Đông Chu Liệt Quốc - Phùng Mộng Long

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Phan Kim Tiên, 9 Tháng mười hai 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 50 Trọng Toại tôn lập Công tử Tiếp Triệu Thuẫn khuyên can Tấn Linh công

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Đắc Thần sang nước Tề để chúc mừng vua mới và tạ ơn nước Tề đã sai sứ sang viếng tang. Tề Huệ công mời ăn tiệc, nhân hỏi Trọng Toại và Thúc Tôn Đắc Thần rằng: - Chẳng hay vua mới nước Lỗ sao lại đặt tên là Ác. Thế gian thiếu gì tên đẹp mà lại dùng một chữ xấu xí ấy. Trọng Toại nói: - Tiên quân tôi lúc mới sinh Thế tử Ác, có sai quan Thái sử bói xem tốt xấu thế nào; quan Thái sử bảo rằng trong số tất phải ác tử không được hưởng lộc, vậy nên Tiên quân tôi mới đem chữ "Ác" đặt tên để mà trấn áp những sự dở đi. Nhưng Thế tử Ác nguyên là đích tử mà phải lập, chứ Tiên quân tôi vẫn không có lòng yêu; Tiên quân tôi chỉ yêu người con hơn tuổi nhất là Công tử Tiếp. Công tử Tiếp tính nết hiền hậu, biết kính trọng các quan đại thần, khắp người trong nước ai cũng muốn cho lên làm vua. Tề Huệ công nói: - Đời xưa cũng có phép được lập người con hơn tuổi, huống chi lại là con yêu. Thúc Tôn Đắc Thần nói: - Nước Lỗ tôi vẫn quen lệ lập đích tử, khi nào không có đích tử mới lập người con hơn tuổi, bởi vậy Tiên quân tôi bỏ Công tử Tiếp mà lập Công tử Ác, người trong nước chẳng ai thuận cả. Nếu quí quốc có lòng vì nước tôi đổi lập vua hiền thì Công tử Tiếp xin cùng với quí quốc làm hôn nhân, rồi dốc một lòng mà thần phục quí quốc. Tề Huệ công bằng lòng, nói: - Nay hai quan đại phu cầm quyền mà làm được việc ấy, ta cũng xin theo ý. Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Đắc Thần xin uống máu để ăn thề và lập tờ hôn ước. Tề Huệ công thuận cho. Bọn Trọng Toại về đến nước Lỗ, bảo Quí Tôn Hàng Phủ rằng: - Ngày nay công nghiệp bá chủ của nước Tấn đã suy kém rồi, nước Tề sắp lại cường thịnh. Nước Tề muốn đem đích nữ gả cho Công tử Tiếp, như vậy thì nước ta càng thêm vây cánh. Quí Tôn Hàng Phủ nói: - Chúa công bây giờ là cháu gọi vua Tề bằng cậu, vua Tề có con gái, sao không gả cho Chúa công mà lại gả cho Công tử Tiếp. Trọng Toại nói: - Vua Tề nghe nói Công tử Tiếp là người hiền, muốn giao hoan với Công tử Tiếp, nhận làm cậu cháu; còn như bà phu nhân Khương Thị là con gái Tề Chiêu công, các con Tề Hoàn công coi như cừu địch, vậy nên bốn đời vua nước Tề đều lấy em thay anh. Kẻ kia chẳng nghĩ gì đến anh, huống chi là cháu. Quí Tôn Hàng Phủ nín lặng, khi lui về, thở dài mà than rằng: - Đông môn thị đã muốn có ý khác rồi! Nói xong, liền mật bảo với Thúc Trọng Bành Sinh. Thúc Trọng Bành Sinh nói: - Ngôi vua đã định rồi, ai còn dám có ý khác! Thúc Trọng Bành Sinh cũng chẳng nghĩ gì đến. Trọng Toại cùng với Kính Doanh bàn mưu đem bọn dũng sĩ phục ở trong chuồng ngựa, sai người bảo là ngựa mới đẻ con. Kính Doanh bảo Công tử Tiếp cùng với vua Lỗ (tức là Công tử Ác) và Công tử Thị Thân Bành ra chuồng ngựa để xem. Bọn dũng sĩ đổ ra, cầm côn gỗ đánh chết vua Lỗ, lại giết chết cả Công tử Thị nữa. Trọng Toại nói: - Quan Thái phó là Thúc Trọng Bành sinh hãy còn, nếu chưa trừ bỏ được người ấy thì tất không xong việc. Trọng Toại liền sai nội thị giả cách phụng mệnh vua Lỗ đến triệu Thúc Trọng Bành Sinh. Thúc Trọng Bành Sinh sắp sửa vào cung. Người nhà là công Nhiễm Vụ Nhân vẫn biết cái mưu của Trọng Toại, nghi là có ý gì khác, mới can Thúc Trọng Bành Sinh rằng: - Quan Thái phó chớ vào, vào thì tất chết. Thúc Trọng Bành Sinh nói: - Vua sai người triệu thì dẫu chết ta cũng đành lòng. Công Nhiễm Vụ Nhân nói: - Nếu vua triệu thật quan Thái phó đã không chết, chỉ e rằng không phải vua triệu thì chết uổng mà thôi. Thúc Trọng Bành Sinh không nghe. Công Nhiễm Vụ Nhân nắm lấy vạt áo mà khóc. Thúc Trọng Bành Sinh dứt đứt vạt áo, rồi đi thẳng vào cung; không thấy vua Lỗ đâu cả, mới hỏi các nội thị. Các nội thị nói: - Chúa công đi ra chuồng ngựa, để xem ngựa mới đẻ. Các nội thị liền đưa Thúc Trọng Bành Sinh đi ra chuồng ngựa. Bọn dũng sĩ lại đổ ra giết chết Thúc Trọng Bành Sinh, rồi đem thi thể chôn ở trong đống phân ngựa. Kính Doanh sai người bảo Khương Thị rằng: - Chúa công cùng Công tử Thị đều bị ngựa đá chết rồi. Khương Thị khóc ầm lên, rồi đi ra chuồng ngựa để xem. Khi Khương Thị đến thì thi thể vua Lỗ và Công tử Thị đã đưa ra ngoài cung môn. Quí Tôn Hàng Phủ nghe tin, biết ngay là mưu kế của Trọng Toại, không dám nói ra, lại bảo riêng Trọng Toại rằng: - Nhà ngươi tàn ngược quá, ta nghĩ không đang tâm! Trọng Toại nói: - Đấy là mưu của Kính Doanh, chứ ta có dự đâu đến. Quí Tôn Hàng Phủ nói: - Giả sử nước Tấn đem quân đến hỏi tội thì ta biết nói ra thế nào? Trọng Toại nói: - Xem việc nước Tề và nước Tống trước thì đủ biết. Kẻ kia giết vua lớn mà còn chẳng ai hỏi tội, huống chi ta giết hai đứa trẻ con ấy, còn lo ngại gì! Quí Tôn Hàng Phủ ôm lấy thi thể vua Lỗ mà khóc, đến nỗi khản cả tiếng. Trọng Toại nói: - Quan Đại thần nên phải bàn việc lớn trong nước, sao lại bắt chước thói đàn bà! Quí Tôn Hàng Phủ mới gạt nước mắt không khóc nữa. Thúc Tôn Đắc Thần đến hỏi Trọng Toại rằng: - Anh tôi là Thúc Trọng Bành Sinh ở đâu? Trọng Toại chối là không biết. Thúc Tôn Đắc Thần cười mà rằng: - Anh ta có chết đi thì cũng là trung thần; cái chí anh ta như thế, can gì phải giấu! Trọng Toại mới nói thực với Thúc Tôn Đắc Thần và bảo với các quan triều thần rằng: - Công việc ngày nay, cần phải lập vua trước đã. Công tử Tiếp là người hiền mà lại nhiều tuổi hơn cả các công tử, nên lập lên làm vua. Các quan triều thần đều vâng dạ xin theo, rồi cùng tôn lập Công tử Tiếp lên làm vua, tức là Lỗ Tuyên công. Thúc Tôn Đắc thần bới đống phân ngựa, đem thi thể Thúc Trọng Bành Sinh ra mà làm lễ an táng. Khương Thị nghe tin hai con bị giết, Trọng Toại lập Công tử Tiếp lên làm vua, vật mình lăn khóc, chết đi sống lại đến mấy lượt. Trọng Toại lại nịnh Lỗ Tuyên công, viện lẽ mẫu dĩ tử quí, xin tôn Kính Doanh lên làm Quốc mẫu. Khương Thị buồn rầu, ngày đêm khóc lóc, sai thị nữ thu xếp đồ đạc để sắp sửa trở về nước Tề. Trọng Toại lại giả cách sai người lưu lại mà nói rằng: - Chúa công bây giờ dẫu không phải phu nhân sinh ra, nhưng phu nhân vẫn là đích mẫu, bao giờ Chúa công cũng trọng đãi, can gì mà phu nhân phải về nước Tề. Khương Thị mắng rằng: - Thằng giặc Trọng Toại kia! Mẹ con ta có phụ bạc gì với mày mà mày lại làm những việc tàn ngược như vậy, nên còn định nói lừa ta, quỉ thần có biết, tất chẳng dung tha cái tội ấy! Khương Thị không vào yết Kính Doanh nữa, tức khắc lên xe đi ngay. Khi đi qua những chỗ chợ to phố lớn, Khương Thị lại khóc to lên mà kêu rằng: - Trời đất ôi! Trời đất ôi! Hai con nhỏ của tôi có tội lỗi gì! Thân tôi đây có tội lỗi gì! Mà thằng giặc Trọng Toại nỡ lòng giết con đích mà lập con thứ. Nay tôi từ biệt nước Lỗ không bao giờ về nữa. Người trong nước nghe nói, ai cũng động lòng thương xót, có kẻ lại chảy nước mắt khóc. Ngày hôm ấy nước Lỗ đến nỗi tan chợ, bởi vậy mới gọi Khương Thị là Ai Khương; lại vì cớ trở về nước Tề, cũng gọi là Xuất Khương. Xuất Khương về đến nước Tề, cùng với Chiêu công phu nhân, mẹ con gặp nhau, đem những sự oan khổ nói chuyện với nhau, rồi hai mẹ con cùng khóc lóc. Tề Huệ công thấy khóc lóc như vậy, có ý ghét không muốn nghe, mới sai người làm riêng một cái cung để cho hai mẹ con ở. Lại nói chuyện em cùng mẹ Lỗ Tuyên công là Thúc Miện, vốn người trung thực, thấy anh là Công tử Tiếp nhờ sức Trọng Toại, giết em mà lên làm vua, trong lòng khinh bỉ mới không vào chúc mừng. Lỗ Tuyên công sai người triệu Thúc Miện, muốn dùng cho làm quan to. Thúc Miện cố ý từ chối không làm. Có người bạn Thúc Miện hỏi Thúc Miện vì cớ gì mà không làm quan, Thúc Miện nói: - Không phải là tôi có ghét gì phú quí, nhưng trông thấy anh tôi lại nhớ đến các em, vậy nên tôi không đành lòng. Người bạn nói: - Công tử đã cho anh bất nghĩa thì sao không bỏ mà sang nước khác? Thúc Miện nói: - Anh tôi chưa hề có tuyệt tình với tôi, sao tôi nỡ tuyệt tình trước. Gặp bấy giờ Lỗ Tuyên công sai sứ đến thăm hỏi và đem vàng lụa đưa tặng cho Thúc Miện. Thúc Miện chối từ không lấy mà nói rằng: - Tôi đây cũng không đến nỗi đói rét, có đâu lại còn dám tham! Sứ giả hai ba lần nói mãi. Thúc Miện bảo rằng: - Khi nào tôi có thiếu dùng, tôi sẽ xin đến lấy, chứ bây giờ thì quyết không dám nhận. Người bạn nói: - Công tử không chịu làm quan, cũng đủ tỏ cái nghĩa khí rồi, nay trong nhà túng tiêu, chúa công có tặng tống thì xin cứ nhận, can gì mà từ chối! Dẫu Công tử nhận, cũng không ai dám bảo là tham. Thúc Miện chỉ cười, chẳng nói một câu gì cả. Người bạn thở dài mà lui ra. Sứ giả về nói Lỗ Tuyên công. Lỗ Tuyên công nói: - Em ta vốn nghèo, như vậy thì không biết lấy gì mà tiêu cho đủ. Lỗ Tuyên công sai người đêm đến rình xem Thúc Miện làm gì thì thấy đang thắp đèn ngồi khâu giày, để ngày hôm sau đem bán lấy tiền ăn. Lỗ Tuyên công than rằng: - Chú mày muốn học lối Bá Di, Thúc Tề thuở xưa, hái rau vi ở núi Thủ Dương mà ăn hay sao! Thôi thì ta cũng tùy ý. Thúc Miện suốt đời không chịu ăn lộc của anh, mà cũng không nói đến lỗi của anh bao giờ. Người nước Lỗ ai cũng khen Thúc Miện là người có nghĩa khí. Đến đời Lỗ Thành công lại dùng người con là Công Tôn Anh Tề làm quan đại phu. Bấy giờ ngoài Họ Thúc Tôn Thị, thêm có Thúc Thị, Thúc Lão, Thúc Cung, Thúc Chiếp, Thúc Ưởng và Thúc Nghệ, đều là con cháu sau Thúc Miện cả. Trọng Toại nhân khi tết Nguyên Đán, tâu với Lỗ Tuyên công rằng: - Nay Chúa công nội chủ chưa có ai, ngày trước tôi đã cùng với vua Tề kết lập tờ hôn thư, việc ấy Chúa công chớ nên để chậm. Lỗ Tuyên công nói: - Bây giờ nên sai ai sang sứ Tề? Trọng Toại nói: - Việc này tự tôi bày ra. Xin Chúa công cho tôi đi. Lỗ Tuyên công liền sai Trọng Toại sang nước Tề thỉnh hôn. Tháng hai năm ấy, đón con gái nước Tề là Khương Thị về, lập làm phu nhân. Trọng Toại lại mật tâu Lỗ Tuyên công rằng: - Chúa công mới lên làm vua, tất phải dự hội với các nước chư hầu thì ngôi vua mới vững bền được. Chúa công nên lễ đút vua Tề, để vua Tề cho Chúa công dự hội. Lỗ Tuyên công khen phải, liền sai Quí Tôn Hàng Phủ sang tạ ơn vua Tề về việc kết hôn và nói với vua Tề rằng: - Chúa công tôi nhờ ơn nhà vua mà được nối ngôi, nếu không một lần dự hội với chư hầu, chắc nhà vua cũng có ý thẹn thay. Nay nhà vua nghĩ tình cho được dự hội, thì Chúa công tôi sẽ xin đem ruộng đất ở Tế Tây mà hiến nhà vua. Tề Huệ công bằng lòng, ước định đến tháng 5 năm ấy thì cùng với Lỗ Tuyên công hội nhau ở đất Bình Châu (đất nước Tề). Đêm hôm ấy, Lỗ Tuyên công đến trước. Tề Huệ công đến sau, làm lễ tương kiến. Trọng Toại bưng những sổ biên ruộng đất ở Tế Tây đưa nộp Tề Huệ công. Tề Huệ công nhận ngay. Lỗ Tuyên công từ biệt Tề Huệ công rồi về. Trọng Toại nói: - Ngày nay ta mới có thể nằm yên được! Từ bấy giờ nước Lỗ thường sai sứ sang triều cống nước Tề, đến sau Tề Huệ công nghĩ cái tình tử tế của nước Lỗ, liền giao trả cho nước Lỗ những ruộng đất ở Tề Tây. Lại nói chuyện Sở Trang Vương (Lữ) lên làm vua đã ba năm trời mà không làm một việc gì cả, ngày nào cũng chỉ đi săn bắn và cùng với mỹ nữ uống rượu mua vui ở trong cung. Sở Trang Vương ra lệnh tuyên yết ở chốn triều môn rằng: - Nếu ai dám can thì bắt phải tội chết! Quan Đại phu là thân Vô Úy vào yết kiến Sở Trang Vương, thấy Sở Trang Vương tay phải ôm Trịnh Cơ, tay trái ôm Sái Nữ, xung quanh chỗ ngồi đều đầy những đồ âm nhạc. Sở Trang Vương hỏi Thân Vô Úy rằng: - Quan Đại phu tới đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói câu gì đó! Thân Vô Úy nói: - Tôi tới đây không phải là muốn uống rượu và nghe hát, nguyên vì mới rồi tôi đang đi chơi, có người đem một câu đố nói với tôi, mà tôi không đoán ra được, vậy tôi muốn tâu để Đại vương nghe. Sở Trang Vương nói: - Câu đố gì mà quan Đại phu không đoán ra được, nói cho ta nghe. Thân Vô Úy nói: - Có một con chim lớn, lông đủ năm sắc đẹp, đậu ở trên gò cao nước Sở đã 3 năm nay, mà không thấy bay, cũng không thấy kêu, không biết là con chim gì? Sở Trang Vương hiểu là có ý can mình, mới cười mà bảo rằng: - Ta đã biết rồi! Con chim ấy không phải là chim thường, 3 năm không bay, bay tất cao đến tận trời; 3 năm không kêu, kêu tất làm cho người ta phải khiếp sợ. Nhà ngươi hãy đợi mà xem. Thân Vô Úy sụp lạy rồi lui ra. Đợi trông mấy hôm, Sở Trang Vương vẫn chơi bời như cũ. Quan Đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến. Khi vào, trông thấy Sở Trang Vương, liền khóc òa lên; Sở Trang Vương nói: - Tại sao mà khóc lóc như vậy? Tô Tòng nói: - Tôi khóc là vì nỗi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất? Sở Trang Vương nói: - Vì cớ gì mà nhà ngươi chết, lại vì cớ gì mà nước Sở mất? Tô Tòng nói: - Tôi muốn can Đại Vương tất không nghe mà giết tôi. Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa, mà Đại vương cứ say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính trị, còn gì mà nước Sở không mất! Sở Trang Vương sầm nét mặt lại mà bảo rằng: - Ta đã có lệnh: Ai can thì bắt tội chết, sao nhà ngươi đã biết là chết mà dám can, chẳng cũng ngu lắm sao! Tô Tòng nói: - Tôi dẫu ngu cũng chưa đến nỗi ngu lắm như Đại Vương. Sở Trang Vương nổi giận mà nói rằng: - Sao nhà ngươi lại dám bảo là ta ngu lắm? Tô Tòng nói: - Đại vương làm vua một nước, quân mã hùng cường, các nước chư hầu ai cũng sợ hãi mà phải đến triều cống, đó là cái lợi muôn đời; nay say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính trị, khiến cho nước lớn đánh ở mặt ngoài, nước nhỏ phản ở mặt trong, thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời, không phải ngu là gì! Cái ngu của tôi, chẳng qua là đến chết mà thôi, nhưng Đại vương giết tôi thì đời sau tất gọi tôi là trung thần, ví tôi với Long Bàng và Tỷ Can thuở trước, vậy thì tôi chẳng ngu chút nào! Còn cái ngu của Đại vương thì tôi e rằng cầu làm một đứa thất phu mà không thể được! Thôi, tôi nói đến đây là hết, tôi xin mượn cái thanh gươm của Đại vương đeo, mà đâm cổ ở trước mặt Đại vương, để khỏi trái với cái mệnh lệnh của Đại vương đã ban bố. Sở Trang Vương vội vàng đứng dậy, ngăn Tô Tòng mà bảo rằng: - Lời nói của quan Đại phu thật là trung trực lắm, vậy ta xin nghe. Nói xong, liền sai bỏ hết những đồ âm nhạc đi, đuổi Trịnh Cơ, xa Sái Cơ, rồi lập Phàn Cơ làm chủ ở trong cung. Sở Trang Vương thường có nói rằng: - Khi trước ta hay săn bắn, Phàn Cơ thường có can mà ta không nghe, sau Phàn Cơ bỏ không ăn thịt các giống cầm thú. Ấy là một người hiền nội trợ của ta đó! Sở Trang Vương lại dùng Vỉ Giả, Phan Uông và Khuất Đãng để chia quyền của quan lệnh doãn là Đấu Việt Tiêu, và chỉnh đốn lại các công việc chính trị trong nước. Sai Công tử Qui Sinh (người nước Trịnh sang làm quan ở nước Sở) đem quân đi đánh Tống, cùng với quân nước Tống đánh nhau ở Đại Cức, bắt được quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên. Sai Vỉ Giả đem quân sang cứu Trịnh, cùng với quân nước Tấn đánh nhau ở Bắc Lâm, bắt được tướng nước Tấn là Giải Dương. Sang năm sau, mới tha cho Hoa Nguyên và Giải Dương về nước. Từ bấy giờ thế lực nước Sở mỗi ngày một cường thịnh. Sở Trang vương có ý muốn làm bá chủ Trung Nguyên. Quan Thượng khanh nước Tấn là Triệu Thuẫn thấy nước Sở cường thịnh, muốn kết với Tần để chống cự nước Sở. Triệu Xuyên hiến kế rằng: - Tần có thuộc quốc gọi là nước Sùng, phụ thuộc nước Tần đã lâu, nay ta đem quân đi đánh Sùng thì Tần tất phải cứu, bấy giờ ta sẽ giảng hòa. Triệu Thuẫn theo lời, liền tâu với Tấn Linh công sai Triệu Xuyên đem quân đi đánh Sùng. Triệu Sóc nói với Triệu Thuẫn rằng: - Nước Tần từ xưa vẫn thâm thù với ta, nay ta lại đánh thuộc quốc của Tần, chắc là nước Tần giận lắm, khi nào chịu giảng hòa. Triệu Thuẫn nói: - Chủ ý ta đã nhất định rồi! Triệu Sóc lại nói với Hàn Quyết. Hàn Quyết tủm tỉm cười, rồi ghé tai Triệu Sóc mà bảo rằng: - Triệu Tướng quốc làm việc này là muốn giúp cho Triệu Xuyên để giữ lấy quyền thế họ Triệu, không phải là muốn giảng hòa với Tần. Triệu Sóc nín lặng mà lui ra. Nước Tần nghe tin nước Tấn đánh Sùng, không đến cứu Sùng, lại đem quân đi đánh Tấn, vây đất Tiêu Ấp. Triệu Xuyên rút quân về để cứu Tiêu Ấp. Quân Tần mới lui về. Triệu Xuyên từ bấy giờ được giữ binh quyền. Du Biền ốm chết, Triệu Xuyên lại thay chức của Du Biền. Tấn Linh công đã lớn tuổi, sinh ra hoang dâm bạo ngược, ham sự chơi bời, tin yêu một quan Đại phu tên gọi Đồ Ngạn Giả, tức là con Đồ Kích, cháu Đồ Ngạn Di. Đồ Ngạn Giả khéo hót nịnh, bởi vậy nói câu gì Tấn Linh công cũng nghe. Tấn Linh công sai Đồ Ngạn Giả lập một cái vườn hoa ở trong kinh thành, đi tìm những thứ hoa cỏ lạ trồng ở trong vườn. Trồng nhiều nhất là hoa đào, cứ về mùa xuân thì hoa đào nở ra, trông như hoa gấm, mới đặt tên là Đào Viên. Trong vườn ấy có xây một cái đài cao ba từng; khoảng giữa lại có lập một cái lầu gọi là Giáng Tiên Lâu. Cột vẽ hoành sơn, gạch hoa ngói đỏ, bốn bề bao lơn con tiện, đứng trên ấy mà trông xuống thì phố xá, thành quách đều như ở trước mặt cả. Tấn Linh công thấy vậy, có ý bằng lòng, thường thường lên lầu cùng với Đồ Ngạn Giả thi nhau giương cung bắn chim, uống rượu làm vui. Một hôm, Tấn Linh công truyền cho phường hát múa hát ở trên đài, nhân dân xúm quanh ở ngoài vườn để xem. Tấn Linh công bảo Đồ Ngạn Giả rằng: Bắn chim sao bằng bắn người, ta cùng với nhà ngươi hãy thử chơi. Ai bắn trúng mắt thì được giải nhất, bắn trúng vai và cánh tay thì tha không kể, nếu bắn không trúng thì phạt một đấu rượu thực to. Tấn Linh công bắn về phía hữu. Đồ Ngạn Giả bắn về phía tả. Nhân dân ở ngoài vườn, người thì mũi tên trúng vào mang tai, người thì mũi tên trúng vào cạnh sườn, đều nhốn nháo bỏ chạy cả, lại kêu ầm lên rằng: - Ai bắn cung như vậy! Tấn Linh công giận lắm, truyền cho quân sĩ cùng bắn, tên ra như mưa, nhân dân người vỡ đầu, kẻ sẩy trán, người lòi mắt, kẻ gẫy răng, tiếng khóc như ri. Tấn Linh công đứng ở trên đài trông thấy, ném cái cung xuống đất mà cười ha hả, bảo Đồ Ngạn Giả rằng: - Ta chơi ở cái đài này, chưa có hôm nào vui như hôm nay! Từ bấy giờ dân nước Tấn không ai dám đi qua đến đấy nữa! Người nhà Chu đem dâng Tấn Linh công một con mãnh khuyển, tên gọi là Linh Ngao, mình cao ba thước, sắc như than đỏ, mà lại tinh khôn lắm, biết theo ý người. Người nào có lỗi, Tấn Linh công vẫn gọi Linh Ngao sai cắn. Con Linh chồm lên, cắn vào tận mặt, kỳ chết mới thôi. Tấn Linh công dùng một người nuôi con Linh Ngao, mỗi ngày cho ăn mấy cân thịt dê. Con Linh Ngao cũng khéo theo ý người nuôi, bảo sao được vậy. Người nuôi con Linh Ngao ấy gọi là Ngao nô, được ăn lộc quan trung đại phu. Tấn Linh công truyền cho các quan đại phu vào triều ở trong cung. Mỗi lần coi triều hoặc đi chơi đâu thì Ngao nô vẫn dắt con Linh Ngao hầu ở bên cạnh, ai trông thấy cũng phải khiếp sợ. Bọn Triệu Thuẫn thường khuyên Tấn Linh công nên dùng người hiền, xa kẻ nịnh, và chăm nom việc chính trị trong nước. Tấn Linh công cứ như người điếc, chẳng thèm để lời nói vào tai, lại có ý nghi kị. Một hôm tan triều, các quan đại phu đều lui về cả, chỉ có Triệu Thuẫn và Sĩ Hội còn đứng ở cửa cung. Hai người đang nói chuyện với nhau, than thở về việc nước, bỗng thấy có hai người nội thị khiêng một cái giỏ tre ở trong cung ra. Triệu Thuẫn nói: - Sao lại có cái giỏ tre từ trong cung ra như vậy? Tất là có cớ sao đây! Nói xong, liền gọi hai người nội thị mà bảo rằng: - Đem lại đây xem, đem lại đây xem! Hai người nội thị cắm đầu đi thẳng, không nói gì cả. Triệu Thuẫn hỏi rằng: - Trong giỏ tre đựng cái gì thế! Nội thị nói: - Ngài là quan Tướng quốc, nếu ngài muốn xem thì xin ngài đến mà xem, chứ chúng tôi không dám nói. Triệu Thuẫn trong lòng càng nghi, rủ Sĩ Hội cùng đến để xem, trông thấy một cánh tay của người thò ra phía ngoài giỏ. Triệu Thuẫn và Sĩ Hội liền nắm giỏ tre lại, thành ra ở trong có một cái thây người chết. Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ, hỏi đầu đuôi tại làm sao. Nội thị không dám nói. Triệu Thuẫn nói: - Nếu nhà ngươi không chịu nói thì ta chém đầu nhà ngươi trước. Nội thị mới chịu nói: - Người này nguyên là một tên thiện phu, Chúa công sai nấu món thịt gấu, nấu mãi không xong, Chúa công giục hai ba lần mới được, mà khi Chúa công nếm thì lại chưa chín, bởi vậy Chúa công mới đánh chết, chém làm mấy khúc, rồi sai chúng tôi đem khiêng bỏ ra ngoài đồng. Chúa công đe hẹn thời khắc cho mà đi, nếu chậm thì chúng tôi có tội. Triệu Thuẫn lại tha cho nội thị cứ việc khiêng đi. Nội thị đi khỏi rồi, Triệu Thuẫn bảo Sĩ Hội rằng: - Chúa công bạo ngược quá! Coi mạng người như cỏ rác. Nước nhà chẳng bao lâu sẽ đến ngày nguy vong. Âu là hai ta cùng vào khuyên can. Sĩ Hội nói: - Hai ta khuyên can mà Chúa công không nghe thì sau không ai dám nói nữa, chi bằng để tôi vào trước, nếu tôi khuyên can mà Chúa công không nghe, bấy giờ quan Tướng quốc sẽ vào. Tấn Linh công đang ngồi ở trên thềm, trông thấy Sĩ Hội vào, biết là có ý muốn khuyên can, liền bảo Sĩ Hội rằng: - Quan Đại phu chớ nói, ta đã biết tội rồi, để ta xin đổi. Sĩ Hội sụp lạy mà tâu rằng; - Người ta ai là không có lỗi, mà không biết lỗi là người ngu. Chúa công biết lỗi tất đổi, thế là một điều đại phúc cho nước nhà, chúng tôi lấy làm mừng lắm. Nói xong lui ra, thuật chuyện lại với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn nói: - Chúa công nếu có lòng đổi lỗi thì chỉ trong ngày hôm nay tất có chính lệnh khác. Ngày hôm sau, Tấn Linh công truyền sắp xa giá đi ra chơi Đào Viên. Triệu Thuẫn nói: - Xem Chúa công cử động như thế thì có phải là người biết đổi lỗi đâu, hôm nay ta phải nói mới được. Triệu Thuẫn tức khắc đến đứng trước cửa Đào Viên để đợi khi xa giá Tấn Linh công đến thì ra mà kiến. Tấn Linh công ngạc nhiên mà hỏi rằng: - Ta chưa hề có triệu nhà ngươi bao giờ, sao nhà ngươi lại đến đây? Triệu Thuẫn sụp lạy xin lỗi và tâu với Tấn Linh công rằng: - Tôi nghe nói dẫu ông vua vô đạo đến đâu cũng chưa ai lấy việc giết người làm vui bao giờ! Nay Chúa công nuôi chó để cắn người, bắn cung để hại người, lại vì một điều lỗi nhỏ mà xả thây đứa thiện phu; mạng người rất là quan trọng, mà Chúa công coi rẻ như vậy thì sao cho giữ yên được nước nhà. Nếu tôi không nói thì không ai dám nói nữa, xin chúa công quay xe về triều, nghĩ đổi lỗi trước, khiến cho nước nhà khỏi sự biến loạn thì tôi dẫu chết cũng được thỏa lòng! Tấn Linh công có ý thẹn thò, lấy vạt áo che mặt mà bảo rằng: - Nhà ngươi hãy lui về, để cho ta chơi một hôm nay nữa, từ mai trở đi, ta xin theo lời. Triệu Thuẫn đứng chắn cửa vườn, không cho Tấn Linh công vào. Đồ Ngạn Giả ở bên cạnh, liền nói: - Quan Tướng quốc khuyên can Chúa công, thế là phải lắm, nhưng xa giá đã đến đây, chẳng lẽ về không, cũng khiến cho người ta chê cười, âu là quan Tướng quốc hãy lui về, đến buổi triều sáng mai, rồi sẽ thương nghị. Tấn Linh công cũng nói với Triệu Thuẫn rằng: Buổi triều sáng mai, ta sẽ triệu nhà ngươi! Triệu Thuẫn bất đắc dĩ đứng tránh ra một bên, để cho Tấn Linh công đi, rồi trừng mắt ra nhìn Đồ Ngạn Giả mà mắng rằng: - Làm cho nước nhà đến nỗi nguy vong là bởi lũ này! Nói xong, vẫn còn hầm hầm tức giận. Đồ Ngạn Giả theo Tấn Linh công vào chơi trong vườn. Tấn Linh công đang vui cười, Đồ Ngạn Giả bỗng thở dài mà nói rằng: - Tiếc thay, cuộc vui chỉ có một lần này mà thôi! Tấn Linh công nói: - Sao quan Đại phu lại nói như vậy? Đồ Ngạn Giả nói: Tôi chắc rằng sáng mai thì Triệu Tướng quốc lại nói lôi thôi, không để cho Chúa công được đến đây nữa. Tấn Linh công nổi giận mà nói rằng: - Từ xưa đến nay, chỉ có bề tôi bị vua kiềm chế, chưa nghe thấy vua bị bề tôi kiềm chế bao giờ. Lão ấy còn sống thì thật là không tiện cho ta lắm, ta biết dùng kế gì mà trừ đi cho được. Đồ Ngạn Giả nói: - Tôi có biết một người tên gọi Thư Nghê. Người ấy nhà nghèo, tôi vẫn chu cấp cho, bởi vậy cảm cái ơn tôi, vẫn xin cố sức chết để mà đền báo. Nếu sai người ấy giết chết Triệu Tướng quốc đi thì Chúa công tha hồ mà vui chơi, không lo gì nữa! Tấn Linh công nói: - Nếu làm được việc ấy thì công nhà ngươi to lắm! Đêm hôm ấy, Đồ Ngạn Giả mật triệu Thư Nghê đến, cho ăn cơm uống rượu, rồi bảo Thư Nghê rằng: - Triệu Thuẫn chuyên quyền, nay ta phụng mệnh Chúa công sai nhà ngươi đến giết đi, nhà ngươi nên phục ở cửa nhà Triệu Thuẫn, đợi đến đầu canh năm, khi hắn vào triều thì xông lại đâm chết, chớ có làm hỏng việc. Thư Nghê vâng lệnh, liền dắt một cây dao nhọn đến dinh Triệu Thuẫn, trông thấy cửa mở toang ra, xe ngựa đã sắp sẵn ở ngoài cửa. Trên thềm bóng đèn lờ mờ, Thư Nghê mới lẻn vào núp ở một chỗ tối. Bấy giờ Triệu Thuẫn mũ áo đại triều, tay cầm cái hốt, nghiễm nhiên ngồi ở gian giữa (nguyên là Triệu Thuẫn muốn vào triều nhưng trời còn sớm quá, vậy nên ngồi đấy để đợi cho sáng). Thư Nghê thấy vậy, giật mình kinh sợ, lui ra ngoài cửa, thở dài mà than rằng: - Người ta một lòng cung kính như thế kia, tức là trung thần, nếu ta giết người trung thần thì là bất trung, không giết thì là trái mệnh vua, lại là bất tín. Bất trung bất tín thì còn sống làm gì nữa! Thư Nghê lại đứng giữa cửa mà nói to lên rằng: - Ta là Thư Nghê đây, thà trái mệnh vua, không nỡ giết người trung thần! Nay ta tự tử mà chết, nhưng sau này tất Chúa công lại sai người khác đến, quan Tướng quốc nên phải phòng bị mới được. Nói xong, liền đập đầu vào cây hòe ở trước cửa, vỡ óc ra mà chết. Người nhà Triệu Thuẫn náo động cả lên, vội vàng vào cáo với Triệu Thuẫn. Quan Xa hữu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh nói với Triệu Thuẫn rằng: - Quan Tướng quốc ngày nay không nên vào triều nội, nếu vào triều thì tôi e rằng có biến. Triệu Thuẫn nói: - Chúa công đã hẹn với ta hôm nay vào triều sớm, nếu ta không vào thì là không biết giữ lễ, còn việc chết sống đã có số mệnh, ta có lo gì! Triệu Thuẫn truyền cho người nhà đem Thư Nghê chôn ở dưới gốc cây hòe rồi lên xe vào triều. Tấn Linh công thấy Triệu Thuẫn không chết, liền hỏi Đồ Ngạn Giả về việc Thư Nghê thế nào. Đồ Ngạn Giả nói: - Thư Nghê đi không thấy về, có người nói là đập đầu vào cây hòe mà chết, chưa rõ vì cớ gì. Tấn Linh công nói: Kế ấy mà không thành thì biết làm thế nào? Đồ Ngạn Giả nói: - Tôi còn có một kế, chắc hẳn thế nào cũng giết được Triệu Thuẫn. Tấn Linh công nói: - Kế gì? Đồ Ngạn Giả nói: - Ngày mai Chúa công mời Triệu Thuẫn vào uống rượu tại trong cung, rồi phục sẵn quân giáp sĩ ở phía sau tường, đợi khi đang uống rượu dở dang, Chúa công giả cách mượn thanh gươm của Triệu Thuẫn đeo để xem; tất nhiên Triệu Thuẫn phải cởi gươm mà đưa cho Chúa công. Bấy giờ tôi đứng bên, sẽ quát to lên là Triệu Thuẫn rút gươm, toan sự hại vua, quân sĩ đâu, mau mau đến để cứu giá; quân sĩ đổ ra, bắt mà giết đi. Như vậy thì người ngoài ai cũng bảo là Triệu Thuẫn làm phản bị giết. Chúa công tránh được cái tiếng giết quan đại thần. Chúa công nghĩ thế nào? Tấn Linh công khen phải, rồi theo kế mà làm. Ngay hôm sau, Tấn Linh công ra triều, bảo Triệu Thuẫn rằng: - Quan Tướng quốc đã hết lòng khuyên bảo ta, nay ta có sửa tiệc rượu ở trong cung, để tạ ơn quan Tướng quốc. Nói xong, liền bảo Đồ Ngạn Giả đưa Triệu Thuẫn vào cung. Quan Xa hữu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh theo vào. Khi bước lên thềm, Đồ Ngạn Giả bảo Đề Di Minh rằng: - Nay Chúa công cùng với quan Tướng quốc uống rượu, cấm người khác không ai được lên thềm cả. Đề Di Minh liền đứng ở dưới thềm. Triệu Thuẫn sụp lạy hai lạy, rồi ngồi ở bên hữu Tấn Linh công. Đồ Ngạn Giả đứng hầu bên tả. Khi uống rượu mới được ba tuần, Tấn Linh công bảo Triệu Thuẫn rằng: - Ta nghe nói thanh gươm của quan Tướng quốc đeo tốt lắm, quan Tướng quốc cho ta xem. Triệu Thuẫn không biết là kế lừa, toan cởi gươm ra để đưa. Đề Di Minh ở dưới thềm trông thấy, quát to lên rằng: - Bề tôi hầu rượu vua, theo lễ không được uống quá ba chén, cớ sao lại rút gươm ở trước mặt vua như thế? Triệu Thuẫn biết ý, liền đứng ngay dậy. Đề Di Minh hầm hầm tức giận, bước thẳng lên trên thềm vực Triệu Thuẫn xuống. Đồ Ngạn Giả gọi Ngao nô thả con Linh Ngao đuổi theo. Theo kịp đến gần cửa cung, Đề Di Minh cầm ngay cái dúi đồng đánh con Linh ngao gẫy cổ. Con Linh ngao chết. Tấn Linh công giận lắm, truyền cho quân sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn. Đề Di Minh đứng chắn ngang lại, để cho Triệu Thuẫn chạy trước. Quân giáp sĩ tới nơi, đâm nát Đề Di Minh ra, lập tức chết ngay. Triệu Thuẫn đang chạy, thấy có một người đuổi kịp đến nơi. Triệu Thuẫn sợ lắm. Người ấy nói: - Quan Tướng quốc chớ sợ, tôi đến cứu ngài đây? Triệu Thuẫn hỏi: - Nhà ngươi là ai? Người ấy nói: - Quan Tướng quốc không nhớ người nằm nhịn đói ở trong bụi dâu khi xưa hay sao! Linh Chiếp tức là tên tôi đó! Nguyên từ hồi 5 năm về trước, Triệu Thuẫn có đi săn ở Cửu Nguyên Sơn, ngồi nghỉ trong bụi dâu, trông thấy một người con trai nằm lăn dưới đất. Triệu Thuẫn nghi là thích khách mới sai người ra bắt. Người ấy đói không trở dậy được, hỏi đến họ tên thì người ấy nói: - Tên tôi là Linh Chiếp. Tôi sang học nước Vệ, đã ba năm nay, bây giờ trở về, tiền lưng hết cả, không lấy gì mà ăn, nhịn đói đã ba ngày hôm nay rồi! Triệu Thuẫn nghe nói thương lắm, sai người mang cho cơm và nem. Linh Chiếp chia đôi, đem một nửa bỏ vào trong cái giỏ con của mình, còn một nửa để ăn. Triệu Thuẫn hỏi: - Nhà ngươi cất đi một nửa để làm gì thế? Linh Chiếp nói: - Tôi còn mẹ già, mẹ tôi ở Tây môn. Tôi đi vắng đã lâu ngày, chưa biết mẹ tôi còn hay là mất; nay chỉ cách đây có mấy dặm, may mà mẹ tôi hãy còn thì tôi xin đem cái lộc của quan Tướng quốc ban cho này về dâng mẹ tôi. Triệu Thuẫn khen là hiếu tử, bảo cứ ăn hết đi, rồi lại lấy cơm và thịt khác ra cho, để xếp vào giỏ. Linh Chiếp lạy ta rồi đi. Sau Linh Chiếp ứng mộ ra lính, lại gặp ở trong số quân giáp sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn ấy, Linh Chiếp nghĩ đến cái ơn Triệu Thuẫn cứu mình ngày trước, vậy mới cố sức để cứu Triệu Thuẫn. Bấy giờ người nhà Triệu Thuẫn bỏ chạy tán loạn cả. Linh Chiếp ghé lưng cõng Triệu Thuẫn, chạy ra triều môn. Bọn giáp sĩ giết xong Đề Di Minh, lại kéo nhau đuổi theo Triệu Thuẫn. Gặp có Triệu Sóc đem quân đến đón Triệu Thuẫn, tức khắc vực Triệu Thuẫn lên xe. Triệu Thuẫn vội vàng gọi Linh Chiếp bảo cùng lên xe thì Linh Chiếp đã bỏ trốn rồi. Bọn giáp sĩ thấy quân Triệu Sóc đông lắm, mới không đuổi theo nữa, Triệu Thuẫn bảo Triệu Sóc rằng: - Nay ta không thể về nhà được! Một là sang nước Địch, hai là sang nước Tần, phải tìm một chỗ để nương thân mới xong. Bấy giờ hai cha con (Triệu Thuẫn và Triệu Sóc) cùng ra cửa Tây môn, đi về phía tây.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  2. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 51 Xem bản thảo, Đổng Hồ chép thẳng Dứt giải mũ, Hứa Cơ bắt gian

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tấn Linh công lập mưu giết Triệu Thuẫn, dẫu không giết được, nhưng thấy Triệu Thuẫn trốn đi thì trong lòng cũng mừng rỡ, khác nào như đứa học trò được rời thầy học ra, sự mừng rỡ ấy kể sao cho xiết! Liền đem cung quyến đến ở luôn ngày đêm tại chốn Đào Viên, không về cung nữa. Triệu Xuyên đang đi săn ở Tây Giao trở về, gặp cha con Triệu Thuẫn và Triệu Sóc. Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi và bảo Triệu Thuẫn rằng: - Thúc phụ chớ sang nước khác vội, hãy đợi trong mấy ngày, tôi sẽ có tin báo. Triệu Thuẫn nói: - Nếu vậy thì ta hãy tạm đóng ở Thủ Dương Sơn để đợi tin tức, nhưng nhà ngươi nên cẩn thận, chớ để cho lại thêm tai vạ. Triệu Xuyên từ biệt Triệu Thuẫn và Triệu Sóc, rồi trở về kinh thành, nghe tin Tấn Linh công chơi ở Đào Viên, mới giả cách vào yết kiến và xin lỗi với Tấn Linh công rằng: - Tôi là thân thích với người có tội, khi nào lại còn dám hầu hạ ở bên cạnh Chúa công, xin Chúa công cho tôi được từ chức. Tấn Linh công tin là lòng thực, mới phủ dụ Triệu Xuyên rằng: - Triệu Thuẫn đã nhiều lần khinh bỉ ta, ta không thể chịu được, chứ có can dự gì đến nhà ngươi, nhà ngươi cứ yên tâm mà cung chức. Triệu Xuyên lạy tạ, rồi lại tâu rằng: - Tôi thiết tưởng làm vua chỉ quý hơn người ta về cách chơi bời sung sướng mà thôi, nay Chúa công dẫu có bày ra các đồ âm nhạc, nhưng số nội cung chưa đủ, còn lấy gì làm vui! Tề Hoàn công thuở xưa, biết bao nhiêu là phi tần, ngoài vị chánh cung, lại còn sáu bà như phu nhân nữa; Tiên quân ta là Tấn Văn công, từ khi còn trốn đi ở các nước, đến đâu cũng lấy vợ, lúc trở về nước ngoại sáu mươi tuổi, mà phi tần hãy còn đầy đàn, nay chúa công đã lập ra đài cao vườn rộng như thế này mà sao không sai người đi tuyển những con gái đẹp, về dạy múa hát để làm trò vui, chẳng cũng hay lắm sao! Tấn Linh công nói: - Nhà ngươi nói chính hợp ý ta! Nay ta muốn tuyển lấy những con gái đẹp trong nước thì biết sai ai cho được. Triệu Xuyên nói: - Quan Đại phu là Đồ Ngạn Giả có thể đương nổi việc ấy. Tấn Linh công liền sai Đồ Ngạn Giả đi tuyển con gái, bất cứ trong thành ngoài ấp, phàm có con gái từ hai mươi tuổi trở lên, bắt phải làm sổ khai trình cả, hạn trong một tháng thì về báo tin. Triệu Xuyên mượn việc ấy để sai Đồ Ngạn Giả đi biệt chỗ khác, rồi lại tâu với Tấn Linh công rằng: - Những quân thị vệ của Chúa công ở chốn Đào Viên này hãy còn ít lắm, tôi có tuyển được hai trăm lính tinh dũng, xin Chúa công cho sung vào làm quân thị vệ. Tấn Linh công thuận cho. Triệu Xuyên về dinh, tuyển lấy hai trăm quân giáp sĩ. Bọn giáp sĩ ấy hỏi Triệu Xuyên rằng: - Chẳng hay Tướng quân định sai chúng tôi đi đâu? Triệu Xuyên nói: - Chúa công chẳng thương gì đến dân tình, chỉ vui chơi ở chốn Đào Viên, nay có sai ta tuyển bọn các ngươi vào đấy, để ngày đêm tuần giữ. Bọn các ngươi đây, ai là người không có vợ con nhà cửa mà đi theo vào đấy chuyến này, ăn sương nằm gió, biết bao giờ thôi. Bọn giáp sĩ ấy đều than thở mà nói rằng: - Đứa vô đạo hôn quân như vậy, sao không chóng chết. Nếu Triệu Tướng quân (trỏ Triệu Thuẫn) còn ở nhà, tất không có việc này. Triệu Xuyên nói: - Ta có một câu này, muốn thương nghị cùng các ngươi, chẳng biết có nên không? Bọn giáp sĩ ấy đều nói: - Nếu Tướng quân cứu được cho chúng tôi thoát khỏi cái nông nỗi khổ sở này thì ơn tái sinh ấy bao giờ chúng tôi quên được. Triệu Xuyên nói: - Chỗ Đào Viên này không kín đáo lắm như chốn thâm cung. Cứ đến canh hai đêm hôm nay, các ngươi xông vào trong vườn, giả cách đòi xin ban thưởng, chờ khi ta vẫy tay áo làm hiệu thì các ngươi giết hôn quân đi rồi ta sẽ đón quan Tướng quốc về mà lập vua khác, các ngươi nghĩ thế nào. Bọn giáp sĩ ấy đều nói: - Chúng tôi xin vâng mệnh! Triệu Xuyên đều cho bọn giáp sĩ ăn cơm uống rượu, sai chực sẵn ở ngoài cửa Đào Viên, rồi vào tâu với Tấn Linh công. Tấn Linh công trèo lên đài xem, thấy trong bọn giáp sĩ người nào cũng tráng kiện. Tấn Linh công bằng lòng, giữ Triệu Xuyên ở lại hầu rượu. Uống rượu đến canh hai, bỗng nghe thấy mặt ngoài có tiếng huyên náo. Tấn Linh công kinh sợ, không biết là cớ gì, liền hỏi Triệu Xuyên. Triệu Xuyên nói: - Ý chừng các quân thị vệ xua đuổi những kẻ đi đêm đó mà thôi, để tôi xin ra dụ bảo, chớ làm kinh động thánh giá. Triệu Xuyên sai thắp đèn lồng, ở trên đài bước xuống. Bọn giáp sĩ 200 người đã phá cửa vào đến nơi. Triệu Xuyên bảo bọn giáp sĩ đứng yên cả dưới đài, rồi lại trèo lên tâu với Tấn Linh công rằng: - Quân sĩ biết là Chúa công ngự tiệc, vậy muốn xin Chúa công ban thưởng cho những lộc thừa, chứ không có ý gì khác cả. Tấn Linh công truyền cho nội thị đem rượu ban thưởng cho các quân sĩ, rồi đứng tựa bao lơn mà trông xuống. Triệu Xuyên đứng bên cạnh, gọi to lên rằng: - Chúa công thân hành ra đây để ban thưởng cho các ngươi, các ngươi nên phải lĩnh tạ. Nói xong, giơ tay áo vẫy một cái. Các quân sĩ trông biết là Tấn Linh công, liền kéo ồ nhau lên, Tấn Linh công sợ hãi, bảo Triệu Xuyên rằng: - Quân giáp sĩ trèo lên lầu làm gì thế, nhà ngươi nên truyền bảo phải xuống mau! Triệu Xuyên nói: - Quân sĩ nhớ đến quan Tướng quốc là Triệu Thuẫn, muốn xin Chúa công cho đón về. Tấn Linh công chưa kịp trả lời thì đã bị quân giáp sĩ xúm lại đâm, tức thì chết ngay. Thị vệ xung quanh đều bỏ chạy tán loạn cả. Triệu Xuyên nói: - Nay đã trừ được hôn quân rồi, các ngươi chớ nên giết bậy một người nào, phải theo ta đi đón quan Tướng quốc về triều. Đồ Ngạn Giả đang đi tuyển con gái đẹp ở ngoài cõi xa, nghe báo Tấn Linh công bị giết, giật mình kinh sợ, biết là mưu kế của Triệu Xuyên, nhưng không dám nói ra, lẻn về nơi dinh phủ. Bọn Sĩ Hội nghe tin ấy, cũng vội vàng chạy đến Đào Viên, chẳng thấy một người nào cả, biết là Triệu Xuyên đi đón Triệu Thuẫn, mới đem các cửa Đào Viên khóa chặt lại, để đợi khi Triệu Thuẫn về. Triệu Thuẫn về đến kinh thành, đi thẳng vào Đào Viên. Các quan triều thần đều họp đông đủ cả. Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh công mà khóc òa lên, rất là thảm thiết, tiếng khóc vang động đến ngoài vườn. Dân nước Tấn nghe tiếng, đều bảo nhau rằng: - Xem thế thì biết quan Tướng quốc là người trung thành. Việc này chẳng qua chỉ bởi Chúa công ta gây nên tai vạ, chứ không phải lỗi tại quan Tướng quốc. Triệu Thuẫn truyền rước thi thể Tấn Linh công sang chôn ở đất Khúc Ốc, rồi một mặt họp các quan triều thần để bàn lập vua mới. Bấy giờ Tấn Linh công chưa có con trai. Triệu Thuẫn nói: - Từ khi Tiên quân ta mất đi, tôi đã có xướng nghị rằng không nên lập vua nhỏ, vì nhiều người không thuận, mà thành ra đến có việc này, bây giờ ta nên phải cẩn thận mới được. Sĩ Hội nói: - Trong nước có vua lớn thì là một điều đại phúc, quan tướng quốc dạy phải lắm! Triệu Thuẫn nói: - Tiên quân ta (tức là Tấn Văn công) ngày xưa còn có một người con. Lúc mới sinh ra, bà mẹ nằm mộng thấy thần nhân giơ bàn tay đen xoa vào đứa bé, bởi vậy mới đặt tên là Hắc Điến, ngày nay đang làm quan ở nhà Chu, hiện đã nhiều tuổi, tôi muốn đón về để lập lên làm vua. Các quan không ai dám trái ý, đồng thanh mà nói rằng: - Quan Tướng quốc nghĩ rất phải! Triệu Thuẫn muốn gỡ cái tội giết vua cho Triệu Xuyên, mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón Công tử Hắc Điến về nước Tấn. Công tử Hắc Điến vào triều nhà Thái miếu, rồi nối ngôi lên làm vua, tức là Tấn Thành công. Tấn Thành công đã lên ngôi, giao hết quyền chính cho Triệu Thuẫn, lại đem con gái gả cho Triệu Sóc, tức là nàng Trang Cơ. Triệu Thuẫn tâu với Tấn Thành công rằng: - Mẹ tôi nguyên là con gái nước Địch. Bà Triệu Cơ (con gái Tấn Văn công gả cho thân phụ Triệu Thuẫn là Triệu Thôi) tôi thuở xưa nhường cho mẹ tôi làm vợ cả, vậy nên tôi được làm đích tử nhận chức trung quân, nay con bà Triệu Cơ tôi là Triệu Đồng, Triệu Quát và Triệu Anh đều đã lớn tuổi cả, tôi lại xin nhường lại cái quyền chức ấy. Tấn Thành công nói: - Quan Tướng quốc không phải nhường, để ta sẽ dùng cho làm quan cả. Nói xong, liền cho Triệu Đồng, Triệu Quát và Triệu Anh cùng làm quan đại phu. Triệu Xuyên nói riêng với Triệu Thuẫn rằng: - Đồ Ngạn Giả ngày trước xu nịnh Tiên quân để làm hại họ Triệu ta. Việc Đào Viên này chỉ có Đồ Ngạn Giả ra ý không thuận, nếu không trừ bỏ người ấy đi thì họ Triệu ta cũng khó lòng mà yên được. Triệu Thuẫn nói: - Người ta không bắt tội nhà ngươi thì chớ, nhà ngươi lại định bắt tội người ta hay sao! Họ Triệu ngày nay chỉ nên cùng với các quan triều thần thân ái với nhau, chớ nên gây ra những việc thù oán. Triệu Xuyên mới không dám nói đến Đồ Ngạn Giả. Đồ Ngạn Giả cũng một lòng theo ý họ Triệu để được khỏi tội. Triệu Thuẫn vẫn lấy việc Đào Viên làm không bằng lòng, một hôm sang chơi sử quán, đòi lấy bản thảo của quan Thái sử là Đổng Hồ để xem chép việc Đào Viên ra làm sao. Đổng Hồ đem bản thảo đưa trình Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn mở ra xem, trông thấy trong bản thảo chép rõ rằng: "Mùa thu tháng bảy năm Ất Sửu, Triệu Thuẫn giết vua Di Cao ở chốn Đào Viên". Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ, nói: - Quan Thái sử lầm rồi! Ta đã chạy ra Hà Đông cách kinh thành hơn hai trăm dặm, ta có biết đâu đến việc giết vua, mà quan Thái Sử lại đổ lỗi cho ta, chẳng cũng oan lắm sao! Đổng Hồ nói: - Ngài làm quan Tướng quốc, trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà có việc giết vua này; khi ngài về lại không trị tội quân giặc, như thế mà bảo việc này không phải tự ngài làm chủ mưu, còn ai tin được. Triệu Thuẫn nói: - Bây giờ có thể chữa lại được không? Đổng Hồ nói: - Đã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế, bởi vậy đầu tôi có thể cắt được, chứ bản thảo này không thể chữa lại được. Triệu Thuẫn thở dài mà than rằng: - Thế mới biết cái quyền chép sử lại trọng hơn cái quyền làm tướng quốc! Tiếc thay, bấy giờ ta chưa ra khỏi địa giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời, hối sao cho kịp! Từ bấy giờ Triệu Thuẫn một lòng tận trung với Tấn Thành công, rất là kính cẩn. Triệu Xuyên cậy có công to xin làm chức chính khanh. Triệu Thuẫn sợ mang tiếng, không dám cho làm. Triệu Xuyên tức giận, phát ra cái ung ở đàng lưng mà chết. Con Triệu Xuyên là Triệu Chiên xin nối giữ chức vị của cha. Triệu Thuẫn bảo Triệu Chiên rằng: - Đợi khi nào nhà ngươi lập được công trạng thì dẫu ngôi khanh tướng cũng chẳng khó gì! Năm ấy Chu Khuông Vương mất. Em là Du lên nối ngôi, tức là Chu Định Vương. Năm Chu Định Vương lên nối ngôi, Sở Trang Vương đem quân đánh đất Lục Hồn, qua sông Lạc Thủy, kéo quân đến địa giới nhà Chu, định dùng uy lực áp chế Thiên tử mà cùng với nhà Chu chia đôi thiên hạ. Chu Định Vương sai quan Đại phu là Vương Tôn Mãn đến úy dụ Sở Trang Vương, Sở Trang Vương hỏi: - Tôi nghe nói vua Đại Vũ ngày xưa có đúc chín cái đỉnh, từ nhà Hạ, nhà Thương đến nhà Chu ta vẫn tương truyền nhau lấy làm của quý, nay để ở đất Lạc Dương. Chẳng hay hình dáng cái đỉnh ấy lớn bé và nặng nhẹ thế nào, xin quan Đại phu nói cho tôi được biết. Vương Tôn Mãn nói: - Vua Đại Vũ nhà Hạ đúc nên chín cái đỉnh, đến đời vua Kiệt vô đạo, mới dời sang nhà Thương; vua Trụ nhà Thương bạo ngược, chín cái đỉnh ấy lại thiên sang nhà Chu, xem thế thì biết đời nào có nhân đức thì mới giữ nổi chín cái đỉnh ấy. Khi vua Thành Vương nhà Chu tôi để chín cái đỉnh ấy ở Lạc Dương, đã coi bói một quẻ thì biết rằng nhà Chu tôi truyền được ba mươi đời, cả thảy bảy trăm năm; năm nay vận mệnh nhà Chu hãy còn, nhà vua chớ nên hỏi đến đỉnh vội! Sở Trang Vương hổ thẹn, từ bấy giờ không dám có ý nom dòm nhà Chu nữa. Lại nói chuyện quan lệnh doãn nước Sở là Đấu Việt Tiêu từ khi thấy Sở Trang Vương chia mất quyền chính của mình, trong lòng oán giận, lại cậy sức mình là người tài giỏi và đời trước có công lao, dân trong nước ai cũng tin phục, mới có ý muốn làm phản, thường vẫn nói rằng: - Nhân tài nước Sở chỉ có một mình Vĩ Giả mà thôi, còn thì chẳng kể vào đâu cả! Khi Sở Trang Vương đi đánh Lục Hồn, cũng lo Đấu Việt Tiêu làm phản, mới bảo Vĩ Giả ở lại để giữ nước. Đấu Việt Tiêu thấy Sở Trang Vương đem quân đi vắng, mới quyết chí nổi loạn, định đem hết những quân của bản tộc để ra khởi sự. Đấu Khắc (con Đấu Ban) không theo. Đấu Việt Tiêu giết chết Đấu Khắc, rồi đem quân đến giết quan Tư mã là Vĩ Giả. Con Vĩ Giả là Vĩ Ngao đem mẹ chạy trốn sang Mộng Trạch. Đấu Việt Tiêu ra đóng đồn ở đất Chưng Giã để chặn đường Sở Trang Vương trở về. Sở Trang Vương nghe tin Đấu Việt Tiêu nổi loạn, tức khắc rút quân về nước, Về gần đến đất Chương Lạp, Đấu Việt Tiêu đem quân ra đối địch. Quân Sở Trang Vương trông thấy Đấu Việt Tiêu đeo cung cầm giáo, đi lại hăng hái ở trận tiền, đều có ý sợ hãi. Sở Trang Vương nói: - Họ Đấu mấy đời có công với nước, nay chẳng thà để cho Đấu Việt Tiêu phụ ta, chứ ta không nỡ phụ Đấu Việt Tiêu. Nói xong, liền sai quan Đại phu là Tô Tùng sang điều đình với Đấu Việt Tiêu, thuận cho giảng hòa và tha cho cái tội giết quan Tư mã. Đấu Việt Tiêu nói: - Ta xấu hổ không muốn làm lệnh doãn, lại còn mong ân xá gì nữa! Có dám đánh thì cứ đem quân tới đây. Tô Tùng hai ba lần phủ dụ mà Đấu Việt Tiêu không nghe. Khi Tô Tùng về rồi, Đấu Việt Tiêu truyền nổi hiệu trống tiến quân sang đánh. Sở Trang Vương hỏi các tướng rằng: - Các tướng, có ai dám đối địch với Đấu Việt Tiêu hay không? Quan Đại tướng là Nhạc Bá vâng mệnh ra trận. Con Đấu Việt Tiêu là Đấu Bí Hoàng liền đem quân ra nghênh chiến. Phan Uông trông thấy Nhạc Bá không đánh nổi Đấu Bí Hoàng, cũng giục ngựa ra trận. Em Đấu Việt Tiêu là Đấu Kỳ cũng đem quân ra giao chiến với Phan Uông. Sở Trang Vương ngồi ở trên xe, cầm dùi đánh trống để đốc chiến. Đấu Việt Tiêu đứng đàng xa trông thấy, bắn ngay một mũi tên, cắm vào cái giá trống. Sở Trang Vương sợ hãi, rơi mất dùi trống, các tướng đem mộc ra đỡ. Đấu Việt Tiêu lại bắn mũi tên nữa cắm vào cái mộc. Sở Trang Vương vội vàng truyền lệnh thu quân. Đấu Việt Tiêu lại cố sức tiến đánh, may nhờ có Hữu quân đại tướng là Công tử Trắc và Tả quân đại tướng là Công tử Anh Tề, hai mặt đổ lại, bấy giờ Đấu Việt Tiêu mới chịu lui quân. Nhạc Bá và Phan Uông nghe hiệu, cũng thu quân trở về. Về đến đất Hoàng Hử, Sở Trang Vương truyền đem hai cái tên của Đấu Việt Tiêu ra xem thì thấy dài gấp rưỡi cái tên khác, cánh tên bằng lông hạc, đốc tên bằng răng báo, mũi tên sắc không biết thế nào mà kể! Các người xung quanh trông thấy, ai cũng lắc đầu le lưỡi, lấy làm sợ hãi, cho là thần tiễn. Đêm hôm ấy, Sở Trang Vương đi tuần các dinh, nghe thấy quân sĩ chỗ nào cũng họp nhau bàn về cái thần tiễn của Đấu Việt Tiêu, khó lòng đánh nổi. Sở Trang Vương mới lập kế sai người truyền bá cho các quân sĩ biết rằng: - Đời Tiên quân ta là Sở Văn Vương ngày xưa nghe nói người Nhung Man làm tên tốt lắm, sai sứ đi hỏi; người Nhung Man mới đem dâng ta hai cái tên, gọi là Thấu Cốt Phong, vẫn để ở nhà Thái Miếu. Nay Đấu Việt Tiêu lấy trộm được cái tên ấy, nhưng bắn hai phát ấy là hết mất rồi, còn sợ gì nữa! Chỉ đến ngày mai là ta đánh tan được. Bấy giờ quân sĩ mới được yên lòng. Sở Trang Vương hạ lệnh rút quân sang nước Tùy, giả cách nói định mượn quân các nước ở Hán Đông về đánh Đấu Việt Tiêu. Tô Tùng nói với Công tử Trắc rằng: - Giặc mạnh ở trước mặt mà lui quân thì e hỏng việc. Công tử Trắc nói: - Đấy tất là Đại vương lập kế đó thôi! Chúng ta vào yết kiến thì tự khắc biết rõ. Đêm hôm ấy Công tử Trắc cùng với Công tử Anh Tề vào yết kiến, Sở Trang Vương nói: - Đấu Việt Tiêu mạnh thế lắm, không thể địch nổi, phải dùng kế mới đánh được. Sở Trang Vương đem mật kế bảo hai tướng và sai hai tướng đem quân đi mai phục. Hai tướng vâng lệnh đem quân đi. Gà gáy hôm sau, Sở Trang Vương truyền cho đại binh kéo lui. Đấu Việt Tiêu nghe tin, tức khắc đem quân đuổi theo. Quân Sở Trang Vương cố sức đi gấp qua đất Cánh Lăng. Đấu Việt Tiêu cũng cố sức đuổi theo, một ngày một đêm đi hơn 200 dặm, đến cầu Thanh Hà, trông thấy quân Sở Trang Vương đang thổi cơm ở bên kia cầu, lại cố sức đuổi theo cho kịp. Khi Đấu Việt Tiêu đến nơi thì quân Sở Trang Vương bỏ cả nồi niêu mà chạy. Đấu Việt Tiêu lại hạ lệnh đuổi theo, cố bắt cho kỳ được Sở Trang Vương, rồi mới được ăn cơm sáng. Quân Đấu Việt Tiêu đang lúc mỏi mệt, lại phải nhịn đói để mà đuổi theo, cố theo kịp đến toán quân của Phan Uông. Phan Uông bảo Đấu Việt Tiêu rằng: - Nhà ngươi muốn bắt vua Sở thì sao không cố đi mau lên một chút! Đấu Việt Tiêu tưởng là bảo thực, mới bỏ Phan Uông, lại cố đuổi theo 60 dặm nữa, đến địa giới Thanh Sơn, gặp toán quân của Hùng Phụ Cơ. Đấu Việt Tiêu hỏi Hùng Phụ Cơ rằng: - Vua Sở ở đâu? Hùng Phụ Cơ nói: - Vua Sở chưa đi đến đây! Đấu Việt Tiêu trong lòng nghi ngờ, lại bảo Hùng Phụ Cơ rằng: - Nhà ngươi bắt vua Sở cho ta thì khi ta lên làm vua, sẽ cho nhà ngươi được dự quyền chính. Hùng Phụ Cơ nói: - Ta trông quân sĩ nhà ngươi đều mỏi mệt cả, nên phải cho ăn no thì mới giao chiến được. Đấu Việt Tiêu lấy làm phải, mới đóng quân lại để nấu cơm ăn. Quân Đấu Việt Tiêu đang nấu cơm, bỗng thấy Công tử Trắc và Công tử Anh Tề hai mặt đem quân đến đánh. Quân Đấu Việt Tiêu đói mệt, không thể đánh được, bỏ chạy về phía nam, lui về cầu Thanh Hà, thì cái cầu ấy đã phá gẫy từ bao giờ rồi. Nguyên Sở Trang Vương khi trước đem quân phục ở bên cầu, đợi cho Đấu Việt Tiêu đi qua khỏi thì phá gẫy cái cầu ấy để chặn lối trở về. Đấu Việt Tiêu thấy cầu bị phá gẫy, giật mình kinh sợ, truyền cho quân sĩ dò xem nước sông nông sâu thế nào để tìm đường sang. Bỗng nghe ở bên kia bờ sông có tiếng súng nổ, một toán quân Sở quát to lên rằng: - Quân Nhạc Bá đóng đây, Đấu Việt Tiêu mau mau xuống ngựa mà đầu hàng đi! Đấu Việt Tiêu giận lắm, truyền cho quân sĩ đứng bên này sông giương cung ra bắn. Trong toán quân Nhạc Bá có một viên tiểu tướng có tài nghệ bắn cung, tên gọi Dưỡng Do Cơ nói với Nhạc Bá xin cùng với Đấu Việt Tiêu bắn thi. Nhạc Bá thuận cho. Dưỡng Do Cơ đứng ở bờ sông bên này, quát to lên mà bảo Đấu Việt Tiêu rằng: - Mặt sông rộng như thế này, tên nào mà bắn cho thấu! Tôi nghe nói quan lệnh doãn (tức là Đấu Việt Tiêu) tài bắn lắm, vậy tôi xin cùng ngài bắn thi. Hai bên nên đứng giáp ở trên nhịp cầu, mỗi bên bắn ba phát, ai may thì sống. Đấu Việt Tiêu hỏi rằng: - Nhà ngươi là ai? Dưỡng Do Cơ nói: - Tôi là Tiểu tướng thuộc về toán quân Nhạc Bá, tên gọi Dưỡng Do Cơ. Đấu Việt Tiêu có ý khinh bỉ, mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng: - Nhà ngươi muốn bắn thi thì hãy nhường ta bắn trước ba phát. Dưỡng Do Cơ nói: - Đừng nói ba phát, dẫu đến trăm phát, tôi cũng không sợ! Nếu ai phải tránh thì là không giỏi. Nói xong, liền ra đứng ở trên nhịp cầu về phía sông bên này. Đấu Việt Tiêu đứng ở nhịp cầu bên kia, giương cung bắn ngay một phát, tưởng rằng phát tên này bắn ra thì Dưỡng Do Cơ lộn cổ xuống sông mà chết. Ai ngờ Dưỡng Do Cơ trông thấy mũi tên đến, tay cầm đốc cung, gạt liền một cái, mũi tên ấy rơi xuống dưới sông. Dưỡng Do Cơ lại quát to lên mà bảo Đấu Việt Tiêu rằng: - Bắn nữa đi! Bắn nữa đi! Đấu Việt Tiêu lại giương cung nhằm thẳng vào Dưỡng Do Cơ bắn luôn một phát nữa. Dưỡng Do Cơ ngồi sụp xuống thì mũi tên ấy qua đầu mà bay đi mất. Đấu Việt Tiêu nói: - Nhà ngươi bảo là ai tránh không giỏi, cớ sao lại ngồi sụp xuống, như vậy không phải là trượng phu. Dưỡng Do Cơ nói: - Quan lệnh doãn còn được bắn một phát nữa, đến phát này thì tôi không dám tránh; nếu phát này không trúng thì ngài lại phải nhường cho tôi bắn. Đấu Việt Tiêu nghĩ thầm: Nếu hắn không tránh thì phát tên này tất phải trúng. Đấu Việt Tiêu tức khắc giương cung ra bắn. Dưỡng Do Cơ đứng vững hai chân, không cựa cạy chút nào; khi mũi tên tới nơi, liền há mồm thật to, cắn chặt ngay lấy. Đấu Việt Tiêu bắn ba phát tên cùng không trúng cả, có ý sợ hãi, nhưng trót đã hẹn lời, cũng phải để cho Dưỡng Do Cơ bắn lại, mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng: - Nay ta nhường cho ngươi bắn lại ba phát, nếu bắn không trúng, bấy giờ nhà ngươi phải nhường ta. Dưỡng Do Cơ cười mà bảo rằng: - Khi nào đã đến ba phát. Tôi chỉ bắn một phát thì tính mệnh quan lệnh doãn đi đời mà thôi. Đấu Việt Tiêu nói: - Nhà ngươi nói khoác làm gì thế, hãy thử bắn xem nào! Đấu Việt Tiêu nghĩ thầm: Hắn bắn phát tên này mà trúng, chẳng kể làm chi, nhược bằng không trúng thì ta còn sợ gì nữa, tha hồ cho hắn bắn. Ai ngờ Dưỡng Do Cơ là người bắn giỏi lắm, trăm phát trúng cả trăm. Bấy giờ Dưỡng Do Cơ giả cách giương cung ra bắn, nhưng tay vẫn giữ lấy tên. Đấu Việt Tiêu nghe tiếng dây cung văng vẳng, tưởng là tên đến, mới nghiêng mình tránh về phía tả. Dưỡng Do Cơ nói: - Tên vẫn còn ở tay tôi, nào đã bắn đâu! Quan lệnh doãn bảo ai tránh là không giỏi, cớ sao lại tránh? Đấu Việt Tiêu nói: - Còn sợ người ta tránh thì sao gọi là bắn giỏi! Dưỡng Do Cơ lại giả cách giương cung ra bắn. Đấu Việt Tiêu lại tránh về phía hữu. Dưỡng Do Cơ thừa cơ bắn luôn một phát suốt qua đầu Đấu Việt Tiêu chết ngay lập tức. Quân Đấu Việt Tiêu thấy chủ tướng đã chết rồi, bỏ chạy tán loạn, Công tử Trắc và Công tử Anh Tề chia đường đuổi theo, giết được quân Đấu Việt Tiêu nhiều lắm. Con Đấu Việt Tiêu là Đấu Bí Hoàng trốn sang nước Tấn, sau vua Tấn dùng làm quan đại phu, phong cho ở đất Miêu, gọi là Miêu Bí Hoàng. Sở Trang Vương đã được toàn thắng, thu quân trở về kinh thành, đem bao nhiêu người họ Đấu, bất cứ lớn bé, đều chém chết cả. Chỉ còn con Đấu Ban là Đấu Khắc Hoàng hiện đang làm quan Châm doãn, phụng mệnh Sở Trang Vương sang sứ nước Tề, bấy giờ về đến nước Tống, nghe tin Đấu Việt Tiêu nổi loạn, các người theo hầu đều can Đấu Khắc Hoàng không nên về vội. Đấu Khắc Hoàng không nghe. Khi Đấu Khắc Hoàng về đến kinh thành nước Sở, vào nói với quan Tư khấu xin chịu tội và bảo rằng: - Tổ phụ ta ngày xưa là Tử Văn đã biết Đấu Việt Tiêu có tướng làm phản, tội đến nỗi diệt tộc; khi sắp tạ thế, có dặn thân phụ tôi trốn sang nước khác. Thân phụ tôi nghĩ ơn nước Sở, không nỡ bỏ đi, thành ra bị Đấu Việt Tiêu giết chết. Nay tôi cùng họ với kẻ phản nghịch, lại không theo được lời dặn của tổ phụ tôi, vậy thì còn sống làm gì! Xin chịu tội chết. Sở Trang Vương nghe nói, thở dài mà than rằng: - Tử Văn ngày xưa thật là thần nhân! Huống chi có công to với nước Sở, nỡ nào mà để cho tuyệt tự. Nói xong, liền tha tội cho Đấu Khắc Hoàng, vẫn cho làm quan, lại đổi tên là Đấu Sinh, nghĩa là đáng chết mà được sống. Sở Trang Vương khen Dưỡng Do Cơ có công bắn chết Đấu Việt Tiêu, cho làm chức xa hữu; nghe nói Ngưu Khâu là người hiền, cho quyền làm chức lệnh doãn. Sở Trang Vương liền mở một tiệc đại yến ở trên Tiệm Đài, triệu các quan triều thần đến dự tiệc; cho cả các phi tần theo đi. Sở Trang Vương bảo các quan triều thần rằng: - Ta không uống rượu nghe hát đã sáu năm trời nay; bây giờ dẹp yên được bọn phản nghịch rồi, ta xin cùng với các ngươi bày một tiệc vui, gọi là Thái Bình Yến. Phàn các quan viên văn vũ, bất cứ to nhỏ, đều được dự tiệc tất cả. Các quan triều thần sụp lạy, rồi theo thứ tự vào ngồi. Chức bào nhân dâng món ăn; chức thái sử tấu nhã nhạc. Khi mặt trời đã gần lặn, tiệc rượu còn đang vui, Sở Trang Vương truyền thắp nến lên uống rượu nữa, lại sai một người hầu yêu là Hứa Cơ đi mời khắp các quan triều thần mỗi người một chén rượu. Các quan triều thần đều đứng dậy để uống, bỗng có một trận gió to, bao nhiêu nến thắp ở trên điện tắt hết sạch cả. Các nội thị còn đang đi châm lửa chưa đến. Trong các quan đại phu có một người trông thấy Hứa Cơ đẹp, nhân lúc tối tăm, thò tay nắm lấy vạt áo. Hứa Cơ tay trái giằng vạt áo, tay phải rờ được giải mũ của người ấy. Giải mũ đứt, người ấy sợ lắm, vội vàng buông tay ra. Hứa Cơ lấy được cái giải mũ, rón rén đi đến trước mặt Sở Trang Vương, ghé tai mà tâu rằng: - Thiếp vâng mệnh Đại vương ra mời các quan uống rượu, mà có một người vô lễ, dám nhân lúc tắt nến, nắm lấy vạt áo thiếp, thiếp đã dứt được giải mũ của người ấy, xin Đại vương giục thắp nến mà xét xem. Sở Trang Vương vội vàng truyền cho nội thị chớ thắp nến vội và bảo các quan triều thần rằng: - Ngày nay ta bày tiệc, mong cùng với các ngươi mua vui, các ngươi nên bỏ cả giải mũ đi, rồi cùng ta uống rượu thật say. Nếu ai không dứt giải mũ thì chưa được vui lắm. Các quan triều thần đều dứt bỏ hết giải mũ. Bấy giờ Sở Trang Vương mới cho thắp nến, thành ra không biết người nào nắm vạt áo Hứa Cơ cả. Tiệc xong, trở về trong cung, Hứa Cơ tâu với Sở Trang Vương rằng: - Thiếp nghe nói con trai, con gái phải có phân biệt, huống chi là vua tôi. Đại vương sai thiếp mời các quan uống rượu là để tỏ lòng kính mến, nay người ấy nắm lấy vạt áo thiếp mà Đại vương không trị tội, thì còn ra thể thống gì nữa! Sở Trang Vương cười mà bảo rằng: - Ta bày tiệc rượu này là muốn khiến các quan đều được cùng vui, bởi vậy mới sai thắp nến để uống rượu thêm. Rượu say sinh ra chớt nhả, chẳng qua cũng là thường. Nếu ta trị tội một người thì làm cho các quan không được vui thì ta không muốn! Hứa Cơ nghe nói, phục là người có lượng. Về sau người ta gọi tiệc rượu ấy là "Tuyệt anh hội". Một hôm, Sở Trang Vương cùng với Ngu Khâu bàn việc chính trị, đêm đã khuya, mới trở về cung. Bà phu nhân là Phàn Cơ hỏi Sở Trang Vương rằng: - Ngày hôm nay trong triều có việc gì mà Đại vương về chậm như vậy? Sở Trang Vương nói: - Ta cùng với Ngu Khâu bàn việc, thành ra khuya quá mà không biết. Phàn Cơ nói: - Ngu Khâu là người thế nào? Sở Trang Vương nói: - Ngu Khâu là người hiền ở nước Sở ta. Phàn Cơ nói: - Cứ như ý thiếp thì Ngu Khâu vị tất đã là người hiền? Sở Trang Vương nói: - Tại sao nàng biết Ngu Khâu không phải là người hiền? Phàn Cơ nói: - Ngu Khâu mỗi lần cùng với Đại vương bàn việc chính trị, thường đến đêm khuya, mà đã lâu nay chưa thấy Ngu Khâu tiến cử một người nào cả, thế là định đem cái trí thức một mình mà khiến cho bao nhiêu người tài giỏi không được tiến dùng, sao gọi là người hiền. Sở Trang Vương khen phải. Ngày hôm sau đem lời Phàn Cơ thuật lại cho Ngu Khâu nghe. Ngu Khâu nói: - Vậy mà tôi chưa kịp nghĩ đến điều ấy, để nay tôi xin xét xem. Ngu Khâu liền hỏi khắp các quan triều thần, xem có ai biết người hiền thì nói. Đấu Sinh nói với Ngu Khâu rằng: - Tôi có biết người con của Vĩ Giả tên gọi Vĩ Ngao là người hiền, Vĩ Ngao vì tránh cái nạn Đấu Việt Tiêu mà đi ẩn ở Mộng Trạch, người ấy thật là có tài làm tướng quốc! Ngu Khâu vào tâu với Sở Trang Vương. Sở Trang Vương nói: - Vĩ Giả ngày xưa là người trí sĩ thì con Vĩ Giả tất cũng không phải tầm thường, nếu nhà ngươi không nói, có lẽ ta quên đi mất! Sở Trang Vương sai Ngu Khâu cùng với Đấu Sinh đi đến Mộng Trạch để triệu Vĩ Ngao. Nguyên Vĩ Ngao tên tự là Tôn Thúc, bởi vậy người ta vẫn gọi là Tôn Thúc Ngao. Tôn Thúc Ngao đem mẹ đi tránh nạn, sang ở Mộng Trạch, làm ruộng kiếm ăn. Một hôm, Tôn Thúc Ngao vác cày đi ra đồng, thấy ở dưới ruộng có con rắn hai đầu, giật mình kinh sợ mà nói rằng: - Ta nghe nói con rắn hai đầu là vật chẳng lành, ai trông thấy cũng tất phải chết. Vậy thì ta khó lòng mà sống được! Tôn Thúc Ngao lại nghĩ thầm trong lòng rằng nếu ta để con rắn ấy sống thì sau này có ai trông thấy, lại thêm nguy hiểm cho người ta, chi bằng một mình ta đành chịu mà thôi. Tôn Thúc Ngao nghĩ vậy, mới giơ cái cày đánh chết con rắn, chôn ở bờ ruộng, rồi trở về nhà khóc với bà mẹ. Bà mẹ hỏi cớ làm sao, Tôn Thúc Ngao nói: - Con nghe nói ai trông thấy con rắn hai đầu thì tất phải chết. Nay con trông thấy, con lo lắng không sống mà nuôi mẹ được, vậy nên con khóc. Bà mẹ nói: - Bây giờ con rắn ấy ở đâu? Tôn Thúc Ngao nói: - Con sợ người khác lại trông thấy, đã giết mà chôn đi rồi. Bà mẹ nói: - Người ta làm được một điều thiện, trời tất phù hộ cho. Nay con trông thấy con rắn hai đầu, sợ di lụy đến người khác, phải đem chôn đi, thế thì lòng thiện biết là dường nào! Con tất không chết mà lại được phúc nữa. Mấy hôm sau, bọn Ngu Khâu phụng mệnh Sở Trang Vương đến triệu Tôn Thúc Ngao. Bà mẹ mới cười mà bảo Tôn Thúc Ngao rằng: - Đấy là vì việc con chôn rắn mà được phúc đó, con ạ! Tôn Thúc Ngao đem mẹ theo bọn Ngu Khâu về kinh thành nước Sở. Sở Trang Vương cùng với Tôn Thúc Ngao nói chuyện suốt trong một ngày, lấy làm bằng lòng lắm, mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng: - Các quan triều thần nước Sở ta ngày nay không ai có kiến thức bằng nhà ngươi cả. Nói xong, liền cho Tôn Thúc Ngao làm lệnh doãn. Tôn Thúc Ngao chối từ mà rằng: - Tôi mới ở chỗ thảo dã tới đây, Đại vương đã vội giao quyền chính cho, tôi e người ngoài không phục. Vậy tôi xin theo sau các quan đại phu. Sở Trang Vương nói: - Ta đã biết tài nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối. Tôn Thúc Ngao hai ba lần từ chối không được, mới nhận làm chức lệnh doãn. Tôn Thúc Ngao chỉnh đốn chính trị nước Sở, lập ra quân pháp, cho Ngu Khâu coi đạo trung quân, Công tử Anh Tề coi đạo tả quân, Công tử Trắc coi đạo hữu quân, Dưỡng Do Cơ coi đạo hữu quảng, Khuất Đãng coi đạo tả quảng, hiệu lệnh nghiêm trang, để giữ cho dân trong nước được yên ổn; lại đắp đê khơi sông để tiện việc làm ruộng, dân nước Sở ai cũng ca tụng công đức. Các quan triều thần nước Sở thấy Sở Trang Vương tin dùng Tôn Thúc Ngao, trong lòng không phục, đến lúc thấy Tôn Thúc Ngao sửa sang chính trị, việc gì cũng có thứ tự, mới tấm tắc mà khen rằng: - May thay cho nước Sở ta được người bày tôi hiền ấy chẳng kém gì Tử Văn thuở xưa. Tử Văn thuở xưa làm lệnh doãn khiến cho nước Sở được cường thịnh, nay có Tôn Thúc Ngao, khác nào Tử Văn sống lại! Bấy giờ Trịnh Mục công (Lan) mất, Thế tử Di lên nối ngôi, tức là Trịnh Linh công. Công tử Tống và Công tử Quy Sinh cầm quyền chính nước Trịnh, vẫn bắt cá hai tay, chưa biết theo Tấn hay là theo Sở. Sở Trang Vương mới cùng với Tôn Thúc Ngao thương nghị, định đem quân sang đánh Trịnh. Bỗng nghe tin Trịnh Linh công bị Công tử Quy Sinh giết. Sở Trang Vương bảo Tôn Thúc Ngao rằng: - Nhân việc này mà ta đem quân sang đánh Trịnh, lại càng có cớ lắm!

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  3. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 52 Công Tử Tống nghĩ ghen miếng ăn Trịnh Linh công quá mê sắc đẹp

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Công tử Quy Sinh, tên tự là Tử Gia, Công tử Tống, tên tự là Tử Cống, hai người đều là quý tộc ở nước Trịnh. Bấy giờ đang năm đầu Trịnh Linh công, Công tử Tống và Công tử Quy Sinh hẹn nhau cùng vào triều. Bỗng đâu ngón thực chỉ của Công tử Tống tự nhiên rung động. Công tử Tống mới giơ ngón tay cho Công tử Quy Sinh xem. Công tử Quy Sinh lấy làm lạ. Công tử Tống nói: - Bao giờ ngón thực chỉ của tôi rung động thì ngày hôm ấy thế nào tôi cũng được ăn một món gì quý lạ. Khi trước tôi đi sứ nước Tấn, được ăn Thạch hoa ngư (cá) ; sau sang sứ nước Sở một lần được ăn Thiên nga (ngỗng), một lần được ăn Hợp hoan quất (quýt), ngón thực chỉ đều báo trước cho biết, mà lần nào cũng nghiệm cả. Chưa biết chừng ngày hôm nay được ăn món gì đây! Khi Công tử Tống và Công tử Quy Sinh vào gần đến triều môn, thấy nội thị phụng mệnh đi gọi tể phu gấp lắm! Công tử Tống hỏi nội thị rằng: - Nhà ngươi gọi tể phu có việc gì? Nội thị nói: - Có người ở Hán Giang về, mua được một con giải to lắm, nặng hơn hai trăm cân, đem dâng Chúa công. Chúa công nhận mà thưởng cho người ấy, bây giờ buộc con giải ở dưới thềm, sai tôi đi gọi tể phu vào làm thịt, để định bày tiệc thết các quan đại phu. Công tử Tống nói: - Đó tức là một món ăn quý lạ, ngón thực chỉ của ta rung động quả có nghiệm. Khi vào đến trong triều, trông thấy chân cột ở dưới thềm có buộc một con giải thật to, hai người cứ nhìn nhau mà cười. Đến lúc yết kiến Trịnh Linh công, nét mặt hai người vẫn còn hớn hở. Trịnh Linh công hỏi: - Hai ngươi hôm nay có sự gì mà vui mừng như vậy? Công tử Quy Sinh nói: - Lúc Công tử Tống cùng với tôi sắp vào triều thì ngón thực chỉ rung động, Công tử Tống có nói: Hễ ngón thực chỉ rung động thì bao giờ cũng được ăn một món gì quý lạ. Nay trông thấy dưới thềm có buộc con giải to, chắc là thế nào Chúa công ngự tiệc, cũng có gia ân đến chúng tôi. Vì ngón thực chỉ có nghiệm, vậy nên chúng tôi buồn cười. Trịnh Linh công nói đùa rằng: - Nghiệm hay không, cái quyền ấy còn ở tay ta! Khi tan triều trở về, Công tử Quy Sinh bảo Công tử Tống rằng: - Vị ngon dẫu có, nhưng Chúa công không triệu nhà ngươi thì làm thế nào? Công tử Tống nói: - Đã bày tiệc để thết đãi các quan, có lẽ nào lại quên ta được! Đến lúc sắp ngự tiệc, nội thị đi triệu khắp cả các quan đại phu. Công tử Tống hớn hở vào triều trông thấy Công tử Quy Sinh, liền cười mà bảo rằng: - Tôi vẫn chắc rằng Chúa công thế nào cũng có triệu tôi! Được một lúc, các quan triều thần đều đến cả. Trịnh Linh công mời ngồi, rồi bảo các quan triều thần rằng: - Thịt giải là một món ăn quý lạ, ta không dám ăn một mình, xin cùng với các ngươi cùng uống rượu. Các quan triều thần đồng thanh mà rằng: - Chúa công có của ngon vật lạ gì cũng nhớ đến chúng tôi, chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được! Chức tể phu đem món thịt giải dâng Trịnh Linh công. Trịnh Linh công nếm mà khen ngon, rồi sai người ban cho các quan mỗi người một bát thịt giải, và một đôi đũa ngà, mà đưa từ bàn dưới cho đến bàn trên. Khi đưa đến bàn nhất, bàn nhì, chỉ còn có một bát thịt giải, Chức tể phu tâu với Trịnh Linh công rằng: - Thịt giải hết cả rồi, chỉ còn một bát, Chúa công dạy đưa cho ai? Trịnh Linh công nói: - Đưa cho Tử Gia (tức là Công tử Quy Sinh). Chức tể phu bưng bát thịt giải đưa đến trước mặt Công tử Quy Sinh. Trịnh Linh công cười rầm lên mà bảo rằng: - Ta định ban cho các ngươi mà lại thiếu một mình Tử Cống (tức là Công tử Tống) không có, thế là Tử Cống số không được ăn thịt giải. Ngón thực chỉ sao bảo là nghiệm được! Nguyên Trịnh Linh công cố ý truyền cho nhà bếp làm thiếu một bát thịt giải, khiến cho ngón thực chỉ của Công tử Tống không nghiệm để mà giễu cười. Ai ngờ Công tử Tống đã trót nói khoác với Công tử Quy Sinh, ngày nay các quan đều được ăn cả, mà mình không được ăn, thẹn quá hóa giận, mới chạy thẳng đến trước mặt Trịnh Linh công, thò tay vào bát thịt giải, lấy một miếng cầm ăn, vừa ăn vừa nói: - Tôi đã được ăn rồi, ngón thực chỉ khi nào không nghiệm! Nói xong, tức khắc lui ra. Trịnh Linh công cũng nổi giận, ném đũa xuống mà nói rằng: - Công tử Tống hỗn láo, khinh ta như vậy, hay là cho nước Trịnh không có lưỡi gươm sắc chém được đầu hắn đó chăng! Bọn Công tử Quy Sinh đều sụp lạy mà tâu rằng: - Công tử Tống cậy tình thân thuộc, muốn được thừa huệ Chúa công, có phải dám vô lễ đâu, xin Chúa công tha lỗi cho. Trịnh Linh công hầm hầm tức giận. Các quan triều thần đều không được vui mà tan về cả. Công tử Quy Sinh tức khắc đến nhà Công tử Tống mà bảo rằng: - Ngày hôm nay Chúa công có ý tức giận lắm, sáng mai Công tử nên vào triều xin lỗi. Công tử Tống nói: - Hễ mình khinh người ta thì người ta cũng khinh mình, dẫu ai cũng vậy, nay Chúa công khinh tôi trước, lại còn trách nỗi gì! Công tử Quy Sinh nói: - Đã đành rằng thế, nhưng theo lễ vua tôi thì Công tử nên phải xin lỗi. Ngày hôm sau, hai người lại cùng vào triều, Công tử Tống cứ nghiễm nhiên không chịu xin lỗi. Công tử Quy Sinh không bằng lòng, mới tâu với Trịnh Linh công rằng: - Công tử Tống sợ Chúa công quở trách, nay đến xin lỗi, nhưng khủng khiếp quá không nói nên lời, xin Chúa công khoan dung cho. Trịnh Linh công nói: - Ta có lỗi với Tử Cống (tức là Công tử Tống) chứ, Tử Cống lại còn có sợ gì ta nữa! Nói xong, tức thì vùng vằng đứng dậy. Khi tan triều trở về, Công tử Tống mời Công tử Quy Sinh đến nhà mà bảo rằng: - Chúa công tức giận ta lắm, thế nào cũng trị tội ta, chi bằng ta nổi loạn mà giết ngay đi thì ta mới khỏi chết được. Công tử Quy Sinh lấy tay bưng tai mà bảo Công tử Tống rằng: - Chết nỗi! Giống vật mình nuôi lâu ngày còn chẳng nỡ giết, huống chi là vua một nước, sao Công tử lại nói khinh thường như vậy! Công tử Tống nói: - Ta nói bỡn đó thôi, xin chớ tiết lộ cho người khác biết. Công tử Quy Sinh cáo từ trở về. Công tử Tống dò biết Công tử Quy Sinh cùng với em Trịnh Linh công là Công tử Khứ Tật chơi bời thân thiết lắm, mới đặt điều nói phao ở trong triều rằng: - Tử Gia (tên tự Công tử Quy Sinh) cùng với Tử Lương (tên tự Công tử Khứ Tật) hai người ngày đêm bàn nhau, không biết định làm việc gì! Ta e rằng việc ấy rất nguy hiểm cho nước Trịnh ta! Công tử Quy Sinh vội vàng nắm lấy tay Công tử Tống dắt đến chỗ vắng người mà bảo rằng: - Sao Công tử lại ăn nói càn rỡ như vậy! Công tử Tống nói: - Nhà ngươi không đồng mưu với ta, thế nào ta cũng khiến cho nhà ngươi phải chết trước ta một ngày! Công tử Quy Sinh vốn người nhu nhược, không dám quyết đoán, nghe lời Công tử Tống nói, sợ hãi mà hỏi rằng: - Nhà ngươi định làm ra thế nào? Công tử Tống nói: - Chúa công vô đạo, xem một việc chia thịt giải này là đủ biết, nếu làm đại sự thì ta cùng nhà ngươi lập Tử Lương (tức là Công tử Khứ Tật) lên làm vua, rồi cầu thân với Tấn mà giữ lấy nước nhà. Công tử Quy Sinh nghĩ ngợi hồi lâu, rồi đáp lại rằng: - Thôi, mặc Công tử muốn làm gì thì làm, ta cũng không tiết lộ cho ai biết cả. Công tử Tống liền tụ họp người nhà, nhân khi Trịnh Linh công đi làm lễ thu tế, ngủ ở trai cung, đem cái bì đất để đè lên trên mình Trịnh Linh công mà làm cho chết đi, rồi nói dối là Trịnh Linh công bị bệnh trúng áp. Công tử Quy Sinh biết việc ấy mà không dám nói ra. Ngày hôm sau, Công tử Quy Sinh và Công tử Tống bàn nhau lập Công tử Khứ Tật lên làm vua. Công tử Khứ Tật kinh sợ, chối từ mà nói rằng: - Tiên quân ta có tám người con. Nay định lập người hiền, thì tôi không có tài đức gì cả, mà định lập người nhiều tuổi thì đã có Công tử Kiên. Tôi dẫu chết thì thôi, chứ không dám quá phận như vậy! Bấy giờ Công tử Quy Sinh và Công tử Tống mới lập Công tử Kiên lên làm vua, tức là Trịnh Tương công. Nguyên Trịnh Mục công thuở xưa, cả thảy có mười ba người con. Trịnh Linh công (Di) bị giết. Trịnh Tương công (Kiên) nối ngôi làm vua. Còn mười một người con nữa là: 1. Công tử Khứ Tật, tên tự là Tử Lương; 2. Công tử Hỉ, tên tự là Tử Hãn; 3. Công tử Phi, tên tự là Tử Tứ; 4. Công tử Phát, tên tự là Tử Quốc; 5. Công tử Gia, tên tự là Tử Khổng; 6. Công tử Yển, tên tự là Tử Du; 7. Công tử Phú, tên tự là Tử Ấn; 8. Công tử Phong; 9. Công tử Vũ; 10. Công tử Nhiên; 11. Công tử Chí. Trịnh Linh công ghét các em hay bè đảng, chỉ sợ ngày sau sinh biến, mới bàn riêng với Công tử Khứ Tật, định để một mình Khứ Tật ở nhà, còn thì đuổi hết các em đi sang nước khác. Công tử Khứ Tật nói: - Tiên quân ta thuở xưa, lúc mới sinh ra, có ứng vào cái mộng cành lan, đó là một cái điềm họ ta sẽ được hưng thịnh. Anh em trong một nhà cũng ví như cái cây có cành, có lá, nếu đem cắt bỏ cành lá đi mà để cho gốc rễ trơ trọi ra đấy thì là cái cây ấy chẳng bao lâu phải khô héo. Nay Chúa công có bao dung được các em thì thôi, nhược bằng không bao dung được mà phải đuổi đi thì tôi cũng xin đi, chứ nỡ đâu một mình ở lại, mai sau còn mặt mũi nào trông thấy Tiên quân ở dưới suối vàng! Trịnh Linh công nghe nói cảm động, mới cho cả mười một người em đều làm đại phu, cùng cầm quyền chính nước Trịnh. Năm sau, Sở Trang Vương sai Công tử Anh Tề làm đại tướng đem quân sang đánh Trịnh và hỏi nước Trịnh rằng: - Sao nước Trịnh dám giết vua. Nước Tấn sai Tuân Lâm Phủ đem quân sang cứu Trịnh. Nước Sở mới rút quân về đánh nước Trần. Năm thứ ba đời Chu Định Vương quan Thượng khanh nước Tấn là Triệu Thuẫn mất, Khước Khuyết thay làm trung quân nguyên soái, nghe nói nước Trần cùng với nước Sở giảng hòa, liền tâu với Tấn Thành công, đem quân bốn nước Tống, Vệ, Trịnh, Tào kéo sang đánh nước Trần. Tấn Thành công đi đến nửa đường bị bệnh mà chết. Tuân Lâm Phủ liền rút quân về, rồi lập thế tử Nho lên làm vua, tức là Tấn Cảnh công. Năm ấy Sở Trang Vương đánh Trịnh, đóng quân ở đất Liễu Phân (đất nước Trịnh), Khước Khuyết (nước Tấn) đem quân sang cứu Trịnh, lẻn đánh quân Sở. Quân Sở bị thua, người nước Trịnh ai cũng mừng rỡ, chỉ có một mình Công tử Khứ Tật là nét mặt có ý buồn rầu. Trịnh Tương công thấy lạ, liền hỏi. Công tử Khứ Tật nói: - Nước Tấn đánh được quân Sở, chẳng qua là may đó mà thôi. Tôi chỉ sợ quân Sở căm tức mà lại sang đánh Trịnh thì có thể trông cậy về nước Tấn được mãi hay không? Tôi chắc rằng chẳng bao lâu nữa mà quân Sở lại kéo sang đánh! Đến năm sau, Sở Trang Vương lại sang đánh Trịnh, đóng quân ở phía bắc sông Dĩnh Thủy. Gặp bấy giờ Công tử Quy Sinh bị bệnh chết, Công tử Khứ Tật mới trị cái tội nếm thịt giải khi trước, giết chết Công tử Tống, đem phanh thây ở trong triều, lại đẽo áo quan của Công tử Quy Sinh và đuổi gia quyến đi nước khác, rồi sai sứ sang xin lỗi với Sở Trang Vương rằng: - Nước tôi có kẻ phản nghịch là Công tử Quy Sinh và Công tử Tống, nay đã trị tội cả rồi, vậy Chúa công tôi xin cho vua Trần cùng sang ăn thề mà giảng hòa với quý quốc. Sở Trang Vương thuận cho, định họp vua Trần và vua Trịnh cùng ăn thề ở đất Thần Lăng, sai sứ sang ước hẹn với vua Trần. Khi sứ giả ở nước Trần về, nói vua Trần bị quan Đại phu là Hạ Trưng Thư giết chết, trong nước đại loạn. Nguyên Trần Linh công (Bình Quốc) là con Trần Cung công (Sóc) vốn người lười biếng lêu lổng, không có uy nghi gì cả, lại ham mê tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính trị, tin dùng hai quan đại phu là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ. Hai người ấy đều là một phường tửu sắc, bởi vậy một vua và hai bầy tôi cùng ý hợp tâm đầu nhau, nói cười đùa bỡn rất là chớt nhả, không còn e lệ gì nữa! Bấy giờ trong triều có một người bày tôi là Tiết Giã gặp việc gì cũng hay nói, Trần Linh công vẫn có ý nể sợ. Lại có quan Đại phu là Hạ Ngự Thúc. Nguyên người cha Hạ Ngự Thúc là Công tử Chiếu Tây (con Trần Định công), tên tự là Tử Hạ, bởi vậy Ngự Thúc dùng chữ "Hạ" làm họ, gọi là Hạ Ngự Thúc, vẫn nối đời làm quan tư mã nước Trần, ăn lộc ở đất Châu Lâm. Hạ Ngự Thúc lấy con gái nước Trịnh làm vợ, gọi là nàng Hạ Cơ. Hạ Cơ, mắt phượng mày ngài, môi son má phấn, dáng dấp đã chẳng kém gì Ly Cơ, Tức Vĩ, lẳng lơ lại có phần hơn Đắc Kỷ, Văn Khương, ai trông thấy cũng phải tâm thần mê mẩn. Hạ Cơ lại còn một sự kỳ dị nữa là năm mới mười lăm tuổi, nằm mộng thấy một chàng trai đẹp, mũ ngọc áo lông, tự xưng là thượng giới thiên tiên, cùng với Hạ Cơ giao hợp, rồi dạy Hạ Cơ lấy những phép hấp tinh đạo khí, rất nên thần diệu. Khi Hạ Cơ đi lấy chồng, đã cùng người thứ huynh của Trịnh Linh công là Công tử Man, anh em tư thông với nhau, chưa được ba năm thì Công tử Man ốm quặt quẹo mà thành ra chết non; sau lấy Hạ Ngự Thúc, sinh được một người con trai, tên gọi là Hạ Trưng Thư. Hạ Trưng Thư tên tự là Tử Man, năm mười hai tuổi thì cha là Hạ Ngự Thúc ốm chết. Hạ Cơ thường có ngoại tình, mới để Hạ Trưng Thư ở trong thành theo thầy học tập, còn mình thì về ở đất Châu Lâm. Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nguyên trước là bạn đồng liêu với Hạ Ngự Thúc, trông thấy Hạ Cơ đẹp, vẫn có ý nom dòm. Hạ Nữ có một con thị nữ tên gọi là Hà Hoa, là người rất tinh quái, vốn đã hiểu biết tính chủ. Một hôm Khổng Ninh cùng với Hạ Trưng Thư đi săn, nhân tiễn đưa Hạ Trưng Thư đến Châu Lâm, rồi ngủ chơi ở đấy, Khổng Ninh chịu phí tâm cơ, mật kết cùng Hà Hoa, đưa cho cành trâm, nhờ nói hộ với chủ, bởi thế mới được cùng Hạ Cơ tư thông. Khổng Ninh lấy trộm cái cẩm đương (quần trong bằng gấm) của Hạ Cơ đem ra khoe với Nghi Hàng Phủ. Nghi Hàng Phủ sinh lòng say mê, cũng đem tiền của mật kế với Hà Hoa, để nhờ tiến dẫn hộ. Hạ Cơ xưa nay trông thấy Nghi Hàng Phủ là người thân thể cao lớn, mặt mũi đầy đặn, cũng có lòng yêu, mới bảo Hà Hoa mời đến. Nghi Hàng Phủ khéo dùng cách để làm cho Hạ Cơ được bằng lòng, bởi vậy Hạ Cơ yêu hơn Khổng Ninh. Nghi Hàng Phủ bảo Hạ Cơ rằng: - Ngày trước quý nương có cho Khổng Ninh một cái cẩm đương, nay đã có lòng yêu đến tôi, cũng nên cho tôi cái gì để làm kỷ niệm. Hạ Cơ cười mà bảo rằng: - Cái cẩm đương ấy là hắn lấy trộm của thiếp, chứ không phải thiếp tặng cho. Hạ Cơ ghé tai bảo nhỏ rằng: - Dẫu nằm cùng giường với nhau, nhưng cũng có kẻ hậu người bạc. Nói xong, liền cởi cái bích la nhu (áo cánh bằng lụa) đưa tặng cho Nghi Hàng Phủ. Nghi Hàng Phủ bằng lòng lắm, từ bấy giờ đi lại rất thân mật; còn Khổng Ninh thì mỗi ngày một nhạt dần. Nghi Hàng Phủ vì Khổng Ninh khi trước đem cái cẩm đương khoe khoang với mình, nay được cái bích la nhu, lại đem khoe khoang với Khổng Ninh. Khổng Ninh hỏi chuyện Hà Hoa, biết là Nghi Hàng Phủ cùng với Hạ Cơ thân mật lắm, mới sinh lòng ghen ghét, tìm kế để phá đám, nghĩ thầm trong lòng rằng Chúa công ta ngày nay là người dâm dục, nghe đồn Hạ Cơ đẹp, vẫn có lòng ham muốn, đã nhiều lần nói đến, chỉ tiếc rằng cờ chẳng tới tay; chi bằng ta dắt Chúa công vào, Chúa công phải ơn ta. Vả Chúa công có bệnh hôi nách, chắc là Hạ Cơ cũng không bằng lòng cho lắm, bấy giờ ta thừa cơ mà hưởng chung cái cuộc vui thú, làm cho Nghi Hàng Phủ phải nhạt bớt đi một vài phần cho thỏa tấm lòng căm tức của ta, ấy chính là diệu kế đó! Khổng Ninh lẻn vào yết kiến riêng với Trần Linh công, nhân khi đàm luận, nói đến chuyện Hạ Cơ là người đẹp, thiên hạ không ai bằng; Trần Linh công nói: - Ta cũng nghe đồn từ lâu, nhưng năm nay chắc đã gần đến bốn mươi tuổi, ta chỉ e rằng hoa đào tháng ba còn gì là xuân nữa! Khổng Ninh nói: - Hạ Cơ khéo giữ nhan sắc lắm, năm nay vẫn còn như con gái mười tám tuổi. Bấy giờ lửa dục của Trần Linh công đã nổi lên đùng đùng, nét mặt đỏ bừng mà bảo Khổng Ninh rằng: - Nhà ngươi có kế gì khiến cho ta được đi lại với Hạ Cơ thì ta không dám quên công. Khổng Ninh nói: - Hạ Cơ nhà ở Châu Lâm. Chỗ ấy có nhiều cây cối, phong cảnh rất đẹp, sáng mai Chúa công giả cách ra chơi Châu Lâm, tất thế nào Hạ Cơ cũng phải nghênh tiếp. Hạ Cơ có một con thị nữ, tên gọi là Hà Hoa, người rất tinh quái, để tôi xin đem ý Chúa công bảo nó khéo nói với Hạ Cơ, chắc thế nào cũng êm chuyện. Trần Linh công cười mà bảo rằng: - Việc này ta chắc ở nhà ngươi đó! Ngày hôm sau, Trần Linh công truyền sắp xa giá ra chơi Châu Lâm, cho quan Đại phu là Khổng Ninh đi theo. Khổng Ninh sai người đưa tin trước cho Hạ Cơ để mà sửa tiệc sẵn, lại tỏ ý cho con Hà Hoa biết, bảo nói với Hạ Cơ. Trần Linh công đến Châu Lâm, Hạ Cơ mặc đồ lễ phục ra rước vào trong nhà, rồi sụp lạy mà tâu rằng: - Con trai thiếp là Hạ Trưng Thư đi trọ học vắng nhà, không biết Chúa công tới đây, vậy nên không kịp nghênh tiếp, xin Chúa công tha lỗi. Tiếng nói của Hạ Cơ thỏ thẻ như chim oanh, nghe rất êm tai! Trần Linh công trông thấy nét mặt Hạ Cơ, chẳng khác gì một vị thiên tiên, trong bọn phi tần, ít người ví nổi, mới bảo Hạ Cơ rằng: - Thôi ta miễn lễ cho quý nương, ta nghe nói quý nương ở đây có cái vườn hoa đẹp, vậy ta muốn vào xem một chút. Hạ Cơ nói: - Từ khi phu quân thiếp tạ thế đi rồi, cái vườn này bỏ hoang không ai quét dọn, thiếp xin cáo tội trước với Chúa công. Hạ Cơ ứng đối rất lưu loát. Trần Linh công càng thêm có lòng yêu mến, truyền cho Hạ Cơ cởi bỏ lễ phục ra, để đưa vào ngoạn cảnh ở vườn hoa. Hạ Cơ cởi bỏ lễ phục ra, trong mình lại có một bộ áo rất nhã đạm, trông khác nào như đóa lê hoa ở dưới bóng trăng, chùm mai nhị ở trong đám tuyết, ưa nhìn biết dường nào! Hạ Cơ đưa Trần Linh công vào chốn hậu viên. Trong vườn dẫu chẳng lấy gì làm rộng cho lắm, nhưng có đủ hoa tươi đá lạ, cây đẹp cỏ thơm, một dòng nước chảy quanh, mấy gian nhà thủy tạ, khoảng giữa lại có một cái hiên cao, tức là chỗ yến khách. Hai đầu có hai dẫy nhà, lối đi thông vào nơi nội tẩm. Phía trong nữa có một cái chuồng ngựa; còn về phía tây vườn có một chỗ đất bỏ không, để làm chỗ tập bắn. Trần Linh công còn đang ngoạn cảnh thì trong hiên đã bày một bàn thịnh soạn. Hạ Cơ bưng chén rượu đứng mời. Trần Linh công cho ngồi hầu ở bên cạnh, Hạ Cơ khiêm nhượng không dám vào ngồi! Trần Linh công nói: - Có lẽ nào chủ nhân lại không ngồi! Thôi thì hôm nay ta hãy miễn lễ vua tôi cho, cứ ngồi lại uống rượu cho vui. Trần Linh công truyền cho Khổng Ninh ngồi bên hữu, Hạ Cơ ngồi bên tả. Trong khi uống rượu, Trần Linh công cứ nhìn Hạ Cơ chòng chọc, con mắt không hề thấy chớp. Hạ Cơ cũng liếc mắt đưa tình. Trần Linh công nhân lúc tửu hứng, lại càng si tình, ngồi ngẩn người ra. Khổng Ninh ở bên cạnh tán tụng thêm vào, thành ra mềm môi uống mãi, không biết bao nhiêu mà kể! Mặt trời đã lặn về tây, người nhà thắp nến, lại uống một chập nữa. Trần Linh công say quá, nằm gục xuống đấy mà ngủ, tiếng ngáy khè khè. Khổng Ninh bảo riêng Hạ Cơ rằng: - Chúa công nghe tiếng quý nương là người đẹp, ngày nay tới đây, muốn cùng quý nương giao hoan, quý nương chớ có trái ý. Hạ Cơ mỉm cười, không nói gì cả. Khổng Ninh tức khắc truyền cho quân sĩ đều ra ngoài yên nghỉ. Hạ Cơ sửa soạn các đồ gối thêu mền gấm, lại tắm gội sạch sẽ để chờ khi vua ngự. Bấy giờ chỉ để có một con thị nữ là Hà Hoa đứng hầu ở cạnh Trần Linh công. Được một lúc, Trần Linh công tỉnh rượu mở mắt nhìn, trông thấy Hà Hoa liền hỏi: - Ai đấy? Hà Hoa quỳ xuống mà tâu rằng: - Tiện tỳ tên gọi Hà Hoa, phụng mệnh chủ mẫu cho tôi ra đây hầu hạ Chúa công. Nói xong, liền dâng một chén nước mai thang để giã rượu. Trần Linh công hỏi: - Nước mai thang này, ai nấu mà khéo nhỉ? Hà Hoa nói: - Tâu Chúa công, tiện tỳ nấu đó. Trần Linh công nói: - Nhà ngươi biết nấu mai thang, vậy thì nhà ngươi có làm mối giúp ta được hay không? Hà Hoa giả cách không hiểu mà đáp rằng: - Tiện tỳ dẫu không quen làm mối, nhưng cũng xin hết lòng, chẳng hay Chúa công bằng lòng ai. Trần Linh công nói: - Ta vì chủ mẫu nhà ngươi mà ruột gan rối loạn. Nếu nhà ngươi giúp ta được thì ta sẽ trọng thưởng. Hà Hoa nói: - Chủ mẫu tôi phận hèn, sợ không đáng hầu quý nhân, nếu Chúa công có lòng nghĩ đến thì tiện tỳ xin đưa vào. Trần Linh công mừng lắm, sai Hà Hoa cầm đèn lồng để đưa đường. Đường đi khuất khúc, rồi vào đến phòng Hạ Cơ. Hạ Cơ đang ngồi một mình ở dưới bóng đèn, ngẩn ngơ chờ đợi, bỗng nghe xịch có tiếng giày, toan hỏi xem ai thì Trần Linh công đã bước vào đến trong cửa. Hà Hoa cầm đèn quay ra. Trần Linh công không nói năng gì cả, cởi áo đi nằm, rờ tay vào da Hạ Cơ, mát lạnh cả người. Trong khi giao hợp, chẳng khác gì khuê nữ. Trần Linh công thấy lạ, liền hỏi. Hạ Cơ nói: - Thiếp có một phép lạ, dẫu khi sinh dục cũng chẳng qua chỉ trong ba ngày thì đã lại hoàn nguyên như cũ. Trần Linh công khen rằng: - Ta được gặp quý nương chẳng khác gì được gặp một vị thần tiên trên trời! Sức khỏe của Trần Linh công đã không bằng Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, lại có bệnh hôi nách, chỉ vì là ông vua một nước, vậy nên Hạ Cơ cũng hám lợi mà không quản ngại. Trần Linh công thấy vậy, lấy làm một sự gặp gỡ ít có! Gần đến gà gáy, Hạ Cơ giục Trần Linh công trở dậy, Trần Linh công nói: - Ngày nay ta được cùng với Ái khanh giao hợp, ta nghĩ trong bọn phi tần không khác gì đất bùn. Chẳng hay Ái khanh có nghĩ đến ta chút nào chăng? Hạ Cơ ngờ Trần Linh công đã biết việc Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đi lại với mình, mới nói với Trần Linh công rằng: - Xin thú thực cùng Chúa công, từ khi phu quân thiếp tạ thế rồi, thiếp không thể ngăn cấm được dục tình, cũng có đi lại với người khác, nay đã được hầu hạ Chúa công thì từ đây trở đi, thiếp không dám tiếp ai nữa! Trần Linh công nói: - Ái khanh xưa nay giao tiếp những ai, nên kể thực cho ta biết, can chi mà phải giấu giếm! Hạ Cơ nói: - Hai quan đại phu Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vì cớ đi lại trông nom cho con nhỏ của thiếp, thành ra dan díu, ngoài ra không có một ai. Trần Linh công cười mà bảo rằng: - Thảo nào mà Khổng Ninh cứ khen Ái khanh. Nếu chưa trải qua, sao có biết được. Hạ Cơ nói: - Tiện thiếp biết tội đã nhiều, xin Chúa công thứ cho. Trần Linh công nói: - Khổng Ninh có cái công tiến dẫn Ái khanh, ta còn nhớ ơn, Ái khanh chớ ngại. Ta chỉ ước ao được cùng Ái khanh đi lại lâu dài, còn thì mặc ý Ái khanh, ta chẳng cấm làm gì! Hạ Cơ nói: - Nếu mà Chúa công cứ thường thường đi lại thì có khó gì chẳng được lâu dài với nhau. Trần Linh công trở dậy, Hạ Cơ cởi cái áo lót mình mặc vào cho Trần Linh công mà nói rằng: - Chúa công trông thấy cái áo này cũng như trông thấy tiện thiếp. Hà Hoa lại cầm đèn lồng đưa Trần Linh công theo lối cũ ra chỗ hiên trước. Sáng hôm sau, Hạ Cơ mời Trần Linh công lên nhà trên ngự cơm sáng. Cơm xong, Khổng Ninh lại theo Trần Linh công về triều. Các quan triều thần đều họp cả ở triều môn để chờ đợi. Trần Linh công truyền cho miễn triều, rồi đi thẳng vào trong cung. Nghi Hàng Phủ nắm lấy áo Khổng Ninh, cố hỏi xem tối hôm trước Trần Linh công ngủ ở đâu. Khổng Ninh không thể giấu được, mới phải nói thật cả. Nghi Hàng Phủ biết là Khổng Ninh tiến dẫn, mới giẫm chân xuống đất mà gắt rằng: - Món nhân tình tốt như thế mà sao lại để nhường cho Chúa công hưởng một mình! Khổng Ninh nói: - Chúa công lấy làm đắc ý lắm! Nhưng khi nào chúng ta mất phần được mà lo! Hai người cười sằng sặc rồi trở về. Ngày hôm sau, Trần Linh công ra triều, đợi lúc các quan tan về cả, mới gọi Khổng Ninh đến trước mặt mà tạ ơn tiến dẫn Hạ Cơ, lại gọi Nghi Hàng Phủ vào mà hỏi rằng: - Có cái thú như thế mà không tâu với ta, hai người lại hưởng trước là nghĩa làm sao? Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đồng thanh mà tâu rằng: - Thần đẳng quả không có gì cả! Trần Linh công nói: - Chính Hạ Cơ đã thú với ta như vậy, các người lại còn giấu giếm gì! Khổng Ninh nói: - Thí dục như một món ăn, bày tôi phải nếm trước, nếu nếm mà không thấy ngon thì không dám tiến dâng. Trần Linh công cười mà bảo rằng: - Thí dụ như món chân gấu thì nhường cho ta ăn trước, cũng được chớ sao? Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đều bưng miệng cười, Trần Linh công lại nói: - Ta cùng hai ngươi dẫu đều đi lại với nàng, nhưng nàng có tặng riêng ta một vật để làm kỷ niệm. Nói xong, liền vạch cái áo lót mình cho Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ xem và bảo rằng: - Hạ Cơ cho ta đây, hai ngươi có thế này không? Khổng Ninh nói: - Tôi cũng có! Trần Linh công hỏi: - Nàng tặng cho nhà ngươi cái gì? Khổng Ninh vén áo, trông thấy cái cẩm đương, rồi nói với Trần Linh công rằng: - Hạ Cơ tặng cho tôi đây! Chẳng những tôi có, mà Nghi Hàng Phủ cũng có. Trần Linh công lại hỏi Nghi Hàng Phủ. Nghi Hàng Phủ cởi cái bích la nhu đưa Trần Linh công. Trần Linh công bật cười mà nói rằng: - Ba ta người nào cũng đều có một vật đem tùy thân để làm tang chứng; ngày khác đi ra Châu Lâm, có thể cùng quần với nhau ở trong một giường được. Một vua và hai bày tôi đùa bỡn nhau ở chốn triều đường, tiếng đồn đến ngoài, làm cho một người bày tôi trung thực phải nghiến răng nghiến lợi mà kêu lên rằng: - Triều đình là một nơi hành chính mà nhảm nhí như vậy thì còn gì mà không mất nước! Nói xong liền đi thẳng vào triều để định can Trần Linh công.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  4. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 53 Sở Trang Vương trả lại đất Trần Tấn Cảnh công đem quân cứu Trịnh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đem những đồ vật của Hạ Cơ tặng cho, đùa bỡn với nhau ở chốn triều đường. Quan Đại phu là Tiết Giã nghe nói, liền vào triều để định can Trần Linh công. Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vốn sợ Tiết Giã là người chính trực, nay thấy không triệu mà tự nhiên đến, biết là có ý muốn đem lời ngăn bảo, mới cáo từ với Trần Linh công mà lui ra. Trần Linh công cũng đứng dậy, toan trở vào trong cung. Tiết Giã bước rảo đến trước mặt, nắm lấy vạt áo Trần Linh công rồi quỳ xuống mà tâu rằng: - Tôi nghe nói vua tôi phải có lễ phép, trai gái phải có phân biệt, nay vua tôi cùng đùa bỡn ở chốn triều đường, nói những chuyện dâm loạn, chẳng còn ra thể thống nào cả, như vậy thì tài nào mà không mất nước, xin Chúa công nghĩ lại. Trần Linh công thẹn toát mồ hôi ra, lấy áo che mặt mà bảo rằng: - Nhà ngươi bất tất phải nói lắm, ta đã biết hối rồi! Tiết Giã cáo từ lui ra, Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đứng ở ngoài cửa, trông thấy Tiết Giã đang hầm hầm nổi giận mà lui ra, mới lẩn vào trong đám đông người để tránh Tiết Giã. Tiết Giã trông thấy, gọi Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại mà trách rằng: - Vua có điều thiện, bày tôi nên bày ra, vua có điều bất thiện, bày tôi nên giấu đi. Nay hai người đã xui vua làm điều bất thiện, mà lại còn tuyên bố ra để khiến cho nhân dân ai cũng biết cả, thế thì còn ra thể thống gì, sao hai ngươi không biết xấu hổ! Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ không biết nói sao cho được, chỉ vâng dạ xin lỗi. Tiết Giã đi khỏi, Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại vào yết kiến Trần Linh công, thuật lại những lời nói của Tiết Giã và tâu với Trần Linh công rằng: - Từ nay trở đi Chúa công chớ đi chơi Châu Lâm nữa! Trần Linh công nói: - Vậy thì hai ngươi có đi nữa hay không? Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nói: - Tiết Giã chỉ cốt can Chúa công, chứ có việc gì đến chúng tôi. Vậy nên chúng tôi đi được, mà Chúa công không nên đi. Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại tâu rằng: - Nếu Chúa công lại đi nữa thì chúng tôi e rằng Tiết Giã nói không ra thế nào! Trần Linh công nói: - Hai ngươi có kế gì mà khiến cho Tiết Giã đừng nói nữa không? Khổng Ninh nói: - Nếu muốn cho Tiết Giã đừng nói thì chỉ có dùng một cách mà khiến cho hắn mở miệng ra không được. Trần Linh công cười mà nói rằng: - Hắn có miệng thì hắn nói, ta dùng cách gì mà cấm được hắn? Nghi Hàng Phủ nói: - Tôi hiểu câu nói của Khổng Ninh rồi! Người ta chết thì không mở miệng được, sao Chúa công chẳng hạ lệnh giết chết Tiết Giã đi thì có phải được vui thú suốt đời hay không! Trần Linh công nói: - Ta giết thế nào được! Khổng Ninh nói: - Hay là để tôi sai một người rình mà đâm chết đi? Trần Linh công nói: - Nhà ngươi cứ làm! Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ cáo từ lui ra, rồi bàn nhau đem tiền của thuê thích khách rình ở những nơi hẻo lánh, chờ khi Tiết Giã vào triều thì đón mà giết đi. Người nước Trần thấy vậy, cho là Trần Linh công sai người giết, chứ không biết cái mưu của Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ. Từ khi Tiết Giã chết rồi, Trần Linh công không sợ hãi ai nữa, thường thường cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ ra chơi Châu Lâm. Trước còn giấu giếm, sau lâu ngày quen thói, cũng chẳng nghĩ gì đến tai tiếng. Người nước Trần có làm một bài thơ "Châu Lâm" để chê Trần Linh công. Hạ Trưng Thư dần dần khôn lớn, biết chuyện người mẹ như vậy, trong lòng khác nào như bị dao đâm, chỉ ngại có Trần Linh công, không biết làm ra thế nào. Mỗi khi Trần Linh công sắp ra Châu Lâm thì lại giả cách tạ sự đi vắng, để cho khuất mắt; còn bọn trai dâm loạn ấy cũng nhân được Hạ Trưng Thư đi vắng thì lấy làm mừng. Thời giờ thấm thoát, ngày tháng thoi đưa, Hạ Trưng Thư đã mười tám tuổi, cao lớn đẹp đẽ, có sức khỏe, lại giỏi nghề bắn cung. Trần Linh công muốn lấy lòng Hạ Cơ mới cho Hạ Trưng Thư nối chức của cha làm quan tư mã, coi giữ binh quyền. Hạ Trưng Thư tạ ơn, rồi vào bái yết Hạ Cơ. Hạ Cơ dặn rằng: - Đấy là ân điển của Chúa công cho con đó! Con nên một lòng vì nước, chớ nghĩ đến việc nhà. Hạ Trưng Thư từ biệt Hạ Cơ vào triều cung chức. Một hôm, Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại ra chơi Châu Lâm. Hạ Trưng Thư cảm cái ơn được làm tư mã, về nhà bày tiệc để thết đãi. Hạ Cơ vì có con ở đấy, không dám ra hầu rượu. Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trong khi say rượu, cười nói đùa bỡn, múa tay hoa chân. Hạ Trưng Thư trông thấy, nghĩ mà sinh chán, lại đem lòng ghét, mới lui vào sau cái bình phong để đứng nghe xem thế nào. Trần Linh công bảo Nghi Hàng Phủ rằng: - Hạ Trưng Thư cao lớn đẹp đẽ, trông giống nhà ngươi lắm, hay là con rơi của nhà ngươi đấy? Nghi Hàng Phủ cười mà nói rằng: - Hạ Trưng Thư hai mắt trông lau láu rất giống Chúa công. Khổng Ninh ở bên cạnh nói bông rằng: - Chúa công và Nghi Hàng Phủ hãy còn ít tuổi, sinh thế nào được hắn, vì mẹ hắn đa tình, tôi chắc hắn là giống tạp chủng, dẫu mẹ hắn cũng không nhớ được là con của ai! Nói xong ba người lại vỗ tay cười ầm lên. Hạ Trưng Thư nghe nói, hổ thẹn vô cùng, tức thì hầm hầm nổi giận, vào khóa chặt cửa phòng của Hạ Cơ lại, rồi lén qua cửa ngang ra ngoài, truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh phủ, không được để cho Trần Linh công cùng Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ chạy ra. Quân sĩ vâng lệnh, vây kín xung quanh phủ. Hạ Trưng Thư mình mặc áo nhung trang, tay cầm thanh bảo kiếm, đem một toán quân tiến vào cửa giữa, quát to lên rằng: - Mau mau bắt lũ dâm tặc! Trần Linh công đang cười nói khề khà, chẳng biết tí gì cả. Khổng Ninh nghe tiếng, vội vàng nói với Trần Linh công rằng: - Nguy cấp lắm rồi! Hạ Trưng Thư đánh lừa ta rồi! Nay đem quân vào tới đây kêu bắt dâm tặc, ta biết chạy đường nào cho thoát. Nghi Hàng Phủ nói: - Cửa trước nó đã vây kín thì ta chạy về cửa sau. Ba người xưa nay ở nhà Hạ Cơ đã thông thuộc cả đường lối. Trần Linh công định chạy vào phòng Hạ Cơ, để cầu Hạ Cơ cứu cho. Chẳng ngờ khi vào đến nơi, thấy cửa phòng đã khóa chặt, lại càng sợ hãi, liền chạy ra sau vườn. Hạ Trưng Thư cầm kiếm đuổi theo. Trần Linh công nhớ rằng ở bên cạnh chuồng ngựa có cái tường thấp có thể nhảy qua được, mới chạy về phía chuồng ngựa. Hạ Trưng Thư quát to lên rằng: - Hôn quân kia! Mày chạy đường nào cho thoát! Hạ Trưng Thư giương cung bắn ngay một phát, nhưng bắn không trúng. Trần Linh công chạy vào chuồng ngựa, toan tìm chỗ ẩn thân, chẳng may bị đàn ngựa cắn đá, vội vàng lui ra. Hạ Trưng Thư đuổi kịp đến nơi, lại bắn thêm một phát nữa, trúng vào giữa bụng Trần Linh công. Trần Linh công chết ở cạnh chuồng ngựa. Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trông thấy Trần Linh công chạy về phía đông, biết là Hạ Trưng Thư tất nhiên đuổi theo, mới quay về phía tây chạy vào trường tập bắn, tìm chỗ rào thủng chui ra được, không dám về nhà, rủ nhau trốn sang nước Sở. Hạ Trưng Thư bắn chết Trần Linh công, rồi kéo quân vào thành, nói dối là Trần Linh công say rượu ngộ cảm mà chết, lập Thế tử Ngọ lên nối ngôi, tức là Trần Thành công. Trần Thành công trong lòng căm tức Hạ Trưng Thư, nhưng sức không làm gì nổi, vậy phải ẩn nhẫn không dám nói ra; Hạ Trưng Thư cũng sợ các nước chư hầu đem quân đến hỏi tội mình, mới cố ép Trần Thành công phải sang giảng hòa với nước Tấn. Lại nói chuyện sứ nước Sở phụng mệnh Sở Trang Vương sang hẹn Trần Linh công đến hội ở đất Thần Lăng. Khi sang chưa đến nước Trần nghe tin có loạn, mới quay trở về; lại vừa gặp Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trốn sang nước Sở, vào yết kiến Sở Trang Vương, giấu kín những chuyện vua tôi dâm loạn, chỉ nói việc Hạ Trưng Thư làm phản giết Trần Linh công cũng giống như lời nói của sứ Sở về báo khi trước. Sở Trang Vương mới họp các quan triều thần lại để thương nghị. Bấy giờ nước Sở có quan đại phu tên gọi Khuất Vu, tên tự là Tử Linh (con Khuất Đãng). Khuất Vu mặt mũi khôi ngô, văn vũ toàn tài, chỉ phải có một bệnh đa tình, vẫn chuyên học "phòng trung bí thuật" của ông Bành Tổ; mấy năm trước sang sứ Trần, gặp Hạ Cơ đi chơi, trông thấy người đẹp, lại nghe đồn nghề chơi có nhiều cách lạ, bởi vậy trong lòng đã nay ước mai ao. Đến lúc nghe nói Hạ Trưng Thư làm phản, Khuất Vu muốn nhân việc ấy để mà sang lấy Hạ Cơ, mới cố khuyên Sở Trang Vương đem quân sang đánh Trần. Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao cũng nói là Hạ Trưng Thư nước Trần nên đánh. Sở Trang Vương mới đưa một đạo hịch cho nước Trần. Trong đạo hịch nói như sau: "Vua Sở có lời biểu thị cho người nước Trần biết: Hạ Trưng Thư có tội giết vua, quỷ thần và người đều tức giận cả, nước ngươi không đánh được, vậy ta phải đem quân đánh hộ nước ngươi. Tội ai thì người ấy chịu! Quân dân nước Trần nên phải một lòng yên lặng, không được náo động". Người nước Trần trông thấy đạo hịch ấy, ai cũng đổ lỗi cho Hạ Trưng Thư, mà muốn nhờ tay nước Sở giết đi, đều không có ý chống cự với quân Sở. Sở Trang Vương cùng với các tướng là: Công tử Anh Tề, công tử Trắc và Khuất Vu đem đại binh kéo thẳng đến kinh thành nước Trần, chẳng có ai chống cự lại cả. Hạ Trưng Thư biết người trong nước oán mình, trốn ra Châu Lâm. Bấy giờ Trần Thành công còn đang ở nước Tấn chưa về, quan đại phu là Viên Pha (cháu bốn đời Viên Đào Đồ) cùng với các quan triều thần thương nghị rằng: - Vua nước Sở đem quân sang đây, chỉ cốt để trị tội Hạ Trưng Thư; chi bằng ta bắt Hạ Trưng Thư đem nộp vua Sở rồi xin giảng hòa. Các quan triều thần đều lấy làm phải. Viên Pha liền sai con là Kiều Như đem quân tới Châu Lâm để bắt Hạ Trưng Thư. Kiều Như chưa kịp đi thì quân Sở đã kéo đến dưới chân thành. Nước Trần lâu nay, chính lệnh không ra gì. Vả Trần Thành công đi vắng, không ai làm chủ, dân nước Trần mới mở cửa thành cho quân Sở vào. Sở Trang Vương kéo quân vào hỏi bọn Viên Pha rằng: - Hạ Trưng Thư ở đâu? Viên Pha nói: - Hiện nay ở Châu Lâm. Sở Trang Vương lại hỏi: - Sao các quan triều thần ở nước ngươi lại dung túng cho Hạ Trưng Thư mà không trị tội. Viên Pha nói: - Không phải là chúng tôi không muốn trị tội, nhưng thế không làm gì nổi. Sở Trang Vương liền sai Viên Pha đi dẫn đường rồi đem đại binh tiến sang Châu Lâm, để công tử Anh Tề đóng một toán quân ở trong thành. Hạ Trưng Thư đang thu thập gia tài, định đem mẹ là Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh, nhưng chưa kịp đi thì quân Sở vây kín Châu Lâm, bắt Hạ Trưng Thư. Sở Trang Vương không thấy Hạ Cơ đâu cả, sai tướng sĩ lục tìm thì bắt được ở sau vườn; còn Hà Hoa không biết trốn đi đâu mất. Hạ Cơ sụp lạy Sở Trang Vương mà tâu rằng: - Thiếp chẳng may gặp cơn nước nhà suy biến, phận liễu bồ sống chết ở trong tay đại vương; nếu đại vương rộng lượng mà rủ lòng thương thì xin cho thiếp được sung vào làm kẻ tỳ dịch. Hạ Cơ nét mặt đã tươi đẹp, lại dịu dàng. Sở Trang Vương trông thấy tâm thần mê mẩn, bảo các tướng rằng: - Các phi tần nước Sở ta dẫu nhiều, nhưng chưa ai đẹp bằng Hạ Cơ, ta muốn đem về cung, các ngươi nghĩ thế nào? Khuất Vu can rằng: - Đại vương đem quân sang đây là cốt để trị kẻ có tội, nếu lấy Hạ Cơ thì thành ra người tham sắc, sao gọi là bá chủ được. Sở Trang Vương nói: - Tử Linh (tên tự của Khuất Vu) nói phải lắm, ta không dám lấy nữa! Nhưng người đàn bà này là một giống vưu vật, nếu để mắt ta trông thấy thì ta khó lòng nhịn được. Sở Trang Vương truyền cho quân sĩ đuổi Hạ Cơ đi. Bấy giờ công tử Trắc đứng ở bên cạnh, cũng mê sắc đẹp của Hạ Cơ, lại thấy Sở Trang Vương không dùng, mới quỳ xuống mà tâu rằng: - Tôi chẳng may góa vợ, xin đại vương cho tôi. Khuất Vu lại can rằng: - Đại vương không nên cho. Công tử Trắc giận lắm, nói: - Tử Linh không bằng lòng cho ta lấy Hạ Cơ là bởi cớ sao? Khuất Vu nói: - Người đàn bà ấy là một vật bất tường ở trong trời đất, cứ những điều tôi đã biết mà nói thì công tử Man và Hạ Ngự Thúc chính cũng vì nó mà chết non, vua Trần và Hạ Trưng Thư vì nó mà bị giết. Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vì nó mà phải chạy trốn, nước Trần cũng vì nó mà phải tan nát, xem thế thì biết là bất tường, thiên hạ thiếu gì người đẹp mà lại lấy như thế, đến nỗi di họa về sau! Sở Trang Vương nói: - Cứ như lời Tử Linh nói thì ta cũng lấy làm sợ lắm. Công tử Trắc lại bảo Khuất Vu rằng: - Nếu vậy thì chịu thôi, tôi cũng không dám! Nhưng nhà ngươi bảo đại vương không nên lấy, và tôi không nên lấy, vậy thì nhà ngươi tưởng cũng không nên lấy. Khuất Vu nói luôn mấy câu rằng: - Tôi chịu thôi! Tôi chịu thôi! Sở Trang Vương nói: - Nếu để vô chủ thì tất nhiên có người tranh. Ta nghe nói Tương Lão mới rồi vợ chết, âu là ta cho Tương Lão lấy làm vợ kế. Bấy giờ Tương Lão cũng đem quân theo Sở Trang Vương, ở toán hậu đội. Sở Trang Vương triệu đến, gả Hạ Cơ cho. Hai vợ chồng cùng nhau lạy tạ Sở Trang Vương rồi lui ra. Khuất Vu can Sở Trang Vương và công tử Trắc không nên lấy Hạ Cơ là có ý muốn giữ phần cho mình, nay thấy Sở Trang Vương đem gả cho Tương Lão, cũng có ý tiếc, nhưng nghĩ thầm trong lòng rằng: Tương Lão chịu nổi Hạ Cơ thế nào được, chẳng qua chỉ trong năm sáu tháng, một năm thì Hạ Cơ cũng lại góa chồng mà thôi! Bấy giờ ta sẽ định liệu. Sở Trang Vương đóng đô ở Châu Lâm một đêm rồi trở về kinh thành nước Trần. Công tử Anh Tề đón vào trong thành. Sở Trang Vương truyền đem Hạ Trưng Thư ra cửa thành mà phân thây, theo lối Tề Tương Công xử tội Cao Cừ Di ngày trước. Sở Trang Vương trị tội Hạ Trưng Thư rồi, thu hết những bản đồ nước Trần, lập làm một huyện của nước Sở, cho công tử Anh Tề làm quan trấn thủ, để quản trị dân nước Trần, còn bọn Viên Pha, đều bắt đem về nước Sở cả. Các nước phụ thuộc của nước Sở ở nam phương nghe tin Sở Trang Vương diệt được nước Trần, đều đến triều hạ, chỉ có quan đại phu nước Sở là Thân Thúc Thời đi sứ nước Tề chưa về (bấy giờ Tề Huệ công mất, thế tử Vô Giả lên nối ngôi, tức là Tề Khoảnh công. Tề và Sở vẫn giao hiếu với nhau, bởi vậy Sở Trang Vương mới sai Thân Thúc Thời sang viếng vua cũ và mừng vua mới) ; đến lúc về, thấy Sở Trang Vương diệt được nước Trần mà không chúc mừng câu nào cả. Sở Trang Vương sai nội thị ra trách mắng Thân Thúc Thời rằng: - Hạ Trưng Thư vô đạo giết vua, ta đem quân sang hỏi tội, thu được bản đồ nước Trần, các nước phụ thuộc của ta đều đến triều hạ cả, mà nhà ngươi chẳng nói gì đến hay có ý cho việc ta đánh Trần là không phải chăng? Thân Thúc Thời nói: - Có một người dắt trâu đi tắt qua ruộng người ta, giẫm nát cả lúa má, người chủ có ruộng giận lắm, cướp lấy trâu. Như cái kiện ấy mà đến tai đại vương thì đại vương định xử ra làm sao? Sở Trang Vương nói: - Dắt trâu giẫm lúa, dẫu tổn hại cũng chẳng là bao nhiêu, mà lại cướp lấy trâu thì chẳng cũng quá lắm ru! Nếu ta xử cái kiện ấy phạt nhẹ đứa dắt trâu mà trả trâu cho nó, nhà ngươi nghĩ có phải không? Thân Thúc Thời nói: - Sao đại vương xử kiện thì minh như thế mà xử với nước Trần thì lại tối như vậy! Hạ Trưng Thư có tội giết vua, cũng chưa đến nỗi đáng mất nước; đại vương trị tội hắn là đủ, nay lại diệt nước Trần thì khác nào như chuyện cướp trâu, còn mừng về nỗi gì! Sở Trang Vương nói: - Nhà ngươi nói phải lắm! Thân Thúc Thời nói: - Đại vương đã cho lời tôi nói làm phải thì sao không bắt chước việc trả trâu lại cho người ta? Sở Trang Vương tức khắc triệu quan đại phu nước Trần là Viên Pha vào mà hỏi rằng: - Hiện nay vua nước Trần đi đâu? Viên Pha nói: - Khi trước ở nước Tấn, bây giờ không biết đi đâu? Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Sở Trang Vương động lòng thương xót mà bảo rằng: - Nay ta định trả lại nước cho nhà ngươi, nhà ngươi nên tìm đón vua Trần về, rồi một lòng thần phục nước Sở ta, chớ có quên cái ơn ấy. Sở Trang Vương lại triệu Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, tha cho về nước để cùng giúp vua Trần. Viên Pha dẫu biết là tai vạ nước Trần bởi tại Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, nhưng ở trước mặt Sở Trang Vương, không dám nói đến, chỉ cùng nhau lạy tạ rồi lui ra. Khi bọn Viên Pha gần ra khỏi địa giới nước Sở thì gặp Trần Thành công ở nước Tấn về, nghe tin nước nhà bị diệt, cũng toan sang để kêu với Sở Trang Vương. Viên Pha thuật lại cái lòng tử tế của Sở Trang Vương cho Trần Thành công nghe, rồi vua tôi cùng nhau trở về nước Trần. Quan trấn thủ nước Trần là công tử Anh Tề đã tiếp được thư của Sở Trang Vương triệu về nước Sở, mới đem bản đồ nước Trần giao trả lại cho Trần Thành công. Khổng Ninh về nước chưa được một tháng, nhiều khi ban ngày trông thấy Hạ Trưng Thư đến bắt đền mạng rồi thành ra bệnh điên cuồng, nhảy xuống ao mà chết. Đêm hôm Khổng Ninh chết, Nghi Hàng Phủ cũng nằm mộng thấy Trần Linh công, Khổng Ninh và Hạ Trưng Thư, ba người cùng đến bắt Nghi Hàng Phủ. Nghi Hàng Phủ cũng kinh sợ mà chết tươi, đó là những sự quả báo của đứa dâm loạn! Công tử Anh Tề về đến nước Sở vào yết kiến Sở Trang Vương. Sở Trang Vương nói: - Ta đã trả lại nước Trần rồi, sẽ xin đền cho nhà ngươi chỗ khác. Công tử Anh Tề xin khu ruộng ở đất Thân và đất Lã. Sở Trang Vương toan thuận cho. Khuất Vu liền nói với Sở Trang Vương rằng: - Đất Thân và đất Lã là một nơi trọng yếu, nước Sở ta dùng để chống giữ với nước Tấn, không nên đem thưởng cho ai cả. Sở Trang Vương mới thôi, không cho công tử Anh Tề nữa. Đến lúc Thân Thúc Thời cáo lão, Sở Trang Vương đem đất Thân phong cho Khuất Vu. Khuất Vu chẳng từ chối mà nhận ngay. Công tử Anh Tề vì thế thành ra hiềm khích với Khuất Vu. Sở Trang Vương thấy nước Trần dẫu thần phục mình, nhưng còn nước Trịnh vẫn theo nước Tấn, mới cùng các quan triều thần thương nghị việc đánh Trịnh. Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao nói với Sở Trang Vương rằng: - Ta đánh Trịnh thì nước Tấn tất đến cứu, vậy phải đem đại binh đi mới được. Sở Trang Vương liền cử đại binh tiến sang đánh Trịnh. Tương Lão đi theo làm tiền bộ. Viên phó tướng thuộc toán quân của Tương Lão tên là Đường Giao xin với Tương Lão rằng: - Trịnh là một nước nhỏ, bất tất phải phiền đến đại binh, tôi xin đem thủ hạ một trăm người để mở đường đi trước. Tương Lão khen mà cho đi. Đường Giao cố sức xông pha đi trước, quân nước Trịnh không ai đương nổi, vì thế mà đại binh của Sở Trang Vương tiến thẳng được đến địa giới nước Trịnh. Sở Trang Vương thấy quân tiền bộ, đi được nhanh chóng như vậy, mới khen Tương Lão rằng: - Ta không ngờ nhà ngươi đã già mà còn mạnh mẽ lắm! Tương Lão nói: - Đó không phải là công tôi, nhờ có viên phó tướng là Đường Giao cố sức, mới được vậy! Sở Trang Vương triệu Đường Giao đến, toan trọng thưởng. Đường Giao nói: - Tôi chịu ơn đại vương to lắm, ngày nay gọi chút báo đền, có đâu lại dám lĩnh thưởng. Sở Trang Vương ngạc nhiên mà hỏi rằng: - Ta có biết nhà ngươi bao giờ mà nhà ngươi bảo là chịu ơn ta? Đường Giao nói: - Trong tiệc rượu dứt giải mũ mà có người nắm vạt áo Hứa Cơ, tức là tôi đó! Đại vương rộng lượng tha mà không giết, vậy nên tôi phải cố sức để báo đền. Sở Trang Vương nói: - May làm sao! Giả sử bấy giờ ta thắp nến lên để trị tội thì sao bây giờ lại có người vì ta mà cố sức như vậy! Sở Trang Vương truyền ghi lấy công Đường Giao để đợi khi đánh Trịnh xong trở về thì sẽ trọng dụng. Đường Giao nói chuyện với mọi người rằng: - Tội ta đáng chết mà đại vương không giết, vậy nên ta cố sức để báo đền, nay đã nói rõ ra rồi, chẳng lẽ ta là người có tội mà ngày sau lại để cho đại vương trọng dụng mình hay sao! Đêm hôm ấy Đường Giao tức khắc bỏ trốn, không biết đi đâu mất. Sở Trang Vương nghe nói khen rằng: - Đường Giao thật là một người liệt sĩ! Đại binh nước Sở vây thành nước Trịnh, cả thảy mười bảy ngày. Trịnh Tương công cậy có quân Tấn đến cứu, không chịu giảng hòa, quân sĩ chết hại nhiều lắm. Phía Đông Bắc thành nước Trịnh có một chỗ lở hơn mười trượng, quân Sở sắp sửa trèo vào. Sở Trang Vương nghe trong thành có tiếng khóc rầm rĩ, động lòng thương xót, truyền cho quân sĩ hãy lui lại mười dặm. Công tử Anh Tề nói với Sở Trang Vương rằng: - Ta nên nhân lúc thành lở mà tiến vào, cớ sao lại lui quân? Sở Trang Vương nói: - Người nước Trịnh chỉ biết sợ uy ta, chưa biết mến đức ta nay ta lui quân là để tỏ cho nước Trịnh biết ta có lòng nhân đức. Trịnh Tương công thấy Sở lui quân, ngờ là nước Tấn đã đem quân đến cứu, mới chữa những nơi thành lở, rồi cố sức chống giữ. Sở Trang Vương biết là nước Trịnh không đầu hàng; lại tiến quân vây thành hơn ba tháng. Tướng nước Sở là Nhạc Bá, phá cửa thành tiến vào. Sở Trang Vương truyền cho quân sĩ không được nhiễu hại dân. Trịnh Tương công trần vai áo dắt đàn dê ra đón quân Sở mà xin lỗi rằng: - Tôi là kẻ ngu dại, không biết thần phục quý quốc, khiến cho đại vương nổi giận phải đem quân tới nước tôi; nay tôi biết tội đã nhiều, xin đại vương rộng lượng thương cho nước tôi làm nước phụ thuộc không đến nỗi tuyệt diệt thì nước tôi được đội ơn nhiều lắm. Công tử Anh Tề nói với Sở Trang Vương rằng: - Nước Trịnh cùng quá, mới chịu đầu hàng, nếu ta tha cho thì rồi lại làm phản, chi bằng ta diệt hẳn đi. Sở Trang Vương nói: - Nếu ngày nay ta diệt nước Trịnh mà Thân Thúc Thời hãy còn thì tất lại đem cái chuyện "cướp trâu giẫm lúa" mà cười ta đó. Sở Trang Vương truyền lui quân ba mươi dặm, rồi cho nước Trịnh giảng hòa. Trịnh Tương công thân hành đến đại dinh quân Sở xin ăn thề, và cho người em là công tử Khứ Tật sang ở làm tin. Sở Trang Vương truyền rút quân về đóng ở Diên Địa. Quân thám tử về báo với Sở Trang Vương rằng: - Nước Tấn cho Tuân Lâm Phủ làm chánh tướng. Tiên Cốc làm phó tướng, đem quân sang cứu Trịnh, hiện đã qua sông Hoàng Hà rồi. Sở Trang Vương hỏi các tướng rằng: - Quân Tấn sắp đến, nên về hay là nên đánh? Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao nói với Sở Trang Vương rằng: - Nước Trịnh chưa xin hòa thì ta nên đánh nhau với Tấn; nay Trịnh đã giảng hòa, ta lại còn sinh sự với Tấn làm gì nữa, chi bằng ta giữ cho toàn quân mà về. Có kẻ bế nhân là Ngũ Xâm tâu với Sở Trang Vương rằng: - Quan lệnh doãn nói thế là không phải! Nước Trịnh cho sức ta không bằng Tấn, vậy nên mới theo Tấn, nay quân Tấn đến mà ta rút về thì thật ta không bằng. Vả nước Tấn biết Trịnh theo Sở thì tất đánh Trịnh, vậy ta đánh Tấn để cứu Trịnh, chẳng cũng nên lắm ru! Tôn Thúc Ngao nói với Sở Trang Vương rằng: - Quân nước Sở ta, năm trước sang đánh Trần, năm nay sang đánh Trịnh, nhọc mệt lắm rồi, nếu nghe lời Ngũ Xâm mà đánh không được Tấn thì dẫu ăn thịt hắn, cũng không đáng cái tội của hắn vậy. Ngũ Xâm nói: - Nay đánh mà được thì quan lệnh doãn là người vô mưu, nếu đánh không được thì thịt Ngũ Xâm này tất bị quân Tấn ăn mất, còn đâu mà để phần người nước Sở. Sở Trang Vương liền hỏi ý tất cả các tướng, đưa cho mỗi người một cái bút để viết vào bàn tay: Ai định đánh thì viết chữ "Chiến", ai định lui thì viết chữ "Thoái". Các tướng viết xong, Sở Trang Vương sai mở bàn tay ra xem thì trong tay viết chữ "Thoái" chỉ có bốn người là: Quan trung quân nguyên soái Ngu Khâu, quan liên doãn Tương Lão, tỳ tướng Sái Cưu Cư và Bành Danh. Còn bọn Công tử Anh Tề, công tử Trắc, công tử Cốc Thần, Khuất Đãng, Phan Đảng, Nhạc Bá, Dưỡng Do Cơ, Hứa Bá, Hùng Phụ Bá và Hứa Yển hơn hai mươi người đều viết chữ "Chiến" cả. Sở Trang Vương nói: - Ngu Khâu là bậc lão thành, nay cùng với quan lệnh doãn hợp ý nhau, vậy thì lui quân về là phải. Sở Trang Vương truyền đến sáng mai thì rút quân về. Đêm hôm ấy, Ngũ Xâm xin vào yết kiến nói với Sở Trang Vương rằng: - Đại vương sợ gì nước Tấn mà lại phải bỏ nước Trịnh như vậy? Sở Trang Vương nói: - Khi nào ta lại bỏ nước Trịnh. Ngũ Xâm nói: - Quân Sở ta vây nước Trịnh ba tháng mới thu phục được nước Trịnh, nay quân Tấn đến mà ta rút về, khiến cho nước Tấn được công cứu nước Trịnh, thế thì chẳng phải ta bỏ nước Trịnh là gì? Sở Trang Vương nói: - Quan lệnh doãn bảo ta rằng đánh Tấn vị tất đã được, vậy nên ta phải bỏ. Ngũ Xâm nói: - Tôi đã tính trước cả rồi! Tuân Lâm Phủ nước Tấn mới lên làm trung quân nguyên soái, chưa có uy tín gì cho người ta phục; quan phó tướng là Tiên Cốc, nguyên là con Tiên Thả Cư, cháu Tiên Chẩn, cậy thế mấy đời có công, làm nhiều điều kiêu ngạo, xem thế thì các tướng nước Tấn, không đồng tâm với nhau, dẫu nhiều quân đến đâu, cũng có thể phá tan được. Vả đại vương làm vua một nước mà phải sợ các tướng nước Tấn, để cho thiên hạ người ta chê cười thì sao cho nước Trịnh chịu phục. Sở Trang Vương ngạc nhiên mà nói rằng: - Ta dẫu không khéo dùng quân, cũng chẳng chịu thua các tướng nước Tấn! Nói xong, liền sai người bảo quan lệnh doãn Tôn Thúc Ngao tiến binh đánh ở Quản Thành để đợi quân Tấn đến thì đánh.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  5. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 54 Sở Trang đuổi quân Tuân Lâm Phủ Ưu Mạnh đóng vai Tôn Thúc Ngao

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tấn Cảnh công nghe tin Sở Trang Vương thân hành đem quân sang đánh Trịnh, mới sai Tuân Lâm Phủ làm trung quân nguyên soái, Tiên Cốc làm phó nguyên soái, để đem quân sang cứu. Khi đi đến sông Hoàng Hà, có quân thám tử báo rằng: - Nước Trịnh bị nước Sở vây thành, đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, đã ra đầu hàng nước Sở rồi. Quân Sở đã sắp sửa rút về. Tuân Lâm Phủ triệu các tướng vào để hội nghị. Sĩ Hội nói: - Ta đã không kịp sang cứu, nay đánh nhau với Sở, cũng chẳng ra thế nào, chi bằng ta hãy rút về, rồi sau sẽ định liệu. Tuân Lâm Phủ khen phải, truyền rút quân về. Bỗng có một viên đại tướng đứng dậy can rằng: - Không nên! Nước Tấn ta làm bá chủ được chư hầu là vì biết bênh vực những kẻ hèn yếu, nay nước Trịnh đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, mới phải đầu hàng nước Sở; ta đánh được quân Sở thì nước Trịnh tất lại về với ta. Nếu ta bỏ nước Trịnh mà tránh quân Sở thì các nước nhỏ còn trông cậy về nỗi gì? Tôi chắc rằng nước Tấn ta không làm bá chủ được chư hầu nữa. Quan nguyên soái rút quân về thì tôi cũng xin đem thủ hạ của tôi ra tiến đánh một trận. Tuân Lâm Phủ nhìn xem ai thì tức là quan phó nguyên soái tên gọi Tiên Cốc, Tuân Lâm Phủ bảo Tiên Cốc rằng: - Vua nước Sở thân hành đem quân tới đây, binh nhiều tướng mạnh, nếu ta đem một toán quân sang đánh, khác nào như ném thịt vào miệng con hổ đói mà thôi, phỏng có ích gì! Tiên Cốc gầm thét lên mà rằng: - Nếu ta không đi thì khiến cho người ta bảo: Đường đường nước Tấn mà không có một người nào dám đánh, chẳng cũng xấu hổ lắm ru! Chuyến này ta đi, dẫu chết tại trận tiền, cũng còn được tiếng là người có chí khí. Tiên Cốc nói xong, tức khắc lui ra. Ra đến cửa dinh, gặp anh em Triệu Đồng và Triệu Quát, Tiên Cốc bảo Triệu Đồng và Triệu Quát rằng: - Quan nguyên soái sợ nước Sở, muốn rút quân về, chỉ một mình ta quyết đem quân sang đánh. Triệu Đồng và Triệu Quát nói: - Đại trượng phu nên phải như thế! Anh em tôi cũng xin đem quân bản bộ đi theo tướng quân. Ba người cùng nhau đem quân qua sông Hoàng Hà. Tuân Thủ không thấy Triệu Đồng và Triệu Quát, liền hỏi quân sĩ, mới biết là hai người ấy đã theo Tiên Cốc sang qua sông Hoàng Hà để chực đón đánh quân Sở rồi, liền giật mình kinh sợ, vào nói với quan tư mã là Hàn Quyết. Hàn Quyết vào bảo Tuân Lâm Phủ rằng: - Quan nguyên soái không biết việc Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà hay sao? Nếu gặp quân Sở thì tất bị thua, ngài làm nguyên soái mà để cho Tiên Cốc bị thua thì lỗi ở ngài đó! Tuân Lâm Phủ kinh sợ hỏi kế. Hàn Quyết nói: - Việc đã lỡ như vậy rồi, chi bằng ta kéo cả đại binh sang, đánh được thì ngài có công, mà đánh thua thì cả các tướng cùng phải chịu tội, chẳng hơn là chịu tội một mình hay sao! Tuân Lâm Phủ khen phải, rồi truyền kéo đại binh qua sông Hoàng Hà. Tiên Cốc nghe tin, mừng mà nói rằng: - Ta vẫn biết là quan nguyên soái phải theo lời nói của ta! Trịnh Tương công cho người đi do thám, biết là quân Tấn cường thịnh lắm, chỉ sợ một mai thắng được quân Sở thì lại trị tội nước Trịnh sao dám theo Sở, mới họp các quan triều thần lại để thương nghị. Quan đại phu là Hoàng Thú nói: - Tôi xin sang sứ quân Tấn để khuyên Tấn đánh Sở, Tấn được thì theo Tấn, Sở được thì theo Sở. Bên nào mạnh thế thì ta theo, chớ có lo gì! Trịnh Tương công khen rằng, rồi sai Hoàng Thú đi. Hoàng Thú đến nói với quân Tấn rằng: - Chúa công tôi mong quý quốc đến cứu, khác nào như lúc đại hạn mà mong mưa, bất đắc dĩ mới phải theo Sở để khỏi tàn hại, không phải dám bỏ quý quốc. Nay quân Sở đã thắng được nước Trịnh rồi, có ý kiêu ngạo. Vả quân Sở đi lâu ngày, cũng đã mỏi mệt, nếu quý quốc cố đánh thì nước Trịnh tôi cũng xin theo sau. Tiên Cốc nói: - Ta đánh được Sở và làm cho nước Trịnh phải phục, chỉ cốt ở một trận này! Loan Thư nói: - Người nước Trịnh hay phản phúc lắm, ta chớ nên tin lời! Triệu Đồng và Triệu Quát nói: - Nước Trịnh xin theo ta để cùng đánh Sở thì cái cơ hội ấy chớ nên bỏ hoài! Ta nên theo lời Tiên Cốc. Hai người nói xong, liền không vâng lệnh của Tuân Lâm Phủ, tự liệu theo Tiên Cốc cùng với Hoàng Thú định ước đánh Sở. Trịnh Tương công lại sai sứ đến quân Sở, khuyên Sở Trang Vương giao chiến với Tấn. Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao lo quân Tấn cường thịnh, nói với Sở Trang Vương rằng: - Người nước Tấn không có ý quyết chiến, chi bằng ta cho người sang giảng hòa; giảng hòa mà không được, bấy giờ ta sẽ giao chiến thì lỗi tại nước Tấn. Sở Trang Vương lấy làm phải, liền sai Sái Cưu Cư sang quân Tấn xin giảng hòa. Tuân Lâm Phủ mừng lắm, nói: - Nếu vậy thì là phúc cả cho hai nước! Tiên Cốc trỏ vào mặt Sái Cưu Cư mà mắng rằng: - Nước ngươi đã cướp thuộc quốc của ta, nay lại còn giảng hòa! Dẫu nguyên soái ta cho hòa, ta cũng nhất định không chịu, ta quyết đánh cho chẳng còn một mống nào trở về, để khiến nước ngươi biết tay Tiên Cốc này. Nhà ngươi nên mau mau về báo với vua Sở, liệu mà trốn trước đi, kẻo nữa khôn toàn tính mệnh. Sái Cưu Cư bị Tiên Cốc sỉ mắng một hồi, rồi cúi đầu lui ra. Ra đến cửa dinh lại gặp anh em Triệu Đồng và Triệu Quát. Triệu Đồng và Triệu Quát giơ gươm trỏ vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng: - Nếu mày còn sang đây lần nữa thì ta sẽ cho mày một lưỡi gươm này! Sái Cưu Cư ra khỏi dinh quân Tấn, lại gặp tướng nước Tấn là Triệu Chiên. Triệu Chiên giương cung giơ vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng: - Mày là miếng thịt ở đầu mũi tên của ta, chẳng bao lâu ta sẽ bắt sống, nay hãy cho mày về mà báo trước cho vua Sở mày biết. Sái Cưu Cư nói về với Sở Trang Vương. Sở Trang Vương giận lắm, hỏi các tướng xem có ai dám sang khiêu chiến với quân Tấn không? Quan đại tướng là Nhạc Bá xin đi. Nhạc Bá ngồi một cái xe tiến sang vòng quân Tấn, gặp một bọn quân hơn mười người. Nhạc Bá bắn chết một người, rồi quay xe trở về. Quân Tấn chia ra làm ba toán đuổi theo: Toán đi giữa là Bảo Quý; toán đi phía tả là Bàng Ninh; toán đi phía hữu là Bàng Cái, Nhạc Bá thét to lên rằng: - Ta bắn về phía tả thì trúng ngựa, bắn về phía hữu thì trúng người, nếu bắn không trúng tức là ta thua! Nhạc Bá giương cung bắn luôn mỗi bên một phát, phát bên tả trúng suốt ba bốn con ngựa, xe không đi được nữa, phát bên hữu trúng mặt Bàng Cái, còn quân sĩ bị thương rất nhiều. Bởi vậy toán quân phía tả và phía hữu đều không dám theo nữa, chỉ có toán quân đi giữa là Bảo Quý cố sức đuổi gần đến nơi. Nhạc Bá chỉ còn có một phát tên, toan giương cung ra bắn Bảo Quý, nhưng lại nghĩ thầm rằng: - Nếu phát tên này ta bắn không trúng thì tất nhiên bị hại! Nhạc Bá còn đang nghĩ ngợi thì bỗng có một con hươu to ở đâu chạy qua trước mặt. Nhạc Bá liền bắn chết con hươu ấy rồi sai người đưa biếu Bảo Quý để khao quân sĩ. Bảo Quý thấy Nhạc Bá bắn chẳng sai phát nào, trong lòng cũng có ý sợ hãi, nhân Nhạc Bá sai người biếu con hươu, mới giả cách khen rằng: - Tướng nước Sở biết giữ lễ như vậy thì ta không dám xâm phạm. Bảo Quý quay xe trở về. Tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ biết Bảo Quý thả cho Nhạc Bá chạy, trong lòng giận lắm, nói: - Nước Sở có người đến khiêu chiến, mà nước Tấn ta không ai dám sang trận địa quân Sở, tôi e rằng người nước Sở tất cũng cười ta, vậy tôi xin sang để dò xem quân Sở mạnh yếu thế nào. Triệu Chiên cũng nói với Tuân Lâm Phủ rằng: - Tôi xin cùng đi với Ngụy tướng quân (tức là Ngụy Kỳ). Tuân Lâm Phủ nói: - Khi trước nước Sở sang thỉnh hòa, với ta rồi mới khiêu chiến. Nay các ngươi sang quân Sở, cũng phải thỉnh hòa trước để gọi là đáp lễ lại. Ngụy Kỳ xin vâng lệnh. Triệu Chiên đưa Ngụy Kỳ lên xe trước mà bảo rằng: - Tướng quân báo lại việc Sái Cưu Cư, còn tôi xin báo lại việc Nhạc Bá. Quan thượng quân nguyên soái là Sĩ Hội nghe tin Triệu Chiên và Ngụy Kỳ sang trận địa quân Sở, vội vàng vào yết kiến Tuân Lâm Phủ để can không nên đi. Khi vào đến nơi thì hai tướng đã đi rồi, Sĩ Hội mới nói riêng với Tuân Lâm Phủ rằng: - Ngụy Kỳ và Triệu Chiên là người nóng nảy, không biết tùy cơ ứng biến, tất làm cho quân Sở tức giận; nếu quân Sở bất thình lình mà đến đánh ta thì ta làm thế nào? Bấy giờ quan phó tướng là Khước Khắc cũng đến nói với Tuân Lâm Phủ rằng: - Tình ý nước Sở khó mà lường được, ta nên phòng bị trước! Tiên Cốc thét to lên rằng: - Sắp giao chiến lại còn phòng bị gì nữa! Tuân Lâm Phủ không biết đàng nào mà quyết đoán, Sĩ Hội lui ra nói riêng với Khước Khắc rằng: - Quan nguyên soái chẳng khác gì người bù nhìn! Thôi, chúng ta phải tự liệu lấy mới được. Sĩ Hội nói xong, liền bảo Khước Khắc rủ quan thượng quân đại phu là Hàn Xuyên đem quân bản bộ ra phục ở trước núi Ngao Sơn. Quan trung quân đại phu là Triệu Anh Tề cũng lo quân Tấn thua, sai người sắp thuyền sẵn ở cửa sông Hoàng Hà để phòng khi chạy trốn. Ngụy Kỳ vẫn ghét Tuân Lâm Phủ, muốn làm cho Tuân Lâm Phủ mang tiếng, khi có trước mặt Tuân Lâm Phủ chỉ nói việc thỉnh hòa nhưng khi đến quân Sở thì lại thỉnh chiến. Tướng nước Sở là Phan Đảng biết chuyện khi trước Sái Cưu Cư sang sứ quân Tấn, bị tướng nước Tấn sỉ nhục, nay thấy Ngụy Kỳ đến, tính sự báo thù, vội vàng bước vào đại dinh thì Ngụy Kỳ trong dinh ra khỏi. Phan Đảng tức khắc giục ngựa đuổi theo. Ngụy Kỳ đi đến một quãng rừng, nghe có tướng Sở đuổi theo, toan quay lại để đối địch; bỗng thấy trong rừng có sáu con hươu lớn, nhân nghĩ đến việc nước Sở biếu khi trước, liền giương cung bắn chết một con, sai người đem biếu Phan Đảng mà nói rằng: - Khi trước Nhạc tướng quân (tức là Nhạc Bá) có cho quân Tấn tôi một con hươu, nay quân Tấn tôi xin đáp lễ lại. Phan Đảng nghĩ thầm trong lòng rằng: - Quân Tấn cũng bắt chước lối cũ của ta như vậy, nếu ta đuổi theo thì chẳng hóa ra người nước Sở ta vô lễ lắm ru! Cùng truyền quay xe trở lại. Ngụy Kỳ về đến dinh quân Tấn nói với Tuân Lâm Phủ rằng: - Vua nước Sở nhất định không cho giảng hòa, định đánh một trận để quyết thắng phụ. Tuân Lâm Phủ hỏi: - Còn Triệu Chiên ở đâu? Ngụy Kỳ nói: - Tôi đi trước, hắn đi sau, thành ra tôi không được gặp. Tuân Lâm Phủ nói: - Nước Sở đã không cho giảng hòa thì Triệu Chiên tất nhiên bị hại. Tuân Lâm Phủ sai Tuân Dinh đem quân đi đón Triệu Chiên. Nguyên Triệu Chiên đang đêm đi đến cửa dinh quân Sở, trải chiếu xuống đất ngồi đem rượu ra uống, rồi sai hơn hai mươi người giả cách nói tiếng nước Sở, lẻn vào trong dinh quân Sở. Quân Sở biết là giả, nắm lại để hỏi. Người ấy rút dao đâm chết một người trong đám quân Sở. Quân Sở náo động cả lên đốt đuốc đuổi bắt được mấy người, còn mấy người trốn thoát chạy ra, trông thấy Triệu Chiên vẫn còn ngồi trên chiếu, vội vàng ôm lên xe. Tìm đến người dong xe thì đã mắc trong đám quân Sở, không ra được rồi. Triệu Chiên phải cầm lấy cương ngựa, ngựa đói không thể đi được. Sở Trang Vương nghe nói có giặc lẻn đến, liền thân hành đem quân ra đuổi. Quân đuổi gấp lắm, Triệu Chiên vội vàng bỏ xe trốn vào trong rừng. Tướng nước Sở là Khuất Đãng trông thấy cũng xuống xe đuổi theo. Triệu Chiên cởi áo giáp treo ở trên cây thông để chạy cho dễ. Khuất Đãng lấy được áo giáp và xe ngựa đem về nộp Sở Trang Vương. Sở Trang Vương vừa toan quay xe trở về thì thấy Phan Đảng chạy đến. Phan Đảng trỏ về phía Bắc mà bảo Sở Trang Vương rằng: - Trông những cát bụi bay mù thế kia thì biết đại binh nước Tấn sắp sửa kéo đến! Nguyên những cát bụi ấy là bởi có toán quân của Tuân Dinh phụng mệnh Tuân Lâm Phủ đi đón Triệu Chiên; Phan Đảng trông không rõ tưởng là đại binh quân Tấn, làm cho Sở Trang Vương sợ hãi, mặt xám xanh lại, may gặp có toán quân của quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao kéo đến, Sở Trang Vương mới được yên lòng. Sở Trang Vương hỏi Tôn Thúc Ngao rằng: - Sao quan lệnh doãn biết có đại binh nước Tấn sắp tới mà đem quân ra cứu ta? Tôn Thúc Ngao nói: - Tôi không biết có đại binh nước Tấn, nhưng tôi sợ đại vương khinh thường xông vào quân giặc, vậy nên tôi phải đem quân tiếp ứng, còn đại binh ta cũng sắp tới đây bây giờ. Sở Trang Vương ngoảnh về phía Bắc, trông lại một lượt, thấy đám cát bụi cũng không lấy gì làm cao, mới bảo Tôn Thúc Ngao bằng: - Không phải đại binh nước Tấn. Tôn Thúc Ngao nói: - Nay các tướng đã đều đến cả, xin đại vương cứ truyền lệnh tiến hành, nếu ta đánh được một toán thì các toán khác đều phải vỡ tan. Sở Trang Vương liền truyền lệnh tiến binh. Tuân Lâm Phủ cũng đem quân ra đối địch, nhưng quân Sở nhiều quá, không thể nào địch nổi, tức khắc bỏ chạy tán loạn. Tuân Dinh đi đón Triệu Chiên, không thấy đâu cả, lại gặp tướng nước Sở là Hùng Phụ Cơ, hai bên giao chiến với nhau, nhưng Tuân Dinh thấy quân Sở đông quá, cũng phải bỏ chạy, bị Hùng Phụ Cơ bắt sống. Tướng nước Tấn là Bàng Bá, đem hai con là Bàng Ninh và Bàng Cái cùng ngồi một cái xe nhỏ để chạy trốn; lại gặp Triệu Chiên cũng đang bơ vơ chạy trốn, hai chân giẫm đất, bàn chân rách nát. Triệu Chiên trông thấy kêu to lên rằng: - Ai đi xe thế kia, xin cứu tôi với! Bàng Bá nghe biết là tiếng Triệu Chiên, bảo hai con chớ ngoảnh cổ lại. Hai con không hiểu ý cha, tức thì ngoảnh cổ nom lại phía sau xem ai. Triệu Chiên trông thấy, liền gọi bảo rằng: - Bàng Bá cho ta lên xe với! Hai con nói với Bàng Bá. Bàng Bá giận lắm, nói: - Đã như vậy thì hai con nhường chỗ cho người ta! Bàng Bá tức thì đuổi hai con xuống mà cho Triệu Chiên lên. Bàng Ninh và Bàng Cái mất xe, thành ra chết ở trong đám loạn quân. Tuân Lâm Phủ và Hàn Quyết cùng một bọn tàn tốt chạy men bờ sông Hoàng Hà, ngoảnh lại trông thấy Tiên Cốc bị thương ở trán, máu chảy đầm đìa, đang xé áo chiến bào ra để buộc, Tuân Lâm Phủ liền trỏ vào mặt Tiên Cốc mà bảo rằng: - Tướng quân hăng hái lắm mà sao cũng như thế! Đi đến cửa sông Hoàng Hà, gặp Triệu Quát cũng đến, Triệu Quát nói với Tuân Lâm Phủ rằng: - Anh tôi là Triệu Anh Tề, khi trước có sắp sẵn thuyền bè, nay đã qua sông rồi, mà chẳng bảo cho chúng tôi biết, như vậy thì còn ra nghĩa lý gì nữa! Tuân Lâm Phủ nói: - Những lúc nguy cấp này, còn bảo nhau sao kịp! Trịnh Quát vẫn hầm hầm tức giận, từ bấy giờ cùng với Triệu Anh Tề thành ra hiềm khích. Tuân Lâm Phủ nói: - Quân ta không thể đánh mau với Sở được nữa, bây giờ nên mau mau nghĩ kế để qua sông Hoàng Hà. Tuân Lâm Phủ liền sai Tiên Cốc đi tìm thuyền, nhưng tìm được ít lắm, không có mấy chiếc. Tuân Lâm Phủ chưa kịp qua sông thì lại thấy có một toán quân, rối rít chạy đến. Tuân Lâm Phủ nhìn xem quân nào thì tức là toán quân của Triệu Sóc và Loan Thư bị tướng nước Sở là công tử Trác đánh đuổi, cũng chạy đến đấy, Tuân Lâm Phủ ngoảnh về phía Nam, trông thấy cát bụi bay, ngỡ là quân Sở đuổi tới, mới đánh trống mà hạ lệnh rằng: - Ai sang được trước thì sẽ có thưởng! Quân sĩ tranh cướp thuyền chở, thành ra giết hại lẫn nhau. Dưới thuyền người đã đầy rồi, mà còn nhiều người chen lấn nhau nước xuống đến nỗi đắm mất hơn ba mươi chiếc thuyền. Tiên Cốc đứng ở trong thuyền lại thét to lên rằng: - Quân sĩ có đứa nào bíu vào mái chèo và mạn thuyền thì lấy dao mà chặt tay đi. Các thuyền đều theo lệnh lấy dao ra chặt thì ngón tay rơi vào trong thuyền, khác nào như hoa rụng, rồi bốc từng bốc mà ném xuống sông. Trên bờ người khóc như ri, nghe rất sầu thảm! Mặt sau lại có bọn Tuân Thủ, Triệu Đồng, Ngụy Kỳ, Bàng Bá và Bảo Quý lục tục kéo đến. Tuân Thủ đã xuống thuyền rồi, không trông thấy con là Tuân Dinh, sai người đứng ở trên bờ gọi rầm lên! Có người biết là Tuân Dinh bị bắt, nói với Tuân Thủ. Tuân Thủ nói: - Con ta đã bị bắt thì ta không chịu về không! Tuân Thủ tức thì lên bờ, để lại xông vào đám quân Sở. Tuân Lâm Phủ can rằng: - Tuân Dinh đã bị bắt thì tướng quân đi cũng vô ích. Tuân Thủ nói: - Nếu tôi bắt được tướng nước Sở thì cũng có thể đòi lại được con tôi. Ngụy Kỳ vốn chơi thân với Tuân Dinh, bởi vậy cũng xin theo đi. Tuân Thủ mừng lắm, đem mấy trăm quân trở lại. Quân sĩ nhiều người vẫn kính phục Tuân Thủ, vậy nên đều vui theo cả; có người đã xuống thuyền rồi, nghe nói Tuân Thủ định trở lại để tìm Tuân Dinh, cũng đều lên bờ xin theo. Tuân Thủ là người bắn giỏi lắm, bấy giờ xông vào quân Sở, trông thấy tướng nước Sở là Tương Lão đang đi thu thập những ngựa xe và khí giới của quân Tấn bỏ sót, chẳng ngờ quân Tấn thình lình trở lại, vậy nên không kịp đề phòng, bị Tuân Thủ bắn cho một phát, ngã lăn xuống đất. Công tử Cốc Thần trông thấy Tương Lão bị mũi tên, vội vàng đến cứu. Ngụy Kỳ xông vào, giao chiến với công tử Cốc Thần. Tuân Thủ lại bắn luôn phát nữa, trúng ngay vào cánh tay phải của công tử Cốc Thần. Công tử Cốc Thần đau quá, đứng lại để nhổ mũi tên, bị Ngụy Kỳ bắt sống và lấy thêm cả cái xác của Tương Lão mang về. Tuân Thủ nói: - Đem công tử Cốc Thần và xác Tương Lão này cũng đủ chuộc lại được con ta, ta nên trở về. Nói xong liền giục ngựa về ngay. Khi quân Sở biết mà đuổi theo thì đã không kịp. Công tử Anh Tề (tướng nước Sở) đem quân đuổi đánh Sĩ Hội (tướng nước Tấn). Sĩ Hội vừa đánh vừa chạy, may nhờ có quân của Củng Sóc tiếp ứng, mới chạy thoát được. Công tử Anh Tề cố sức đuổi theo, lại gặp tướng nước Tấn là Khước Khắc đem quân đến. Công tử Anh Tề thấy vậy, phải thu quân trở về. Tuân Thủ về đến cửa sông Hoàng Hà, thấy toàn quân của Tuân Lâm Phủ chưa qua sông hết, có ý kinh sợ; may nhờ có toán quân của Triệu Anh Tề đã qua sông rồi, có người đem thuyền sang đón, quân Tấn mới qua được sông Hoàng Hà. Đại binh quân Sở đã kéo đến Bí Thành, Ngũ Xâm nói với Sở Trang Vương xin mau mau đuổi theo để đánh quân Tấn. Sở Trang Vương nói: - Nước Sở ta từ khi thua Tấn ở đất Thành Bộc, vẫn lấy làm xấu hổ, nay được một trận này, đủ rửa cái thẹn năm xưa, nhưng hai bên rồi cũng nên giảng hòa với nhau, ta còn giết hại làm gì nữa. Sở Trang Vương truyền đóng quân lại. Trịnh Tương công biết là quân Sở thắng trận, thân hành đến Bí Thành khao thưởng quân sĩ, đón Sở Trang Vương về đất Hành Ung, mời vào ở trong vương cung, mở tiệc chúc mừng. Phan Đảng nói với Sở Trang Vương xin thu xác quân Tấn đắp làm một cái đài gọi là "Kinh quán", để kỷ niệm vũ công của người nước Sở. Sở Trang Vương nói: - Ta cũng may mà đánh được quân Tấn, sao đáng gọi là vũ công. Sở Trang Vương truyền cho quân sĩ nhặt chôn những xác người chết, lại làm văn tế thần sông Hoàng Hà, rồi thu quân về nước Sở. Khi về đến nước Sở, ban thưởng công thần, cho Ngũ Xâm làm quan đại phu. Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao thở dài mà than rằng: - Đánh được quân Tấn mà công của Ngũ Xâm thì ta cũng nên xấu hổ mà chết. Sau Tôn Thúc Ngao nghĩ tức mà thành ra ốm nặng. Tuân Lâm Phủ về nước Tấn, vào yết kiến Tấn Cảnh công. Tấn Cảnh công toan chém. Các quan triều thần đều cố sức can rằng: - Tuân Lâm Phủ là một bậc đại thần. Việc đánh Sở này bởi tại Tiên Cốc trái lệnh, đến nỗi thua quân, nay chúa công giết một Tiên Cốc, cũng đủ làm gương cho kẻ khác. Ngày xưa nước Sở giết Thành Đắc Thần mà Tấn Văn công mừng, nước Tần tha Mạnh Minh mà Tấn Tương công sợ, xin chúa công tha tội cho Tuân Lâm Phủ để khiến được lập công về sau. Tấn Cảnh công theo lời, liền chém Tiên Cốc, phục chức cho Tuân Lâm Phủ, và sai luyện tập quân mã, đợi ngày khác đi đánh báo thù. Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao ốm nặng, dặn con là Tôn An rằng: - Ta có một tờ di biểu khi ta chết rồi, mày nên đem dâng đại vương. Đại vương có cho mày làm quan thì mày chớ nhận. Tài mày nhỏ mọn, không nên dự vào đám quan thường. Nếu đại vương có phong ấp cho mày, mày phải từ chối; bất đắc dĩ mà từ chối không được thì nên xin đất Tẩm Khâu. Tẩm Khâu là một chỗ đất xấu, chẳng ai thèm tranh đến, họa may con cháu về sau mới được hưởng cái lộc ấy. Nói xong thì chết. Tôn An đem tờ di biểu vào dâng Sở Trang Vương. Sở Trang Vương mở ra đọc. Tờ di biểu như sau này: "Sau là kẻ có tội, đại vương lại cử cho làm lệnh doãn, trong mấy năm nay không có công trạng gì, nghĩ mình cũng lấy làm hổ thẹn. Nay nhờ cái uy linh của đại vương được toàn hoạt mà chết, thật là may cho tôi! Tôi chỉ được đứa con ngu dốt, không thể cho làm quan được; còn cháu tôi là Viễn Bằng là người có tài nên dùng. Tuân Thủ và Bàng Bá, mới rồi dẫu bị thua, nhưng chúa công chớ nên khinh thường. Dân nước Sở ta khổ về việc chiến tranh đã lâu chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được yên nghỉ. Người ta đến lúc sắp chết, câu nói thường hay hợp lẽ phải, xin chúa công xét cho". Sở Trang Vương đọc xong, thở dài mà than rằng: - Tôn Thúc Ngao gần chết mà vẫn không quên được việc nước. Trời làm cho Tôn Thúc Ngao chết, cũng là một sự không may cho ta. Sở Trang Vương thân hành đến nhà Tôn Thúc Ngao, ôm lấy áo quan mà khóc. Các quan đi theo hầu, cũng đều khóc cả. Ngày hôm sau, Sở Trang Vương cho công tử Anh Tề làm quan lệnh doãn, và cho Viễn Bằng làm quan châm doãn. Sở Trang Vương lại muốn cho Tôn An làm quan công chính, nhưng Tôn An theo lời cha dặn, nhất định xin từ chối, trở về làm ruộng. Sở Trang Vương có yêu một kẻ ưu nhân là Mạnh Thù Nho, vẫn gọi là Ưu Mạnh. Ưu Mạnh người lùn không đầy năm thước, nguyên là một người làm trò rất khéo, lại tài khôi hài, bởi vậy Sở Trang Vương yêu lắm. Một hôm Ưu Mạnh ra chơi ngoài đồng, gặp Tôn An đi kiếm củi, quẩy một gánh củi trở về, Ưu Mạnh đón mà hỏi rằng: - Sao công tử chịu khó nhọc mà gánh củi như vậy? Tôn An nói: - Cha tôi làm tướng quốc trong mấy năm trời, không lấy một đồng tiền của ai; đến lúc chết chẳng còn tí gì, bởi vậy tôi phải gánh củi. Ưu Mạnh thở dài mà than rằng: - Công tử vững lòng, thế nào đại vương cũng nhớ mà sắp triệu đến công tử! Ưu Mạnh về nghĩ kế: Chế ra một bộ mũ áo giống như của Tôn Thúc Ngao ngày trước, lại bắt chước những dáng điệu ăn nói của Tôn Thúc Ngao; luyện tập trong ba ngày, trông giống như thực chẳng khác gì Tôn Thúc Ngao phục sinh! Gặp bấy giờ Sở Trang Vương ngự yến ở trong cung, triệu Ưu Mạnh vào làm trò. Ưu Mạnh sai một người khác ra trò trước, đóng vai Sở Trang Vương làm ra bộ tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao, còn mình thì đóng vai Tôn Thúc Ngao ra trò. Sở Trang Vương (vai trò) trông thấy giật mình kinh sợ mà nói rằng: - Ô hay! Tôn Thúc Ngao hãy còn sống à? Ta tưởng nhớ nhà ngươi lắm, nhà ngươi nên ở lại mà giúp ta! Ưu Mạnh nói: - Tôi đây chỉ giống Tôn Thúc Ngao đó mà thôi, có phải là Tôn Thúc Ngao thật đâu! Sở Trang Vương (vai trò) nói: - Ta tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao mà không được trông thấy, nay thấy nhà ngươi giống Tôn Thúc Ngao, cũng khiến cho ta được đỡ nhớ. Ta cho nhà ngươi cứ làm tướng quốc, nhà ngươi chớ từ. Ưu Mạnh nói: - Đại vương dùng tôi quá lạm như vậy, khi nào tôi dám nhận, nhưng tôi có lão thê ở nhà, để tôi xin về bàn với lão thê tôi, rồi mới dám vâng mệnh. Ưu Mạnh trở vào buồng trò, một lúc lại bước lên sàn hát mà tâu với Sở Trang Vương (vai trò) rằng: - Vừa rồi tôi có bàn với lão thê tôi thì lão thê tôi khuyên tôi chớ nhận. Sở Trang Vương (vai trò) hỏi: - Lão thê tôi có đặt một bài hát để khuyên tôi, vậy tôi xin hát. Nói xong, liền hát: - "Quan tham không nên làm, thế mà nên làm! Quan liêm nên làm, thế mà không nên làm. Quan tham không nên làm, đã tham thì tất đê hạ; mà nên làm là con cháu được lên xe xuống ngựa! Quan liêm nên làm, đã liêm thì tất cao khiết; mà không nên làm là vì con cháu phải ăn đói mặc rét! Chàng chẳng thấy: Quan lệnh doãn nước Sở ta là Tôn Thúc Ngao, lúc sống làm quan không lấy của ai một đồng nào. Chẳng may thất lộc đi rồi, con cháu nghèo hèn đói khát, chỉ có cái túp chui ra chui vào.. Chàng, chàng ôi! Chàng chớ học đòi Tôn Thúc Ngao. Quân vương nào có nhớ công lao!" Sở Trang Vương trông thấy Ưu Mạnh lời ăn tiếng nói, giống như Tôn Thúc Ngao thuở xưa đã động lòng thương xót, sau nghe đến bài hát của Ưu Mạnh, bỗng ứa nước mắt xuống mà nói rằng: - Khi nào ta dám quên công Tôn Thúc Ngao! Sở Trang Vương liền sai Ưu Mạnh đi triệu Tôn An. Tôn An mặc áo rách, đi đôi giày cỏ, vào yết kiến Sở Trang Vương. Sở Trang Vương hỏi: - Nhà ngươi đến nỗi cùng khốn như thế ư? Ưu Mạnh đứng bên cạnh, đỡ lời mà tâu rằng: - Nếu không cùng khốn thì đã không tỏ được cái nhân đức của quan lệnh doãn ngày trước! Sở Trang Vương nói: - Tôn An khi trước đã từ chối làm quan, nay ta nên phong cho một cái ấp lớn. Tôn An lại cố ý xin từ chối. Sở Trang Vương nói: - Ta đã quyết định như thế, nhà ngươi chớ nên từ chối. Tôn An nói: - Nếu đại vương nghĩ đến chút công lao của cha tôi, mà muốn cho tôi được ấm no thì xin phong cho tôi ở đất Tẩm Khâu là đủ. Sở Trang Vương nói: - Tẩm Khâu là nơi đất xấu, có lợi gì cho nhà ngươi! Tôn An nói: - Khi cha tôi gần mất có dặn tôi như vậy, nếu không phong cho đất Tẩm Khâu thì tôi không dám nhận. Sở Trang Vương theo lời. Về sau, người ta đều cho Tẩm Khâu là một nơi đất xấu, không ai thèm tranh đến. Con cháu Tôn Thúc Ngao cứ nối đời được hưởng cái lộc ấy. Tuân Lâm Phủ nước Tấn nghe tin Tôn Thúc Ngao chết, biết là quân Sở chưa có thể đi cứu Trịnh được, mới tâu với vua Tấn xin đem quân đi đánh Trịnh. Tuân Lâm Phủ cướp phá bờ cõi nước Trịnh, rồi thu quân trở về. Các tướng nói với Tuân Lâm Phủ xin vây nước Trịnh. Tuân Lâm Phủ nói: - Ta vây nước Trịnh, cũng chưa chắc đã lấy nổi, vạn nhất nước Sở đem quân đến cứu thì lại thành ra thêm việc, chi bằng ta hãy để cho người nước Trịnh phải sợ ta. Trịnh Tương công thấy vậy, quả nhiên sợ lắm, sai sứ sang bàn mưu với nước Sở và đưa người em là công tử Chương sang nước Sở đổi lấy công tử Khứ Tật về nước Trịnh để cùng cầm quyền chính trong nước, Sở Trang Vương nói: - Nếu nước Trịnh biết thủ tín thì chẳng cần gì phải giữ người làm tin. Sở Trang Vương nói xong, liền cho về tất cả, rồi họp các quan triều thần lại để thương nghị.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  6. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 55 Giắt dao lẻn vào dinh quân Sở Kết cỏ bắt được tướng nước Tần

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sở Trang Vương họp các quan triều thần lại để thương nghị việc chống nhau với Tấn. Công tử Trắc nói với Sở Trang Vương rằng: - Nước Tống xưa nay vẫn một lòng theo Tấn, nay ta đem quân đi đánh Tống thì Tấn tất phải sang cứu, khi nào còn dám tranh nước Trịnh của ta. Sở Trang Vương nói: - Nhà ngươi bàn dẫu phải nhưng ta chưa có cớ gì mà đánh Tống được. Tiên quân ta ngày xưa đánh Tống một trận ở sông Hoằng Thủy, vua Tống bị thương chết, thế mà nước Tống cũng chịu nhịn ta; đến khi ta hội chư hầu ở đất Quyết Lạc, vua Tống lại hết sức cung phụng nước ta. Sau Tống Chiêu công bị giết, công tử Bảo lên ngôi, nay đã mười tám năm rồi, ta muốn đánh Tống mà chưa tìm được cớ gì cả. Công tử Anh Tề nói: - Khó gì điều ấy! Vua Tề đã mấy lần triều sinh nước ta, mà ta chưa đáp lại, nay ta sai người sang sứ nước Tề, mượn đường đi qua Tống, nếu Tống không cho hay là vô lễ với sứ nước ta thì ta sẽ gây sự đem quân sang đánh. Sở Trang Vương nói: - Bây giờ nên sai ai đi sứ? Công tử Anh Tề nói: - Thân Vô Úy khi trước đã có theo tiên quân ta sang hội ở đất Quyết Lạc. Người ấy nên sai đi. Sở Trang Vương liền sai Thân Vô Úy đi sang sứ nước Tề. Thân Vô Úy tâu với Sở Trang Vương rằng: - Sang sứ nước Tề, tất phải đi qua nước Tống, xin đại vương cấp cho một đạo văn thư để mượn đường. Sở Trang Vương nói: - Nhà ngươi sợ nước Tống dám ngăn trở hay sao! Thân Vô Úy nói: - Khi trước tiên quân ta hội chư hầu ở Quyết Lạc, rồi cùng với các vua chư hầu đi săn ở Mạnh Chư, vua Tống trái lệnh, tôi bắt người thị vệ mà giết đi, bởi vậy nước Tống oán giận tôi lắm. Nay tôi qua nước Tống, nếu đại vương không cấp cho một đạo văn thư mượn đường thì nước Tống tất giết tôi. Sở Trang Vương nói: - Trong đạo văn thư sang nước Tề, ta đề tên là Thân Chu, không dùng cái tên cũ Thân Vô Úy nữa! Thân Vô Úy chưa chịu đi mà nói rằng: - Tên thì đổi được, nhưng mặt không thể đổi được. Sở Trang Vương nổi giận, nói: - Nếu nước Tống giết nhà ngươi thì ta quyết vì nhà ngươi báo thù, mà đem quân diệt nước Tống. Thân Vô Úy không dám từ chối nữa. Ngày hôm sau đưa người con là Thân Tê vào yết kiến Sở Trang Vương mà tâu rằng: - Tôi chết vì việc nước, xin đại vương trông nom con tôi. Sở Trang Vương nói: - Đó là việc của ta, nhà ngươi chớ lo ngại! Thân Chu (tức là Thân Vô Úy) từ giã rồi đi. Người con là Thân Tê tiễn ra đến ngoài cõi. Thân Chu dặn rằng: - Cha đi chuyến này, tất chết ở nước Tống, con nên tâu với đại vương để báo thù cho cha, con chớ quên lời cha dặn. Hai cha con cùng ứa nước mắt mà từ giã nhau. Thân Chu đi đến địa giới nước Tống. Quan trấn thủ ở nước Tống biết là sứ nước Sở, đòi xem văn thư. Thân Chu nói: - Ta phụng mệnh vua Sở, chỉ có đạo văn thư sang sứ nước Tề, chứ không có đạo văn thư mượn đường nước Tống. Quan trấn thủ giữ Thân Chu lại, rồi sai người phi báo Tống Văn công. Bấy giờ Hoa Nguyên đang cầm quyền chính nước Tống, tâu với Tống Văn công rằng: - Nước Sở là một nước cừu địch với ta, nay sai sứ qua nước ta mà không có văn thư mượn đường, thế là khinh ta quá lắm, xin chúa công bắt sứ nước Sở mà giết đi. Tống Văn công nói: - Ta giết sứ nước Sở thì nước Sở tất đem quân sang đánh ta, ta biết làm thế nào? Hoa Nguyên nói: - Chẳng thà bị quân Sở đem quân sang đánh, còn hơn là để cho nước Sở khinh ta; nước Sở đã khinh ta thì rồi thế nào cũng đem quân sang đánh ta. Đằng nào ta cũng bị quân Sở đánh, chi bằng ta hãy giết sứ Sở đi, để cho khỏi hổ thẹn. Hoa Nguyên sai người bắt Thân Chu giải về triều. Thân Chu vào đến trong triều, Hoa Nguyên trông thấy nhớ ngay là Thân Vô Úy, lại càng tức giận mà mắng rằng: - Ngày trước nhà ngươi dám giết thị vệ của tiên quân ta, nay đổi tên là Thân Chu để tránh cho khỏi chết hay sao! Thân Chu biết mình thế nào cũng chết, mới quát to lên mà mắng rằng: - Thằng Bảo (tên Tống Văn công) kia, mày thông gian tổ mẫu giết chết đích điệt, may mà thoát nạn, lại còn dám vô lễ với sứ thần nước lớn. Quân Sở ta kéo sang đây thì vua tôi mày xác tan ra như cám. Hoa Nguyên sai cắt lưỡi Thân Chu trước, rồi sau mới chém, lại đốt văn thư của nước Sở, đem tro ném ra ngoài cõi. Người theo hầu Thân Chu về báo với Sở Trang Vương. Sở Trang Vương đang ăn cơm, nghe tin Thân Chu bị giết, ném đũa xuống chiếu rồi đứng ngay dậy, sai quan tư mã là công tử Trắc sửa soạn binh mã để thân hành sang đánh Tống; lại cho Thân Tê (con Thân Chu) làm chức quân chính để theo đi đánh. Quân nước Sở vây kín thành Thư Dương (tức là kinh thành nước Tống), bốn mặt đánh gấp lắm. Hoa Nguyên cố sức chống giữ, lại sai quan đại phu là Nhạc Anh Tề lẻn sang cáo cấp với nước Tấn. Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu, mưu thần là Bá Tôn can rằng: - Tuân Lâm Phủ đem đại binh đi đánh quân Sở mà còn bị thua ở đất Bí Thành, ấy là lòng trời giúp cho nước Sở đó! Nay ta đi cứu Tống, vị tất đã nên việc. Tấn Cảnh công nói: - Hiện bây giờ chỉ có nước Tống là thân với ta, nếu ta không cứu thì bỏ mất nước Tống! Bá Tôn nói: - Nước Sở cách xa nước Tống hai nghìn dặm, lương thực khó vận lắm. Nay ta sai người sang nước Tống, nói là đại binh đã sắp tới nơi, khiến cho nước Tống cố sức mà chống giữ, chẳng qua chỉ vài tháng là quân Sở phải rút quân về, thế là ta không đánh Sở mà có cái công cứu được nước Tống. Tấn Cảnh công khen phải, hỏi các quan triều thần xem có ai dám sang sứ nước Tống. Quan đại phu là Giải Dương xin đi. Tấn Cảnh công nói: - Việc này trừ phi Tử Hổ (tên tự của Giải Dương) thì cũng khó lòng ai đương nổi! Giải Dương mặc đồ vi phục đi sang nước Tống, bị quân Sở bắt được, đem nộp Sở Trang Vương. Sở Trang Vương nhận biết là tướng nước Tấn tên gọi Giải Dương, mới hỏi Giải Dương rằng: - Nhà ngươi đến đây có việc gì? Giải Dương nói: - Tôi phụng mệnh chúa công tôi đến dụ nước Tống cứ cố sức chống giữ để đợi quân cứu viện. Sở Trang Vương nói: - Ngày trước nhà ngươi đã bị tướng nước ta là Vĩ Giả bắt được, ta không nỡ giết mà tha cho về, nay nhà ngươi lại chui đầu vào lưới thì còn nói gì nữa! Giải Dương nói: - Tấn và Sở vẫn là cừu địch với nhau thì tôi bị giết là phải lắm lại còn nói gì! Sở Trang Vương khám trong mình Giải Dương, bắt được đạo văn thư, liền mở ra xem, xem xong bảo rằng: - Kinh thành nước Tống chẳng qua chỉ nay mai thì phá vỡ mà thôi, bây giờ nhà ngươi nói trái lại những lời trong văn thư mà bảo nước Tống rằng: "Nước Tấn tôi ngày nay nhiều việc cần kíp, không thể nào sang cứu được, sợ để cho nước ngươi mong đợi thì lỡ cả công việc. Vậy chúa công tôi có sai tôi đến nói cho nước ngươi biết". Như thế thì người nước Tống không còn mong đợi gì nữa, tất phải ra hàng; nhân dân hai nước tránh khỏi được cái vạ chiến tranh khổ sở. Khi việc đã thành rồi, ta sẽ trọng thưởng nhà ngươi và cho làm quan ở nước Sở ta. Giải Dương cúi đầu nín lặng, không nói gì cả. Sở Trang Vương nói: - Nếu không nghe lời thì ta chém đầu đi! Giải Dương vốn không muốn nghe lời, nhưng sợ mình chết trong đám quân Sở thì không có ai đem lời vua Tấn mà truyền bảo cho nước Tống biết, mới giả cách xin vâng mệnh. Sở Trang Vương để Giải Dương đứng ở trên xe, bắt phải truyền bảo cho người nước Tống. Giải Dương liền gọi người nước Tống mà bảo rằng: - Ta là sứ nước Tấn, tên gọi Giải Dương, bị quân Sở bắt được, bảo ta dụ nước ngươi ra hàng, nhưng nước ngươi đừng có nghe, chúa công ta sắp sửa đem đại binh đến cứu. Sở Trang Vương nghe tiếng, liền sai lôi xuống mà mắng rằng: - Nhà ngươi đã nhận lời với ta mà lại bội ước là người thất tín, chớ trách ta tàn ác. Sở Trang Vương truyền cho võ sĩ đem Giải Dương ra chém. Giải Dương chẳng sợ hãi chút nào cả, thong dong mà đáp rằng: - Sao đại vương lại bảo là tôi thất tín! Nếu tôi theo lời đại vương thì lại thất tín với nước Tấn tôi lắm. Giả sử nước Sở có người bề tôi nào ăn lễ của nước khác mà trái lời đại vương thì đại vương cho là người biết thủ tín hay sao? Tôi xin chịu chết để tỏ ra rằng: Điều tín của nước Sở khác người nhiều lắm! Sở Trang Vương khen rằng: - Nhà ngươi thật là một người trung thần không sợ chết! Nói xong, liền tha cho về. Hoa Nguyên nước Tống nghe thấy Giải Dương nói là quân Tấn sắp sửa sang cứu, lại càng cố sức chống cự với quân Sở. Công tử Trắc (tướng nước Sở) sai quân sĩ làm một cái chòi cao ở phía ngoài thành nước Tống để ở. Từ đó nom vào trong thành mà xét xem tình hình nước Tống. Hoa Nguyên (tướng nước Tống) cũng làm một cái chòi ở phía trong thành để nom ra. Hai bên giữ nhau từ tháng chín năm trước đến tháng năm năm sau, trong thành nước Tống, lương thực hết sạch cả, nhiều người bị chết đói. Hoa Nguyên đem những lời trung nghĩa khuyên bảo kẻ dưới, bởi vậy người nước Tống đều một lòng vì nước mà cố giữ, dẫu khổ sở đến đâu cũng không ngã lòng. Sở Trang Vương không biết làm thế nào. Quân sĩ lại tâu với Sở Trang Vương rằng: - Lương thực trong dinh, chỉ còn bảy ngày nữa thì hết. Sở Trang Vương nói: - Ta không ngờ nước Tống mà khó đánh được như thế! Nói xong, liền đứng lên trên xe để xét xem tình hình quân sĩ nước Tống, thì thấy quân sĩ nước Tống rất nghiêm chỉnh. Sở Trang Vương thở dài, rồi triệu công tử Trắc để bàn việc quân về. Thân Tê (con Thân Vô Úy) sụp lạy Sở Trang Vương, khóc mà nói rằng: - Cha tôi liều chết để phụng mệnh đại vương, nay đại vương lại thất tín với cha tôi hay sao! Sở Trang Vương nét mặt có ý hổ thẹn. Thân Thúc Thời bấy giờ đang làm người dong xe cho Sở Trang Vương, mới hiến kế rằng: - Nước Tống không chịu hàng là vì biết chừng quân ta không ở lâu được, nếu ta truyền cho quân sĩ làm nhà ở, và cày ruộng để lấy thóc ăn, tỏ cho nước Tống biết là quân ta còn ở đây trường cửu thế thì nước Tống tất sợ mà phải đầu hàng. Sở Trang Vương khen phải, truyền cho quân sĩ đi đốn gỗ làm nhà ở xung quanh thành. Trong mười người thì để năm người vây thành, còn năm người cày ruộng, cứ mười ngày lại thay đổi nhau một lần. Hoa Nguyên nghe thấy tin ấy, nói với Tống Văn công rằng: - Quân Sở không có ý rút về mà quân Tấn cũng không thấy đến cứu, biết làm thế nào, âu là tôi lẻn vào dinh quân Sở để uy hiếp công tử Trắc, bắt phải cho giảng hòa thì họa chăng mới được việc. Tống Văn công nói: - Nước ta còn hay là mất, quan hệ ở việc này lắm, quan tướng quốc nên phải cẩn thận mới được! Hoa Nguyên dò biết là công tử Trắc vẫn ngủ ở trên chòi cao, lại dò biết hết cả họ tên những người thị vệ của Sở Trang Vương. Đêm hôm ấy thay hình đổi dạng, trèo qua thành xuống, đến dinh quân Sở. Gặp quân Sở đang đi tuần, Hoa Nguyên hỏi rằng: - Quan nguyên soái có ở trên chòi không? Quân Sở nói: - Có! Hoa Nguyên lại hỏi: - Ngài đã ngủ chưa? Quân Sở nói: - Mấy ngày hôm nay, ngài bận việc khó nhọc quá, hôm nay đại vương cho một chén rượu để uống. Ngài uống xong đã đi ngủ rồi! Hoa Nguyên vội vàng trèo thẳng lên trên chòi. Quân Sở ngăn lại. Hoa Nguyên nói: - Hôm nay đại vương có việc cơ mật, dặn bảo quan nguyên soái, mới rồi lại có cho quan nguyên soái uống rượu, vậy nên đại vương sợ quan nguyên soái say rượu mà ngủ quên đi mất, sai tôi đến đây để thương thuyết lại, rồi về nói ngay cho đại vương biết. Quân Sở tưởng là thực, để cho Hoa Nguyên trèo lên. Trên chòi đèn thắp còn sáng, công tử Trắc cởi áo, nằm ngủ đã say, Hoa Nguyên trèo ngay lên giường nằm, se sẽ lấy tay lay công tử Trắc. Công tử Trắc tỉnh dậy, bị Hoa Nguyên nắm lấy hai cánh tay Công tử Trắc vội vàng hỏi: - Ai thế này? Hoa Nguyên nói sẽ mà đáp rằng: - Quan nguyên soái chớ sợ! Tôi là Hoa Nguyên nước Tống đây! Phụng mệnh chúa công tôi lẻn sang đây để xin giảng hòa, quan nguyên soái nghe lời thì hai nước cùng nhau giao hiếu, nhược bằng không nghe thì cái số mệnh của tôi và quan nguyên soái cùng hết ở trong đêm hôm nay! Hoa Nguyên tay trái giữ công tử Trắc, tay phải rút một con dao nhọn ở trong mình ra. Trông dưới bóng đèn, thấy lưỡi dao sáng quắc. Công tử Trắc vội vàng đáp rằng: - Ta nên cùng nhau thương nghị, cớ sao lại dùng cách thô bỉ thế này! Hoa Nguyên rụt lưỡi dao lại xin lỗi rằng: - Quan nguyên soái chớ lấy làm lạ! Vì sự thế gấp quá, cho nên tôi phải làm như vậy. Công tử Trắc nói: - Tình hình nước Tống bây giờ thế nào? Hoa Nguyên nói: - Chẳng nói giấu gì quan nguyên soái, nước tôi lương thực hết cả, cùng khốn lắm rồi! Công tử Trắc giật mình mà nói rằng: - Tình hình nước Tống đã đến nỗi cùng khốn quá như vậy à! Cớ sao nhà ngươi lại chịu đem thực tình mà bảo ta? Hoa Nguyên nói: - Người quân tử thấy người ta cùng khốn thì có lòng thương, tôi chắc quan nguyên soái là quân tử, vậy nên không dám giấu. Công tử Trắc nói: - Thế thì vì cớ gì mà không chịu đầu hàng? Hoa Nguyên nói: - Tình hình nước tôi dẫu cùng khốn, nhưng chí khí dân nước tôi vẫn còn hăng hái, vậy nên vua tôi cố sức chống giữ, thà rằng cùng chết với nhau, còn hơn chịu nhục mà đầu hàng quý quốc, ăn thề ở dưới chân thành. Nếu quan nguyên soái có lòng quân tử rút quân ra ngoài ba mươi dặm thì chúa công tôi xin một lòng thần phục quý quốc, không bao giờ dám trái lời. Công tử Trắc nói: - Ta cũng chẳng nói giấu gì nhà ngươi, dinh quân Sở ta cũng chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày, nếu quá bảy ngày nước ngươi không đầu hàng thì cũng phải rút quân về. Mới rồi, sai quân sĩ làm nhà ở và cày ruộng, là lập kế để khiến cho nước ngươi sợ đó mà thôi. Sáng mai ta tâu với vua Sở lui quân ba mươi dặm, vua tôi nhà ngươi chớ có thất tín. Hoa Nguyên nói: - Tôi xin cùng với quan nguyên soái ăn thề, hai bên đều không sai lời nhau! Công tử Trắc cùng Hoa Nguyên ăn thề xong, lại giao kết với nhau làm anh em. Công tử Trắc đem một lá cờ lệnh tiễn đưa cho Hoa Nguyên, dặn phải đi mau. Hoa Nguyên có lá cờ lệnh tiễn ấy, công nhiên đi thẳng, lại trèo qua vào trong thành nước Tống, đem lời công tử Trắc tâu với Tống Văn công. Sáng hôm sau, công tử Trắc cũng đem lời Hoa Nguyên thuật lại cho Sở Trang Vương nghe, và tâu với Sở Trang Vương rằng: - Suýt nữa thì mạng tôi chết về lưỡi dao của Hoa Nguyên đêm hôm qua rồi, may mà Hoa Nguyên có lòng từ đem tình hình trong nước bảo thực với tôi và xin tôi rút quân; tôi đã nhận lời rồi, đại vương nên rộng lượng mà khoan dung cho nước Tống. Sở Trang Vương nói: - Nước Tống cùng khốn như thế, ta nên cố đánh cho kỳ được. Công tử Trắc sụp lạy mà tâu rằng: - Quân ta chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày, tôi đã trót bảo thực với Hoa Nguyên rồi. Sở Trang Vương nổi giận mà nói rằng: - Sao nhà ngươi lại nói thực với quân giặc? Công tử Trắc nói: - Một nước Tống nhỏ mọn như vậy, còn có người bề tôi không chịu nói dối, huống chi là đường đường nước Sở ta mà lại không có hay sao! Bởi vậy tôi cũng nói thực. Sở Trang Vương nguôi cơn giận mà bảo rằng: - Quan tư mã nói phải lắm! Sở Trang Vương hạ lệnh rút quân, ra đóng ở ngoài ba mươi dặm. Thân Tê thấy Sở Trang Vương đã hạ lệnh rút quân về, không dám ngăn trở, nhưng vật mình ôm bụng mà kêu khóc. Sở Trang Vương sai người khuyên bảo Thân Tê rằng: - Nhà ngươi chớ phiền! Thế nào ta cũng làm cho tỏ được lòng hiếu của nhà ngươi! Hoa Nguyên phụng mệnh Tống Văn công đến dinh quân Sở để xin làm tờ giao ước. Công tử Trắc theo Hoa Nguyên vào thành nước Tống, cùng với Tống Văn công ăn thề. Tống Văn công sai Hoa Nguyên đưa linh cữu Thân Chu sang trả quân Sở, và xin theo sang ở lại nước Sở để làm tin. Sở Trang Vương rút về nước Sở, làm lễ an táng cho Thân Chu rất trọng thể! Các quan triều thần đều phải đi đưa tất cả. Sở Trang Vương lại cho Thân Tê được nối chức cha làm quan đại phu. Hoa Nguyên ở nước Sở, nhân có công tử Trắc, lại kết giao với công tử Anh Tề. Một hôm hai người ngồi chơi với nhau, bàn đến thời sự, công tử Anh Tề thở dài mà than rằng: - Nay Tấn và Sở, hai bên chống nhau, chiến tranh luôn mãi, biết bao giờ cho thiên hạ được thái bình! Hoa Nguyên nói; - Cứ như ý tôi nghĩ thì Tấn và Sở không bên nào chịu thua, nếu được một người đứng lên nói cho hai bên giảng hòa với nhau. Các nước phụ thuộc của bên nào thì triều cống về bên ấy, rồi cùng nhau yên nghỉ, khiến cho nhân dân tránh khỏi những sự lầm than khổ sở, chẳng cũng may cho đời lắm ru! Công tử Anh Tề nói: - Việc ấy, nhà ngươi có làm nổi hay không? Hoa Nguyên nói: - Tôi có quen một người tướng nước Tấn là Loan Thư, năm trước tôi sang sứ nước Tấn, Loan Thư cũng có nói đến việc ấy, tiếc rằng không có ai ở giữa mà liên hợp hai nước với nhau được. Ngày hôm sau, công tử Anh Tề đem lời Hoa Nguyên nói với công tử Trắc. Công tử Trắc nói: - Hai nước còn chưa chán sự tranh chiến, việc ấy đã bàn đến thế nào được. Sau Hoa Nguyên ở Sở được sáu năm thì Tống Văn công (Bảo) chết, con là Tống Cung công (Cố) lên nối ngôi. Hoa Nguyên mới về nước Tống để chịu tang. Tấn Cảnh công nghe tin quân Sở vây Tống đã hơn một năm, mới bảo Bá Tôn rằng: - Nước Tống cố giữ được như vậy, cũng đã mỏi mệt lắm rồi; ta chớ nên thất tín, phải đem quân đi cứu mới được. Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu Tống, bỗng nghe báo có sứ nước Lộ đưa mật thư đến. Nguyên xưa nước Lộ tức là một giống Xích Địch, ở tiếp giáp với nước Lê, đến đời Chu Bình Vương, vua nước Lộ đuổi vua nước Lê mà chiếm lấy đất, từ đó nước Lộ mỗi ngày một cường thịnh. Bấy giờ vua nước Lộ tên gọi Anh Nhi, lấy người chị Tấn Cảnh công là Bá Cơ làm phu nhân. Anh Nhi hèn yếu, quan tướng quốc là Phong Thư chuyên quyền; khi trước có Hồ Xạ Cô là công thần nước Tấn trốn sang ở nước Lộ, Phong Thư còn e sợ, không dám càn rỡ lắm, từ lúc Hồ Xạ Cô chết rồi, Phong Thư không còn e sợ ai cả, muốn cho vua Lộ tuyệt giao với Tấn, liền vu tội cho Bá Cơ, bảo vua nước Lộ giết đi. Một hôm, Phong Thư cùng với vua nước Lộ (tức là Anh Nhi) đi săn ở ngoài cõi, nhân khi uống rượu say, thi nhau bắn chim. Phong Thư bắn ngay vào mắt vua nước Lộ, rồi ném cái cung xuống đất, cười mà nói rằng: - Bắn không trúng, nên phạt một chén rượu. Vua nước Lộ không thể nhịn được, mà muốn trị tội thì sức không nổi, mới làm tờ mật thư đưa sang nước Tấn, xin nước Tấn đem quân sang mà hỏi tội Phong Thư cho. Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng: - Nay ta giết Phong Thư, chiếm lấy đất nước Lộ và cả mấy nước xung quanh nữa thì phía Tây Nam nước Tấn ta mỗi ngày một mở rộng. Cái cơ hội ấy chớ nên bỏ hoài! Tấn Cảnh công cũng giận vua nước Lộ về việc giết vợ là Bá Cơ (chị Tấn Cảnh công), mới sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng, Ngụy Khỏa (con Ngụy Thù) làm phó tướng, đem quân đi đánh nước Lộ. Phong Thư đêm quân ra đất Khúc Lương để chống cự với quân Tấn, bị quân Tấn đánh thua, bỏ chạy sang nước Vệ, Vệ Mục công (Tốc) đang cùng với nước Tấn giao hiếu, liền bắt Phong Thư đưa sang nộp quân Tấn. Tuân Lâm Phủ sai giải Phong Thư về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để trị tội mà giết đi. Quân Tấn kéo thẳng vào kinh thành nước Lộ. Vua nước Lộ là Anh Nhi ra đón. Tuân Lâm Phủ kể tội Anh Nhi giết oan Bá Cơ rồi bắt đem về nước Tấn, lại giả cách nói: Dân nước Lê có lòng nhớ mến vua cũ, liền tìm con cháu vua nước Lê, đắp thành cho ở một chỗ, mượn tiếng là khôi phục cho nước Lê, nhưng kỳ thực lập kế để diệt nước Lộ. Vua nước Lộ là Anh Nhi nghĩ đến nước mà thương xót, rồi tự vẫn chết. Người nước Lộ lập đền thờ. Tấn Cảnh công sợ Tuân Lâm Phủ chưa đánh được nước Lộ, mới đem đại binh đóng ở Tắc Sơn để tiếp ứng. Khi Tuân Lâm Phủ đánh được nước Lộ rồi, đến Tắc Sơn báo tin thắng trận, mới lưu quan phó tướng là Ngụy Khỏa ở lại nước Lộ, để giữ lấy nước ấy. Bỗng có một toán quân kéo đến nước Lộ, hỏi ra mới biết là đại tướng nước Tần tên gọi Đỗ Hồi. Nguyên từ khi Tần Khang công chết, con là Tần Cung công (Đạo) lên nối ngôi, nhân việc Triệu Xuyên sang đánh Sùng là một nước phụ thuộc của Tần, bởi vậy Tần mới kết giao với Phong Thư để chống nhau với Tấn. Được bốn năm thì Tần Cung công chết, con là Tần Hoàn công (Vinh) lên nối ngôi. Bấy giờ đang là năm thứ mười một đời Tần Hoàn công, nghe tin nước Tấn sang đánh Phong Thư, toan đem quân đến cứu, lại nghe tin nước Tấn đã giết Phong Thư, bắt vua nước Lộ, mới sai Đỗ Hồi đem quân sang để tranh lấy địa giới nước Lộ. Đỗ Hồi vốn là một người lực sĩ đã có danh tiếng ở nước Tần, hàm răng nhọn hoắt, khóe mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xồm tóc quăn, mình cao hơn trượng, lại có sức khỏe, vẫn thường cầm một cái khai sơn đại phủ, nặng một trăm hai mươi cân, nguyên cũng là một giống Bạch Địch. Khi trước đã có một lần ở Thanh My Sơn Đỗ Hồi đâm chết luôn năm con hổ, rồi lột da đem về, Tần Hoàn công nghe nói là người vũ dũng, cho làm xa hữu tướng quân; lại một lần nữa. Đỗ Hồi đem ba trăm người phá vỡ được hơn một vạn quân giặc ở Xa Nga Sơn bởi vậy uy danh mỗi ngày một lừng lẫy, làm đến đại tướng. Ngụy Khỏa thấy Đỗ Hồi đem quân đến, tức khắc bày trận để đợi giao chiến. Đỗ Hồi cầm cái khai sơn đại phủ, đem ba trăm quân xông đến tận nơi, chém giết quân Tấn, khác nào như một vị thiên thần giáng hạ. Quân Tấn sợ hãi, không thể nào địch nổi. Ngụy Khỏa nhất định không ra, bỗng nghe báo có tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ (em Ngụy Khỏa) đem quân đến tiếp ứng. Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng: - Chúa công sợ đảng Xích Địch kết liên với nước Tần mà sinh biến vậy có sai tôi đến để tiếp ứng. Ngụy Khỏa thuật chuyện những sự vũ dũng của tướng nước Tần là Đỗ Hồi, không ai địch nổi. Ngụy Kỳ không tin mà nói rằng: - Làm gì đám giặc cỏ ấy! Ngày mai tôi ra trận, thế nào cũng quyết đánh tan được. Ngày hôm sau, Đỗ Hồi lại đến khiêu chiến. Ngụy Kỳ tức giận toan xông ra đánh. Ngụy Khỏa cố ý ngăn lại. Ngụy Kỳ không nghe, đem quân ra giao chiến với Đỗ Hồi. Đỗ Hồi lại múa cái khai sơn đại phủ, tả xung hữu đột, chém giết quân Tấn, Ngụy Kỳ thua to, may nhờ có Ngụy Khỏa đem quân ra tiếp ứng, mới về được trong trại. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa đang ngồi ở trong trại, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì, đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng người ghé tai và đọc ba chữ: "Thanh Thảo Bi"; đến lúc tỉnh dậy, không hiểu là nghĩa làm sao mà chợp mắt ngủ đi thì lại thấy như trước, mới nói chuyện với Ngụy Kỳ. Ngụy Kỳ nói: - Cách đây độ mười dặm, có một cái bãi cỏ, tên gọi "Thanh Thảo Bi", hoặc là quân Tần sau này tất phải thua trận ở đấy, vậy tôi xin đem một toán quân đến mai phục sẵn, rồi anh lập kế dụ quân giặc đến, hai bên cùng đánh thì mới phá vỡ được. Ngụy Kỳ liền đem quân đến mai phục sẵn ở Thanh Thảo Bi. Ngụy Khỏa giả cách truyền lệnh rút quân trở về Lê Thành, quả nhiên Đỗ Hồi đem quân đuổi theo. Ngụy Khỏa giao chiến qua loa mấy hiệp rồi giả cách thua chạy, dụ Đỗ Hồi đến gần Thanh Thảo Bi. Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên đổ ra, cùng với quân Ngụy Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Đỗ Hồi chẳng sợ hãi chút nào cả, vẫn cầm cái khai sơn đại phủ, tả xung hữu đột; dần dần lui về phía Thanh Thảo Bi, bỗng thấy Đỗ Hồi mỗi bước lại ngã một cái, khác nào như người trượt chỗ nước băng. Quân Tấn thấy vậy reo rầm cả lên. Ngụy Khỏa ngẩng trông thấy một ông lão già, mình mặc áo vải, chân đi giầy đay, đang kết những dây cỏ lại, để làm cho vướng chân Đỗ Hồi. Ngụy Khỏa và Ngụy Kỳ đi đến nơi, bắt sống được Đỗ Hồi. Quân Đỗ Hồi thấy chủ tướng bị bắt, đều bỏ chạy tán loạn cả, bị quân Tấn đuổi bắt, trong ba trăm người chỉ trốn thoát được bốn, năm chục người mà thôi. Ngụy Khỏa hỏi Đỗ Hồi rằng: - Mày cậy có sức khỏe, cớ sao cũng bị bắt? Đỗ Hồi nói: - Không biết hai chân ta vướng phải vật gì mà khó cử động quá, đó là lòng trời hại ta, chứ không phải là sức ta không đánh nổi. Ngụy Khỏa nghĩ lấy làm lạ. Ngụy Kỳ bàn với Ngụy Khỏa rằng: - Đỗ Hồi đã có sức khỏe, nếu ta để sống thì e lại sinh biến. Ngụy Khỏa nói: - Ý ta cũng nghĩ như vậy! Nói xong, truyền chém Đỗ Hồi, rồi đem đầu về Tắc Sơn nộp Tấn Cảnh công để lấy công. Đêm hôm ấy, Ngụy Kỳ nằm ngủ, lại thấy ông lão già ngày hôm trước đến trước mặt vái chào mà nói rằng: - Tướng quân có biết vì cớ gì mà Đỗ Hồi bị bắt hay không. Vì tôi kết cỏ lại để làm cho vướng chân mà ngã đó. Ngụy Khỏa kính sợ, nói rằng: - Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại giúp tôi như vậy, tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ! Ông lão già nói: - Tôi là thân phụ nàng Tổ Cơ. Tướng quân biết theo lời trị mệnh của tiền nhân mà gả chồng cho con gái tôi, vậy tôi cảm cái ơn ấy, đến đây để giúp tướng quân, sau này con cháu tướng quân còn được đời đời vinh hiển mãi. Nguyên xưa thân phụ Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu tên gọi Tổ Cơ. Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc lại dặn Ngụy Khỏa rằng: - Nếu ta ra trận mà chết đi, mày nên gả Tổ Cơ cho một người nào tử tế, khiến Tổ Cơ có chỗ mà nương tựa, chớ để cho hắn phải khổ sở thì ta dẫu chết cũng được yên lòng! Đến lúc Ngụy Thù ốm nặng, lại dặn Ngụy Khỏa rằng: - Tổ Cơ là người thiếp yêu của ta, khi ta chết rồi, mày phải đem nàng ấy mà chôn theo ta, khiến cho ta ở dưới suối vàng có người làm bạn. Nói xong thì chết. Ngụy Khỏa an táng cho cha, không bắt Tổ Cơ phải chôn theo. Ngụy Kỳ nói: - Anh không nhớ lời dặn lúc cha gần mất hay sao? Ngụy Khỏa nói: - Thân phụ ta lúc thường vẫn dặn ta sau này gả chồng cho Tổ Cơ, đến lúc gần mất, lại dặn phải đem chôn theo, đó là lời dặn lúc mơ hoảng mà thôi; bởi vậy người hiếu tử nên theo trị mệnh, chớ theo loạn mệnh. Sau Ngụy Khỏa gả Tổ Cơ cho một người học trò. Vì Ngụy Khỏa có cái âm đức ấy, vậy nên linh hồn thân phụ Tổ Cơ mới hiện lên kết cỏ để báo ơn. Ngụy Khỏa thuật chuyện chiêm bao cho Ngụy Kỳ nghe. Ngụy Kỳ lấy làm chuyện lạ lùng. Vua tôi nước Tần nghe tin Đỗ Hồi thua trận, đều sợ hãi mất vía. Tấn Cảnh công thưởng công Ngụy Khỏa, phong cho đất Linh Hồ, lại đúc một quả chuông để kỷ niệm công thắng trận. Sau người Tấn lấy cớ quả chuông ấy tự Tấn Cảnh công đúc nên, bởi vậy mới gọi quả chuông là "Cảnh chung". Tấn Cảnh công lại sai Sĩ Hội đem quân đi diệt nước Điền Thị, nước Lưu Vu và nước phụ thuộc của Lưu Vu là nước Đạc Thần. Mấy nước ấy đều là giống Xích Địch, từ đó địa giới các giống Xích Địch thuộc về nước Tấn tất cả. Bấy giờ nước Tấn mất mùa, kẻ trộm nhiều lắm, Tuân Lâm Phủ dùng được một người có tài khéo dò xét để tìm bắt quân kẻ trộm, người ấy tên gọi là Khước Ung. Khước Ung thường ra chơi chợ, bỗng trỏ vào một người bảo là kẻ trộm, bắt đem về tra hỏi, quả nhiên là kẻ trộm thật. Tuân Lâm Phủ hỏi Khước Ung rằng: - Tại sao ngươi lại biết được như vậy? Khước Ung nói: - Tôi trông con mắt người ấy: Nom thấy những hàng hóa ở chợ thì có ý tham, nom thấy những người ở chợ thì có ý thẹn, sau nom thấy tôi đi tới nơi thì có ý sợ, bởi thế mà tôi biết là kẻ trộm. Khước Ung mỗi ngày bắt được mấy chục đứa kẻ trộm, mà kẻ trộm càng ngày càng nhiều. Quan Đại phu là Dương Thạch Chức nói với Tuân Lâm Phủ rằng: - Quan nguyên soái dùng Khước Ung để bắt trộm, nhưng tôi e rằng kẻ trộm chưa bắt hết mà Khước Ung chết đến nơi! Tuân Lâm Phủ giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Tại làm sao thế?

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  7. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 55 Giắt dao lẻn vào dinh quân Sở Kết cỏ bắt được tướng nước Tần

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sở Trang Vương họp các quan triều thần lại để thương nghị việc chống nhau với Tấn. Công tử Trắc nói với Sở Trang Vương rằng: - Nước Tống xưa nay vẫn một lòng theo Tấn, nay ta đem quân đi đánh Tống thì Tấn tất phải sang cứu, khi nào còn dám tranh nước Trịnh của ta. Sở Trang Vương nói: - Nhà ngươi bàn dẫu phải nhưng ta chưa có cớ gì mà đánh Tống được. Tiên quân ta ngày xưa đánh Tống một trận ở sông Hoằng Thủy, vua Tống bị thương chết, thế mà nước Tống cũng chịu nhịn ta; đến khi ta hội chư hầu ở đất Quyết Lạc, vua Tống lại hết sức cung phụng nước ta. Sau Tống Chiêu công bị giết, công tử Bảo lên ngôi, nay đã mười tám năm rồi, ta muốn đánh Tống mà chưa tìm được cớ gì cả. Công tử Anh Tề nói: - Khó gì điều ấy! Vua Tề đã mấy lần triều sinh nước ta, mà ta chưa đáp lại, nay ta sai người sang sứ nước Tề, mượn đường đi qua Tống, nếu Tống không cho hay là vô lễ với sứ nước ta thì ta sẽ gây sự đem quân sang đánh. Sở Trang Vương nói: - Bây giờ nên sai ai đi sứ? Công tử Anh Tề nói: - Thân Vô Úy khi trước đã có theo tiên quân ta sang hội ở đất Quyết Lạc. Người ấy nên sai đi. Sở Trang Vương liền sai Thân Vô Úy đi sang sứ nước Tề. Thân Vô Úy tâu với Sở Trang Vương rằng: - Sang sứ nước Tề, tất phải đi qua nước Tống, xin đại vương cấp cho một đạo văn thư để mượn đường. Sở Trang Vương nói: - Nhà ngươi sợ nước Tống dám ngăn trở hay sao! Thân Vô Úy nói: - Khi trước tiên quân ta hội chư hầu ở Quyết Lạc, rồi cùng với các vua chư hầu đi săn ở Mạnh Chư, vua Tống trái lệnh, tôi bắt người thị vệ mà giết đi, bởi vậy nước Tống oán giận tôi lắm. Nay tôi qua nước Tống, nếu đại vương không cấp cho một đạo văn thư mượn đường thì nước Tống tất giết tôi. Sở Trang Vương nói: - Trong đạo văn thư sang nước Tề, ta đề tên là Thân Chu, không dùng cái tên cũ Thân Vô Úy nữa! Thân Vô Úy chưa chịu đi mà nói rằng: - Tên thì đổi được, nhưng mặt không thể đổi được. Sở Trang Vương nổi giận, nói: - Nếu nước Tống giết nhà ngươi thì ta quyết vì nhà ngươi báo thù, mà đem quân diệt nước Tống. Thân Vô Úy không dám từ chối nữa. Ngày hôm sau đưa người con là Thân Tê vào yết kiến Sở Trang Vương mà tâu rằng: - Tôi chết vì việc nước, xin đại vương trông nom con tôi. Sở Trang Vương nói: - Đó là việc của ta, nhà ngươi chớ lo ngại! Thân Chu (tức là Thân Vô Úy) từ giã rồi đi. Người con là Thân Tê tiễn ra đến ngoài cõi. Thân Chu dặn rằng: - Cha đi chuyến này, tất chết ở nước Tống, con nên tâu với đại vương để báo thù cho cha, con chớ quên lời cha dặn. Hai cha con cùng ứa nước mắt mà từ giã nhau. Thân Chu đi đến địa giới nước Tống. Quan trấn thủ ở nước Tống biết là sứ nước Sở, đòi xem văn thư. Thân Chu nói: - Ta phụng mệnh vua Sở, chỉ có đạo văn thư sang sứ nước Tề, chứ không có đạo văn thư mượn đường nước Tống. Quan trấn thủ giữ Thân Chu lại, rồi sai người phi báo Tống Văn công. Bấy giờ Hoa Nguyên đang cầm quyền chính nước Tống, tâu với Tống Văn công rằng: - Nước Sở là một nước cừu địch với ta, nay sai sứ qua nước ta mà không có văn thư mượn đường, thế là khinh ta quá lắm, xin chúa công bắt sứ nước Sở mà giết đi. Tống Văn công nói: - Ta giết sứ nước Sở thì nước Sở tất đem quân sang đánh ta, ta biết làm thế nào? Hoa Nguyên nói: - Chẳng thà bị quân Sở đem quân sang đánh, còn hơn là để cho nước Sở khinh ta; nước Sở đã khinh ta thì rồi thế nào cũng đem quân sang đánh ta. Đằng nào ta cũng bị quân Sở đánh, chi bằng ta hãy giết sứ Sở đi, để cho khỏi hổ thẹn. Hoa Nguyên sai người bắt Thân Chu giải về triều. Thân Chu vào đến trong triều, Hoa Nguyên trông thấy nhớ ngay là Thân Vô Úy, lại càng tức giận mà mắng rằng: - Ngày trước nhà ngươi dám giết thị vệ của tiên quân ta, nay đổi tên là Thân Chu để tránh cho khỏi chết hay sao! Thân Chu biết mình thế nào cũng chết, mới quát to lên mà mắng rằng: - Thằng Bảo (tên Tống Văn công) kia, mày thông gian tổ mẫu giết chết đích điệt, may mà thoát nạn, lại còn dám vô lễ với sứ thần nước lớn. Quân Sở ta kéo sang đây thì vua tôi mày xác tan ra như cám. Hoa Nguyên sai cắt lưỡi Thân Chu trước, rồi sau mới chém, lại đốt văn thư của nước Sở, đem tro ném ra ngoài cõi. Người theo hầu Thân Chu về báo với Sở Trang Vương. Sở Trang Vương đang ăn cơm, nghe tin Thân Chu bị giết, ném đũa xuống chiếu rồi đứng ngay dậy, sai quan tư mã là công tử Trắc sửa soạn binh mã để thân hành sang đánh Tống; lại cho Thân Tê (con Thân Chu) làm chức quân chính để theo đi đánh. Quân nước Sở vây kín thành Thư Dương (tức là kinh thành nước Tống), bốn mặt đánh gấp lắm. Hoa Nguyên cố sức chống giữ, lại sai quan đại phu là Nhạc Anh Tề lẻn sang cáo cấp với nước Tấn. Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu, mưu thần là Bá Tôn can rằng: - Tuân Lâm Phủ đem đại binh đi đánh quân Sở mà còn bị thua ở đất Bí Thành, ấy là lòng trời giúp cho nước Sở đó! Nay ta đi cứu Tống, vị tất đã nên việc. Tấn Cảnh công nói: - Hiện bây giờ chỉ có nước Tống là thân với ta, nếu ta không cứu thì bỏ mất nước Tống! Bá Tôn nói: - Nước Sở cách xa nước Tống hai nghìn dặm, lương thực khó vận lắm. Nay ta sai người sang nước Tống, nói là đại binh đã sắp tới nơi, khiến cho nước Tống cố sức mà chống giữ, chẳng qua chỉ vài tháng là quân Sở phải rút quân về, thế là ta không đánh Sở mà có cái công cứu được nước Tống. Tấn Cảnh công khen phải, hỏi các quan triều thần xem có ai dám sang sứ nước Tống. Quan đại phu là Giải Dương xin đi. Tấn Cảnh công nói: - Việc này trừ phi Tử Hổ (tên tự của Giải Dương) thì cũng khó lòng ai đương nổi! Giải Dương mặc đồ vi phục đi sang nước Tống, bị quân Sở bắt được, đem nộp Sở Trang Vương. Sở Trang Vương nhận biết là tướng nước Tấn tên gọi Giải Dương, mới hỏi Giải Dương rằng: - Nhà ngươi đến đây có việc gì? Giải Dương nói: - Tôi phụng mệnh chúa công tôi đến dụ nước Tống cứ cố sức chống giữ để đợi quân cứu viện. Sở Trang Vương nói: - Ngày trước nhà ngươi đã bị tướng nước ta là Vĩ Giả bắt được, ta không nỡ giết mà tha cho về, nay nhà ngươi lại chui đầu vào lưới thì còn nói gì nữa! Giải Dương nói: - Tấn và Sở vẫn là cừu địch với nhau thì tôi bị giết là phải lắm lại còn nói gì! Sở Trang Vương khám trong mình Giải Dương, bắt được đạo văn thư, liền mở ra xem, xem xong bảo rằng: - Kinh thành nước Tống chẳng qua chỉ nay mai thì phá vỡ mà thôi, bây giờ nhà ngươi nói trái lại những lời trong văn thư mà bảo nước Tống rằng: "Nước Tấn tôi ngày nay nhiều việc cần kíp, không thể nào sang cứu được, sợ để cho nước ngươi mong đợi thì lỡ cả công việc. Vậy chúa công tôi có sai tôi đến nói cho nước ngươi biết". Như thế thì người nước Tống không còn mong đợi gì nữa, tất phải ra hàng; nhân dân hai nước tránh khỏi được cái vạ chiến tranh khổ sở. Khi việc đã thành rồi, ta sẽ trọng thưởng nhà ngươi và cho làm quan ở nước Sở ta. Giải Dương cúi đầu nín lặng, không nói gì cả. Sở Trang Vương nói: - Nếu không nghe lời thì ta chém đầu đi! Giải Dương vốn không muốn nghe lời, nhưng sợ mình chết trong đám quân Sở thì không có ai đem lời vua Tấn mà truyền bảo cho nước Tống biết, mới giả cách xin vâng mệnh. Sở Trang Vương để Giải Dương đứng ở trên xe, bắt phải truyền bảo cho người nước Tống. Giải Dương liền gọi người nước Tống mà bảo rằng: - Ta là sứ nước Tấn, tên gọi Giải Dương, bị quân Sở bắt được, bảo ta dụ nước ngươi ra hàng, nhưng nước ngươi đừng có nghe, chúa công ta sắp sửa đem đại binh đến cứu. Sở Trang Vương nghe tiếng, liền sai lôi xuống mà mắng rằng: - Nhà ngươi đã nhận lời với ta mà lại bội ước là người thất tín, chớ trách ta tàn ác. Sở Trang Vương truyền cho võ sĩ đem Giải Dương ra chém. Giải Dương chẳng sợ hãi chút nào cả, thong dong mà đáp rằng: - Sao đại vương lại bảo là tôi thất tín! Nếu tôi theo lời đại vương thì lại thất tín với nước Tấn tôi lắm. Giả sử nước Sở có người bề tôi nào ăn lễ của nước khác mà trái lời đại vương thì đại vương cho là người biết thủ tín hay sao? Tôi xin chịu chết để tỏ ra rằng: Điều tín của nước Sở khác người nhiều lắm! Sở Trang Vương khen rằng: - Nhà ngươi thật là một người trung thần không sợ chết! Nói xong, liền tha cho về. Hoa Nguyên nước Tống nghe thấy Giải Dương nói là quân Tấn sắp sửa sang cứu, lại càng cố sức chống cự với quân Sở. Công tử Trắc (tướng nước Sở) sai quân sĩ làm một cái chòi cao ở phía ngoài thành nước Tống để ở. Từ đó nom vào trong thành mà xét xem tình hình nước Tống. Hoa Nguyên (tướng nước Tống) cũng làm một cái chòi ở phía trong thành để nom ra. Hai bên giữ nhau từ tháng chín năm trước đến tháng năm năm sau, trong thành nước Tống, lương thực hết sạch cả, nhiều người bị chết đói. Hoa Nguyên đem những lời trung nghĩa khuyên bảo kẻ dưới, bởi vậy người nước Tống đều một lòng vì nước mà cố giữ, dẫu khổ sở đến đâu cũng không ngã lòng. Sở Trang Vương không biết làm thế nào. Quân sĩ lại tâu với Sở Trang Vương rằng: - Lương thực trong dinh, chỉ còn bảy ngày nữa thì hết. Sở Trang Vương nói: - Ta không ngờ nước Tống mà khó đánh được như thế! Nói xong, liền đứng lên trên xe để xét xem tình hình quân sĩ nước Tống, thì thấy quân sĩ nước Tống rất nghiêm chỉnh. Sở Trang Vương thở dài, rồi triệu công tử Trắc để bàn việc quân về. Thân Tê (con Thân Vô Úy) sụp lạy Sở Trang Vương, khóc mà nói rằng: - Cha tôi liều chết để phụng mệnh đại vương, nay đại vương lại thất tín với cha tôi hay sao! Sở Trang Vương nét mặt có ý hổ thẹn. Thân Thúc Thời bấy giờ đang làm người dong xe cho Sở Trang Vương, mới hiến kế rằng: - Nước Tống không chịu hàng là vì biết chừng quân ta không ở lâu được, nếu ta truyền cho quân sĩ làm nhà ở, và cày ruộng để lấy thóc ăn, tỏ cho nước Tống biết là quân ta còn ở đây trường cửu thế thì nước Tống tất sợ mà phải đầu hàng. Sở Trang Vương khen phải, truyền cho quân sĩ đi đốn gỗ làm nhà ở xung quanh thành. Trong mười người thì để năm người vây thành, còn năm người cày ruộng, cứ mười ngày lại thay đổi nhau một lần. Hoa Nguyên nghe thấy tin ấy, nói với Tống Văn công rằng: - Quân Sở không có ý rút về mà quân Tấn cũng không thấy đến cứu, biết làm thế nào, âu là tôi lẻn vào dinh quân Sở để uy hiếp công tử Trắc, bắt phải cho giảng hòa thì họa chăng mới được việc. Tống Văn công nói: - Nước ta còn hay là mất, quan hệ ở việc này lắm, quan tướng quốc nên phải cẩn thận mới được! Hoa Nguyên dò biết là công tử Trắc vẫn ngủ ở trên chòi cao, lại dò biết hết cả họ tên những người thị vệ của Sở Trang Vương. Đêm hôm ấy thay hình đổi dạng, trèo qua thành xuống, đến dinh quân Sở. Gặp quân Sở đang đi tuần, Hoa Nguyên hỏi rằng: - Quan nguyên soái có ở trên chòi không? Quân Sở nói: - Có! Hoa Nguyên lại hỏi: - Ngài đã ngủ chưa? Quân Sở nói: - Mấy ngày hôm nay, ngài bận việc khó nhọc quá, hôm nay đại vương cho một chén rượu để uống. Ngài uống xong đã đi ngủ rồi! Hoa Nguyên vội vàng trèo thẳng lên trên chòi. Quân Sở ngăn lại. Hoa Nguyên nói: - Hôm nay đại vương có việc cơ mật, dặn bảo quan nguyên soái, mới rồi lại có cho quan nguyên soái uống rượu, vậy nên đại vương sợ quan nguyên soái say rượu mà ngủ quên đi mất, sai tôi đến đây để thương thuyết lại, rồi về nói ngay cho đại vương biết. Quân Sở tưởng là thực, để cho Hoa Nguyên trèo lên. Trên chòi đèn thắp còn sáng, công tử Trắc cởi áo, nằm ngủ đã say, Hoa Nguyên trèo ngay lên giường nằm, se sẽ lấy tay lay công tử Trắc. Công tử Trắc tỉnh dậy, bị Hoa Nguyên nắm lấy hai cánh tay Công tử Trắc vội vàng hỏi: - Ai thế này? Hoa Nguyên nói sẽ mà đáp rằng: - Quan nguyên soái chớ sợ! Tôi là Hoa Nguyên nước Tống đây! Phụng mệnh chúa công tôi lẻn sang đây để xin giảng hòa, quan nguyên soái nghe lời thì hai nước cùng nhau giao hiếu, nhược bằng không nghe thì cái số mệnh của tôi và quan nguyên soái cùng hết ở trong đêm hôm nay! Hoa Nguyên tay trái giữ công tử Trắc, tay phải rút một con dao nhọn ở trong mình ra. Trông dưới bóng đèn, thấy lưỡi dao sáng quắc. Công tử Trắc vội vàng đáp rằng: - Ta nên cùng nhau thương nghị, cớ sao lại dùng cách thô bỉ thế này! Hoa Nguyên rụt lưỡi dao lại xin lỗi rằng: - Quan nguyên soái chớ lấy làm lạ! Vì sự thế gấp quá, cho nên tôi phải làm như vậy. Công tử Trắc nói: - Tình hình nước Tống bây giờ thế nào? Hoa Nguyên nói: - Chẳng nói giấu gì quan nguyên soái, nước tôi lương thực hết cả, cùng khốn lắm rồi! Công tử Trắc giật mình mà nói rằng: - Tình hình nước Tống đã đến nỗi cùng khốn quá như vậy à! Cớ sao nhà ngươi lại chịu đem thực tình mà bảo ta? Hoa Nguyên nói: - Người quân tử thấy người ta cùng khốn thì có lòng thương, tôi chắc quan nguyên soái là quân tử, vậy nên không dám giấu. Công tử Trắc nói: - Thế thì vì cớ gì mà không chịu đầu hàng? Hoa Nguyên nói: - Tình hình nước tôi dẫu cùng khốn, nhưng chí khí dân nước tôi vẫn còn hăng hái, vậy nên vua tôi cố sức chống giữ, thà rằng cùng chết với nhau, còn hơn chịu nhục mà đầu hàng quý quốc, ăn thề ở dưới chân thành. Nếu quan nguyên soái có lòng quân tử rút quân ra ngoài ba mươi dặm thì chúa công tôi xin một lòng thần phục quý quốc, không bao giờ dám trái lời. Công tử Trắc nói: - Ta cũng chẳng nói giấu gì nhà ngươi, dinh quân Sở ta cũng chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày, nếu quá bảy ngày nước ngươi không đầu hàng thì cũng phải rút quân về. Mới rồi, sai quân sĩ làm nhà ở và cày ruộng, là lập kế để khiến cho nước ngươi sợ đó mà thôi. Sáng mai ta tâu với vua Sở lui quân ba mươi dặm, vua tôi nhà ngươi chớ có thất tín. Hoa Nguyên nói: - Tôi xin cùng với quan nguyên soái ăn thề, hai bên đều không sai lời nhau! Công tử Trắc cùng Hoa Nguyên ăn thề xong, lại giao kết với nhau làm anh em. Công tử Trắc đem một lá cờ lệnh tiễn đưa cho Hoa Nguyên, dặn phải đi mau. Hoa Nguyên có lá cờ lệnh tiễn ấy, công nhiên đi thẳng, lại trèo qua vào trong thành nước Tống, đem lời công tử Trắc tâu với Tống Văn công. Sáng hôm sau, công tử Trắc cũng đem lời Hoa Nguyên thuật lại cho Sở Trang Vương nghe, và tâu với Sở Trang Vương rằng: - Suýt nữa thì mạng tôi chết về lưỡi dao của Hoa Nguyên đêm hôm qua rồi, may mà Hoa Nguyên có lòng từ đem tình hình trong nước bảo thực với tôi và xin tôi rút quân; tôi đã nhận lời rồi, đại vương nên rộng lượng mà khoan dung cho nước Tống. Sở Trang Vương nói: - Nước Tống cùng khốn như thế, ta nên cố đánh cho kỳ được. Công tử Trắc sụp lạy mà tâu rằng: - Quân ta chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày, tôi đã trót bảo thực với Hoa Nguyên rồi. Sở Trang Vương nổi giận mà nói rằng: - Sao nhà ngươi lại nói thực với quân giặc? Công tử Trắc nói: - Một nước Tống nhỏ mọn như vậy, còn có người bề tôi không chịu nói dối, huống chi là đường đường nước Sở ta mà lại không có hay sao! Bởi vậy tôi cũng nói thực. Sở Trang Vương nguôi cơn giận mà bảo rằng: - Quan tư mã nói phải lắm! Sở Trang Vương hạ lệnh rút quân, ra đóng ở ngoài ba mươi dặm. Thân Tê thấy Sở Trang Vương đã hạ lệnh rút quân về, không dám ngăn trở, nhưng vật mình ôm bụng mà kêu khóc. Sở Trang Vương sai người khuyên bảo Thân Tê rằng: - Nhà ngươi chớ phiền! Thế nào ta cũng làm cho tỏ được lòng hiếu của nhà ngươi! Hoa Nguyên phụng mệnh Tống Văn công đến dinh quân Sở để xin làm tờ giao ước. Công tử Trắc theo Hoa Nguyên vào thành nước Tống, cùng với Tống Văn công ăn thề. Tống Văn công sai Hoa Nguyên đưa linh cữu Thân Chu sang trả quân Sở, và xin theo sang ở lại nước Sở để làm tin. Sở Trang Vương rút về nước Sở, làm lễ an táng cho Thân Chu rất trọng thể! Các quan triều thần đều phải đi đưa tất cả. Sở Trang Vương lại cho Thân Tê được nối chức cha làm quan đại phu. Hoa Nguyên ở nước Sở, nhân có công tử Trắc, lại kết giao với công tử Anh Tề. Một hôm hai người ngồi chơi với nhau, bàn đến thời sự, công tử Anh Tề thở dài mà than rằng: - Nay Tấn và Sở, hai bên chống nhau, chiến tranh luôn mãi, biết bao giờ cho thiên hạ được thái bình! Hoa Nguyên nói; - Cứ như ý tôi nghĩ thì Tấn và Sở không bên nào chịu thua, nếu được một người đứng lên nói cho hai bên giảng hòa với nhau. Các nước phụ thuộc của bên nào thì triều cống về bên ấy, rồi cùng nhau yên nghỉ, khiến cho nhân dân tránh khỏi những sự lầm than khổ sở, chẳng cũng may cho đời lắm ru! Công tử Anh Tề nói: - Việc ấy, nhà ngươi có làm nổi hay không? Hoa Nguyên nói: - Tôi có quen một người tướng nước Tấn là Loan Thư, năm trước tôi sang sứ nước Tấn, Loan Thư cũng có nói đến việc ấy, tiếc rằng không có ai ở giữa mà liên hợp hai nước với nhau được. Ngày hôm sau, công tử Anh Tề đem lời Hoa Nguyên nói với công tử Trắc. Công tử Trắc nói: - Hai nước còn chưa chán sự tranh chiến, việc ấy đã bàn đến thế nào được. Sau Hoa Nguyên ở Sở được sáu năm thì Tống Văn công (Bảo) chết, con là Tống Cung công (Cố) lên nối ngôi. Hoa Nguyên mới về nước Tống để chịu tang. Tấn Cảnh công nghe tin quân Sở vây Tống đã hơn một năm, mới bảo Bá Tôn rằng: - Nước Tống cố giữ được như vậy, cũng đã mỏi mệt lắm rồi; ta chớ nên thất tín, phải đem quân đi cứu mới được. Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu Tống, bỗng nghe báo có sứ nước Lộ đưa mật thư đến. Nguyên xưa nước Lộ tức là một giống Xích Địch, ở tiếp giáp với nước Lê, đến đời Chu Bình Vương, vua nước Lộ đuổi vua nước Lê mà chiếm lấy đất, từ đó nước Lộ mỗi ngày một cường thịnh. Bấy giờ vua nước Lộ tên gọi Anh Nhi, lấy người chị Tấn Cảnh công là Bá Cơ làm phu nhân. Anh Nhi hèn yếu, quan tướng quốc là Phong Thư chuyên quyền; khi trước có Hồ Xạ Cô là công thần nước Tấn trốn sang ở nước Lộ, Phong Thư còn e sợ, không dám càn rỡ lắm, từ lúc Hồ Xạ Cô chết rồi, Phong Thư không còn e sợ ai cả, muốn cho vua Lộ tuyệt giao với Tấn, liền vu tội cho Bá Cơ, bảo vua nước Lộ giết đi. Một hôm, Phong Thư cùng với vua nước Lộ (tức là Anh Nhi) đi săn ở ngoài cõi, nhân khi uống rượu say, thi nhau bắn chim. Phong Thư bắn ngay vào mắt vua nước Lộ, rồi ném cái cung xuống đất, cười mà nói rằng: - Bắn không trúng, nên phạt một chén rượu. Vua nước Lộ không thể nhịn được, mà muốn trị tội thì sức không nổi, mới làm tờ mật thư đưa sang nước Tấn, xin nước Tấn đem quân sang mà hỏi tội Phong Thư cho. Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng: - Nay ta giết Phong Thư, chiếm lấy đất nước Lộ và cả mấy nước xung quanh nữa thì phía Tây Nam nước Tấn ta mỗi ngày một mở rộng. Cái cơ hội ấy chớ nên bỏ hoài! Tấn Cảnh công cũng giận vua nước Lộ về việc giết vợ là Bá Cơ (chị Tấn Cảnh công), mới sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng, Ngụy Khỏa (con Ngụy Thù) làm phó tướng, đem quân đi đánh nước Lộ. Phong Thư đêm quân ra đất Khúc Lương để chống cự với quân Tấn, bị quân Tấn đánh thua, bỏ chạy sang nước Vệ, Vệ Mục công (Tốc) đang cùng với nước Tấn giao hiếu, liền bắt Phong Thư đưa sang nộp quân Tấn. Tuân Lâm Phủ sai giải Phong Thư về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để trị tội mà giết đi. Quân Tấn kéo thẳng vào kinh thành nước Lộ. Vua nước Lộ là Anh Nhi ra đón. Tuân Lâm Phủ kể tội Anh Nhi giết oan Bá Cơ rồi bắt đem về nước Tấn, lại giả cách nói: Dân nước Lê có lòng nhớ mến vua cũ, liền tìm con cháu vua nước Lê, đắp thành cho ở một chỗ, mượn tiếng là khôi phục cho nước Lê, nhưng kỳ thực lập kế để diệt nước Lộ. Vua nước Lộ là Anh Nhi nghĩ đến nước mà thương xót, rồi tự vẫn chết. Người nước Lộ lập đền thờ. Tấn Cảnh công sợ Tuân Lâm Phủ chưa đánh được nước Lộ, mới đem đại binh đóng ở Tắc Sơn để tiếp ứng. Khi Tuân Lâm Phủ đánh được nước Lộ rồi, đến Tắc Sơn báo tin thắng trận, mới lưu quan phó tướng là Ngụy Khỏa ở lại nước Lộ, để giữ lấy nước ấy. Bỗng có một toán quân kéo đến nước Lộ, hỏi ra mới biết là đại tướng nước Tần tên gọi Đỗ Hồi. Nguyên từ khi Tần Khang công chết, con là Tần Cung công (Đạo) lên nối ngôi, nhân việc Triệu Xuyên sang đánh Sùng là một nước phụ thuộc của Tần, bởi vậy Tần mới kết giao với Phong Thư để chống nhau với Tấn. Được bốn năm thì Tần Cung công chết, con là Tần Hoàn công (Vinh) lên nối ngôi. Bấy giờ đang là năm thứ mười một đời Tần Hoàn công, nghe tin nước Tấn sang đánh Phong Thư, toan đem quân đến cứu, lại nghe tin nước Tấn đã giết Phong Thư, bắt vua nước Lộ, mới sai Đỗ Hồi đem quân sang để tranh lấy địa giới nước Lộ. Đỗ Hồi vốn là một người lực sĩ đã có danh tiếng ở nước Tần, hàm răng nhọn hoắt, khóe mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xồm tóc quăn, mình cao hơn trượng, lại có sức khỏe, vẫn thường cầm một cái khai sơn đại phủ, nặng một trăm hai mươi cân, nguyên cũng là một giống Bạch Địch. Khi trước đã có một lần ở Thanh My Sơn Đỗ Hồi đâm chết luôn năm con hổ, rồi lột da đem về, Tần Hoàn công nghe nói là người vũ dũng, cho làm xa hữu tướng quân; lại một lần nữa. Đỗ Hồi đem ba trăm người phá vỡ được hơn một vạn quân giặc ở Xa Nga Sơn bởi vậy uy danh mỗi ngày một lừng lẫy, làm đến đại tướng. Ngụy Khỏa thấy Đỗ Hồi đem quân đến, tức khắc bày trận để đợi giao chiến. Đỗ Hồi cầm cái khai sơn đại phủ, đem ba trăm quân xông đến tận nơi, chém giết quân Tấn, khác nào như một vị thiên thần giáng hạ. Quân Tấn sợ hãi, không thể nào địch nổi. Ngụy Khỏa nhất định không ra, bỗng nghe báo có tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ (em Ngụy Khỏa) đem quân đến tiếp ứng. Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng: - Chúa công sợ đảng Xích Địch kết liên với nước Tần mà sinh biến vậy có sai tôi đến để tiếp ứng. Ngụy Khỏa thuật chuyện những sự vũ dũng của tướng nước Tần là Đỗ Hồi, không ai địch nổi. Ngụy Kỳ không tin mà nói rằng: - Làm gì đám giặc cỏ ấy! Ngày mai tôi ra trận, thế nào cũng quyết đánh tan được. Ngày hôm sau, Đỗ Hồi lại đến khiêu chiến. Ngụy Kỳ tức giận toan xông ra đánh. Ngụy Khỏa cố ý ngăn lại. Ngụy Kỳ không nghe, đem quân ra giao chiến với Đỗ Hồi. Đỗ Hồi lại múa cái khai sơn đại phủ, tả xung hữu đột, chém giết quân Tấn, Ngụy Kỳ thua to, may nhờ có Ngụy Khỏa đem quân ra tiếp ứng, mới về được trong trại. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa đang ngồi ở trong trại, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì, đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng người ghé tai và đọc ba chữ: "Thanh Thảo Bi"; đến lúc tỉnh dậy, không hiểu là nghĩa làm sao mà chợp mắt ngủ đi thì lại thấy như trước, mới nói chuyện với Ngụy Kỳ. Ngụy Kỳ nói: - Cách đây độ mười dặm, có một cái bãi cỏ, tên gọi "Thanh Thảo Bi", hoặc là quân Tần sau này tất phải thua trận ở đấy, vậy tôi xin đem một toán quân đến mai phục sẵn, rồi anh lập kế dụ quân giặc đến, hai bên cùng đánh thì mới phá vỡ được. Ngụy Kỳ liền đem quân đến mai phục sẵn ở Thanh Thảo Bi. Ngụy Khỏa giả cách truyền lệnh rút quân trở về Lê Thành, quả nhiên Đỗ Hồi đem quân đuổi theo. Ngụy Khỏa giao chiến qua loa mấy hiệp rồi giả cách thua chạy, dụ Đỗ Hồi đến gần Thanh Thảo Bi. Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên đổ ra, cùng với quân Ngụy Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Đỗ Hồi chẳng sợ hãi chút nào cả, vẫn cầm cái khai sơn đại phủ, tả xung hữu đột; dần dần lui về phía Thanh Thảo Bi, bỗng thấy Đỗ Hồi mỗi bước lại ngã một cái, khác nào như người trượt chỗ nước băng. Quân Tấn thấy vậy reo rầm cả lên. Ngụy Khỏa ngẩng trông thấy một ông lão già, mình mặc áo vải, chân đi giầy đay, đang kết những dây cỏ lại, để làm cho vướng chân Đỗ Hồi. Ngụy Khỏa và Ngụy Kỳ đi đến nơi, bắt sống được Đỗ Hồi. Quân Đỗ Hồi thấy chủ tướng bị bắt, đều bỏ chạy tán loạn cả, bị quân Tấn đuổi bắt, trong ba trăm người chỉ trốn thoát được bốn, năm chục người mà thôi. Ngụy Khỏa hỏi Đỗ Hồi rằng: - Mày cậy có sức khỏe, cớ sao cũng bị bắt? Đỗ Hồi nói: - Không biết hai chân ta vướng phải vật gì mà khó cử động quá, đó là lòng trời hại ta, chứ không phải là sức ta không đánh nổi. Ngụy Khỏa nghĩ lấy làm lạ. Ngụy Kỳ bàn với Ngụy Khỏa rằng: - Đỗ Hồi đã có sức khỏe, nếu ta để sống thì e lại sinh biến. Ngụy Khỏa nói: - Ý ta cũng nghĩ như vậy! Nói xong, truyền chém Đỗ Hồi, rồi đem đầu về Tắc Sơn nộp Tấn Cảnh công để lấy công. Đêm hôm ấy, Ngụy Kỳ nằm ngủ, lại thấy ông lão già ngày hôm trước đến trước mặt vái chào mà nói rằng: - Tướng quân có biết vì cớ gì mà Đỗ Hồi bị bắt hay không. Vì tôi kết cỏ lại để làm cho vướng chân mà ngã đó. Ngụy Khỏa kính sợ, nói rằng: - Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại giúp tôi như vậy, tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ! Ông lão già nói: - Tôi là thân phụ nàng Tổ Cơ. Tướng quân biết theo lời trị mệnh của tiền nhân mà gả chồng cho con gái tôi, vậy tôi cảm cái ơn ấy, đến đây để giúp tướng quân, sau này con cháu tướng quân còn được đời đời vinh hiển mãi. Nguyên xưa thân phụ Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu tên gọi Tổ Cơ. Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc lại dặn Ngụy Khỏa rằng: - Nếu ta ra trận mà chết đi, mày nên gả Tổ Cơ cho một người nào tử tế, khiến Tổ Cơ có chỗ mà nương tựa, chớ để cho hắn phải khổ sở thì ta dẫu chết cũng được yên lòng! Đến lúc Ngụy Thù ốm nặng, lại dặn Ngụy Khỏa rằng: - Tổ Cơ là người thiếp yêu của ta, khi ta chết rồi, mày phải đem nàng ấy mà chôn theo ta, khiến cho ta ở dưới suối vàng có người làm bạn. Nói xong thì chết. Ngụy Khỏa an táng cho cha, không bắt Tổ Cơ phải chôn theo. Ngụy Kỳ nói: - Anh không nhớ lời dặn lúc cha gần mất hay sao? Ngụy Khỏa nói: - Thân phụ ta lúc thường vẫn dặn ta sau này gả chồng cho Tổ Cơ, đến lúc gần mất, lại dặn phải đem chôn theo, đó là lời dặn lúc mơ hoảng mà thôi; bởi vậy người hiếu tử nên theo trị mệnh, chớ theo loạn mệnh. Sau Ngụy Khỏa gả Tổ Cơ cho một người học trò. Vì Ngụy Khỏa có cái âm đức ấy, vậy nên linh hồn thân phụ Tổ Cơ mới hiện lên kết cỏ để báo ơn. Ngụy Khỏa thuật chuyện chiêm bao cho Ngụy Kỳ nghe. Ngụy Kỳ lấy làm chuyện lạ lùng. Vua tôi nước Tần nghe tin Đỗ Hồi thua trận, đều sợ hãi mất vía. Tấn Cảnh công thưởng công Ngụy Khỏa, phong cho đất Linh Hồ, lại đúc một quả chuông để kỷ niệm công thắng trận. Sau người Tấn lấy cớ quả chuông ấy tự Tấn Cảnh công đúc nên, bởi vậy mới gọi quả chuông là "Cảnh chung". Tấn Cảnh công lại sai Sĩ Hội đem quân đi diệt nước Điền Thị, nước Lưu Vu và nước phụ thuộc của Lưu Vu là nước Đạc Thần. Mấy nước ấy đều là giống Xích Địch, từ đó địa giới các giống Xích Địch thuộc về nước Tấn tất cả. Bấy giờ nước Tấn mất mùa, kẻ trộm nhiều lắm, Tuân Lâm Phủ dùng được một người có tài khéo dò xét để tìm bắt quân kẻ trộm, người ấy tên gọi là Khước Ung. Khước Ung thường ra chơi chợ, bỗng trỏ vào một người bảo là kẻ trộm, bắt đem về tra hỏi, quả nhiên là kẻ trộm thật. Tuân Lâm Phủ hỏi Khước Ung rằng: - Tại sao ngươi lại biết được như vậy? Khước Ung nói: - Tôi trông con mắt người ấy: Nom thấy những hàng hóa ở chợ thì có ý tham, nom thấy những người ở chợ thì có ý thẹn, sau nom thấy tôi đi tới nơi thì có ý sợ, bởi thế mà tôi biết là kẻ trộm. Khước Ung mỗi ngày bắt được mấy chục đứa kẻ trộm, mà kẻ trộm càng ngày càng nhiều. Quan Đại phu là Dương Thạch Chức nói với Tuân Lâm Phủ rằng: - Quan nguyên soái dùng Khước Ung để bắt trộm, nhưng tôi e rằng kẻ trộm chưa bắt hết mà Khước Ung chết đến nơi! Tuân Lâm Phủ giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Tại làm sao thế?

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  8. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 55 Giắt dao lẻn vào dinh quân Sở Kết cỏ bắt được tướng nước Tần

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sở Trang Vương họp các quan triều thần lại để thương nghị việc chống nhau với Tấn. Công tử Trắc nói với Sở Trang Vương rằng: - Nước Tống xưa nay vẫn một lòng theo Tấn, nay ta đem quân đi đánh Tống thì Tấn tất phải sang cứu, khi nào còn dám tranh nước Trịnh của ta. Sở Trang Vương nói: - Nhà ngươi bàn dẫu phải nhưng ta chưa có cớ gì mà đánh Tống được. Tiên quân ta ngày xưa đánh Tống một trận ở sông Hoằng Thủy, vua Tống bị thương chết, thế mà nước Tống cũng chịu nhịn ta; đến khi ta hội chư hầu ở đất Quyết Lạc, vua Tống lại hết sức cung phụng nước ta. Sau Tống Chiêu công bị giết, công tử Bảo lên ngôi, nay đã mười tám năm rồi, ta muốn đánh Tống mà chưa tìm được cớ gì cả. Công tử Anh Tề nói: - Khó gì điều ấy! Vua Tề đã mấy lần triều sinh nước ta, mà ta chưa đáp lại, nay ta sai người sang sứ nước Tề, mượn đường đi qua Tống, nếu Tống không cho hay là vô lễ với sứ nước ta thì ta sẽ gây sự đem quân sang đánh. Sở Trang Vương nói: - Bây giờ nên sai ai đi sứ? Công tử Anh Tề nói: - Thân Vô Úy khi trước đã có theo tiên quân ta sang hội ở đất Quyết Lạc. Người ấy nên sai đi. Sở Trang Vương liền sai Thân Vô Úy đi sang sứ nước Tề. Thân Vô Úy tâu với Sở Trang Vương rằng: - Sang sứ nước Tề, tất phải đi qua nước Tống, xin đại vương cấp cho một đạo văn thư để mượn đường. Sở Trang Vương nói: - Nhà ngươi sợ nước Tống dám ngăn trở hay sao! Thân Vô Úy nói: - Khi trước tiên quân ta hội chư hầu ở Quyết Lạc, rồi cùng với các vua chư hầu đi săn ở Mạnh Chư, vua Tống trái lệnh, tôi bắt người thị vệ mà giết đi, bởi vậy nước Tống oán giận tôi lắm. Nay tôi qua nước Tống, nếu đại vương không cấp cho một đạo văn thư mượn đường thì nước Tống tất giết tôi. Sở Trang Vương nói: - Trong đạo văn thư sang nước Tề, ta đề tên là Thân Chu, không dùng cái tên cũ Thân Vô Úy nữa! Thân Vô Úy chưa chịu đi mà nói rằng: - Tên thì đổi được, nhưng mặt không thể đổi được. Sở Trang Vương nổi giận, nói: - Nếu nước Tống giết nhà ngươi thì ta quyết vì nhà ngươi báo thù, mà đem quân diệt nước Tống. Thân Vô Úy không dám từ chối nữa. Ngày hôm sau đưa người con là Thân Tê vào yết kiến Sở Trang Vương mà tâu rằng: - Tôi chết vì việc nước, xin đại vương trông nom con tôi. Sở Trang Vương nói: - Đó là việc của ta, nhà ngươi chớ lo ngại! Thân Chu (tức là Thân Vô Úy) từ giã rồi đi. Người con là Thân Tê tiễn ra đến ngoài cõi. Thân Chu dặn rằng: - Cha đi chuyến này, tất chết ở nước Tống, con nên tâu với đại vương để báo thù cho cha, con chớ quên lời cha dặn. Hai cha con cùng ứa nước mắt mà từ giã nhau. Thân Chu đi đến địa giới nước Tống. Quan trấn thủ ở nước Tống biết là sứ nước Sở, đòi xem văn thư. Thân Chu nói: - Ta phụng mệnh vua Sở, chỉ có đạo văn thư sang sứ nước Tề, chứ không có đạo văn thư mượn đường nước Tống. Quan trấn thủ giữ Thân Chu lại, rồi sai người phi báo Tống Văn công. Bấy giờ Hoa Nguyên đang cầm quyền chính nước Tống, tâu với Tống Văn công rằng: - Nước Sở là một nước cừu địch với ta, nay sai sứ qua nước ta mà không có văn thư mượn đường, thế là khinh ta quá lắm, xin chúa công bắt sứ nước Sở mà giết đi. Tống Văn công nói: - Ta giết sứ nước Sở thì nước Sở tất đem quân sang đánh ta, ta biết làm thế nào? Hoa Nguyên nói: - Chẳng thà bị quân Sở đem quân sang đánh, còn hơn là để cho nước Sở khinh ta; nước Sở đã khinh ta thì rồi thế nào cũng đem quân sang đánh ta. Đằng nào ta cũng bị quân Sở đánh, chi bằng ta hãy giết sứ Sở đi, để cho khỏi hổ thẹn. Hoa Nguyên sai người bắt Thân Chu giải về triều. Thân Chu vào đến trong triều, Hoa Nguyên trông thấy nhớ ngay là Thân Vô Úy, lại càng tức giận mà mắng rằng: - Ngày trước nhà ngươi dám giết thị vệ của tiên quân ta, nay đổi tên là Thân Chu để tránh cho khỏi chết hay sao! Thân Chu biết mình thế nào cũng chết, mới quát to lên mà mắng rằng: - Thằng Bảo (tên Tống Văn công) kia, mày thông gian tổ mẫu giết chết đích điệt, may mà thoát nạn, lại còn dám vô lễ với sứ thần nước lớn. Quân Sở ta kéo sang đây thì vua tôi mày xác tan ra như cám. Hoa Nguyên sai cắt lưỡi Thân Chu trước, rồi sau mới chém, lại đốt văn thư của nước Sở, đem tro ném ra ngoài cõi. Người theo hầu Thân Chu về báo với Sở Trang Vương. Sở Trang Vương đang ăn cơm, nghe tin Thân Chu bị giết, ném đũa xuống chiếu rồi đứng ngay dậy, sai quan tư mã là công tử Trắc sửa soạn binh mã để thân hành sang đánh Tống; lại cho Thân Tê (con Thân Chu) làm chức quân chính để theo đi đánh. Quân nước Sở vây kín thành Thư Dương (tức là kinh thành nước Tống), bốn mặt đánh gấp lắm. Hoa Nguyên cố sức chống giữ, lại sai quan đại phu là Nhạc Anh Tề lẻn sang cáo cấp với nước Tấn. Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu, mưu thần là Bá Tôn can rằng: - Tuân Lâm Phủ đem đại binh đi đánh quân Sở mà còn bị thua ở đất Bí Thành, ấy là lòng trời giúp cho nước Sở đó! Nay ta đi cứu Tống, vị tất đã nên việc. Tấn Cảnh công nói: - Hiện bây giờ chỉ có nước Tống là thân với ta, nếu ta không cứu thì bỏ mất nước Tống! Bá Tôn nói: - Nước Sở cách xa nước Tống hai nghìn dặm, lương thực khó vận lắm. Nay ta sai người sang nước Tống, nói là đại binh đã sắp tới nơi, khiến cho nước Tống cố sức mà chống giữ, chẳng qua chỉ vài tháng là quân Sở phải rút quân về, thế là ta không đánh Sở mà có cái công cứu được nước Tống. Tấn Cảnh công khen phải, hỏi các quan triều thần xem có ai dám sang sứ nước Tống. Quan đại phu là Giải Dương xin đi. Tấn Cảnh công nói: - Việc này trừ phi Tử Hổ (tên tự của Giải Dương) thì cũng khó lòng ai đương nổi! Giải Dương mặc đồ vi phục đi sang nước Tống, bị quân Sở bắt được, đem nộp Sở Trang Vương. Sở Trang Vương nhận biết là tướng nước Tấn tên gọi Giải Dương, mới hỏi Giải Dương rằng: - Nhà ngươi đến đây có việc gì? Giải Dương nói: - Tôi phụng mệnh chúa công tôi đến dụ nước Tống cứ cố sức chống giữ để đợi quân cứu viện. Sở Trang Vương nói: - Ngày trước nhà ngươi đã bị tướng nước ta là Vĩ Giả bắt được, ta không nỡ giết mà tha cho về, nay nhà ngươi lại chui đầu vào lưới thì còn nói gì nữa! Giải Dương nói: - Tấn và Sở vẫn là cừu địch với nhau thì tôi bị giết là phải lắm lại còn nói gì! Sở Trang Vương khám trong mình Giải Dương, bắt được đạo văn thư, liền mở ra xem, xem xong bảo rằng: - Kinh thành nước Tống chẳng qua chỉ nay mai thì phá vỡ mà thôi, bây giờ nhà ngươi nói trái lại những lời trong văn thư mà bảo nước Tống rằng: "Nước Tấn tôi ngày nay nhiều việc cần kíp, không thể nào sang cứu được, sợ để cho nước ngươi mong đợi thì lỡ cả công việc. Vậy chúa công tôi có sai tôi đến nói cho nước ngươi biết". Như thế thì người nước Tống không còn mong đợi gì nữa, tất phải ra hàng; nhân dân hai nước tránh khỏi được cái vạ chiến tranh khổ sở. Khi việc đã thành rồi, ta sẽ trọng thưởng nhà ngươi và cho làm quan ở nước Sở ta. Giải Dương cúi đầu nín lặng, không nói gì cả. Sở Trang Vương nói: - Nếu không nghe lời thì ta chém đầu đi! Giải Dương vốn không muốn nghe lời, nhưng sợ mình chết trong đám quân Sở thì không có ai đem lời vua Tấn mà truyền bảo cho nước Tống biết, mới giả cách xin vâng mệnh. Sở Trang Vương để Giải Dương đứng ở trên xe, bắt phải truyền bảo cho người nước Tống. Giải Dương liền gọi người nước Tống mà bảo rằng: - Ta là sứ nước Tấn, tên gọi Giải Dương, bị quân Sở bắt được, bảo ta dụ nước ngươi ra hàng, nhưng nước ngươi đừng có nghe, chúa công ta sắp sửa đem đại binh đến cứu. Sở Trang Vương nghe tiếng, liền sai lôi xuống mà mắng rằng: - Nhà ngươi đã nhận lời với ta mà lại bội ước là người thất tín, chớ trách ta tàn ác. Sở Trang Vương truyền cho võ sĩ đem Giải Dương ra chém. Giải Dương chẳng sợ hãi chút nào cả, thong dong mà đáp rằng: - Sao đại vương lại bảo là tôi thất tín! Nếu tôi theo lời đại vương thì lại thất tín với nước Tấn tôi lắm. Giả sử nước Sở có người bề tôi nào ăn lễ của nước khác mà trái lời đại vương thì đại vương cho là người biết thủ tín hay sao? Tôi xin chịu chết để tỏ ra rằng: Điều tín của nước Sở khác người nhiều lắm! Sở Trang Vương khen rằng: - Nhà ngươi thật là một người trung thần không sợ chết! Nói xong, liền tha cho về. Hoa Nguyên nước Tống nghe thấy Giải Dương nói là quân Tấn sắp sửa sang cứu, lại càng cố sức chống cự với quân Sở. Công tử Trắc (tướng nước Sở) sai quân sĩ làm một cái chòi cao ở phía ngoài thành nước Tống để ở. Từ đó nom vào trong thành mà xét xem tình hình nước Tống. Hoa Nguyên (tướng nước Tống) cũng làm một cái chòi ở phía trong thành để nom ra. Hai bên giữ nhau từ tháng chín năm trước đến tháng năm năm sau, trong thành nước Tống, lương thực hết sạch cả, nhiều người bị chết đói. Hoa Nguyên đem những lời trung nghĩa khuyên bảo kẻ dưới, bởi vậy người nước Tống đều một lòng vì nước mà cố giữ, dẫu khổ sở đến đâu cũng không ngã lòng. Sở Trang Vương không biết làm thế nào. Quân sĩ lại tâu với Sở Trang Vương rằng: - Lương thực trong dinh, chỉ còn bảy ngày nữa thì hết. Sở Trang Vương nói: - Ta không ngờ nước Tống mà khó đánh được như thế! Nói xong, liền đứng lên trên xe để xét xem tình hình quân sĩ nước Tống, thì thấy quân sĩ nước Tống rất nghiêm chỉnh. Sở Trang Vương thở dài, rồi triệu công tử Trắc để bàn việc quân về. Thân Tê (con Thân Vô Úy) sụp lạy Sở Trang Vương, khóc mà nói rằng: - Cha tôi liều chết để phụng mệnh đại vương, nay đại vương lại thất tín với cha tôi hay sao! Sở Trang Vương nét mặt có ý hổ thẹn. Thân Thúc Thời bấy giờ đang làm người dong xe cho Sở Trang Vương, mới hiến kế rằng: - Nước Tống không chịu hàng là vì biết chừng quân ta không ở lâu được, nếu ta truyền cho quân sĩ làm nhà ở, và cày ruộng để lấy thóc ăn, tỏ cho nước Tống biết là quân ta còn ở đây trường cửu thế thì nước Tống tất sợ mà phải đầu hàng. Sở Trang Vương khen phải, truyền cho quân sĩ đi đốn gỗ làm nhà ở xung quanh thành. Trong mười người thì để năm người vây thành, còn năm người cày ruộng, cứ mười ngày lại thay đổi nhau một lần. Hoa Nguyên nghe thấy tin ấy, nói với Tống Văn công rằng: - Quân Sở không có ý rút về mà quân Tấn cũng không thấy đến cứu, biết làm thế nào, âu là tôi lẻn vào dinh quân Sở để uy hiếp công tử Trắc, bắt phải cho giảng hòa thì họa chăng mới được việc. Tống Văn công nói: - Nước ta còn hay là mất, quan hệ ở việc này lắm, quan tướng quốc nên phải cẩn thận mới được! Hoa Nguyên dò biết là công tử Trắc vẫn ngủ ở trên chòi cao, lại dò biết hết cả họ tên những người thị vệ của Sở Trang Vương. Đêm hôm ấy thay hình đổi dạng, trèo qua thành xuống, đến dinh quân Sở. Gặp quân Sở đang đi tuần, Hoa Nguyên hỏi rằng: - Quan nguyên soái có ở trên chòi không? Quân Sở nói: - Có! Hoa Nguyên lại hỏi: - Ngài đã ngủ chưa? Quân Sở nói: - Mấy ngày hôm nay, ngài bận việc khó nhọc quá, hôm nay đại vương cho một chén rượu để uống. Ngài uống xong đã đi ngủ rồi! Hoa Nguyên vội vàng trèo thẳng lên trên chòi. Quân Sở ngăn lại. Hoa Nguyên nói: - Hôm nay đại vương có việc cơ mật, dặn bảo quan nguyên soái, mới rồi lại có cho quan nguyên soái uống rượu, vậy nên đại vương sợ quan nguyên soái say rượu mà ngủ quên đi mất, sai tôi đến đây để thương thuyết lại, rồi về nói ngay cho đại vương biết. Quân Sở tưởng là thực, để cho Hoa Nguyên trèo lên. Trên chòi đèn thắp còn sáng, công tử Trắc cởi áo, nằm ngủ đã say, Hoa Nguyên trèo ngay lên giường nằm, se sẽ lấy tay lay công tử Trắc. Công tử Trắc tỉnh dậy, bị Hoa Nguyên nắm lấy hai cánh tay Công tử Trắc vội vàng hỏi: - Ai thế này? Hoa Nguyên nói sẽ mà đáp rằng: - Quan nguyên soái chớ sợ! Tôi là Hoa Nguyên nước Tống đây! Phụng mệnh chúa công tôi lẻn sang đây để xin giảng hòa, quan nguyên soái nghe lời thì hai nước cùng nhau giao hiếu, nhược bằng không nghe thì cái số mệnh của tôi và quan nguyên soái cùng hết ở trong đêm hôm nay! Hoa Nguyên tay trái giữ công tử Trắc, tay phải rút một con dao nhọn ở trong mình ra. Trông dưới bóng đèn, thấy lưỡi dao sáng quắc. Công tử Trắc vội vàng đáp rằng: - Ta nên cùng nhau thương nghị, cớ sao lại dùng cách thô bỉ thế này! Hoa Nguyên rụt lưỡi dao lại xin lỗi rằng: - Quan nguyên soái chớ lấy làm lạ! Vì sự thế gấp quá, cho nên tôi phải làm như vậy. Công tử Trắc nói: - Tình hình nước Tống bây giờ thế nào? Hoa Nguyên nói: - Chẳng nói giấu gì quan nguyên soái, nước tôi lương thực hết cả, cùng khốn lắm rồi! Công tử Trắc giật mình mà nói rằng: - Tình hình nước Tống đã đến nỗi cùng khốn quá như vậy à! Cớ sao nhà ngươi lại chịu đem thực tình mà bảo ta? Hoa Nguyên nói: - Người quân tử thấy người ta cùng khốn thì có lòng thương, tôi chắc quan nguyên soái là quân tử, vậy nên không dám giấu. Công tử Trắc nói: - Thế thì vì cớ gì mà không chịu đầu hàng? Hoa Nguyên nói: - Tình hình nước tôi dẫu cùng khốn, nhưng chí khí dân nước tôi vẫn còn hăng hái, vậy nên vua tôi cố sức chống giữ, thà rằng cùng chết với nhau, còn hơn chịu nhục mà đầu hàng quý quốc, ăn thề ở dưới chân thành. Nếu quan nguyên soái có lòng quân tử rút quân ra ngoài ba mươi dặm thì chúa công tôi xin một lòng thần phục quý quốc, không bao giờ dám trái lời. Công tử Trắc nói: - Ta cũng chẳng nói giấu gì nhà ngươi, dinh quân Sở ta cũng chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày, nếu quá bảy ngày nước ngươi không đầu hàng thì cũng phải rút quân về. Mới rồi, sai quân sĩ làm nhà ở và cày ruộng, là lập kế để khiến cho nước ngươi sợ đó mà thôi. Sáng mai ta tâu với vua Sở lui quân ba mươi dặm, vua tôi nhà ngươi chớ có thất tín. Hoa Nguyên nói: - Tôi xin cùng với quan nguyên soái ăn thề, hai bên đều không sai lời nhau! Công tử Trắc cùng Hoa Nguyên ăn thề xong, lại giao kết với nhau làm anh em. Công tử Trắc đem một lá cờ lệnh tiễn đưa cho Hoa Nguyên, dặn phải đi mau. Hoa Nguyên có lá cờ lệnh tiễn ấy, công nhiên đi thẳng, lại trèo qua vào trong thành nước Tống, đem lời công tử Trắc tâu với Tống Văn công. Sáng hôm sau, công tử Trắc cũng đem lời Hoa Nguyên thuật lại cho Sở Trang Vương nghe, và tâu với Sở Trang Vương rằng: - Suýt nữa thì mạng tôi chết về lưỡi dao của Hoa Nguyên đêm hôm qua rồi, may mà Hoa Nguyên có lòng từ đem tình hình trong nước bảo thực với tôi và xin tôi rút quân; tôi đã nhận lời rồi, đại vương nên rộng lượng mà khoan dung cho nước Tống. Sở Trang Vương nói: - Nước Tống cùng khốn như thế, ta nên cố đánh cho kỳ được. Công tử Trắc sụp lạy mà tâu rằng: - Quân ta chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày, tôi đã trót bảo thực với Hoa Nguyên rồi. Sở Trang Vương nổi giận mà nói rằng: - Sao nhà ngươi lại nói thực với quân giặc? Công tử Trắc nói: - Một nước Tống nhỏ mọn như vậy, còn có người bề tôi không chịu nói dối, huống chi là đường đường nước Sở ta mà lại không có hay sao! Bởi vậy tôi cũng nói thực. Sở Trang Vương nguôi cơn giận mà bảo rằng: - Quan tư mã nói phải lắm! Sở Trang Vương hạ lệnh rút quân, ra đóng ở ngoài ba mươi dặm. Thân Tê thấy Sở Trang Vương đã hạ lệnh rút quân về, không dám ngăn trở, nhưng vật mình ôm bụng mà kêu khóc. Sở Trang Vương sai người khuyên bảo Thân Tê rằng: - Nhà ngươi chớ phiền! Thế nào ta cũng làm cho tỏ được lòng hiếu của nhà ngươi! Hoa Nguyên phụng mệnh Tống Văn công đến dinh quân Sở để xin làm tờ giao ước. Công tử Trắc theo Hoa Nguyên vào thành nước Tống, cùng với Tống Văn công ăn thề. Tống Văn công sai Hoa Nguyên đưa linh cữu Thân Chu sang trả quân Sở, và xin theo sang ở lại nước Sở để làm tin. Sở Trang Vương rút về nước Sở, làm lễ an táng cho Thân Chu rất trọng thể! Các quan triều thần đều phải đi đưa tất cả. Sở Trang Vương lại cho Thân Tê được nối chức cha làm quan đại phu. Hoa Nguyên ở nước Sở, nhân có công tử Trắc, lại kết giao với công tử Anh Tề. Một hôm hai người ngồi chơi với nhau, bàn đến thời sự, công tử Anh Tề thở dài mà than rằng: - Nay Tấn và Sở, hai bên chống nhau, chiến tranh luôn mãi, biết bao giờ cho thiên hạ được thái bình! Hoa Nguyên nói; - Cứ như ý tôi nghĩ thì Tấn và Sở không bên nào chịu thua, nếu được một người đứng lên nói cho hai bên giảng hòa với nhau. Các nước phụ thuộc của bên nào thì triều cống về bên ấy, rồi cùng nhau yên nghỉ, khiến cho nhân dân tránh khỏi những sự lầm than khổ sở, chẳng cũng may cho đời lắm ru! Công tử Anh Tề nói: - Việc ấy, nhà ngươi có làm nổi hay không? Hoa Nguyên nói: - Tôi có quen một người tướng nước Tấn là Loan Thư, năm trước tôi sang sứ nước Tấn, Loan Thư cũng có nói đến việc ấy, tiếc rằng không có ai ở giữa mà liên hợp hai nước với nhau được. Ngày hôm sau, công tử Anh Tề đem lời Hoa Nguyên nói với công tử Trắc. Công tử Trắc nói: - Hai nước còn chưa chán sự tranh chiến, việc ấy đã bàn đến thế nào được. Sau Hoa Nguyên ở Sở được sáu năm thì Tống Văn công (Bảo) chết, con là Tống Cung công (Cố) lên nối ngôi. Hoa Nguyên mới về nước Tống để chịu tang. Tấn Cảnh công nghe tin quân Sở vây Tống đã hơn một năm, mới bảo Bá Tôn rằng: - Nước Tống cố giữ được như vậy, cũng đã mỏi mệt lắm rồi; ta chớ nên thất tín, phải đem quân đi cứu mới được. Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu Tống, bỗng nghe báo có sứ nước Lộ đưa mật thư đến. Nguyên xưa nước Lộ tức là một giống Xích Địch, ở tiếp giáp với nước Lê, đến đời Chu Bình Vương, vua nước Lộ đuổi vua nước Lê mà chiếm lấy đất, từ đó nước Lộ mỗi ngày một cường thịnh. Bấy giờ vua nước Lộ tên gọi Anh Nhi, lấy người chị Tấn Cảnh công là Bá Cơ làm phu nhân. Anh Nhi hèn yếu, quan tướng quốc là Phong Thư chuyên quyền; khi trước có Hồ Xạ Cô là công thần nước Tấn trốn sang ở nước Lộ, Phong Thư còn e sợ, không dám càn rỡ lắm, từ lúc Hồ Xạ Cô chết rồi, Phong Thư không còn e sợ ai cả, muốn cho vua Lộ tuyệt giao với Tấn, liền vu tội cho Bá Cơ, bảo vua nước Lộ giết đi. Một hôm, Phong Thư cùng với vua nước Lộ (tức là Anh Nhi) đi săn ở ngoài cõi, nhân khi uống rượu say, thi nhau bắn chim. Phong Thư bắn ngay vào mắt vua nước Lộ, rồi ném cái cung xuống đất, cười mà nói rằng: - Bắn không trúng, nên phạt một chén rượu. Vua nước Lộ không thể nhịn được, mà muốn trị tội thì sức không nổi, mới làm tờ mật thư đưa sang nước Tấn, xin nước Tấn đem quân sang mà hỏi tội Phong Thư cho. Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng: - Nay ta giết Phong Thư, chiếm lấy đất nước Lộ và cả mấy nước xung quanh nữa thì phía Tây Nam nước Tấn ta mỗi ngày một mở rộng. Cái cơ hội ấy chớ nên bỏ hoài! Tấn Cảnh công cũng giận vua nước Lộ về việc giết vợ là Bá Cơ (chị Tấn Cảnh công), mới sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng, Ngụy Khỏa (con Ngụy Thù) làm phó tướng, đem quân đi đánh nước Lộ. Phong Thư đêm quân ra đất Khúc Lương để chống cự với quân Tấn, bị quân Tấn đánh thua, bỏ chạy sang nước Vệ, Vệ Mục công (Tốc) đang cùng với nước Tấn giao hiếu, liền bắt Phong Thư đưa sang nộp quân Tấn. Tuân Lâm Phủ sai giải Phong Thư về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để trị tội mà giết đi. Quân Tấn kéo thẳng vào kinh thành nước Lộ. Vua nước Lộ là Anh Nhi ra đón. Tuân Lâm Phủ kể tội Anh Nhi giết oan Bá Cơ rồi bắt đem về nước Tấn, lại giả cách nói: Dân nước Lê có lòng nhớ mến vua cũ, liền tìm con cháu vua nước Lê, đắp thành cho ở một chỗ, mượn tiếng là khôi phục cho nước Lê, nhưng kỳ thực lập kế để diệt nước Lộ. Vua nước Lộ là Anh Nhi nghĩ đến nước mà thương xót, rồi tự vẫn chết. Người nước Lộ lập đền thờ. Tấn Cảnh công sợ Tuân Lâm Phủ chưa đánh được nước Lộ, mới đem đại binh đóng ở Tắc Sơn để tiếp ứng. Khi Tuân Lâm Phủ đánh được nước Lộ rồi, đến Tắc Sơn báo tin thắng trận, mới lưu quan phó tướng là Ngụy Khỏa ở lại nước Lộ, để giữ lấy nước ấy. Bỗng có một toán quân kéo đến nước Lộ, hỏi ra mới biết là đại tướng nước Tần tên gọi Đỗ Hồi. Nguyên từ khi Tần Khang công chết, con là Tần Cung công (Đạo) lên nối ngôi, nhân việc Triệu Xuyên sang đánh Sùng là một nước phụ thuộc của Tần, bởi vậy Tần mới kết giao với Phong Thư để chống nhau với Tấn. Được bốn năm thì Tần Cung công chết, con là Tần Hoàn công (Vinh) lên nối ngôi. Bấy giờ đang là năm thứ mười một đời Tần Hoàn công, nghe tin nước Tấn sang đánh Phong Thư, toan đem quân đến cứu, lại nghe tin nước Tấn đã giết Phong Thư, bắt vua nước Lộ, mới sai Đỗ Hồi đem quân sang để tranh lấy địa giới nước Lộ. Đỗ Hồi vốn là một người lực sĩ đã có danh tiếng ở nước Tần, hàm răng nhọn hoắt, khóe mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xồm tóc quăn, mình cao hơn trượng, lại có sức khỏe, vẫn thường cầm một cái khai sơn đại phủ, nặng một trăm hai mươi cân, nguyên cũng là một giống Bạch Địch. Khi trước đã có một lần ở Thanh My Sơn Đỗ Hồi đâm chết luôn năm con hổ, rồi lột da đem về, Tần Hoàn công nghe nói là người vũ dũng, cho làm xa hữu tướng quân; lại một lần nữa. Đỗ Hồi đem ba trăm người phá vỡ được hơn một vạn quân giặc ở Xa Nga Sơn bởi vậy uy danh mỗi ngày một lừng lẫy, làm đến đại tướng. Ngụy Khỏa thấy Đỗ Hồi đem quân đến, tức khắc bày trận để đợi giao chiến. Đỗ Hồi cầm cái khai sơn đại phủ, đem ba trăm quân xông đến tận nơi, chém giết quân Tấn, khác nào như một vị thiên thần giáng hạ. Quân Tấn sợ hãi, không thể nào địch nổi. Ngụy Khỏa nhất định không ra, bỗng nghe báo có tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ (em Ngụy Khỏa) đem quân đến tiếp ứng. Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng: - Chúa công sợ đảng Xích Địch kết liên với nước Tần mà sinh biến vậy có sai tôi đến để tiếp ứng. Ngụy Khỏa thuật chuyện những sự vũ dũng của tướng nước Tần là Đỗ Hồi, không ai địch nổi. Ngụy Kỳ không tin mà nói rằng: - Làm gì đám giặc cỏ ấy! Ngày mai tôi ra trận, thế nào cũng quyết đánh tan được. Ngày hôm sau, Đỗ Hồi lại đến khiêu chiến. Ngụy Kỳ tức giận toan xông ra đánh. Ngụy Khỏa cố ý ngăn lại. Ngụy Kỳ không nghe, đem quân ra giao chiến với Đỗ Hồi. Đỗ Hồi lại múa cái khai sơn đại phủ, tả xung hữu đột, chém giết quân Tấn, Ngụy Kỳ thua to, may nhờ có Ngụy Khỏa đem quân ra tiếp ứng, mới về được trong trại. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa đang ngồi ở trong trại, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì, đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng người ghé tai và đọc ba chữ: "Thanh Thảo Bi"; đến lúc tỉnh dậy, không hiểu là nghĩa làm sao mà chợp mắt ngủ đi thì lại thấy như trước, mới nói chuyện với Ngụy Kỳ. Ngụy Kỳ nói: - Cách đây độ mười dặm, có một cái bãi cỏ, tên gọi "Thanh Thảo Bi", hoặc là quân Tần sau này tất phải thua trận ở đấy, vậy tôi xin đem một toán quân đến mai phục sẵn, rồi anh lập kế dụ quân giặc đến, hai bên cùng đánh thì mới phá vỡ được. Ngụy Kỳ liền đem quân đến mai phục sẵn ở Thanh Thảo Bi. Ngụy Khỏa giả cách truyền lệnh rút quân trở về Lê Thành, quả nhiên Đỗ Hồi đem quân đuổi theo. Ngụy Khỏa giao chiến qua loa mấy hiệp rồi giả cách thua chạy, dụ Đỗ Hồi đến gần Thanh Thảo Bi. Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên đổ ra, cùng với quân Ngụy Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Đỗ Hồi chẳng sợ hãi chút nào cả, vẫn cầm cái khai sơn đại phủ, tả xung hữu đột; dần dần lui về phía Thanh Thảo Bi, bỗng thấy Đỗ Hồi mỗi bước lại ngã một cái, khác nào như người trượt chỗ nước băng. Quân Tấn thấy vậy reo rầm cả lên. Ngụy Khỏa ngẩng trông thấy một ông lão già, mình mặc áo vải, chân đi giầy đay, đang kết những dây cỏ lại, để làm cho vướng chân Đỗ Hồi. Ngụy Khỏa và Ngụy Kỳ đi đến nơi, bắt sống được Đỗ Hồi. Quân Đỗ Hồi thấy chủ tướng bị bắt, đều bỏ chạy tán loạn cả, bị quân Tấn đuổi bắt, trong ba trăm người chỉ trốn thoát được bốn, năm chục người mà thôi. Ngụy Khỏa hỏi Đỗ Hồi rằng: - Mày cậy có sức khỏe, cớ sao cũng bị bắt? Đỗ Hồi nói: - Không biết hai chân ta vướng phải vật gì mà khó cử động quá, đó là lòng trời hại ta, chứ không phải là sức ta không đánh nổi. Ngụy Khỏa nghĩ lấy làm lạ. Ngụy Kỳ bàn với Ngụy Khỏa rằng: - Đỗ Hồi đã có sức khỏe, nếu ta để sống thì e lại sinh biến. Ngụy Khỏa nói: - Ý ta cũng nghĩ như vậy! Nói xong, truyền chém Đỗ Hồi, rồi đem đầu về Tắc Sơn nộp Tấn Cảnh công để lấy công. Đêm hôm ấy, Ngụy Kỳ nằm ngủ, lại thấy ông lão già ngày hôm trước đến trước mặt vái chào mà nói rằng: - Tướng quân có biết vì cớ gì mà Đỗ Hồi bị bắt hay không. Vì tôi kết cỏ lại để làm cho vướng chân mà ngã đó. Ngụy Khỏa kính sợ, nói rằng: - Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại giúp tôi như vậy, tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ! Ông lão già nói: - Tôi là thân phụ nàng Tổ Cơ. Tướng quân biết theo lời trị mệnh của tiền nhân mà gả chồng cho con gái tôi, vậy tôi cảm cái ơn ấy, đến đây để giúp tướng quân, sau này con cháu tướng quân còn được đời đời vinh hiển mãi. Nguyên xưa thân phụ Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu tên gọi Tổ Cơ. Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc lại dặn Ngụy Khỏa rằng: - Nếu ta ra trận mà chết đi, mày nên gả Tổ Cơ cho một người nào tử tế, khiến Tổ Cơ có chỗ mà nương tựa, chớ để cho hắn phải khổ sở thì ta dẫu chết cũng được yên lòng! Đến lúc Ngụy Thù ốm nặng, lại dặn Ngụy Khỏa rằng: - Tổ Cơ là người thiếp yêu của ta, khi ta chết rồi, mày phải đem nàng ấy mà chôn theo ta, khiến cho ta ở dưới suối vàng có người làm bạn. Nói xong thì chết. Ngụy Khỏa an táng cho cha, không bắt Tổ Cơ phải chôn theo. Ngụy Kỳ nói: - Anh không nhớ lời dặn lúc cha gần mất hay sao? Ngụy Khỏa nói: - Thân phụ ta lúc thường vẫn dặn ta sau này gả chồng cho Tổ Cơ, đến lúc gần mất, lại dặn phải đem chôn theo, đó là lời dặn lúc mơ hoảng mà thôi; bởi vậy người hiếu tử nên theo trị mệnh, chớ theo loạn mệnh. Sau Ngụy Khỏa gả Tổ Cơ cho một người học trò. Vì Ngụy Khỏa có cái âm đức ấy, vậy nên linh hồn thân phụ Tổ Cơ mới hiện lên kết cỏ để báo ơn. Ngụy Khỏa thuật chuyện chiêm bao cho Ngụy Kỳ nghe. Ngụy Kỳ lấy làm chuyện lạ lùng. Vua tôi nước Tần nghe tin Đỗ Hồi thua trận, đều sợ hãi mất vía. Tấn Cảnh công thưởng công Ngụy Khỏa, phong cho đất Linh Hồ, lại đúc một quả chuông để kỷ niệm công thắng trận. Sau người Tấn lấy cớ quả chuông ấy tự Tấn Cảnh công đúc nên, bởi vậy mới gọi quả chuông là "Cảnh chung". Tấn Cảnh công lại sai Sĩ Hội đem quân đi diệt nước Điền Thị, nước Lưu Vu và nước phụ thuộc của Lưu Vu là nước Đạc Thần. Mấy nước ấy đều là giống Xích Địch, từ đó địa giới các giống Xích Địch thuộc về nước Tấn tất cả. Bấy giờ nước Tấn mất mùa, kẻ trộm nhiều lắm, Tuân Lâm Phủ dùng được một người có tài khéo dò xét để tìm bắt quân kẻ trộm, người ấy tên gọi là Khước Ung. Khước Ung thường ra chơi chợ, bỗng trỏ vào một người bảo là kẻ trộm, bắt đem về tra hỏi, quả nhiên là kẻ trộm thật. Tuân Lâm Phủ hỏi Khước Ung rằng: - Tại sao ngươi lại biết được như vậy? Khước Ung nói: - Tôi trông con mắt người ấy: Nom thấy những hàng hóa ở chợ thì có ý tham, nom thấy những người ở chợ thì có ý thẹn, sau nom thấy tôi đi tới nơi thì có ý sợ, bởi thế mà tôi biết là kẻ trộm. Khước Ung mỗi ngày bắt được mấy chục đứa kẻ trộm, mà kẻ trộm càng ngày càng nhiều. Quan Đại phu là Dương Thạch Chức nói với Tuân Lâm Phủ rằng: - Quan nguyên soái dùng Khước Ung để bắt trộm, nhưng tôi e rằng kẻ trộm chưa bắt hết mà Khước Ung chết đến nơi! Tuân Lâm Phủ giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Tại làm sao thế?

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  9. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 57 Vu Thần kết duyên với Hạ Cơ Trình Anh đền ơn cho Triệu Thuẫn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quân Tấn đuổi theo Tề Khoảnh công đến đất Viên Lâu. Tề Khoảnh công sợ hãi, họp các tướng lại để hỏi kế. Quốc Tá nói với Tề Khoảnh công rằng: - Tôi xin đem cái kỷ hiến và cái ngọc khánh sang lễ nước Tấn để xin giảng hòa; còn những đất ta xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ khi trước thì trả lại cho hai nước ấy. Tề Khoảnh công nói: - Theo như lời nhà ngươi thì ta xử với Tấn quá phải lắm rồi, nếu Tấn không nghe thì thế nào cũng phải cố sức đánh! Quốc Tá vâng mệnh đem kỷ hiến và ngọc khánh sang dinh quân Tấn, vào nói với Hàn Quyết. Hàn Quyết nói: - Vì nước Tề hay xâm chiếm nước Lỗ và nước Vệ, vậy thì chúa công tôi phải sai chúng tôi đem quân tới đây, chứ chúa công tôi thù gì với nước Tề. Quốc Tá nói: - Tôi xin tâu với chúa công tôi trả lại những đất xâm chiếm của Lỗ và Vệ thì tướng quân nghĩ thế nào? Hàn Quyết nói: - Việc ấy quyền tại quan nguyên soái (trỏ Khước Khắc) tôi, chứ tôi không dám quyết. Nói xong, liền đưa Quốc Tá vào yết kiên Khước Khắc. Khước Khắc trông thấy Quốc Tá, hầm hầm nổi giận. Quốc Tá đối đáp rất có lễ phép. Khước Khắc nói: - Nước ngươi đã sắp mất đến nơi, lại còn muốn dùng lời nói khéo để làm kế hoãn binh hay sao! Nếu thực lòng xin giảng hòa thì phải theo ta hai điều. Quốc Tá nói: - Hai điều là những điều gì, xin ngài cho biết. Khước Khắc nói: - Một là nước ngươi phải đưa Tiêu Quân sang ở nước ta để làm tin; hai là trong địa giới nước Tề phải đắp một con đường từ Tây sang Đông, để vạn nhất sau này nước Tề có bội ước thì ta giết người làm tin ấy, và đem quân sang đánh có thể đi từ Tây sang Đông được. Quốc Tá nổi giận mà nói rằng: - Quan nguyên soái nghĩ lầm! Tiêu Quân là ai, tức là thân mẫu chúa công tôi, cũng chẳng khác gì thân mẫu vua nước Tấn, có lẽ nào lại đem quốc mẫu làm tin bao giờ! Còn ruộng đất ở trong nước tôi còn phải tùy theo địa thế, nếu vì nước Tấn mà đổi tất cả thì khác gì một nước đã mất rồi. Quan nguyên soái nói như thế là ý không muốn cho nước tôi giảng hòa. Khước Khắc nói: - Không muốn cho giảng hòa thì nước ngươi làm gì nổi! Quốc Tá nói: - Quan nguyên soái chớ có khinh nước Tề tôi quá! Nước tôi dẫu bị thua một trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm, quan nguyên soái không cho hòa thì tôi xin thu thập quân mã, cùng với quan nguyên soái quyết chiến một trận nữa. Một trận không được thì hai trận, nếu hai trận không được thì ba trận, nếu ba trận cũng không được thì bấy giờ nước Tề tôi là của nước Tấn, cần gì còn phải gởi người làm tin và đắp đường từ Tây sang Đông làm gì! Tôi cũng xin từ biệt quan nguyên soái. Quốc Tá liền ném cái kỷ hiến và cái ngọc khánh xuống đất, rồi chắp tay vái chào mà lui ra. Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu đứng ở sau màn nghe nói, chạy ra bảo Khước Khắc rằng: - Làm như vậy thì nước Tề giận ta quá lắm, tất có sức đánh ta, không có lẽ ta thắng mãi, chi bằng ta theo lời là hơn. Khước Khắc nói: - Sứ nước Tề đã đi rồi thì biết làm thế nào? Quý Tôn Hàng Phủ nói: - Ta nên sai người đuổi theo mà gọi lại. Khước Khắc liền sai người đuổi theo, mời Quốc Tá hãy trở lại dinh quân Tấn. Khước Khắc bảo Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu cùng Quốc Tá làm lễ tương kiến, rồi lại nói với Quốc Tá rằng: - Tôi sợ không làm được việc thì có lỗi với chúa công tôi, bởi vậy tôi chưa dám nhận lời, nay quan đại phu nước Lỗ và nước Vệ (trỏ Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu) đã cùng nói với thì tôi cũng không dám trái ý. Quốc Tá nói: - Quan nguyên soái đã thuận cho nước tôi giảng hòa thì xin uống máu ăn thề: "Nước Tề nhận phải triều cống nước Tấn, lại trả những đất xâm chiếm của nước Lỗ và Vệ. Nước Tấn nhận phải rút quân về và không được xâm phạm của cải nước Tề". Hai bên cùng uống máu ăn thề xong. Khước Khắc lại tha cho Phùng Sửu Phủ trở về nước Tề. Tề Khoảnh công cho Phùng Sửu Phủ làm thượng khanh. Bọn Khước Khắc thắng được quân Tề, trở về nước Tấn. Tấn Cảnh công đều gia phong thái ấp cho, lại cho làm tân trung nguyên soái, Triệu Quát làm phó; Củng Sóc làm tân thượng quân nguyên soái, Hàn Xuyên làm phó; Tuân Trụ làm hạ quân nguyên soái, Triệu Chiên làm phó, đều được phong chức quan khanh cả. Quan tư khấu là Đồ Ngạn Giả thấy họ Triệu hưng thịnh, càng đem lòng ghen ghét ngày đêm chỉ cố tìm sự lầm lỗi của họ Triệu để dèm pha với Tấn Cảnh công; lại mật kết với họ Loan và Khước, khiến cho hai họ ấy cùng về bè với mình. Tề Khoảnh công từ khi bị thua về, hết lòng sửa sang chính trị để báo thù nước Tấn. Vua tôi nước Tấn cũng sợ nước Tề báo thù, không giữ được nghiệp bá chủ, lại bắt các nước phải trả lại nước Tề những đất mà nước Tề đã xâm chiếm khi trước, từ bấy giờ các nước chư hầu cho nước Tấn là không có tín nghĩa, mới không tin phục nước Tấn nữa. Lại nói chuyện Hạ Cơ nước Trần từ khi kết duyên với quan liên doãn nước Sở là Tương Lão, chưa được một năm thì Tương Lão phải đi đánh trận ở Bí Địa. Hạ Cơ mới cùng với con riêng của Tương Lão là Hắc Yêu tư thông; đến lúc Tương Lão bị chết trận, Hắc Yêu say mê Hạ Cơ, không đi tìm xác Tương Lão, người trong nước ai cũng chê cười, Hạ Cơ lấy làm xấu hổ, muốn mượn tiếng đi tìm xác Tương Lão để trở về nước Trịnh (nguyên Hạ Cơ là con gái nước Trịnh, trước lấy chồng ở nước Trần). Tước thân công ở nước Sở là Khuất Vu thuê người mật báo với Hạ Cơ rằng: - Thân công có lòng yêu mến nàng lắm, nếu nàng về nước Trịnh hôm nào thì hôm ấy ngài sẽ sang cưới ngay. Khuất Vu lại sai người nói với Trịnh Tương công rằng: - Hạ Cơ muốn về nước nhà, sao nhà vua không sai người đón về. Trịnh Tương công quả nhiên sai sứ sang nước Sở để xin đón Hạ Cơ. Sở Trang Vương hỏi các quan đại phu rằng: - Vua Trịnh lại sai sứ sang đón Hạ Cơ là vì cớ gì? Khuất Vu tâu với Sở Trang Vương rằng: - Hạ Cơ muốn tìm xác Tương Lão, người nước Trịnh có ý muốn giúp cho được việc, vậy nên mới sai người sang đón về. Sở Trang Vương nói: - Xác Tương Lão chết ở nước Tấn, người nước Trịnh giúp thế nào được? Khuất Vu nói: - Tuân Dinh là con yêu của Tuân Thủ, nay bị giam ở nước Sở ta, Tuân Thủ thương nhớ lắm! Bây giờ Tuân Thủ mới được lên làm chức trung quân phó tướng ở nước Tấn, lại quen biết với quan đại phu nước Trịnh là Hoàng Thú, tất thế nào rồi cũng nhờ Hoàng Thú điều đình với nước Sở ta, xin đem thi thể công tử Cốc Thần (con Sở Trang Vương) và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về. Vua nước Trịnh vì việc giao chiến ở Bí Địa, sợ nước Tấn đem quân sang hỏi tội, cũng muốn nhân việc này để lấy lòng nước Tấn, đó là tình thực, chứ không còn nghi ngờ gì nữa! Nói chưa dứt lời thì Hạ Cơ vào biệt Sở Trang Vương, tâu việc xin về nước Trịnh, vừa tâu vừa khóc, hai hàng nước mắt lã chã châu rơi. Lại nói với Sở Vương Trang rằng: - Nếu không tìm được xác Tương Lão thì thiếp xin thề không trở về nước Sở nữa! Sở Trang Vương có lòng thương mà cho đi. Hạ Cơ đi sang nước Trịnh. Khuất Vu lại mật đưa thơ cho Trịnh Tương công xin cưới Hạ Cơ làm vợ. Trịnh Tương công không biết việc Sở Trang Vương và công tử Anh Tề khi trước muốn lấy Hạ Cơ, lại thấy Khuất Vu đang được trọng dụng ở nước Sở, cũng muốn kết thân, mới nhận đồ lễ cho cưới. Người nước Sở không ai biết chuyện ấy cả. Khuất Vu lại sai người sang bảo Tuân Thủ nước Tấn đem thi thể công tử Cốc Thần và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về. Tuân Thủ viết thư cho Hoàng Thú (quan đại phu nước Trịnh) để nói hộ với Sở Trang Vương. Sở Trang Vương muốn được thi thể con mình là công tử Cốc Thần, mới tha cho Tuân Dinh được trở về nước Tấn. Đến lúc quân nước Tấn đánh Tề, Tề Khoảnh công sai sứ sang cầu nước Sở, gặp bấy giờ nước Sở mới có tang, chưa đem quân sang cứu, sau nghe tin quân Tề thua trận, quan đại phu nước Tề là Quốc Tá đã xin giảng hòa với Tấn. Sở Cung Vương mới bảo các quan triều thần rằng: - Nước Tề theo Tấn là vì nước Sở ta chưa kịp đến cứu, chứ không phải là bản thân của nước Tề. Nay ta nên cử binh đi đánh Lỗ và Vệ để báo thù cho nước Tề, có ai dám vì ta đem cái chủ ý ấy sang nói cho vua Tề biết. Khuất Vu xin đi. Sở Cung Vương nói: - Nhà ngươi đi qua nước Trịnh, nên ước với vua Trịnh đến tháng mười đem quân sang hội nhau ở địa giới nước Vệ, và cũng nói cho vua Tề biết. Khuất Vu về nhà thu xếp tiền của và cho gia quyến đi trước, còn mình thì ở lại sau, rồi thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Khuất Vu đem lời nói của vua Sở vào ước với vua Trịnh rồi lui ra nhà quán cùng với Hạ Cơ làm lễ thành thân. Đêm hôm ấy Hạ Cơ nỉ non bên gối, hỏi Khuất Vu rằng: - Việc này khi trước phu quân có tâu với vua Sở không? Khuất Vu đem chuyện Sở Trang Vương và Công tử Anh Tề khi trước đều muốn lấy Hạ Cơ nói lại cho Hạ Cơ nghe, lại bảo Hạ Cơ rằng: - Ta vì ái khanh mà chịu phí bao nhiêu tâm cơ, ngày nay ba sinh mới phỉ mười nguyền, ta không dám về nước Sở nữa; sáng mai ta cùng với ái khanh tìm chốn nương thân, cùng nhau bách niên giai lão, ái khanh nghĩ thế nào? Hạ Cơ nói: - Phu quân đã không về nước Sở thì việc sứ Tề này biết làm thế nào? Khuất Vu nói: - Ta chẳng đi sứ Tề nữa! Ngày nay cùng với nước Sở chống nhau, chỉ có nước Tấn, âu là ta cùng ái khanh sang ở nước Tấn. Ngày hôm sau, Khuất Vu viết vội một biểu giao cho người hầu đem về tâu với Sở Cung Vương, rồi cùng Hạ Cơ trốn sang nước Tấn. Tấn Cảnh công đang lấy việc thua nước Sở làm xấu hổ, nghe tin Khuất Vu đến, mừng lắm nói rằng: - Thế này thật là trời đem người ấy đến giúp ta! Tấn Cảnh công nói xong, liền cho Khuất Vu làm quan đại phu, lại phong cho đất Hình Địa để làm ấp ăn lộc. Khuất Vu mới bỏ họ Khuất, lấy chữ Vu làm họ, đặt tên là Thần. Từ bấy giờ gọi là Vu Thần. Sở Cung Vương tiếp được tờ biểu của Vu Thần, liền mở ra đọc. Trong tờ biểu đại lược nói rằng: "Vua Trịnh đem Hạ Cơ ép gả cho tôi; tôi trót dại, không thể từ chối được. Nay tôi sợ đại vương trị tội, vậy phải trốn qua nước Tấn; còn việc sứ Tề xin đại vương chọn sai người khác. Tôi cam chịu tội chết!" Sở Cung Vương nổi giận, triệu công tử Anh Tề và công tử Trắc vào mà đưa xem. Công tử Trắc nói: - Nước Sở ta và nước Tấn xưa nay vốn là cừu địch với nhau, nay Vu Thần trốn sang nước Tấn, tức là làm phản nước Sở ta, ta nên đem quân đi đánh. Công tử Anh Tề nói: - Hắc Yêu tư thông với kế mẫu là Hạ Cơ, cũng là có tội, nên đem quân đến bắt. Sở Cung Vương theo lời, liền sai công tử Anh Tề đem quân đến vây bắt những tộc đảng của Vu Thần, và sai công tử Trắc đến bắt Hắc Yêu mà chém đi. Bao nhiêu những gia tài của Vu Thần đều bị Công tử Anh Tề và công tử Trắc chiếm lấy hết cả. Vu Thần nghe tin tộc đảng của mình bị giết, mới đưa thư cho công tử Anh Tề và công tử Trắc, đại lược nói rằng: "Các ngươi xui giục vua Sở làm những việc tham tàn, giết hại kẻ không có tội; ta quyết làm cho các ngươi phải khổ sở ở nơi đường sá mà chết!" Bọn công tử Anh Tề giấu bức thư ấy đi, không dám nói cho Sở Cung Vương biết. Vu Thần vì nước Tấn bày mưu lập kế, để sang thông hiếu với nước Ngô; rồi đem những phép xa chiến dạy người nước Ngô; lại cho con là Hồ Dung sang làm quan hành nhân ở nước Ngô để thông tin tức cho nước Ngô và nước Tấn. Từ bấy giờ nước Ngô mỗi ngày một cường thịnh, chiếm lấy những thuộc quốc ở phía Đông của nước Sở. Vua nước Ngô là Thọ Mộng mới tiếm hiệu xưng vương. Sở Cung Vương cho công tử Anh Tề làm đại tướng, cùng với quân nước Trịnh sang đánh Vệ, tàn phá bờ cõi nước Vệ, rồi lại đem quân sang xâm chiếm nước Lỗ, đóng đồn ở đất Dương Kiều. Trọng Tôn Miệt (tướng nước Lỗ), đem những thợ khéo và các con gái biết thêu dệt ở trong nước, mỗi thứ một trăm người sang dâng nước Sở để xin giảng hòa. Nước Tấn cũng đem quân ước với Lỗ Thành công cùng sang đánh Trịnh. Lỗ Thành công lại theo. Năm thứ 20 đời Chu Định Vương, Trịnh Tương công (Kiên) mất, thế tử Phi lên nối ngôi, tức là Trịnh Nhiệu công. Trịnh Nhiệu công cùng với nước Hứa tranh nhau địa giới. Vua nước Hứa sang kêu với Sở Cung Vương, Sở Cung Vương cho vua nước Hứa là phải lẽ, sai người trách Trịnh Nhiệu công. Trịnh Nhiệu công tức giận, mới bỏ Sở theo Tấn. Năm ấy, Khước Khắc nước Tấn bị thương, què mất cánh tay trái, liền cáo lão về nhà, chẳng được bao lâu thì mất. Loan Thư thay làm chức trung quân nguyên soái (tức là quan tướng quốc). Năm sau công tử Anh Tề sang đánh Trịnh, Loan Thư đem quân đi cứu. Tấn Cảnh công thấy nước Trịnh và nước Tề đều thần phục mình, có ý kiêu ngạo, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả, và ham sự chơi bời săn bắn như Tấn Linh công thuở xưa. Triệu Đồng và Triệu Quát có ý bất hòa với anh là Triệu Anh, vu cho việc dâm loạn, rồi đuổi sang nước Tề, Tấn Cảnh công cũng không thể nào ngăn cấm nổi. Bấy giờ núi Lương Sơn tự nhiên đổ lấp một khúc sông. Nước sông ba ngày không chảy được. Tấn Cảnh công sai quan thái sử bói xem tốt xấu thế nào. Đồ Ngạn Giả đút tiền cho quan thái sử để nói về việc hình phạt không hợp lẽ. Tấn Cảnh công nói: - Ta dùng hình phạt chưa hề có làm quá bao giờ, sao lại bảo là không hợp lẽ? Đồ Ngạn Giả nói với Tấn Cảnh công rằng: - Hình phạt không hợp lẽ là thế nào? Không đáng tội mà trị tội, cùng với đáng tội mà không trị tội, đều gọi là không hợp lẽ. Triệu Thuẫn giết vua Linh công ta ở Đào Viên, việc ấy chép vào sử sách, đó là một cái tội không thể dung tha được; thế mà vua Thành công không trị tội, lại giao quyền chính trong nước cho, đến bây giờ con cháu làm quan, đầy khắp trong triều, thế thì lấy gì làm răn cho kẻ khác được. Và tôi nghe tin bọn Triệu Đồng và Triệu Quát cậy nhiều vây cánh, có ý muốn làm phản, Triệu Anh can ngăn không được, phải chạy ra nước ngoài; còn họ Loan và họ Khước, cũng sợ thế họ Triệu, không dám nói ra. Việc núi Lương Sơn đổ này, chính là ý trời muốn khiến chúa công giãi tỏ cái oan của vua Linh công trước và trị tội họ Triệu đó! Tấn Cảnh công từ trận đánh nhau ở Bí Địa đã ghét bọn Triệu Đồng và Triệu Quát chuyên quyền, mới tin lời Đồ Ngạn Giả, liền hỏi Hàn Quyết. Hàn Quyết nói: - Việc giết vua Linh công ở Đào Viên, không dự gì đến Triệu Thuẫn. Vả Triệu Thôi ngày xưa là người có công to với nước, sao chúa công lại nghe lời nói đứa tiểu nhân mà nghi con cháu sau một bậc công thần như vậy! Tấn Cảnh công vẫn còn hồ nghi, lại hỏi Loan Thư và Khước Kỳ. Đồ Ngạn Giả đã dặn Loan Thư và Khước Kỳ cứ hàm hồ, không chịu gỡ tội cho họ Triệu. Tấn Cảnh công mới cho lời nói Đồ Ngạn Giả là thực, liền ghi tội Triệu Thuẫn vào cái mộc bài giao cho Đồ Ngạn Giả mà bảo rằng: - Nhà ngươi liệu thế nào cho khỏi kinh động người trong nước thì cứ việc mà làm. Hàn Quyết biết mưu của Đồ Ngạn Giả, đêm hôm ấy đến báo với Triệu Sóc, và bảo Triệu Sóc nên đi trốn. Triệu Sóc nói: - Thân phụ tôi này xưa chỉ vì không chịu để cho tiên quân giết, đến nỗi phải mang tiếng xấu về sau. Nay Đồ Ngạn Giả phụng mệnh chúa công thì dẫu biết chết, tôi cũng không dám tránh, nhưng vợ tôi hiện đang có thai, đã gần đến tháng, giả sử sinh gái, chẳng nói làm chi, may mà sinh trai thì còn có thể giữ được nòi giống họ Triệu. Một giọt máu thừa ấy, xin tướng quân bảo toàn cho thì tôi dẫu hồn về chín suối, cũng được hả dạ! Hàn Quyết khóc rằng: - Tôi chịu ơn Triệu tướng quốc (trỏ Triệu Thuẫn) ngày xưa, mới được thế này, ơn ấy khác nào như cha với con! Ngày nay tôi sức hèn tài mọn, không thể chém được đầu giặc (trỏ Đồ Ngạn Giả), còn một việc này, tôi xin hết sức! Nhưng quân giặc căm tức đã lâu, nay nhân dịp báo thù, tất không nề ai cả, chi bằng ngài hãy cho công chúa (vợ Triệu Sóc là con gái Tấn Thành công) tránh nạn vào ở trong cung, mai sau sinh đặng con trai thì tất có cơ báo thù lại được. Triệu Sóc vâng lời rồi hai người gạt nước mắt mà từ biệt nhau. Triệu Sóc ước riêng với vợ là Trang Cơ rằng: - Ngày sau sinh con gái thì đặt tên là Văn, nếu sinh con trai, nên đặt tên là Vũ, bởi vì văn là vô dụng mà vũ thì mới báo thù được. Triệu Sóc lại nói chuyện cho Trình Anh biết. Trình Anh hộ tống Trang Cơ đi một cái xe kín lẻn trốn vào cung, ở với người mẹ là Thành phu nhân (mẹ Tấn Cảnh công). Sáng hôm sau Đồ Ngạn Giả đem quân vây nhà họ Triệu, lấy cái mộc bài của Tấn Cảnh công ghi tội Triệu Thuẫn treo ở trước cửa, rồi kể tội họ Triệu phản nghịch và bắt bọn Triệu Sóc, Triệu Đồng, Triệu Quát, Triệu Chiên cùng già trẻ trai gái trong nhà đem giết tất cả. Con Triệu Chiên là Triệu Thắng bấy giờ đang ở đất Hàm Đan, vậy mới thoát nạn, bỏ trốn sang nước Tống. Đồ Ngạn Giả không tìm thấy Trang Cơ, liền nói: - Trang Cơ không cần phải bắt vội, nhưng nghe đâu đã có thai, vạn nhất sinh con trai thì lại còn cái giống phản nghịch, thêm di họa về sau! Quân sĩ bảo rằng: - Nửa đêm hôm qua, có người đi một cái xe kín vào cung. Đồ Ngạn Giả nói: - Đó tất là Trang Cơ. Đồ Ngạn Giả vào tâu với Tấn Cảnh công rằng: - Toàn gia bọn phản nghịch đã trừ hết được rồi, chỉ còn có công chúa (trỏ Trang Cơ) trốn vào trong cung, xin tâu để chúa công định liệu. Tấn Cảnh công nói: - Để sau này hễ sinh con trai thì ta sẽ trừ nốt! Đồ Ngạn Giả ngày đêm sai người dò thám xem Trang Cơ sinh trai hay sinh gái. Mấy hôm sau, Trang Cơ quả nhiên sinh được con trai. Thành phu nhân truyền cho cung nhân nói dối là sinh con gái. Đồ Ngạn Giả không tin, muốn sai một người vú vào cung để khám nghiệm xem. Trang Cơ sợ hãi, cùng với Thành phu nhân thương nghị, nói dối là đứa con gái sinh ra đã chết mất rồi. Bấy giờ Tấn Cảnh công say mê tửu sắc, bao nhiêu chính sự trong nước giao hết cho Đồ Ngạn Giả muốn làm gì thì làm. Đồ Ngạn Giả nghi Trang Cơ không phải là sinh con gái, và con cũng chưa chết, mới thân hành đem những nữ bộc vào để khám xét trong cung. Trang Cơ đem đứa cô nhi gói vào trong quần, rồi khấn trời rằng: - Lòng trời định làm tuyệt họ Triệu thì hãy khiến đứa cô nhi này khóc; nếu họ Triệu không đến nỗi tuyệt tự thì lại xin cho đứa cô nhi này cứ nằm im như không. Khi nữ bộc dắt Trang Cơ ra ngoài, rồi vào khám xét trong cung thì chẳng thấy gì cả. Đứa cô nhi ở trong quần cứ nằm im, không kêu khóc chút nào. Đồ Ngạn Giả khám xong trở về, nhưng lòng vẫn còn nghi hoặc. Có người báo là cô nhi đã đem ra khỏi cung môn rồi, Đồ Ngạn Giả liền yết thị rằng: "Hễ ai tố cáo được đích tin đứa cô nhi ấy thì thưởng cho một nghìn nén vàng, nếu biết mà không nói thì cũng coi như là oa tàng và phản nghịch, toàn gia phải chịu tội chết". Đồ Ngạn Giả lại truyền cho quân sĩ canh giữ cửa cung rất nghiêm mật; ai ra vào đều khám xét thật kỹ. Triệu Thuẫn khi trước có hai người môn khách tâm phúc là Công Tôn Chử Cữu và Trình Anh. Bấy giờ hai người nghe tin Đồ Ngạn Giả vây nhà họ Triệu, liền bàn nhau đến cứu. Trình Anh nói: - Kẻ kia phụng mệnh chúa công đến bắt họ Triệu thì chúng ta dẫu liều chết, cũng chẳng ích gì! Công Tôn Chử Cữu nói: - Vẫn biết là không ích gì, nhưng ân chủ mình có nạn, có lẽ nào mà mình không đến cứu. Trình Anh nói: - Trang Cơ (vợ Triệu Sóc) hiện đang có thai, nếu sinh đặng con trai thì ta cùng nhà ngươi hết lòng ủng hộ, chẳng may mà sinh con gái thì bấy giờ chúng ta hãy chết, cũng chưa chậm gì! Đến lúc nghe tin Trang Cơ sinh con gái. Công Tôn Chử Cữu khóc mà nói rằng: - Lòng trời định làm tuyệt họ Triệu hay sao! Trình Anh nói: - Chưa lấy gì làm chắc, âu là ta hãy dò xét xem. Trình Anh liền đút tiền các cung nhân để báo tin cho Trang Cơ. Trang Cơ biết Trình Anh là người trung nghĩa, mới viết một chữ "Vũ" đưa ra. Trình Anh mừng thầm rằng: Công chúa (trỏ Trang Cơ) quả nhiên sinh đặng con trai rồi. Sau Đồ Ngạn Giả vào khám xét trong cung, không thấy gì cả, Trình Anh mới bảo Công Tôn Chử Cữu rằng: - Cô nhi họ Triệu vẫn ở trong cung mà Đồ Ngạn Giả không tìm thấy, đó mới thật là lòng trời, nhưng chẳng qua giấu được một lúc mà thôi; sau này việc tiết lộ ra, Đồ Ngạn Giả tất lại khám xét, âu là ta phải lập kế đem ra mà giấu ở một nơi xa thì mới bảo toàn được. Công Tôn Chử Cữu ngẫm nghĩ trong nửa ngày rồi hỏi Trình Anh rằng: - Một đàng sống để giữ lấy cô nhi, một đàng liều thân mà chịu chết, đàng nào khó hơn? Trình Anh nói: - Liều chết thì dễ, chứ giữ lấy cô nhi là một việc khó. Công Tôn Chử Cữu nói: - Nhà ngươi nhận lấy việc khó để ta làm việc dễ cho. Nhà ngươi nghĩ thế nào? Trình Anh nói: - Bây giờ nhà ngươi định kế gì? Công Tôn Chử Cữu nói: - Làm thế nào tìm được một đứa cô nhi khác, nói dối là cô nhi của họ Triệu, ta ẵm đem vào giấu ở trong núi Thú Dương, rồi nhà ngươi ra thú, để cho Đồ Ngạn Giả vào bắt. Khi hắn đã bắt được đứa cô nhi giả ấy rồi thì đứa cô nhi thật mới có thể thoát nạn được. Trình Anh nói: - Tìm đứa cô nhi khác, không khó, chỉ khó một nỗi làm sao mà đem cô nhi thật ở trong cung ra cho được toàn vẹn. Công Tôn Chử Cữu nói: - Trong bọn các tướng, chỉ có Hàn Quyết là chịu ơn họ Triệu rất nhiều, việc đem đứa cô nhi ở trong cung ra, có thể nhờ Hàn Quyết được. Trình Anh nói: - Ta mới sinh đặng đứa con trai, cũng gần ngày với đứa cô nhi họ Triệu, có thể thay được; nhưng nhà ngươi đã có cái tội giấu đứa cô nhi ấy, tất nhiên bị giết. Nhà ngươi chết trước ta thì ta sao đành lòng! Trình Anh nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Công Tôn Chử Cữu nổi giận mà nói rằng: - Đó là một việc hay cho ta sao nhà ngươi lại khóc. Trình Anh liền gạt nước mắt rồi từ giã lui về. Đêm hôm ấy, Trình Anh ẵm đứa con giao tay cho Công Tôn Chử Cữu; lại sang yết kiến Hàn Quyết, đưa cho Hàn Quyết xem chữ "Vũ" rồi sau mới nói đến cái mưu của Công Tôn Chử Cữu cho Hàn Quyết nghe. Hàn Quyết nói: - Trang Cơ đang có bệnh, sai ta đi tìm thầy thuốc, nếu nhà ngươi đánh lừa cho Đồ Ngạn Giả đi vào núi Thú Dương tự khắc ta có kế đem được cô nhi họ Triệu ra. Trình Anh liền nói phao cho mọi người biết rằng: - Quan tư khấu họ Đồ (tức là Đồ Ngạn Giả) muốn bắt cô nhi họ Triệu, sao lại tìm ở trong cung. Người nhà Đồ Ngạn Giả nghe nói, liền hỏi Trình Anh rằng: - Nhà ngươi có biết chỗ cô nhi họ Triệu ở đâu không? Trình Anh nói: - Cho ta một nghìn nén vàng, ta mới chịu bảo. Người nhà Đồ Ngạn Giả liền đưa Trình Anh vào yết kiến Đồ Ngạn Giả. Đồ Ngạn Giả hỏi họ tên là gì. Trình Anh nói: - Tôi là họ Trình tên Anh, cùng với Công Tôn Chử Cữu cùng làm tôi họ Triệu, nay công chúa (trỏ Trang Cơ) sinh đặng con trai, có sai người ẵm ra giao cho hai chúng tôi đem giấu. Nhưng tôi sợ sau này có người tố giác thì nghìn nén vàng thưởng về tay họ được, mà cả nhà tôi tất bị chết oan, vậy nên tôi phải thú thực. Đồ Ngạn Giả hỏi: - Nay đứa cô nhi ấy giấu ở đâu? Trình Anh nói: - Ngài cho đuổi hết người xung quanh đi, rồi tôi xin nói. Đồ Ngạn Giả tức khắc truyền cho tả hữu lui ra. Trình Anh nói với Đồ Ngạn Giả rằng: - Hiện nay giấu ở trong núi Thú Dương, đi ngay mới bắt được, nếu chậm thì trốn sang nước Tấn mất! Nhưng ngài nên thân hành đi, còn người khác phần nhiều là thân tình với họ Triệu trước, chớ nên ủy thác cho ai. Đồ Ngạn Giả nói: - Nhà ngươi đưa ta đi. Việc thực thì ta trọng thưởng cho, nếu không thì có tội. Trình Anh nói: - Tôi cũng vừa ở trong núi về đây, trong bụng đói quá, xin ngài cho ăn một bữa. Đồ Ngạn Giả sai người dọn cơm cho ăn. Trình Anh ăn xong, lại giục Đồ Ngạn Giả đi ngay. Đồ Ngạn Giả đem ba nghìn quân theo Trình Anh thẳng đường đi vào núi Thú Dương. Đường đi quanh co, kể hàng mấy dặm, trông thấy ở bên kia suối có mấy gian nhà gianh, cửa đóng kín mít. Trình Anh trỏ cái nhà ấy mà bảo Đồ Ngạn Giả rằng: - Đây tức là chỗ Công Tôn Chử Cữu giấu đứa cô nhi ở đó! Trình Anh đến trước gọi cửa. Công Tôn Chử Cữu mở cửa ra đón trông thấy quân sĩ, giả cách hốt hoảng chạy trốn. Trình Anh gọi mà bảo rằng: - Nhà ngươi chớ chạy, quan tư khấu họ Đồ, ngài đã biết đứa cô nhi họ Triệu ở đó; ngài thân hành đến bắt; nhà ngươi nên mau mau mà đem nộp đi. Nói chưa dứt lời thì quân sĩ trói ngay Công Tôn Chử Cữu lại, đem đến trước mặt Đồ Ngạn Giả. Đồ Ngạn Giả hỏi: - Đứa cô nhi họ Triệu bây giờ để đâu. Công Tôn Chử Cữu chối rằng: - Thực quả không có! Đồ Ngạn Giả sai quân sĩ vào khám trong nhà. Quân sĩ vào khám, trông thấy cửa phòng khóa kỹ lắm, liền phá cửa vào. Trong buồng tối tăm như mực, nghe có tiếng trẻ con sợ khóc, hình như đứa bé ấy được đặt nằm ở trên một cái giường tre. Trình Anh ẵm đứa bé ấy đem ra thì thấy tã lót toàn bằng gấm vóc, rõ là một đứa bé con nhà quý phái. Công Tôn Chử Cữu trông thấy, muốn chạy lại mà cướp lấy, nhưng bị trói không làm gì được, mới quát to lên mà mắng Trình Anh rằng: - Trình Anh thật là một đứa tiểu nhân! Khi trước họ Triệu bị bắt, ta ước với mày cùng nhau liều chết mà đến cứu, mày có bảo ta rằng: - Công chúa (trỏ Trang Cơ) đang có thai, nếu chết đi thì sau này ai là người phù tá cho cô nhi. Nay công chúa đem cô nhi giao cho mày với ta cùng giấu vào chỗ núi này, bây giờ mày lại tham nghìn nén vàng mà đi tố giác. Ta dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc rằng không đền được cái ơn của họ Triệu. Công Tôn Chử Cữu cứ sỉ mắng Trình Anh luôn miệng; một điều: Tiểu nhân! Hai điều: Tiểu nhân! Trình Anh hổ thẹn, mặt đỏ bừng bừng mà bảo Đồ Ngạn Giả rằng: - Sao ngài không giết chết nó đi! Đồ Ngạn Giả truyền đem Công Tôn Chử Cữu ra chém, rồi xách đứa cô nhi họ Triệu ném mạnh xuống đất, chết tươi ngay lập tức. Khi Đồ Ngạn Giả thân hành vào núi Thú Dương để bắt cô nhi họ Triệu, bấy giờ chốn kinh thành nước Tấn, ai cũng bàn về việc ấy. Người thì mừng thay cho Đồ Ngạn Giả, người thì thương thay cho họ Triệu, bởi vậy các quân sĩ canh giữ ở cửa cung, cũng hơi trễ nải những việc khám xét. Hàn Quyết sai một người tâm phúc, giả cách làm thầy thuốc vào trong xem bệnh cho Trang Cơ, đem cái mảnh giấy chữ "Vũ" của Trình Anh đưa khi trước dán ở trên cái đẫy đựng thuốc. Trang Cơ trông thấy chữ "Vũ" liền hiểu ý ngay. Người thầy thuốc bắt mạch xong, giả cách theo lối đoán bệnh, nói qua mấy câu: Thai tiền, sản hậu, v. V.. Trang Cơ thấy cung nhân đứng xung quanh đều là tâm phúc với mình cả, liền đem đứa cô nhi đặt vào đẫy thuốc. Đứa cô nhi ấy kêu khóc ầm lên. Trang Cơ lấy tay vỗ ở ngoài đẫy thuốc mà khấn rằng: - Triệu Vũ! Triệu Vũ! Nhà ta trăm miệng chết oan, sự báo thù ấy, chỉ trông mong một thân con đó mà thôi, khi con ra cửa cung, chớ có kêu khóc. Trang Cơ dặn xong thì đứa cô nhi nín lặng không khóc nữa; khi đem ra cửa cung, cũng chẳng ai khám xét gì cả. Hàn Quyết đem đứa cô nhi họ Triệu ra, khác nào như người được của báu, liền giấu vào một nơi nhà kín, giao cho vú nuôi, dẫu người trong nhà cũng chẳng ai biết đến. Đồ Ngạn Giả về dinh, đem nghìn nén vàng thưởng cho Trình Anh. Trình Anh chối từ nhận thưởng. Đồ Ngạn Giả nói: - Nhà ngươi chỉ vì cầu thưởng mà ra thú, cớ sao lại còn chối từ? Trình Anh nói: - Tôi trước làm môn khách họ Triệu đã lâu, nay giết cô nhi họ Triệu để gỡ tội, đã là một điều bất nghĩa, huống chi lại còn dám tham vàng, nếu ngài nghĩ đến cái công nhỏ mọn của tôi thì tôi xin đem vàng ấy để thu táng cho một nhà họ Triệu, gọi là chút tình của tôi đối với họ Triệu ngày xưa. Đồ Ngạn Giả bằng lòng mà nói rằng: - Nếu vậy thì nhà ngươi thật là một người có tín nghĩa! Những di thi họ Triệu, ta cho phép nhà ngươi được đem cái vàng này mà thu táng. Trình Anh lạy tạ, nhận lấy nghìn nén vàng, rồi thu táng những di thi họ Triệu, ở bên cạnh mộ Triệu Thuẫn. Khi thu táng đã xong, lại đến tạ ơn Đồ Ngạn Giả. Đồ Ngạn Giả muốn dùng Trình Anh làm quan. Trình Anh ứa nước mắt mà nói rằng: - Tôi chỉ vì tham sống sợ chết mà bị cái tiếng bất nghĩa. Còn mặt mũi nào trông thấy người nước Tấn! Từ đây trở đi, xin đi biệt phương xa, để mà kiếm ăn nuôi miệng. Trình Anh cáo từ Đồ Ngạn Giả, rồi đến yết kiến Hàn Quyết. Hàn Quyết đem đứa cô nhi họ Triệu và một người vú nuôi giao cho Trình Anh. Trình Anh nhận làm con mình, đem vào núi Mạnh Sơn để nuôi giấu. Đến ba năm sau, Tấn Cảnh công ra chơi Tân Điền, thấy chỗ ấy ruộng đất tốt lắm, mới thiên đô ra ở đấy, gọi là Tân Giáng, còn đô thành cũ thì gọi là Cô Giáng. Các quan triều thần làm lễ chúc mừng. Tấn Cảnh công mời vào trong nội cung để bày tiệc thiết đãi. Trời đã gần tối, các nội thị sắp sửa thắp nến, bỗng có một trận gió cuốn, bốc vào trong điện, lạnh ngắt cả người, ai cũng kinh sợ. Gió vừa thoảng qua thì Tấn Cảnh công trông thấy một con ma đầu bù, mình dài hơi trượng, xõa tóc đến tận đất ở ngoài cửa bước vào quát to lên mà mắng rằng: - Trời ôi! Con cháu ta có tội gì mà nhà ngươi giết đi, ta đã tâu với Ngọc Hoàng Thượng đế, cho đến đây để làm chết nhà ngươi. Con ma ấy giơ cái dùi đồng đánh Tấn Cảnh công. Tấn Cảnh công kêu rầm lên rằng: - Các quan cứu ta với!.. Miệng kêu tay rút thanh kiếm chém con ma, chẳng ngờ lại chém phải ngón tay của mình. Các quan triều thần không hiểu ra làm sao, vội vàng xúm lại giật lấy thanh kiếm, Tấn Cảnh công hộc máu tươi ra đàng miệng, rồi ngã lăn xuống đất.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  10. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 58 Ngụy Tướng sang Tần đón thầy thuốc Dưỡng Thúc vì vua bắn kẻ thù

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tấn Cảnh công bị con ma đánh hộc máu tươi ra đàng miệng, ngã lăn xuống đất. Nội thị vực vào trong phòng, giờ lâu mới dần dần tỉnh lại. Các quan đều không được vui mà tan về cả. Từ bấy giờ Tấn Cảnh công thành ra ốm nặng. Nội thị tâu ở đất Tang Môn có người đại vu cao tay lắm, ban ngày trông thấy ma quỷ được, xin cho đi triệu đến. Tấn Cảnh công cho đi triệu. Tang Môn đại vu mới vào cửa phòng, đã nói ngay là có ma có quỷ. Tấn Cảnh công hỏi hình dáng ma quỷ ấy thế nào. Tang Môn đại vu nói: - Đầu bù tóc xõa, mình cao hơn trượng, thường hay lấy tay đánh vào ngực, trông rất hung tợn! Tấn Cảnh công nói: - Tang Môn đại vu nói chính hợp với mắt ta trông thấy. Con ma ấy bảo là ta giết oan con cháu nó, không biết nó là gì? Tang Môn đại vu nói: - Đó tất là người bề tôi có công ở đời trước mà nay con cháu chết oan rất thảm vậy! Tấn Cảnh công ngạc nhiên mà nói rằng: - Ý chừng người ấy là tổ họ Triệu! Đồ Ngạn Giả đứng bên cạnh, liền tâu với Tấn Cảnh công rằng: - Tang Môn đại vu nguyên là môn khách họ Triệu, vậy nên mượn chuyện này để nói gỡ cho họ Triệu, chúa công chớ nên nghe. Tấn Cảnh công nín lặng. Được một lúc lại hỏi Tang Môn đại vu rằng: - Con ma ấy có thể cúng được không? Tang Môn đại vu nói: - Con ma ấy đang có lòng căm tức, dẫu cúng cũng vô ích. Tấn Cảnh công nói: - Vậy thì đại hạn của ta thế nào? Tang Môn đại vu nói: - Tôi xin liều chết mà nói thẳng rằng chúa công không kịp nếm lúa mạch mới. Đồ Ngạn Giả bảo Tang Môn đại vu rằng: - Chỉ trong một tháng nữa thì lúa mạch chín. Chúa công dẫu có bệnh, nhưng tinh thần còn tráng kiện, khi nào đã đến thế! Nếu chúa công được nếm lúa mạch mới thì chém đầu nhà ngươi! Đồ Ngạn Giả nói xong, liền đuổi Tang Môn đại vu ra. Sau bệnh Tấn Cảnh công mỗi ngày một nặng thêm. Y sinh nước Tấn vào xem không biết là chứng bệnh gì, không dám cho thuốc. Quan đại phu là Ngụy Tướng (con Ngụy Kỳ) nói chuyện với mọi người rằng: - Ta nghe nói nước Tần có hai người danh y là Cao Hòa và Cao Hoãn. Hai người ấy học được phép của Biển Thước, chữa bệnh tài lắm hiện đang làm quan thầy thuốc ở nước Tần. Nay muốn chữa bệnh cho chúa công thì tất phải mời người ấy mới được. Mọi người đều nói: - Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào lại chịu cho thầy thuốc sang chữa bệnh cho chúa công ta! Ngụy Tướng nói: - Có tai nạn gì thì giúp đỡ lẫn nhau, ấy là việc hay của nước láng giềng! Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem ba tấc lưỡi mà bảo được nước Tần phải cho danh y sang cứu chữa. Mọi người đều nói: - Nếu được như vậy thì cả triều đều cám ơn nhà ngươi lắm. Ngụy Tướng tức khắc thẳng đường đi sang nước Tần. Tần Hoàn công hỏi Ngụy Tướng rằng: - Nhà ngươi sang đây có việc gì? Ngụy Tướng tâu rằng: - Chúa công tôi chẳng may bị bệnh, nghe nói quý thuốc có hai người danh y là Cao Hòa và Cao Hoãn, làm thuốc hay lắm, vẫn cải tử hoàn sinh được, vậy tôi sang mời, về chữa bệnh cho chúa công tôi. Tần Hoàn công nói: - Nước Tấn đã mấy lần vô lý, đánh nhau với quân ta; nước ta dẫu có danh y, khi nào lại chịu chữa bệnh cho vua Tấn! Ngụy Tướng nghiêm nét mặt mà bảo rằng: - Nhà vua nghĩ thế là sai lầm! Quý quốc cùng nước tôi lân cận với nhau, bởi vậy vua Hiến công tôi ngày xưa cùng vua Mục công ở quý quốc đã kết thân với nhau để định đời đời cùng nhau giao hiếu, thế mà vua Mục công lúc trước dẫu có giúp vua Huệ công tôi về nước, lại gây việc tranh chiến ở đất Hàn Nguyên; lúc sau dẫu có giúp vua Văn công tôi về nước, lại bội lời thề ước ở sông Dĩ Thủy, có phải là những sự thù oán, đều tự quý quốc gây ra cả đó không? Khi vua Văn công tôi tạ thế đi rồi, Tần Mục công lại quá nghe lời Mạnh Minh, khinh vua Tương công tôi còn trẻ tuổi, đem quân qua núi Hào Sơn, đánh lẻn nước phụ thuộc của nước tôi, để đến nỗi thua quân; nước tôi bắt được ba quan nguyên soái mà đều tha cho về, rồi sau quý quốc lại trái lời thề, đem quân sang cướp vương cung. Đời Linh công và Khang công tôi, đem quân đi đánh Sùng mà quý quốc lại đem quân sang cùng với nước tôi giao chiến; đến chúa công tôi bây giờ, sang hỏi tội nước Tề thì nhà vua lại sai Đỗ Hồi đem quân cứu Tề. Lúc thua không chừa, lúc được không thôi; những mối thù oán, đều là tại quý quốc cả! Nhà vua thử nghĩ xem như thế là nước tôi xâm phạm quý quốc, hay là quý quốc xâm phạm nước tôi? Nay chúa công tôi có bệnh, muốn cầu danh y của quý quốc, các quan triều thần nước tôi đều nói: "Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào chịu cho!". Tôi cãi rằng: "Không phải! Vua Tần đã làm nhiều việc trái lẽ, chắc đâu là không biết hối: Chuyến này, nhân việc cầu danh y mà giữ lấy cái tình liên lạc của tiên quân ta thuở xưa", nếu nhà vua không cho thì lời nói của các quan triều thần nước tôi, đoán đã trúng lắm! Thế là nước láng giềng nên phải cứu giúp nhau, mà nhà vua bỏ cái nghĩa ấy; người thầy thuốc nên phải cứu giúp người mà nhà vua trái cái lòng ấy, tôi dám chê nhà vua lắm! Tần Hoàn công thấy Ngụy Tướng nói đâu ra đấy, có ý kính trọng, mới bảo Ngụy Tướng rằng: - Nhà ngươi trách ta như thế là phải, ta xin vâng lời. Tần Hoàn công truyền cho quan thầy thuốc là Cao Hoãn sang nước Tấn. Ngụy Tướng tạ ơn, rồi đưa Cao Hoãn về. Tấn Cảnh công ốm nặng, ngày đêm mong đợi thầy thuốc nước Tấn, bỗng nằm mộng thấy hai đứa bé con ở trong lỗ mũi chui ra. Một đứa nói: - Cao Hoãn nước Tấn là danh y đời bấy giờ, nếu hắn đến mà cho thuốc thì chúng ta tất bị thương, biết làm thế nào mà tránh được? Còn một đứa kia nói: - Nếu chúng ta tránh về phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim thì làm gì ta nổi! Được một lúc thì Tấn Cảnh công kêu đau bụng rầm rĩ cả lên, không thể chịu được. Ngụy Tướng đưa Cao Hoãn vào. Cao Hoãn xem mạch xong, nói với Tấn Cảnh công rằng: - Bệnh này không thể nào chữa được nữa! Tấn Cảnh công hỏi: - Tại sao? Cao Hoãn nói: - Bệnh này ở phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim, dẫu đốt cũng không thấu được, dẫu châm cũng không tới được, còn chữa làm sao, chẳng qua cũng là mệnh trời! Tấn Cảnh công khen rằng: - Nhà ngươi thật là danh y! Lời nói hợp với mộng của ta lắm! Tấn Cảnh công truyền đem lễ vật tiễn đưa Cao Hoãn trở về nước Tần. Bấy giờ có một người tiểu nội thị tên gọi Giang Trung, hầu hạ mỏi mệt quá, đang giữa ban ngày, bỗng chợp mắt ngủ đi, thấy mình cõng Tấn Cảnh công bay lên trên trời; khi tỉnh dậy, nói chuyện với những người xung quanh, lại vừa gặp Đồ Ngạn Giả vào cung thăm bệnh, nghe được cái mộng ấy, liền nói với Tấn Cảnh công rằng: - Trời là dương minh, bệnh là âm ám, nay thấy bay lên trên trời, thế là bỏ chỗ âm ám tới chỗ dương minh, bệnh chúa công tất gần đến ngày khỏi. Tấn Cảnh công hôm ấy thấy trong mình cũng hơi dễ chịu, lại nghe lời nói của Đồ Ngạn Giả, có ý mừng thầm. Bỗng có chức điền nhân đem lúa mạch mới vào dâng, Tấn Cảnh công muốn ăn ngay liền sai nhà bếp đem một nửa giã nhỏ ra để nấu cháo. Đồ Ngạn Giả căm tức Tang Môn đại vu về việc nói họ Triệu chết oan, mới tâu với Tấn Cảnh công rằng: - Ngày trước Tang Môn đại vu nói: "Chúa công không kịp nếm lúa mạch mới", nay câu nói ấy không nghiệm, xin triệu đến mà bảo cho hắn biết. Tấn Cảnh công theo lời, triệu Tang Môn đại vu vào, rồi sai Đồ Ngạn Giả quở trách rằng: - Lúa mạch mới để đây rồi, nhà ngươi còn dám bảo là chúa công không kịp nếm nữa hay thôi? Tang Môn đại vu nói: - Chưa chắc! Tấn Cảnh công nghe nói, sầm nét mặt xuống. Đồ Ngạn Giả nói: - Bề tôi mà dám nguyền rủa vua thì tội đáng chém! Đồ Ngạn Giả truyền đem Tang Môn đại vu ra chém, Tang Môn đại vu thở dài mà than thầm rằng: - Thương hại cho ta, vì một thuật nhỏ mọn mà đến nỗi thiệt đời! Quân sĩ đem đầu Tang Môn đại vu vào nộp, lại vừa gặp nhà bếp dâng bát cháo lúa mạch; bấy giờ trời đang mưa, Tấn Cảnh công toan cầm bát cháo lúa mạch để ăn, tự nhiên bụng phát chướng lên muốn đi ra ngoài, vội vàng gọi Giang Trung, bảo cùng ra nhà xí. Giang Trung cõng ra đến nơi thì Tấn Cảnh công đau bụng quá, đứng chân không vững ngã lăn xuống đống phân. Giang Trung lóp ngóp ẵm lên thì Tấn Cảnh công đã tắt hơi rồi, chung quy vẫn không kịp nếm lúa mạch mới. Quan thượng khanh là Loan Thư cùng các quan triều thần lập thế tử Châu Bồ lên nối ngôi, tức là Tấn Lệ công. Các quan triều thần công nghị rằng: - Giang Trung khi trước đã nằm mộng thấy cõng vua Cảnh công ta lên trời, sau đó cõng ra nhà xí, chính là ứng cái mộng ấy, phải dùng Giang Trung làm tuẫn táng. Người nước Tấn nhân việc Tấn Cảnh công chết về bệnh ma quỷ, đều bảo nhau là họ Triệu chết oan, nhưng họ Loan và họ Khước cùng với Đồ Ngạn Giả giao thông, còn Hàn Quyết dẫu là đảng họ Triệu, mà một mình thế cô, cũng không dám nói. Bấy giờ Tống Cung công sai quan thượng khanh là Hoa Nguyên sang nước Tấn để viếng vua cũ và mừng vua mới. Hoa Nguyên cùng với Loan Thư thương nghị, muốn cho Tấn và Sở giảng hòa với nhau, để khỏi gây ra việc tranh chiến. Loan Thư nói: - Nước Sở không nên tin! Hoa Nguyên nói: - Tôi có quen với công tử Anh Tề nước Sở, việc này giao cho người ấy được. Loan Thư liền sai con là Loan Hàm cùng với Hoa Nguyên sang nước Sở, vào yết kiến công tử Anh Tề. Công tử Anh Tề trông thấy Loan Hàm hãy còn trẻ tuổi, mặt mũi khôi ngô, liền hỏi Hoa Nguyên. Hoa Nguyên nói là con quan trung quân nguyên soái ở nước Tấn. Công tử Anh Tề muốn thử tài, mới hỏi Loan Hàm rằng: - Phép dùng quân của quý quốc thế nào? Loan Hàm nói: - Nghiêm chỉnh! Công tử Anh Tề lại hỏi: - Còn có cái gì giỏi hơn nữa không? Loan Hàm nói: - Nhàn hạ! Công tử Anh Tề nói: - Người ta rối loạn mà mình nghiêm chỉnh, người ta vội vàng mà mình nhàn hạ thì đánh đâu là chẳng được. Câu nói ấy thật giản dị mà có thể tóm tắt hết được phép dùng quân! Từ bấy giờ công tử Anh Tề có ý kính trọng Loan Hàm mới vào yết kiến Sở Cung Vương, để bàn định việc giảng hòa của hai nước (Tấn và Sở). Sở Cung Vương bằng lòng rồi hẹn ngày cho ăn thề. Ngày hôm ấy Sĩ Nhiếp nước Tấn và công tử Bí nước Sở cùng uống máu ăn thề ở ngoài cửa Tây môn nước Tống. Quan tư mã nước Sở là công tử Trắc không được dự bàn về việc ấy, mới nổi giận mà nói rằng: - Nam Bắc từ xưa vẫn không giao thông với nhau, nay công tử Anh Tề lại muốn chuyện cái công hợp nhất, làm thế nào ta cũng phải phá mới được. Công tử Trắc dò thám biết tin Vu Thần hợp với vua nước Ngô là Thọ Mộng cùng các quan đại phu nước Tấn, nước Lỗ, nước Tề, nước Tống, nước Vệ và nước Trịnh hội ở đất Chung Ly, mới nói với Sở Cung Vương rằng: - Nước Tấn giao thông với nước Ngô, tất là có ý mưu hại nước Sở ta. Nay Tống và Trịnh đều theo Tấn thì các nước phụ thuộc của Sở ta, không còn gì nữa! Sở Cung Vương nói: - Ta muốn đánh Trịnh, chỉ ngại lời thề ở Tây môn. Công tử Trắc nói: - Công việc ngày nay, đàng nào lợi thì làm, cần gì lời thề! Sở Cung Vương liền sai công tử Trắc đem quân đi đánh Trịnh. Nước Trịnh lại bỏ Tấn theo Sở. Tấn Lệ công giận lắm, họp các quan đại phu để bàn việc đánh Trịnh. Bấy giờ Loan Thư nước Tấn dẫu làm trung quân nguyên soái, nhưng quyền chính ở tay ba họ Khước: 1. - Khước Kỳ (con Khước Khắc) làm thượng quân nguyên soái. 2. - Khước Thù (em họ Khước Khắc) làm thượng quân phó tướng. 3. - Khước Chí (cháu Khước Bộ Dương) làm tân quân phó tướng. Con Khước Thù là Khước Nghị và em Khước Chí là Khước Khất đều làm quan đại phu. Bá Tôn là người ngay thẳng, đã nhiều lần đem việc họ Khước chuyên quyền nói với Tấn Lệ công, bảo nên chọn người nào tài giỏi, hãy cho làm quan, để nén bớt quyền thế đi thì mới bảo toàn được cho một nhà công thần. Tấn Lệ công không nghe lời. Ba họ Khước căm tức Bá Tôn, mới dèm Bá Tôn hay chê bai triều chính. Tấn Lệ công lại bắt Bá Tôn đem giết đi. Con Bá Tôn là Bá Châu Lê trốn sang nước Sở. Nước Sở dùng làm quan thái tể, để bàn mưu hại nước Tấn. Tấn Lệ công vốn có tính kiêu ngạo xa xỉ, ngoài thì tin yêu bọn Tư Đồng (con Tư Khắc, cháu Tư Giáp) là một lũ thiếu niên mà đều cho làm quan đại phu cả; còn trong thì những mỹ cơ ái tỳ, không biết bao nhiêu mà kể, ngày đêm vui chơi, chẳng thiết gì đến triều chính. Bởi vậy các quan triều thần ai cũng có ý chán nản. Sĩ Nhiếp thấy triều chính mỗi ngày một dở, không muốn đánh Trịnh. Khước Chí nói: - Nếu không đánh Trịnh thì sao cho chư hầu phục? Loan Thư nói: - Ngày nay bỏ mất nước Trịnh thì Tống và Lỗ tất cũng ly tán mà thôi. Ôn Quý (tức là Khước Chí) nói phải lắm! Miêu Bí Hoàng (hàng tướng nước Sở, sang làm quan ở nước Tấn) cũng khuyên Tấn Lệ công nên đánh Trịnh. Tấn Lệ công nghe lời, liền giao quốc chính cho Tuân Dinh, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh; lại một mặt sai Khước Thù cùng Loan Áp sang mượn thêm quân Lỗ và Vệ để đánh giúp. Trịnh Thành công nghe nói quân Tấn thế lực mạnh lắm, toan sai người ra xin hàng. Quan đại phu là Diêu Câu Nhĩ nói: - Nước Trịnh ta nhỏ mọn, ở vào khoảng hai nước lớn, chỉ nên chọn xem nước nào mạnh thế hơn thì theo, cớ sao lại nay Sở mai Tấn, để đến nỗi năm nào cũng phải chịu cái tai vạ chiến tranh như thế này! Trịnh Thành công nói: - Vậy thì biết làm thế nào? Diêu Câu Nhĩ nói: - Cứ như ý tôi thì không gì bằng sang nước Sở cầu cứu. Hễ quân Sở đến thì ta cùng với nước Sở cố sức mà đánh vỡ quân Tấn, mới có thể giữ yên được trong mấy năm. Trịnh Thành công liền sai Diêu Câu Nhĩ sang nước Sở để cầu cứu. Sở Cung Vương vẫn ngại về lời thề ở Tây môn, không muốn cất quân, mới hỏi công tử Anh Tề. Công tử Anh Tề nói: - Vì ta thất tín, Tấn mới đem quân đánh Trịnh, nay ta lại cứu Trịnh mà đánh Tấn thì làm khổ dân mà vị tất đã đánh được, chi bằng ta hãy đợi thời. Công tử Trắc nói: - Người nước Trịnh không nỡ bội nước Sở ta, vậy nên mới đến cầu cứu. Nước ta trước đã không cứu Tề, nay lại không cứu Trịnh thì các nước chư hầu, ai còn muốn theo ta nữa. Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem một toán quân theo đại vương đi cứu Trịnh. Sở Cung Vương bằng lòng, cho công tử Trắc làm đại tướng, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh. Sĩ Nhiếp nghe tin quân Sở sang cứu Trịnh, bảo Loan Thư rằng: - Chúa công ta còn trẻ tuổi, không biết việc nước, nay ta giả cách sợ nước Sở mà lùi quân, khiến cho chúa công ta biết nghĩ lại, mới có thể giữ yên được nước nhà. Loan Thư nói: - Việc ấy tôi không dám làm! Sĩ Nhiếp lui ra, rồi thở dài mà than rằng: - Chuyến này thua là may, nếu thắng trận thì ta chỉ e rằng trong nước lại sinh ra biến loạn. Bấy giờ quân Sở đã kéo đến đất Yên Lăng. Quân Tấn không tiến binh được nữa, phải đóng lại ở Bành Tổ Cương. Ngày hôm sau nhằm vào ngày nguyệt tận, gọi là ngày hối; theo như binh pháp thì ngày hối phải kiêng cất quân, bởi vậy quân Tấn chẳng sửa soạn gì cả. Bấy giờ trời chưa sáng rõ, nghe báo quân Sở đã bày trận khiến cho quân Tấn không có chỗ mà bày trận nữa, nếu ta giao chiến tất là bất lợi, chi bằng ta hãy họp các tướng lại để thương nghị. Các tướng mỗi người nói một cách: Người thì nói nên đem quân xông ra mà phá trận quân Sở; người thì nói nên rút quân lùi về phía sau. Bấy giờ con Sĩ Nhiếp là Sĩ Mang, mới mười sáu tuổi, nghe các tướng bàn mãi mà không xong, liền vào nói với Loan Thư rằng: - Nguyên soái lo không có chỗ bày trận hay sao, tôi thiết tưởng đó là một việc rất dễ! Loan Thư nói: - Nhà ngươi có kế gì? Sĩ Mang nói: - Ta mật truyền quân sĩ đóng chặt cửa dinh lại, rồi đem bao nhiêu những bếp đun, san phẳng cả đi, còn giếng thì dùng ván bắc ngang lên mà lấp kín lại, như thế thì chỉ trong một hồi lâu là có thừa chỗ bày trận mà thôi. Khi đã bày trận xong sẽ mở cửa dinh ra để giao chiến với quân Sở, chắc là quân Sở chẳng làm gì ta nổi! Loan Thư nói: - Bếp và giếng là những chỗ cần dùng, nếu sau bếp lấp giếng thì lấy gì mà ăn? Sĩ Mang nói: - Ta hãy truyền cho quân sĩ sắp sẵn lương khô và nước uống đủ dùng trong một, hai ngày, đợi khi bày trận xong, sẽ cho những quân già yếu ra phía sau dinh, làm bếp khác và khai giếng thác. Sĩ Nhiếp vốn không muốn đánh, thấy con hiến kế nổi giận mà mắng rằng: - Việc binh thắng hay là phụ quan hệ ở mệnh trời. Mày còn trẻ tuổi phỏng đã biết cái gì mà dám nói láo! Sĩ Nhiếp liền cầm ngọn giáo đuổi theo, để định đâm Sĩ Mang. Các tướng vội vàng đổ ra, ôm Sĩ Nhiếp lại Sĩ Mang mới chạy thoát. Loan Thư cười mà bảo rằng: - Trí khôn của đứa trẻ ấy lại có phần hơn Phạm Mạnh (tức là Sĩ Nhiếp) ! Loan Thư theo kế Sĩ Mang, truyền cho quân sĩ san bếp lấp giếng, rồi định ngày giao chiến với quân Sở. Sở Cung Vương tiến áp đến dinh quân Tấn mà bày trận, trong lòng nghĩ thầm rằng ta nhân lúc bất ngờ mà làm như thế, tất nhiên quân Tấn phải rối loạn, sau thấy quân Tấn vẫn im lặng như tờ, mới hỏi quan thái tể là Bá Châu Lê rằng: - Tại sao mà quân Tấn vẫn im lặng như vậy, nhà ngươi là người nước Tấn, tất biết rõ cớ ấy? Bá Châu Lê nói: - Xin đại vương trèo lên chòi mà nom xem. Sở Cung Vương trèo lên chòi, cho Bá Châu Lê đứng ở bên cạnh, Sở Cung Vương hỏi: - Quân Tấn làm gì mà lúc chạy sang phía tả, lúc chạy sang phía hữu thế kia? Bá Châu Lê nói: - Đó là đang gọi quân. Sở Cung Vương nói: - Sao bây giờ lại họp cả ở trung quân như vậy? Bá Châu Lê nói: - Đó là họp để bàn mưu. Sở Cung Vương nói: - Căng màn ra làm gì thế kia? Bá Châu Lê nói: - Đó là làm lễ cáo với tiên quân. Sở Cung Vương nói: - Sao bây giờ lại cất màn đi? Bá Châu Lê nói: - Đó là đang tuyên bố hiệu lệnh. Sở Cung Vương nói: - Tại sao mà trong quân huyên náo, lại có nhiều cát bụi bay rầm lên như vậy? Bá Châu Lê nói: - Quân Tấn đang san bếp lấp giếng để lấy chỗ bày trận. Sở Cung Vương nói: - Xe đều đóng ngựa rồi! Tướng sĩ đều lên xe rồi! Bá Châu Lê nói: - Đó là kết thành trận thế. Sở Cung Vương nói: - Tướng sĩ đã lên xe, sao lại còn xuống? Bá Châu Lê nói: - Đó là sắp giao chiến mà còn cúng thần. Sở Cung Vương nói: - Ta xem quân Tấn thế lực hùng dũng lắm! Hay có vua Tấn ở đó chăng? Bá Châu Lê nói: - Đó là họ Loan và họ Phạm theo vua Tấn mà bày trận, ta chớ nên khinh thường. Sở Cung Vương biết hết tình hình quân Tấn, mới truyền cho quân sĩ phải sửa soạn sẵn, để đến ngày hôm sau giao chiến. Hàng tướng nước Sở là Miêu Bí Hoàng (con Đấu Việt Lâm trốn sang làm quan ở nước Tấn) đứng hầu ở bên cạnh Tấn Lệ công, tâu với Tấn Lệ công rằng: - Từ khi quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao chết đi, quân chính nước Sở chẳng có phép tắc nào cả, trong bọn tinh binh đã nhiều người già yếu không thể giao chiến được. Vả hai quan nguyên soái ngày nay đang bất bình với nhau, tôi chắc rằng ta chỉ đánh một trận thì phá vỡ được quân Sở. Ngày hôm ấy, hai bên vẫn còn giữ thế chưa giao chiến, tướng nước Sở là Phan Đảng ra sau dinh tập bắn chơi; bắn trúng luôn ba phát, các tướng đều reo mừng khen ngợi rầm rĩ cả lên, lại vừa gặp có Dưỡng Do Cơ đến, các tướng trông thấy đều nói: - Lại có một tay thần tiễn nữa đến kia! Phan Đảng nổi giận mà nói rằng: - Ta bắn như thế, phỏng đã kém Dưỡng Thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) về cái gì? Dưỡng Do Cơ nói: - Nhà ngươi bắn trúng cái đích bia, chưa lấy gì làm lạ, như ta đây thật là đã trăm bước trúng cây dương. Các tướng đều hỏi: - Trăm bước trúng cây dương là thế nào? Dưỡng Do Cơ nói: - Trước đã có người đánh dấu một cái lá cây dương, ta đứng ở ngoài trăm bước bắn một phát mà trúng vào giữa cái lá ấy, bởi thế mới gọi là "trăm bước trúng cây dương". Các tướng nói: - Ở đây cũng có cây dương, nhà ngươi thử bắn được không? Dưỡng Do Cơ nói: - Sao lại không được! Các tướng mừng lắm nói: - Ngày nay ta lại được xem thần tiễn của Dưỡng Thúc! Các tướng lấy mực bôi vào một cái lá ở cây dương để cho Dưỡng Do Cơ đứng ngoài trăm bước mà bắn thử, Dưỡng Do Cơ đứng bắn một phát. Các tướng không thấy cái tên rơi xuống đất, đều xúm lại xem thì ra cái tên ấy vướng ở trên cành cây dương mà mũi tên xuyên qua cái lá đã bôi mực. Phan Đảng nói: - May được trúng đó thôi! Bây giờ ta theo thứ tự mà đánh dấu vào ba cái lá, nhà ngươi lại theo thứ tự mà bắn trúng được cả ba thì mới là tay giỏi. Dưỡng Do Cơ nói: - Ta chưa dám chắc, nhưng hãy xin bắn thử! Phan Đảng đánh dấu ba cái lá ở trên cây dương, mỗi cái một chỗ: Cái đề chữ "nhất", cái đề chữ "nhị" và cái đề chữ "tam". Dưỡng Do Cơ nhìn qua một lượt, rồi lui ra ngoài trăm bước, lại theo thứ tự: Nhất, nhị, tam mà bắn. Bắn luôn ba phát đều trúng tất cả. Các tướng cùng chắp tay vái Dưỡng Do Cơ mà khen rằng: - Nhà ngươi thật là thần nhân! Phan Đảng dẫu trong lòng khen thầm, nhưng lại muốn khoe tài của mình, mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng: - Dưỡng Thúc bắn như thế cũng cho là giỏi, nhưng nghề bắn lại cần phải có sức khỏe mới được; ta đây có thể bắn suốt qua được mấy lần áo giáp, để ta thử bắn cho các ngươi đứng mà xem. Các tướng đều nói: - Chúng tôi muốn xem lắm! Phan Đảng sai quân sĩ xếp liền với nhau năm lần áo giáp. Các tướng nói: - Thôi thế cũng đã đủ rồi! Phan Đảng lại sai để thêm hai lần nữa, cả thảy là bảy lần. Các tướng đều nghĩ thầm: Bảy lần áo giáp có khi dầy gần tới một thước, tài nào bắn xuyên qua được? Phan Đảng sai đem bảy lần áo giáp treo lên trên cái đích bia, rồi đứng ở ngoài trăm bước, cố sức thẳng cánh giương cung bắn ngay một phát, chỉ nghe tiếng cái tên bay vụt đi, không thấy rơi xuống đất. Các tướng xúm lại xem, ai nấy đều reo ầm lên rằng: - Hảo tiễn! Hảo tiễn! Nguyên Phan Đảng bắn mạnh quá, cái tên ấy suốt qua bảy lần áo giáp, như đinh đóng cột, không thể lay động được. Phan Đảng nét mặt có ý khoe khoang, truyền cho quân sĩ đem mấy lần áo giáp đó xuống, và cứ để cái tên ấy y nguyên như vậy, định đưa khắp cho cả dinh cùng xem, Dưỡng Do Cơ bảo các tướng rằng: - Khoan đã! Đừng hạ xuống vội, để thử bắn một phát nữa xem sao! Các tướng nói: - Ừ, phải đó! Để chúng ta xem tài Dưỡng Thúc chuyến nữa! Dưỡng Do Cơ nói: - Nếu cứ theo lối cũ mà bắn như vậy thì không lấy gì làm lạ; ta đây có một cách bắn khác kiểu! Dưỡng Do Cơ nói xong, liền bắn ngay một phát. Phát tên ấy không cao, không thấp, không lệch về hai bên, lại cắm thẳng ngay vào cái đốc tên của Phan Đảng mà đẩy sang phía bên kia, còn cái tên của Dưỡng Do Cơ thì lại thế vào chỗ thủng ấy. Các tướng trông thấy ai cũng lắc đầu lè lưỡi mà khen là tài. Bấy giờ Phan Đảng mới chịu phục mà nói rằng: - Dưỡng Thúc thật là người giỏi, ta không thể theo kịp! Các tướng nói: - Nay Tấn, Sở hai nước sắp giao chiến với nhau, chính là lúc cần dùng người tài lắm, hai vị tướng quân đã có tài giỏi như vậy, ta nên tâu đại vương biết! Các tướng sai quân sĩ khiêng mấy lần áo giáp ấy đến trước mặt Sở Cung Vương, Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng cũng cùng đến cả. Các tướng đem những việc hai người bắn thi với nhau thuật lại cho Sở Cung Vương nghe, và tâu với Sở Cung Vương rằng: - Nước ta có người bắn giỏi như thế thì dẫu trăm vạn quân Tấn cũng chẳng làm gì nổi! Sở Cung Vương nổi giận mà mắng rằng: - Làm tướng đánh giặc, cần phải dùng mưu kế, chứ sao lại cầu may ở một mũi tên! Các ngươi chỉ nghĩ như thế thì tất có ngày lại chết về nghề tài của mình! Sở Cung Vương liền thu lấy cái tên của Dưỡng Do Cơ, cấm từ sau không được bắn nữa. Dưỡng Do Cơ hổ thẹn mà lui ra. Đầu trống canh năm hôm sau, Tấn Lệ công và Sở Cung Vương cùng truyền cho quân sĩ nổi hiệu trống đem quân ra trận. Trịnh Thành công cũng đem quân nước Trịnh đến tiếp ứng cho quân Sở. Tấn Lệ công vừa đem quân ra, tiến thẳng đến trận địa quân Sở, chẳng ngờ có một chỗ bùn lầy, xe Tấn Lệ công sụt bánh xuống đấy, ngựa không thể nào kéo nổi. Con Sở Cung Vương là Hùng Phiệt hãy còn trẻ tuổi, đang hăng hái lắm, trông thấy Tấn Lệ công sa lầy, liền thúc quân đến đánh. Tướng nước Tấn là Loan Hàm vội vàng ở trên xe nhẩy xuống cố sức hai tay đẩy hai bánh xe của Tấn Lệ công, bấy giờ ngựa mới ra khỏi được. Khi Hùng Phiệt đem quân đến nơi thì vừa gặp có toán quân của Loan Thư đến. Loan Thư quát to lên rằng: - Tiểu tướng không được vô lễ! Hùng Phiệt trông thấy trên lá cờ đề bốn chữ "trung quân nguyên soái" biết là đại binh giật mình kinh sợ, vội vàng bỏ chạy. Loan Thư đuổi theo, bắt sống được Hùng Phiệt. Quân Sở thấy Hùng Phiệt bị bắt đều đổ xô lại cứu, nhưng Sĩ Nhiếp và Khước Chí vừa đem quân đến, bởi vậy quân Sở sợ có mai phục, lại phải thu quân trở về. Quân Tấn cũng không đuổi theo quân Sở nữa. Loan Thư giải Hùng Phiệt về nộp Tấn Lệ công. Tấn Lệ công toan chém. Miêu Bí Hoàng nói với Tấn Lệ công rằng: - Vua Sở nghe tin con bị bắt, ngày mai tất nhiên đem quân đến đánh, ta nên bỏ Hùng Phiệt vào tù xa, đem ra trận tiền mà dụ vua Sở. Tấn Lệ công khen phải. Sáng hôm sau Loan Thư truyền mở cửa dinh để sửa soạn khai chiến với quân Sở. Quan đại tướng là Ngụy Kỳ bảo Loan Thư rằng: - Đêm qua tôi nằm mộng thấy mình giương cung bắn trúng vầng mặt trăng, một giải hào quang ở trong mặt trăng tóe thẳng xuống đất, tôi vội vàng lùi lại, chẳng ngờ trượt chân sa xuống chỗ bùn lầy, rồi giật mình tỉnh dậy không biết đó là điềm gì? Loan Thư đoán rằng: - Cùng họ với nhà Chu ta là mặt trời thì khác họ tất là mặt trăng, bắn trúng mặt trăng, tất là bắn trúng vua Sở; nhưng lùi lại mà sa vào bùn lầy thì không phải là điềm lành, tướng quân nên cẩn thận mới được! Ngụy Kỳ nói: - Nếu phá vỡ quân Sở thì tôi dẫu chết cũng được thỏa lòng! Loan Thư liền cho Ngụy Kỳ đem quân ra trận, giao chiến với tướng nước Sở là Doãn Tương. Hai người giao chiến mới được mấy hiệp thì quân Tấn đem cái tù xa Hùng Phiệt ra. Sở Cung Vương trông thấy hầm hầm nổi giận, tức khắc giục ngựa tiến vào để định cướp lấy Hùng Phiệt đem về. Ngụy Kỳ trông thấy Sở Cung Vương, không giao chiến với Doãn Tương nữa, rồi quay lại đuổi theo Sở Cung Vương, bắn một phát tên, trúng ngay vào mắt bên tả. Sở Cung Vương vội vàng bỏ chạy, cố nghiến răng mà rút cái tên ra, cầm ném xuống đất. Cái đồng tử dính ở đầu mũi tên. Có một đứa tiểu tốt nhặt lấy mà dâng Sở Cung Vương và nói rằng: - Đây là mắt rồng, đại vương không nên bỏ đi! Sở Cung Vương cầm bỏ vào trong túi tên. Quân Tấn thấy Ngụy Kỳ thắng trận, đều cùng nhau tiến binh. Quan nguyên soái nước Sở là công tử Trắc cố sức chống cự, mới cứu thoát được Sở Cung Vương. Quân Khước Chí (tướng nước Tấn) vây Trịnh Thành công. Người dong xe của Trịnh Thành công đem lá cờ đại tinh giấu vào trong túi cung. Trịnh Thành công mới chạy thoát được. Bấy giờ Sở Cung Vương giận lắm, truyền gọi thần tiễn tướng quân là Dưỡng Do Cơ đến để cứu giá. Dưỡng Do Cơ vâng mệnh chạy đến, nhưng trong mình chẳng có một cái tên nào cả. Sở Cung Vương rút hai cái tên đưa cho Dưỡng Do Cơ và bảo rằng: - Người bắn ta vừa rồi là người râu xồm mặc áo bào xanh, tướng quân nên vì ta mà báo thù. Tướng quân đã là người bắn giỏi, tưởng cũng không cần phải dùng đến nhiều tên mới được. Dưỡng Do Cơ lĩnh lấy hai cái tên ấy, rồi tức khắc tiến sang quân Tấn, gặp một người râu xồm mặc áo bào xanh, tức là Ngụy Kỳ. Dưỡng Do Cơ quát to lên mà mắng Ngụy Kỳ rằng: - Đứa thất phu kia! Sao mày dám bắn đại vương ta? Ngụy Kỳ vừa toan trả lời thì Dưỡng Do Cơ bắn một phát tên trúng ngay vào cổ. Ngụy Kỳ ngã gục xuống đất mà chết ngay. Loan Thư tức khắc mang quân đến cướp lại được thi thể Ngụy Kỳ, đưa về dinh Tấn. Dưỡng Do Cơ còn thừa một cái tên, đem về nạp Sở Cung Vương và tâu rằng: - Tôi nhờ cái uy linh của đại vương, đã bắn chết được viên tướng râu xồm mặc áo bào xanh ấy rồi. Sở Cung Vương mừng lắm, liền cởi ngay áo cẩm bào ban cho Dưỡng Do Cơ lại ban cho một trăm cái tên bằng ngà. Bây giờ quân Sở đều gọi Dưỡng Do Cơ là Dưỡng Nhất Tiễn; nghĩa là chỉ bắn một phát tên thứ nhất đã trúng được ngay, không phải bắn đến phát tên thứ hai. Bấy giờ quân Tấn đuổi theo quân Sở gấp lắm, Dưỡng Do Cơ đứng chắn ngang đường, giương cung ra bắn. Quân Tấn không dám đến gần. Tướng nước Sở là công tử Anh Tề và công tử Nhâm Phu nghe tin Sở Cung Vương bị thương, đều đem quân đến tiếp ứng, lại hỗn chiến một chập nữa, rồi quân Tấn mới chịu lui về. Loan Hàm trông thấy lá cờ lệnh doãn, biết là toán quân của Anh Tề mới nói với Tấn Lệ công rằng: - Khi trước tôi sang sứ nước Sở. Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề có hỏi tôi về việc dùng binh của nước Tấn ta, tôi đáp rằng nghiêm chỉnh và nhàn hạ. Nay hỗn chiến với nhau, chưa thấy cái gì là nghiêm chỉnh; hai bên cùng lui, chưa thấy cái gì là nhàn hạ, tôi xin sai người đem rượu sang dâng công tử Anh Tề, để theo được như lời ngày trước. Tấn Lệ công khen phải. Loan Hàm sai một người mang hũ rượu sang quân công tử Anh Tề mà nói với công tử Anh Tề rằng: - Chúa công tôi thiếu người, đang sai Loan Hàm cầm giáo đứng hầu ở bên cạnh, vậy không thể đến đây mà khao quân quý quốc được, có sai tôi thay mặt đem dâng hũ rượu này. Công tử Anh Tề nhớ đến câu nói nghiêm chỉnh và nhàn hạ khi trước, mới khen rằng: - Tiểu tướng quân thật là nhớ việc lắm! Nói xong, liền nhận hũ rượu ấy, rồi rót một chén mà uống, lại bảo sứ giả rằng: - Ngày mai ta sẽ ra trận tiền để tạ lại. Sứ giả nước Tấn về thuật lại cho Loan Hàm nghe. Loan Hàm nói: - Vua nước Sở bị một mũi tên như thế, mà quân Sở còn chưa chịu lui quân thì biết làm thế nào? Miêu Bí Hoàng nói: - Ta cứ sửa soạn sẵn để sáng mai quyết một trận thắng phụ, chứ có sợ gì quân Sở. Bấy giờ Khước Thù cùng Loan Áp đi mượn quân nước Lỗ và nước Vệ đã trở về, nói là hai nước hiện đã đang cất quân sang gần đến nơi, chỉ còn cách đây độ hai mươi dặm. Quân thám tử báo tin cho Sở Cung Vương biết. Sở Cung Vương kinh sợ mà nói rằng: - Quân Tấn đã nhiều mà nay quân Lỗ và quân Vệ lại còn đến giúp, biết làm thế nào? Sở Cung Vương tức khắc sai người đi triệu quan trung quân nguyên soái đến để thương nghị.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...