. Lã Thị nói: - Mới rồi thiếp đi hái dâu ở ngoài cõi, trông thấy bọn Trùng Nhĩ đi qua, thiếp không trông rõ Trùng Nhĩ, nhưng thấy các người theo hầu đều là tay hào kiệt cả, xem thế đủ biết rằng Trùng Nhĩ tất có ngày thu phục được nước Tấn, bấy giờ đem quân sang đánh nước Tào ta thì ta hối sao cho kịp! Chúa công đã không nghe lời, phu quân nên nghĩ cách mà tư giao với Trùng Nhĩ; thiếp xin sửa soạn mấy bàn thực phẩm, rồi để lẫn ngọc bạch bích vào mà dâng Trùng Nhĩ. Phu quân nên đi ngay. Hi Phụ Cơ theo lời, đêm hôm ấy đến công quán yết kiến Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ đang đói bụng ngồi một mình, nghĩ đến Tào Cung công mà tức giận. Bỗng nghe có quan đại phu nước Tào là Hi Phụ Cơ xin vào yết kiến và dâng đồ thực phẩm. Trùng Nhĩ cho mời vào. Hi Phụ Cơ sụp lạy, trước hết xin lỗi hộ cho vua Tào, rồi sau mới thuật đến cái tình tư giao của mình và dâng đồ thực phẩm. Trùng Nhĩ khen rằng: - Không ngờ nước Tào mà có người bày tôi hiền như thế này, khi tôi phục quốc rồi, sẽ xin báo ơn lại. Trùng Nhĩ ngồi ăn, trông thấy trong mâm cơm có ngọc bạch bích, mới bảo Hi Phụ Cơ rằng: - Quan đại phu có lòng tử tế mà cho ăn, để tôi được khỏi đói, thế là quý lắm rồi, sao lại dùng đến ngọc bạch bích? Hi Phụ Cơ nói: - Đó là tấm lòng kính mến của chúng tôi, xin Công tử cứ nhận cho. Trùng Nhĩ nhất định không lấy ngọc bạch bích. Hi Phụ Cơ lui về, nói riêng một mình rằng: - Trùng Nhĩ cùng khổ như vậy, mà không tham ngọc bạch bích của ta, thế thì cái chi to tát biết thế nào mà lường cho được. Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ đi. Hi Phụ Cơ lại tiễn ra ngoài thành, đến 10 dặm đường, rồi mới trở về, Trùng Nhĩ bỏ nước Tào đi sang nước Tống. Hồ Yển vào yết kiến quan tư mã nước Tống là công tôn Cố, nói: - Chúa công tôi không tự lượng sức mình, cùng với Sở đánh nhau, để đến nỗi thua trận bị thương, bây giờ cũng chưa dậy được; nhưng chúa công tôi vẫn nghe tiếng Trùng Nhĩ, có lòng kính mến đã lâu, nay Trùng Nhĩ đến, thế nào chúa công cũng trọng đãi. Công tôn Cố vào nói với Tống Tương công. Tống Tương công bấy giờ đang căm tức nước Sở, nghe nói Trùng Nhĩ đến, nghĩ thầm trong lòng rằng Tấn là một nước lớn, Công tử Trùng Nhĩ lại là người hiền, mai sau tất trị nổi nước Sở, mới có ý mừng rỡ; ngặt vì bị thương chưa khỏi, không ra nghênh tiếp được, liền sai công tôn Cố mời Trùng Nhĩ vào nhà công quán, trọng đãi như là vua chư hầu. Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ cáo từ xin đi. Công tôn Cố lại phụng mệnh Tống Tương công ra mời ở lại, và hỏi riêng Hồ Yển rằng: - Khi Công tử qua nước Tề thì Tề Hoàn công tiếp đãi như thế nào? Hồ Yển kể lại những chuyện Tề Hoàn công gả Tề Khương cho Trùng Nhĩ và tặng Tống các đồ xe ngựa. Công tôn Cố về tâu với Tống Tương công. Tống Tương công nói: - Công tử năm xưa đã lấy con gái nước Tống ta rồi, nay ta xin tặng tống các đồ xe ngựa. Trùng Nhĩ cảm tạ vô cùng, ở lại trong mấy ngày nữa. Hồ Yển thấy bệnh tình của Tống Tương công không có cơ khỏi được, liền đem việc phục quốc bàn riêng với công tôn Cố. Công tôn Cố nói: - Công tử nay đi đường nhọc, muốn tạm nghỉ ở nước tôi thì nước tôi dầu nhỏ, cũng có thể cung cấp được; nhược bằng muốn nhờ binh lực nước tôi để phục quốc thì nước tôi vừa mới bại trận xong, khó lòng giúp nổi, xin Công tử đi cầu nước khác. Hồ Yển nói: - Ngài bảo thực như thế là phải lắm! Nói xong, liền bảo Trùng Nhĩ, rồi thu xếp hành trang để đi. Tống Tương công nghe nói Trùng Nhĩ đi, lại sai người đưa tặng các đồ lương thực và quần áo. Trùng Nhĩ đi rồi, Tống Tương công bệnh mỗi ngày một nặng, chẳng được bao lâu thì mất; lúc gần mất bảo Thế tử Vương Thần rằng: - Ta không nghe lời Tử Ngư (Công tử Mục Di), đến nỗi thua trận, nay con lên nối ngôi, việc gì cũng phải hỏi Tử Ngư mới được. Sở là một nước thù với ta, chớ cùng với Sở giao hiếu; còn Công tử Trùng Nhĩ khi về nước Tấn, tất có cơ làm chủ các nước chư hầu được, con nên giao hiếu với Tấn để giữ yên lấy nước nhà. Thế tử Vương Thần sụp lạy, Tống Tương công mất. Thế tử Vương Thần lên nối ngôi, tức là Tống Thành công. Trùng Nhĩ bỏ nước Tống đến nước Trịnh. Có người báo với Trịnh Văn công. Trịnh Văn công bảo các quan rằng: - Trùng Nhĩ phản cha mà đi trốn, các nước không ai tiếp đãi cả, đi đến đâu đói khát đến đấy, đó là người bất hiếu, chớ nên kính trọng. Quan thượng khanh là Thúc Thiêm can rằng: - Trùng Nhĩ có ba điều hay, thật là lòng trời muốn giúp, ta chớ nên coi thường. Trịnh Văn công hỏi: - Thế nào gọi là ba điều hay? Thúc Thiêm nói: - Trùng Nhĩ xưa nay vẫn có tiếng là người hiền, đó là một điều hay; từ khi đi trốn đến giờ, nước Tấn không lúc nào được yên, có cơ hội phục quốc được, đó là hai điều hay; Triệu Thôi, Hồ Yển là những bậc hào kiệt đời bây giờ, mà đều theo giúp Trùng Nhĩ cả, đó là ba điều hay. Trùng Nhĩ đã có ba điều hay ấy, chúa công phải trọng đãi mới được. Trịnh Văn công nói: - Trùng Nhĩ nay già rồi, còn làm gì nổi! Thúc Thiêm nói: - Nếu chúa công không trọng đãi Trùng Nhĩ thì nên đem giết đi, chớ để gây sự thù oán mà thành ra tai vạ về sau. Trịnh Văn công vừa cười vừa nói: - Nhà ngươi nói khí quá! Đã bảo ta trọng đãi, lại bảo ta giết đi. Dẫu ta trọng đãi hay là giết đi, cũng chẳng quan hệ chi đến điều ấy! Nói xong, truyền đóng cửa thành không cho Trùng Nhĩ vào. Trùng Nhĩ thấy Trịnh Văn công không nghênh tiếp, liền thẳng đường đi sang nước Sở, vào yết kiến Sở Thành Vương. Sở Thành Vương cũng trọng như vua các nước chư hầu. Trùng Nhĩ khiêm nhường không dám nhận lễ. Triệu Thôi đứng ở bên cạnh, bảo Trùng Nhĩ rằng: - Công tử trốn đi ở ngoài, hơn 10 năm nay, các nước nhỏ còn có ý khinh bỉ, huống chi là nước lớn; nay nước Sở lại trọng đãi như vậy, cũng là lòng trời xui khiến, xin Công tử cứ nhận. Trùng Nhĩ mới nhận lễ. Sở Thành Vương tiếp đãi rất cung kính. Trùng Nhĩ ứng đối cũng rất lễ phép. Hai người rất tương đắc. Trùng Nhĩ mới ở yên nước Sở. Một hôm, Sở Thành Vương cùng với Trùng Nhĩ đi săn ở đất Vân Mộng. Sở Thành Vương khoe khoang võ nghệ, bắn luôn hai phát, trúng được một con hươu và một con thỏ. Các tướng sụp lạy để chúc mừng. Bỗng có một con gấu chạy qua trước xe, Sở Thành Vương trông thấy, bảo Trùng Nhĩ rằng: - Sao Công tử không bắn đi? Trùng Nhĩ tay rút mũi tên, để vào cái cung; miệng lẩm nhẩm khấn rằng: - Nếu ta được về làm vua nước Tấn thì xin cho phát tên này trúng vào chân phải con gấu. Nói xong, giương cung ra bắn, trúng ngay vào chân phải con gấu. Sở Thành Vương kinh sợ cái tài Trùng Nhĩ mà khen rằng: - Công tử bắn giỏi lắm! Được một lúc, bỗng nghe tiếng quân sĩ huyên náo, kêu rầm cả lên. Sở Thành Vương thấy lạ, sai người hỏi. Quân sĩ về báo rằng: - Có một con thú ở trong hang núi chạy ra, giống gấu mà không phải gấu, mũi như mũi voi, đầu như đầu sư tử, chân như chân hổ, lông như lông sài, bờm như bờm dã thỉ, đuôi như đuôi trâu, mình to hơn mình ngựa, vằn nó đen trắng nham nhở, gươm giáo cung tên cũng không làm chết được. Nó ăn sắt như ăn bùn, dẫu những thỏi sắt bằng cái trục xe, mà nó cũng nhai biến ra được. Nó lại nhanh nhẹn lắm, người ta không thể trị nổi, bởi thế nên quân sĩ sợ hãi mà huyên náo cả lên. Sở Thành Vương bảo Trùng Nhĩ rằng: - Công tử sinh trưởng ở trung quốc, tất biết tên giống thú ấy. Trùng Nhĩ ngoảnh lại nhìn Triệu Thôi. Triệu Thôi nói: - Giống thú ấy tên là con mạc, bởi kim khí ở trong đất mà sinh ra, đầu nhỏ chân thấp, hay ăn các thứ đồng và sắt. Đem nước tiểu của nó mà tưới vào các loài kim thì các loài kim đều chảy ra nước cả. Xương nó rắn mà đặc, trong không có tủy, dùng làm gậy chống được. Da nó dùng làm chăn đắp, có thể trừ được những thứ lam chướng. Sở Thành Vương nói: - Thế thì dùng cách gì mà trị nó được? Triệu Thôi nói: - Da thịt nó đều như sắt cả, chỉ có một đường lỗ mũi là có thể dùng ngọn giáo bằng thép mà đâm vào; hoặc dùng lửa mà đốt lên thì chết ngay, bởi vì loài kim thường hay kỵ lửa. Triệu Thôi vừa nói xong, Ngụy Thù ở bên cạnh quát to lên rằng: - Tôi không cần phải dùng đồ binh khí, xin bắt sống được con thú ấy đem về dâng đại vương. Nói xong, liền ở trên xe bước xuống, chạy đi để bắt con thú ấy. Sở Thành Vương bảo Trùng Nhĩ rằng: - Tôi và Công tử, ta cùng đi xem ra làm sao. Nói xong, liền giục đánh xe đi để xem. Ngụy Thù trông thấy con thú ấy tức khắc nắm tay xông vào, đánh luôn mấy cái, con thú ấy không sợ hãi gì cả, kêu rầm rĩ lên như tiếng trâu rống, rồi chồm đứng dậy, thè lưỡi liếm Ngụy Thù mất cả một mảnh áo giáp. Ngụy Thù nổi giận, liền nhẩy mạnh một cái, cưỡi ngay lên mình con thú, hai tay bóp chặt lấy cổ. Con thú ấy vừa chồm vừa giãy, mà Ngụy Thù vẫn cưỡi ở trên lưng. Được một lúc, con thú ấy ngạt hơi, nằm phục vị xuống, không thể cựa quậy được. Ngụy Thù nhảy xuống, nắm lấy vòi con thú lôi đến trước mặt Sở Thành Vương và Trùng Nhĩ. Triệu Thôi sai quân sĩ lấy lửa hun vào đầu vòi, hơi lửa thấu vào, con thú ấy mềm cả mình mẩy ra, bấy giờ Ngụy Thù mới buông tay rút thanh bảo kiếm để chém, nhưng chém không đứt. Triệu Thôi nói: - Muốn lột lấy da con thú ấy thì phải hun lửa mới được. Sở Thành Vương theo lời, truyền cho quân sĩ đem lửa ra hun rồi lột da con thú ấy. Sở Thành Vương bảo Trùng Nhĩ rằng: - Các ngươi theo hầu Công tử thực là những tay hào kiệt, nước tôi không được ai như thế! Bấy giờ tướng nước Sở là Thành Đắc Thần đứng ở bên cạnh, hơi có ý không phục, liền nói với Sở Thành Vương rằng: - Đại vương khen bày tôi nước Tấn là người có dũng lực, tôi xin cùng với người nước Tấn đấu võ. Sở Thành Vương không cho, lại bảo Thành Đắc Thần rằng: - Người ta là khách, mình nên kính trọng mới phải. Ngày hôm ấy đi săn về, bày tiệc uống rượu rất vui vẻ. Trong khi ăn tiệc, Sở Thành Vương bảo Trùng Nhĩ rằng: - Khi Công tử đã về nước rồi, định lấy gì để đền ơn nước Sở tôi. Trùng Nhĩ nói: - Các đồ châu ngọc và con gái thì đại vương chẳng thiếu gì; còn các đồ sản vật thì quí quốc lại nhiều hơn nước tôi, tôi biết lấy gì mà đền ơn đại vương được. Sở Thành Vương vừa cười vừa nói: - Dẫu thế nào cũng tất có đền ơn, xin Công tử cho biết trước. Trùng Nhĩ nói: - Nhờ cái uy linh của đại vương mà tôi về nước Tấn được thì tôi xin cùng với đại vương giao hiếu để cho dân hai nước được yên ổn; hoặc bất đắc dĩ mà cùng với đại vương giao chiến nữa thì xin tạm lui trong ba xá để nhường đại vương. Tiệc xong, Thành Đắc Thần (tướng nước Sở) có ý tức giận, nói với Sở Thành Vương rằng: - Đại vương trọng đãi Trùng Nhĩ như thế, mà Trùng Nhĩ nói nhiều câu không được lịch sự, vậy thì ngày khác về nước Tấn, tất nhiên phụ ơn nước ta, xin đại vương cho phép tôi giết đi. Sở Thành Vương nói: - Công tử Trùng Nhĩ là người hiền, các người đi theo hầu cũng đều là những bậc tài giỏi cả, tựa hồ như có trời giúp; nước Sở ta cũng không nên trái ý Trời. Thành Đắc Thần nói: - Nếu đại vương không giết Trùng Nhĩ thì nên bắt lấy mấy người trong bọn Hồ Yển và Triệu Thôi, chớ để cho con hổ lại thêm cánh. Sở Thành Vương nói: - Dẫu bắt người ta ở lại, mình cũng không dùng được người ta, chỉ làm cho người ta oán, nay ta đang làm ơn với Trùng Nhĩ, không nên như thế. Bấy giờ vua nước Lương vô đạo, không biết thương dân, chỉ chăm về sự đắp thành đào hào, dân trong nước ai cũng ta oán, nhiều người trốn sang nước Tần. Tần Mục công thấy lòng dân oán vua Lương như vậy, liền sai Bách Lý Hề cử binh sang đánh lấy nước Lương. Bấy giờ con Tấn Huệ công là thế tử Ngữ vẫn ở làm con tin bên nước Tần đã lâu, nay nghe tin Tần Mục công đem quân sang đánh nước Lương, mới có lòng oán giận nước Tần (nguyên mẹ thế tử Ngữ là người nước Lương). Sau nghe tin Tấn Huệ công bị bệnh ốm mới nghĩ thầm trong bụng rằng: - Nay ta một mình ở nước ngoài, vạn nhất mà phụ thân ta mất đi, các quan đại phu lại lập người khác lên nối ngôi thì làm thế nào, chi bằng ta trốn về là hơn. Nghĩ xong, đêm hôm ấy nói chuyện với vợ là Hoài Doanh, rồi rủ vợ cùng trốn về nước Tấn. Hoài Doanh ứa nước mắt xuống đáp rằng: - Chúa công sai thiếp nâng khăn sửa túi hầu thế tử, là muốn khiến cho thế tử khỏi nhớ nhà, nếu thiếp lại đi theo thế tử thì tội to lắm! Thế tử muốn về cũng là phải, xin thế tử cứ tùy tiện, đừng nói chuyện với thiếp. Thiếp không dám theo thế tử, nhưng cũng xin giấu kín cho thế tử, mà không nói với ai cả. Thế tử Ngữ trốn về nước Tấn. Tần Mục công nghe tin thế tử Ngữ trốn đi, có ý giận lắm, bảo các quan đại phu rằng: - Hai cha con Di Ngô đều phụ ơn ta, ta tất phải báo thù. Nói xong, lại phàn nàn rằng: - Tiếc thay! Bấy giờ ta không lập Trùng Nhĩ lên làm vua nước Tấn! Tần Mục công tức khắc sai người đi dò la tông tích Trùng Nhĩ xem ở nước nào; nghe tin Trùng Nhĩ đang ở nước Sở đã mấy tháng nay, liền bảo công tôn Chi sang nước Sở để đón Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ giả cách nói với Sở Thành Vương rằng: - Tôi sang đây là có ý muốn nhờ đại vương, không muốn lại phiền đến vua Tần nữa. Sở Thành Vương nói: - Nước Sở tôi cùng với nước Tấn xa cách nhau lắm, mà nước Tần thì tiếp giáp với nước Tấn. Vua nước Tần vốn là người hiền, nay lại không bằng lòng với Di Ngô, ấy là một cái cơ hội trời giúp cho Công tử đó, Công tử nên đi. Trùng Nhĩ tạ ơn Sở Thành Vương, rồi đi sang nước Tấn. Tần Mục công nghe tin Trùng Nhĩ đến, mừng rỡ tiếp đón một cách rất trọng thể. Mục Cơ (vợ Tần Mục công) cũng kính mến Trùng Nhĩ mà ghét thế tử Ngữ, mới nói với Tần Mục công xin đem nàng Hoài Doanh gả cho Trùng Nhĩ. Tần Mục công bảo Mục Cơ báo trước với Hoài Doanh. Hoài Doanh nói: - Thiếp đã tủi phận mà kết duyên với thế tử Ngữ rồi, nay lại đem thân hầu hạ người khác hay sao! Mục Cơ nói: - Thế tử Ngữ quyết không sang đây nữa. Nay Trùng Nhĩ là người hiền mà lắm kẻ giúp, tất nhiên được về làm vua; nếu nhà ngươi kết duyên với Trùng Nhĩ thì khi Trùng Nhĩ về làm vua, tất nhiên nhà ngươi được lập lên làm phu nhân, thành ra Tần Tấn hai nước, đời đời cùng kết thân với nhau mãi. Hoài Doanh nín lặng giờ lâu, rồi nói rằng: - Nếu như vậy, thiếp có tiếc gì một thân thiếp mà chẳng khiến cho hai nước giữ được tình hòa hiếu. Tần Mục công lại sai công tôn Chi nói chuyện với Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ ngại về một điều Công tử Ngữ là cháu gọi mình bằng chú, toan từ chối, không nhận. Triệu Thôi nói với Trùng Nhĩ rằng: - Tôi nghe nói Hoài Doanh là người đẹp mà có tài, nước Tần vẫn có lòng yêu lắm, nếu ta muốn nhờ sức nước Tần thì nên phải lấy con gái nước Tần mới được, xin Công tử chớ từ chối. Trùng Nhĩ lại bàn với Hồ Yển. Hồ Yển hỏi: - Nay Công tử về nước, định làm tôi thế tử Ngữ, hay là định thay thế tử Ngữ mà lên làm vua? Trùng Nhĩ nín lặng, không nói gì cả. Hồ Yển nói: - Công tử định làm tôi thế tử Ngữ thì Hoài Doanh là quốc mẫu; nếu định thay thế tử Ngữ mà lên làm vua thì Hoài Doanh tức là người cừu địch, lại còn ngại gì nữa! Trùng Nhĩ có ý thẹn. Triệu Thôi nói: - Ta còn định cướp ngôi của thế tử Ngữ, huống chi là vợ. Muốn nên việc lớn mà còn giữ tiết nhỏ thì sau hối không kịp! Trùng Nhĩ nghe nói, mới thuận kết duyên với Hoài Doanh. Công tôn Chi vào nói với Tần Mục công. Tần Mục công chọn ngày tốt, rồi cho làm lễ cưới. Hoài Doanh nhan sắc đẹp hơn Tề Khương. Trùng Nhĩ mừng lắm, quên hết những sự khó nhọc trong khi đi đường. Tần Mục công vốn trọng Công tử Trùng Nhĩ, lại thêm có tình thân thuộc, càng hậu đãi Trùng Nhĩ hơn. Bọn Triệu Thôi và Hồ Yển cũng nhân dịp được kết giao với các quan đại phu nước Tần là bọn Kiển Thúc, Bách Lý Hề và công tôn Chi để bàn sự phục quốc. Thế tử Ngữ từ khi ở nước Tần trốn về, vào yết kiến Tấn Huệ công. Tấn Huệ công mừng lắm, nói: - Ta yếu đau đã lâu ngày, đang buồn rằng không có người phó thác, nay con trốn về đây được, ta mới yên lòng. Tháng chín năm ấy thì Tấn Huệ công đau nặng quá, mới gọi Lã Di Xanh và Khước Nhuế vào mà dặn rằng: - Hai ngươi nên cố sức giữ gìn cho thế tử Ngữ. Hiện nay các vị công tử, không phải lo ngại ai cả, chỉ nên phòng có Trùng Nhĩ mà thôi. Lã Di Xanh và Khước Nhuế sụp lạy xin vâng mệnh. Đêm hôm ấy, Tấn Huệ công mất. Lã Di Xanh và Khước Nhuế tôn thế tử Ngữ lên nối ngôi, tức là Tấn Hoài công. Tấn Hoài công lo Trùng Nhĩ ở ngoài, tất có ngày sinh biến, mới hạ lệnh rằng: - Phàm những người bày tôi nước Tấn theo Trùng Nhĩ đi trốn, hạn trong bảy tháng, họ hàng ở nhà phải viết thư gọi về. Ai đúng trong hạn mà về thì tha tội, lại được phục chức cũ; nếu quá hạn không về, đều kết án xử tử vắng mặt, mà cha con anh em ở nhà cũng bắt phải tội chết. Lão quốc cữu là Hồ Đột có hai con: Hồ Mao và Hồ Yển đều theo Trùng Nhĩ ở nước Tần. Khước Nhuế khuyên Hồ Đột nên viết thư gọi về. Hồ Đột nhất định không nghe. Khước Nhuế vào nói với Tấn Hoài công rằng: - Hai con của Hồ Đột đều là người tài giỏi cả, nay theo Trùng Nhĩ, khác nào như hổ thêm cánh, mà Hồ Đột không chịu gọi về thì cũng nên nghi lắm, chúa công thử gọi hắn vào mà bảo, xem ý tứ ra sao. Tấn Hoài công sai người đến triệu Hồ Đột. Hồ Đột biết ý, cùng với người nhà từ giã, rồi vào triều nói với Tấn Hoài công rằng: - Lão thần già ốm ở nhà, chẳng hay chúa công có việc gì mà triệu đến? Tấn Hoài công nói: - Hồ Mao và Hồ Yển ở nước ngoài, lão quốc cữu có viết thư gọi về hay không? Hồ Đột nói: - Tôi chưa viết thư gọi. Tấn Hoài công nói: - Ta đã có hạ lịnh "nếu quá hạn không về thì bắt tội thân thuộc ở nhà", lão quốc cữu không biết hay sao? Hồ Đột nói: - Hai con tôi theo hầu Trùng Nhĩ, cũng đã lâu ngày, tất phải một lòng trung với Trùng Nhĩ, cũng như các quan tại triều mà trung với chúa công. Giả sử nay hai con tôi có trốn về, tôi cũng kể tội mà giết đi, huống chi tôi lại còn gọi về làm gì! Tấn Hoài công nổi giận, sai hai người lực sĩ tuốt hai lưỡi gươm kề vào cổ Hồ Đột mà bảo rằng: - Nếu chịu gọi hai con về thì sẽ tha cho khỏi chết. Tấn Hoài công lại sai người đem giấy bút đến trước mặt Hồ Đột. Khước Nhuế cầm lấy tay Hồ Đột, bắt Hồ Đột phải viết. Hồ Đột kêu to lên rằng: - Không phải nắm tay, tự khắc ta viết! Nói xong viết mấy chữ thật to: "Con không hai cha, bày tôi không hai vua". Tấn Hoài công giận lắm, nói: - Mày không sợ chết à? Hồ Đột nói: - Tôi chỉ sợ làm con không giữ được đạo hiếu, làm bày tôi không giữ được đạo trung mà thôi! Còn như sự chết là thường, can chi mà sợ. Hồ Đột vươn cổ ra để cho mà đâm. Tấn Hoài công sai đem ra chém ở ngoài chợ. Quách Yển trông thấy, thở dài mà than rằng: - Chúa công mới lên nối ngôi, chưa có ân huệ gì cả, mà đã giết chết một người lão thần, thế thì chẳng bao lâu cũng hỏng mà thôi. Nói xong, tức khắc cáo ốm, không đi đến đâu cả. Người nhà Hồ Đột vội vàng trốn sang nước Tần để báo tin cho Hồ Mao và Hồ Yển biết. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 36 Tấn Hoài công trốn sang Cao Lương Tần Mục công phù lập Trùng Nhĩ Bấm để xem Hồ Mao và Hồ Yển theo Công tử Trùng Nhĩ ở nước Tần, nghe tin phụ thân là Hồ Đột bị Tấn Hoài công giết chết, liền vật mình lăn khóc. Triệu Thôi nói: - Người đã chết rồi, không thể sống lại được, dẫu thương cũng vô ích, chi bằng ta vào yết kiến Công tử để bàn việc phục quốc. Hồ Mao và Hồ Yển gạt nước mắt, cùng với Triệu Thôi vào yết kiến Trùng Nhĩ, rồi đem việc Hồ Đột bị hại nói với Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ bảo Hồ Mao và Hồ Yển rằng: - Hai ngươi chớ có lo phiền, chờ khi ta về nước, sẽ báo thù cho hai ngươi. Nói xong, liền đem việc nước Tấn vào nói với Tần Mục công. Tần Mục công nói: - Ấy là cái cơ hội Trời muốn cho Công tử trở về nước Tấn đó, Công tử chớ nên bỏ hoài! Tôi xin hết lòng mà giúp Công tử. Triệu Thôi đỡ lời Trùng Nhĩ mà nói với Tần Mục công rằng: - Nhà vua có lòng giúp thì xin giúp ngay cho, nếu để cho thế tử Ngữ (Tấn Hoài công) đã cải nguyên cáo miếu rồi thì vua tôi yên phận, cũng hơi khó một chút. Tần Mục công khen phải. Trùng Nhĩ cáo từ về nhà công quán. Bỗng nghe báo có người nước Tấn xin vào yết kiến để nói cơ mật. Trùng Nhĩ cho vào hỏi họ tên là gì? Người ấy sụp lạy mà nói rằng: - Tôi là con quan đại phu nước Tấn là Loan Chi, tên gọi Loan Thuẫn. Cha tôi thấy tân quân (Tấn Hoài công) bây giờ tính đa nghi mà lại tàn nhẫn, hay chém giết lắm, dân trong nước đều có lòng oán vậy mới sai tôi sang đây báo tin cho Công tử biết; nếu Công tử đem quân về đánh thì cha tôi xin làm nội ứng. Trùng Nhĩ mừng lắm đính ước với Loan Thuẫn, hẹn đến đầu năm sau thì về. Loan Thuẫn cáo từ trở về nước Tấn. Trùng Nhĩ khấn trời, rồi đem cỏ thi ra bói; bói được hào lục quẻ thái, liền gọi Hồ Yển vào đoán. Hồ Yển nói: - Quẻ này là một quẻ thượng cát, Công tử về nước, chẳng những được nối ngôi, lại có cơ làm bá chủ chư hầu nữa. Trùng Nhĩ đem lời nói của Loan Thuẫn bảo cho Hồ Yển biết. Hồ Yển nói: - Sáng mai Công tử nên vào nói với vua Tần để mượn quân về nước, chớ để chậm trễ. Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ vào yết kiến Tần Mục công. Tần Mục công không đợi cho Trùng Nhĩ phải nói, liền bảo với Trùng Nhĩ rằng: - Tôi đã biết Công tử đang nóng về sự phục quốc, để tôi xin thân hành đem quân đưa Công tử về. Trùng Nhĩ tạ ơn lui ra. Phi Báo nghe tin Tần Mục công sắp đem quân đưa Trùng Nhĩ về nước, mới xin làm tiên phong. Tần Mục công thuận cho. Tháng chạp năm ấy, Tần Mục công bày một tiệc rượu ở Cữu Long Sơn để thết đãi Trùng Nhĩ và bọn Triệu Thôi, tặng cho mỗi người một đôi bạch bích, rồi cử đại binh đưa về nước Tấn. Thế tử Doanh nước Tần cũng có lòng kính mến Trùng Nhĩ lắm, đi tiễn chân đến sông Vị Dương, mới từ biệt trở về. Đại binh nước Tần kéo đến bờ sông Hoàng Hà, Tần Mục công truyền bày tiệc cùng với Trùng Nhĩ uống rượu, rồi ân cần dặn Trùng Nhĩ rằng: - Khi Công tử về nước, chớ quên công của vợ chồng tôi. Nói xong, liền chia một nửa quân, sai công tôn Trí và Phi Báo đưa Trùng Nhĩ sang sông Hoàng Hà, còn mình thì đóng quân ở Hà Tây để mong đợi tin tức. Bấy giờ Hồ Thúc là người theo hầu Trùng Nhĩ, từ khi đi trốn đến giờ, vẫn coi giữ các hành lý, đã trải nhiều phen bị khổ sở đói khát ở nước Tào và nước Vệ, bởi vậy vẫn có tính hà tiện, bấy giờ thu nhập được bao nhiêu những đồ chiếu nát màn rách đều xếp xuống thuyền cả; đến những đồ cơm rượu còn thừa, cũng coi như của quí, đem cả xuống thuyền. Trùng Nhĩ trông thấy bật cười bảo rằng: - Ngày nay sắp về làm vua nước Tấn, thiếu gì đồ châu báu, dùng chi đến những vật hủ nát ấy! Nói xong, liền sai người đem quăng bỏ ở trên bờ sông, không còn để một thứ gì lại. Hồ Yển thở dài mà than rằng: - Công tử chưa được phú quí, đã quên bần tiện, mai sau có mới nới cũ, coi lũ chúng ta chẳng khác nào như những vật hủ nát ấy, chẳng cũng uổng cái công khó nhọc trong 19 năm trời lắm sao! Chi bằng ta nhân lúc chưa qua sông này mà từ giã bỏ đi, họa may ngày khác Công tử còn có lòng nghĩ đến. Hồ Yển đem một đôi ngọc bạch bích của Tần Mục công tặng cho khi trước, quì dâng Trùng Nhĩ mà nói rằng: - Nay Công tử qua sông Hoàng Hà này tức là đến địa giới nước Tấn, trong có bày tôi nước Tấn, ngoài có các tướng nước Tần thì ngôi vua nước Tấn chắc hẳn phải về tay Công tử, dẫu có tôi theo, cũng không ích gì; tôi xin ở lại nước Tần để làm ngoại thần của Công tử. Trùng Nhĩ giật mình kinh sợ hỏi rằng: - Ta đang muốn cùng với nhà ngươi hưởng phú quí, sao nhà ngươi lại nói như vậy? Hồ Yển nói: - Vì tôi tự xét mình có ba tội nên không dám theo. Trùng Nhĩ nói: - Ba tội là những tội gì: Hồ Yển trả lời: - Tôi theo giúp Công tử, mà để cho Công tử phải khốn khổ ở đất Ngũ Lộc, thế là một tội; để cho Công tử bị vua Tào và vua Vệ khinh bỉ, thế là hai tội; đánh lừa đem Công tử đi, để cho Công tử phải tức giận thế là ba tội. Ngày trước Công tử còn ở nước ngoài, nên tôi không dám từ chối, nay Công tử đã về đến đây, xin Công tử cho tôi ở lại nước Tần, vì tôi theo hầu trong bấy nhiêu năm, sức vóc đã già yếu lắm rồi, khác nào như những đồ chiếu nát màn rách, không thể dùng được nữa! Trùng Nhĩ ứa nước mắt xuống nói rằng: - Nhà ngươi trách ta, thế là phải lắm, ta xin chịu lỗi. Nói xong, liền sai Hồ Thúc đem những đồ vật bỏ đi ấy đều thu nhặt lại tất cả. Trùng Nhĩ lại ngoảnh mặt xuống sông Hoàng Hà mà thề rằng: - Nếu ta về nước mà quên công các ngươi, không cùng nhau hưởng phú quí thì xin trời tru đất diệt! Thề xong, lại cầm một viên bạch bích ném xuống sông Hoàng Hà mà nói rằng: - Xin có thần Hà Bá chứng minh cho! Bấy giờ Giới Tử Thôi ngồi ở chiếc thuyền bên cạnh, nghe thấy Trùng Nhĩ cùng với Hồ Yển ăn thề, cười mà nói rằng: - Công tử về nước, chẳng qua là tự ý Trời. Hồ Yển lại toan nhận lấy làm công mình hay sao! Nay ta ở đồng triều với những phường tham phú quí như thế, ta cũng xấu hổ lắm! Từ bấy giờ Giới Tử Thôi có ý muốn đi ẩn. Trùng Nhĩ qua sông Hoàng Hà, đi đến đất Lịnh Hồ. Quan trấn thủ ở đất Lịnh Hồ là Đặng Hồn đem quân ra chống giữ, bị Phi Báo chém chết. Các quan trấn thủ khác đều xin đầu hàng cả. Tấn Hoài công nghe báo, giật mình kinh sợ, sai Lã Di Xanh làm chánh tướng, Khước Nhuế làm phó tướng đem quân ra đóng ở đất Lư Liễu, để chống cự với quân nước Tần. Công tử Trí nước Tần, liền viết một bức thư làm lời nói của Tần Mục công, sai người đưa cho Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Trong thư đại lược nói rằng: "Nước Tần tôi làm ơn với nước Tấn nhiều lắm, mà cha con vua nước Tấn bây giờ lại đem lòng phụ ơn, coi nước Tần tôi như cừu địch; Công tử Trùng Nhĩ là người hiền, dân nước Tấn đều qui phục cả ấy là lòng Trời muốn cho làm vua nước Tấn đó. Nay tôi cử đại binh đóng ở trên sông Hoàng Hà, sai Công tử đưa Trùng Nhĩ về làm vua, nếu nhà ngươi biết nhân dịp này mà làm nội ứng thì sẽ tránh khỏi tai vạ về sau". Lã Di Xanh và Khước Nhuế xem xong bức thư, ngẩn người ra một lúc không biết nói thế nào cho được, muốn chống cự lại thì sợ quân nước Tần thế mạnh không thể địch nổi; muốn làm nội ứng để đón Trùng Nhĩ về làm vua thì lại sợ Trùng Nhĩ nhớ đến cái thù cũ mà giết mình để đền mạng cho Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ chăng, bởi mới ngần ngại mãi, sau mới nghĩ được một kế, liền viết thư trả lời Công tử Trí. Trong thư đại lược nói rằng: "Chúng tôi nay tự xét rằng đối với Công tử là người có tội vậy nên không dám bãi binh, nhưng bổn tâm chúng tôi thật vẫn muốn tôn phù Công tử, nếu chúng tôi được cùng với các quan theo hầu Công tử ngày nay mà ăn thề một câu rằng: - Sau này quyết không làm hại lẫn nhau, bấy giờ chúng tôi sẽ xin vâng mệnh". Công tử Trí đọc bức thư trả lời, biết là Lã Di Xanh và Khước Nhuế có ý hồ nghi, liền một mình lên xe đi đến đất Lư Liễu, vào yết kiến Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Lã Di Xanh và Khước Nhuế đón vào, rồi bày tỏ tâm sự cho Công tử Trí biết và nói rằng: - Chúng tôi vẫn muốn làm nội ứng, nhưng sợ Công tử Trùng Nhĩ không có lòng bao dung cho, vậy phải xin ăn thề. Công tử Trí nói: - Nếu nhà ngươi tạm lui quân về phía Tây Bắc, tôi sẽ nói lại với Công tử Trùng Nhĩ cho nhà ngươi được ăn thề. Lã Di Xanh và Khước Nhuế vâng lời, liền rút quân về đóng ở đất Châu Thành. Công tử Trí đem lời Lã Di Xanh và Khước Nhuế nói với Công tử Trùng Nhĩ, Công tử Trùng Nhĩ sai Hồ Yển và Công tử Trí đến đất Châu Thành ăn thề với Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Thề xong, Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người theo Hồ Yển đi nghênh tiếp Trùng Nhĩ đến đất Châu Thành. Tấn Hoài công chờ mãi, không thấy tin tức Lã Di Xanh và Khước Nhuế, mới sai Bột Đề đi đốc chiến. Bột Đề đi đến nửa đường, nghe tin Lã Di Xanh và Khước Nhuế rút quân về đất Châu Thành cùng với Hồ Yển và Công tử Trí giảng hòa, định đón Trùng Nhĩ về làm vua, vội vàng về báo tin cho Tấn Hoài công biết. Tấn Hoài công giật mình kinh sợ, liền triệu các quân triều thần vào để thương nghị. Các quan triều thần xưa nay vẫn mến phục Trùng Nhĩ; lại thấy Tấn Hoài công chỉ tin dùng Lã Di Xanh và Khước Nhuế cũng có ý chán, nay Lã Di Xanh và Khước Nhuế đã làm phản rồi, chúng mới bảo nhau: Người thì cáo ốm, người thì cáo bận việc nhà, không vào dự hội. Tấn Hoài công thở dài than rằng: - Chẳng ngờ chỉ vì ta trốn về để mếch lòng nước Tần, mà đến nỗi thế này! Bột Đề nói: - Nay các quan triều thần cùng tư ước với nhau để đón vua mới, thế thì chúa công nên phải tránh đi mới được; tôi xin theo hầu chúa công mà trốn sang đất Cao Lương. Tấn Hoài công nghe lời, cùng với Bột Đề đi trốn. Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người đón Công tử Trùng Nhĩ về, rồi sụp lạy xin lỗi Công tử Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ lấy lời ngọt ngào mà phủ dụ. Bọn Triệu Thôi cũng cùng với Lã Di Xanh và Khước Nhuế bày tỏ tâm phúc, không nghi kỵ điều gì cả. Lã Di Xanh và Khước Nhuế bằng lòng, mời Công tử Trùng Nhĩ vào đất Khúc Ốc. Các quan triều thần rủ nhau đến đất Khúc Ốc để nghênh tiếp, rồi rước về kinh thành. Công tử Trùng Nhĩ lên nối ngôi, tức là Tấn Văn công. Xét Tấn Văn công từ năm 43 tuổi trốn sang nước Địch, năm 55 tuổi trốn sang nước Tề, năm 61 sang ở nước Tần, đến bấy giờ phục quốc lên làm vua thì đã 62 tuổi. Tấn Văn công khi đã lên làm vua rồi, mật sai người sang đất Cao Lương để giết Tấn Hoài công. Tấn Hoài công lên làm vua từ tháng chín năm trước, đến tháng hai năm sau thì bị giết, đầu đuôi mới được có 6 tháng. Bột Đề thấy Tấn Hoài công bị giết, lại trốn về nước Tấn. Tấn Văn công bày tiệc thết đãi quan tướng nước Tần là Công tử Trí, và khao thưởng quân sĩ. Phi Báo sụp lạy Tấn Văn công, xin phép cải táng cho cha là Phi Trịnh Phủ. Tấn Văn công thuận cho. Tấn Văn công muốn giữ Phi Báo ở lại để dùng, nhưng Phi Báo chối từ mà nói rằng: - Tôi đã trót sang làm quan với Tần thì không dám lại bỏ mà về với chúa công. Phi Báo cáo từ Tấn Văn công, rồi cùng với Công tử Trí trở về đất Hà Tây, báo tin cho Tần Mục công biết. Tần Mục công rút quân về nước. Lã Di Xanh và Khước Nhuế dẫu sợ thế nước Tần phải đón Trùng Nhĩ (Tấn Văn công) về nối ngôi, nhưng trong lòng vẫn nghi kỵ, lại xấu hổ với bọn Triệu Thôi, mới bàn nhau làm phản, lập mưu đốt cung mà giết Trùng Nhĩ, rồi lập một vị công tử khác; ngặt vì khắp trong triều bấy giờ không biết mưu với ai cho được, chỉ có Bột Đề là một kẻ cừu địch với Tấn Văn công khi trước, có thể bàn với hắn được, liền sai người đi gọi Bột Đề. Bột Đề thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người gọi, vội vàng đến ngay. Lã Di Xanh và Khước Nhuế đem việc đốt cung nói với Bột Đề. Bột Đề bằng lòng nhận lời. Ba người cùng nhau uống máu ăn thề, hẹn ngày khởi sự. Bột Đề ngoài mặt dẫu nhận lời, nhưng trong lòng không cho làm phải, nghĩ thầm một mình rằng: - Ngày trước ta phụng mệnh Tấn Hiến công và Tấn Huệ công đi giết Trùng Nhĩ, chẳng qua là lúc bấy giờ ta chỉ biết một lòng vì chủ mà thôi. Nay Tấn Hoài công đã chết rồi, Trùng Nhĩ lên nối ngôi, nước Tấn mới được yên ổn; nếu ta lại làm những việc đại nghịch bất đạo ấy thì chẳng những rằng Trùng Nhĩ là người có Trời giúp, chưa chắc ta đã làm gì nổi, mà giả sử có giết được Trùng Nhĩ nữa thì các người theo hầu Trùng Nhĩ cũng vị tất đã để cho ta yên, chi bằng ta cáo giác việc này thì lại là một đường tiến thân được. Bột Đề lại nghĩ thầm: - Mình là người có tội, vào gọi cửa cung sao được. Đêm hôm ấy đến yết kiến Hồ Yển. Hồ Yển trông thấy Bột Đề, giật mình kinh sợ hỏi rằng: - Nhà ngươi đối với chúa công ta là người có tội to lắm, sao không tìm đường trốn tránh cho xa, mà lại đang đêm tới đây để làm gì? Bột Đề nói: - Tôi đến đây là có ý muốn xin vào yết kiến chúa công, nhờ quốc cữu tiến dẫn cho. Hồ Yển nói: - Nhà ngươi vào yết kiến chúa công thì thật là dấn thân vào chỗ chết! Bột Đề nói: - Tôi có một việc cơ mật, muốn vào yết kiến để nói với chúa công, mà cứu lấy tính mệnh cho người trong một nước. Hồ Yển liền đưa Bột Đề đến cửa cung, rồi gọi cửa vào trước, đem việc Bột Đề xin vào yết kiến báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói: - Bột Đề còn có việc gì mà bảo là cứu được tính mệnh cho người trong một nước, chẳng qua là hắn tạ sự để nhờ quốc cữu tiến dẫn đó mà thôi. Hồ Yển nói: - Chúa công nay mới lên nối ngôi, cũng nên bỏ điều hiềm khích cũ mà cầu lời trung ngôn mới phải, xin chúa công cứ cho vào. Tấn Văn công có ý ngần ngừ, liền bảo nội thị truyền mắng Bột Đề rằng: - Ngày trước nhà ngươi chém đứt vạt áo của ta, cái áo hãy còn đó, ta trông thấy lúc nào vẫn còn có ý sờn lòng; sau nhà ngươi lại phụng mệnh Tấn Huệ công sang nước Địch để định giết ta, may mà lòng Trời giúp ta, nhà ngươi không thể giết nổi. Nay ta về nước, nhà ngươi còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa! Thôi thì nhà ngươi nên tìm đường trốn tránh cho xa, kẻo ta bắt mà trị tội đó. Bột Đề cười khanh khách đáp rằng: - Chúa công ở nước ngoài lưu lạc 19 năm trời mà còn chưa hiểu thấu được thế tình hay sao! Hiếu Công ngày xưa là thân phụ của chúa công, mà Huệ Công cũng là thân đệ của chúa công đó, thế mà cha muốn giết con, em muốn giết anh, huống chi là Bột Đề này. Bột Đề này là một đứa tiểu thần, bấy giờ chỉ biết có Hiếu Công và Huệ Công mà thôi, nào đã biết chúa công là ai. Ngày xưa Quản Di Ngô vì Công tử Củ mà bắn trúng vào đai của Tề Hoàn công, thế mà Tề Hoàn công dùng Quản Di Ngô để nên được nghiệp bá; nếu Tề Hoàn công cũng nghĩ như bụng chúa công ngày nay thì thường phải báo cái thù bắn trúng vòng đai, mà bỏ cái cơ nghiệp bá chủ hay sao? Nay chúa công không cho tôi vào yết kiến, tôi cũng chẳng tổn hại gì, chỉ e rằng tôi đã đi rồi thì cái tai vạ của chúa công sắp đến nơi đấy! Nội thị vào nói với Tấn Văn công. Hồ Yển nói: - Bột Đề tới đây, tất có biết được chuyện gì mà muốn nói, xin chúa công cứ cho vào. Tấn Văn công sai người triệu Bột Đề vào. Bột Đề vào đến trong cung, không xin lỗi những việc về trước, chỉ sụp lạy hai lạy, rồi nói: - Tôi xin chúc mừng cho chúa công! Tấn Văn công nói: - Ta lên nối ngôi đã lâu, bây giờ nhà ngươi mới đến chúc mừng, chẳng cũng chậm lắm sao! Bột Đề nói: - Chúa công lên nối ngôi, cũng chưa đủ chúc mừng, nay gặp Bột Đề, mới giữ vững được ngôi ấy, vậy tôi xin chúc mừng chúa công. Tấn Văn công lấy làm lạ, đuổi hết người xung quanh đi rồi hỏi Bột Đề. Bột Đề đem việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế mưu làm phản kể lại một lượt, rồi nói với Tấn Văn công rằng: - Chúa công nên tức khắc cùng với quốc cữu (Hồ Yển) trốn sang nước Tần, rồi đem quân Tần về thì mới có thể dẹp yên được cái loạn này. Tôi xin ở nhà để làm nội ứng mà giết Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Hồ Yển nói: - Việc đã nguy cấp, tôi xin theo đi, còn công việc trong nước đã có Triệu Thôi lo liệu. Tấn Văn công lại dặn Bột Đề rằng: - Nhà ngươi nên cố sức, rồi ta sẽ trọng thưởng. Bột Đề cáo từ lui ra. Tấn Văn công cùng với Hồ Yển bàn định gọi mấy người nội thị tâm phúc vào, dặn bảo các công việc, và cấm không được tiết lộ ra cho ai biết. Đến canh năm đêm hôm ấy, Tấn Văn công giả cách cảm hàn đau bụng, sai một đứa nội thị nhỏ cầm đèn đưa ra nhà xí, rồi theo cửa sau, cùng với Hồ Yển lên xe trốn sang nước Tần. Sáng hôm sau, trong cung huyên truyền là chúa công có bệnh, các quan kéo đến hỏi thăm, đều không được vào. Người nội thị canh cửa nói: - Đêm hôm qua chúa công bị bệnh cảm hàn, có truyền cho chúng tôi nói với các quan hẹn trong mấy hôm nữa sẽ ra tiếp kiến. Các quan đều tưởng là Tấn Văn công ốm thật, Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe Tấn Văn công có bệnh, trong lòng mừng thầm mà nói rằng: - Thế mới thật Trời giúp cho ta giết Trùng Nhĩ! Tấn Văn công cùng với Hồ Yển đi đến địa giới nước Tần, sai người đưa mật thư cho Tần Mục công, ước đến hội nhau ở đất Vương Thành. Tần Mục công nghe nói Tấn Văn công thay hình đổi dạng trốn sang nước Tần, biết là trong nước Tấn có sự biến loạn, mới giả cách nói đi săn, rồi đến đất Vương Thành hội nhau với Tấn Văn công. Tấn Văn công đem việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm phản nói cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công cười mà nói rằng: - Ý Trời đã định, Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm gì nổi! Tôi chắc rằng bọn Triệu Thôi ở nhà tất dẹp tan đám giặc ấy, nhà vua chớ ngại. Nói xong, liền sai công tôn Chi đem quân ra đóng ở cửa sông Hoàng Hà để nghe ngóng tin tức. Tấn Văn công hãy ở tạm đất Vương Thành. Bột Đề sợ Lã Di Xanh và Khước Nhuế có y nghi, mới giả cách đến nhà Khước Nhuế để bàn định mưu kế, rồi cùng với Lã Di Xanh vào đốt cung và chực giết Trùng Nhĩ, nhưng không thấy Trùng Nhĩ đâu cả, mới sợ hãi đem nhau đi trốn. Bọn Triệu Thôi tưởng là trong cung thất hỏa, vội vàng đem quân đi cứu, mãi đến sáng rõ mới biết là Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm phản; lại tìm không thấy Tấn Văn công, đều giật mình kinh sợ, sau hỏi bọn nội thị mới biết là Tấn Văn công đã đi đâu mất từ mấy hôm trước rồi, Triệu Thôi nói: - Việc này hỏi đến Hồ quốc cữu (Hồ Mao và Hồ Yển) thì mới biết rõ được. Hồ Mao nói: - Em tôi là Hồ Yển, trong mấy hôm trước vào cung mà đến nay cũng chưa thấy về, tôi chắc rằng hắn đi theo chúa công đó, ý chừng chúa công biết cái mưu của Lã Di Xanh và Khước Nhuế, nên mới phòng bị trước như vậy. Nay chúng ta chỉ nên sửa sang lại các nơi cung điện để đợi chúa công về. Ngụy Thù nói: - Bọn phản nghịch định đốt cung mà giết chúa công, tội thật đáng chết, nay dẫu chạy trốn, chắc cũng chưa xa, để tôi xin đem quân đi đuổi bắt. Triệu Thôi nói: - Hai đứa phản nghịch ấy dẫu trốn đi, chẳng bao lâu rồi cũng bắt được, nay chúa công đi vắng, ta không nên động binh. Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe tin Tấn Văn công chưa chết, sợ các quan đại phu cử binh đuổi theo mới định trốn sang nước ngoài, nhưng chưa biết đến nước nào cho tiện. Bột Đề lại đánh lừa rằng: - Vua nước Tấn lập hay là bỏ, đều tự ý nước Tần cả, huống chi hai ngài cùng với vua Tần cũng có quen biết từ trước, nay hai ngài cứ sang đầu với vua Tần, nói dối là trong cung thất hỏa, Trùng Nhĩ đã chết cháy rồi, và xin đón Công tử Ung về làm vua. Khi Công tử Ung đã về nối ngôi thì Trùng Nhĩ dẫu sống cũng khó lòng mà tranh lại nổi. Lã Di Xanh nói: - Vua Tần khi trước đã cùng ta ăn thề ở đất Vương Thành, nay ta nên sang đầu, nhưng chẳng biết vua Tần có lòng dung nạp hay không? Bột Đề nói: - Để tôi xin sang trước nói xem thế nào, nếu vua Tần không nghe, bấy giờ ta sẽ liệu kế. Bột Đề đi đến cửa sông Hoàng Hà, nghe tin công tôn Chi đóng quân ở bên kia sông, liền đem sự tình đầu đuôi kể lại cho công tôn Chi biết. Công tôn Chi nói: - Bọn phản nghịch đã sang xin đầu như vậy, ta nên dụ mà giết đi. Nói xong, liền viết một bức thư giao Bột Đề cầm đưa cho Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Trong thư đại lược nói rằng: "Khi Trùng Nhĩ về nước, có ước với chúa công tôi xin nộp đất, vậy nên chúa công tôi sai đóng quân ở đây để đợi cấm địa giới, sợ lại như Tấn Huệ công ngày trước; nay nghe tin Trùng Nhĩ bị chết cháy, mà hai người lại có ý muốn đón Công tử Ung, chúa công tôi cũng lấy làm bằng lòng lắm, xin hai ngài nên mau mau sang ngay để cùng bàn định". Lã Di Xanh và Khước Nhuế tiếp được thư, mừng lòng đi ngay. Đi đến đất Hà Tây, công tôn Chi ra nghênh tiếp, rồi bày tiệc thết đãi. Lã Di Xanh và Khước Nhuế vững dạ, không nghi ngại gì cả. Công tôn Chi sai người phi báo cho Tần Mục công, để Tần Mục công đến ở Vương Thành trước. Lã Di Xanh và Khước Nhuế chơi bời trong ba ngày, rồi nói với công tôn Chi xin vào yết kiến Tần Mục công. Công tôn Chi nói: - Chúa công tôi hiện đang ở đất Vương Thành, mời hai ngài qua đấy để cùng hội một thể; còn quân sĩ xin cho đóng lại đây, chờ khi hai ngài trở về, bấy giờ sẽ kéo sang nước Tấn, Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe lời, theo công tôn Chi sang đất Vương Thành. Khi đến đất Vương Thành, Bột Đề cùng công tôn Chi vào thành trước, yết kiến Tần Mục công. Tần Mục công sai Phi Báo ra đón Lã Di Xanh và Khước Nhuế, rồi bảo Tấn Văn công nấp sẵn ở phía sau bức bình phong, Lã Di Xanh và Khước Nhuế vào yết kiến Tần Mục công nói với Tần Mục công xin lập Công tử Ung. Tần Mục công nói: - Công tử Ung hiện đã ở đây rồi. Lã Di Xanh và Khước Nhuế đồng thanh mà nói rằng: - Nếu vậy xin cho chúng tôi được yết kiến vua mới. Tần Mục công gọi: - Vua mới đâu, xin mời ra đây! Bỗng thấy phía sau cái bình phong có một vị quí nhân, từ từ bước ra. Lã Di Xanh và Khước Nhuế ngẩng mặt lên nhìn xem ai thì tức là Tấn Văn công Trùng Nhĩ. Lã Di Xanh và Khước Nhuế giật mình kinh sợ, chẳng còn hồn vía nào cả, sụp lạy xin lỗi. Tần Mục công mời Tấn Văn công cùng ngồi. Tấn Văn công mắng Lã Di Xanh và Khước Nhuế rằng: - Mấy đứa nghịch tặc kia, ta có xử tệ gì với mày mà mày làm phản, nếu không có Bột Đề cáo giác, khiến cho ta biết mà tránh đi thì ngày nay ta đã ra tro rồi! Bấy giờ Lã Di Xanh và Khước Nhuế mới biết là Bột Đề làm phản mình, liền nói với Tấn Văn công rằng: - Bột Đề thật cùng với chúng tôi uống máu ăn thề, xin chúa công chớ có tha tội. Tấn Văn công cười mà nói rằng: - Nếu Bột Đề không cùng với các ngươi uống máu ăn thề thì sao biết hết được cái mưu của các ngươi như vậy! Nói xong, liền truyền cho võ sĩ đem Lã Di Xanh và Khước Nhuế ra chém, lại sai Bột Đề đi giám sát. Được một lúc, võ sĩ đem đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế nộp ở dưới thềm. Tấn Văn công sai Bột Đề đem đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế đến đất Hà Tây để phủ dụ quân sĩ, lại báo tin về cho người trong nước biết. Triệu Thôi cùng các quan đại phu rủ nhau đi đón Tấn Văn công. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 37 Giới Tử Thôi cõng mẹ đi ẩn Vương tử Đái tham sắc làm càn Bấm để xem Tấn Văn công đã giết được Lã Di Xanh và Khước Nhuế rồi, đứng dậy tạ ơn Tần Mục công và xin lấy lễ phu nhân đón nàng Hoài Doanh về nước. Tần Mục công nói: - Tiện nữ khi trước đã thất thân với Công tử Ngữ rồi, có đâu lại dám đương cái lễ tôn quí ấy. Tấn Văn công nói: - Nước tôi cùng với quí quốc giao hiếu đã mấy đời nay, nếu không dùng lễ phu nhân thì sao làm chủ được việc tôn tự, xin nhà vua chớ nên từ chối. Tần Mục công mừng lắm, liền cho Tấn Văn công làm lễ đón Hoài Doanh về nước. Khi về đến nước Tấn, Tấn Văn công lập Hoài Doanh làm phu nhân. Tấn Văn công nghĩ đến việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm phản, có lòng tức giận, muốn giết hết những đồ đảng. Triệu Thôi can rằng: - Huệ công và Hoài công ngày xưa vì nghiêm khắc quá mà người ta oán, nay Chúa công nên khoan dung mới được. Tấn Văn công nghe lời, hạ lệnh đại xá cho đồ đảng Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Những đồ đảng Lã Di Xanh và Khước Nhuế dẫu thấy Tấn Văn công đã đại xá cho, nhưng trong lòng không được yên, thường hay nói nhiều câu càn dỡ. Tấn Văn công thấy vậy, vẫn có ý lo. Một hôm, mới mờ mờ sáng, có kẻ tiểu lại là Đầu Tu xin vào yết kiến. Tấn Văn công đang xõa tóc gội đầu, nghe báo có Đầu Tu đến, nổi giận nói rằng: - Người ấy khi trước lấy trộm những tiền bạc của ta, khiến cho ta không có gì mà tiêu dùng, phải ăn xin ở nước Tào và nước Vệ, bây giờ còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa! Nói xong, liền sai nội thị đuổi ra. Đầu Tu nói: - Có phải Chúa công đang gội đầu đó không? Người nội thị giật mình kinh sợ, nói: - Tại sao nhà ngươi biết? Đầu Tu nói: - Người ta lúc gội đầu cúi gập mình xuống, trong ruột điên đảo cả lên; trong ruột đã điên đảo thì lời nói ra tất cũng điên đảo, bởi thế mà không cho ta vào yết kiến. Ngày trước Chúa công dung tha cho Bột Đề mà thoát được cái nạn Lã Di Xanh và Khước Nhuế, bây giờ lại không dung tha cho Đầu Tu này được hay sao! Đầu Tu đến đây tất là có kế sách giữ yên được nước Tấn, nếu Chúa công không cho vào yết kiến thì Đầu Tu từ đây trốn đi! Người nội thị vội vàng vào tâu với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói: - Đó là điều lỗi của ta! Nói xong, liền đội mũ mặc áo chỉnh tề, rồi cho Đầu Tu vào yết kiến. Đầu Tu vào, sụp lạy xin lỗi, rồi nói với Tấn Văn công rằng: - Chúa công có biết những đồ đảng Lã Di Xanh và Khước Nhuế độ bao nhiêu người không? Tấn Văn công cau lông mày lại mà đáp rằng: - Nhiều lắm! Đầu Tu nói: - Bọn ấy tự nghĩ mình tội to, dẫu Chúa công có lệnh đại xá rồi, nhưng vẫn đem lòng nghi ngại, Chúa công nên nghĩ cách nào mà khiến cho chúng được yên tâm. Tấn Văn công nói: - Muốn cho chúng yên tâm thì dùng cách gì cho được? Đầu Tu nói: - Ngày trước tôi lấy trộm tiền bạc của Chúa công, khiến cho Chúa công bị cơ khổ; cái tội ác của tôi ấy, người trong nước ai cũng biết cả, nay Chúa công đi chơi, nên dùng tôi làm một người đánh xe, để người trong nước trông thấy, đều biết là Chúa công không nghĩ đến điều thù oán cũ, thế thì ai còn đem lòng nghi ngại về nỗi gì! Tấn Văn công khen phải, giả cách đi ra tuần thành, dùng Đầu Tu làm người đánh xe. Những đồ đảng Lã Di Xanh và Khước Nhuế trông thấy, đều thì thào bảo nhau rằng: - Đầu Tu ngày trước lấy tiền bạc của Chúa công mà nay Chúa công còn dung tha, huống chi là người khác. Từ bấy giờ không dám nói càn dở gì nữa. Tấn Văn công từ khi còn làm Công tử đã lấy hai vợ: - Người vợ thứ nhất là Từ Doanh chết đi; người thứ hai là Bức Cật sinh được một trai tên là Hoan và một gái tên là Bá Cơ, sau Bức Cật chết ở đất Bồ. Lúc Tấn Văn công đi trốn, hai con là Hoan và Bá Cơ đều bỏ ở đất Bồ cả; bấy giờ Đầu Tu lại nhận lấy mà gởi nhà Toại Thị (người đất Bồ) nuôi hộ. Một hôm, Đầu Tu đem việc ấy nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công giật mình mà hỏi rằng: - Ta tưởng hai đứa bé ấy vì việc loạn lạc mà chết đã lâu rồi! Nay hãy còn sống ư, sao đến bây giờ nhà ngươi mới nói? Đầu Tu nói: - Chúa công đi chu du các nước, đến đâu lấy vợ ở đấy, sinh hạ cũng được nhiều con; Công tử Hoan dẫu còn sống, nào biết Chúa công có thương đến hay không? Bởi vậy tôi chưa dám nói vội. Tấn Văn công nói: - Nếu nhà ngươi không nói thì thành ra để cho ta mang tiếng là người bất từ. Nói xong, liền sai Đầu Tu đến đất Bồ, trọng thưởng cho Toại Thị, rồi đón Công tử Hoan và Bá Cơ về, để cho nàng Hoài Doanh nhận làm con. Lại lập Công tử Hoan làm Thế tử và đem Bá Cơ gả cho Triệu Thôi, gọi là Triệu Cơ. Vua nước Địch nghe tin Tấn Văn công đã về nối ngôi, sai sứ đến chúc mừng, và đưa nàng Quí Ngỗi về nước Tấn. Tấn Văn công hỏi Quí Ngỗi rằng: - Năm nay nàng đã bao nhiêu tuổi? Quí Ngỗi nói: - Cách biệt trong 8 năm nay, bây giờ thiếp đã 32 tuổi rồi! Tấn Văn công nói bỡn rằng: - Còn may là cùng nhau cách biệt chưa đến 25 năm! Tề Hiếu công cũng sai người đưa nàng Khương Thị về nước Tấn. Tấn Văn công tạ ơn Khương Thị. Khương Thị nói: - Thiếp không phải là không tham sự vui thú vợ chồng với nhau, nhưng muốn cho Chúa công về, chính là mong đến ngày nay đó. Tấn Văn công đem những sự hiền đức của Quí Ngỗi và Khương Thị thuật lại cho Hoài Doanh nghe. Hoài Doanh cũng ngợi khen mãi, rồi xin nhường lại ngôi phu nhân. Bấy giờ Tấn Văn công định lại những ngôi bậc ở trong cung: - Cho Khương Thị làm phu nhân; thứ hai đến Quí Ngỗi, rồi thứ ba mới đến Hoài Doanh. Triệu Cơ (tức là nàng Bá Cơ, con gái Tấn Văn công) nghe tin Quí Ngỗi về, cũng khuyên chồng là Triệu Thôi cho người đi đón mẹ con Thúc Ngỗi. Triệu Thôi chối từ nói: - Chúa công đã gả nàng cho tôi, có đâu tôi còn dám nghĩ đến con gái nước Địch. Triệu Cơ nói: - Thiếp không như những kẻ khác mà muốn nghe câu nói bạc đức như vậy! Thiếp dẫu là con Chúa công thật, nhưng Thúc Ngỗi lấy trước, và đã có con; sao phu quân lại yêu người mới mà bỏ người cũ cho đành! Triệu Thôi ngoài miệng dẫu vâng dạ, mà trong lòng cũng chưa nhất quyết. Triệu Cơ liền vào cung tâu với Tấn Văn công rằng: - Xin phụ thân bảo Triệu tướng quân đón Thúc Ngỗi về, kẻo để cho con mang tiếng là người bất hiền. Tấn Văn công sai người sang nước Địch đón mẹ con Thúc Ngỗi về. Triệu Cơ xin nhường cho Thúc Ngỗi làm vợ cả. Triệu Thôi nhất định không nghe. Triệu Cơ nói: - Người ta hơn tuổi mà lấy trước, thiếp ít tuổi mà lại lấy sau. Vả thiếp nghe nói người con tên là Thuẫn, năm nay đã trưởng thành mà lại có tài, vậy thì thiếp nên nhường là phải; nếu phu quân không nghe thì thiếp xin về cung. Triệu Thôi bất đắc dĩ lại đem lời nói của Triệu Cơ tâu với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói: - Con gái ta biết nhường như thế là phải! Nói xong, liền truyền gọi mẹ con Thúc Ngỗi vào triều, rồi cho Thúc Ngỗi làm vợ cả Triệu Thôi. Thúc Ngỗi cũng cố ý xin từ chối. Tấn Văn công giảng giải mãi, nói là Triệu Cơ ý muốn như vậy, Thúc Ngỗi mới chịu nhận. Bấy giờ Triệu Thuẫn mới 17 tuổi mà học hành thông thái, lại giỏi nghề cưỡi ngựa bắn cung, Triệu Thôi yêu lắm. Sau Triệu Cơ cũng sinh hạ được ba con là Triệu Đồng, Triệu Quát và Triệu Anh, nhưng tài giỏi đều không bằng Triệu Thuẫn. Tấn Văn công ban thưởng cho những người có công phục quốc, mới chia ra làm 3 hạng: Một là những người tòng vong; hai là những người tống khoản; bà là những người nghênh hàng. Trong ba hạng ấy lại tùy theo những người nào có công khó nhọc nhiều hay ít mà chia hơn kém; những người tòng vong thì Triệu Thôi và Hồ Yển là đầu; những người tống khoản thì Loan Chi và Khước Tần là đầu; những người nghênh hàng thì Khước Bộ Dương và Hàn Giản là đầu. Tấn Văn công lại đem năm đôi ngọc bích ban cho Hồ Yển để đền lại cái viên ngọc bích ném xuống sông Hoàng Hà khi trước. Lại nghĩ đến Hồ Đột bị chết oan, truyền lập miếu ở núi Mã Yên để thờ, đổi tên cái núi ấy, gọi là Hồ Đột. Ban thưởng công thần xong, yết một tờ chiếu ở trước cửa thành rằng: "Nếu người nào có công lao mà chưa dự thưởng thì cho phép được tự nói ra". Hồ Thúc nói với Tấn Văn công rằng: - Tôi theo Chúa công từ khi còn ở đất Bồ, cho đến khi đi chu du khắp các nước, lúc nào tôi cũng hầu hạ ở bên cạnh, nay Chúa công thưởng công cho những người tòng vong mà không nhớ đến tôi, chẳng hay tôi có tội gì? Tấn Văn công nói: - Trong bọn tòng vong, người nào lấy điều nhân nghĩa mà khuyên bảo ta thì là công đầu; người nào vì ta mà bàn mưu lập kế thì là thứ hai; người nào xông pha mũi tên hòn đạn để giữ gìn cho ta thì là thứ ba; còn những người nào chỉ có công theo hầu khó nhọc mà thôi thì lại ở dưới nữa. Vậy nên ta thưởng cho ba hạng trên trước, rồi sẽ đến nhà ngươi. Hồ Thúc thẹn mà lui xuống. Tấn Văn công truyền đem vàng lụa trong kho ban thưởng cho tất cả các người theo hầu, ai cũng lấy làm bằng lòng. Ngụy Thù và Điên Hiệt cậy mình vũ dũng, thấy Triệu Thôi và Hồ Yển đều là văn thần mà lại được trọng thưởng hơn mình, có ý không phục, thường vẫn kêu ca oán giận. Tấn Văn công vẫn nể là người có công lao, vậy nên không nói đến. Giới Tử Thôi cũng là một người trong bọn tòng vong, nhưng tính khí điềm đạm, từ khi mới về đến sông Hoàng Hà, thấy Hồ Yển có ý khoe công, đã lấy làm khinh bỉ, không muốn ở lẫn với bọn ấy; đến lúc Tấn Văn công lên nối ngôi, Giới Tử Thôi chỉ vào chúc mừng một lần đầu, rồi cáo ốm về nhà, yên phận nghèo khổ, vẫn đi khâu giày thuê để lấy tiền nuôi mẹ già. Khi Tấn Văn công ban thưởng công thần, không thấy Giới Tử Thôi, cũng quên đi mất, chẳng hỏi chi đến. Người láng giềng nhà Giới Tử Thôi là Giải Trương thấy Giới Tử Thôi không được thưởng, có ý không bằng lòng; lại thấy trên cửa thành có yết một tờ chiếu nói: "Nếu người nào có công lao mà chưa dự thưởng thì cho phép được tự nói ra", vội vàng gọi cửa báo tin cho Giới Tử Thôi biết. Giới Tử Thôi chỉ mỉm cười mà không nói gì cả. Bà mẹ ở dưới bếp nghe tiếng, bảo Giới Tử Thôi rằng: - Mày khó nhọc trong mười chín năm trời, lại thường cắt thịt đùi để dâng Chúa công, sao bây giờ mày không nói ra mà lĩnh lấy thưởng, họa may được một vài chung thóc, chẳng còn hơn đi khâu giày thuê hay sao! Giới Tử Thôi nói: - Các con Hiến công, cả thảy chín người, chỉ có Chúa công là hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không có đức, vậy nên trời truất ngôi mà để cho Chúa công. Các người theo hầu không biết ý trời, dám tự nhận là công minh, con nghĩ lấy làm xấu hổ lắm, chẳng thà đi khâu giày mà ăn còn hơn! Bà mẹ nói: - Mày dẫu không muốn làm quan, cũng nên vào yết kiến một lần, để khỏi uổng cái công lao cắt thịt đùi ngày trước. Giới Tử Thôi nói: - Con đã không muốn làm quan thì còn yết kiến làm gì! Bà mẹ nói: - Con làm được người liêm sĩ, có lẽ ta lại không làm được người mẹ người liêm sĩ hay sao! Vậy thì mẹ con ta tìm nơi rừng núi mà ẩn thân, chớ nên ở lẫn chỗ thị tỉnh này. Giới Tử Thôi mừng lắm, nói: - Con vẫn yêu chỗ Miên Thượng là một nơi núi cao hang sâu, nay con xin đem mẹ đến ở đấy. Nói xong, liền cõng mẹ đến đất Miên Thượng, làm nhà tại trong hang mà ở. Láng giềng hàng xóm không biết là đi đâu cả, chỉ có một mình Giải Trương biết mà thôi. Giải Trương viết một bức thư, đang đêm đem đến treo ở cửa Triều môn. Sáng hôm sau, có một người cận thần bắt được, đem vào dâng Tấn Văn công. Tấn Văn công mở ra đọc. Trong thư nói: "Có một con rồng, khi còn thất thế, đàn rắn đi theo, chu du thiên hạ. Rồng không có ăn, một rắn cắt đùi, nay rồng trở về, đã được yên sở. Đàn rắn theo vào, đều sung sướng cả, chỉ có một rắn, chẳng ai hỏi đến." Tấn Văn công đọc xong, giật mình mà nói rằng: - Đây là Giới Tử Thôi oán giận ta đó! Khi trước ta qua nước Vệ không có ăn, Giới Tử Thôi cắt thịt dâng ta; nay ta ban thưởng công thần mà quên mất Giới Tử Thôi, ấy là một điều lỗi của ta vậy. Tấn Văn công sai người đi triệu Giới Tử Thôi. Khi đến nơi thì Giới Tử Thôi đã đi đâu mất rồi! Tấn Văn công truyền bắt những người láng giềng để hỏi xem Giới Tử Thôi đi đâu; có ai biết mà chỉ dẫn thì thưởng cho làm quan. Giải Trương tâu với Tấn Văn công rằng: - Bức thư ấy không phải là của Giới Tử Thôi, chính là của tôi làm thay đó! Giới Tử Thôi không muốn cầu thưởng, đã cõng mẹ vào ẩn ở trong hang núi về đất Miên Thượng, vậy nên tôi viết bức thư ấy cho Chúa công nhớ đến. Tấn Văn công nói: - Nếu không được bức thư ấy thì có lẽ ta quên mất cái công của Giới Tử Thôi. Nói xong, liền cho Giải Trương làm chức hạ đại phu, lại bắt Giải Trương phải đưa đường vào Miên Thượng để tìm Giới Tử Thôi. Khi vào đến nơi thì chỉ thấy núi xanh rừng rậm, nước chảy hoa trôi, chim hót véo von, mây che mù mịt, mà chẳng thấy Giới Tử Thôi đâu cả. Quân sĩ bắt được mấy người làm ruộng gần đấy, Tấn Văn công gọi đến tận trước mặt mà hỏi. Người làm ruộng nói: - Mấy hôm trước, chúng tôi có trông thấy một người cõng bà cụ già ngồi nghỉ ở núi này, rồi vục nước suối mà uống; uống xong lại cõng bà cụ trèo lên trên núi, rồi không biết đi đâu! Tấn Văn công truyền đỗ xe ở dưới chân núi, sai người đi dò tìm các nơi. Trong mấy ngày trời mà chẳng thấy đâu cả. Tấn Văn công có ý không bằng lòng, bảo Giải Trương rằng: - Sao Giới Tử Thôi giận ta quá như vậy! Ta nghe nói Giới Tử Thôi la người chí hiếu, nếu ta đốt rừng thì Giới Tử Thôi tất phải cõng mẹ chạy ra. Ngụy Thù nói: - Trong bọn tòng vong, nhiều người có công lao, há phải là một mình Giới Tử Thôi đâu! Nay Giới Tử Thôi cố tình đi ẩn, để khiến Chúa công phải khó nhọc, đợi khi nào hắn tránh lửa chạy ra đây, tôi sẽ làm cho hắn phải xấu hổ. Nói xong, truyền cho quân sĩ phóng hỏa đốt cả mấy phía rừng. Lửa to gió mạnh, thành ra cháy lan đến mấy dặm, trong ba ngày mới tắt, mà Giới Tử Thôi nhất định không ra, mẹ con ôm nhau chết ở dưới một gốc cây liễu. Quân sĩ tìm được đống xương, Tấn Văn công trông thấy ứa nước mắt xuống mà khóc, truyền cho quân sĩ đem chôn ở chân núi, rồi lập miếu thờ, bao nhiêu những ruộng xung quanh núi đều để làm tự điền cả, đổi tên núi ấy là Giới Sơn. Ngày hôm đốt rừng, đang là tiết thanh minh mồng ba tháng ba. Sau người trong nước nhớ đến Giới Tử Thôi, vì Giới Tử Thôi chết cháy, vậy nên đến ngày hôm ấy không nỡ đốt lửa, phải làm sẵn lương khô để ăn, gọi là tiết Hàn thực, nghĩa là ngày hôm ấy cấm lửa, chỉ ăn đồ nguội. Tiết Hàn thực, nhà nào cũng cắm cành liễu ở ngoài cửa để chiêu hồn Giới Tử Thôi, cũng có nhà làm cỗ và đốt giấy để cúng tế. Tấn Văn công đã ban thưởng công thần rồi, lại chỉnh đốn các việc chính trị ở trong nước, thu dùng những người tài giỏi, cứu giúp những người nghèo khổ, từ bấy giờ trong nước mỗi ngày một cường thịnh. Chu Tương Vương sai quan Thái tể là Chu Khổng và quan Nội sử là Thúc Hưng đến gia phong cho Tấn Văn công. Tấn Văn công tiếp đãi rất là trọng thể. Thúc Hưng về tâu với Chu Tương Vương rằng: - Tấn hầu tất làm bá chủ các nước chư hầu được, ta cũng nên lấy làm mừng. Từ đó Chu Tương Vương có lòng thân với nước Tấn. Bấy giờ Trịnh Văn công cậy thế nước Sở để hà hiếp các nước yếu, thấy vua nước Hoạt thần phục nước Vệ mà không thần phục nước Trịnh, liền đem quân đi đánh nước Hoạt. Vua nước Hoạt sợ hãi, phải xin giảng hòa. Nước Trịnh mới rút quân về. Khi nước Trịnh đã rút quân về rồi, vua nước Hoạt lại thần phục nước Vệ, nhất định không theo Trịnh. Trịnh Văn công giận lắm, sai Công tử Sĩ Tiết làm chánh tướng, Đỗ Dũ Di làm phó tướng, lại cử đại binh sang đánh nước Hoạt. Vệ Văn công bấy giờ đang thân mật với Thiên tử nhà Chu, liền đem việc Trịnh Văn công đánh nước Hoạt vào tâu với Chu Tương Vương. Chu Tương Vương sai quan đại phu là Du Ty Bá đến nước Trịnh mà giảng giải hộ cho nước Hoạt. Trịnh Văn công nổi giận nói: - Trịnh và Vệ có khác gì nhau, sao Thiên tử nhà Chu lại trọng nước Vệ mà khinh nước Trịnh! Trịnh Văn công bắt Du Ty Bá giam lại một chỗ, để đợi khi đánh tan nước Hoạt rồi, bấy giờ sẽ tha. Du Ty Bá bị bắt, những người theo hầu trốn về báo tin cho Chu Tương Vương biết. Chu Tương Vương nổi giận mắng rằng: - Trịnh hầu khinh Trẫm quá lắm, Trẫm tất phải báo thù. Nói xong, liền hỏi các quan trong triều rằng: - Có ai dám vì Trẫm mà đến hỏi tội Trịnh hầu hay không? Hai quan đại phu là Đồi Thúc và Đào Tử nói với Chu Tương Vương rằng: - Nước Trịnh từ khi đánh được Tiên vương ta ngày xưa, càng không sợ hãi gì cả, nay lại cậy thế nước Sở, ta khó mà trị nổi. Tôi thiết tưởng nên mượn quân nước Địch thì mới đánh được nước Trịnh. Quan Đai phu là Phú Thần can rằng: - Không nên! Trịnh hầu dẫu vô đạo, nhưng là nước thân thuộc với ta, mà tổ tiên ngày xưa cũng có công với nhà Chu ta nhiều lắm; còn nước Địch là một nước rợ mọi mà không thân thuộc gì, ta quyết không nên mượn quân nước Địch. Đồi Thúc và Đào Tử nói: - Vua Vũ Vương ta ngày xưa đi đánh nhà Thương, các nước rợ mọi đều đến giúp cả, cứ gì phải nước cùng họ mới được. Chu Tương Vương khen phải, rồi sai Đồi Thúc và Đào Tử sang bảo vua nước Địch cử binh đi đánh Trịnh. Vua nước Địch vâng mệnh, giả cách đi săn, lẻn vào địa giới nước Trịnh, chiếm cứ lấy Lịch Thành, rồi sai sứ theo Đồi Thúc và Đào Tử sang nhà Chu để báo tin thắng trận. Chu Tương Vương nói: - Nước Địch có công với Trẫm, nay nhân Hoàng hậu mới mất Trẫm muốn lấy con gái nước Địch, các ngươi nghĩ thế nào? Đồi Thúc và Đào Tử nói: - Tôi nghe nói người nước Địch có câu hát rằng: "Thúc Ngỗi trước và Thúc Ngỗi sau, nhan sắc rực rỡ như ngọc châu" là nói nước Địch có hai người con gái đều tên gọi Thúc Ngỗi, mà nhan sắc đẹp cả. Thúc Ngỗi trước là con gái Cao Như đã gả cho vua Tấn rồi; còn Thúc Ngỗi sau là con gái vua nước Địch hiện nay vẫn chưa lấy chồng, xin nhà vua cho sang hỏi. Chu Tương Vương mừng lắm, lại sai Đồi Thúc và Đào Tử sang nước Địch để hỏi Thúc Ngỗi. Vua nước Địch sai người đưa Thúc Ngỗi đến. Chu Tương Vương muốn lập làm hoàng hậu. Phú Thần lại can rằng: - Nước Địch có công thì nhà vua nên ban thưởng, chứ sao lại lập con gái nước Địch làm hoàng hậu thì còn ra thể thống nào nữa! Tôi e rằng nước Địch tất có lòng dòm dỏ. Chu Tương Vương không nghe, liền lập Thúc Ngỗi làm hoàng hậu. Ngỗi hậu (tức là Thúc Ngỗi) dẫu có nhan sắc đẹp, nhưng tính hạnh không ra gì, khi ở Địch vẫn thích nghề cưỡi ngựa bắn cung, thường theo vua nước Địch đi săn, ngày nào cũng cùng với các tướng sĩ dong chơi, không câu thúc gì; nay làm hoàng hậu nhà Chu, cả ngày ở trong cung, không được đi đến đâu, cũng có ý buồn, một hôm nói với Chu Tương Vương rằng: - Thiếp từ thuở bé vẫn tập nghề cưỡi ngựa bắn cung, thân phụ thiếp cũng không cấm đoán gì cả, nay ở trong cung, lâu ngày không đi đến đâu, có lẽ sinh ra đau ốm. Sao Thiên tử không đi săn để cho thiếp được theo hầu. Chu Tương Vương đang yêu Ngỗi hậu, nói câu gì cũng nghe lời, liền sai quan Thái sử chọn ngày để đi săn ở Bắc Khâu Sơn. Chu Tương Vương muốn cho Ngỗi hậu được vui lòng, mới hạ lệnh treo giải: Hễ ai săn được nhiều các giống cầm thú thì sẽ trọng thưởng. Các Vương tử, Vương tôn nghe lệnh, đều đua nhau đuổi bắn các giống cầm thú thì sẽ trọng thưởng. Các Vương tử, Vương tôn nghe lệnh, đều đua nhau đuổi bắn các giống cầm thú để lĩnh thưởng. Trong bọn lĩnh thưởng có một người giỏi nhất, săn được nhiều giống cầm thú hơn cả là Vương tử Đái. Vương tử Đái mặt mũi khôi ngô, hình dung tuấn tú, trông rõ là một bậc quí nhân, tức là thứ đệ của Chu Tương Vương, người trong nước đều gọi là Thái thúc. Năm trước Vương tử Đái đã lập mưu muốn tranh ngôi, nhưng không làm xong; lại đi triệu quân Sơn Nhung về đánh nhà Chu, đến lúc việc tiết lộ ra, sợ tội, trốn sang nước Tề. Sau bà Huệ hậu hai ba lần nói với Chu Tương Vương, xin tha tội cho. Phú Thần cũng khuyên Chu Tương Vương nên lấy lòng nhân từ mà xử với anh em. Bởi vậy Chu Tương Vương bất đắc dĩ lại cho triệu về. Bấy giờ trong bọn đi săn, Vương tử Đái được lĩnh phần thưởng thứ nhất. Ngỗi hậu trông thấy, đem lòng yêu dấu, lại nói với Chu Tương Vương rằng: - Hôm nay trời hãy còn sớm, xin Thiên tử cho thiếp đi săn bắn chơi một lúc, để cho gân sức trong mình được khỏe mạnh. Chu Tương Vương nghe lời, liền truyền cho quân sĩ sửa soạn các đồ săn bắn để Ngỗi hậu đi săn. Ngỗi hậu cởi áo gấm dài ra, rồi mặc một cái áo cánh ngắn, thắt lưng ra ngoài, mình đeo túi tên, tay cầm cái cung đỏ, trông rất phong nhã. Chu Tương Vương trông thấy, cũng phải tủm tỉm cười thầm. Quân sĩ sắp xe để Ngỗi hậu đi. Ngỗi hậu nói với Chu Tương Vương rằng: - Đi xe không tiện bằng cưỡi ngựa, các thị nữ ở nước Địch theo hầu thiếp sang đây, đều biết cưỡi ngựa cả, xin Thiên tử thử cho cưỡi ngựa một phen. Chu Tương Vương truyền chọn các con ngựa tốt đem đến để cho Ngỗi hậu và các thị nữ cưỡi. Ngỗi hậu sắp sửa lên ngựa, Chu Tương Vương ngăn lại mà bảo rằng: - Khoan đã! Để Trẫm chọn xem trong các Vương tử có người nào cưỡi ngựa giỏi, cho đi theo hầu mà hộ vệ Hoàng hậu. Vương tử Đái xin đi. Các thị nữ đều cưỡi ngựa, xúm quanh ngựa Ngỗi hậu đi một bọn trước, còn Vương tử Đái cưỡi ngựa theo sau. Đi được một quãng, Vương tử Đái giục ngựa lên trước, theo kịp Ngỗi hậu, rồi hai người cùng thi tài phóng ngựa vòng qua sườn núi. Khi hai ngựa đi sắp hàng đều nhau, Ngỗi hậu dừng cương lại mà khen Vương tử Đái rằng: - Vương tử thật là một bậc đại tài! Thiếp nghe tiếng đã lâu, bây giờ mới được giáp mặt. Vương tử Đái ngồi trên mình ngựa cũng cúi đầu mà đáp lại rằng: - Tôi cũng mới học cưỡi ngựa, còn kém Hoàng hậu muôn phần! Ngỗi hậu nói: - Sáng mai Vương tử nên vào cung bà Huệ hậu, giả cách vấn an, rồi thiếp sẽ nói chuyện. Nói vừa dứt lời thì bọn thị nữ cưỡi ngựa đến, Ngỗi hậu liếc mắt đưa tình nhìn Vương tử Đái. Vương tử Đái se sẽ gật đầu, rồi quay ngựa lùi lại. Gặp bấy giờ ở chân núi có một đàn hươu nai chạy ra. Vương tử Đái bắn luôn hai phát, được một nai. Ngỗi hậu cũng bắn trúng một hươu. Mọi người đều vỗ tay reo mừng. Ngỗi hậu quay ngựa trở về. Chu Tương Vương ra đón. Ngỗi hậu đem con hươu dâng nộp Chu Tương Vương. Vương tử Đái cũng dâng nộp một hươu và một nai. Chu Tương Vương bằng lòng, thu quân trở về, rồi ban yến cho các quan triều thần, rất là vui vẻ. Ngày hôm sau, Vương tử Đái vào cung Huệ hậu giả cách vấn an, đã trông thấy Ngỗi hậu ở đấy rồi. Ngỗi hậu đem tiền bạc đút lót tất cả các cung nhân, cấm không được nói hở cho ai biết, rồi ngay hôm ấy cùng với Vương tử Đái tư thông ở trong một cái phòng riêng. Hai bên cùng nhau quyến luyến, khi từ giã ra về, Ngỗi hậu lại dặn Vương tử Đái rằng: - Thỉnh thoảng Vương tử cứ vào cung thăm thiếp nhé! Vương tử Đái nói: - Tôi chỉ sợ Thiên tử sinh nghi thì làm thế nào? Ngỗi hậu nói: - Thiếp có thể che chở được, Vương tử chớ ngại. Các cung nhân đều biết chuyện cả, vì Vương tử Đái là con yêu của Huệ hậu. Vả việc này cũng quan hệ đến thể thống, vậy nên không ai dám nói ra. Huệ hậu cũng vậy, lại dặn các cung nhân không được nói. Các cung nhân được nhiều tiền bạc thưởng tứ, đều có ý che chở cho Vương tử Đái, bởi vậy Vương tử Đái ngày nào cũng ở trong cung, suốt đêm đến sáng, mà Chu Tương Vương vẫn không biết gì cả. Trong bọn cung nữ có một người tên gọi Tiểu Đông, nhan sắc cũng khá, mà lại hiểu âm luật. Một hôm, Vương tử Đái đang cùng với Ngỗi hậu uống rượu, sai Tiểu Đông thổi ống ngọc tiêu, Vương tử Đái lại theo dịp mà hát; đến lúc Vương tử Đái say rượu, có ý lả lơi, giơ tay nắm lấy áo Tiểu Đông để trêu ghẹo. Tiểu Đông sợ hãi, cởi áo bỏ chạy. Vương tử Đái giận lắm, rút gươm đuổi theo, toan giết Tiểu Đông. Tiểu Đông vội vàng chạy đến cung Chu Tương Vương, kể hết những chuyện Vương tử Đái tư thông với Ngỗi hậu, Chu Tương Vương tức khắc cầm thanh bảo kiếm để đi giết Vương tử Đái. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 38 Chu Tương Vương tránh sang nước khác Tấn Văn công thu được lòng dân Bấm để xem Chu Tương Vương nghe lời Tiểu Đông nói, tức thì nổi giận, rút thanh bảo kiếm ở trên đầu giường, định đi giết Vương tử Đái. Đi được mấy bước, lại nghĩ thầm rằng: - Vương tử Đái là con yêu của Thái hậu (tức là Huệ hậu) nếu Trẫm giết đi, người ngoài không biết, tất cho là bất hiếu. Vả Vương tử Đái vũ nghệ giỏi lắm, vị tất Trẫm đã giết nổi, chi bằng Trẫm hãy chịu nhịn đợi đến sáng mai, xét được sự thực, bấy giờ ta sẽ trị tội Ngỗi hậu, tự khắc Vương tử Đái xấu hổ mà trốn đi nước khác. Chu Tương Vương thở dài một tiếng ném thanh bảo kiếm xuống đất, lại trở về cung, rồi sai nội thị đi dò thăm xem tình hình Vương tử Đái ra sao. Nội thị về báo rằng: - Vương tử Đái biết Tiểu Đông vào báo với Thiên tử, vậy đã tức khắc trốn đi rồi. Chu Tương Vương nói: - Khi ra vào cửa cung, làm sao không bẩm mệnh, đó cũng là tại Trẫm không phòng bị từ trước. Sáng hôm sau, Chu Tương Vương truyền bắt các thị nữ trong cung ra để tra hỏi thì đứa nào cũng chối không tất cả. Sau gọi Tiểu Đông ra đối chứng, bấy giờ các thị nữ đều thú nhận, đem bao nhiêu những tình hình trước sau nói hết với Chu Tương Vương. Chu Tương Vương truyền bắt Ngỗi hậu giam vào lãnh cung, khóa chặt cửa lại, chỉ cho khoét một lỗ thủng để đưa cơm nước mà thôi. Vương tử Đái sợ tội, trốn sang nước Địch. Huệ hậu lo phiền, từ bấy giờ cũng thành bệnh ốm. Đồi Thúc và Đào Tử nghe thấy Ngỗi hậu bị truất, giật mình kinh sợ mà nói rằng: - Ngày trước hai ta phụng mệnh Thiên tử sang mượn quân nước Địch để đánh nước Trịnh, sau hai ta phụng mệnh Thiên tử sang xin cưới Ngỗi hậu, nay Ngỗi hậu bị truất, tất nhiên vua Địch có ý căm tức. Vả Vương tử Đái trốn sang nước Địch, tất nhiên cũng kiếm chuyện để xui giục vua Địch, một mai vua Địch đem quân sang hỏi tội thì hai ta biết nói ra làm sao! Hai người tức khắc đánh xe đi theo Vương tử Đái, để bày mưu lập kế sang nói với vua nước Địch. Đồi Thúc và Đào Tử vào trước nói với vua nước Địch rằng: - Ngày trước chúng tôi vì Vương tử Đái mà sang thỉnh hôn, Thiên tử nghe nói người đẹp mới chiếm lấy rồi lập làm hoàng hậu; nhân một hôm đến thăm Thái hậu (tức là Huệ hậu) gặp Vương tử Đái, Vương tử Đái nói lại chuyện cũ, bị lũ cung nhân đặt điều gièm pha với Thiên tử, Thiên tử chẳng nghĩ đến cái công khó nhọc quí quốc đánh Trịnh khi trước mà đem Hoàng hậu giam vào lãnh cung, rồi đuổi Vương tử Đái đi, như thế thật là một người phụ bạc. Xin quí quốc đem quân sang đánh, mà lập Vương tử Đái lên làm vua để cứu lấy Hoàng hậu. Vua nước Địch tin lời, liền hỏi: - Vương tử Đái bây giờ ở đâu? Đồi Thúc và Đào Tử nói: - Hiện nay đang ở ngoài cõi. Vua nước Địch sai đón vào, rồi cho quan Đại tướng là Xích Đinh cùng với Đồi Thúc và Đào Tử đem quân giúp Vương tử Đái về đánh nhà Chu. Chu Tương Vương nghe tin quân nước Địch đến đánh, sai quan Đại phu là Đàm Bá đem việc Vương tử Đái làm loạn nói với Xích Đinh. Xích Đinh chém chết Đàm Bá rồi thẳng đương tiến sang nhà Chu. Chu Tương Vương nổi giận, sai quan Khanh sĩ là Nguyên Bá Quán làm chánh tướng, Mao Vệ làm phó tướng, đem quân ra đối địch. Nguyên Bá Quán biết quân nước Địch mạnh tợn, không thể đánh nổi, mới truyền cho quân sĩ lập kế cố thủ, không ra nghênh chiến. Xích Đinh giận lắm, liền lập kế làm một cái chòi cao ở Thúy Vân Sơn, trên cắm cờ hiệu Thiện tử, cho một người ăn mặc làm Vương tử Đái ngồi uống rượu ở trên chòi, và bắt các thị nữ múa hát. Lại sai Đồi Thúc và Đào Tử, mỗi người đem một nghìn quân phục sẵn ở sườn núi, đợi khi quân nhà Chu đến thì nghe hiệu súng nổ mà đổ ra đánh. Lại sai con là Xích Phong Tử đem năm trăm quân đến cửa dinh Nguyên Bá Quán khiêu chiến. Rồi giả cách thua chạy để dụ đến Thúy Vân Sơn. Khi Xích Phong Tử đem năm trăm quân đến khiêu chiến, Nguyên Bá Quán thấy quân ít, toan đổ ra đánh, Mao Vệ can rằng: - Nước Địch hay gian dối lắm, ta nên cẩn thận, chớ ra đánh vội, hãy đợi cho khi nào quân giặc mỏi mệt, bấy giờ sẽ liệu. Đến trưa hôm ấy, quân Địch giả cách mỏi mệt, xuống ngựa ngồi la liệt ở dưới đất, cũng có kẻ lại nằm nhoài ra nữa, vừa nằm vừa sỉ mắng Nguyên Bá Quán là người hèn nhát. Nguyên Bá Quán tức giận, đem quân ra cùng với Xích Phong Tử giao chiến. Đánh chưa được mươi hợp, Xích Phong Tử giả cách thua chạy. Nguyên Bá Quán đuổi theo. Khi gần đến Thúy Vân Sơn, Nguyên Bá Quán trông thấy Vương tử Đái đang uống rượu ở trên chòi, xung quanh có kéo cờ cắm tàn rất là rực rỡ, liền nổi giận mà mắng rằng: - Đứa nghịch tặc kia tất chết về tay ta! Nói xong, tức khắc xông lên để đánh. Bỗng nghe tiếng súng nổ, quân giặc ở hai bên sườn núi đổ ra: Phía tả có Đồi Thúc, phía hữu có Đào Tử, cùng đánh áp lại. Nguyên Bá Quán biết là trúng kế, vội vàng cởi áo Tử bào ra, rồi đi lẫn vào trong đám loạn quân để chạy trốn. Trong đám loạn quân có một người hỏi Nguyên Bá Quán rằng: - Tướng quân ôi! Chạy đi đường nào bây giờ? Đồi Thúc nghe tiếng, biết là có Nguyên Bá Quán ở đấy, vội vàng cố sức đuổi theo, bắt được hơn 30 người, Nguyên Bá Quán cũng bị bắt. Mao Vệ nghe tin Nguyên Bá Quán thua trận, tức khắc cho người về phi báo Chu Tương Vương để xin thêm quân tiếp ứng. Đồi Thúc đem Nguyên Bá Quán về nộp Vương tử Đái. Vương tử Đái truyền giam lại một chỗ. Đồi Thúc nói: - Nay Nguyên Bá Quán đã bị bắt, Mao Vệ tất sợ mất vía, nếu đêm hôm nay ta dùng kế hỏa công mà đem quân tiến đánh thì thế nào cũng bắt được Mao Vệ. Vương tử Đái khen phải, rồi nói với Xích Đinh. Đêm hôm ấy, Xích Đinh đem quân đến đốt phá dinh Mao Vệ. Đồi Thúc và Đào Tử cũng đem quân xông vào. Mao Vệ biết là sức không địch nổi, vội vàng mở cửa sau chạy trốn. Đi được một quãng, lại gặp quân Vương tử Đái. Vương tử Đái quát to lên rằng: - Mao Vệ! Mày chạy đường nào cho thoát! Nói xong, liền cầm giáo đâm chết Mao Vệ. Quân nước Địch toàn thắng, rồi vây kín kinh thành nhà Chu. Chu Tương Vương nghe tin Nguyên Bá Quán bị bắt và Mao Vệ chết, bảo Phú Thần rằng: - Bởi Trẫm không nghe lời nhà ngươi, đến nỗi nên cơ sự này! Phú Thần nói: - Nay quân Địch khí thế mạnh tợn lắm, xin Thiên tử hãy tạm tránh đi, chắc thế nào các nước chư hầu cũng có kẻ vì công nghĩa mà đem quân tảo trừ quân giặc. Chu Khổng nói: - Tôi thiết tưởng đem quân sĩ ra, còn có thể cố đánh một trận được, can gì phải bỏ mà đi. Thiệu Quá nói: - Cứ như ý tôi thiển nghĩ thì việc này bởi tại Ngỗi hậu, xin Thiên tử trị tội mà giết đi, rồi cố thủ để đợi quân chư hầu đến, thế là vạn toàn. Chu Tương Vương thở dài mà than rằng: - Vì Trẫm bất minh, để gây nên tai vạ! Nay Thái hậu (tức Huệ hậu) đang ốm nặng, Trẫm hãy tạm tránh đi để cho yên việc, rồi tùy các nước chư hầu. Chu Tương Vương lại bảo Chu Khổng và Thiệu Quá rằng: - Vương tử Đái đem quân về đây là chỉ vì Ngỗi hậu mà thôi, nhưng nếu Vương tử Đái chiếm lấy Ngỗi hậu, tất sợ người trong nước chê cười, không dám ở chốn kinh thành, thế thì Trẫm cũng lại về, hai ngươi cứ vững dạ. Chu Khổng và Thiệu Quá sụp lạy xin vâng mệnh, Chu Tương Vương hỏi Phú Thần rằng: - Địa giới nhà Chu ta chỉ tiếp giáp ba nước là: Trịnh, Vệ và Trần, nay Trẫm nên sang nước nào? Phú Thần nói: - Vệ và Trần đều là nước yếu cả, chi bằng ta sang nước Trịnh là hơn. Chu Tương Vương nói: - Ngày trước Trẫm đã mượn quân nước Địch sang đánh nước Trịnh, chẳng có lẽ Trịnh lại không oán Trẫm hay sao? Phú Thần nói: - Tôi khuyên nhà vua sang nước Trịnh, chính vì việc ấy đó! Số là tiên tổ nước Trịnh vẫn có công với nhà Chu ta, thì con cháu tất cũng không quên nhà Chu ta được. Mới rồi, nhà vua mượn quân nước Địch sang đánh nước Trịnh, nước Trịnh dẫu có ý không bằng lòng, nhưng vẫn ngày đêm mong cho nước Địch làm phản nhà Chu, để tỏ mình là một nước không trái đạo với Thiên tử. Bây giờ nhà vua sang Trịnh thì Trịnh tất vui lòng mà nghênh tiếp, còn oán nỗi gì! Chu Tương Vương mới quyết định trốn sang nước Trịnh. Phú Thần lại nói: - Nay nhà vua trốn đi, giả sử quân địch cố sức đuổi theo thì biết làm thế nào, để tôi xin đem quân ra mà ngăn cản quân Địch mới được. Phú Thần đem quân ra đánh nhau với quân Địch. Chu Tương Vương cùng với bọn Giản Sư Phủ và Tả Yên Phủ hơn mười người, thẳng đường trốn sang nước Trịnh. Phú Thần đánh nhau với Xích Đinh, giết được quân nước Địch nhiều lắm. Phú Thần cũng bị trọng thương, lại gặp Đồi Thúc và Đào Tử đến. Đồi Thúc và Đào Tử bảo Phú Thần rằng: - Ai cũng biết là nhà ngươi lấy lời nói trung mà can bảo Thiên tử, vậy thì ngày nay nhà ngươi cũng không đến nỗi chết. Phú Thần nói: - Ngày trước ta can bảo, Thiên tử không nghe, đến nỗi như thế này! Nếu bây giờ ta không cố sức chết mà đánh thì Thiên tử tất cho ta là không thực lòng. Nói xong, lại cố sức đánh một phen, rồi chết tại trận tiền. Phú Thần chết rồi, quân nước Địch mới biết là Chu Tương Vương mở cửa thành trốn đi. Khi quân nước Địch tới nơi thì cửa thành lại thấy đóng. Vương tử Đái truyền giải Nguyên Bá Quán đến, bắt gọi cửa thành. Chu Khổng và Thiệu Quá đứng ở trên mặt thành bảo Vương tử Đái rằng: - Chúng tôi vẫn muốn mở cửa thành ra đón, nhưng sợ quân nước Địch tiến vào cướp phá, vậy nên không dám. Vương tử Đái nói với Xích Đinh, xin cho quân nước Địch đóng ở ngoài thành, rồi sau sẽ đem tiền bạc ở trong kho ra để khao thưởng. Xích Đinh thuận cho. Vương tử Đái tiến vào kinh thành, trước hết đến ngay lãnh cung thả Ngỗi hậu ra, rồi sau vào yết kiến Huệ hậu. Huệ hậu đang ốm, trông thấy Vương tử Đái, mừng quá, cười sặc lên mà chết. Vương tử Đái không làm ma vội, còn vào trong cung để tư tình với Ngỗi hậu; lại đi tìm Tiểu Đông để giết. Tiểu Đông sợ tội, đã đâm đầu xuống giếng mà chết rồi! Ngày hôm sau, Vương tử Đái giả cách phụng di mệnh của Huệ hậu, lên ngôi Thiên tử và lập Ngỗi hậu lên làm Hoàng hậu; lại đem tiền bạc trong kho ra khao thưởng cho nước Địch, rồi phát tang làm ma Huệ hậu. Người nhà Chu có đặt thành một bài hát để chế nhạo. Vương tử Đái nghe thấy bài hát, biết là dân tình không phục, sợ sinh biến loạn, mới đem Ngỗi hậu dời sang ở đất Ôn Ấp, rồi sửa sang cung thất để ngày đêm cùng với Ngỗi hậu vui chơi; còn bao nhiêu việc chính trị, giao cho Chu Khổng và Thiệu Quá tất cả, Vương tử Đái tiếng là làm Thiên tử, nhưng không cùng với thần dân tiếp kiến bao giờ. Nguyên Bá Quán thừa cơ trốn về Nguyên Thành. Chu Tương Vương đi đến Dĩ Thành, ở đấy nhiều trúc mà không có nhà công quán, người ta cũng gọi là Trúc Xuyên. Chu Tương Vương hỏi thăm, biết là đã đến địa giới nước Trịnh, mới vào ngủ nhờ trong cái nhà tranh của một kẻ nông phu là Phong Thị. Phong Thị hỏi: - Chẳng hay ngài là quan chức gì? Chu Tương Vương hỏi: - Trẫm là Thiên tử nhà Chu, vì trong nước có giặc, nên phải tránh nạn đến đây. Phong Thị giật mình kinh sợ, sụp lạy xin lỗi mà rằng: - Em tôi đêm qua nằm mộng thấy ánh mặt trời đỏ chiếu vào trong nhà, quả nhiên hôm nay có quí nhân đến! Nói xong, liền sai người đi giết gà thổi xôi để dâng. Chu Tương Vương không biết là em Phong Thị, mới hỏi: - Người ấy là ai thế? Phong Thị nói: - Đấy là người em cùng cha khác mẹ với tôi đó! Vẫn cùng ở đây với tôi, ăn chung đổ lộn để phụng dưỡng mẹ già. Chu Tương Vương thở dài mà than rằng: - Anh em nhà ngươi là nhà làm ruộng mà cùng nhau hòa thuận được như thế! Trẫm làm Thiên tử mà lại bị người em cùng mẹ cư xử chẳng ra gì; Trẫm không bằng kẻ nông phu nhiều lắm! Chu Tương Vương nói xong, lại ứa nước mắt chảy xuống dòng dòng. Quan Đại phu là Tả Yên Phủ nói: - Ông Chu công ngày xưa là bậc đại thánh mà trong anh em cũng còn bất hòa với nhau, xin nhà vua chớ lấy làm phiền nghĩ, nên mau mau truyền hịch đi bảo các nước chư hầu. Chu Tương Vương viết thư, sai người đi bảo với các nước chư hầu như Tề, Tống, Trần, Trịnh và Vệ. Trong thư đại lược nói rằng: "Trẫm nay bất đức, để đến nỗi người em cùng mẹ là Vương tử Đái nổi loạn phải tránh sang Dĩ Thành là địa giới Trịnh, vậy xin nói để các nước chư hầu biết". Giản Sư Phủ nói: - Các nước chư hầu ngày nay, chỉ có Tần và Tấn muốn làm bá chủ; nước Tần có bọn Kiển Thúc và Bách Lý Hề; nước Tấn có bọn Triệu Thôi và Hổ Yến tất biết khuyên vua nước mình làm những việc công nghĩa, còn các nước khác thì chẳng trông cậy gì được! Chu Tương Vương liền sai Giản Sư Phủ sang bảo nước Tấn, và sai Tả Yên Phù sang bảo nước Tần. Trịnh Văn công nghe tin Chu Tương Vương tránh sang Dĩ Thành, cười mà nói rằng: - Ngày nay Thiên tử mới biết nước Địch không bằng nước Trịnh. Nói xong, tức khắc sai người sang Dĩ Thành lập nhà công quán để mời Chu Tương Vương vào ở, bao nhiêu những đồ nhật dụng, nước Trịnh đều cung cấp đủ cả, không thiếu một thứ gì. Chu Tương Vương trông thấy Trịnh Văn công, có ý thẹn thùng. Các nước Lỗ và Tống cũng đều sai sứ đến vấn an và dâng các món thực phẩm, chỉ có Vệ Văn công không đến. Quan Đại phu nước Lỗ là Tang Văn Trọng nghe nói Vệ Văn công không đến, thở dài mà than rằng: - Vua nước Vệ sắp đến ngày chết! Các nước chư hầu nên phải biết có Thiên Tử, cũng như cây phải có gốc, nước phải có nguồn. Nếu cây không gốc tất héo, nước không nguồn tất khô, tài nào mà không chết. Đến năm sau, Vệ Văn công chết. Thế tử Trịnh lên nối ngôi, tức là Vệ Thành công, quả như lời nói của Tang Văn Trọng. Giản Sư Phủ phụng mệnh Chu Tương Vương sang bảo Tấn Văn công. Tấn Văn công hỏi Hồ Yển. Hồ Yển nói: - Tề Hoàn công ngày xưa làm nên được công nghiệp bá chủ là vì biết giúp Thiên tử nhà Chu; nay Thiên tử nhà Chu có nạn, nếu nước Tấn ta không giúp thì nước Tần tất giúp. Nước Tần đã giúp thì công nghiệp bá chủ về tay nước Tần mất! Tấn Văn công sai Quách Yển bói một quẻ. Quách Yển bói được quẻ tốt. Tấn Văn công liền cử đại binh để định đi giúp Thiên tử nhà Chu. Khi Tấn Văn công sắp đi, lại nghe tin Tần Mục công đã cử đại binh đi giúp nhà Chu, hiện đang đóng quân ở trên sông Hoàng Hà. Hồ Yển nói: - Vua nước Tần vẫn có chí muốn giúp Thiên tử nhà Chu, nay còn đóng quân ở trên sông Hoàng Hà, chỉ vì chưa có lối nào mà đi qua các nước Đông Di được. Bây giờ Chúa công nên sai người sang bảo các nước Đông Di để xin mượn đường, rồi lại sai người sang bảo vua nước Tần rằng nước Tấn ta đã cử đại binh đi rồi, thế thì quân nước Tần tất phải lui về. Tấn Văn công khen phải, một mặt sai Hồ Xạ Cô đem vàng bạc sang lễ các nước Đông Di để xin mượn đường; còn một mặt sai Tư Thần đến trên sông Hoàng Hà nói với Tần Mục công. Tư Thần phụng mệnh Tấn Văn công vào nói với Tần Mục công rằng: - Thiên tử tránh nạn ở ngoài, quí quốc lấy làm lo thì Chúa công tôi cũng lấy làm lo. Hiện nay Chúa công tôi đã xin cử đại binh để thay quí quốc vào giúp Thiên tử, không dám phiền đến quí quốc phải đi xa xôi khó nhọc làm gì! Tần Mục công nói: - Ta sợ vua nước Tấn mới lập, chưa đủ quân để giúp Thiên tử, vậy phải vội vàng đến đây, nay vua nước Tấn đã cử đại binh đi giúp Thiên tử thì ta đây chỉ việc ngồi yên mà đợi tin mừng. Kiển Thúc và Bạch Lý Hề đều nói: - Việc này là một việc đại nghĩa, vua nước Tấn sợ Chúa công chia mất cái danh dự ấy, vậy nên sai người đến nói để làm ngăn trở quân ta, chi bằng ta cứ tiến binh, cùng với nước Tấn giúp Thiên tử. Tần Mục công nói: - Ta cũng biết việc này là một việc rất hay, nhưng quân ta không tiện đường đi, chỉ ngại về các nước Đông Di đem lòng ngăn trở. Nay vua Tấn mời lên làm vua, nếu không có công trạng gì thì sao giữ yên được nước, thôi thì ta nhường cho vua nước Tấn. Nói xong, liền sai Công tử Trí theo Tả Yên Phủ đến Dĩ Thành để thăm Chu Tương Vương, rồi lại rút quân về nước Tần. Tư Thần đem tin Tần Mục công lui quân về báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công truyền tiến binh đến đất Dương Phàn. Quan trấn thủ ở đất Dương Phàn ra ngoài cõi để nghênh tiếp. Tấn Văn công sai bọn Khước Tần đem quân vây đất Ôn Ấp, lại sai bọn Triệu Thôi sang Dĩ Thành đón Chu Tương Vương trở về kinh thành. Chu Khổng và Thiệu Quá mở cửa thành đón Chu Tương Vương vào. Người đất Ôn Ấp nghe tin Chu Tương Vương đã trở về kinh thành, liền họp nhau lại giết chết Đồi Thúc và Đào Tử, rồi mở toang cửa thành để đón quân nước Tấn vào. Vương tử Đái vội vàng đem Ngỗi hậu lên xe, tìm đường trốn sang nước Địch, nhưng quân sĩ đóng cửa lại, không cho Vương tử Đái ra, Vương tử Đái rút gươm chém chết mấy người. Ngụy Thù vừa đi đến, quát to lên mà mắng rằng: - Thằng nghịch tặc kia, mày định chạy đi đằng nào! Vương tử Đái nói: - Nhà ngươi tha cho ta trốn, ngày khác ta xin đền ơn. Ngụy Thù nói: - Để tôi tâu Thiên tử đã, bấy giờ tôi sẽ tha! Vương tử Đái nổi giận, rút gươm ra đâm. Ngụy Thù nhảy ngay lên xe, chém chết Vương tử Đái. Quân sĩ bắt được Ngỗi hậu đem đến nộp Ngụy Thù, Ngụy Thù nói: - Nó là một đứa dâm phụ, để nó làm gì! Nói xong, truyền cho quân sĩ xúm lại mà bắn chết. Ngụy Thù đem hai cái xác Vương tử Đái và Ngỗi hậu đến nộp Khước Tần. Khước Tần nói: - Sao ngươi bắt được, lại không đóng cũi mà đem nộp để cho Thiên tử trị tội. Ngụy Thù nói: - Thiên tử tránh cái tiếng giết em, vậy mới mượn tay nước Tấn ta, thế thì ta giết ngay đi là hay lắm. Khước Tần truyền đem chôn hai cái xác ấy, rồi sai người đến đất Dương Phàn để báo tin cho Tấn Văn công biết. Tấn Văn công nghe tin Vương tử Đái và Ngỗi hậu đã bị giết rồi, liền vào kinh thành yết kiến Chu Tương Vương để báo tin thắng trận. Chu Tương Vương bày tiệc thết đãi, lại đem các đồ vàng lụa ra tạ ơn Tấn Văn công. Tấn Văn công sụp lạy mà nói rằng: - Trùng Nhĩ (tên Tấn Văn công) này không dám nhận các đồ vàng lụa, chỉ xin nhà vua gia ơn cho lúc chết được an táng bằng lễ toại đạo thì lấy làm đội ơn vô cùng. Chu Tương Vương nói: - Tiên vương ngày xưa đặt ra lễ để phân biệt trên dưới, chỉ quan hệ ở những lúc sinh tử ấy, Trẫm không dám vì ơn riêng mà bỏ phép công; nay Thúc phụ (Tấn Văn công) có công lớn, Trẫm không dám quên, Trẫm xin đem đất Ôn, đất Nguyên, đất Dương Phàn, và đất Toản Mao để gia phong cho Thúc phụ. Tấn Văn công cáo từ lui ra. Dân nhà Chu già trẻ lớn bé kéo nhau đi xem mặt Tấn Văn công, đứng chật ních cả đường cái, đều thì thào bảo nhau rằng: - Ngày nay lại thấy có Tề Hoàn công! Tấn Văn công sai Ngụy Thù đến nhận địa giới đất Dương Phàn, sai Điên Hiệt đến nhận địa giới đất Toản Mao, sai Loan Chi đến nhận địa giới đất Ôn, còn đất Nguyên thì Tấn Văn công thân hành đến để nhận địa giới. Bởi vì đất Nguyên là phong ấp của Nguyên Bá Quán; Nguyên Bá Quán vì cớ đánh giặc bị thua, nên vua nhà Chu đòi lại mà thưởng cho Tấn Văn công. Tấn Văn công sợ Nguyên Bá Quán không chịu, vậy phải thân hành đem quân đến. Điên Hiệt đến Toản Mao, Loan Chi đến đất Ôn. Quan trấn thủ ở đất Toản Mao và đất Ôn đều mở cửa thành ra nghênh tiếp. Còn Nguy Thù đến đất Dương Phàn thì quan trấn thủ ở đấy là Xương Cát bảo những người dưới rằng: - Nhà Chu còn được bao nhiêu đất mà gia phong cho nước Tấn nhiều như vậy, ta cũng là bề tôi nhà Chu, sao ta chịu phục. Nói xong, liền đem quân lên mặt thành để chống giữ. Ngụy Thù giận lắm, vây kín cả bốn mặt, rồi hạ lệnh rằng: - Nếu không chịu hàng thì giết chết sạch cả! Xương Cát đứng trên mặt thành trả lời rằng: - Đất Dương Phàn này là chỗ kinh kỳ, dân trong thành phần nhiều là họ hàng thân thích Thiên tử nhà Chu cả. Quý quốc cũng là bề tôi nhà Chu, sao lại tàn nhẫn đến thế. Ngụy Thù nghe lời, có ý cảm động, sai người báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công viết một bức thư đưa cho Xương Cát. Trong thư đại lược nói rằng: "Bởi vì Thiên tử gia phong cho tôi, vậy nên tôi không dám trái mệnh, nếu tướng quân nghĩ đến những họ hàng thân thích của Thiên tử mà muốn đem quân đi nơi khác thì tôi cũng xin tùy ý tướng quân." Tấn Văn công sai người đến bảo Ngụy Thù hãy hoãn binh không nên đánh vội. Xương Cát tiếp được thư, liền truyền cho dân trong thành rằng: - Ai muốn về nhà Chu thì đi, ai muốn theo nước Tấn thì ở. Dân ở trong thành xin đi quá nửa. Xương Cát đem cả đến ở đất Chỉ Thôn, Ngụy Thù vào nhận lấy địa giới đất Dương Phàn. Tấn Văn công và Triệu Thôi đem quân đến Nguyên. Nguyên Bá Quán nói dối những người dưới rằng: - Quân nước Tấn vây đất Dương Phàn, bao nhiêu dân ở đấy giết chết sạch cả! Dân đất Nguyên sợ hãi, quyết chí chống giữ với quân nước Tấn, Quân nước Tấn bổ vây, Triệu Thôi bảo Tấn Văn công rằng: - Dân không phục nước Tấn ta là vì nước Tấn ta chưa có điều gì tín nghĩa cả; nay Chúa công nên giữ lấy tín nghĩa là không phải đánh mà tự khắc dân phục. Tấn Văn công nói: - Muốn giữ tín nghĩa thì phải làm thế nào? Triệu Thôi nói: - Xin Chúa công hạ lệnh cho quân sĩ chỉ giữ lương ăn trong ba ngày mà đánh đất Nguyên, nếu dân đất Nguyên không chịu hàng thì tức khắc giải vây về nước. Tấn Văn công theo lời. Đến ngày thứ ba quân sĩ báo với Tấn Văn công rằng: - Còn ngày hôm nay nữa thì hết lương ăn. Tấn Văn công chẳng nói gì cả. Đến đêm hôm ấy, dân Nguyên trèo qua thành ra nói với Tấn Văn công rằng: - Chúng tôi đã hỏi tin, biết là dân Dương Phàn không bị giết bao giờ; vậy đến ngày mai, chúng tôi xin mở thành để đón Chúa công. Tấn Văn công nói: - Hôm trước ta đã có hẹn trong ba ngày, nếu không đánh được đất Nguyên thì tức khắc giải vây rút về; hôm nay đã là ba ngày rồi thì sáng mai thế nào ta cũng rút quân. Quân sĩ đều can rằng: - Dân đất Nguyên đã định đến ngày mai mở cửa thành để đón Chúa công vào thì Chúa công nên tạm lưu lại một ngày nữa, dẫu có hết lương, xin cho người sang Dương Phàn lấy, cũng chẳng xa gì! Tấn Văn công nói: - Tín nghĩa là một điều quý, ta đã hạ lệnh hẹn trong ba ngày ai lại không biết, nếu nay lại tạm lui một ngày nữa thì là người thất tín, dẫu có được đất Nguyên, cũng không ích gì! Sáng sớm hôm sau, truyền giải vây rút quân về nước. Dân đất Nguyên bảo nhau rằng: - Vua nước Tấn thật là một ông vua hiền! Bấy giờ tranh nhau trèo lên mặt thành xin đầu hàng cả, rồi lại trèo qua mặt thành xuống, đi theo mời Tấn Văn công trở lại. Nguyên Bá Quán không thể nào ngăn cấm được nữa, cũng phải mở cửa thành xin hàng. Quân nước Tấn đi đã được 30 dặm, dân đất Nguyên theo kịp đến nơi; Nguyên Bá Quán cũng viết thư đến xin hàng. Tấn Văn công truyền đóng quân lại một chỗ, rồi một mình đi xe vào thẳng trong thành. Dân trong thành đều hoan hô, rất là vui vẻ! Tấn Văn công đãi Nguyên Bá Quán lấy lễ khanh sĩ, cho ở đất Hà Bắc, Tấn Văn công sai Triệu Thôi làm quan trấn thủ ở đất Ôn, kiêm lĩnh đất Toản Mao. Tấn Văn công từ khi cử đại binh đi giúp Thiên tử nhà Chu và thủ tín với dân đất Nguyên, mới có cơ làm được bá chủ. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 39 Triển Hỉ hỏi kế Liễu Hạ Huệ Ngụy Thù đốt nhà Hi Phụ Cơ Bấm để xem Tề Hiếu công bấy giờ có ý muốn làm bá chủ, vẫn định dùng binh lực mà khôi phục lại công nghiệp của Tề Hoàn công thuở trước, mới họp các quan đại phu lại mà hỏi rằng: - Đang đời Tiên quân ta là Hoàn công ngày xưa, năm nào cũng đánh đông dẹp bắc; nay ta cứ ngồi yên một chỗ, khác nào người nằm trong cái vỏ ốc, không biết mặt ngoài có việc chi chi cả, ta lấy làm xấu hổ lắm! Ta còn nhớ năm trước vua nước Lỗ định giúp Vô Khuy mà chống cự với ta, ta chưa báo được cái thù ấy; nay nước Lỗ phía bắc kết giao với Vệ, phía nam kết giao với Sở, giả sử đem quân sang đánh ta thì ta lấy gì địch lại cho nổi; bây giờ nước Lỗ đang gặp năm mất mùa, ta muốn thừa cơ mà đánh trước đi, các ngươi nghĩ thế nào? Quan Thượng khanh là Cao Hổ nói: - Nước Lỗ đang có nhiều nước giúp, ta đánh vị tất đã nổi. Tề Hiếu công nói: - Ta hãy thử sang đánh để xem các nước chư hầu có đồng lòng với nước Lỗ hay không? Tề Hiếu công cử binh sang xâm phạm phía bắc nước Lỗ. Quân sĩ phi báo với Hi công. Quan Đại phu là Tang Tôn Thần nói với Lỗ Hi công rằng: - Quân Tề sang đánh ta là có ý muốn báo thù, ta vị tất đã chống lại nổi, xin Chúa công sai sứ ra từ tạ là hơn. Lỗ Hi công nói: - Biết ai là người khéo ứng đối mà sai đi bây giờ! Tang Tôn Thần nói: - Tôi xin cử một người là con quan Tư không đời trước, tên gọi Triển Hoạch, tên tự là Tử Cầm, làm quan sĩ sư, được phong ở Liễu Hạ. Người ấy nho nhã mà thông minh lắm, biết nhiều nghĩa lý, chỉ vì làm quan không hợp thói đời, nên mới bỏ chức từ về; nếu sai người ấy làm sứ thần ra nói với vua Tề thì vua Tề tất phải kính trọng. Lỗ Hi công nói: - Ta cũng có nghe tiếng người ấy, chẳng hay bây giờ ở đâu? Tang Tôn Thần nói: - Hiện nay vẫn ở Liễu Hạ. Lỗ Hi công sai người đến triệu Triển Hoạch, Triển Hoạch cáo ốm không thể đi được. Tang Tôn Thần nói: - Triển Hoạch có người em tên gọi là Triển Hỉ, dẫu quan chức còn nhỏ, nhưng cũng có tài ứng đối; nay sai Triển Hỉ đến nhà Triển Hoạch mà hỏi xem nên dùng cách gì để ứng đối với vua Tề. Lỗ Hi công theo lời, Triển Hỉ đến Liễu Hạ, vào yết kiến Triển Hoạch, thuật lại những chủ ý của Lỗ Hi công. Triển Hoạch nói: - Vua Tề đem quân sang đánh ta là có ý muốn nối công nghiệp Tề Hoàn công ngày trước, nhưng không biết rằng muốn làm bá chủ thì trước hết phải tôn phù Thiên tử nhà Chu; nay ta đem di mệnh của Tiên vương ngày xưa mà trách vua Tề thì thiếu gì cách nói. Triển Hỉ về nói với Lỗ Hi công rằng: - Tôi đã hỏi được cách để ứng đối với vua Tề rồi! Lỗ Hi công đã sắp sẵn các đồ lễ vật để sai Triển Hỉ đi thương thuyết với quân nước Tề. Đi đến phía nam sông Vấn, gặp tiền đội quân nước Tề, tướng Tiên phong là Thôi Yển. Triển Hỉ liền đem các đồ lễ vật đệ trình Thôi Yển, xin đến yết kiến Tề Hiếu công, Thôi Yển đưa đến, Triển Hỉ nói với Tề Hiếu công rằng: - Chúa công tôi nghe tin xa giá nhà vua sắp sang qua địa giới nước tôi, vậy có sai tôi đưa các đồ lễ vật này để tiến dâng. Tề Hiếu công nói: - Người Lỗ nghe tin ta đem quân sang đánh có sợ hãi hay không? Triển Hỉ cười mà đáp rằng: - Bọn tiểu nhân thì thường có người sợ hãi, chứ bọn quân tử thì không sợ hãi gì cả. Tề Hiếu công nói: - Nước nhà ngươi, quan văn thì không ai mưu trí như Thi Bá; quan vũ thì không có ai vũ dũng như Tào Uế; vả đang gặp năm mất mùa, ngoài đồng không có cây cỏ nào được xanh tốt, thế thì còn chắc cậy vào đâu mà chẳng sợ hãi? Triển Hỉ nói: - Nước tôi không chắc cậy vào gì cả, chỉ chắc cậy về di mệnh của Tiên vương mà thôi; Tiên vương nhà Chu ta ngày xưa phong Thái công ở nước Tề, phong Tiên quân tôi là Bá Cầm ở nước Lỗ, khiến hai nước cắt máu giống vật mà ăn thề với nhau rằng: "Con cháu sau đời đời cùng giúp nhà Chu, chớ có làm hại lẫn nhau". Lời thề ấy còn giao cho quan Thái sử cất đi. Tề Hoàn công làm nên bá chủ, cũng vì biết hội chư hầu ở đất Kha để cùng nhau giúp Thiên tử; nay nhà vua lên ngôi đã được 9 năm, người nước tôi vẫn mong nhà vua lại sửa sang cái công nghiệp của Tề Hoàn công thuở trước. Bằng nay bỏ di mệnh của Tiên vương, trái lời thề của Thái công, để đến nỗi không giữ được cái công nghiệp của Tề Hoàn công thuở xưa thì tôi dám chắc rằng nhà vua tất không như thế. Bởi vậy mà nước tôi không lấy gì làm sợ hãi. Tề Hiếu công nói: - Nhà người về nói với vua nước Lỗ, ta xin cùng với nước Lỗ giảng hòa. Nói xong, liền rút quân về. Triển Hỉ về nói với Lỗ Hi công. Tang Tôn Thần nói: - Quân Tề dẫu lui, nhưng có ý khinh ta, tôi xin cùng với Trọng Toại mượn quân nước Sở để đánh nước Tề. Lỗ Hi công lấy làm phải, liền sai Trọng Toại làm chánh sứ, Tang Tôn Thần có quen nhau với tướng nước Sở là Thành Đắc Thần mới nhờ Thành Đắc Thần nói với Sở Thành Vương rằng: - Nước Tề bội ước ở đất Lỗi Thượng, nước Tống giao chiến ở sông Hoàng Thủy, đều là cừu địch của Sở cả; nếu đại vương định sang đánh thì tôi xin đem quân làm tiên phong. Sở Thành Vương mừng lắm, liền sai Thành Đắc Thần làm chánh tướng, Thúc hầu làm phó tướng, đem quân sang đánh Tề, chiếm lấy đất Dương Cốc, phong cho con Tề Hoàn công là Công tử Ung và sai Thúc hầu đóng đồn ở đấy để làm thanh viện cho nước Lỗ. Thành Đắc Thần thắng trận, thu quân về triều. Quan Lệnh doãn là Tử Văn, bấy giờ đã già rồi, xin nhường quyền chính lại cho Thành Đắc Thần. Sở Thành Vương nói: - Ta giận nước Tống hơn giận nước Tề, Thành Đắc Thần đã vì ta đánh nước Tề rồi, nhà ngươi nên vì ta đánh nước Tống, để báo thù cho nước Trịnh, khi đánh được Tống rồi, bấy giờ nhà ngươi sẽ từ chức. Tử Văn nói: - Tài trí tôi kém Thành Đắc Thần xa lắm, xin Đại vương cho Thành Đắc Thần thay tôi, tất có thể giúp Đại vương đánh Tống được. Sở Thành Vương nói: - Nước Tống đang thần phục nước Tấn, nay ta đánh Tống thì nước Tấn tất cứu, nếu không phải tay nhà ngươi thì sao địch nổi Tấn và Tống được, nhà ngươi nên vì ta mà giúp việc ấy. Nói xong, liền sai Tử Văn ra duyệt binh ở đất Khuê (đất nước Sở) để tuyên thị quân pháp. Tử Văn muốn làm cho tỏ tài trí của Thành Đắc Thần, ngày hôm ấy duyệt binh, chỉ làm thảo thảo xong việc mà thôi, cả buổi sáng chẳng giết một người nào. Sở Thành Vương nói: - Nhà ngươi ra duyệt binh mà không giết một người nào thì sao cho có uy được. Sở Thành Vương liền sai Thành Đắc Thần ra duyệt binh, ở đất Vĩ (đất nước Sở). Thành Đắc Thần ra duyệt binh, hiệu lệnh rất nghiêm trang, kẻ nào trái phép, đều trị tôi cả. Trong một ngày hôm ấy, 7 người bị đánh và 3 người bị xâu tai. Sở Thành Vương mừng lắm, nói: - Thành Đắc Thần thật có tài làm tướng. Tử Văn lại xin nhường quyền chính cho Thành Đắc Thần, Sở Thành Vương nghe lời, liền cho Thành Đắc Thần làm lệnh doãn, kiêm giữ chức nguyên soái. Các quan triều thần đều đến nhà Tử Văn để chúc mừng về việc tiến cử Thành Đắc Thần, chỉ có quan Đại phu là Vỉ Lã Thần nhân ốm không đến. Tử Văn bày tiệc để thết đãi. Khi tiệc đã nửa chừng, có người vào báo với Tử Văn rằng: - Có một cậu bé con ở ngoài cửa xin vào yết kiến. Tử Văn cho vào. Cậu bé khi vào đến nơi, chắp tay cúi đầu trông rất lễ phép. Trong khi ngồi ăn thì nghiễm nhiên tựa hồ không coi ai ra gì. Người ta nhận ra, mới biết là con trai Vĩ Lã Thần, tên gọi Vỉ Giả, mới 13 tuổi, Tử Văn lấy làm lạ hỏi rằng: - Ta tiến cử cho nước được một người đại tướng, các quan triều thần đều chúc mừng cả, sao nhà ngươi lại không chúc mừng? Vỉ Giả nói: - Các ngài cho là việc nên mừng, tôi thiết tưởng là một việc nên lo? Tử Văn nổi giận mà hỏi rằng: - Tại sao nhà ngươi lại bảo là một việc nên lo? Vỉ Giả nói: - Thành Đắc Thần là một người vũ dũng mà không có tài quyết đoán, chỉ có thể dùng để giúp việc tranh chiến được mà thôi, chứ giao cả quyền chính cho thì tất có ngày sinh hại. Tục ngữ có câu rằng: "Cứng quá thì gãy", tức là Thành Đắc Thần ngày nay đó! Thế thì ngài tiến cử một người để làm hỏng việc nước, còn mừng về nỗi gì! Nếu không làm hỏng việc nước thì bấy giờ tôi sẽ mừng, cũng chưa lấy chi làm muộn. Các quan đều nói rằng: - Đứa bé con ấy nói càn, không nên nghe lời. Vỉ Giả cười rầm lên mà lui ra. Các quan triều thần đều tan về cả. Ngày hôm sau, Sở Thành Vương cho Thành Đắc Thần làm thống tướng, cử đại binh cùng với quân Trần, Sái, Trịnh và Hứa sang đánh Tống, vây đất Mân Ấp, Tống Thành công sai quan Tư mã là Công Tôn Cố sang cáo cấp với Tấn Văn công. Tấn Văn công họp các quan triều thần lại để thương nghị. Tiên Trẩn nói: - Nước Sở là một nước có ơn riêng với Chúa công, mà nay cậy sức mạnh sang đánh nước Tề và nước Tống, ấy là lòng trời xui khiến để cho Chúa công được nên cái danh tiếng cứu kẻ hèn yếu; công nghiệp bá chủ cũng bởi ở một việc này! Tấn Văn công nói: - Ta muốn cứu nước Tề và nước Tống thì nên làm thế nào? Hồ Yển nói: - Nay nước Sở đang kết thân với Tào và Vệ, mà hai nước ấy lại đều là cừu địch của Chúa công; nếu Chúa công đem quân đánh Tào và Vệ thì tất Sở phải sang cứu, mà không quấy nhiễu nước Tề và nước Tống được nữa. Tấn Văn công khen phải, liền đem cái mưu ấy bảo Công Tôn Cố về nói trước với Tống Thành công, để Tống Thành công cứ vững lòng mà chống giữ với quân Sở. Công Tôn Cố vâng mệnh trở về nước Tống. Tấn Văn công lo ít quân, bàn với Triệu Thôi. Triệu Thôi nói: - Vua Vũ công ta ngày xưa ở đất Khúc Ốc, mới có một đạo quân, đến đời Hiến công lên thêm hai đạo, mà mở rộng bờ cõi kể hàng nghìn dặm, huống chi nước Tấn ta ngày xưa đã chia làm ba đạo quân được, ngặt vì một điều dân chưa biết lễ nghĩa, khó hợp mà dễ tan, nay Chúa công nên duyệt binh, để khiến cho dân biết thân yêu người trên, mới có thể dùng quân đi đánh các nước. Tấn Văn công nói: - Đã chia làm ba đạo quân thì cần phải có một quan nguyên soái, bây giờ biết dùng ai cho được? Triệu Thôi nói: - Người làm tướng có vũ dũng không bằng trí mưu, có trí mưu không bằng có học thức. Nay Chúa công muốn tìm kẻ có vũ dũng và trí mưu thì chẳng thiếu gì người; nếu muốn tìm kẻ có học thức thì tôi chỉ biết có một mình Khước Cốc mà thôi. Khước Cốc năm nay đã ngoại 50 tuổi mà vẫn còn chăm học lắm. Đã chăm học tất biết trọng nghĩa; đã trọng nghĩa tất biết thương dân; đã thương dân thì mới có thể làm đại tướng mà đem quân đi đánh giặc được. Tấn Văn công khen phải, liền sai người triệu Khước Cốc, cho làm chức nguyên soái. Khước Cốc chối từ không nhận. Tấn Văn công nói: - Ta biết cái tài của nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối. Tấn Văn công cố ép mãi, Khước Cốc mới chịu nhận. Tấn Văn công sai chọn ngày ra duyệt binh ở đất Bị Lư, chia quân làm ba đạo Trung quân, Thượng quân và Hạ quân. Sai Khước Cốc làm chánh tướng ở đạo Trung quân, mà lấy Khước Tần làm phó tướng; lại sai Hồ Yển làm chánh tướng ở đạo Thượng quân, Hồ Yển chối từ mà nói rằng: - Có anh tôi là Hồ Mao ở đấy, khi nào tôi là em mà dám trước anh. Tấn Văn công liền cho Hồ Mao làm chánh tướng ở đạo Thượng quân, mà lấy Hồ Yển làm phó tướng. Lại sai Triệu Thôi làm chánh tướng ở đạo Hạ quân. Triệu Thôi cũng từ chối. Tấn Văn công liền cho Loan Chi làm chánh tướng ở đạo Hạ quân, mà lấy Tiên Trẩn làm phó tướng. Khước Cốc trèo lên tường đài để truyền bá hiệu lệnh, các tướng đều tin phục cả. Bỗng có một trận gió to, làm gãy lá cờ đại tướng. Các tướng đều giật mình kinh sợ. Khước Cốc bảo các tướng rằng: - Gãy lá cờ đại tướng là cái triệu ta chẳng được cùng với các người đồng sự bao lâu nữa, nhưng Chúa công ta tất làm nên được bá chủ. Các tướng đều hỏi là tại làm sao. Khước Cốc chỉ cười mà không trả lời. Đầu năm sau, Tấn Văn công bàn mưu với Khước Cốc để định đi đánh Tào và Vệ. Khước Cốc nói: - Tôi đã bàn định với Tiên Trẩn rồi; nếu ta chia ra để đánh Tào và Vệ thì không địch nổi với quân Sở được. Nay ta nên mượn đường nước Vệ để sang đánh Tào, tất nhiên nước Vệ không nghe, vì nước Vệ đang giao hiếu với nước Tào. Khi bấy giờ ta đem quân qua sông Hoàng Hà, lẻn sang đánh nước Vệ. Đánh được Vệ rồi, ta sẽ thừa thế mà kéo quân sang nước Tào; vua nước Tào vốn không được lòng dân, lại thấy nước Vệ thua mà sợ uy ta thì ta tất phá vỡ được. Tấn Văn công mừng lắm nói: - Nhà ngươi thật là một tướng có học thức! Tấn Văn công sai người sang mượn đường nước Vệ để đi đánh nước Tần. Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyến nói với Vệ Thành công rằng: - Khi vua Tấn còn đi trốn, có qua nước ta, bấy giờ Tiên quân ta không nghênh tiếp; nay sai người sang mượn đường để đánh Tào, nếu Chúa công không nghe thì nước Tấn tất đánh nước Vệ ta trước. Vệ Thành công nói: - Ta cùng với Tào thần phục nước Sở, nếu ta để cho nước Tấn mượn đường để đánh Tào thì e rằng chưa được lòng Tấn mà đã mua oán với nước Sở. Nước Tấn giận thì ta còn trông cậy có nước Sở, chứ nước Sở giận thì ta biết trông cậy vào đâu! Vệ Thành công không cho nước Tấn mượn đường. Sứ nước Tấn về báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói: - Quả nhiên như lời bàn của quan nguyên soái (Khước Cốc) ! Tấn Văn công đem quân qua sông Hoàng Hà, kéo thẳng đến đất Ngũ Lộc (đất nước Vệ). Tấn Văn công nói: - Chỗ này là chỗ ngày trước Giới Tử Thôi cắt đùi cho ta ăn đây! Nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Các tướng đều có ý cảm động. Ngụy Thù nói: - Chúng ta nên đánh lấy thành này để rửa khỏi cái điều hổ thẹn năm xưa, cần gì mà phải thở dài! Tiêu Trẩn nói với Tấn Văn công rằng: - Ngụy Thù nói phải lắm! Xin Chúa công cho tôi đem quân đi đánh thành Ngũ Lộc. Ngụy Thù nói với Tiên Trẩn rằng: - Tôi xin giúp Tướng quân một tay. Hai người cùng đem quân đi ngay. Tiên Trẩn sai quân sĩ đem cờ đỏ cắm hết mọi nơi cao ở trong rừng núi. Ngụy Thù nói: - Tôi thiết tưởng binh pháp nên phải bí mật mới được; nay lại cắm cờ như vậy, khiến quân giặc biết trước mà phòng bị, chẳng hay là chủ ý thế nào? Tiên Trẩn nói: - Nước Vệ vốn thần phục nước Tề, bây giờ đổi ý mà theo nước Sở, người trong nước vẫn không thuận, chỉ sợ trung quốc ta đem quân đến đánh; nay Chúa công ta muốn nối công nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công thuở xưa thì nên phải thị uy trước mới được. Dân thành Ngũ Lộc trông thấy cờ nước Tấn cắm khắp mọi nơi, chẳng biết quân Tấn nhiều hay ít, đều hoảng hốt trốn chạy cả, quan trấn thủ cũng không tài nào cấm nổi. Khi Tiên Trẩn kéo quân đến, không có ai chống giữ, liền chiếm ngay được thành Ngũ Lộc, rồi sai người báo tin cho Tấn Văn công. Tấn Văn công mừng lắm, bảo Hồ Yển rằng: - Ngày xưa Quốc cữu thấy đứa nông phu cho ta viên đất, bảo là cái triệu được đất, câu nói ấy đến bây giờ mới nghiệm! Nói xong, liền cho một viên lão tướng là Khước Bộ Dương làm quan trấn thủ ở thành Ngũ Lộc; còn đại binh thì tiến lên đóng ở đất Vu Địa (đất nước Vệ). Quan nguyên soái là Khước Cốc bỗng nhiên bị ốm. Tấn Văn công thân hành đến thăm. Khước Cốc nói: - Tôi cảm cái ân tri ngộ của Chúa công, vẫn định gia công cố sức để mà báo đền, nhưng mệnh trời có hạn, ứng vào cái triệu gẫy cờ ngày trước, vậy tôi xin có một lời để hiến Chúa công. Tấn Văn công nói: - Nhà ngươi muốn nói câu gì, ta cũng xin vâng lời. Khước Cốc nói: - Nay Chúa công đánh Tào và Vệ, chẳng qua cũng là muốn kiềm chế nước Sở; nhưng muốn kiềm chế nước Sở thì tất phải kết liên với nước Tề và nước Tấn. Nước Tề đang ghét Sở thì tất muốn liên kết với ta; Tề đã liên kết với ta thì tất nhiên Tào và Vệ sợ mà phải xin hòa, bấy giờ ta sẽ thu phục nước Tần, ấy là một cái kế sách hoàn toàn để mà kiềm chế nước Sở đó. Tấn Văn công khen phải, liền sai sứ sang giao hiếu với nước Tề, xin hai nước cùng kết liên với nhau để chống cự nước Sở. Bấy giờ Tề Hiếu công đã mất rồi, người trong nước lập em là Phan lên nối ngôi, tức là Tề Chiêu công. Tề Chiêu công mới lên nối ngôi, vì cớ nước Sở chiếm lấy đất Cốc, đang muốn kết liên với Tấn để chống cự nước Sở, mới thân hành sang Vu Địa hội với Tấn Văn công. Vệ Thành công thấy quân nước Tấn chiếm được đất Ngũ Lộc, vội vàng sai Ninh Du (con Ninh Tốc) đến nói với Tấn Văn công xin giảng hòa. Tấn Văn công nói: - Nước Vệ đã không cho ta mượn đường, nay sợ mà xin giảng hòa thì không phải là thực lòng, phen này ta quyết đem quân vào phá tan đất Sở Khâu (kinh thành nước Vệ). Ninh Du về nói với Vệ Thành công. Bấy giờ trong thành Sở Khâu thường vẫn huyên truyền là quân Tấn sắp đến, một buổi chiều năm lần kinh sợ. Ninh Du bảo Vệ Thành công rằng: - Nước Tấn đang tức giận ta lắm, mà người nước ta lại sợ hãi, xin Chúa công hãy tạm tránh đi; Nước Tấn biết Chúa công đã đi, tất không đến đánh đất Sở Khâu nữa, bấy giờ ta sẽ xin giảng hòa với Tấn để yên nước nhà. Vệ Thành công thở dài mà than rằng: - Khi vua nước Tấn còn đang đi trốn, Tiên quân ta không biết giữ lễ, nay ta lại không minh, không cho nước Tấn mượn đường, để đến nỗi di hại cho người trong nước, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà ở đây được nữa! Vệ Thành công sai quan Đại phu là Nguyên Huyến cùng với em là Thúc Vũ giữ lấy quyền chính trong nước, còn mình thì tránh ra ở đất Tương Ngưu; một mặt sai quan Đại phu là Tôn Viêm sang cầu cứu nước Sở. Quan Nguyên soái nước Tấn là Khước Cốc đau nặng rồi mất. Tấn Văn công thương xót vô cùng, sai người đưa lĩnh cữu về nước Tấn để an táng, rồi cho Tiên Trẩn thăng làm chức nguyên soái, vì có cái công lấy được thành Ngũ Lộc; lại cho Tư Thần thay Tiên Trẩn làm phó tướng đạo Hạ quân. Tấn Văn công muốn diệt nước Vệ. Tiên Trẩn can rằng: - Tề và Tống bị nước Sở ức chế, ta mới đem quân đi cứu, nay chưa cứu được Tề và Tống mà đã diệt nước Vệ, thế thì không phải là nghĩa bá chủ đi cứu những nước hèn yếu; huống chi vua Vệ đã trốn đi nơi khác rồi, chi bằng ta đem quân sang đánh Tào. Tấn Văn công theo lời, đem quân sang vây nước Tào. Tào Cung công họp các quan triều thần lại để thương nghị. Quan Đại phu là Hi Phụ Cơ nói: - Vua nước Tấn đem quân tới đây là báo cái thù ngày xưa Chúa công khinh bỉ, đến tận nơi mà xem xương sườn, thế thì trong lòng tức giận lắm, ta không thể lấy sức mà địch nổi. Dám xin Chúa công cho phép tôi đi sứ để giảng hòa với Tấn mà cứu cho dân trong nước khỏi khổ sở. Tào Cung công nói: - Tấn đã không cho Vệ giảng hòa, khi nào lại cho ta giảng hòa. Quan Đại phu là Vu Lang nói với Tào Cung công rằng: - Tôi nghe khi trước vua Tấn qua nước ta, Hi Phụ Cơ có mời về nhà để thết đãi, nay lại xin đi sứ để giảng hòa, tất là có ý muốn bán nước, xin Chúa công chớ nghe. Chúa công nên chém Hi Phụ Cơ trước, rồi tôi sẽ có mưu kế lui được quân Tấn. Tào Cung công nói: - Hi Phụ Cơ bàn việc nước mà bất trung, đáng lẽ phải chịu tội chết, nhưng ta nghĩ là một người thế thần, vậy hãy dung thứ cho mà cách chức đuổi về. Hi Phụ Cơ lạy tạ về nhà, từ bấy giờ đóng cửa không đi đến đâu cả. Tào Cung công hỏi Vu Lang rằng: - Bây giờ nhà ngươi có mưu kế gì mà lui được quân Tấn không? Vu Lang nói: - Vua nước Tấn vừa được một trận, tất có lòng kiêu ngạo, tôi xin giả cách làm một tờ mật thư ước với vua nước Tấn: Đêm hôm nay mở cửa thành để ra hàng, chờ khi vua Tấn vào thì sập cửa thành xuống, rồi xúm lại mà bắn. Tào Cung công theo kế ấy. Vu Lang đưa thư cho Tấn Văn công xin làm nội ứng. Tấn Văn công tiếp được thư, toan tiến quân vào thành nước Tào. Tiên Trẩn nói: - Nước Tào cũng chưa thiệt hại gì mấy, mà đã xin hàng, chắc đâu không phải là kế dối, để tôi xin thử xem. Nói xong, liền chọn một người mặt đẹp râu dài, đội mũ mặc áo giả làm vua Tấn để tiến vào thành nước Tào. Bột Đề tình nguyện làm người đánh xe. Đêm hôm ấy, trên mặt thành đều cắm cờ hàng, rồi mở toang cửa thành ra để đón Tấn Văn công. Tấn Văn công giả đem hơn 500 quân kéo thẳng vào trong thành, chưa vào được một nửa, bỗng thấy cửa thành đóng sầm lại, tên bắn xuống như mưa, Bột Đề và hơn 200 người đều chết sạch cả. Tấn Văn công năm trước đi qua nước Tào, người nước Tào cũng nhiều kẻ biết mặt, nhưng trong lúc đang đêm rối rít, chẳng ai phân biệt được thật hay là giả, vẫn tưởng là Tấn Văn công chết rồi, mãi đến sáng rõ, mới biết là Tấn Văn công giả. Quân Tấn còn nhiều người chưa vào cửa thành, trốn về báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công nổi giận, thúc quân đánh gấp lắm. Vu Lang lại hiến kế với Tào Cung công rằng: - Chúa công nên đem những quân Tấn đã bắn chết vừa rồi, chăng xác lên trên mặt thành, khiến cho quân Tấn nom thấy mà phải khiếp sợ, sinh lòng trễ biếng, chỉ chậm trong mấy ngày thì nước Sở tất đem quân đến cứu. Tào Cung công nghe lời. Quân Tấn trông thấy trên mặt thành nước Tào có chăng những xác người mình, đều đem lòng căm tức. Tấn Văn công bảo Tiên Trẩn rằng: - Giả sử quân ta thấy vậy mà sinh biến thì biết làm thế nào? Tiên Trẩn nói: - Phần mộ nước Tào, nay đều chôn ở ngoài phía Tây môn cả, ta nên chia lấy một nửa quân, đến đóng ở đấy, giả cách sắp sửa khai quật những phần mộ ấy, để làm cho dân trong thành phải sợ, sợ thì tất loạn, bấy giờ ta sẽ thừa cơ tiến đánh. Tấn Văn công khen phải, truyền cho quân sĩ nói phao lên rằng sắp sửa khai quật những phần mộ của người nước Tào. Rồi sai Hồ Mao và Hồ Yển đem quân đến đóng ở ngoài Tây môn, sắp sửa xuổng cuốc để đợi đến giờ ngọ hôm sau thì đào. Quân nước Tào nghe tin ấy, đều sợ hãi rối rít cả lên. Tào Cung công sai người trèo lên mặt thành nói với quân Tấn, xin tha cho, đừng khai quật phần mộ, lần này tình nguyện thật bụng mà ra đầu hàng. Tiên Trẩn cũng sai người trả lời rằng: - Nước người đánh lừa để giết quân ta, lại chăng xác ở trên mặt thành, vậy nên quân ta tức giận, nhất định khi quật phần mộ nước ngươi để báo thù; bây giờ nước ngươi nên đem những xác quân ta ấy khâm liệm tử tế mà đưa ra trả, thì ta sẽ rút quân trở về. Người nước Tào trả lời rằng: - Đã như vậy thì xin khoan hạn cho trong ba ngày! Tiên Trẩn nói: - Nếu trong ba ngày mà không đem trả, ta sẽ làm nhục đến tiên tổ nhà các ngươi. Tào Cung công quả nhiên đem những xác quân Tấn ở trên mặt thành xuống, khâm liệm tử tế để định xe ra trả quân Tấn. Tiên Trẩn mật sai Hồ Mao, Hồ Yển, Loan Chi và Tư Thần chia làm bốn đạo quân để mai phục sẵn, đợi khi nào người nước Tào mở cửa thành đưa những thi thể quân Tấn ra, bấy giờ sẽ tiến vào mà đánh. Đến ngày thứ tư, Tiên Trẩn sai người đứng dưới chân thành quát to lên rằng: - Ngày hôm nay có giao trả những thi thể quân ta hay không? Người nước Tào ở trên mặt thành trả lời rằng: - Xin quý quốc lui quân ra ngoài năm dặm, nước tôi sẽ giao trả. Tiên Trẩn nói với Tấn Văn công, xin lui quân ra ngoài năm dặm. Khi người nước Tào đang xe những thi thể quân Tấn ra thì các đạo phục binh của quân Tấn thừa cơ tiến vào. Tào Cung công đang đứng trên mặt thành, Ngụy Thù nhảy lên trói lại. Vu Lang trèo qua thành trốn chạy, lại bị Điên Hiệt chém chết. Tấn Văn công cùng các tướng vào thành lên ngồi ở trên nhà lầu, Ngụy Thù giải Tào Cung công đến nộp, Điên Hiệt thì dâng trình thủ cấp Vu Lang. Tấn Văn công truyền đem sĩ tịch của nước Tào ra xem, thấy những người làm quan đến chức đại phu kể hàng 300 người, đều chiếu họ tên bắt hết cả, không sót một người nào, nhưng không thấy họ Hi Phụ Cơ. Có người nói với Tấn Văn công rằng: - Hi Phụ Cơ vì cớ khuyên vua Tào giảng hòa với Tấn, đã bị vua Tào cách chức rồi. Tấn Văn công kể tội Tào Cung công rằng: - Cả nước ngươi có một người bề tôi hiền hòa mà nhà người không biết dùng, chỉ dùng một lũ tiểu nhân như trò trẻ con, tài nào mà không mất nước. Nói xong, liền sai giam lại một chỗ để chờ khi đánh được Sở rồi, sau sẽ phán xử; còn 300 người đang có quyền thế bấy giờ đều bị giết cả, tịch ký gia tài, đem thưởng cấp quân sĩ. Tấn Văn công lại hạ lệnh cho quân sĩ, cấm không ai được xâm phạm đến nhà Hi Phụ Cơ và chung quanh một xóm chỗ Hi Phụ Cơ ở, vì ngày trước Hi Phụ Cơ có cái ơn mời Tấn Văn công về nhà để thết đãi. Tấn Văn công chia quân làm hai đạo, một đạo đóng ở trong thành nước Tào, còn một đạo theo Tấn Văn công trở về đại dinh. Ngụy Thù và Điên Hiệt vẫn cậy nhiều công trạng, hay có ý kiêu ngạo, nay thấy Tấn Văn công trọng đãi Hi Phụ Cơ như vậy Ngụy Thù liền tức giận mà bảo Điên Hiệt rằng: - Chúng ta đi theo Chúa công đánh nước Tào, bắt vua chém tướng, biết bao nhiêu là công trạng, mà không thấy Chúa công nói đến; Hi Phụ Cơ chẳng qua chỉ thết đãi được một bữa cơm, ân huệ đáng là bao nhiêu, mà Chúa công trọng đãi quá, thật là không được công bằng. Điên Hiệt nói: - Người ấy nếu chịu làm quan thì tất Chúa công ta trọng dụng, bấy giờ ta lại bị hắn đè nén, chi bằng ta cho một mồi lửa để cho hắn chết đi là khỏi di hại về sau; dẫu Chúa công có biết nữa, cũng chẳng giết chúng ta được. Ngụy Thù lấy làm phải, rồi hai người cùng nhau uống rượu, đêm hôm ấy đem quân đến vây nhà Hi Phụ Cơ, phóng hỏa đốt lên, lửa cháy ngất trời. Ngụy Thù đang say rượu, cậy có sức khỏe, trèo lên trên cái chòi cửa, chạy đi chạy lại để dò tìm Hi Phụ Cơ mà bắt giết đi. Ai ngờ mấy cái cột chòi ở phía dưới đã bị lửa cháy, gãy mà đổ ra, Ngụy Thù ở trên chòi ngã lăn xuống đất, cái cột cháy ấy đè ngay vào ngực. Ngụy Thù hộc máu miệng ra, rồi vội vàng trèo qua nóc nhà để chạy, chỉ một suýt nữa thì chết cháy. Khi ra đến ngoài, Ngụy Thù đau quá, chỉ nằm bẹp xuống đất, không thể đi được. Điên Hiệt trông thấy, liền cởi áo bọc lại, rồi vực lên xe đem về. Hồ Yển và Tư Thần ở trong thành trông thấy ngọn lửa, vội vàng đem quân đến thì nhà Hi Phụ Cơ cháy đã tan nát cả rồi. Hi Phụ Cơ đem mấy người nhà đi chữa cháy, bị khói xông vào mắt, ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Vợ Hi Phụ Cơ ẵm một đứa con mới lên 5 tuổi, tên là Hi Lộc chạy ra sau vườn, đứng nép ở dưới ao, mới được thoát nạn, còn mấy tên người nhà đều bị chết cháy cả. Xung quanh một vùng gần đấy, cả thảy cháy mất đến hơn 30 nóc nhà. Hồ Yển và Tư Thần dò xét biết là Ngụy Thù và Điên Hiệt phóng hỏa, giật mình kinh sợ, vội vàng sai người đến đại dinh để báo với Tấn Văn công. Đại dinh đóng xa năm dặm, đêm thấy ngọn lửa, chưa hiểu là chuyện gì, đến sáng hôm sau, Tấn Văn công tiếp được thư của Hồ Yển và Tư Thần, mới biết rõ đầu đuôi, liền thân hành đến để thăm Hi Phụ Cơ. Hi Phụ Cơ giương mắt nhìn Tấn Văn công, rồi dần dần nhắm lại mà chết. Tấn Văn công thương xót vô cùng. Vợ Hi Phụ Cơ ẵm Hi Lộc sụp lạy ở dưới đất, vừa lạy vừa khóc. Tấn Văn công cũng ứa nước mắt xuống mà bảo rằng: - Hiền tẩu chớ lo phiền, đã có tôi trông nom cho, không ngại gì cả. Nói xong, tức khắc truyền cho Hi Lộc dẫu còn trẻ con, cũng phong làm chức đại phu; lại chu cấp cho vàng lụa nhiều lắm, để tống táng Hi Phụ Cơ, rồi đem vợ con Hi Phụ Cơ sang ở nước Tấn, chờ khi vua Tào đã quy thuận rồi, bấy giờ lại cho về. Sau Hi Lộc làm quan đại phu ở nước Tào, Tấn Văn công muốn chém Ngụy Thù và Điên Hiệt. Triệu Thôi nói: - Hai người ấy ngày xưa đi tòng vong, khó nhọc trong 19 năm trời, mới đây lại có công trạng lớn, Chúa công nên dung thứ cho. Tấn Văn công nổi giận mà nói rằng: - Ta sở dĩ thủ tín với dân được là nhờ có pháp luật. Bề tôi không theo pháp luật thì sao gọi là bề tôi; vua không thi hành pháp luật với bề tôi được thì sao gọi là vua. Vua chẳng ra vua, bề tôi chẳng ra bề tôi thì sao giữ được nước! Nay các quan đại phu nhiều người có công với ta mà đều làm trái pháp luật cả thì từ nay trở đi, ta còn thi hành pháp luật gì được nữa! Triệu Thôi nói: - Chúa công nói phải lắm! Nhưng Ngụy Thù là người vũ dũng, các tướng không ai bằng, giết cũng nên tiếc; xin Chúa công giết một mình Điên Hiệt, cũng đủ làm gương cho kẻ khác, cần gì mà phải giết cả Ngụy Thù. Tấn Văn công nói: - Ta nghe Ngụy Thù đau ngực không dậy được, chẳng bao lâu cũng chết, còn tiếc gì mà chẳng trị tội để giữ cho pháp luật được nghiêm minh. Triệu Thôi nói: - Tôi xin phụng mệnh đến hỏi xem, nếu bệnh đã nguy thì Chúa công hãy trị tội, nhược bằng còn mạnh thì nên lưu một viên hổ tướng ấy để dùng về sau. Tấn Văn công gật đầu, liền sai Tuân Lâm Phủ đi đòi Điên Hiệt và sai Triệu Thôi đến thăm bệnh Ngụy Thù. Quay về bài gốc 0SHARES