Đông Chu Liệt Quốc - Phùng Mộng Long

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Phan Kim Tiên, 9 Tháng mười hai 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 20 Ly Cơ được phong Tấn phu nhân Tử Văn lên làm Sở lịnh doãn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trịnh Văn công thấy thế lực nước Tề mỗi ngày một mạnh, sợ nước Tề xâm lấn nước mình, mới sai sứ sang giảng hòa. Tề Hoàn công hội nước Tống, nước Lỗ, nước Trần và nước Trịnh cùng ăn thề ở đất U. Ăn thề xong, Tề Hoàn công về nước, lại bày một tiệc đại yến khao thưởng các quan. Tiệc đến nửa chừng, Bão Thúc Nha rót một chén rượu thật đầy đến trước mặt Tề Hoàn công để chúc thọ. Tề Hoàn công nói: - Tiệc rượu ngày hôm nay, vui vẻ biết chừng nào! Bão Thúc Nha nói: - Tôi nghe nói vua sáng bề tôi hiền, dẫu đang lúc vui vẻ mà không quên những lúc lo nghĩ. Tôi xin chúa công chớ quên lúc còn phải đi trốn, Quản Trọng (tức Quản Di Ngô) chớ quên lúc còn ở tù xa, Ninh Thích chớ quên lúc còn đang chăn trâu ở nơi thôn dã. Tề Hoàn công vội vàng đứng dậy sụp lạy hai lạy mà nói rằng: - Tôi cùng với các quan đều không quên, ấy là cái phúc to của nước Tề ta đó! Chu Huệ Vương sai Thiệu Bá Liên sang phong cho Tề Hoàn công làm bá chủ, được quyền đi đánh dẹp các nước chư hầu. Lại nói đến việc Vệ Sóc giúp Vương tử Đồi là một việc phản đối với nhà Chu, thế mà đã 10 năm nay, chưa kịp đem quân đến hỏi tội nước Vệ, nay giao việc ấy cho Tề Hoàn công. Tề Hoàn công mới phụng mệnh thiên tử đem quân đi đánh nước Vệ. Bấy giờ Vệ Huệ công (tức là Vệ Sóc) chết rồi, con là Xích lên nối ngôi đã được 3 năm, tức là Vệ Ý công. Vệ Ý công chưa kịp hỏi vì cớ gì mà đến đánh, vội vàng đem quân ra đối địch, thua chạy trở về. Tề Hoàn công kéo thẳng đến dưới chân thành, kể tội trạng Vệ Huệ công. Vệ Huệ công nói: - Đó là cái lỗi của tiên quân ta, chứ có dự gì đến ta! Nói xong, liền sai con trưởng là Công tử Khai Phương đem các đồ lễ vật ra xin giảng hòa với nước Tề. Tề Hoàn công nói: - Theo phép tiên vương nhà Chu ta thì không bắt tội đến đời con cháu. Nay Vệ đã biết tội thì ta cũng nên khoan thứ cho. Nói xong, liền cho nước Vệ giảng hòa. Công tử Khai Phương thấy nước Tề cường thịnh, xin sang làm quan ở nước Tề. Tề Hoàn công nói: - Nhà ngươi là con trưởng Vệ Hầu, tất ngày sau được lên nối ngôi, sao lại bỏ cái ngôi vua của mình mà muốn sang làm tôi nước ta là ý thế nào? Công tử Khai Phương nói: - Chúa công là một bậc hiền đức nhất trong thiên hạ, nếu được hầu gần ở tả hữu chúa công thì cái vẻ vang ấy chẳng sung sướng hơn là làm vua hay sao! Tề Hoàn công dùng cho làm quan đại phu, cũng thân yêu như là bọn Thụ Điêu và Dịch Nha. Người nước Tề gọi là "Tam quí" nghĩa là ba người được vua yêu trong đời bấy giờ. Công tử Khai Phương đem chuyện con gái nước Vệ có nhan sắc đẹp nói với Tề Hoàn công. Tề Hoàn công sai sứ đem lễ vật cưới về làm vợ thứ. Vệ Ý công không dám từ chối, sai người đưa Vệ Cơ sang Tề. Còn người vợ chính của Tề Hoàn công cũng là Vệ Cơ, bởi vậy mới gọi một người là Trưởng Vệ Cơ và một người là Thiếu Vệ Cơ, để cho có phân biệt. Hai người đều được Tề Hoàn công thương yêu cả. Tấn Hiếu công lúc còn làm thế tử, lấy nàng Giả Cơ làm vợ, đã lâu không con; lại lấy cháu gái vua Khuyển Nhung là nàng Hồ Cơ, sinh con là Trùng Nhĩ; và con gái Tiểu Nhung, sinh con là Di Ngô. Sau lại thông dâm với nàng Tề Khương, sinh được người con tên là Thân Sinh. Đến năm Tấn Hiến công lên nối ngôi, Giả Cơ đã chết rồi, mới lập Tề Khương làm phu nhân; bấy giờ Trùng Nhĩ đã 21 tuổi. Di Ngô cũng nhiều tuổi hơn Thân Sinh, nhưng mẹ Thân Sinh là Tề Khương, đã lập làm phu nhân, vậy nên Thân Sinh được lập làm thế tử. Lại cho quan đại phu là Đỗ Nguyên Khoản làm thái phó, Lý Khắc làm thiếu phó để cùng dạy bảo thế tử. Tề Khương lại sinh được một đứa con gái, rồi mất. Tấn Hiến công lại lấy chị của Giả Cơ là Giả Quân, cũng không có con, mới lấy đứa con gái Tề Khương cho Giả Quân làm con nuôi. Tấn Hiến công đem quân đi đánh nước Ly Nhung. Nước Ly Nhung xin hòa, và đem hai người con gái dâng Tấn Hiến công: Người lớn là Ly Cơ, người nhỏ là Thiếu Cơ. Nàng Ly Cơ nhan sắc rất đẹp, không kém gì Tức Vỉ, mà lại mưu mẹo trí trá, chẳng khác gì Đắc Kỷ khi xưa. Mỗi khi ở trước mặt Tấn Hiến công, giả cách thật thà trung thực, để làm cho Tấn Hiến công phải yêu; thỉnh thoảng lại bàn giúp những chính sự trong nước, mười câu nói trúng được đến chín câu. Bởi vậy Tấn Hiến công đem lòng yêu dấu, thường cùng với Ly Cơ ăn một mâm nằm một chiếu, được hơn một năm, Ly Cơ sinh một người con là Hề Tề; Thiếu Cơ cũng sinh một người con là Trác Tử. Tấn Hiến công đã yêu dấu Ly Cơ, lại mừng rằng Ly Cơ có con trai, mới chẳng nghĩ gì đến Tề Khương nữa, định lập Ly Cơ làm phu nhân, liền sai quan thái bốc là Quách Yển bói xem tốt xấu thế nào. Quách Yển bói phải quẻ xấu. Tấn Hiến công không nghe, lại sai Sử Tô bói lại, rồi lập Ly Cơ làm phu nhân. Sử Tô nói riêng với quan đại phu là Lý Khắc rằng: - Nước Tấn ta sắp mất, biết làm thế nào! Lý Khắc giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Ai làm mất nước Tấn? Sử Tô nói: - Làm mất nước Tấn, tất là nước Ly Nhung. Lý Khắc không hiểu ý ra làm sao cả, lại hỏi. Sử Tô nói: - Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ đánh nước Thi, người nước Thi dâng nàng Muội Hỉ, vua Kiệt yêu nàng Muội Hỉ, đến nỗi mất nhà Hạ; vua Trụ nhà Ân đánh nước Tô, người nước Tô dâng nàng Đắc Kỷ, vua Trụ yêu nàng Đắc Kỷ, đến nỗi mất nhà Ân; vua U Vương nhà Chu đánh nước Bao, người nước Bao dâng nàng Bao Tự, vua U Vương yêu nàng Bao Tự, đến nỗi làm cho nhà Tây Chu phải suy mất. Nay chúa công ta đi đánh Ly Nhung, bắt lấy con gái nước ấy mà lại ham mê như thế, tài nào không phải mất nước. Gặp có quan thái bốc là Quách Yển đến, Lý Khắc thuật lại lời Sử Tô cho Quách Yển nghe, Quách Yển nói: - Nước Tấn ta chỉ loạn mà thôi, chứ chưa đến nỗi mất, cứ theo như quẻ bói khi tiên quân ta mới thụ phong ở nước Tấn này thì vận nước Tấn chưa mất. Lý Khắc nói: - Đến bao giờ thì loạn? Quách Yển nói: - Chỉ trong 10 năm nữa mà thôi. Tấn Hiến công yêu nàng Ly Cơ, muốn lập con là Hề Tề làm thế tử, một hôm nói cho Ly Cơ biết. Ly cơ trong bụng muốn lắm, nhưng ngặt vì một nỗi Thân Sinh đã lập làm thế tử rồi, nay vô cớ mà thay đổi đi, thì e rằng các quan không phục, tất có người can ngăn. Vả lại Trùng Nhĩ, Di Ngô cùng với Thân Sinh, ba người vẫn thân yêu nhau, nếu nói mà không làm được thì chúng biết đường phòng bị, chẳng cũng lỡ việc lắm sao! Nàng mới quì xuống mà nói với Tấn Hiến công rằng: - Thân Sinh được lập làm thế tử, các nước chư hầu ai cũng biết cả, vả lại Thân Sinh là người hiền, không có tội lỗi gì. Nay chúa công vì mẹ con thiếp mà bỏ người nọ lập người kia, để cho thiếp mang tiếng thì chẳng thà thiếp xin tự tử mà chết đi còn hơn. Tấn Hiến công ngỡ là bụng thực, từ bấy giờ không nói đến chuyện ấy nữa. Bấy giờ có hai quan đại phu là Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ được Tấn Hiến công thân yêu, quyền thế to lắm, người nước Tấn vẫn gọi là hai ông Ngũ. Lại có một người phường hát tên là Ưu Thi, trẻ tuổi đẹp trai và khéo khôi hài, Tấn Hiến công rất yêu, vẫn cho tự tiện ra vào chỗ cung điện, không ngăn cấm chút nào cả, Ly Cơ cùng với Ưu Thi tư thông, tình ý rất thân mật, mới bàn nhau với Ưu Thi, để lập kế cướp ngôi của thế tử. Ưu Thi nói: - Bây giờ nên nghĩ cách khiến cho ba vị công tử đều ra trấn thủ ở ngoài cõi xa, khi ấy ta sẽ tùy cơ mà lập kế, nhưng việc ấy tất để các quan ngoài nói thì chúa công mới cho là thực. Nay hai ông Ngũ đang có quyền thế, phu nhân nên sai người đem vàng bạc giao kết với chúng, để khiến cho chúng nói với chúa công thì mới nên việc được. Lý Cơ liền đưa vàng bạc cho Ưu Thi để đem ra lễ lót Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ, Ưu Thi vào nói với Lương Ngũ rằng: - Phu nhân muốn giao kết với ngài, vậy sai tôi đem lễ bạc này để kính biếu. Lương Ngũ giật mình kinh sợ, nói: - Phu nhân có dặn làm sao không? Nếu nhà ngươi không nói rõ ta không dám nhận. Ưu Thi đem mưu kế của Ly Cơ nói rõ cho Lương Ngũ nghe. Lương Ngũ nói: - Việc này tất phải có cả Đông Quan Ngũ giúp vào mới được. Ưu Thi nói: - Ly Cơ cũng có lễ vật kính biếu Đông Quan Ngũ như ngài ở đây. Nói xong, liền cùng với Lương Ngũ sang nhà Đông Quan Ngũ, ba người cùng thương nghị với nhau. Sáng hôm sau, Lương Ngũ nói với Tấn Hiến công rằng: - Đất Khúc Ốc là chỗ tiên quân ta ngày xưa đóng đô, hiện nay nhà tôn miếu tiên quân ta hãy còn ở đấy; còn đất Bồ và đất Khuất tiếp giáp với nước Nhung Địch, cũng là một nơi trọng địa. Ba chỗ ấy cần phải có người ra trấn thủ, xin chúa công cho thế tử ra trấn thủ ở đất Khúc Ốc, cho Trùng Nhĩ và Di Ngô ra trấn thủ đất Bồ và đất Khuất, như thế thì cơ nghiệp nước nhà vững như bàn đá, không còn lo ngại gì nữa. Tấn Hiến công nói: - Cho thế tử ra ở ngoài, phỏng có nên chăng? Đông Quan Ngũ nói: - Thế tử là một ông vua nhỏ trong nước, Khúc Ốc là một nơi kinh thành nhỏ trong nước, nếu không sai thế tử ra trấn thủ ở đấy thì còn sai ai cho bằng. Tấn Hiến công nói: - Đất Khúc Ốc thì đã phải rồi, nhưng đất Bồ và đất Khuất là một nơi hoang dã, sao lại cho các vị công tử ra ở đấy? Đông Quan Ngũ lại nói: - Không sửa sang thì là nơi hoang dã, bây giờ lập ra thành quách, tức là một nơi đô ấp chớ chi! Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ lại đồng thanh mà cùng tán vào rằng: - Nếu như vậy thì nước Tấn ta ngày nay lại thêm ra mấy nơi đô thành nữa, trong thì thế lực chắc chắn, ngoài thì bờ cõi mở mang, từ đây trở đi, nước Tấn ta mỗi ngày một cường thịnh. Tấn Hiến công nghe lời, mới sai thế tử là Thân Sinh ra trấn thủ đất Khúc Ốc, quan thái phó là Đỗ Nguyên Khoan theo đi; sai Trùng Nhĩ ra trấn thủ đất Bồ, Hồ Mao theo đi; Di Ngô ra trấn thủ đất Khuất, Lã Di Xanh theo đi. Thân Sinh và hai vị công tử đã đi ra rồi, chỉ còn Hề Tề và Trác Tử ở gần Tấn Hiến công, Ly Cơ lại càng ngày đêm nghĩ cách để làm cho Tấn Hiến công phải mê hoặc. Bấy giờ Tấn Hiến công chia quân ra làm hai đạo: Thượng quân và hạ quân. Đạo thượng quân thì thuộc về Tấn Hiến công, còn đạo hạ quân thì giao cho Thân Sinh. Thân Sinh cùng với quan đại phu là Triệu Túc và Tất Vạn đem quân đi đánh được nước Cảnh, nước Hoắc và nước Ngụy. Công trạng Thân Sinh càng to bao nhiêu thì Ly Cơ lại càng có lòng ghen ghét bấy nhiêu, chỉ cố ý tìm mưu lập kế để làm hại. Lại nói chuyện Hùng Hi, Hùng Vận nước Sở cùng là con Tức Vỉ sinh ra, nhưng Hùng Vận tài trí hơn anh là Hùng Hi, Tức Vỉ có lòng yêu dấu, người trong nước cũng vẫn tin phục. Khi Hùng Hi đã lên nối ngôi, có ý ghét Hùng Vận, vẫn muốn tìm cớ để giết đi cho khỏi di họa về sau. Các quan bấy giờ nhiều người che chở cho Hùng Vận, bởi vậy Hùng Hi vẫn còn ngần ngại chưa quyết. Sau Hùng Hi sinh ra lười biếng, không thiết gì đến chính sự, chỉ hay đi săn bắn, ở ngôi ba năm mà chẳng làm một việc gì cả. Hùng Vận mật sai kẻ dũng sĩ đón đường khi Hùng Hi ra săn bắn mà giết đi, nói dối Tức Vỉ là Hùng Hi bị bệnh mà chết. Tức Vỉ có ý nghi, nhưng nói ra không tiện, liền sai các quan đại phu lập Hùng Vận lên nối ngôi, tức là Sở Thành Vương. Sở Thành Vương cho người chú là Vương Tử Nguyên làm quan lịnh doãn (tể tướng nước Sở). Vương Tử Nguyên từ khi anh là Sở Văn Vương chết đi, đã có ý muốn cướp ngôi; lại thấy chị dâu là Tức Vỉ nhan sắc xinh đẹp, cũng đem lòng tham muốn. Hùng Hi và Hùng Vận hãy còn trẻ tuổi mà lại là hàng cháu, vậy nên Vương Tử Nguyên không coi vào đâu, chỉ sợ có quan đại phu là Đấu Bá Tỷ vốn người chính trực, lại nhiều tài trí, vì thế mà chưa dám làm càn. Đến khi Đấu Bá Tỷ đã chết rồi, Vương Tử Nguyên không sợ hãi gì cả, mới làm một cái nhà ở bên cạnh cung Tức Vỉ, ngày nào cũng bắt nữ nhạc múa hát để làm cho Tức Vỉ phải động lòng. Tức Vỉ nghe tiếng, hỏi nội thị rằng: - Tiếng nữ nhạc múa hát ở đâu thế? Nội thị nói: - Ở bên nhà mới của quan lịnh doãn đó! Tức Vỉ nói: - Tiên quân ta ngày xưa chăm sự luyện tập quân mã để đánh dẹp các nước chư hầu, bởi vậy các nước đều phải thần phục nước Sở ta cả. Bây giờ quân nước Sở ta không tiến vào trung quốc được, đã đến 10 năm nay, thế mà quan lịnh doãn không biết nghĩ đến những điều xấu hổ ấy, chỉ ham mê đàn hát ở bên cạnh nhà gái góa này, chẳng cũng lạ lắm sao! Nội thị thuật lời nói ấy cho Vương tử Nguyên biết, Vương tử Nguyên nói: - Một người đàn bà còn có chí như vậy, nữa là ta lại không nghĩ đến hay sao! Nay ta không đánh được nước Trịnh thì sao đáng gọi là trượng phu. Nói xong liền cử đại binh đi đánh nước Trịnh. Trịnh Văn công nghe tin quân Sở kéo đến, họp các quan lại để thương nghị. Đỗ Thúc nói: - Quân nước Sở cường thịnh lắm, không thế nào địch nổi, chi bằng ta cho người xin giảng hòa. Sư Thúc nói: - Nước ta mới cùng với Tề giao hiếu, tất thế nào Tề cũng đem quân đến cứu. Ta hãy nên giữ vững để mà đợi quân nước Tề. Thế Tử Hoa bấy giờ còn trẻ tuổi, đang có lòng hăng hái, xin đem quân ra đối địch. Thúc Thiêm nói: - Trong ba người này, ta theo lời nói của Sư Thúc, nhưng cứ như ý tôi trộm nghĩ thì nước Sở chẳng bao lâu cũng phải rút quân về. Trịnh Văn công nói: - Lịnh doãn nước Sở thân hành đem quân đi, khi nào chịu rút về. Thúc Thiêm nói: - Xưa nay nước Sở đi đánh các nước, không dùng nhiều quân như thế bao giờ, lần này Vương tử Nguyên cố đánh lấy được để cho bằng lòng Tức Vỉ đó mà thôi. Nhưng đã có ý mong được thì tất là sợ thua, khi quân Sở kéo đến, tôi có cách làm cho phải lui. Các quan còn đang thương nghị, bỗng nghe báo quân Sở đã kéo đến nơi. Đỗ Thúc nói: - Quân Sở đã đến nơi rồi, nếu không giảng hòa thì hãy nên dời sang đất Đông Khâu để tránh quân Sở. Thúc Thiêm nói: - Không can chi mà sợ! Nói xong, sai quân giáp sĩ mai phục ở trong thành, rồi mở toang cửa thành ra, dân sự chợ búa vẫn đi lại như thường, không kinh hãi gì cả. Tướng nước Sở là Đấu Ngự Cương thấy vậy, có ý nghi hoặc, bảo Đấu Ngô rằng: - Quân Trịnh vững vàng như vậy, tất là có mưu kế định lừa ta vào thành, ta không nên tiến quân vội, hãy đợi quan lịnh doãn ta tới đây. Nói xong, liền đóng quân ở ngoài thành cách xa năm dặm. Được một lúc, đại binh của Vương tử Nguyên kéo đến, Đấu Ngự Cương thuật chuyện lại cho Vương tử Nguyên nghe. Vương tử Nguyên trèo lên gò cao, trông vào thành nước Trịnh, thấy bóng cờ ngọn giáo rất có thứ tự nghiêm chỉnh mới thở dài mà than rằng: - Nước Trịnh có ba người tài giỏi (Thúc Thiêm, Đỗ Thúc và Sư Thúc) rất nhiều mưu kế lạ, chẳng may mà quân ta bị thua thì còn mặt nào trở về trông thấy Tức Vỉ nữa. Âu là ta hãy cho quân do thám thật kỹ, rồi sẽ tiến binh. Ngày hôm sau, Vương tử Nguyên nghe tin Tề Hoàn công cùng với nước Tống, nước Lỗ đem quân đến cứu Trịnh, giật mình kinh sợ, bảo các tướng rằng: - Nay các nước chư hầu đem quân đến cứu Trịnh, trong đánh ra, ngoài đánh vào thì quân ta khó lòng địch nổi, thôi thì ta đánh Trịnh, tiến quân được đến đây, cũng gọi là thắng trận rồi, chi bằng ta rút quân trở về. Vương tử Nguyên truyền cho quân sĩ cuốn cờ im trống, ngay đêm hôm ấy lẻn ra khỏi địa giới nước Trịnh. Khi đã về đến địa giới nước Sở rồi, lại mở cờ rung trống, đem tin thắng trận báo với Tức Vỉ. Tức Vỉ nói: - Nếu lịnh doãn đi đánh Trịnh được thắng trận, nên cáo tế nhà thái miếu, rồi tuyên bá cho người trong nước cùng biết, chứ việc thắng trận ấy dự gì đến gái góa này! Vương tử Nguyên nghe nói, có ý thẹn thùng. Sở Thành Vương (Hùng Vận) thấy Vương tử Nguyên đi đánh Trịnh, không có công trạng gì mà rút quân về, từ bấy giờ không bằng lòng với Vương tử Nguyên. Lại nói chuyện Thúc Thiêm nước Trịnh đêm hốm ấy đang đi tuần ở trên mặt thành, trỏ vào dinh quân Sở mà bảo các tướng rằng: - Đây chỉ còn dinh không mà thôi, chứ quân Sở thì đã đi trốn hết rồi! Các tướng đều không tin, hỏi: - Tại sao ngài biết như vậy? Thúc Thiêm nói: - Dinh quan đại tướng thì bao giờ cũng phải có quân canh giữ nghiêm mật, nay thấy có đàn quạ đậu ở trên cây thì biết đấy chỉ là một cái dinh không mà thôi, ta chắc rằng quân Sở nghe tin các nước chư hầu đem quân đến cứu, vậy phải rút quân bỏ trốn trước. Được một lúc có quân báo rằng: - Các nước chư hầu đem quân đến cứu, chưa kịp vào đến địa giới nước Trịnh, nghe tin quân Sở bỏ trốn, vậy lại rút quân trở về. Bấy giờ các tướng đều phục Thúc Thiêm là người cao kiến. Vương tử Nguyên nước Sở từ khi đánh Trịnh không được công trạng gì, trong lòng áy náy, càng muốn cướp ngôi nước Sở, nhưng định tư thông với Tức Vỉ đã, rồi mới khởi sự. Gặp bấy giờ Tức Vĩ có bệnh. Vương tử Nguyên giả cách vào thăm, rồi đem cả chăn màn ở luôn trong cung ba ngày không ra. Quan đại phu là Đấu Liêm nghe tin, liền vào thẳng trong cung, đến tận giường nằm, trông thấy Vương tử Nguyên đang soi gương chải đầu, Đấu Liêm trách rằng: - Chỗ này có phải là chỗ chải gội hay sao! Quan lịnh doãn nên liệu mà lui ra! Vương tử Nguyên nói: - Dự gì đến nhà ngươi mà nhà ngươi dám nói? Đấu Liêm nói: - Lịnh doãn dẫu là chú vua thật, nhưng cũng là một kẻ bề tôi, vả lại quốc mẫu góa chồng cũng ở gần đây, nam nữ nên tị hiềm, sao lịnh doãn không nghĩ đến điều ấy. Vương tử Nguyên nổi giận nói: - Quyền chính nước Sở, nay ở trong tay ta, sao nhà ngươi dám nói càn. Nói xong, sai người trói Đấu Liêm lại, giam vào một chỗ, không cho ra nữa. Tức Vỉ sai nội thị đến báo với Đấu Cấu Ô Đồ (con Đấu Bá Tỷ). Đấu Cấu Ô Đồ tâu với Sở Thành Vương, rồi cùng với Đấu Ngự Cương, Đấu Ngô và Đấu Ban (con Đấu Cấu Ô Đồ) đem quân vào cung. Vương tử Nguyên đang cùng với cung nhân vui đùa, say rượu nằm ngủ, mơ màng tỉnh dậy, nghe nói có quân đến vây, vội vàng cầm gươm chạy ra. Gặp Đấu Ban cũng cầm gươm bước vào. Vương tử Nguyên quát mắng rằng: - Thằng ranh con này, mày dám làm loạn, à! Đấu Ban nói: - Ta không phải làm loạn, ta đến để trừ loạn đây! Hai bên giao chiến với nhau được mấy hiệp thì Đấu Ngự Cương và Đấu Ngô cũng tiến đến. Vương tử Nguyên liệu sức địch không nổi, vội vàng bỏ chạy, bị Đấu Ban chém một nhát, rơi đầu xuống đất. Đấu Cấu Ô Đồ cởi trói cho Đấu Liêm, cùng nhau đến thăm Tức Vỉ, rồi rút quân trở về. Lại nói chuyện tổ phụ Đấu Cấu Ô Đồ là Đấu Nhược Ngao, lấy con gái vua nước Viên, sinh ra Đấu Bá Tỷ. Đấu Nhược Ngao chết, Đấu Bá Tỷ còn bé, theo mẹ sang ở nước Viên. Viên phu nhân (vợ vua nước Viên) yêu lắm, cho ở trong cung, coi như là con đẻ. Viên phu nhân có một đứa con gái, cùng với Đấu Bá Tỷ là anh em đôi con dì với nhau. Từ thuở nhỏ vẫn cùng nhau chơi đùa ở trong cung, đến lúc lớn lên, tư thông với nhau, đứa con gái có thai. Viên phu nhân biết chuyện, liền cấm Đấu Bá Tỷ vào cung, rồi bảo đứa con gái, nói dối là có bệnh ốm, ở riêng một phòng. Sau đủ ngày đủ tháng, sinh được đứa con trai. Viên phu nhân sai người lấy áo bọc đứa bé ấy, đem bỏ ở Mộng Trạch. Bấy giờ vua nước Viên đang đi săn bắn, đi gần đến Mộng Trạch, trông thấy có một con hổ nằm phục ở gần đó, liền sai quân giương cung ra bắn. Bắn mãi không trúng mà con hổ cũng không sợ hãi gì cả. Vua nước Viên lấy làm lạ, sai người đến tận nơi xét xem thì thấy con hổ đang ẵm một đứa bé con mà cho bú. Vua nước viên nói: - Đó là thần vật, ta không nên trêu vào. Nói xong, đem quân trở về, nói với Viên phu nhân rằng: - Mới rồi ta đến Mộng Trạch, thấy có một chuyện rất lạ! Viên phu nhân hỏi: - Chuyện gì mà lạ? Vua nước Viên mới đem chuyện con hổ cho một đứa bé con bú thuật lại một lượt. Viên phu nhân nói: - Chúa công không biết rõ, đứa bé con ấy chính là thiếp sai người đem bỏ ở đấy. Vua nước Viên ngạc nhiên mà hỏi rằng: - Sao phu nhân lại có được đứa bé con mà đem bỏ ở đấy. Viên phu nhân nói: - Chúa công tha tội cho, thiếp xin kể rõ: Nguyên đứa bé con ấy là con gái ta cùng Đấu Bá Tỷ sinh ra, thiếp sợ mang tiếng, vậy phải sai người đem bỏ ở đấy. Nhưng thiếp nghe nói bà Nguyên Khương ngày xưa dẫm vào vết chân lớn mà sinh ra một đứa con. Nguyên Khương sợ hãi, đem quăng ra sông, có một đàn chim xuống lấy cánh ấp; Nguyên Khương cho là thần, lại đem về nuôi, đặt tên là Khí, tức là ông tổ sinh ra nhà Chu ta. Bây giờ đứa bé ấy có con hổ đến cho bú thì chắc là quí tử. Vua nước Viên nghe nói, sai người đi ẵm về, giao cho con gái nuôi, rồi năm sau gả người con gái ấy cho Đấu Bá Tỷ, sang ở nước Sở. Tiếng nước Sở gọi cho bú là cấu, gọi hổ là ô đồ. Đứa bé con ấy có hổ cho bú, bởi vậy mới đặt tên là Đấu Cấu Ô Đồ, tên tự là Tử Văn. Đấu Cấu Ô Đồ đã lớn, thông minh tài giỏi, đủ cả văn và võ. Cha là Đấu Bá Tỷ làm quan đại phu nước Sở. Đấu Bá Tỷ chết, Đấu Cấu Ô Đồ lại nối làm quan đại phu. Đến lúc Vương tử Nguyên chết, Sở thành Vương toan cho Đấu Liêm làm lịnh doãn. Đấu Liêm chối từ, nói: - Đang bấy giờ chỉ có nước Tề là đối địch với nước Sở ta. Nước Tề dùng Quản Di Ngô và Ninh Thích, vậy nên nước giàu quân mạnh, nay đại vương muốn chỉnh đốn lại chính trị nước Sở, để chống nhau với nước Tề thì tất phải dùng Đấu Cấu Ô Đồ làm lịnh doãn mới được. Các quan đồng thanh mà nói rằng: - Trừ phi Đấu Cấu Ô Đồ thì không ai làm nổi chức lịnh doãn. Sở Thành Vương nghe lời, cho Đấu Cấu Ô Đồ làm lịnh doãn. Sở Thành Vương nói: - Nước Tề dùng Quản Di Ngô, tôn là trọng phụ, chứ không gọi tên, nay ta dùng Đấu Cấu Ô Đồ, cũng không nên gọi rõ tên húy, cứ gọi tên tự là Tử Văn mà thôi. Đấu Cấu Ô Đồ đã làm lịnh doãn, bắt bao nhiêu những ấp riêng của các quan triều thần đều phải nộp một nửa vào công thố, thi hành ngay từ họ Đấu trước, các quan đều phải theo lệnh cả. Lại thấy Dĩnh Thành là nơi hiểm yếu, dời đô ra đấy để luyện tập quân mã; Khuất Hoàn là người hiền sĩ, cử cho làm quan đại phu; Đấu Chương là người tài giỏi, cử cho coi việc quân lữ. Con là Đấu Ban, cũng cử cho làm chức Thân công. Từ bấy giờ nước Sở cường thịnh. Tề Hoàn công nghe nói nước Sở dùng người hiền để chỉnh đốn lại chính trị, có ý sợ nước Sở mỗi ngày một mạnh, mới toan hội các nước chư hầu để đem quân đánh Sở, liền hỏi Quản Di Ngô. Quản Di Ngô nói: - Nước Sở là một nước lớn, đất rộng quân nhiều, thiên tử nhà Chu cũng không trị nổi, nay lại dùng Tử Văn làm lịnh doãn, ta khó lòng lấy binh lực mà đánh được; vả lại chúa công mới thu được lòng các nước chư hầu, cũng chưa có công đức gì to tát để khiến cho người ta tin phục, tôi sợ quân các nước vị tất đã chịu hết lòng với mình. Âu là ta hãy đợi thời cơ chớ nên nóng nảy thì mới giữ cho vạn toàn được. Tề Hoàn công nói: - Tiên quân ta ngày xưa báo thù cho mấy đời trước, đem quân sang chiếm lấy nước Kỷ, đến nay chưa chịu phục ta muốn đem quân đi đánh, phỏng có nên không? Quản Di Ngô nói: - Nước Chương dẫu nhỏ, nhưng là con cháu ông Thái Công thuở xưa, cùng với Tề ta cùng họ; tôi thiết tưởng chúa công không nên đánh, chỉ sai Thành Phủ đem quân đi diễu ở trên mặt thành nước Kỷ, tự khắc nước Chương sợ uy ta mà phải đầu hàng. Tề Hoàn công nghe lời, sai Thành Phủ đem quân đi. Vua nước Chương thấy vậy, đến xin đầu hàng. Tề Hoàn công khen Quản Di Ngô rằng: - Mưu kế của trọng phụ, trăm điều không sai một! Bỗng nghe báo nước Yên bị quân Sơn Nhung vào quấy nhiễu, sai sứ đến cầu cứu.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  2. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 21 Quản Trọng đoán biết thần Du Nhi Tề Hoàn sang đánh nước Cô Trúc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quân Sơn Nhung tức là nước Linh Chi, phía tây giáp nước Yên, phía Đông Bắc giáp nước Tề và nước Lỗ. Khi trước đã đem quân sang xâm phạm địa giới nước Tề, bị Công tử Hốt nước Trịnh đánh thua, nay nghe tiếng nước Tề làm bá chủ, lại cử đại binh sang quấy nhiễu nước Yên, để khiến cho nước Yên không giao thông được với Tề. Yên Trang công chống cự không nổi mới sai sứ sang nước Tề cầu cứu. Tề Hoàn công hỏi Quản Di Ngô. Quản Di Ngô nói: - Quân Sơn Nhung xưa nay vẫn cậy sức mạnh, không chịu thần phục nhà Chu, dẫu không quấy nhiễu nước Yên, ta cũng còn nên đem quân đi đánh, huống chi là nước Yên nay lại sang cầu cứu với nước ta. Tề Hoàn công đem quân đi cứu nước Yên, qua sông Tề Thủy (giáp địa giới nước Lỗ). Lỗ Trang công ra nghênh tiếp. Tề Hoàn công đem việc đánh Sơn Nhung nói với Lỗ Trang công. Lỗ Trang công nói: - Hiền hầu đánh được quân Sơn Nhung thì chẳng những nước Yên đội ơn, cả đến nước tôi cũng đội ơn nhiều lắm, vậy xin hiền hầu cho tôi đem quân đi theo. Tề Hoàn công nói: - Tôi không dám phiền hiền hầu đến những nơi hiểm trở ấy, khi nào tôi không làm xong, bấy giờ tôi sẽ nhờ đến hiền hầu, cũng chưa lấy gì làm muộn. Nói xong, từ biệt Lỗ Trang công, rồi lại kéo quân đi. Vua nước Linh Chi tên là Mật Lư, đem quân sang quấy nhiễu nước Yên, đã hai tháng nay, bắt đàn bà con gái, không biết bao nhiêu mà kể, nghe nói đại binh Tề Hoàn công đến, vội vàng kéo lui. Tề Hoàn công đến nước Yên. Yên Trang công ra nghênh tiếp, tạ cái ơn Tề Hoàn công có công khó nhọc đem quân đến cứu. Quản Di Ngô nói: - Quân giặc chưa bị quân ta đánh đuổi, mà đã kéo lui, chi bằng ta thừa thế đuổi đánh, để trừ cho tiệt nọc đi. Tề Hoàn công khen phải, Yên Trang công xin đem quân đi làm tiên phong. Tề Hoàn công nói: - Nước Yên vừa mới bị quân giặc tàn phá, nỡ nào mà lại để cho đi tiên phong. Âu là hiền hầu cứ thong thả đi sau, làm thanh thế mà tiếp ứng cho, là đủ. Yên Trang công nói: - Cách đây 80 dặm, có một nước tên là Vô Chung, dẫu là loài Sơn Nhung, nhưng không thuộc nước Linh Chi, ta nên sai người đi dụ, để mượn chúng đưa đường. Tề Hoàn công liền sai Thấp Bằng đem vàng bạc đến dụ vua nước Vô Chung. Vua nước Vô Chung sai quan đại tướng là Hổ Nhi Ban đem hai nghìn quân đến giúp. Tề Hoàn công lại trọng thưởng cho, rồi sai đi làm tiên phong. Vua nước Linh Chi là Mật Lư nghe nói Tề Hoàn công đem quân đến đánh, sai mời quan đại tướng là Tốc Mãi vào thương nghị. Tốc Mãi nói: - Quân Tề ở xa đến đây, đi đường khó nhọc, ta nên đánh ngay thì có thể toàn thắng được. Mật Lư nghe lời Tốc Mãi, sai quân mai phục ở trong rừng để đợi quân Tề đến thì đổ ra mà đánh. Hổ Nhi Ban đem quân đến, cùng với Tốc Mãi giao chiến trong mấy hiệp, Tốc Mãi giả cách thua chạy, Hổ Nhi Ban đuổi theo. Đuổi đến giữa rừng, phục binh bốn mặt đổ ra vây lại. Hổ Nhi Ban cố đánh, chẳng may con ngựa bị thương, không chạy được nữa, Hổ Nhi Ban bị bắt. Đại binh của Tề Hoàn công tiến đến, cứu được Hổ Nhi Ban đem về. Hổ Nhi Ban trông thấy Tề Hoàn công, có ý thẹn thùng. Tề Hoàn công nói: - Đi đánh giặc thì được thua là việc thường, tướng quân chớ ngại. Nói xong, lại chọn một con ngựa hay ban cho. Hổ Nhi Ban cảm tạ vô cùng. Tề Hoàn công tiến quân đến núi Phục Long, truyền đóng quân ở trên núi, rồi đem những binh xa kết liền lại với nhau, làm một cái thành giả, canh giữ rất nghiêm mật. Sáng hôm sau, Mật Lư cùng với Tốc Mãi đem hơn một vạn quân đến khiêu chiến, bị thành ngăn cách không tiến lên được. Đến trưa hôm ấy, Quản Di Ngô đứng ở trên ngọn núi, trông thấy quân giặc tan tác, đều xuống ngựa nằm ở dưới đất, có ý trễ biếng, liền vỗ vào vai Hổ Nhi Ban mà bảo rằng: - Bây giờ tướng quân ra đánh thì có thể báo thù được. Hổ Nhi Ban vâng lệnh đem quân xuống đánh, Thấp Bằng nói với Quản Di Ngô rằng: - Tôi chỉ e quân giặc lập kế để đánh lừa ta. Quản Di Ngô nói: - Ta đã nghĩ cả rồi. Nói xong, truyền cho Thành Phủ đem một toán quân đi về phía tả, Tân Tu Vô đem một toán quân đi về phía hữu, để đuổi đánh những quân phục binh của giặc. Nguyên là quân Linh Chi chỉ quen dùng kế mai phục, thấy quân Tề không đánh, liền chia quân phục cả ở trong hang núi, rồi cho một toán quân ở ngoài giả cách xuống ngựa làm ra ý trễ biếng để đánh lừa quân Tề. Hổ Nhi Ban đem quân xuống vừa đến nơi thì quân giặc vội vàng bỏ chạy. Hổ Nhi Ban giục ngựa đuổi theo, bỗng nghe ở trên núi nổi hiệu thu quân, Hổ Nhi Ban quay ngựa trở lại. Mật Lư thấy Hổ Nhi Ban không đuổi theo, vội vàng nổi hiệu gọi quân phục binh ra đánh. Hai đạo phục binh đổ ra, bị quân Thành Phủ và quân Tân Tu Vô đánh một trận thất điên bát đảo. Quân Linh Chi thua chạy, tổn hại không biết bao nhiêu mà kể. Tốc Mãi nói với Mật Lư rằng: - Quân Tề đóng ở trên núi Phục Long này, trong 20 dặm không có suối nước nào cả, chỉ có một con sông Nhu Thủy, nếu ta lấp ngang đi, khiến cho nước sông không chảy tới được thì quân Tề không có nước mà uống, tất phải tan vỡ, khi ấy ta thừa thế đánh trận vào, chắc là được thắng. Lại một mặt sai sứ sang cầu cứu với nước Cô Trúc, mượn quân để đánh Tề, thế mới thật là kế vạn toàn, không lo ngại gì nữa. Mật Lư mừng lắm, theo kế của Tốc Mãi. Quản Di Ngô đang cùng với Hổ Nhi Ban thương nghị tiến binh, bỗng nghe báo quân giặc lấp ngang sông, quân Tề không có nước uống, chưa biết làm ra thế nào. Tề Hoàn công truyền cho quân sĩ đào núi lấy nước, ai đào được trước, sẽ có trọng thưởng. Thấp Bằng nói: - Chỗ nào có nước thì giống kiến thường biết, ta nên tìm chỗ có kiến mà đào. Quân sĩ đi tìm khắp mọi nơi, không thấy tổ kiến đâu cả, về nói với Thấp Bằng. Thấp Bằng nói: - Bây giờ đang mùa đông, giống kiến hay tìm chỗ ấm áp, tất làm tổ về phía có mặt trời mọc. Nên tìm cho được, chớ có đào bậy mà thành ra uổng công. Quân sĩ theo lời, sau đào được ở sườn núi, có một mạch nước rất trong. Tề Hoàn công nói: - Thấp Bằng thật là bậc thánh! Nói xong, liền đặt tên cái suối nước ấy là Thánh Toàn. Quân sĩ đào được nước rồi, mừng rỡ reo hò rất là vui vẻ. Mật Lư cho người đi do thám, thấy quân Tề đã lâu ngày mà không thiếu nước, giật mình kinh sợ nói: - Quân Tề dễ thường có thần giúp hay sao! Tốc Mãi nói: - Quân Tề dẫu có nước, nhưng lâu ngày hết lương thì tất phải lui. Mật Lư không lo sợ gì cả, ngày nào cũng cùng với Tốc Mãi uống rượu vui, bỗng nghe quân Tề kéo đến, Mật Lư và Tốc Mãi hoảng hốt bỏ chạy. Tân Tu Vô đuổi theo, bắt được khí giới và lương thực nhiều lắm, lại cứu được những đàn bà con gái nước Yên bị quân Linh Chi bắt khi trước, không biết bao nhiêu mà kể. Quân Linh Chi đều xin đầu hàng. Tề Hoàn công hạ lệnh cấm giết một người nào. Quân Linh Chi tranh nhau đem các đồ lễ vật đến lạy mừng. Tề Hoàn công hỏi: - Vua mày bây giờ trốn sang nước nào? Quân Linh Chi nói: - Nước tôi tiếp giáp với nước Cô Trúc, hai nước vốn giao hiếu với nhau, khi trước chúa công tôi đã cho người sang mượn quân nước Cô Trúc, nhưng chưa kịp đến, bây giờ chúa công tôi tất sang nước Cô Trúc. Tề Hoàn công hỏi: - Nước Cô Trúc mạnh hay là yếu, đường sá xa gần như thế nào? Quân Linh Chi nói: - Cô Trúc là một nước lớn, cách đây hơn 100 dặm, có một cái suối gọi là Ty Nhĩ, qua cái suối ấy tức là địa phận nước Cô Trúc, nhưng đường núi hiểm hóc khó đi lắm. Tề Hoàn công truyền cho quân sĩ nghỉ lại ba ngày rồi tiến binh sang đánh nước Cô Trúc, Mật Lư đi đến nước Cô Trúc, đem tin bại trận nói với vua Cô Trúc là Đáp Lý Kha. Đáp Lý Kha nói: - Ta vừa toan cất quân đến giúp, nhân có sự ngăn trở, chậm chân mất mấy ngày, chẳng ngờ nhà ngươi đã bị một trận thua to như vậy. Cái suối Ty Nhĩ ở đây sâu lắm, âu là ta thu hết thuyền bè khiến cho quân Tề không tài nào mà bay qua được; đợi khi chúng lui quân về, bấy giờ anh em ta đổ ra mà đánh, khôi phục lại bờ cõi, chắc là phải thắng. Quan đại tướng là Hoàng Hoa nói: - Tôi sợ quân Tề đóng bè mà sang, âu là ta cho quân đi tuần tiễu, phòng giữ rất cẩn thận mới được. Đáp Lý Kha nói: - Nếu quân Tề đóng bè thì ta tất phải biết, lo gì điều ấy. Đại binh của Tề Hoàn công kéo đi hơn 10 dặm đường, trông thấy trước mặt núi đá lởm chởm, cây cỏ rậm rạp, chắn ngang lối đi, không thể tiến binh được, Quản Di Ngô sai lấy lưu hoàng, diêm tiêu và các vật dẫn hỏa rắc vào các hàng cây cối, rồi phóng hỏa đốt lên. Lửa cháy ngùn ngụt, ánh sáng ngất trời, trong năm ngày năm đêm mới tắt, cây cỏ và các giống hồ thỏ đều hóa ra tro cả. Tề Hoàn công truyền phá núi mở đường để cho xe đi. Quản Di Ngô lại làm mấy bài ca "thượng sơn, hạ sơn" để cho quân sĩ vừa hát vừa đẩy xe cho vui. Quân sĩ cùng nhau reo hò, xe chạy như bay, lên được đến đỉnh núi Ty Nhĩ. Tề Hoàn công cùng với bọn Quản Di Ngô và Thấp Bằng đứng trên ngọn núi Ty Nhĩ, xem ngắm hình thế. Tề Hoàn công nói: - Ngày nay ta mới biết văn chương cũng có thể giúp sức cho người ta được nhiều! Quản Di Ngô nói: - Nhớ khi tôi còn ngồi trong tù xa, sợ người nước Lỗ đuổi theo, cũng có làm một bài ca khiến cho quân sĩ vui mà quên sự khó nhọc, thành ra đi được mau lắm. Tề Hoàn công nói: - Vì cớ gì? Quản Di Ngô nói: - Người ta, thân thể khó nhọc thì tinh thần mỏi mệt, nếu khiến cho tinh thần vui vẻ thì sự khó nhọc có thể quên đi được. Tề Hoàn công nói: - Như vậy thì trọng phụ thật là một người hiểu thấu nhân tình! Nói xong, lại truyền tiến binh. Đi qua mấy ngọn núi nữa, bỗng thấy quân sĩ đứng dừng cả lại, nói với Tề Hoàn công rằng: - Mặt trước hai bên núi đứng thẳng lên như tường, ở giữa có một lối đi nhỏ, chỉ đi được từng người một, chứ xe không tài nào đi vừa. Tề Hoàn công sợ xám mặt lại, bảo Quản Di Ngô rằng: - Chỗ này nếu quân giặc có phục binh thì ta tất bị thua! Tề Hoàn công vừa nói dứt lời thì trong khe núi có một vật xăm xăm chạy đến. Tề Hoàn công trừng mắt nhìn xem, thấy người chẳng phải người, thú chẳng phải thú, mình dài hơn một thước, mũ đen áo đỏ, hai chân đi đất, chạy đến trước mặt Tề Hoàn công, hai ba lần vái chào, hình như có ý mừng đón; lại giơ tay phải nắm lấy áo Tề Hoàn công, trỏ vào khe núi, rồi ù té chạy mất. Tề Hoàn công kinh sợ, hỏi Quản Di Ngô rằng: - Trọng phụ có trông thấy gì đó không? Quản Di Ngô nói: - Tôi không thấy gì cả. Tề Hoàn công thuật chuyện lại cho Quản Di Ngô nghe. Quản Di Ngô nói: - Đó là thần Du Nhi. Tề Hoàn công nói: - Thần Du Nhi là thế nào? Quản Di Ngô nói: - Tôi nghe ở bắc phương này có thần núi gọi là Du Nhi, chúa công trông thấy, chắc là thần ấy. Thần Du Nhi mừng đón và có ý mong cho chúa công đến đánh, tay phải nắm áo là có ý bảo về phía hữu có nước sâu, nên đi về phía tả. Vậy xin chúa công hãy đóng quân ở trên núi, cho người đi do thám trước, rồi sau sẽ tiến binh. Tề Hoàn công nghe lời, đóng quân ở trên núi, rồi cho quân sĩ đi do thám trước. Quân sĩ về báo rằng: - Cách núi này độ năm dặm, tức là suối Ty Nhĩ, nước suối sâu lắm, mà bao nhiêu thuyền bè bị vua Cô Trúc thu lấy mất cả, càng về phía hữu thì nước càng sâu, đến hơn một trượng, không thể nào qua được. Nhưng đi về phía tả, cách độ ba dặm, mặt nước dẫu rộng mà nông, lội không đến đầu gối. Tề Hoàn công nghe báo, vỗ tay mà nói rằng: - Như vậy thì cái triệu thần Du Nhĩ thật là ứng nghiệm. Yên Trang công nói: - Suối Ty Nhĩ không nghe nói có chỗ nào nông mà lội được bao giờ, chắc là thần giúp cho hiền hậu được thành công đó! Tề Hoàn công nói: - Từ đây sang Cô Trúc, còn xa hay gần? Yên Trang công nói: - Qua cái suối này đi về phía Đông có ba ngọn núi liền nhau: Một là Đoàn Tử Sơn, hai là Mã Tiên Sơn, ba là Song Tử Sơn, cả thẩy dài 30 dặm, đó là ba ngôi mộ của vua Cô Trúc ngày xưa; lại đi 25 dặm nữa thì đến kinh đô nước Cô Trúc. Quản Di Ngô nói: - Nếu ta họp quân ở cả một chỗ, lỡ khi gặp giặc thì tiến thoái đều khó, ta nên chia quân ra làm hai đạo mà đi. Tề Hoàn công truyền cho quân sĩ đốn tre ở trong rừng, lấy mây bó lại kết thành cánh bè, rồi chia quân ra làm hai đạo, hẹn nhau cùng đến cả ở Đoàn Tử Sơn. Vua nước Cô Trúc là Đáp Lý Kha nghe tin quân Tề đã đóng bè qua suối Ty Nhĩ, vội vàng sai Hoàng Hoa đem 5.000 quân ra nghênh chiến. Mật Lư nói với Hoàng Hoa rằng: - Tôi xin cùng với Tốc Mãi đem quân đi tiên phong. Hoàng Hoa nói: - Khi trước nước ngươi đã bị thua luôn, còn làm gì được mà cũng xin đi! Nói xong liền cưỡi ngựa đi ngay. Đáp Lý Kha bảo Mật Lư rằng: - Nhà ngươi nên đem quân đi trước để tiếp ứng cho Hoàng Hoa, rồi tôi sẽ đem quân đến sau. Mật Lư đem quân tới Mã Tiên Sơn, nghĩ đến sự Hoàng Hoa khinh bỉ mình, vẫn có ý căm tức. Hoàng Hoa đi gần đến suối Ty Nhĩ, gặp đại binh của Tề Hoàn công đánh cho một trận, quân sĩ chết mất quá nửa, còn bao nhiêu xin đầu hàng cả. Hoàng Hoa sợ hãi, chạy về Đoàn Tử Sơn. Khi đến Đoàn Tử Sơn, trông lên trên núi, đã thấy quân Tề đóng chật cả rồi, Hoàng Hoa bất đắc dĩ phải giả hình làm đứa kiếm củi, đi xuyên qua một con đường nhỏ, trốn về Mã Tiên Sơn. Khi đến Mã Tiên Sơn trông thấy có quân tiếp ứng, vội vàng chạy đến, mới biết là quân Mật Lư. Mật Lư nói: - Ngài là một ông tướng thường hay thắng trận, cớ sao lại trơ trọi một mình bỏ chạy đến đây! Hoàng Hoa xấu hổ, không biết dường nào mà kể! Hoàng Hoa đòi lấy cơm rượu, Mật Lư chỉ cho một thăng gạo rang; lại đòi lấy ngựa cưỡi, Mật Lư chỉ đưa cho một con ngựa xấu, Hoàng Hoa giận lắm, về nói với Đáp Lý Kha xin thêm quân để đi đánh báo thù. Đáp Lý Kha nói: - Vì khi trước ta không nghe lời tướng quân, đến nỗi thế này! Hoàng Hoa nói: - Tế hầu chỉ tức giận nước Linh Chi mà đem quân đến đây, chi bằng ta chém đầu vua tôi Mật Lư đem nộp Tề hầu, rồi cùng với nước Tề giảng hòa. Đáp Lý Kha nói: - Mật Lư cùng khốn mà về với ta, nỡ nào ta lại xử tệ như vậy! Quan tể tướng là Ngột Luật Cổ nói: - Tôi có một kế, có thể đánh vỡ được quân Tề. Đáp Lý Kha hỏi: - Kế gì? Ngột Luật Cổ nói: - Phía Bắc nước ta có một cái bể cát, không có nước và cây cỏ gì cả. Xưa nay người trong nước chết, thường hay quăng xác ra đấy, xương khô thành đống, ban ngày vẫn trông thấy ma quỷ hiện hình. Thỉnh thoảng có một thứ gió lạnh, ai gặp thứ gió ấy thì tối tăm mặt mũi lại mà chết ngay, lại có nhiều các giống độc xà và ác thú ở đấy. Nếu cho một người giả cách xin hàng, mà dụ quân Tề đến chỗ ấy thì chẳng cần phải đánh, tự khắc quân Tề phải dần mòn chết hết. Đáp Lý Kha hỏi: - Khi nào quân Tề lại chịu đến chỗ ấy. Ngột Luật Cổ nói: - Chúa công hãy tạm đem cung quyến tránh sang núi Dương Sơn, rồi sai người nói dối Tề Hầu rằng chúa công trốn đi, để cầu cứu với nước khác. Tề Hầu tất nhiên trúng kế ta mà đem quân đuổi theo. Hoàng Hoa xin đem quân đi, để giả cách đầu hàng Tề Hoàn công. Hoàng Hoa vừa đi, vừa nghĩ thầm trong lòng rằng: "Ta không chém đầu Mật Lư thì sao Tề Hầu tin là thực, âu là ta cứ chém đầu Mật Lư, khi đã thành công rồi, chắc chúa công ta cũng không nỡ bắt tội". Hoàng Hoa tức khắc đến Mã Tiên Sơn, vào yết kiến Mật Lư. Mật Lư đang chống giữ với quân nước Tề, nghe báo Hoàng Hoa đem quân đến, trong lòng mừng rỡ vội vàng ra đón. Hoàng Hoa nhân khi Mật Lư bất ngờ, rút gươm chém lấy đầu Mật Lư. Tốc Mãi nổi giận cầm đao xông lại đánh nhau với Hoàng Hoa. Đánh được mấy hiệp, Tốc Mãi biết sức mình không địch nổi, liền bỏ chạy sang đầu hàng Hổ Nhi Ban. Hổ Nhi Ban cho là giả dối, sai quân sĩ bắt Tốc Mãi đem chém. Hoàng Hoa đem đầu Mật Lư đến nộp Tề Hoàn công và xin đầu hàng, lại nói với Tề Hoàn công rằng: - Chúa công tôi đã đem cả cung quyến đi mượn quân nước khác về đánh báo thù. Tôi khuyên chúa công tôi đầu hàng, nhưng chúa công tôi không nghe. Nay tôi chém đầu Mật Lư đem nộp, nếu hiền hầu cho tôi làm tiên phong, tôi xin đem quân đi trước để dẫn đường cho hiền hầu. Tề Hoàn công thấy có đầu Mật Lư, mới tin lời Hoàng Hoa, cho làm tiên phong. Hoàng Hoa đem quân đi trước, dẫn đường cho Tề Hoàn công. Tề Hoàn công đi đến kinh thành nước Cô Trúc, thấy kinh thành bỏ không, càng tin lời nói Hoàng Hoa là thực liền cho Yên Trang công đem một toán quân đóng giữ lấy kinh thành, rồi sai Cao Hắc cùng với Hoàng Hoa đi trước, còn Tề Hoàn công cử đại binh theo sau. Đi được một quãng, trời đã gần tối, chẳng trông thấy toán quân Cao Hắc và Hoàng Hoa đâu cả, chỉ trông thấy một vùng cát trắng, mây kéo tối sầm, gió bắc lạnh lùng, ma kêu quỉ khóc. Quản Di Ngô bảo Tề Hoàn công rằng: - Tôi nghe nói ở cái xứ này có cái bể cát, là một nơi hiểm độc, dễ thường chỗ này, ta không nên đi vội. Tề Hoàn công truyền thu quân trở lại, nhưng quân sĩ lạc đường không biết lối nào mà ra. Tề Hoàn công thấy vậy sợ hãi. Quản Di Ngô nói: - Nước Vô Chung tiếp giáp với xứ này thì những ngựa già ở nước Vô Chung tất nhiên thuộc đường, âu là ta sai Hổ Nhi Ban (người nước Vô Chung) chọn mấy con ngựa già, thả cho đi trước, rồi quân ta theo sau thì có thể ra khỏi được. Tề Hoàn công theo kế ấy, quả nhiên ra khỏi được bể cát. Lại nói chuyện Hoàng Hoa đi trước, lập kế đánh lừa, đưa Cao Hắc về núi Dương Sơn. Cao Hắc thấy Hoàng Hoa cứ một mạch đi thẳng không có ý chờ đại binh kéo sau, mới sinh lòng nghi, dừng cương ngựa lại, không chịu đi vội, bị Hoàng Hoa bắt sống, đem đến nộp Đáp Lý Kha. Hoàng Hoa nói dối Đáp Lý Kha rằng: - Mật Lư thua trận ở Mã Tiên Sơn, bị quân Tề giết chết, nay tôi đã dùng kế trá hàng, lừa được quân Tề vào trong bể cát, lại bắt sống được tướng Tề là Cao Hắc về đây, xin chúa công định liệu. Đáp Lý Kha bảo Cao Hắc rằng: - Nếu nhà ngươi chịu đầu hàng thì ta sẽ phong chức cho. Cao Hắc trừng mắt lên nhìn mà quát mắng rằng: - Ta đây làm quan nước Tề, khi nào chịu thần phục những giống khuyển dương như mày! Nói xong, liền quay lại mắng Hoàng Hoa rằng: - Mày lập kế lừa ta đến đây, ta dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng đại binh của chúa công ta tới nơi, thì vua tôi nhà ngươi bấy giờ hối không kịp? Hoàng Hoa nghe nói nổi giận, rút gươm chém chết Cao Hắc. Đáp Lý Kha lại đem quân về thu phục lấy kinh thành. Yên Trang công không giữ nổi, bỏ chạy về Đoàn Tử Sơn. Đại binh của Tề Hoàn công ra khỏi bể cát, lại kéo về kinh thành nước Cô Trúc. Trong khi đi đường, thấy nhân dân già trẻ dắt nhau đi lũ lượt. Quản Di Ngô sai người hỏi dò, mới biết là Đáp Lý Kha đã đuổi quân nước Yên thu phục lấy kinh thành rồi, bao nhiêu những dân khi trước tránh vào trong rừng, bây giờ lại trở về cả. Quản Di Ngô nói: - Như vậy thì ta đã nghĩ được kế để phá quân giặc! Nói xong liền sai Hổ Nhi Ban đem quân thay hình đổi dạng, đi lẫn với đám đông người, lẻn vào trong thành để làm nội ứng. Quản Di Ngô truyền cho quân sĩ vây kín cả ba mặt thành, chỉ trừ có một cửa phía Bắc, chờ cho Đáp Lý Kha chạy ra thì phục quân mà bắt lấy. Đáp Lý Kha nghe tin quân Tề kéo đến, giật mình kinh sợ, đem quân lên mặt thành để phòng giữ. Hổ Nhi Ban ở trong thành phóng hỏa làm hiệu rồi mở cửa thành cho quân Tề kéo vào. Hoàng Hoa vội vàng phù Đáp Lý Kha lên ngựa, mở cửa thành phía bắc ra để chạy trốn. Đi được ba dặm, bỗng thấy lửa cháy rực trời, trống vang dậy đất, Thành Phủ và Thấp Bằng đổ ra đón đánh. Đáp Lý Kha bị Thành Phủ bắt được, còn Hoàng Hoa và Ngột Luật Cổ chết ở trong đán loạn quân. Sáng hôm sau Tề Hoàn công kéo quân vào kinh thành nước Cô Trúc, chém đầu Đáp Lý Kha, đem bêu ở cửa bắc. Lại treo bảng phủ dụ dân Cô Trúc. Dân Cô Trúc thuật lại chuyện Cao Hắc bị giết, Tề Hoàn công thương tiếc vô cùng, rồi sai ghi tên vào sổ để khi về nước thì gia phong cho. Yên Trang công ở Đoàn Tử Sơn, nghe tin đại binh của Tề Hoàn công đã kéo về kinh thành nước Cô Trúc, cũng đem quân đến để chúc mừng. Tề Hoàn công nói: - Tôi đem quân sang giúp quí quốc, may mà đánh lấy được địa giới nước Linh Chi và nước Cô Trúc này kể hàng 500 dặm, bây giờ xin để biếu quí quốc. Yên Trang công nói: - Tôi nhờ hiền hầu giúp cho, mà giữ yên được nước nhà, cũng đã đội ơn lắm, có đâu lại còn mong dám thêm bờ cõi, xin hiền hầu giao cho người khác. Tề Hoàn công nói: - Linh Chi và Cô Trúc là một nơi hoang viễn, nếu giao cho người khác thì chúng lại quấy nhiễu. Hiền hầu chớ nên từ chối, nên nhận lấy mà mở mang bờ cõi, rồi sai sứ vào triều cống thiên tử nhà Chu, thế là tôi cũng được dự một phần vẻ vang đó. Yên Trang công không dám từ chối nữa. Tề Hoàn công truyền mở tiệc khao thưởng quân sĩ, lấy lại một khu ruộng ở dưới núi Tiểu Toàn Sơn để thưởng công cho Hổ Nhi Ban. Hổ Nhi Ban lạy tạ, cáo từ xin về. Tề Hoàn công nghỉ quân năm ngày, rồi kéo đại binh trở về nước Tề. Yên Trang công đi tiễn Tề Hoàn công ra khỏi địa giới nước Yên. Từ bấy giờ nước Yên mở rộng bờ cỏi, thành ra một nước lớn ở phương bắc. Các nước chư hầu nghe nói Tề Hoàn công đem quân cứu nước Yên, mà lấy được bao nhiêu đất, lại cho nước Yên tất cả, ai cũng sợ uy và phục bụng Tề Hoàn công. Tề Hoàn công về đến sông Tế Thủy (tiếp giáp địa giới nước Lỗ), Lỗ Trang công ra nghênh tiếp, bày tiệc ở bờ sô chúc mừng. Tề Hoàn công đem những đồ quí vật của nước Linh Chi và Cô Trúc, chia một nửa biếu Lỗ Trang công. Lỗ Trang công biết Quản Di Ngô có một cái ấp riêng tên gọi Tiểu Cốc ở địa giới nước Lỗ, muốn lấy lòng Quản Di Ngô, mới sai người đến sửa sang thành quách rất tử tế. Sau Lỗ Trang công mất, từ bấy giờ nước Lỗ lại sinh ra loạn to.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  3. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 22 Lỗ Quí Hữu giữ vững cơ đồ Tề Hoàn công trông thấy ma quỉ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Công tử Khánh Phủ là thứ huynh của Lỗ Trang công; em cùng mẹ với Công tử Khánh Phủ là Thúc Nha, tức là thứ đệ của Lỗ Trang công; còn người em cùng mẹ của Lỗ Trang công là Công tử Hữu, vì trong bàn tay có cái vết chữ "Hữu", mới đặt tên là Hữu, tên tự là Quí, vậy nên vẫn gọi là Quí Hữu. Trong ba anh em cùng làm quan đại phu, chỉ có Quí Hữu là hiền hơn cả; vả lại là em cùng mẹ của Lỗ Trang công ra chơi đất Lang Đài, trông thấy con gái họ Đảng là Mạnh Nhâm nhan sắc xinh đẹp, sai người đi triệu, Mạnh Nhâm không chịu đến. Lỗ Trang công lại sai người bảo rằng: - Nếu nghe lời ta thì rồi sau ta lập làm phu nhân. Mạnh Nhâm xin ăn thề, Lỗ Trang công thuận cho. Mạnh Nhâm mới trích cánh tay lấy máu cùng với Lỗ Trang công ăn thề. Lỗ Trang công đem Mạnh Nhâm về cung. Năm sau, Mạnh Nhâm sinh được một người con, tên là Công tử Ban. Lỗ Trang công muốn lập Mạnh Nhâm làm phu nhân, vào nói với mẹ là Văn Khương. Văn Khương không bằng lòng cho, nhất định bắt phải giao ước để lấy con gái Tề Tương công là Ai Khương làm vợ. Bấy giờ Ai Khương còn bé lắm, phải chờ đợi trong 20 năm trời mới có thể cưới được; bởi vậy Mạnh Nhâm dẫu chưa được lập làm phu nhân, nhưng trong 20 năm ấy vẫn làm chủ ở trong cung. Đến lúc Ai Khương về làm phu nhân nước Lỗ thì Mạnh Nhâm đã chết rồi. Ai Khương không có con. Em gái Ai Khương là Thúc Khương theo Ai Khương sang lấy Lỗ Trang công, sinh được Công tử Khải. Lúc trước Lỗ Trang công lại có một người thiếp là Phong Thị, sinh được Công tử Thân, Phong Thị đem Công tử Thân đến nhờ Quí Hữu lập làm thế tử. Quí Hữu nói: - Công tử Ban hơn tuổi, phải lập Công tử Ban. Phong Thị không dám nói nữa. Ai Khương dẫu được lập làm phu nhân, nhưng Lỗ Trang công vẫn có ý giận là con gái kẻ thù giết cha mình khi trước, bởi vậy mặt ngoài kính trọng, mà trong bụng vẫn ghét thầm. Ai Khương thấy Công tử Khánh Phủ mặt mũi khôi ngô, đem tình dan díu, liền cùng với Khánh Phủ tư thông; lại kết đảng với Thúc Nha (Em cùng mẹ với Khánh Phủ), muốn lập Khánh Phủ lên làm vua, Thúc Nha làm tể tướng. Lỗ Trang công nhân tiết trời không mưa, sắp đi tế đảo vũ, ngày hôm trước truyền cho bọn nhạc công tập diễn nhạc ở sân nhà quan đại phu là Lương Thị. Lương Thị có người con gái đẹp, vẫn đi lại với Công tử Ban. Công tử Ban bằng lòng, định sau lập thành phu nhân. Hôm ấy, con gái Lương Thị bắc thang lên tường để xem diễn nhạc. Ngữ Nhân Lạc đứng ở ngoài tường, trông thấy con gái Lương Thị đẹp, liền làm một bài ca để hát ghẹo. Công tử Ban nghe tiếng hát chạy ra, trông thấy Ngữ Nhân Lạc, nổi cơn ghen tức, sai người bắt vào, đánh cho 300 roi, bắn máu đít ra. Ngữ Nhân Lạc kêu van mãi, Công tử Ban mới tha cho, lại thuật chuyện với Lỗ Trang công. Lỗ Trang công nói: - Ngữ Nhân Lạc là người có sức khỏe, thiên hạ không mấy người địch nổi, nhà ngươi đánh hắn như vậy, tất hẳn đem lòng thù oán, chi bằng hắn đã vô lễ thì đem giết ngay đi, khiến khỏi lo ngại về sau. Nguyên Ngữ Nhân Lạc có tiếng là người sức khỏe lạ thường, đã một lần đứng trên chòi thành nhẩy xuống dưới đất; khi xuống đến nơi lại vùng ngay dậy, lấy tay bíu vào cột chòi mà lung lay, trên chòi đều chuyển động cả. Cũng vì có sức khỏe ấy, nên Lỗ Trang công khuyên Công tử Ban giết đi. Công tử Ban nói: - Ngữ Nhân Lạc dẫu có sức khỏe, chẳng qua là một đứa vũ phu mà thôi, có lo ngại gì! Ngữ Nhân Lạc quả nhiên đem lòng oán giận Công tử Ban, mới xin vào làm môn hạ Khánh Phủ. Năm sau, Lỗ Trang công ốm nặng, có ý nghi Khánh Phủ muốn cướp ngôi, mới giả cách gọi Thúc Nha vào hỏi chuyện để dò ý. Thúc Nha quả nhiên khen tài Khánh Phủ và nói với Lỗ Trang công nên lập Khánh Phủ lên nối ngôi. Lỗ Trang công nín lặng không nói gì cả. Thúc Nha cáo từ lui ra. Lỗ Trang công lại gọi Quí Hữu vào hỏi. Quí Hữu nói: - Chúa công ngày trước có ước với Mạnh Nhâm, nay đã không lập làm phu nhân, có lẽ nào lại còn bỏ cả người con nữa. Lỗ Trang công nói: - Khánh Phủ là một người tàn nhẫn, không có tư cách làm vua, Thúc Nha có ý bênh vực anh, chúa công không nên nghe. Dù thế nào tôi cũng xin hết sức mà phù Công tử Ban. Lỗ Trang công gật đầu, liền cấm khẩu không nói được nữa. Quí Hữu vội vàng sai nội thị nói dối là phụng mệnh Lỗ Trang công bảo Thúc Nha đến đợi ở nhà quan đại phu Hàm Quí. Thúc Nha tưởng thực, tức khắc đến nhà Hàm Quí. Quí Hữu sai bỏ thuốc độc vào hai bình rượu, đưa cho Hàm Quí, để bắt Thúc Nha uống. Lại viết riêng một bức thư đưa cho Thúc Nha bảo rằng: - Chúa công có lệnh bắt Công tử chịu uống thuốc độc mà chết đi thì con cháu sau nối đời được phong chức, nếu không tất phải giết chết cả nhà. Thúc Nha không chịu uống. Hàm Quí nắm tai Thúc Nha mà đổ vào. Được một lúc, Thúc Nha chảy máu mồm máu mũi ra mà chết. Chiều hôm ấy, Lỗ Trang công mất. Quí Hữu lập Công tử Ban lên nối ngôi. Công tử Ban nghĩ đến cái tình nhà mẹ (Mạnh Nhâm) là họ Đảng, nghe tin ngoại tổ là Đảng Thần chết, liền đến tận nhà để thăm. Khánh Phủ mật gọi Ngữ Nhân Lạc vào bảo: - Nhà ngươi không nhớ đến cái thù trận đòn ngày xưa hay sao? Này này, con giao long đã ra khỏi mặt nước, thì sức một người có thể bắt được. Sao nhà ngươi không đón ở nhà họ Đảng mà báo thù, có sự gì rồi ta sẽ bênh vực cho. Ngữ Nhân Lạc nói: - Nếu Công tử giúp cho, tôi xin vâng mệnh. Nói xong, liền giắt một con dao găm, đang đêm đến nhà họ Đảng, bấy giờ đã sang canh ba, trèo tường mà vào, đứng núp ở ngoài hiên. Đến lúc trời gần sáng, nội thị mở cửa ra lấy nước, Ngữ Nhân Lạc thừa cơ lẻn vào trong buồng ngủ. Công tử Ban vừa mới ở trên giường bước xuống, đang xỏ chân vào giầy, trông thấy Ngữ Nhân Lạc, giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Mày đến đây làm gì? Ngữ Nhân Lạc nói: - Ta chỉ đến báo thù trận đòn năm trước đây! Công tử Ban liền rút thanh kiếm ở trên đầu giường, chém vào trán Ngữ Nhân Lạc chảy cả óc ra. Ngữ Nhân Lạc tay trái nắm lấy thanh kiếm, tay phải cầm dao đâm vào cạnh sườn Công tử Ban. Công tử Ban chết. Nội thị sợ hãi mà kêu rầm lên. Quân sĩ kéo vào bắt Ngữ Nhân Lạc. Ngữ Nhân Lạc vỡ óc không thể địch nổi, bị quân sĩ chém nát nhừ ra như tương. Quí Hữu nghe tin Công tử Ban chết biết là mưu của Khánh Phủ, tức thì trốn sang nước Trần. Khánh Phủ giả cách không biết, đổ tội cho Ngữ Nhân Lạc rồi giết cả nhà Ngữ Nhân Lạc để khỏi mang tiếng. Ai Khương muốn lập Khánh Phủ lên nối ngôi, Khánh Phủ nói: - Chưa giết nốt Công tử Thân và Công tử Khải thì chưa nên nối ngôi vội! Ai Khương nói: - Thế có nên lập Công tử Thân hay không? Khánh Phủ nói: - Công tử Thân đã lớn tuổi, ta khó kiềm chế, âu là ta lập Công tử Khải. Khánh Phủ thân hành sang nước Tề, đem tin Công tử Ban chết báo với Tề Hoàn công và mang lễ vật sang biếu Thụ Điêu, để nhờ Thụ Điêu nói với Tề Hoàn công công nhận cho Công tử Khải lên nối ngôi. Bấy giờ Công tử Khải mới lên 8 tuổi, tức là Lỗ Mẫn công. Lỗ Mẫn công là con Thúc Khương, mà Thúc Khương là em gái Ai Khương, vậy Lỗ Mẫn công tức là cháu gọi Tề Hoàn công bằng cậu. Lỗ Mẫn công trong sợ Ai Khương, ngoài sợ Khánh Phủ, mới sai sứ sang ước với Tề Hoàn công xin đến hội ở đất Lạc Cô (đất nước Tề). Khi đến hội, Lỗ Mẫn công nắm lấy áo Tề Hoàn công, nước mắt chảy xuống dòng dòng, thuật lại những chuyện Khánh Phủ làm loạn. Tề Hoàn công hỏi: - Các quan đại phu ở nước Lỗ bây giờ, ai là hiền hơn? Lỗ Mẫn công nói: - Chỉ có Quí Hữu là hiền hơn cả, nay tránh nạn trốn sang nước Trần. Tề Hoàn công nói: - Sao không sai người triệu về? Lỗ Mẫn công nói: - Nhưng lại sợ Khánh Phủ có lòng nghi. Tề Hoàn công nói: - Cứ bảo là phải theo ý tôi mà triệu Quí Hữu về thì ai dám trái mệnh. Nói xong, liền sai sứ sang nước Trần để triệu Quí Hữu. Lỗ Mẫn công chờ Quí Hữu đến, rồi cùng về nước Lỗ. Lỗ Mẫn công cho Quí Hữu làm tể tướng, nói thác là theo ý Tề Hoàn công. Tề Hoàn công sợ nước Lỗ có loạn, sau quan đại phu là Trọng Tôn Thu sang thăm và dò xem tình ý Khánh Phủ ra làm sao. Lỗ Mẫn công trông thấy Trọng Tôn Thu, chỉ ứa nước mắt xuống mà khóc, không nói được câu gì cả. Sau Trọng Tôn Thu vào yết kiến Công tử Thân, thấy Công tử Thân nghị luận những công việc nước Lỗ, rất có thứ tự, Trọng Tôn Thu khen rằng: - Công tử Thân thật là có tài trị nước! Nói xong, liền dặn Quí Hữu phải trông nom Công tử Thân, lại khuyên Quí Hữu nên trừ Khánh Phủ đi mới được. Quí Hữu ra hiệu giơ một cánh tay cho Trọng Tôn Thu xem. Trọng Tôn Thu hiểu ý là thế cô, một mình không làm gì được, mới bảo Quí Hữu rằng: - Để tôi về nói với chúa công tôi, nếu có sự nguy cấp gì, chúa công tôi sẽ giúp cho. Khánh Phủ cũng đem vàng bạc đến lễ Trọng Tôn Thu. Trọng Tôn Thu nói: - Nếu Công tử một lòng trung với nước nhà thì chúa công tôi cũng bằng lòng, chẳng những là tôi. Nói xong nhất định từ chối, Khánh Phủ sợ hãi lui ra. Trọng Tôn Thu về nói với Tề Hoàn công rằng: - Không trừ được Khánh Phủ thì nước Lỗ quyết không yên. Tề Hoàn công nói: - Ta đem quân sang mà trừ đi, phỏng có nên không? Trọng Tôn Thu nói: - Tội ác của Khánh Phủ chưa hiển hiện ra thì chưa nhân cớ gì mà trừ đi được, nhưng tôi xem ý Khánh Phủ, chẳng bao lâu tất cũng làm loạn, hãy chờ khi hắn làm loạn mà giết đi, ấy là trách nhiệm của bá chủ đó! Tề Hoàn công khen phải. Khánh Phủ vẫn muốn cướp ngôi, chỉ vì Lỗ Mẫn công là cháu ngoại Tề Hoàn công, và lại có Quí Hữu hết sức phù tá, vậy nên còn e sợ, chưa dám làm vội. Một hôm, có quan đại phu là Bốc Kỳ đến chơi. Khánh Phủ mời vào chốn thư phòng trông thấy Bốc Kỳ hầm hầm tức giận, Khánh Phủ lấy làm lạ, liền hỏi. Bốc Kỳ nói: - Tôi có một khu ruộng, tiếp giáp với khu ruộng của quan thái phó tên là Thận Bất Hại, bị Thận Bất Hại xâm chiếm mất, tôi vào nói với chúa công. Chúa công lại có ý bênh Thận Bất Hại, bảo tôi nhường cho hắn, tôi lấy làm tức lắm, vậy phải tới đây nhờ Công tử nói giúp với chúa công một câu cho. Khánh Phủ đuổi hết người xung quanh, rồi khẽ bảo Bốc Kỳ rằng: - Chúa công trẻ tuổi chưa biết gì, dẫu nói cũng vô ích, nếu nhà ngươi có thể làm được đại sự thì ta sẽ vì nhà ngươi mà giết Thận Bất Hại cho, nhà ngươi nghĩ thế nào? Bốc Kỳ nói: - Nhưng sợ có Quí Hữu thì việc làm không nổi, lại khó lòng mà thoát nạn được. Khánh Phủ nói: - Chúa công hãy còn trẻ tính, nhiều khi đang đêm vẫn ra ngoài phố chơi, nếu ta sai người đón đường mà giết đi, rồi đổ tiếng cho những quân trộm giặc thì còn ai biết được. Bấy giờ ta phụng mệnh quốc mẫu (tức là Ai Khương) lên nối ngôi thì đuổi Quí Hữu thật dễ như trở bàn tay. Bốc Kỳ vâng lời, mới tìm được kẻ dũng sĩ là Thu Á, đưa cho một con dao găm, sai đến phục ở ngoài cửa cung. Lỗ Mẫn công quả nhiên đang đêm ở trong cung ra. Thu Á nhảy xổ đến đâm chết. Các thị vệ kêu rầm lên, rồi xúm lại bắt. Bốc Kỳ đem người nhà đến đánh tháo cho Thu Á, Khánh Phủ đến tận nhà mà giết Thận Bất Hại. Quí Hữu nghe thấy việc biến cố như vậy, ngay đêm hôm ấy đến gõ cửa nhà Công tử Thân, vào gọi Công tử Thân dậy, thuật chuyện Khánh Phủ làm loạn, rồi hai người đem nhau trốn sang nước Châu. Người nước Lỗ bấy giờ vốn tin phục Quí Hữu, nghe tin Lỗ Mẫn công bị giết. Quí Hữu phải chạy trốn, cả nước đều náo động, căm tức Bốc Kỳ và Khánh Phủ. Khánh Phủ biết là lòng dân không phục, định trốn ra ngoại quốc, sực nghĩ đến Tề Hoàn công khi trước có mượn quân nước Cử để về phục quốc, âu là ta trốn sang nước Cử để nhờ nước Cử nói hộ với Tề Hoàn công. Vả lại Văn Khương khi trước có tư thông với thầy thuốc nước Cử, mà Ai Khương ngày nay tức là cháu gái Văn Khương, bây giờ ta sang nước Cử, mới có thể trông cậy được. Khánh Phủ nghĩ vậy, liền giả hình làm một người lái buôn, đem vàng bạc trốn sang nước Cử. Ai Khương nghe tin Khánh Phủ trốn sang nước Cử, cũng toan trốn sang. Các cung nhân bảo Ai Khương rằng: - Phu nhân vì việc Khánh Phủ mà mang oán với người trong nước, nay có Quí Hữu ở nước Châu, người trong nước ai cũng tin phục, chi bằng phu nhân trốn sang nước Châu mà nói với Quí Hữu bênh vực cho. Ai Khương nghe lời, trốn sang nước Châu, xin vào yết kiến Quí Hữu. Quí Hữu không tiếp, liền đem Công tử Thân về Lỗ, rồi sai người sang báo tin với Tề Hoàn công. Tề Hoàn công hỏi Trọng Tôn Thu rằng: - Nay nước Lỗ chưa có ai làm vua, ta có nên chiếm lấy hay không? Trọng Tôn Thu nói: - Lỗ vốn là một nước biết giữ lễ nghĩa, nay dẫu gặp sự cố, nhưng lòng người chưa quên cái công đức của Chu Công ngày xưa, ta chưa nên chiếm lấy vội. Vả lại Công tử Thân là người thông minh, am hiểu việc nước; Quí Hữu cũng là người có tài, tất dẹp yên được đảng loạn, chi bằng ta nhân dịp hãy sai người đem quân sang giúp. Tề Hoàn công nghe lời, sai quan thượng khanh là Cao Hề đem 3000 quân đóng tại nước Lỗ, rồi liệu thế mà khu xử; hễ Công tử Thân có tài làm vua được, thì lập cho làm vua, rồi hai nước giao hiếu với nhau, nếu không thì nhân tiện mà chiếm lấy đất nước Lỗ. Cao Hề đem quân đến nước Lỗ, lại vừa gặp Công tử Thân và Quí Hữu cùng đến. Cao Hề thấy Công tử Thân mặt mũi nghiêm trang, nói năng đứng đắn, có ý kính trọng, mới cùng với Quí Hữu bàn định, rồi lập Công tử Thân lên nối ngôi, tức là Lỗ Hi công. Cao Hề lại sai quân sĩ giúp người nước Lỗ đắp thành Lộc Môn để phòng giữ nước Châu và nước Cử. Quí Hữu sai Công tử Hề Tư theo Cao Hề sang nước Tề để tạ ơn Tề Hoàn công; một mặt sai người đem vàng bạc sang lễ vua nước Cử để nhờ giết hộ Khánh Phủ. Khi Khánh Phủ chạy sang nước Cử, đã đem các đồ châu báu vào lễ vua nước Cử. Đến bây giờ vua nước Cử lại tham lễ vật của nước Lỗ, mới sai người bảo Khánh Phủ rằng: - Nước Cử tôi nhỏ mọn lắm, nếu Công tử ở đây thì sợ lại sinh việc tranh chiến, xin Công tử hãy tạm tránh sang nước khác. Khánh Phủ còn dùng dằng chưa chịu đi. Vua nước Cử sai người đuổi. Khánh Phủ lại nghĩ đến Thụ Điêu nước Tề khi trước đã từng ăn lễ mà bênh vực cho mình, bấy giờ mới bỏ nước Cử trốn sang nước Tề. Quan trấn thủ ở bờ cõi nước Tề vốn biết Khánh Phủ là người tàn ác, chưa dám cho vào nước vội, mới tạm để ở trên sông Vấn Thủy. Công tử Hề Tư khi trước sang tạ ơn Tề Hoàn công, bấy giờ trở về đến sông Vấn Thủy, liền vào yết kiến Khánh Phủ, toan mời Khánh Phủ cùng về nước Lỗ. Khánh Phủ nói: - Ta về bây giờ thì tất Quí Hữu giết. Nhà ngươi hãy về nói với Quí Hữu trước, nếu Quí Hữu nghĩ đến tình tiên quân ngày xưa mà khoan dung cho thì không bao giờ ta dám quên ơn. Hề Tư về nước Lỗ, thuật lại lời nói của Khánh Phủ. Lỗ Hi công toan cho về. Quí Hữu nói: - Nếu kẻ giết vua mà không bắt tội thì còn ai sợ nữa! Quí Hữu lại bảo riêng với Hề Tư rằng: - Nếu Khánh Phủ chịu tự tử thì còn có thể tha cho con cháu sau, không đến nỗi tuyệt tự. Hề Tư lại đến trên sông Vấn Thủy, toan vào bảo Khánh Phủ, nhưng nể mặt lắm, không nỡ nói ra, mới đứng ở ngoài cửa gào khóc rầm lên. Khánh Phủ nghe tiếng khóc, biết là Hề Tư liền thở dài mà than rằng: - Hề Tư không vào mà gào khóc như thế thì ta khó lòng giữ toàn tính mệnh. Khánh Phủ tức thì cởi dây lưng thắt cổ mà chết. Hề Tư về báo tin với Lỗ Hi công. Lỗ Hi công có ý ngậm ngùi than thở. Bỗng thấy quân báo vua nước Cử sai em là Doanh Nô đem quân tới ngoài cõi nước Lỗ, nghe tin Khánh Phủ đã chết, đến đòi lễ tạ. Quí Hữu nói: - Người nước Cử có bắt hộ Khánh Phủ bao giờ mà dám nhận công! Nói xong, liền xin đem quân ra đánh. Lỗ Hi công cởi thanh bảo kiếm ở trong mình đưa tặng cho Quí Hữu mà bảo rằng: - Thanh bảo kiếm này tên gọi Mạnh Lao, dẫu dài không được một thước, nhưng lưỡi sắc lắm, thật là một thứ của quí ít có, xin để biếu thúc phụ. Quí Hữu đeo vào cạnh mình, rồi tạ ơn lui ra. Đi đến đất Lịch Trì, Doanh Nô đã bày trận sẵn để đợi. Quí Hữu nghĩ thầm trong lòng rằng: Bây giờ vua ta mới lên ngôi, việc nước chưa được yên ổn, nếu đánh mà không thắng thì lòng người náo động. Vả lại Doanh Nô là người tham mà không có mưu trí, chi bằng ta dùng kế tất đánh được hắn. Quí Hữu tiến ra trận tiền, mời Doanh Nô đến để nói chuyện. Quí hữu bảo Doanh Nô rằng: - Hai chúng ta không bằng lòng mà đánh nhau, chứ quân sĩ đâu có tội gì đâu! Tôi nghe Công tử có sức khỏe, tài đấu võ bằng tay, nay tôi xin bỏ đồ khí giới, mà cùng với Công tử quyết một trận sống mái. Doanh Nô khen phải, truyền cho quân sĩ đứng cả ra một bên, rồi cùng với Quí Hữu đấu võ. Hai người đấu võ với nhau trong 50 hợp, chưa phân được thua. Con trai Quí Hữu tên gọi Hành Phủ, bấy giờ mới lên 8 tuổi, Quí Hữu vẫn yêu dấu lắm, đi đâu cũng đem đi đấy. Hành Phủ đứng ở bên cạnh xem đấu võ, thấy Quí Hữu mãi không đánh được Doanh Nô, liền kêu to lên rằng: - Thanh Mạnh Lao để đâu? Quí Hữu biết ý, giả cách bị thua, lùi lại một bước để cho Doanh Nô xấn vào, rồi quay mình rút thanh Mạnh Lao chém thẳng một nhát vào người Doanh Nô, suốt từ trán xuống vai, bạt hẳn mất nửa đầu, mà lưỡi gươm không dây một tí máu nào, thật là một thanh gươm sắc rất quí. Quân nước Cử thấy Doanh Nô đã bị giết rồi, liền bỏ chạy toán loạn tất cả. Quí Hữu thắng trận, thu quân trở về. Lỗ Hi công thân hành ra đón, phong cho Quí Hữu làm thượng tướng và thưởng cho đất Phí Ấp. Quí Hữu nói: - Tôi cùng với Khánh Phủ và Thúc Nha đều là cháu vua Lỗ Hoàn công, tôi vì việc nước mà phải bỏ thuốc độc cho Thúc Nha chết, và bắt Khánh Phủ phải tự tử, thật là những việc bất đắc dĩ. Nay Khánh Phủ và thúc Nha không được tặng phong mà tôi lại được trọng thưởng thì ngày sau tôi còn mặt mũi nào mà trông thấy tiên quân ở dưới suối vàng. Lỗ Hi công nói: - Khánh Phủ và Thúc Nha đã có lòng phản nghịch như vậy thì có lẽ nào ta lại tặng phong cho được! Quí Hữu nói: - Khánh Phủ và Thúc Nha dẫu có lòng phản nghịch, mà chưa có cái gì là tang chứng, xin chúa công nghĩ đến tình thân thuộc mà tặng phong cho. Lỗ Hi công nghe lời, liền phong cho con Khánh Phủ là Công tôn Ngao ở đất Thành Ấp, tức là Mạnh Tôn Thị, còn Thúc Nha ở đất Hậu Ấp, tức là Thúc Tôn Thị, còn Quí Hữu ở đất Phí Ấp, tức là Quí Tôn Thị. Bấy giờ Mạnh Tôn Thị, Thúc Tôn Thị và Quí Tôn Thị ba nhà cùng cầm quyền chính nước Lỗ gọi là "Tam Hoàn". Tề Hoàn công nghe tin Ai Khương trốn sang nước Châu, mới bảo Quản Di Ngô rằng: - Lỗ Hoàn công và Lỗ Mẫn công bị giết, đều bởi con gái nước Tề (Văn Khương và Ai Khương) ta cả, nếu ta không trị tội, sao cho người nước Lỗ chịu phục. Quản Di Ngô nói: - Con gái đã về nhà chồng rồi, việc ấy không dự gì đến ta, nếu chúa công muốn trị tội thì nên phải giấu tiếng mới được. Tề Hoàn công khen phải, liền sai Thụ Điêu sang nước Châu để đưa Ai Khương về nước Lỗ. Ai Khương đi đến đất Di Địa, đêm ngủ ở nhà quán xá, Thụ Điêu bảo Ai Khương rằng: - Phu nhân một tay làm hại hai vua, nước Tề và nước Lỗ ai cũng biết cả, bây giờ phu nhân về, còn mặt mũi nào mà trông thấy nhà Thái Miếu nước Lỗ nữa, chi bằng phu nhân liệu mà tự tử đi thì còn có thể che được tiếng xấu. Ai Khương nghe nói, đóng kín cửa lại, một mình kêu khóc rầm rĩ, đến gần nửa đêm thì bỗng im lặng như tờ, Thụ Điêu đẩy cửa vào xem, thấy Ai Khương đã tự thắt cổ mà chết rồi. Thụ Điêu sai người phi báo Lỗ Hi công. Lỗ Hi công đưa linh cữu về nước Lỗ làm ma. Tề Hoàn công đã cứu nước Yên và giúp nước Lỗ, các nước chư hầu đều có lòng tin phục. Từ bấy giờ Tề Hoàn công giao hết quyền chính cho Quản Di Ngô, ngày nào cũng chỉ uống rượu và đi săn để cầu vui. Một hôm, Tề Hoàn công đi săn ở trong đại trạch, Thụ Điêu đi hầu, bỗng thấy Tề Hoàn công trừng mắt đứng nhìn, ngẩn cả người ra, không nói câu gì, mà lại có ý sợ hãi, Thụ Điêu hỏi rằng: - Chúa công thấy cái gì như vậy? Tề Hoàn công nói: - Ta vừa mới trông thấy một giống ma quỉ, hình dáng kỳ quái, nghĩ mà ghê sợ, vụt chốc lại biến đi mất, chắc là một cái điềm gở. Thụ Điêu nói: - Giống ma quỉ là thuộc về âm, cớ sao lại hiện ra ban ngày được. Tề Hoàn công nói: - Tiên quân ta ngày xưa đi săn ở đất Cô Phần, cũng đang ban ngày mà có giống ma quỉ hiện làm con lợn to. Âu là nhà ngươi mau mau gọi Trọng phụ cho ta hỏi. Thụ Điêu nói: - Trọng phụ có phải là thánh đâu mà biết hết được. Tề Hoàn công nói: - Ngày trước chúa công trông thấy thần Du Nhi kể hết hình dáng cho trọng phụ nghe, bởi vậy trọng phụ theo ý chúa công mà tán tụng vào, khiến cho chúa công vững lòng để tiến binh. Nay chúa công không nên nói rõ hình dáng ma quỉ ra vội, hãy hỏi thử xem trọng phụ có biết được hay không, Nếu trọng phụ biết được, mới thực là thánh. Tề Hoàn công nghe lời, thu quân trở về, trong lòng vẫn còn nghi sợ. Đêm hôm ấy thành ra bệnh sốt rét nặng, sáng hôm sau, Quản Di Ngô cùng các quan đại phu vào hỏi thăm. Tề Hoàn công bảo Quản Di Ngô rằng: - Hôm qua ta trông thấy một giống ma quỉ hiện lên lấy làm ghê sợ lắm, bây giờ trọng phụ thử đoán xem hình dáng nó ra làm sao? Quản Di Ngô không biết thế nào mà nói, mới trả lời rằng: - Để tôi xét xem. Thụ Điêu tủm tỉm cười mà nói với Tề Hoàn công rằng: - Tôi vẫn biết trọng phụ không thể nào nói được.. Tề Hoàn công mỗi ngày một đau nặng. Quản Di Ngô lấy làm lo lắm, mới sai người yết bảng ở ngoài cửa rằng: - Có ai biết mà nói được hình dáng giống ma quỉ của chúa công thì sẽ được trọng thưởng. Bỗng có một người nón mê áo rách, xin vào yết kiến Quản Di Ngô. Quản Di Ngô vái chào. Người ấy nói: - Chúa công bị bệnh có phải không? Quản Di Ngô nói: - Phải. Người ấy nói: - Chúa công trông thấy giống ma quỉ có phải không? Quản Di Ngô nói: - Phải. Người ấy nói: - Chúa công trông thấy ma quỉ ở trong đại trạch có phải không? Quản Di Ngô nói: - Nếu nhà ngươi có thể nói được hình dáng giống ma quỉ ấy thì ta sẽ trọng thưởng. Người ấy nói: - Xin cho tôi vào yết kiến chúa công để tôi nói. Quản Di Ngô nói: - Nếu nhà ngươi có thể nói được hình dáng giống ma quỉ ấy thì ta sẽ trọng thưởng. Người ấy nói: - Xin cho tôi vào yết kiến chúa công để tôi nói. Quản Di Ngô tức khắc vào cung, thấy Tề Hoàn công đang ngồi ở trên mấy lần nệm, bắt hai người thị nữ xoa lưng, và hai người thị nữ đấm chân. Thụ Điêu thì bưng chén nước trà đứng ở bên cạnh để dâng Tề Hoàn công. Quản Di Ngô nói: - Có một người nói được hình dáng giống ma quỉ ấy, tôi đã đem đến đây, xin chúa công cho vào yết kiến. Tề Hoàn công cho vào. Người ấy vào. Tề Hoàn công trông thấy người ấy nón mê áo rách, có ý không bằng lòng, liền hỏi người ấy rằng: - Trọng phụ bảo nhà ngươi nói được hình dáng giống ma quỉ ấy có phải không? Người ấy nói: - Chúa công tự làm hại chúa công đó mà thôi, chứ ma quỉ có làm hại được chúa công đâu! Tề Hoàn công nói: - Thế thì nhà ngươi bảo là có ma quỉ hay không? Người ấy nói: - Có ma quỉ: Ở nước thì có giống Võng Tượng, ở gò thì có giống Trăn, ở núi thì có giống Quì, ở đồng thì có giống Bàng Hoàng, ở đại trạch thì có giống Uy Đà. Tề Hoàn công nói: - Nhà ngươi thử nói hình dáng giống uy Đà xem ra làm sao? Người ấy nói: - Giống Uy Đà to lớn mà áo đỏ mũ đỏ. Giống ấy sợ tiếng xe chạy, hễ nghe tiếng xe chạy rầm rĩ thì ôm đầu mà đứng, ai trông thấy giống ấy tất là bậc bá chủ trong thiên hạ. Tề Hoàn công nghe lời, nét mặt tươi cười, đứng dậy mà nói rằng: - Chính ta trông thấy đó! Nói xong, tinh thần sảng khoái, bao nhiêu bệnh tật ở trong mình khỏi hết sạch cả. Lại hỏi người ấy rằng: - Nhà ngươi tên là gì? Người ấy nói: - Tên tôi là Hoàng Tử, là một kẻ nông phu ở cõi Tây nước Tề. Tề Hoàn công nói: - Nhà ngươi ở đây, ta cho nhà ngươi làm quan đại phu. Hoàng Tử chối từ mà nói rằng: - Tôi không muốn làm quan, chỉ mong rằng chúa công sửa sang chính trị, để nước nhà cường thịnh, khiến cho tôi được yên nghiệp làm ăn, thế là mãn nguyện rồi. Tề Hoàn công khen là người cao sĩ, tặng cho thóc lụa, rồi sai quân sở tại đến thăm tận nhà; lại trọng thưởng cho Quản Di Ngô. Thụ Điêu nói: - Hoàng Tử nói được, chứ trọng phụ có nói được đâu, mà dám nhận thưởng. Tề Hoàn công nói: - Nếu không có trọng phụ thì sao ta được nghe lời nói của Hoàng Tử. Thụ Điêu không dám nói nữa. Bấy giờ có nước Bắc Địch đem quân sang đánh nước Vệ. Vệ Ý công sai người đến cáo cấp với Tề Hoàn công. Các quan đại phu nước Tề xin đem quân đi cứu. Tề Hoàn công nói: - Quân ta vừa mới đi đánh Sơn Nhung về, hãy còn mỏi mệt, cần phải yên nghỉ, âu là để đến đầu sang năm, ta sẽ họp quân các nước chư hầu đi cứu Vệ. Đến cuối năm ấy, có quan đại phu nước Vệ là Ninh Tốc sang nước Tề, nói với Tề Hoàn công rằng: - Nước Bắc Địch đã phá nước vệ, giết mất Vệ Ý công rồi, nay phải sang đón Công tử Hủy về để nối ngôi. Tề Hoàn công than rằng: - Không sang cứu nước Vệ ngay, điều ấy là lỗi của ta đó!

    Quay về bài gốc
     
  4. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 23 Vệ Ý cho hạc ăn lộc quan Tề Hoàn cử binh đi đánh Sở

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nguyên Vệ Ý công lên ngôi đã chín năm trời mà tính rất lười biếng, chẳng thiết gì đến chính sự chỉ thích chơi một giống chim gọi là chim hạc. Giống chim hạc, tính ưa sạch sẽ mà hình dung rất thanh nhã, tiếng kêu đã hay, dáng múa cũng khéo. Vệ Ý công đã thích chơi như vậy thì người nước Vệ thường hay đem hạc đến tiến; mà ai tiến hạc cũng được trọng thưởng, thành ra trong cung nuôi đầy những hạc, kể hàng mấy trăm con. Vệ Ý công lại thưởng phẩm hàm và cấp lương bổng cho hạc, con hạc nào đẹp thì được ăn lộc quan đại phu. Mỗi khi Vệ Ý công đi chơi đâu, lại có mấy cái xe lớn, để cho chim hạc đứng mà đi dàn ở trước, gọi là Hạc tướng quân. Các người nuôi hạc bấy giờ cũng đều được hậu lương. Triều đình phải thu thuế của dân thật nặng, để được đủ tiền cấp lương cho hạc. Quan đại phu là Thạch Kỳ (con cháu sau Thạch Thác) vốn có tiếng là người trung trực, cùng với Ninh Tốc cùng cầm quyền chính nước Vệ. Hai người vẫn can Vệ Ý công luôn mà Vệ Ý công không nghe. Công tử Hủy là thứ huynh của Vệ Huệ công, biết cơ nước Vệ tất mất, trốn sang nước Tề. Tề Hoàn công gả con gái cho, rồi cho ở nước Tề. Bắc Địch là một nước cường thịnh. Vua Bắc Địch tên là Sưu Man xưa nay vẫn có ý muốn xâm phạm các nước ở trung quốc. Mới rồi, nghe tin Tề Hoàn công đi đánh Sơn Nhung, liền nổi giận mà nói rằng: - Quân Tề đã đi đánh Sơn Nhung như vậy là có ý khinh ta, ta nên nghĩ cách mà trị nước đi, để khiến cho quân Tề phải khiếp sợ. Nói xong, liền cử đại binh đi đánh nước Hình. Tề Hoàn công toan đem quân đi cứu nước Hình. Sưu Man (vua Bắc Địch) lại đem quân kéo sang nước Vệ. Vệ Ý công đang sai người xe hạc đi chơi, nghe báo có quân Bắc Địch đến đánh, giật mình kinh sợ, tức khắc hạ lệnh gọi quân để đi đánh giặc. Dân nước Vệ bỏ trốn cả, không ai dám ra lính. Vệ Ý công sai quan tư đồ đi bắt. Trong một lúc bắt được hơn 100 người đem về tra hỏi: - Vì cớ gì mà dám trốn lính? Dân nước Vệ nói: - Chúa công dùng một giống vật, cũng đủ đánh nổi được quân Bắc Địch, cần gì phải dùng đến lũ chúng tôi. Vệ Ý công hỏi: - Vật gì mà đánh nổi được quân giặc? Dân nước Vệ nói: - Chim hạc! Vệ Ý công hỏi: - Chim hạc thì đánh giặc thế nào được? Dân nước Vệ nói: - Chim hạc đã không đánh được giặc thì là một vật vô dụng, nay chúa công bỏ những người hữu dụng mà nuôi những vật vô dụng, bởi thế cho nên dân chúng tôi không phục. Vệ Ý công nói: - Nay ta đã biết tội! Ta xin theo ý dân mà đuổi hết chim hạc đi! Thạch Kỳ nói: - Xin chúa công làm ngay! Tôi e rằng đến bây giờ cũng đã muộn lắm rồi! Vệ Ý công tức khắc sai người đi đuổi bỏ chim hạc. Chim hạc được nuôi đã lâu ngày, quen chỗ ở rồi, cứ quanh quẩn mãi, không chịu đi đâu cả. Thạch Kỳ và Ninh Tốc thân hành đi khắp các nơi chợ búa để giảng dụ cho dân hiểu rõ những tình ý của Vệ Ý công đã biết hối lỗi, bấy giờ dân mới chịu ra lính, thì quân Bắc Địch đã kéo đến đất Huỳnh Trạch. Thạch Kỳ nói với Vệ Ý công rằng: - Quân Bắc Địch mạnh lắm, chớ nên khinh thường, để tôi xin sang cầu cứu với nước Tề. Vệ Ý công nói: - Ngày trước nước Tề đã phụng mệnh thiên tử đến đánh nước ta; dẫu đã lui quân về rồi, nhưng từ bấy đến nay ta cũng chưa sang tạ lại, bây giờ chắc hẳn Tề chẳng chịu đến cứu đâu. Âu là ta cứ liều đánh một trận để quyết được thua. Ninh Tốc nói: - Tôi xin đem quân ra đánh giặc, còn chúa công ở lại mà giữ thành. Vệ Ý công nói: - Nếu ta không thân hành đi đánh thì quân sĩ không chịu dụng tâm. Nói xong, liền giao quốc chính cho Thạch Kỳ, rồi đưa cho Thạch Kỳ một cái ngọc quyết mà dặn rằng: - Nhà ngươi phân xử việc nước, nên quyết đoán như cái ngọc quyết này! Lại đưa cho Ninh Tốc một cái tên, khiến cho Ninh Tốc chuyên việc giữ thành. Vệ Ý công lại bảo cả Thạch Kỳ và Ninh Tốc rằng: - Công việc trong nước, ta giao cả cho hai ngươi! Ta đi chuyến này, không đánh được quân Bắc Địch thì ta quyết không trở về. Thạch Kỳ và Ninh Tốc đều rỏ nước mắt mà khóc. Vệ Ý công cùng với quan đại tướng là Cừ Khổng đem quân đi đánh giặc. Trong khi đi đường, quân sĩ đều oán Vệ Ý công, ta thán nhiều lắm, có làm một bài ca rằng: "Hạc được ăn lương, dân phải cày? Hạc được ngồi xe, dân phải vác giáo! Quân giặc gớm ghê, mười phần chết chín! Nay hạc đi đâu, để ta khổ sở!" Vệ Ý công thấy quân sĩ hát như vậy, có ý buồn rầu. Quan đại tướng là Cừ Khổng lại hay nghiêm khắc, bởi vậy quân sĩ càng đem lòng tức giận. Khi đi đến đất Huỳnh Trạch, trông thấy quân giặc nhốn nháo, không có thứ tự nào cả. Cừ Khổng nói: - Người ta cứ đồn rằng quân Bắc Địch mạnh lắm, thật là nói bậy. Nói Xong, liền truyền cho quân sĩ đánh trống tiến vào. Quân Bắc Địch giả cách thua chạy, dụ cho quân Vệ đuổi theo, rồi hai bên phục binh đổ ra mà đánh. Quân Vệ vốn không có lòng đánh giặc lại thấy thế quân giặc mạnh tợn, tức thì chạy cả. Vệ Ý công và Cừ Khổng bị quân Bắc Địch vây kín mấy vòng. Cừ Khổng nói với Vệ Ý công rằng: - Bây giờ nguy cấp lắm, xin bỏ cờ đại bái xuống, mà chúa công thì thay hình đổi dạng, mới có thể chạy thoát được. Vệ Ý công thở dài mà than rằng: - Quân nước Vệ có lòng cứu ta thì lấy cờ đại bái làm dấu tích nếu không thì bỏ cờ đại bái cũng vô ích! Thôi thì ta liều một chết để tạ lòng dân nước ta mà thôi! Được một lúc, quân Bắc Địch kéo đến, Vệ Ý công và Cừ Khổng, đều bị hại cả, quân Bắc Địch chém nát ra như tương. Quân Bắc Địch bắt được quan thái sử nước Vệ là Hoa Long Hoạt và Lễ Khổng, toan đem ra chém. Hoa Long Hoạt và Lễ Khổng đã biết phong tục người Bắc Địch hay tin ma quỉ, mới lập kế nói dối rằng: - Ta đây là chức thái sử, giữ việc cúng tế, nay ta xin vì các ngươi mà cáo trước với thần linh; nếu không thì thần linh không giúp cho, các ngươi không chiếm lấy nước được. Sưu Man tin là nói thực, mới tha cho hai người lên xe về thành. Ninh Tốc đang mặc đồ binh phục đi tuần ở trên mặt thành, trông thấy Hoa Long Hoạt và Lễ Khổng về giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Chúa công đâu? Hoa Long Hoạt và Lễ Khổng nói: - Quân ta tan vỡ cả rồi! Quân giặc cường thịnh lắm, nhà ngươi nên mau mau tìm đường tránh đi. Ninh Tốc mở cửa cho hai người vào. Lễ Khổng nói: - Ta với chúa công cùng ra, mà bây giờ không cùng vào với chúa công thì sao cho phải đạo; âu là ta theo chúa công ta xuống dưới suối vàng. Nói xong, tức thì rút gươm đâm cổ mà chết. Hoa Long Hoạt nói: - Ta giữ chức thái sử, không nên bỏ mất sử sách. Nói xong liền vào thành để thu nhặt những sử sách đem ra. Ninh Tốc và Thạch Kỳ đang đêm đưa cung quyến của Vệ Ý công và Công tử Thân chạy trốn. Hoa Long Hoạt ôm những sử sách đi theo. Người nước Vệ nghe tin hai quan đại phu là Ninh Tốc và Thạch Kỳ đã phải bỏ trốn, đều bồng con bế cháu đi theo, tiếng khóc như ri. Quân Bắc Địch thừa thắng kéo vào kinh thành nước Vệ, chém giết nhân dân nhiều lắm, lại cho một đạo quân đi đuổi theo Ninh Tốc và Thạch Kỳ. Ninh Tốc và Thạch Kỳ chạy đến sông Hoàng Hà, may nhờ có Tống Hoàn công đem quân đến đón, đã sắp sẵn thuyền bè để cho Ninh Tốc và Thạch Kỳ sang. Quân Bắc Địch mới không đuổi theo nữa, kéo vào kinh thành nước Vệ, bao nhiêu những vàng bạc thóc lụa, lấy hết sạch cả; lại phá hại cả thành quách, rồi thu quân về nước. Quan đại phu nước Vệ là Hoằng Diễn khi trước phụng mệnh Vệ Ý công sang sứ nước Trần, đến bây giờ trở về thì nước Vệ đã bị Bắc Địch tàn phá rồi. Hoằng Diễn nghe nói Vệ Ý công chết ở đất Huỳnh Trạch, mới chịu khó đi đến tận nơi để tìm xác. Trong khi đi đường, trông thấy máu mê xương thịt ngổn ngang đầy đống, cảnh tượng rất là sầu thảm; sau đi đến một chỗ, có lá cờ đại bái bỏ rơi đấy, Hoằng Diễn nói: - Cờ đại bái ở đây thì chắc là thi thể chúa công ta cũng quanh quẩn gần đây mà thôi. Đi được vài bước nữa, Hoằng Diễn nghe có tiếng người rên rỉ, mới tìm đến xem, trông thấy một nội thị gãy chân đang nằm đấy. Hoằng Diễn hỏi rằng: - Nhà ngươi có biết chúa công chết ở chỗ nào hay không? Nội thị trỏ vào một đống thịt mà bảo rằng: - Đó tức là thi thể chúa công ta đấy! Chính mắt tôi trông thấy chúa công bị quân giặc giết mà xả nhỏ ra, chỉ vì chân đau, vậy phải nằm chết ở đây, để chờ xem có người nước mình đến thì trỏ bảo cho biết. Hoằng Diễn trông thấy thi thể đã tan nát ra từng mảnh một, chỉ có một buồng gan hãy còn mà thôi. Hoằng Diễn khóc òa lên, rồi sụp lạy hai lạy ở trước buồng gan, coi như lúc Vệ Ý công hãy còn sống. Lạy xong, Hoằng Diễn nói: - Nay chúa công ta không có người thu táng, âu là đem cái thân ta để làm áo quan cho chúa công. Hoằng Diễn ngoảnh lại dặn người nhà rằng: - Khi ta đã chết rồi, nhà ngươi nên chôn ta ở trong rừng này, đợi bao giờ có vua mới thì nhà ngươi sẽ nói. Nói xong, liền cầm dao mổ bụng ra, lấy tay xách buồng gan của Vệ Ý công bỏ vào trong bụng, được một lúc thì chết. Người nhà theo như lời dặn, đem chôn ở trong rừng, rồi lấy xe đưa người nội thị bị thương ấy về và nghe ngóng tin vua mới. Ninh Tốc và Thạch Kỳ chiêu tập những di dân về đất Tào Ấp rồi lập Công tử Thân lên nối ngôi, tức là Vệ Đái công. Vệ Đái công nguyên trước đã có bệnh sẵn, lên nối ngôi được mấy hôm thì chết. Ninh Tốc lại sang nước Tề để đón Công tử Hủy về nối ngôi. Tề Hoàn công sai Công tử Vô Khuy đem quân đưa Công tử Hủy về nước, tức là Vệ Văn công. Người nhà Hoằng Diễn và người nội thị gãy chân cùng nhau đem chuyện Hoằng Diễn mổ bụng, bỏ gan Vệ Ý công vào, nói với Vệ Văn công. Vệ Văn công sai người đến đất Huỳnh Trạch để làm lễ an táng Vệ Ý công, rồi lại gia phong cho Hoằng Diễn và dùng con Hoằng Diễn ra làm quan. Vệ Văn công tính rất cần kiệm, vẫn đội mũ lụa xấu, mặc áo vải to, ăn cơm đỏ và canh rau, mà lại chịu khó thức khuya dậy sớm, sửa sang chính trị, khiến cho dân được yên ổn. Công Tử Vô Khuy cho 3000 quân đóng lại ở đất Tào Ấp để phòng giữ quân giặc, rồi trở về nước Tề. Công Tử Vô Khuy về đến nước Tề, vào yết kiến Tề Hoàn công, kể những công việc nước Vệ mới mở mang ở đất Tào Ấp và thuật lại chuyện Hoằng Diễn mổ bụng để đựng gan Vệ Ý công. Tề Hoàn công khen rằng: - Ông vua vô đạo mà có được người bề tôi trung như thế thì nước Vệ cũng chưa đến nỗi mất. Quản Di Ngô nói: - Nay ta bắt quân sĩ sang đóng đồn mà giữ hộ cho nước Vệ thì khó nhọc nhiều lắm, chi bằng đắp cho nước Vệ một cái thành, chỉ khó nhọc một lần, sẽ được yên ổn mãi mãi. Tề Hoàn công lấy làm phải, toan hội chư hầu để sang đắp thành hộ cho nước Vệ. Bỗng có sứ nước Hình đến cáo cấp nói quân Bắc Địch lại kéo đến đánh, xin cho quân cứu viện. Tề Hoàn công hỏi Quản Di Ngô rằng: - Ta có nên đi cứu nước Hình hay không? Quản Di Ngô nói: - Các nước chư hầu qui phục nước Tề ta, là vì nước Tề ta hay đi cứu những sự tai nạn của người; nay đã không cứu được nước Vệ rồi, lại không sang cứu nước Hình thì sao gọi là bá chủ được. Tề Hoàn công nói: - Thế thì bây giờ ta nên đi đắp thành cho nước Vệ trước hay là nên đi cứu nước Hình trước? Quản Di Ngô nói: - Ta hãy cứu xong nước Hình, rồi nhân thể mà về đắp thành cho nước Vệ, thế thì thật là một cái công to lắm. Tề Hoàn công khen phải, rồi truyền hịch cho các nước chư hầu đem quân đến hội ở đất Nhiếp Bắc để cùng đi cứu nước Hình. Quản Di Ngô lại nói với Tề Hoàn công rằng: - Quân Bắc Địch còn đang hăng hái, sức nước Hình cũng chưa suy kiệt. Nay ta chống nhau với quân giặc đang hăng hái thì khó nhọc nhiều lắm, vả lại giúp cho một nước chưa suy kiệt thì không lấy gì làm công to. Âu là ta hãy đợi thong thả: Nước Hình không chống nổi quân Bắc Địch thì nước Hình tất bị tàn phá; mà quân Bắc Địch đánh được nước Hình thì quân Bắc Địch tất phải mỏi mệt. Bấy Giờ ta đuổi quân giặc đã mỏi mệt, mà cứu cho một nước đã tàn phá, tất không khó nhọc mấy tí mà thành ra công to. Tề Hoàn công theo lời Quản Di Ngô, cứ đóng quân ở đất Nhiếp Bắc, giả cách nói còn đợi các nước chư hầu, rồi sai người đi dọ thám xem tin tức Bắc Địch đánh nước Hình ra làm sao. Quân Bắc Địch ra sức đánh nước Hình suốt ngày đêm trong hai tháng trời. Người nước Hình không thể chống giữ được, mới bỏ chạy tán loạn, kéo nhau đến dinh Tề Hoàn công để cầu cứu. Có một người khóc lăn ở dưới đất, tức là vua nước Hình, tên gọi Thúc Nhan. Tề Hoàn công vội vàng đỡ dậy, lấy lời ôn tồn mà úy dụ rằng: - Ta không kịp đến cứu, ấy là cái lỗi của ta đó! Nói xong, liền họp quân các nước để bàn cách đánh giặc. Vua Bắc Địch là Sưu Man cướp phá kho tàng nước Hình, lấy được của cải rất nhiều, cũng đã mãn nguyện, chẳng thiết gì đến sự tranh chiến nữa; lại nghe tin các nước kéo quân đến cứu, tức thì đốt cháy kinh thành nước Hình, rồi rút quân về. Các nước chư hầu kéo quân đến nơi thì quân Bắc Địch đã rút đi hết rồi. Tề Hoàn công truyền cho quân sĩ chữa tắt những nơi lửa cháy, lại hỏi Thúc Nhan rằng: - Thành cũ còn có thể ở tạm được nữa hay không? Thúc Nhan nói: - Dân bỏ đi mất quá nửa, đem nhau đến đất Di Nghi, bây giờ tôi xin theo ý dân mà dời đô sang ở đấy. Tề Hoàn công mới hội các nước chư hầu đắp thành ở đất Di Nghi để cho Thúc Nhan ở, và cấp cho trâu, ngựa, thóc, lụa, nhiều lắm. Vua tôi nước Hình mừng rỡ như là được về nước cũ. Tề Hoàn công lại đem quân các nước chư hầu sang đắp thành cho nước Vệ. Vệ Văn công ra nghênh tiếp. Tề Hoàn công trông thấy Vệ Văn công đội mũ lụa xấu, mặc áo vải to, có ý thương tình, mới bảo Vệ Văn công rằng: - Ta nhờ có quân các nước chư hầu, muốn đắp thành hộ quí quốc, chẳng hay quí quốc định đóng đô ở chỗ nào? Vệ Văn công nói: - Tôi đã chọn được đất Sở Khâu là một nơi cát địa nên đóng đô nhưng bây giờ đắp thành thì tổn phí lắm, một nước tàn phá này không thể nào lo nổi. Tề Hoàn công nói: - Việc đó để ta xin giúp. Nói xong, liền truyền cho quân các nước chư hầu đến đất Sở Khâu để đắp thành cho nước Vệ. Sở Thành Vương (Hùng Vận) từ khi dùng Tử Văn (Đấu Cấu Ô Đồ) làm lịnh doãn (Tể tướng nước Sở), vẫn sửa sang chính trị trong nước, muốn làm bá chủ cả các nước, nghe tin Tề Hoàn công cứu nước Hình, giúp nước Vệ khiến cho chư hầu ai cũng ca tụng công đức nước Tề, có ý không bằng lòng, mới bảo Tử Văn rằng: - Bây giờ các nước chư hầu đều một lòng qui phục nước Tề, mà không biết nước Sở ta là đâu cả, ta thật lấy làm xấu hổ lắm. Tử Văn nói: - Tề hầu sửa sang chính trị, đã gần 30 năm nay, các nước chư hầu ai cũng tin phục; vậy nước Tề ngày nay chưa có thể địch nổi, chỉ có nước Trịnh ở vào giữa khoảng phương Nam phương Bắc, làm cái phên che cho các nước trung quốc, nếu đại vương muốn mở mang bờ cõi thì tất phải đánh lấy nước Trịnh mới được. Sở Thành Vương nói: - Ai là người dám vì ta mà nhận cái việc đánh nước Trịnh ấy? Quan đại phu Đấu Chương xin đi đánh, Sở Thành Vương cho Đấu Chương đem quân thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Nước Trịnh từ khi bị quân nước Sở sang quấy nhiễu ở đất Thuần Môn, vẫn ngày đêm phòng bị quân nước Sở. Nay nghe có tin báo nước Sở kéo quân đến đánh. Trịnh Văn công sợ hãi, sai quan đại phu là Đam Bá đem quân ra giữ đất Thuần Môn, và sai sứ sang cáo cấp với Tề Hoàn công. Tề Hoàn công hội các nước chư hầu để sắp sửa sang cứu nước Trịnh. Đấu Chương biết nước Trịnh đã có phòng bị sẵn, lại nghe nói nước Tề sắp sửa đến cứu, sợ đánh không nổi, liền kéo quân trở về. Sở Thành Vương nghe tin Đấu Chương kéo quân trở về, tức thì nổi giận, cởi thanh bảo kiếm vẫn đeo ở trong mình đưa cho Đấu Liêm, sai Đấu Liêm đi chém đầu Đấu Chương. Đấu Liêm tức là anh Đấu Chương, khi đi đến dinh Đấu Chương, mới giấu cái lệnh của Sở Thành Vương, không nói cho quân sĩ biết vội, rồi mật cùng Đấu Chương thương nghị. Đấu Liêm bảo Đấu Chương rằng: - Bây Giờ muốn cho khỏi tội thì tất phải lập công mới được. Đấu Chương sụp lạy mà xin vâng lời. Đấu Liêm nói: - Nước Trịnh thấy nhà ngươi kéo quân về, tất cho là nhà ngươi không trở lại nữa; bây giờ nhà ngươi lập tức lại kéo quân sang thì tất là đánh được nước Trịnh. Đấu Chương chia quân ra làm hai đạo, tự đem một đạo quân đi trước, còn đấu Liêm đem một đạo quân theo sau để tiếp ứng. Đấu Chương truyền cho quân sĩ cuốn cờ im trống kéo thẳng đến địa giới nước Trịnh. Quan đại phu nước Trịnh là Đam Bá đang đi tuần ở ngoài bờ cõi, nghe có giặc đến, hoảng hốt chưa biết là quân nước nào, vội vàng cưỡi ngựa ra nghênh chiến, chẳng ngờ Đấu Liêm đem quân đi lẻn về phía sau, để đánh hậu quân của Đam Bá. Mặt trước có quân Đấu Chương đánh, mặt sau có quân Đấu Liêm đánh, Đam Bá không thể địch nổi, bị Đấu Chương bắt sống, còn quân Trịnh thì chết mất quá nửa. Đấu Chương toan thừa thắng tiến thẳng vào kinh thành nước Trịnh. Đấu Liêm nói: - Ta chỉ cốt lập công để chuộc tội chết, may đánh được thế này, cũng đã đủ rồi, không nên khinh thường mà tiến binh làm gì nữa. Nói xong, thu quân trở về nước Sở. Đấu Chương vào yết kiến Sở Thành Vương, sụp lạy xin lỗi, nói: - Khi trước tôi lui quân về, là có ý lập kế để đánh lừa giặc, không phải sợ giặc mà không dám đánh. Sở Thành Vương nói: - Nhà ngươi đã có cái công bắt được tướng nước Trịnh (Đam Bá) thì ta hãy tha tội cho, nhưng nước Trịnh chưa chịu đầu hàng mà sao nhà ngươi đã vội lui quân về? Đấu Chương nói: - Tôi sợ quân ít, không đánh nổi nước Trịnh, lại làm tổn mất uy danh của nước Sở ta, vậy nên phải rút về. Sở Thành Vương nổi giận, nói: - Bây giờ nhà ngươi đổ lỗi tại quân ít, rõ là nhà ngươi sợ giặc; nay ta cấp thêm quân cho, nhà ngươi phải đi ngay, nếu không đánh được nước Trịnh thì đừng trông thấy mặt ta nữa! Đấu Liêm nói: - Xin đại vương lại cho hai anh em tôi cùng đi, nếu nước Trịnh không chịu đầu hàng thì chúng tôi xin bắt vua nước Trịnh đem về nộp đại vương. Sở Thành Vương thấy Đấu Liêm nói năng hăng hái như vậy, mới khen mà cho đi. Sở Thành Vương cho Đấu Liêm làm đại tướng. Đấu Chương làm phó tướng, cùng đem quân kéo sang nước Trịnh. Trịnh Văn công nghe tin Đam Bá bị bắt, lại sai người sang cầu cứu nước Tề. Quản Di Ngô nói với Tề Hoàn công rằng: - Trong mấy năm nay, chúa công cứu nước Yên, giúp nước Lỗ, lại đắp thành cho nước Hình và nước Vệ, các nước chư hầu đều một lòng tin phục chúa công vậy thì ngày nay chính là lúc chúa công có thề dùng quân các nước chư hầu được. Bây giờ chúa công muốn cứu nước Trịnh thì không gì bằng đánh nước Sở, mà đánh nước Sở tất phải hội quân các nước chư hầu. Tề Hoàn công nói: - Ta hội quân các nước chư hầu thì nước Sở tất biết mà phòng bị trước, ta khó lòng để đánh được. Quản Di Ngô nói: - Nước Sái là một nước có lỗi với chúa công, chúa công muốn đánh đã lâu, mà nước Sở lại tiếp giáp với nước Sái; nay chúa công mượn tiếng đi đánh nước Sái, nhân tiện đem quân sang đánh nước Sở thì nước Sở không biết đâu mà phòng bị kịp. Nguyên trước Sái hầu gả con gái là Sái Cơ cho Tề Hoàn công làm đệ tam phu nhân. Một hôm, Tề Hoàn công cùng với Sái Cơ chèo một cái thuyền nhỏ ở dưới ao, để hái hoa sen làm vui. Sái Cơ đùa bỡn, lấy nước té vào Tề Hoàn công. Tề Hoàn công giơ tay gạt đi không cho té vào mình. Sái Cơ biết là Tề Hoàn công sợ nước, mới cố ý làm cho thuyền lay động, nước bắn vào ướt áo Tề Hoàn công. Tề Hoàn công nổi giận, mắng rằng: - Đứa tiện tỳ này, mày không biết đạo thờ vua! Nói xong liền sai Thụ Điêu đuổi Sái Cơ về nước Sái. Sái hầu cũng giận lắm, nói: - Em gái ta đã gả cho mà lại đuổi về, thế thì còn tình nghĩa gì nữa! Sau Sái hầu lại đem Sái Cơ gả cho Sở Thành Vương, Sở Thành Vương lập làm phu nhân. Tề Hoàn công vẫn căm tức Sái hầu, bởi vậy Quản Di Ngô mới bảo Tề Hoàn công đem quân sang đánh nước Sái. Tề Hoàn công nói: - Nước Giang và nước Hoàng cũng tiếp giáp nước Sở, nước Sở thường sang quấy nhiễu, không thể chịu được, bởi vậy hai nước ấy có sai sứ sang giảng hòa với ta; nay ta muốn cùng với hai nước ấy thề ước với nhau, để khi đánh Sở, cho hai nước ấy làm nội ứng, phỏng có nên không? Quản Di Ngô nói: - Nước Giang và nước Hoàng xa nước Tề ta mà gần với nước Sở, xưa nay vẫn thần phục nước Sở, mới còn giữ được đến bây giờ; nay lại phản nước Sở để theo ta thì nước Sở tất nổi giận mà đem quân sang đánh. Bây giờ ta muốn đến cứu thì ngại vì một nỗi đường sá xa xôi, mà bỏ không đến cứu thì trái mất cái nghĩa giao hiếu; vả lại chư hầu biết bao nhiêu nước, cần gì phải nhờ đến mấy nước nhỏ mọn ấy, chi bằng chúa công cứ lấy lời ôn tồn mà từ chối đi là hơn. Tề Hoàn công nói: - Các nước xa xôi, có lòng một nghĩa mà về với mình, nay mình lại từ chối thì chẳng hóa ra làm cho người ta ngã lòng mất sao! Quản Di Ngô nói: - Xin chúa công cứ ghi lời nói của tôi lên trên tường, ngày sau chớ quên sự nguy cấp của nước Giang và nước Hoàng. Tề Hoàn công mới cùng với nước Giang và nước Hoàng giảng hòa, lại cùng với hai nước mật ước việc đánh Sở. Vua nước Giang và nước Hoàng nói với Tề Hoàn công rằng: - Người nước Thư vẫn giúp nước Sở làm những việc tàn ác, chúa công nên đem quân đến đánh. Tề Hoàn công nói: - Ta phải đánh lấy nước Thư trước, để tiệt vây cánh nước Sở. Nói xong, liền viết một phong thư sai người đưa cho vua nước Từ. Nguyên Tề Hoàng công lấy con gái nước Từ làm đệ nhị phu nhân. Nước Từ xưa nay vẫn qui phục nước Tề, mà lại ở tiếp giáp với nước Thư, bởi vậy Tề Hoàn công đem việc đánh Thư giao cho vua nước Từ. Vua nước Từ theo lời Tề Hoàn công, đem quân đi đánh lấy nước Thư, khi đánh được nước Thư rồi. Tề Hoàn công bảo vua nước Từ đóng quân ở kinh thành nước Thư để phòng khi có sự nguy cấp. Lỗ Hi công sai Quí Hữu sang xin lỗi và nói với Tề Hoàn công rằng: - Nước tôi có việc hiềm khích với nước Châu và nước Cử, nên không theo quí quốc sang đắp thành ở nước Hình cùng nước Vệ được. Nay nghe tin quí quốc hội với nước Giang và nước Hoàng để sắp sửa có việc tranh chiến, vậy nước tôi xin đem quân theo sau. Tề Hoàn công mừng lắm, cũng đem việc đánh Sở mật ước với nước Lỗ. Bấy giờ nước Sở đem quân đến đánh nước Trịnh. Trịnh Văn công toan xin giảng hòa để cho dân khỏi khổ sở. Quan đại phu là Khổng Thúc can rằng: - Không nên! Nước Tề đang sắp sửa đánh nước Sở là vì ta đó, ta hãy nên cố giữ để đợi xem sao. Trịnh Văn công nghe lời, lại sai người sang cáo cấp với Tề Hoàn công. Tề Hoàn công toan lập kế cho nước Trịnh, giả cách nói quân Tề sang cứu, để khiến cho nước Sở không dám hiến binh, rồi đem một toán quân sang hội với các nước chư hầu để đánh Sở. Tề Hoàn công đại hội các nước chư hầu, mượn tiếng đi đánh nước Sái, để đem quân sang đánh Sở. Tề Hoàn công cho Quản Di Ngô làm đại tướng. Lại sai Thụ Điêu đem quân đến đánh nước Sái trước. Nước Sái vẫn cậy thế nước Sở, không phòng bị chút nào cả; khi quân Tề kéo đến nơi, mới vội vàng đem quân ra chống giữ. Thụ Điêu diễu quân ở dưới chân thành nước Sái. Sái hầu trông rõ là Thụ Điêu, năm trước vẫn hầu hạ Sái Cơ ở trong Tề cung, đến sau hắn lại đưa Sái Cơ về nước Sái. Sái hầu biết Thụ Điêu là kẻ tiểu nhân, đêm hôm ấy sai người đem một xe vàng lụa đến lễ Thụ Điêu, để nhờ Thụ Điêu hãy hoãn binh cho. Thụ Điêu nhận lễ, rồi lại đem việc bí mật của Tề Hoàn công đại hội chư hầu, trước đánh Sái, sau đánh Sở, nói hết cả cho nước Sái biết, lại bảo với sứ giả nước Sái rằng: - Chẳng bao lâu nữa thì các nước chư hầu đem quân đến phá hủy kinh thành nước Sái, âu là người nước Sái nên liệu mà trốn trước đi. Sứ giả nước Sái về nói với Sái hầu. Sái hầu sợ hãi, đêm hôm ấy đem cung quyến mở cửa thành trốn sang nước Sở. Dân nước Sái thấy Sái hầu đi trốn, tức khắc vỡ chạy cả; Thụ Điêu tự nhận là công minh, sai người về phi báo với Tề Hoàn công. Sái hầu sang đến nước Sở, vào yết kiến Sở Thành Vương thuật lại những lời nói của Thụ Điêu. Sở Thành Vương biết rõ mưu kế của Tề Hoàn công, tức khắc truyền cho quân sĩ phải phòng giữ các nơi; rồi một mặt sai người đi triệu quân Đầu Chương ở nước Trịnh về. Mấy hôm sau, đại binh của Tề Hoàn công đến nước Sái. Thụ Điêu đem quân ra nghênh tiếp. Bảy nước chư hầu cùng kéo quân đến, nghi vệ rất là nghiêm chỉnh. Bảy nước ấy là: 1. - Tống Hoàn công (Ngự Thuyết), 2. - Lỗ Hi công (Thân), 3. - Trần Tuyên công (Chử Cữu), 4. - Vệ Văn công (Hủy), 5. - Trịnh Văn công (Thiệp), 6. - Tào Chiêu công (Ban), 7. - Hứa Mục công (Tân Thần). Kể cả bá chủ là Tề Hoàn công (Tiểu Bạch), cộng thành 8 nước. Bấy giờ Hứa Mục công đang ốm, cũng miễn cưỡng đem quân đến hội ở nước Sái, Tề Hoàn công khen cái công khó nhọc ấy, thăng tước cho ở trên Tào Chiêu công. Đêm hôm ấy Hứa Mục công mất. Tề Hoàn công đóng quân ở nước Sái ba ngày để đưa ma Hứa Mục công. Khi an táng Hứa Mục công rồi, Tề Hoàn công lại cử đại binh thẳng đường kéo sang nước Sở. Đi đến bờ cõi nước Sở, thấy có một người mũ áo chỉnh tề, đứng ở bên đường, khúm núm cúi chào mà nói rằng: - Ngài có phải là Tề hầu đó không? Tôi là sứ thần nước Sở, chờ ngài đã lâu lắm! Nguyên người ấy tên Khuất Hoàn, là một người quí tộc ở nước Sở, làm quan đại phu. Bấy giờ phụng mệnh Sở Thành Vương ra thương thuyết với quân nước Tề. Tề Hoàn công hỏi Quản Di Ngô rằng: - Sao người nước Sở lại biết trước là ta đem quân tới đây? Quản Di Ngô nói: - Tất là có người nào đem mưu kế của ta tiết lộ cho người nước Sở biết. Nhưng nay hắn đã sai sứ đến đây, là có ý muốn thương thuyết việc gì đó, để tôi xin đem đại nghĩa mà bẻ hắn, khiến cho hắn xấu hổ thì có lẽ không cần phải dùng đến sự tranh chiến mà tự khắc hắn phải phục. Nói xong, Quản Di Ngô ra tiếp kiến Khuất Hoàn. Hai người chắp tay vái chào nhau. Khuất Hoàn nói: - Chúa công tôi nghe tin quí quốc đem quân tới đây, vậy có sai tôi ra để nói với quí quốc rằng: Tề và Sở, nước nào làm vua ở nước ấy; nước Tề ở Bắc Hải, nước Sở ở Nam Hải, xa cách nhau biết là dường nào! Chẳng hay vì cớ gì mà quí quốc đem quân xâm phạm vào đất tôi, xin quí quốc ngỏ lời cho biết. Quản Di Ngô nói: - Ngày xưa vua Thành Vương nhà Chu phong cho tiên quân ta là Thái Công ở nước Tề, có dặn một câu rằng: "Các nước chư hầu, nước nào không theo mệnh thiên tử nhà Chu, thì tiên quân ta được quyền đem quân đi đánh dẹp". Từ khi nhà Chu dời sang Đông Đô, các nước chư hầu tiếm quyền, chúa công ta lại phụng mệnh làm bá chủ. Nước Sở nhà ngươi chỉ theo lệ mỗi năm phải cống cho thiên tử nhà Chu có một bó cỏ bao mao để dùng vào việc cúng tế, thế mà nước nhà ngươi dám bỏ liều không cống, bởi vậy ta phải đến đây để đòi. Vả lại vua Chiêu Vương nhà Chu ngày trước đi sang địa giới nước Sở mà không thấy trở về, ấy cũng là một cái lỗi của nước Sở đó; nước Sở nhà ngươi còn nói gì nữa! Khuất Hoàn nói: - Từ khi nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu đều bỏ lễ triều cống, chẳng những là một nước Sở tôi. Nhưng việc cống cỏ bao mao ấy chúa công tôi xin chịu lỗi; còn việc vua Chiêu Vương không trở về là vì cớ đắm thuyền, xin quí quốc cứ hỏi ở ngoài bờ sông, chúa công tôi không biết chi cả. Khuất Hoàn này xin về nói lại với chúa công tôi. Nói Xong, Khuất Hoàn liền quay xe trở về. Quản Di Ngô bảo Tề Hoàn công rằng: - Người nước Sở còn hăng hái lắm, chưa có thể lấy lời nói mà bảo được, âu là ta phải tiến quân lên để dọa hắn mới được. Nói xong, truyền cho các nước đều tiến quân đến đóng ở đất Kinh Địa. Sở Thành Vương cho Tử Văn làm đại tướng đem quân ra đóng ở đất Hán Nam, để chống giữ với quân các nước. Tử Văn nói với Sở Thành Vương rằng: - Quản Di Ngô là một người giỏi binh pháp, nay đem quân các nước chư hầu đến đây tất là đã có mưu kế vạn toàn rồi, ta nên sai sứ đi một lần nữa để dò xem tình ý mạnh yếu thế nào, bấy giờ hoặc đánh hoặc hòa, ta sẽ tùy liệu. Sở Thành Vương nói: - Bây giờ biết sai ai cho được? Tử Văn nói: - Khuất Hoàn đã biết mặt Quản Di Ngô thì nên lại sai hắn đi. Khuất Hoàn nói: - Lần trước tôi đã nhận cái lỗi không cống cỏ bao mao. Nay đại vương sai người nào hơn tôi đi mới được. Sở Thành Vương nói: - Hoặc đánh hoặc hòa, ta giao quyền cho nhà ngươi được tùy ý. Khuất Hoàn phụng mệnh sang thương thuyết với quân nước Tề.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  5. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 24 Tề Hoàn tiếp đãi Sở đại phu Chư hầu tôn phục Chu thiên tử

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khuất Hoàn phụng mệnh Sở Thành Vương, lại đến chỗ quân Tề đóng, xin vào yết kiến Tề Hoàn công. Quản Di Ngô nói với Tề Hoàn công rằng: - Nước Sở lại cho sứ đến, tất là xin giảng hòa, chúa công nên tiếp đãi cho tử tế. Khuất Hoàn vào yết kiến Tề Hoàn công, sụp lạy hai lạy. Tề Hoàn công đáp lễ lại rất tử tế, rồi hỏi xem ý muốn thế nào? Khuất Hoàn nói: - Chúa công tôi vì cớ không cống cỏ bao mao, để quí quốc phải đem quân tới đây, chúa công tôi biết tội lắm rồi; nếu quí quốc chịu rút quân ra ngoài 30 dặm thì chúa công tôi xin vâng mệnh. Tề Hoàn công nói: - Nếu nhà ngươi biết giúp vua nước Sở để giữ lấy bổn phận, khiến cho ta có thể tâu lại với thiên tử được thì ta còn đòi gì nữa mà chẳng rút quân. Khuất Hoàn về nói với Sở Thành Vương rằng: - Tôi nói với Tề hầu, Tề hầu đã chịu rút quân rồi. Tôi lại có hẹn với Tề hầu xin đem cống cỏ bao mao, vậy đại vương chớ có thất tín. Sở Thành Vương lại sai đi do Thám xem các nước chư hầu đã rút quân về chưa. Quân sĩ về báo rằng: - Quân các nước đã rút ra ngoài 30 dặm, đóng tại đất Thiệu Lăng. Sở Thành Vương nói: - Tề hầu đã chịu rút quân, thế là có ý sợ ta! Nói xong, lại toan bỏ không cống cỏ bao mao nữa. Tử Văn nói: - Vua các nước chư hầu còn không nỡ thất tín với một kẻ thất phu (Khuất Hoàn), huống chi bây giờ đại vương lại muốn khiến cho kẻ thất phu thất tín với vua các nước hay sao! Sở Thành Vương nín lặng, không nói gì cả, rồi sai Khuất Hoàn đem mấy xe vàng lụa đến đất Thiệu Lăng để ban thưởng cho quân các nước chư hầu. Lại sai sửa soạn sẵn một xa cỏ bao mao, đem đến trình với Tề Hoàn công để rồi sai sứ vào cống Thiên tử. Lại nói chuyện Hứa Mục công mất, con Hứa Mục công là Nghiệp lên nối ngôi, tức là Hứa Hi công. Hứa Hi công cảm cái ơn Tề Hoàn công trông nom khi Hứa Mục công mất tại nước Sái, mới sai quan đại phu là bách Đà đem quân đến hội ở đất Thiệu Lăng. Khuất Hoàn vào yết kiến Tề Hoàn công, dâng các thứ vàng lụa để ban thưởng cho quân sĩ. Tề Hoàn công sai người phân phát cho quân các nước chư hầu. Khuất Hoàn lại đệ trình cỏ bao mao. Tề Hoàn công xem xong, lại giao trả Khuất Hoàn để sai sứ đem vào cống Thiên tử. Tề Hoàn công bảo Khuất Hoàn rằng: - Nhà ngươi đã được xem binh lực của trung quốc ta bao giờ chưa? Khuất Hoàn nói: - Tôi ở hẻo lánh về cõi phía Nam này, chưa được xem binh lực của trung quốc bao giờ. Nay xin quí quốc cho chúng tôi được xem một lượt. Tề Hoàn công liền đưa Khuất Hoàn đi xem tất cả các trại quân của các nước chư hầu. Bấy giờ quân các nước đóng liền nhau kể hàng mấy mươi dặm. Trong dinh quân Tề nổi hiệu trống lên thì quân bảy nước chư hầu đều theo mà đánh trống, khác nào như sấm sét vang trời. Tề Hoàn công nét mặt tươi cười, có ý tự đắc mà bảo Khuất Hoàn rằng: - Binh lực của trung quốc ta như thế này, phỏng đánh đâu mà không được. Khuất Hoàn nói: - Hiền hầu làm bá chủ ở trong trung quốc là vì biết tôn kính Thiên tử nhà Chu, mà chỉnh đốn việc chính trị, khiến cho nhân dân được yên ổn. Bởi vậy Hiền hầu đem lòng nhân đức mà xử với các nước thì nước nào là không phải phục; nếu chỉ cậy về binh lực mà thôi, thì nước Sở tôi dẫu nhỏ mọn thật, nhưng có thành Phương Thành, có sông Hán Thủy, thành cao hào sâu ấy dẫu trăm vạn quân đến, cũng chưa chắc đã làm gì nổi. Tề Hoàn công nghe nói, có ý thẹn thùng mà bảo Khuất Hoàn rằng: - Nhà ngươi thật là một người hiền ở nước Sở! Nay ta xin cùng với vua nước Sở giữ lấy chức phận của tiên quân ta ngày xưa nhà ngươi nghĩ thế nào? Khuất Hoàn nói: - Hiền hầu có lòng nghĩ đến nước tôi mà cho chúa công tôi được giảng hòa, thì chúa công tôi cũng xin vâng mệnh. Tề Hoàn công truyền mở tiệc thết đãi Khuất Hoàn. Ngày hôm sau, Tề Hoàn công lập đàn ở đất Thiệu Lăng để cùng với nước Sở ăn thề. Tề Hoàn công làm chủ tọa. Quản Di Ngô làm thư ký. Khuất Hoàn thay mặt vua nước Sở. Hai bên cùng lập điều ước giảng hòa với nhau. Quản Di Ngô nói riêng với Khuất Hoàn, xin tha cho Đam Bá về nước Trịnh, Khuất Hoàn cũng thay lời Sái hầu xin lỗi với Tề Hoàn công. Quản Di Ngô truyền thu quân về nước Tề. Trong khi đi đường, Bão Thúc Nha hỏi Quản Di Ngô rằng: - Nước Sở tiếm hiệu xưng vương, đó là một tội lớn, sao trọng phụ không nói đến lại chỉ nói về việc không cống cỏ bao mao, tôi không hiểu ý ra làm sao cả! Quản Di Ngô nói: - Nước Sở tiếm hiệu xưng vương đã ba đời nay rồi bởi vậy ta vẫn khinh bỉ coi như một loài rợ mọi; nếu ta bắt nước Sở lại cúi đầu mà nghe ta. Khi nước Sở không nghe thì tất ta phải đánh; đã sinh sự đánh nhau thì hai bên cùng thiệt hại, ít ra cũng rối loạn trong vài ba năm trời. Nay ta trách về việc không cống cỏ bao mao, khiến cho hắn có thể theo lời được; Sở đã chịu phục thì cái tiếng tăm ấy ta cũng đủ mà khoe khoang với các nước chư hầu và tâu lại với Thiên tử, chẳng hơn là gây việc chiến tranh lôi thôi, chưa biết bao giờ cho xong được. Bão Thúc Nha nghe lời, chịu lấy làm phải. Quan đại phu nước Trần là Đào Đô nghe tin Tề Hoàn công rút quân về nước, liền bàn với quan đại phu nước Trịnh là Thân hầu rằng: - Nếu để cho quân Tề đi qua địa giới nước Trần và nước Trịnh ta thì phải cung đốn những đồ lương thực khi dụng, tốn kém nhiều lắm, âu là ta nói với Tề hầu đi về phía Đông khiến cho nước Từ và nước Cử phải chịu sự cung đốn khó nhọc ấy, thì hai nước ta mới có thể ngồi yên được. Thân hầu khen phải, rồi bảo Đào Đồ nói với Tề Hoàn công. Đào Đồ vào nói với Tề Hoàn công rằng: - Hiền hầu đánh Sơn Nhung ở phía Bắc, đánh nước Sở ở phía Nam, nếu bây giờ lại diễu quân về qua phía Đông, khiến cho các nước ở phía Đông đều phải sợ uy nước Tề, như thế thì ai còn dám không phục. Tề Hoàn công nói: - Nhà ngươi nói phải đó! Được một lúc, Thân hầu xin vào yết kiến. Tề Hoàn công cho vào. Thân hầu vào nói với Tề Hoàn công rằng: - Tôi nghe nói phép đem quân đi, không nên qua thời nọ đến thời kia, là vì sợ nhân dân phải khó nhọc nay Hiền hầu đem quân đi đánh, từ mùa xuân sang mùa hạ, dầm mưu dãi gió, gối tuyết nằm sương, quân sĩ đều mỏi mệt cả. Bây giờ Hiền hầu rút quân về, đi qua đại giới nước Trần và nước Trịnh thì lương thực khí dụng lấy đâu cũng dễ; nhược bằng đi về phía Đông, ngộ có nước rợ mọi nào dám đón đường ngăn trở, thì lại phải sinh sự đánh nhau, biết làm thế nào? Vả Đào Đồ chỉ biết tư lợi về nước mình không phải là thực bụng, xin Hiền hầu nên xét cho kỹ. Tề Hoàn công nói: - Nếu không có nhà ngươi nói thì thật là lỡ cả việc của ta. Nói xong, liền sai người đi bắt Đào Đồ để trị tội. Lại bảo với Trịnh Văn công phải đem đất Hổ Lao thưởng công cho Thân hầu. Trịnh Văn công dẫu phải vâng mệnh, nhưng có ý không bằng lòng. Trần Tuyên công sai người đem đồ lễ đến xin lỗi hai ba lần, Tề Hoàn công mới tha tội cho Đào Đồ. Các nước chư hầu đều rút quân, nước nào về nước ấy. Tề Hoàn công thấy Quản Di Ngô có nhiều công trạng to, mới đem đất Biền Ấp hơn 300 nóc nhà của quan đại phu là Bá Thị Phong thêm cho Quản Di Ngô. Sở Thành Vương thấy các nước chư hầu đều rút quân về, lại toan thôi cống cỏ bao mao nữa. Khuất Hoàn nói: - Ta không nên thất tin với nước Tề. Vả lại chỉ vì nước Sở ta không vào cống hiến nhà Chu, khiến cho nước Tề được tiếng là biết tôn kính Thiên tử. Nay nhân có chuyện này mà ta sai sứ vào cống hiến nhà Chu thì ta cũng chẳng kém gì nước Tề cả. Sở Thành Vương nói: - Chỉ ngại về một điều ta đã xưng vương thì làm thế nào cho tiện? Khuất Hoàn nói: - Trong tờ biểu dâng vua nhà Chu, ta không nên nói trước, chỉ nên tự xưng là viễn thần mỗ mà thôi. Sở Thành Vương nghe lời, liền sai Khuất Hoàn đi sứ, đem 10 xe cỏ bao mao và các thứ vàng lụa vào dâng vua Huệ Vương nhà Chu. Chu Huệ Vương mừng lắm, nói: - Nước Sở bỏ bổn phận, không cống hiến đã lâu ngày, bây giờ lại biết qui thuận như thế, chẳng qua cũng là nhờ cái uy linh của tiên vương ta đó! Nói xong, liền sai làm lễ vào yết cáo ở nhà Thái miếu, rồi đem phần tế ban cho nước Sở, lại bảo Khuất Hoàn rằng: - Từ nay trở đi, nước Sở nhà ngươi chớ có xâm phạm các nước ở trung quốc. Khuất Hoàn sụp lạy hai lạy, rồi cáo từ lui ra. Khuất Hoàn vừa ra xong, thì Tề Hoàn công cho Thấp Bằng đến tâu về việc nước Sở đã chịu qui phục. Chu Huệ Vương tiếp đãi Thấp Bằng một cách rất trọng thể. Thấp Bằng tâu với vua Huệ Vương xin vào yết kiến ngôi thái tử. Chu Huệ Vương nghe nói, có ý không được vui, liền sai người con thứ là Vương tử Đái cùng với thái tử Trịnh cùng ra tiếp kiến. Thấp Bằng trông thấy nét mặt vua Huệ Vương nhà Chu có ý hoảng hốt không nhất định, khi về nước Tề, nói với Tề Hoàn công rằng: - Nhà Chu sắp loạn! Tề Hoàn công sắp loạn! Tề Hoàn công hỏi: - Tại làm sao? Thấp Bằng nói: - Người con trưởng vua nhà Chu tên là Trịnh, là con bà Khương Hậu, đã lập làm thái tử. Nay bà Khương Hậu mất, bà thứ hậu là Trần Vi được vua yêu, sinh người con tên là Đái. Vương tử Đái khéo ô mị, bởi vậy vua nhà Chu yêu lắm, muốn bỏ thái tử Trịnh mà lập Vương tử Đái làm thái tử. Khi vua nhà Chu cho Vương tử Đái và thái tử Trịnh ra tiếp kiến tôi, thì nét mặt có ý hoảng hốt, tất là trong lòng nghĩ về việc ấy. Tôi e rằng chẳng bao lâu sẽ có loạn to, chúa công làm bá chủ, cũng nên nghĩ đến. Tề Hoàn công sai triệu Quản Di Ngô vào để thương nghị, Quản Di Ngô nói: - Tôi có một kế có thể giữ yên được nhà Chu. Tề Hoàn công hỏi: - Trọng phụ có kế gì? Quản Di Ngô nói: - Ngôi thái tử không được vững vàng như vậy là vì không có vây cánh; nay viết một đạo biểu dâng vua nhà Chu, nói: Các nước chư hầu muốn yết kiến ngôi thái tử, xin nhà vua cho thái tử ra hội với các nước chư hầu. Nếu thái tử đã đi hội với các nước chư hầu thì cái phận vua tôi đã nhất định rồi, dẫu vua nhà Chu muốn thay đổi, cũng khó lòng mà thi hành được. Tề Hoàn công khen phải, liền truyền hịch cho các nước chư hầu, hẹn đến sang năm thì đại hội ở đất Thủ Chỉ (đất nước Vệ) ; rồi lại sai Thấp Bằng sang nói với vua Huệ Vương nhà Chu rằng các nước chư hầu muốn yết kiến ngôi thái tử để tỏ tấm lòng tôn kính. Chu Huệ Vương vốn không muốn cho thái tử đi hội với các nước chư hầu, nhưng sợ thế lực nước Tề, vả lại nước Tề nói cũng có lẽ phải, không từ chối thế nào được, mới phải nhận lời cho thái tử đi hội với các nước chư hầu. Thấp bằng về báo với Tề Hoàn công. Đầu năm sau, Tề Hoàn công sai Trần Kính Trọng sang đất Thủ Chỉ làm sẵn một cái nhà hành cung để đợi thái tử đến ở. Khi thái tử Trịnh đến, Tề Hoàn công đem các nước chư hầu vào lạy mừng. Thái tử Trịnh hai ba lần từ chối, không dám nhận lễ. Tề Hoàn công nói: - Chúng tôi là chư hầu, nay yết kiến thái tử cũng như là yết kiến Thiên tử, xin thái tử cứ cho như vậy. Thái tử Trịnh cảm tạ. Đêm hôm ấy, thái tử Trịnh sai người mời Tề Hoàn công đến nhà hành cung, đem việc Vương tử Đái muốn cướp ngôi nói chuyện với Tề Hoàn công. Tề Hoàn công nói: - Chúng tôi xin cùng với các nước chư hầu kết lập điều ước để cùng giúp thái tử, xin thái tử chớ lo ngại. Thái tử Trịnh sợ ở lâu thì phiền phức các nước chư hầu, toan cáo từ về nhà Chu. Tề Hoàn công nói: - Chúng tôi muốn lưu thái tử ở lại ít lâu, là có ý để cho Thiên tử biết cái lòng chúng tôi mến phục thái tử lắm, dẫu có mưu gì cũng phải thôi đi. Bây giờ đang mùa hạ nóng bức, đợi sang đến mùa thu mát trời, bấy giờ chúng tôi sẽ đưa thái tử về triều. Chu Huệ Vương thấy thái tử Trịnh mãi không trở về, biết là Tề Hoàn công có ý mến phục, trong lòng không được vui. Vả lại Trần Vỉ và Vương tử Đái ngày đêm ở bên cạnh, đem lời xúi giục, Chu Huệ Vương nhân thấy quan thái tể là Chu Khổng vào yết kiến, liền bảo Chu Khổng rằng: - Tề hầu mới rồi dẫn đánh được nước Sở, nhưng kỳ thực binh lực không hơn gì nước Sở. Vả người nước Sở đã biết thần phục nhà Chu ta, không hỗn láo như trước nữa, vậy thì nước Sở cũng chẳng kém gì nước Tề. Nay không biết Tề hầu có ý gì mà lại hội các nước chư hầu để rủ nhau qui phục thái tử, như thế thì định để trẫm vào ngôi bậc nào! Trẫm muốn nhờ nhà ngươi đưa một tờ mật thư cho Trịnh hầu, bảo Trịnh hầu bỏ Tề theo Sở, rồi đem tình ý của trẫm mà nói với vua Sở. Chu Khổng nói: - Nước Sở mà biết thần phục nhà Chu ta, cũng là công của Tề hầu, cớ sao nhà vua lại bỏ một nước họ hàng thân thiết xưa nay mà dùng một nước rợ mọi mới theo ta bây giờ! Chu Huệ Vương nói: - Trịnh Hầu không chịu bỏ nước Tề mà các nước chư hầu cũng cứ một lòng tin phục nước Tề mãi thì biết đâu rằng Tề hầu không có chi khác. Thôi thì ý trẫm cũng nhất quyết, nhà ngươi chớ nên từ chối. Chu Khổng không dám nói gì nữa. Chu Huệ Vương liền làm một tờ mật thư, niêm phong đóng hộp rất kỹ lưỡng, rồi giao Chu Khổng. Chu Khổng không hiểu trong thư nói những điều gì, cứ việc sai người mật đưa sang cho Trịnh Văn công. Trịnh Văn công mở thư ra đọc, trong thư nói: "Thái tử Trịnh không theo mệnh cha, mà rủ nhau lập bè đảng thì không thể cho nối ngôi được. Trẫm muốn lập thứ tử Đái làm thái tử, nếu hiền hầu bỏ nước Tề theo nước Sở để cùng giúp thái tử Đái thì trẫm xin giao hết quyền chính cho". Trịnh Văn công mừng lắm, bảo các quan đại phu rằng: - Tiên quân ta ngày xưa là Vũ công, Trang công nối đời làm chức khanh sĩ nhà Chu, đến đời Lệ công cũng có cái công khó nhọc giúp vua nhà Chu mà chưa được giữ quyền chính. Nay vua nhà Chu lại định giao quyền chính cho ta, thế thì các quan đại phu cũng nên mừng cho ta đó. Quan đại phu là Đỗ Thúc can rằng: - Nước Tề khi trước vì nước ta mà phải đem quân đi đánh Sở, bây giờ ta lại bỏ nước Tề theo nước Sở thì thành ra một kẻ bội ơn. Vả việc phù tá thái tử là một việc đại nghĩa, chúa công không nên làm trái ý thiên hạ. Trịnh Văn công nói: - Theo ý Tề hầu, sao bằng theo ý Thiên tử nhà Chu. Vả ý thiên tử nhà Chu không bằng lòng với thái tử, chứ ta có tiếc gì! Đỗ Thúc nói: - Ngôi thái tử nhà Chu, bao giờ cũng phải lập con trưởng, nếu theo ý riêng mà lập con thứ thì không ra thế nào! Này xem như vua U Vương yêu Vương tử Bá Phục, vua Hoàn Vương yêu Vương tử Khắc, vua Trang Vương yêu Vương tử Đồi đều đến nỗi phải tai vạ về sau. Nay chúa công không giữ lấy đại nghĩa mà lại muốn bắt chước như năm quan đại phu nhà Chu ngày xưa giúp Vương tử Đồi hay sao? Tôi e rằng thế nào sau chúa công cũng phải hối hận. Quan đại phu là Thân hầu nói: - Đó là mệnh Thiên tử, ai dám trái ý, nếu theo nước Tề mà hội nhau để giúp thái tử, thì thành ra bỏ mệnh Thiên tử hay sao! May một nước ta mà bỏ về cả. Vả thái tử Trịnh có bè đảng ở ngoài thì Vương tử Đái cũng có bè đảng ở trong, nào đã biết bên nào được, bên nào thua, chi bằng ta hãy bỏ về để xem sự thể ra sao. Trịnh Văn công theo lời của Thân hầu, giả cách nói trong nước có việc cần, không cáo từ mà đi ngay. Tề Hoàn công nghe tin Trịnh Văn công trốn về, tức thì nổi giận, toan đem quân sang đánh Trịnh. Quản Di Ngô nói: - Nước Trịnh cùng với nhà Chu tiếp giáp nhau, đó tất là có người nhà Chu xúi giục nước Trịnh. Dẫu một nước Trịnh bỏ về, cũng chẳng cần gì, xin chúa công cứ hội thề với các nước chư hầu, chờ khi hội thề xong bấy giờ ta sẽ liệu cho nước Trịnh. Tề Hoàn công khen phải, rồi truyền lập đàn ở đất Thủ Chỉ, để cùng với các nước chư hầu hội thề xin đồng tâm cùng giúp ngôi thái tử. Lời thề như sau: "Phàm các nước đồng minh ta, cùng nhau giúp ngôi thái tử, để giữ yên cơ nghiệp nhà Chu; nếu ai trái lời ước ấy thì quỉ thần chu diệt". Ngày hôm sau, thái tử trở về nhà Chu, Tề Hoàn công đem các nước chư hầu đi tiễn ra hết địa giới nước Vệ. Trịnh Văn công nghe tin các nước chư hầu hội thề với Tề Hoàn công, lại sắp sửa đem binh sang đánh Trịnh, mới không dám bỏ Tề mà theo Sở nữa. Sở Thành Vương nghe tin Trịnh Văn công bỏ về không dự hội với các nước chư hầu, mừng lắm nói rằng: - Phen này chắc hẳn ta thu phục được nước Trịnh. Nói xong, liền sai sứ sang thông tin cho Thân hầu biết rằng nước Sở muốn cùng với nước Trịnh giao hiếu. Nguyên Thân hầu khi trước đã làm quan nước Sở, vốn là người có tài nói khéo, tính tham mà rất ô mị. Sở Văn Vương vẫn có lòng tin yêu, đến khi Sở Văn Vương gần chết, sợ rằng người sau không có lòng dung hắn, mới tặng cho hắn một viên bạch bích, để hắn trốn sang nước khác mà tránh họa. Thân hầu trốn sang Trịnh, theo Trịnh Lệ công ở đất Lịch. Trịnh Lệ công lại tin yêu Thân hầu như Sở Văn Vương khi trước; đến lúc Trịnh Lệ công về phục quốc, liền cho Thân hầu làm quan đại phu. Các quan ở nước Sở bây giờ đều là quen thuộc với Thân hầu trước cả, bởi vậy, Sở Thành Vương mới thông tin cho Thân hầu, để Thân hầu xúi giục Trịnh Văn công bỏ nước Tề mà theo nước Sở, Thân hầu mật nói với Trịnh Văn công rằng: - Cứ như sự thế ngày nay, trừ phi nước Sở thì không còn nước nào địch nổi với nước Tề, huống chi ta giao hiếu với nước Sở, cũng là phụng mệnh Thiên tử. Nếu không như thế thì nước Tề và nước Sở bây giờ cùng thù nhau với nước Trịnh ta cả, nước Trịnh ta làm thế nào mà giữ nổi. Trịnh Văn công nghe lời, liền mật sai Thân hầu sang kết giao với nước Sở. Tề Hoàn công đem quân các nước chư hầu đến vây thành Tân Mật của nước Trịnh. Bấy giờ Thân hầu còn đang ở nước Sở nói với Sở Thành Vương rằng: - Nước Trịnh tôi sở dĩ xin kết giao với quí quốc là nghĩ rằng chỉ có quí quốc mới địch nổi nước Tề, nếu nay đại vương không cứu nước Trịnh thì tôi về chuyến này không biết nói thế nào cho được. Sở Thành Vương họp các quan lại để thương nghị. Quan lịnh doãn là Tử Văn nói: - Hữu Mục công vì việc họp quân ở đất Thiệu Lăng khi trước mà chết, nước Tề vẫn lấy làm thương xót. Nước Hứa lại một lòng thần phục nước Tề. Bây giờ đại vương đem quân đánh nước Hứa thì tất cả các nước chư hầu phải sang cứu, tự khắc giải vây được cho nước Trịnh. Sở Thành Vương theo lời, liền đem quân đi vây nước Hứa. Các nước chư hầu nghe tin nước Hứa bị vây, quả nhiên bỏ nước Trịnh mà sang cứu nước Hứa. Nước Sở lại rút quân về. Khi Thân hầu về đến nước Trịnh, có ý kiêu ngạo tự đắc là mình có cái công bảo toàn được cho nước Trịnh, thế nào Trịnh Văn công cũng phải gia phong. Trịnh Văn công thấy Thân hầu khi trước vừa mới được phong ở đất Hổ Lao, lấy làm quá hậu lắm rồi, mới không gia phong cho nữa. Thân hầu miệng không nói ra, nhưng trong lòng vẫn có ý oán vọng. Sang năm sau, Tề Hoàn công lại đem quân đánh nước Trịnh. Quan đại phu nước Trần là Đào Đồ từ khi theo Tề Hoàn công đi đánh Sở về, cùng với Thân hầu có sự hiềm khích, mới viết thư cho quan đại phu nước Trịnh là Đỗ Thúc rằng: "Thân hầu khi trước đã đem việc nước ô mị nước Tề, được thưởng đất Hổ Lao; ngày nay lại đem việc nước ô mị nước Sở, khiến cho Trịnh hầu mang tiếng là người phụ ân bội nghĩa, mà lại gây ra việc binh đao làm khổ sở nhân dân. Bây giờ giết Thân hầu đi thì không đánh mà tự khắc nước Tề phải rút quân về". Đỗ Thúc đem bức thư ấy đệ trình Trịnh Văn công. Trịnh Văn công vì cớ ngày trước không nghe lời Đỗ Thúc, trốn về không dự hội, để đến nỗi quân Tề hai lần đến đánh nước Trịnh, trong lòng lấy làm hổ thẹn, cũng đổ lỗi cho Thân hầu, mới gọi Thân hầu vào mà trách rằng: - Nhà ngươi nói chỉ có nước Sở mới địch nổi nước Tề nay quân Tề kéo đến, nào ta có thấy nước Sở đến cứu đâu? Thân hầu đang sắp sửa phân giải thì Trịnh Văn công truyền cho võ sĩ lôi ra chém, bỏ đầu trong một cái hộp, sai Đỗ Thúc đem sang nộp Tề Hoàn công mà nói rằng: - Ngày trước chúa công tôi quá nghe lời nói của Thân hầu mà bỏ không dự hội, nay xin chém đầu Thân hầu, và sai tôi đến xin lỗi quí quốc dung thứ cho. Tề Hoàn công vốn biết Đỗ Thúc là người hiền, mới thuận cho nước Trịnh giảng hòa, lại hội chư hầu ở đất Ninh Mãn (đất nước Tề). Trịnh Văn công vẫn ngại về có mệnh Thiên tử nhà Chu khi trước, không dám công nhiên đến dự hội, liền sai thế tử Hoa đi thay. Nguyên thế tử Hoa cùng với em là Công tử Tang đều là con bà đích phu nhân, bây giờ đích phu nhân được Trịnh Văn công yêu, mới lập Hoa làm thế tử. Sau lại lập thêm hai bà phu nhân nữa, đều có con trai cả. Chẳng được bao lâu đích phu nhân chết; lại có nàng Yên Cật là cung nữ ở nước Trịnh bấy giờ, một hôm nằm mộng thấy một người đàn ông tay cầm cành hoa lan bảo Yên Cật rằng: - Ta đây thủy tổ nhà ngươi nay cho ngươi cành hoa lan này mai sau sẽ sinh quí tử, khiến cho nước nhà được thịnh vượng. Nói xong, liền cầm cành hoa lan đưa cho. Yên Cật sực tỉnh dậy, thấy trong nhà mùi hương thơm ngào ngạt, đến sáng hôm sau, nói chuyện cho các cung nữ nghe. Các cung nữ đều cười mà chế rằng: - Ngày sau tất sinh được quí tử! Ngày hôm ấy, Trịnh Văn công vào cung, trông thấy Yên Cật, có ý bằng lòng. Các cung nữ đều nhìn nhau mà cười. Trịnh Văn công hỏi. Yên Cật mới thuật lại chuyện nằm mộng đêm hôm trước. Trịnh Văn công nói: - Đó là một cái triệu hay! Để ta tác thành cho nhà ngươi! Nói xong sai người lấy một cành hoa lan cho Yên Cật đeo, rồi đem lòng thương yêu Yên Cật. Sau Yên Cật có thai, sinh con đặt tên là Lan. Thế tử Hoa thấy cha nhiều vợ yêu như vậy, sợ mai sau lại bỏ mình mà lập người khác, mới bàn riêng với Thúc Thiêm, Thúc Thiêm nói: - Được hỏng đều có mệnh trời! Làm con nên phải giữ lấy đạo hiếu. Thế tử Hoa lại đến bàn với Đỗ Thúc. Đỗ Thúc cũng khuyên thế tử Hoa nên giữ lấy đạo hiếu. Thế tử Hoa có ý không bằng lòng. Công tử Tang (em thế tử Hoa) tính hay thích những sự kỳ quặc, chắp cánh chim duật để làm mũ đội. Sư Thúc can rằng: - Thế là không hợp lễ, Công tử chớ nên ăn mặc như vậy! Công tử Tang cũng có ý không bằng lòng, mới nói với anh là thế tử Hoa. Bởi vậy thế tử Hoa cùng với Thúc Thiêm, Đỗ Thúc và Sư Thúc thành ra hiềm khích. Đến bấy giò Trịnh Văn công sai thế tử Hoa sang hội với Tề Hoàn công. Thế tử Hoa sợ Tề Hoàn công bẻ lỗi, không muốn đi. Thúc Thiêm giục thế tử Hoa, bắt phải đi ngay. Thế tử Hoa càng đem lòng căm tức, khi vào yết kiến Tề Hoàn công xin đuổi hết người chung quanh, rồi nói với Tề Hoàn công rằng: - Quyền chính nước Trịnh tôi ngày nay đều ở trong tay Thúc Thiêm, Đỗ Thúc và Sư Thúc, khi trước phụ thân tôi bỏ không dự hội, cũng vì ba người ấy xúi giục, nếu Hiền hầu trừ bỏ ba người ấy đi thì tôi xin đem nước Trịnh tôi mà phụ thuộc với quí quốc. Tề Hoàn công đem lời nói của thế tử Hoa thuật lại cho Quản Di Ngô nghe. Quản Di Ngô can rằng: - Không nên! Các nước chư hầu sở dĩ qui phục nước Tề ta, là vì nước Tề ta biết giữ điều lễ và điều tín. Nay thế tử Hoa không theo mệnh cha, sao gọi là lễ; sang đây kết giao với ta mà lại lập những mưu phản nghịch nước mình, sao gọi là tín. Vả lại tôi nghe Thúc Thiêm, Đỗ Thúc và Sư Thúc đều là người hiền cả, dân nước Trịnh vẫn gọi ba người ấy là "Tam lương", ta không nên trái ý dân mà theo lời thế tử Hoa. Cứ như ý tôi nghĩ thì thế tử Hoa chẳng bao lâu sẽ có tai vạ. Tề Hoàn công bảo thế tử Hoa rằng: - Thế tử nói điều ấy, là một việc quan trọng, âu là để ta chờ khi Trịnh Hầu sang đây, sẽ cùng thương nghị. Thế tử Hoa thẹn đỏ mặt lên, toát mồ hôi ướt đầm cả người, rồi cáo từ xin về. Quản Di Ngô ghét thế tử Hoa là người gian giảo, cố ý đem lời nói của thế tử Hoa tiết lộ cho người nước Trịnh biết. Người nước Trịnh tức khắc phi báo Trịnh Văn công. Khi thế tử Hoa về đến nước Trịnh, nói dối Trịnh Văn công rằng: - Tề hầu thấy phụ thân không sang, không chịu cho giảng hòa, chi bằng ta theo nước Sở là hơn. Trịnh Văn công quát mắng rằng: - Thằng nghịch tử này, mày định bán nước, lại còn dám lập kế nói dối ta hay sao! Mắng xong, truyền đem thế tử Hoa giam vào nơi u thất. Thế tử Hoa khoét tường, định trốn ra đi. Trịnh Văn công biết, tức khắc truyền đem chém. Em cùng mẹ với thế tử Hoa là Công tử Tang sợ tội, bỏ trốn sang nước Tống. Trịnh Văn công sai người đuổi theo giết chết ở dọc đường. Trịnh Văn công cảm cái ơn Tề Hoàn công không nghe lời nói của thế tử Hoa, lại sai Đỗ Thúc sang tạ. Chu Huệ Vương ốm nặng, thái tử Trịnh sợ có sự biến loạn liền sai quan hạ sĩ là Vương Tử Hổ sang báo tin với Tề Hoàn công. Chẳng được bao lâu, Chu Huệ Vương mất, thái tử Trịnh cùng với các quan thương nghị, không phát tang vội, tức khắc sai người phi báo cho Vương Tử Hổ biết, để Vương Tử Hổ nói với Tề Hoàn công. Tề Hoàn công đại hội các nước chư hầu ở đất Thao (đất nước tào) họp nhau làm tờ biểu vào vấn an vua Huệ Vương nhà Chu. Trịnh Văn công cũng đến dự hội. Mỗi nước chư hầu sai một quan đại phu làm đại biểu, kể tên sau này: 1. - Quan đại phu nước Tề là Thấp Bằng, 2. - Quan đại phu nước Tống là Hoa Tú Lão, 3. - Quan đại phu nước Lỗ là Công Tôn Ngao, 4. - Quan đại phu nước Vệ là Ninh Tốc, 5. - Quan đại phu nước Trần là Viên Tuyển, 6. - Quan đại phu nước Trịnh là Tử Nhân Sư, 7. - Quan đại phu nước Tào là Công Tử Mậu, 8. - Quan đại phu nước Hứa là Bách Đà. Quan đại phu các nước chư hầu mượn tiếng vào vấn an vua Huệ Vương, họp cả ở kinh thành nhà Chu, nghi vệ rất nghiêm chỉnh. Thái tử Trịnh sai người tiếp đãi, rồi mới phát tang vua Huệ Vương. Quan đại phu các nước cùng nhau tôn thái tử Trịnh lên nối ngôi, tức là Chu Tương Vương. Trần Vỉ (vợ vua Huệ Vương) và Vương tử Đái có ý căm tức, lấy làm uất ức lắm, nhưng sợ uy các nước chư hầu, không dám có ý gì khác cả. Sang năm sau, Chu Tương Vương làm lễ xuân tế, sai quan thái tể là Chu Khổng đem phần tế ban cho Tề Hoàn công, để đáp lại cái công khó nhọc giúp đỡ. Tề Hoàn công nghe tin, lại đại hội chư hầu ở đất Quì Khâu. Tề Hoàn công cùng với Quản Di Ngô bàn đến công việc nhà Chu. Quản Di Ngô nói: - Nhà Chu mới rồi, chỉ vì con trưởng con thứ không nhất định, thành ra sắp có sự biến loạn. Nay chúa công cũng nên định ngôi thế tử trước, để khỏi di họa về sau. Tề Hoàn công nói: - Ta có 6 con, đều là vợ thứ: Công tử Vô Khuy nhiều tuổi hơn cả, mà nếu cứ lấy người hiền thì có Công tử Chiêu. Trưởng Vệ Cơ (mẹ Công tử Vô Khuy) hầu ta đã lâu, ta có hứa lời định lập Công tử Vô Khuy rồi; Dịch Nha và Thụ Điêu hai người ấy vẫn thường nói cho Vô Khuy. Ta vẫn yêu Công tử Chiêu là người hiền, nhưng ý ta chưa quyết, bây giờ xin tùy ý trọng phụ. Quản Di Ngô đã biết Dịch Nha và Thụ Điêu là người gian nịnh, mà vẫn là bè đảng của Trưởng Vệ Cơ; sợ ngày sau Công tử Vô Khuy lên nối ngôi thì trong ngoài hợp nhau mà làm loạn quốc chính. Công tử Chiêu là con Trịnh Cơ, bây giờ nước Trịnh lại vừa mới cùng ta giảng hòa, ta lập Công tử Chiêu thì thêm thân mật với nước Trịnh. Quản Di Ngô nghĩ thầm như vậy, mới nói với Tề Hoàn công rằng: - Nếu không có con hiền nối ngôi thì không giữ được cơ nghiệp bá chủ. Chúa công đã biết Công tử Chiêu là người hiền thì nên lập ngay mới phải. Tề Hoàn công nói: - Ta chỉ sợ Công tử Vô Khuy cậy là hơn tuổi, rồi lại sinh ra tranh nhau thì biết làm thế nào? Quản Di Ngô nói: - Nay nhân thể chúa công sắp đại hội các nước chư hầu, nên chọn xem trong các vua chư hầu có ông nào hiền thì đem việc Công tử Chiêu mà ủy thác cho, còn lo ngại gì nữa. Tề Hoàn công gật đầu. Bấy giờ Tống Hoàn công là Ngự Thuyết mất, thế tử Tư Phủ nhường ngôi cho Công tử Mục Di (thứ huynh của Tư Phủ) ; Mục Di không chịu nhận. Tư Phủ mới lên nối ngôi, tức là Tống Tương công. Tống Tương công theo lệnh bá chủ (Tề Hoàn công), dẫu đang có tang, cũng đến dự hội ở đất Quỳ Khâu, Quản Di Ngô bảo Tề Hoàn công rằng: - Vua nước Tống biết nhường ngôi cho Công tử Mục Di, đó là một người rất hiền. Vả lại đang có tang mà cũng đến dự hội, thế là biết kính trọng nước ta, chúa công nên đem việc Công tử Chiêu mà ủy thác cho người ấy. Tề Hoàn công theo lời, liền sai Quản Di Ngô đến nhà quán xá, để nói chuyện trước cho Tống Tương công biết. Tống Tương công đến yết kiến Tề Hoàn công. Tề Hoàn công cầm lấy tay Tống Tương công đem việc Công tử Chiêu mà ân cần dặn rằng: - Mai sau nhờ Hiền hầu trông nom cho, để khiến Công tử Chiêu giữ yên được cơ nghiệp. Tống Tương công khiêm nhượng, không dám nhận lời, nhưng trong lòng cảm tạ tấm lòng ủy thác của Tề Hoàn công, cũng đã lưu ý rồi. Hôm đến hội, các nước chư hầu họp cả trên đàn, cùng bái vọng thiên tử nhà Chu, rồi ban phần tế cho Tề Hoàn công. Tề Hoàn công toan bước xuống thềm để lạy tạ. Chu Khổng can rằng: - Thiên tử lại có truyền rằng hiền hầu năm nay đã già cả lắm thì tha lễ cho không phải lạy. Tề Hoàn công đã toan không lạy, Quản Di Ngô đứng bên cạnh nói rằng: - Thiên tử dẫu có lệnh truyền như vậy, nhưng kẻ thần hạ cứ nên giữ lễ mới phải. Tề Hoàn công nói: - Uy nghiêm thiên tử nhà Chu, lúc nào cũng như ở trước mặt, khi nào Tiểu Bạch (tên Tề Hoàn công) lại dám sai lễ. Nói xong, Tề Hoàn công liền bước xuống thềm sụp lạy hai lạy. Các nước chư hầu đều khen Tề Hoàn công là người biết giữ lễ. Tề Hoàn công nhân các nước chư hầu chưa tan, lại tuyên bá 5 điều cấm lệnh của vua nhà Chu. 1. - Không được lấp dòng nước chảy. 2. - Không được cấm đong thóc. 3. - Không được đổi con trưởng. 4. - Không được lấy thiếp làm vợ. 5. - Không được cho đàn bà dự vào việc chính trị. Tề Hoàn công lại cùng với các nước chư hầu thề ước rằng: Phàm các nước đồng minh ta phải cùng nhau giao hiếu. Thề ước xong, Tề Hoàn công bảo quan thái tể là Chu Khổng rằng: - Ta nghe đời tam đại (nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu) ngày xưa có lễ Phong Thiện, chẳng hay sự thể ra sao? Chu Khổng nói: - Đời tam đại ngày xưa, làm lễ Phong ở núi Thái Sơn, làm lễ Thiện ở núi Lương Phủ. Làm lễ Phong để tế trời, lấy nghĩa trời cao, vậy nên đắp đất lên mà tế; làm lễ Thiện để tế đất, lấy nghĩa đất thấp, vậy nên quét sạch đất đi mà tế, ấy là cái lễ rất trọng thể ở đời tam đại đó. Tề Hoàn công nói: - Nhà Hạ đóng đô ở đất An Ấp, nhà Thương đóng đô ở đất Bạc Ấp, nhà Chu đóng đô ở đất Phong Kiểu, chốn đô thành cách núi Thái Sơn và núi Lương Phủ rất xa, mà còn đi làm lễ Phong và lễ Thiện; nay hai núi ấy đều ở trong địa giới nước ta, vậy ta cũng muốn làm cái lễ trọng thể ấy, các ngài nghĩ thế nào? Chu Khổng thấy Tề Hoàn công có ý kiêu ngạo tự đắc, liền đáp lại rằng: - Hiền hầu cho là phải thì còn ai dám bảo là không phải! Tề Hoàn công nói: - Thôi hãy để đến mai, ta lại sẽ bàn. Các vua chư hầu đều tan về nhà quán xá cả, Chu Khổng nói riêng với Quản Di Ngô rằng: - Lễ Phong Thiện là một việc trọng thể của Thiên tử, tôi thiết tưởng nước chư hầu không nên nói đến, nay Trọng phụ lại không can được một câu hay sao? Quản Di Ngô nói: - Chúa công tôi là người hiếu thắng, phải nghĩ cách mà chữa đi, không có thể can thẳng được, để hôm nay tôi sẽ liệu nói. Đêm hôm ấy, Quản Di Ngô vào yết kiến Tề Hoàn công mà hỏi rằng: - Chúa công muốn làm lễ Phong Thiện thật thế không? Tề Hoàn công nói: - Sai lại không thật! Quản Di Ngô nói: - Lễ Phong Thiện bắt đầu từ thời Vô Hoài Thị đến đời Chu Thành Vương, cả thảy 73 nhà, đều là chịu mệnh trời làm Thiên tử, vậy mới được phép làm lễ Phong Thiện. Tề Hoàn công có ý không bằng lòng mà nói rằng: - Ta đây, phía nam đánh nước Sở, đến tận đất Thiệu Lăng, phía bắc đánh Sơn Nhung, Linh Chi và Cô Trúc; phía tây qua bãi Lưu Sa đến tận núi Thái Hàng. Các nước chư hầu, không ai dám trái ý :3 lần hội chư hầu về việc binh xa, 6 lần hội chư hầu về việc y thường thế thì dẫu đời tam đại chịu mệnh trời cũng chẳng qua như vậy mà thôi. Bây giờ ta làm lễ Phong Thiện để cho con cháu noi theo, chẳng cũng nên lắm sao? Quản Di Ngô nói: - Các vua đời xưa, nhân có điềm lành mới làm lễ Phong Thiện, nay chúa công cũng bắt chước mà làm, tôi e rằng những người kiến thức ở các nước, tất có ý chê cười chúa công. Tề Hoàn công nín lặng, ngày hôm sau không nói gì đến việc Phong Thiện nữa. Tề Hoàn công khi đã về nước, tự nghĩ mình có nhiều công trạng to, mới sửa sang cung điện một cách rực rỡ; phàm các thứ xe ngựa đồ dùng, đều sắm sửa lịch sự không khác gì ngôi Thiên tử. Người trong nước ai cũng chê là tiếm phạm. Quản Di Ngô cũng đắp một cái đài cao ba từng gọi là đài "Tam Qui" nghĩa là ba hạng người qui phục minh cả: Dân qui phục; chư hầu qui phục; các nước rợ mọi cũng qui phục. Lại lập ra Tắc Môn để che cửa; Phản Điếm đề tiếp sứ thần các nước. Bão Thúc Nha thấy vậy, có ý nghi hoặc mà hỏi rằng: - Vua xa xỉ, mình cũng xa xỉ; vua tiếm phạm mình cũng tiếm phạm, như thế thì sao cho phải? Quản Di Ngô nói: - Một ông vua trải bao sự cần khổ để lập nên công nghiệp, cũng phải có ngày kia được hưởng sự sung sướng ở đời, nếu mình đem lễ phép mà bó buộc thì người ta sinh chán. Tôi làm như thế, chẳng qua cũng là muốn vì chúa công ta mà chịu đỡ cái tiếng chê cười của thiên hạ. Bão Thúc Nha nghe nói, ngoài miệng dẫu vâng dạ, nhưng trong lòng cũng có ý không phục. Chu Khổng (quan thái tể nhà Chu) từ đất Quỳ Châu trở về nhà Chu. Đi đến nửa đường, gặp Tấn Hiến công cũng định đến dự hội. Chu Khổng nói: - Hội đã tan rồi! Tấn Hiến công dẫm chân xuống đất mà than rằng: - Nước tôi xa xôi quá, không được trông thấy những cảnh tượng vui vẻ ấy, làm sao mà vô duyên như vậy! Chu Khổng nói: - Hiền hầu cũng chẳng nên tiếc! Ngày nay Tề hầu cậy mình công to, có ý kiêu ngạo; nhưng trăng tròn thì tất phải khuyết, nước đầy thì tất phải tràn, tôi chắc rằng chẳng bao lâu nữa Tề sẽ đến ngày suy đốn. Dẫu chẳng dự hội cũng không hề chi! Tấn Hiến công liến quay xe trở về, đi đường bị bệnh, về đến nước Tấn thì mất. Từ bấy giờ nước Tấn lại đại loạn.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  6. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 25 Tuân Tức dâng ngựa để mượn đường Bách Lý nuôi trâu được làm tướng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lại nói chuyện Tấn Hiến công trong thì mê hoặc nàng Ly Cơ, ngoài thì tin dùng Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ, càng đem lòng ghét bỏ thế tử Thân Sinh mà yêu Hề Tề (con Ly Cơ) : Chỉ vì Thân Sinh một lòng kính thuận, lại thường đem quân đi đánh giặc, có nhiều công trạng, không lấy cớ gì mà bỏ được. Ly Cơ bàn với người tâm phúc là Ưu Thi rằng: - Bây giờ ta muốn bỏ thế tử mà lập Hề Tề thì làm kế gì cho được? Ưu Thi nói: - Hiện nay ba vị công tử (thế tử Thân Sinh cùng Công tử Di Ngô và Công tử Trùng Nhĩ) đều ở cõi xa cả, phu nhân còn lo ngại gì! Ly Cơ nói: - Ba vị công tử đều đã trưởng thành, giữ quyền chính lâu ngày, các quan trong triều ai cũng có lòng bênh vực, vậy nên ta chưa dám động đến. Ưu Thi nói: - Thế thì ta nên nghĩ kế mà trừ lần mới được. Ly Cơ nói: - Bây giờ nên trừ ai trước? Ưu Thi nói: - Trước hết phải trừ thế tử Thân Sinh! Vì Thân Sinh là người nhân từ mà chính trực lắm; chính trực thì không chịu những tiếng xấu, nhân từ thì không muốn hại người. Không chịu những tiếng xấu thì có điều gì tức giận, không ẩn nhẫn được; không hại người thì tất phải hại mình. Nay thế tử Thân Sinh, dẫu không được thân cận với chúa công ta cho lắm, nhưng chúa công ta vẫn biết là người hiền, nếu ta dèm là Thân Sinh có lòng phản nghịch thì tất chúa công không tin; phu nhân nên nhân khi đêm thanh vắng nỉ non khóc lóc, làm ra ý khen thế tử để vu tội cho, có khéo lắm thì mới đắt lời được. Đến nửa đêm hôm ấy, Ly Cơ tự nhiên khóc nức khóc nở. Tấn Hiến công ngạc nhiên lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì mà khóc. Hỏi đi hỏi lại ba lần mà Ly Cơ nhất định không chịu nói. Tấn Hiến công cố ý hỏi mãi. Ly Cơ đáp rằng: - Thiếp tôi nói ra thì tất chúa công chẳng tin! Thiếp tôi sở dĩ phải khóc là e rằng thiếp tôi hầu hạ chúa công chẳng được bao lâu nữa! Tấn Hiến công nói: - Sao lại nói những câu quái gở như vậy? Ly Cơ gạt nước mắt mà đáp rằng: - Thiếp tôi nghe nói Thân Sinh là người mặt ngoài nhân từ mà trong lòng thì tàn nhẫn. Hiện nay Thân Sinh ở đất Khúc Ốc, hết lòng làm ơn với dân, là muốn mua chuộc lòng dân để sau này dùng đến. Thân Sinh thường nói chuyện với người ta rằng: Chúa công mê hoặc thiếp, tất có ngày sinh loạn, khắp cả trong triều ai cũng nghe tiếng, chỉ có một mình chúa công là chưa đến tai đó thôi. Thiếp chắc có một ngày kia vì việc dẹp loạn mà để tai vạ đến chúa công, chi bằng chúa công giết thiếp đi để khiến cho Thân Sinh bằng lòng, đừng nghĩ đến cái mưu ấy nữa, kẻo vì một mình thiếp mà làm khổ cả muôn dân. Tấn Hiến công nói: - Thân Sinh đã có lòng nhân từ với dân, chẳng lẽ lại không biết nhân từ với cha hay sao? Ly Cơ nói: - Thiếp cũng lấy điều ấy làm nghi lắm, nhưng thiếp nghe nói điều nhân của người tầm thường, cùng với điều nhân của người anh hùng không giống nhau: Người tầm thường lấy yêu người làm nhân, người anh hùng lấy lợi nước làm nhân, nếu việc làm mà lợi cho nước thì chẳng nghĩ đến tình thân cả. Tấn Hiến công nói: - Thân Sinh là người hay gìn giữ tính nết, lại không sợ mang tiếng ác hay sao? Ly Cơ nói: - Ngày xưa vua U Vương không giết Nghi Cữu, đuổi ra ở nước Thân. Thân hầu đem quân Khuyển Nhung về giết vua U Vương ở dưới núi Ly Sơn, lập Nghi Cữu lên làm vua, tức là vua Bình Vương, làm thủy tổ nhà Đông Chu ta, thế mà đến ngày nay người ta chỉ biết điều ác của vua U vương mà thôi, có ai chê vua Bình Vương điều gì đâu! Tấn Hiến công nghe nói động lòng, mới vén áo vùng dậy mà nói rằng: - Phu nhân nói phải đó! Bây giờ biết phải làm thế nào? Ly Cơ nói: - Chúa công nên mượn tiếng già yếu, giao quốc chính lại cho thế tử. Thế tử đã được quốc chính thì tất mãn nguyện mà tha cho chúa công. Vả, ngày trước Tấn Vũ công ta ở đất Khúc Ốc mà kiêm tính đất Dực, chẳng phải tình cốt nhục là gì! Vua Vũ công ta, chỉ vì không nghĩ đến tình thân, vậy nên mới gây dựng ra được nước Tấn. Cái chí thân sinh ngày nay, cũng như thế đó, thôi thì chúa công nên nhường. Tấn Hiến công nói: - Không nên! Ta có vũ và uy để đối với các nước chư hầu. Nay ta chịu mất ngôi thì sao gọi là vũ; có con mà không trị nổi thì sao gọi là uy. Đã mất vũ và uy, để cho người ta kềm chế mình được, thì dẫu sống cũng như chết. Thôi thì phu nhân chớ lo ngại, rồi ta sẽ định liệu. Ly Cơ nói: - Nay quân Xích Địch thường quấy nhiễu nước ta, chúa công nên sai Thân Sinh đem quân đi đánh, để xem hắn có khéo dùng binh hay không? Đánh không được giặc thì ta nhân cớ mà bắt tội, nếu đánh được giặc thì hắn tất cậy công làm càn, bấy giờ ta sẽ tìm cách nghiêm trị. Như vậy thì vừa đánh được giặc để yên bờ cõi, lại vừa biết được cái tài của Thân Sinh. Chúa công nên sai Thân Sinh đi. Tấn Hiến công khen phải, liền truyền lệnh sai Thân Sinh đem quân ở đất Khúc Ốc đi đánh nước Xích Địch. Quan Thái Phó là Lý Khắc can rằng: - Thế tử là một người nối dõi của nhà vua, vậy nên vua có đi đâu thì thế tử coi giữ quốc chính. Chức phận thế tử, chỉ ngày đêm hầu hạ ở bên cạnh vua, không nên để đi xa, huống chi lại còn sai đem quân đi đánh giặc thì sao cho phải. Tấn Hiến công nói: - Thân Sinh đã đi dánh giặc nhiều lần rồi! Lý Khắc nói: - Ngày trước là theo chúa công mà đem quân đi, bây giờ không nên để cho thế tử đi một mình. Tấn Hiến công cúi đầu mà than rằng: - Ta có chín người con, nào đã định ai là thế tử đâu; nhà ngươi chớ nói chi cho lắm! Lý Khắc nín lặng lui ra, thuật chuyện cho Hồ Đột nghe. Hồ Đột nói: - Nguy thay cho thế tử! Nói xong, liền viết thư cho Thân Sinh, khuyên Thân Sinh chớ đi đánh. Đánh mà được giặc thì càng thêm cho người ta ghét, chi bằng liệu mà trốn đi. Thân Sinh tiếp được thư, thở dài mà than rằng: - Chúa công sai ta đi đánh giặc, không phải là có ý yêu ta, chỉ muốn thử lòng xem ta ra làm sao. Nay ta trái mệnh chúa công thì tội to lắm, chẳng thà đánh giặc mà chết đi, còn giữ được danh tiếng về sau. Nói xong, liền đem quân đi đánh Xích Địch. Quân Xích Địch thua chạy. Thân Sinh sai người đem tin thắng trận báo với Tấn Hiến công. Ly Cơ nói: - Thế tử thật là người khéo dùng quân, biết làm thế nào bây giờ? Tấn Hiến công nói: - Thế tử chưa có tội lỗi gì, ta phải đợi mới được. Hồ Đột biết là nước Tấn sắp loạn, mới giả cách ốm, đóng cửa không đi đâu cả. Bấy giờ có nước Ngu và nước Quắc, hai nước ở liền nhau lại đều tiếp giáp với nước Tấn cả. Vua nước Quắc tên Xú, là người kiêu ngạo mà hay thích việc tranh chiến trường sang quấy nhiễu cõi phía nam nước Tấn. Tấn Hiến công muốn đem quân đi đánh nước Quắc. Ly Cơ nói: - Sao chúa công lại không sai Thân Sinh đi. Thân Sinh là người đã có uy danh, mà quân sĩ vốn tin phục thì chắc có thể thành công được. Tấn Hiến công đã nghĩ về lời nói Ly Cơ, lại sợ Thân Sinh sau khi đánh được Quắc, uy danh mỗi ngày một to, khó lòng kềm chế nổi, mới trù trừ không nhất quyết, liền hỏi quan đại phu là Tuân Tức rằng: - Nước Quắc có nên đánh không? Tuân Tức nói: - Ngu và Quắc đang giao hiếu với nhau, ta đánh Quắc thì Ngu tất cứu, nếu đánh Ngu thì Quắc tất cứu, vậy thì một nước ta mà địch nhau với hai nước, tôi chưa dám chắc là có được hay không? Tấn Hiến công nói: - Vậy thì ta không làm gỉ nổi nước Quắc. Tuân Tức nói: - Tôi nghe nói vua nước Quắc là người hiếu sắc, bây giờ chúa công tìm những con gái đẹp trong nước dạy nghề hát múa và cho ăn mặc rất lịch sự, đem hiến vua nước Quắc, lại lấy lới khiên tín mà xin giảng hòa, như vậy thì vua nước Quắc tất mừng rỡ mà nhận ngay. Kẻ kia đã say mê về thanh sắc thì tất lười biếng mà chẳng thiết gì đến chính sự; bấy giờ ta lại lễ đút vua Khuyển Nhung để khiến cho quấy nhiễu nước Quắc, rồi ta sẽ tìm cớ sang đánh, như thế thì có thể phá tan nước Quắc. Tấn Hiến công nghe lời, đem bộ nữ nhạc sang dâng vua nước Quắc. Vua nước Quắc toan nhận. Quan đại Phu là Chu Chi Kiều can rằng: - Đó là cái lưỡi câu của nước Tấn để câu nước Quắc ta đó, cớ sao chúa công lại tham mồi làm gì? Vua nước Quắc không nghe, cứ cho nước Tấn được giảng hòa. Từ bấy giờ vua nước Quắc chỉ say đắm về bộ nữ nhạc chẳng thiết gì đến chính sự cả. Chu Chi Kiều lại can. Vua nước Quắc nổi giận, sai ra trấn thủ ở đất Hạ Dương. Chẳng được bao lâu, vua Khuyển Nhung tham lễ vật của nước Tấn, quả nhiên đem quân sang quấy nhiễu nước Quắc. Quân kéo đến đất Vĩ Nhuế, bị quân nước Quắc đánh thua, vua Khuyển Nhung căm tức, liền cử đại binh sang đánh. Vua nước Quắc cậy mình vừa mới thắng trận, cũng đem quân ra đối địch ở đất Tang Điền. Tấn Hiến công lại hỏi Tuân Tức rằng: - Ngày nay nước Quắc đang phải giữ nhau với quân Khuyển Nhung, ta nên đem quân đánh nước Quắc hay không? Tuân Tức nói: - Nước Ngư và nước Quắc vẫn giao hiếu với nhau; tôi có một kế, có thể ngày nay lấy được nước Quắc mà ngày mai lấy được cả nước Ngu nữa. Tấn Hiến công hỏi: - Nhà ngươi có kế gì? Tuân Tức nói: - Chúa công nên đem nhiều lễ vật dâng cho vua nước Ngu mà mượn đường sang đánh nước Quắc. Tấn Hiến công nói: - Ta vừa mới giảng hòa với nước Quắc, không lấy cớ gì mà đánh cho được, vả lại nước Ngu khi nào chịu tin lời ta. Tuân Tức nói: - Chúa công mật sai người quấy nhiễu ở bờ cõi nước Quắc, tất nhiên nước Quắc phải sang trách ta, bấy giờ ta mượn chuyện mà nói với vua nước Ngu. Tấn Hiến công lại theo kế ấy, quả nhiên nước Quắc cho người sang trách, thành ra hai bên gây sự đánh nhau. Vua nước Quắc còn đang đối địch với quân Khuyển Nhung: Không kịp quản cố đến việc ấy. Tấn Hiến công nói: - Ngày nay đã tìm được cớ để đánh nước Quắc rồi, nhưng chẳng hay dùng lễ vật gì mà đưa cho vua nước Ngu được? Tuân Tức nói: - Vua nước Ngu dẫu là người tham, nhưng tất phải có đồ chí bảo đem sang thì mới làm cho hắn động lòng được. Bây giờ có hai thứ đem đi lễ, chỉ sợ chúa công không dứt tình bỏ được mà thôi. Tấn Hiến công nói: - Nhà ngươi hãy thử nói xem những thứ gì? Tuân Tức nói: - Vua nước Ngu thích nhất là ngọc quí và ngựa quí. Nay chúa công có ngọc bích Thùy Cức và cổ ngựa Khuất Sản xin đem hai thứ ấy dâng cho vua nước Ngu để mà mượn đường. Vua nước Ngu tham hai thứ ấy thì tất mắc kế ta. Tấn Hiến công nói: - Hai thứ ấy là vật chí bảo của ta, khi nào ta lại chịu đưa cho người khác! Tuân Tức nói: - Tôi vẫn biết chúa công không dứt tình mà bỏ được! Tuy Vậy ta mượn đường để đánh Quắc, mà Ngu không cứu thì Quắc tất mất; Quắc đã mất thì Ngu giữ làm sao được, bấy giờ ngọc bích và ngựa của ta để tạm ở kho ngoài, và đem cỗ ngựa của ta mà nuôi tạm ở chuồng ngoài đó mà thôi. Quan đại phu là Lý Khắc nói: - Nước Ngu có hai người bề tôi hiền: Cung Chi Kỳ và Bách Lý Hề là người thông minh và cao đoán lắm, chỉ sợ hai người ấy can bảo vua nước Ngu thì làm thế nào? Tuân Tức nói: - Vua nước Ngu là người tham mà ngu lắm, dẫu can bảo vị tất đã nghe. Tấn Hiến công liền đem ngọc bích giao cho Tuân Tức, để đem sang mượn đường nước Ngu. Vua nước Ngu, lúc mới nghe tin sứ giả nước Tấn đến mượn đường để đánh nước Quắc, tức thì nổi giận, đến lúc trông thấy ngọc bích và ngựa lại bớt giận làm lành, tay cầm ngọc bích, mắt nhìn cỗ ngựa mà hỏi Tuân Tức rằng: - Đó là những vật chí bảo của nước ngươi, thiên hạ ít có, mà sao nước ngươi lại chịu đem cho ta? Tuân Tức nói: - Chúa công tôi mến cái uy đức của hiền hầu, vậy xin đem các vật chí bảo này để sang dâng quí quốc. Vua nước Ngu nói: - Tuy vậy nước ngươi có muốn xin ta việc gì chăng? Tuân Tức nói: - Người nước Quắc thường sang quấy nhiễu cõi nam nước tôi: Chúa công tôi muốn cho yên nước mà phải xin giảng hòa với nước Quắc, thế mà nước Quắc lại sinh sự lôi thôi. Chúa công tôi mượn đường quí quốc để sang đánh nước Quắc, may mà đánh được thì bao nhiêu những của cải lấy ở nước Quắc về, xin đem dâng quí quốc tất cả. Chúa công tôi xin cùng với quí quốc giảng hòa. Vua nước Ngu bằng lòng lắm. Cung Chi Kỳ can rằng: - Chúa công chớ nên nghe! Tục ngữ có câu rằng: "Môi hở răng lạnh". Nước Tấn xưa nay vẫn xâm chiếm các nước khác, mà không dám động đến nước ta là vì nước ta cùng với nước Quắc biết giao hiếu mà giữ gìn lấy nhau. Nếu ngày nay nước Quắc mất thì ngày mai nước Ngu ta cũng chẳng còn. Vua nước Ngu nói: - Vua nước Tấn không tiếc đồ chí bảo mà đem cho ta, ta lại tiếc gì một lối đi nhỏ mà không cho nước Tấn. Vả lại thế lực nước Tấn, còn gấp mười nước Quắc; ta mất lòng nước Quắc mà có lòng nước Tấn thì có hại gì! Thôi, nhà ngươi cứ lui ra, không dự gì đến việc ấy. Cung Chi Kỳ lại toan nói nữa, Bách Lý Hề nắm lấy vạt áo. Cung Chi Kỳ biết ý mới thôi. Khi ở trong triều lui ra. Cung Chi Kỳ bảo Bách Lý Hề rằng: - Sao nhà ngươi không nói giúp vào một câu, mà lại ngăn ta nghĩa là thế nào? Bách Lý Hề nói: - Tôi thiết tưởng đem lời nói phải mà bảo người ngu, khác nào như đem châu ngọc mà ném ra đường cái. Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ Can, cũng vì cớ hay can gượng. Nếu nhà ngươi càng cố can thì nguy cho nhà ngươi lắm. Cung Chi Kỳ nói: - Thế thì nước Ngu này tất phải mất, ta cùng nhà ngươi chẳng đi thì còn ở làm gì? Bách Lý Hề nói: - Nhà ngươi đi là phải, nhưng lại rủ thêm một người nữa lại chẳng to tội lắm sao! Âu là để tôi ở lại thong thả một chút. Cung Chi Kỳ đem cả họ hàng cùng đi, không biết đi đâu. Tuân Tức về nói với Tấn Hiến công rằng: - Vua nước Ngu đã nhận ngọc bích và ngựa, cho nước ta đi nhờ đường. Tấn Hiến công toan thân hành đi đánh nước Quắc, Lý Khắc nói: - Nước Quắc dễ đánh như không, cần gì chúa công phải đi. Tấn Hiến công hỏi: - Làm thế nào mà đánh được nước Quắc? Lý Khắc nói: - Nước Quắc đóng ở đất Thượng Dương nhưng cửa ngõ quan hệ ở đất Hạ Dương cả; đã đánh vỡ được đất Hạ Dương thì còn gì là nước Quắc nữa! Tôi dẫu hèn mạt, xin đương cái việc nhỏ nhặt ấy, nếu không đánh được, tôi xin chịu tội. Tấn Hiến công cho Lý Khắc làm chủ tướng. Tuân Tức làm phó tướng đem quân đi đánh nước Quắc. Tuân Tức sai người báo tin cho vua nước Ngu biết là đến hôm ấy thì quân nước Tấn kéo đến. Khi quân nước Tấn kéo đến, vua nước Ngu nói với Tuân Tức rằng: - Quí quốc đem cho tôi những đồ chí bảo ấy, tôi không biết lấy gì đền ơn lại được, vậy thì tôi xin đem quân đi đánh giúp. Tuân Tức nói: - Hiền hầu đem quân đi đánh giúp, không bằng cho chúng tôi lấy đất Hạ Dương. Vua nước Ngu nói: - Đất Hạ Dương của nước Quắc thì người nước Quắc giữ, tôi cho thế nào được? Tuân Tức nói: - Vua nước Quắc ngày nay đang đánh nhau với quân Khuyển Nhung ở đất Tang Điền, chưa phân được thua; bây giờ Hiền hầu giả cách đem quân sang đánh, giúp nước Quắc, rồi cho quân nước Tấn tôi đi lẫn vào thì có thể chiếm được đất Hạ Dương. Vua nước Ngu nghe lời, giả cách đem quân sang đánh giúp nước Quắc. Quan trấn thủ ở đất Hạ Dương là Chu Chi Kiều mở cửa quan cho quân nước Ngu sang; chẳng ngờ quân nước Tấn đi lẫn vào, khi qua được cửa quan rồi thì đổ ra mà đánh, không tài nào giữ lại được. Chu Chi Kiều sợ vua nước Quắc bắt tội, phải xin đầu hàng nước Tấn. Lý Khắc (chủ tướng nước Tấn) lại bắt Chu Chi Kiều dẫn đường để tiến binh vào đất Thượng Dương. Vua nước Quắc ở đất Tang Điền, nghe tin quân nước Tấn đã phá vỡ cửa quan rồi, vội vàng thu quân trở về, lại bị quân Khuyển Nhung đánh cho một trận, thiệt hại vô kể. Khi về đến đất Thượng Dương, vua nước Quắc luống cuống, không biết dùng mưu kế gì mà chống giữ. Quân nước Tấn bổ vây cả bốn mặt. Quân nước Quắc ở trong thành, lương thực hết cả, lại nhân vì đánh nhau luôn, quân sĩ mỏi mệt, dân trong thành ngày đêm kêu khóc, tình trạng rất khốn khổ. Lý Khắc bảo Chu Chi Kiều viết một bức thư bắn vào trong thành, dụ vua nước Quắc đầu hàng. Vua nước Quắc nói: - Tiên quân ta ngày xưa làm chức khanh sĩ nhà Chu, mà bây giờ lại chịu đầu hàng thì nhục biết dường nào! Đêm hôm ấy, vua nước Quắc đem cung quyến mở cửa thành trốn sang nhà Chu. Lý Khắc cũng không đem quân đi đuổi theo. Dân nước Quắc bầy đồ bái vọng đón Lý Khắc vào thành. Lý Khắc đem những của cải ở trong kho nước Quắc và bộ nữ nhạc, lại đưa biếu vua nước Ngu. Vua nước Ngu mừng lắm. Lý Khắc sai người về báo tin cho Tấn Hiến công biết, còn mình thì giả cách nói có bệnh đóng quân ở ngoài thành nước Ngu để yên nghỉ, đợi khi nào khỏi bệnh, sẽ kéo quân về. Vua nước Ngu thỉnh thoảng lại sang hỏi thăm. Được hơn một tháng, bỗng nghe báo Tấn Hiến công kéo quân đến. Vua nước Ngu hỏi: - Chẳng hay Tấn Hầu đến có việc gì? Quân nước Tấn nói: - Chúa công tôi sợ chưa đánh nổi nước Quắc, vậy phải đem quân đến tiếp ứng. Vua nước Ngu nói: - Ta đang muốn cùng với Tấn hầu nói chuyện, bây giờ tự nhiên Tấn hầu lại tới đây, thật là thỏa tấm lòng ao ước của ta. Nói xong, vội vàng đem quân ra nghênh tiếp. Tấn Hiến công ước với vua nước Ngu đi săn ở núi Cô Sơn. Vua nước Ngu định nhân tiện để khoe khoang với người nước Tấn, mới đem hết cả quân giáp sĩ trong thành ra đi săn. Bỗng nghe báo trong thành phát hỏa. Tấn Hiến công nói với vua nước Ngu rằng: - Đó tất là dân gian vô ý để cho lửa cháy, chẳng bao lâu rồi cũng tắt được, hai ta cứ việc đi săn. Quan đại phu nước Ngu là Bách Lý Hề mật tâu với vua nước Ngu rằng: - Tôi nghe đồn trong thành có biến loạn, chúa công nên về ngay mới được. Vua nước Ngu nói với Tấn Hiến công xin về trước. Về đến nửa đường, thấy dân nước Ngu lũ lượt đem nhau chạy trốn. Vua nước Ngu hỏi dân. Dân nước Ngu nói: - Quân Tấn đã chiếm mất đô thành rồi! Vua nước Ngu nổi giận, đem quân kéo thẳng về đô thành, trông thấy một viên đại tướng đứng ở trên mặt thành, uy phong rất lẫm liệt. Viên đại tướng ấy nói với vua nước Ngu rằng: - Ngày trước Hiền hầu cho ta mượn đường, ngày nay lại cho ta mượn nước, ta xin có lời cảm ơn. Vua nước Ngu giận lắm, thúc quân phá cửa thành. Trên mặt thành nổi hiệu trống, mũi tên bắn xuống như mưa. Vua nước Ngu lui quân thì lại bị quân Tấn Hiến công đánh ở mặt sau. Vua nước Ngu thở dài mà than rằng: - Tiếc thay! Ta không nghe lời cao của Cung Chi Kỳ ngày trước! Nói xong, ngoảnh lại thấy Bách Lý Hề đứng ở bên cạnh liền hỏi rằng: - Sao lúc bấy giờ nhà ngươi không can bảo ta! Bách Lý Hề nói: - Cung Chi Ký can, chúa công còn không nghe, khi nào chúa công lại nghe lời tôi! Bấy giờ tôi không can, là muốn lưu cái thân tôi để đến ngày này mà theo chúa công. Vua nước Ngu đang luống cuống, chưa biết làm ra thế nào, bỗng có một người ngồi trên xe ở đâu đi đến, tức là Chu Chi Kiều (quan tướng nước Quắc đã đầu hàng nước Tấn). Vua nước Ngu trông thấy, thẹn đỏ mặt. Chu Chi Kiều nói: - Hiền hầu nghĩ lầm mà bỏ nước Quắc tôi, đó là một sự đã qua, không thể nói lại được, bây giờ Hiền hầu trốn sang nước khác, chi bằng về với nước Tấn là hơn. Vua nước Tấn là người đại lượng, tất không nỡ hại Hiền hầu, mà lại có lòng thương, đối đãi một cách rất tử tế, xin Hiền hầu chớ ngại. Vua nước Ngu còn trù trừ chưa quyết. Tấn Hiến công đem quân đến, sai người mời vua nước Ngu. Vua nước Ngu bất đắc dĩ phải đến yết kiến. Tấn Hiến công cười và nói rằng: - Tôi đến đây lần này là cốt để đòi lại ngọc bích và ngựa của tôi! Nói xong, liền sai người lấy xe cho vua nước Ngu đi. Bách Lý Hề theo hầu vua nước Ngu. Có người bảo Bách Lý Hề rằng: - Sao nhà ngươi không ỏ mà đi, còn theo làm gì! Bách Lý Hề nói: - Ta làm quan ăn lộc của vua nước Ngu đã lâu, vậy ta phải cố theo để đền ơn. Tấn Hiến công vào trong thành nước Ngu. Tuân Tức ra nghênh tiếp, tay trái cầm ngọc bích, tay phải dắt ngựa mà nói với Tấn Hiến công rằng: - Ngày nay mưu kế của tôi đã thành rồi, tôi xin đem ngọc bích và ngựa nộp lại chúa công. Tấn Hiến công nghe nói bằng lòng. Tấn Hiến công bắt vua nước Ngu về, toan đem giết đi. Tuân Tức nói: - Vua nước Ngu là một đứa ngu ngốc, có làm gì được mà phải giết! Tấn Hiến công đối đãi rất tử tế, rồi lại tặng cho một viên ngọc bích khác và con ngựa khác, bảo vua nước Ngu rằng: - Ta không dám quên cái ơn cho mượn đường đi đánh nước Quắc. Tấn Hiến công cho Chu Chi Kiều làm quan đại phu. Chu Chi Kiều nói với Tấn Hiến công tiến Bách Lý Hề là người hiền. Tấn Hiến công muốn dùng Bách Lý Hề, sai Chu Chi Kiều đến dụ. Bách Lý Hề nói: - Hãy chờ cho hết đời chúa công tôi, bấy giờ tôi sẽ vâng lời. Chu Chi Kiều về, Bách Lý Hề thở dài mà than rằng: - Người quân tử bỏ nước mình mà đi, tất không chịu đến nước cừu địch, huống chi lại còn làm quan! Ta có làm quan, cũng không làm quan với Tấn. Chu Chi Kiều nghe Bách Lý Hề nói ghét là bới tỏ sự xấu của mình có ý không bằng lòng. Bấy giờ Tần Mục công tên là Nhâm Hiêu lên ngôi vua đã 6 năm, mà chưa lấy vợ, sai quan đại phu là Công tử Trí sang hỏi con gái trưởng của Tấn Hiến công là Bá Cơ làm phu nhân. Tấn Hiến công sai người bói được quẻ tốt, liền nhận lời gả Bá Cơ cho Tần Mục công, Công tử Trí cáo từ về nước. Trong khi đi đường, gặp một người mặt đỏ như son, mũi cao, râu rậm, hai tay cầm hai cái cày mà cày ruộng. Lưỡi cày ngập xuống dưới đất đến mấy thước. Công tử Trí thấy lạ sai người nhắc cái cày lên xem. Quân sĩ không ai nhắc nổi cả. Công tử Trí hỏi họ tên là gì? Người cày ruộng ấy nói: - Tên tôi là Công Tôn Chi, tên tự là Tử Tang. Có họ xa với vua nước Tấn. Công tử Trí nói: - Nhà ngươi là người có tài, sao lại phải đi cày ruộng? Công Tôn Chi nói: - Chỉ vì không có ai tiến dẫn cho. Công tử Trí nói: - Hay nhà ngươi có muốn theo ta sang nước Tần không? Công Tôn Chi nói: - Kẻ sĩ vì người tri kỷ, dẫu chết cũng đành! Nếu Công tử có lòng tiến dẫn cho thì còn gì hơn nữa! Công tử Trí cho ngồi lên xe đem về nước Tần, nói với Tần Mục công. Tần Mục công cho Công Tôn Chi làm quan đại phu. Lại sai Công tử Trí đem đồ lễ vật sang cưới Bá Cơ. Tấn Hiến công hỏi các quan rằng: - Nên cho ai đi theo hầu Bá Cơ. Chu Chi Kiều nói: - Bách Lý Hề không muốn làm quan với nước Tấn ta thì bụng hắn khó lường được, chi bằng ta sai hắn đi. Tấn Hiến công mới sai Bách Lý Hề đi theo hầu Bá Cơ. Bách Lý Hề vốn người nước Ngu, tên tự là Tỉnh Bá ngoài 30 tuổi, mới lấy người vợ là Đỗ Thị, sinh được một con trai. Bách Lý Hề nhà nghèo muốn đi lập công danh, nhưng sợ vợ con không trông cậy vào ai được, cứ quyến luyến mãi, không nỡ dứt tình. Đỗ Thị nói: - Thiếp nghe nói làm tài trai nên phải lập chí, nay phu quân không tìm đường đi lập công danh, mà cứ quyến luyến với vợ con ngồi xó nhà để làm cái gì! Thiếp có thể kiếm ăn lấy được, phu quân chớ phải lo ngại. Trong nhà chỉ có một con gà mái ấp, Đỗ Thị làm thịt để tiễn chân Bách Lý Hề. Dưới bếp hết cả củi đun, Đỗ Thị phải bẻ cái phên làm củi, thổi một nồi cơm gạo đỏ để cho Bách Lý Hề ăn. Bách Lý hề ăn cơm no rồi, từ giã vợ con ra đi. Đỗ Thị tay ẵm con, nắm lấy vạt áo Bách Lý Hề khóc mà dặn rằng: - Lúc được phú quí chớ có quên nhau. Bách Lý Hề sang nước Tề, xin vào yết kiến Tề Tương công nhưng không có ai tiến dẫn cho; sau cùng khốn quá phải đi ăn xin ở đất Diệt (đất nước Tề). Bấy giờ Bách Lý Hề đã bốn muơi tuổi đầu có người đất Diệt tên là Kiển Thúc trông thấy tướng mạo Bách Lý Hề, lấy làm lạ mà bảo rằng: - Nhà ngươi không phải là người đến nỗi đi ăn xin! Kiển Thúc hỏi đến họ tên, rồi mời về nhà thết cơm, bàn đến thời sự, Bách Lý Hề nói đâu ra đấy. Kiển Thúc thở dài mà than rằng: - Lấy cái tài của nhà ngươi mà phải cùng khốn như vậy, chẳng qua cũng là vận mệnh mà thôi. Nói xong liền giữ Bách Lý Hề ở trong nhà, kết làm anh em. Kiển Thúc hơn Bách Lý Hề một tuổi, Bách Lý hề gọi Kiển Thúc là anh. Kiển Thúc nhà cũng nghèo, Bách Lý Hề phải đi chăn trâu thuê cho người trong làng gần đấy để thêm lấy tiền ăn. Gặp bấy giờ Công tử Vô Tri giết Tề Tương công, lên nối ngôi làm vua, treo bảng cầu người hiền. Bách Lý Hề toan ra làm quan. Kiển Thúc nói: - Tiên quân ta còn có người con đi trốn ở nước khác, nay Vô Tri cướp ngôi, tất không thể giữ yên được. Bách Lý Hề mới thôi. Sau nghe tin Vương tử Đồi ở nhà Chu thích chơi trâu. Những người nuôi trâu đều được hậu lương cả. Bách Lý Hề lại nói với Kiển Thúc xin sang nhà Chu. Kiển Thúc dặn rằng: - Kẻ trượng phu không nên khinh thường mà đem thân theo người ta. Nếu đã làm quan với người ta, tới khi hoạn nạn mà bỏ thì là bất trung, không bỏ thì là bất trí, em đi lần này nên phải cẩn thận mới được. Ta thu xếp xong việc nhà, rồi cũng vào nhà Chu thăm em. Bách Lý Hề vào nhà Chu, yết kiến Vương tử Đồi, nói về cách nuôi trâu. Vương tử Đồi mừng lắm, toan nuôi làm gia thần. Gặp bấy giờ Kiển Thúc sang nhà Chu, Bách Lý Hề đưa vào yết kiến Vương tử Đồi. Khi trở ra về, Kiển Thúc bảo Bách Lý Hề rằng: - Vương tử Đồi chí to mà tài ít, lại thường hay chơi bời với những đứa xiểm nịnh, tất có ngày sinh sự làm càn, chắc rằng chẳng bao lâu rồi cũng hỏng thôi, chi bằng chúng ta bỏ đi là hơn. Bách Lý Hề nhân lâu ngày xa cách vợ con, có ý muốn về nước Ngu. Kiển Thúc nói: - Nước Ngu có một người bề tôi hiền là Cung Chi Kỳ, tức là người quen biết của ta, cùng ta cách biệt đã lâu, ta cũng muốn sang thăm hắn; nếu em muốn về nước Ngu thì để ta đi cùng một thể. Nói xong, liền cùng với Bách Lý Hề trở về nước Ngu. Bấy giờ vợ Bách Lý Hề là Đỗ Thị nghèo quá, không lấy gì đủ ăn được, đã lưu lạc tha phương, không biết đi đâu; Bách Lý Hề thấy vậy, thương xót vô cùng! Kiển Thúc vào yết kiến Cung Chi Kỳ, nói chuyện Bách Lý Hề là người hiền. Cung Chi Kỳ đem Bách Lý Hề tiến cho vua nước Ngu. Vua nước Ngu cho Bách Lý Hề làm quan trung đại phu. Kiển Thúc nói: - Ta xem vua nước Ngu là người kiến thức hẹp hòi mà lại hay tự đắc, cũng không phải là ông vua hiền. Bách Lý Hề nói: - Em nghèo khổ đã lâu, khác nào như con cá ở trên cạn, chỉ mong được một giọt nước để mà dưỡng thân! Kiển Thúc nói: - Em vì nghèo mà phải ra làm quan thì ta không thể ngăn em được, nhưng mai sau em có muốm thăm anh thì cứ đến ở làng Minh Lộc nước Tống. Chỗ ấy phong cảnh tĩnh mịch lắm, ta định đến ở đấy. Nói xong, từ giã Bách Lý Hề rồi đi. Bách Lý Hề làm quan với vua nước Ngu. Đến lúc vua nước Ngu mất nước, Bách Lý Hề cứ quanh quẩn không nỡ bỏ đi, thường phàn nàn một mình rằng: - Ta có tài mà không được gặp minh quân để tỏ cái tài của ta; lại già đời đi theo hầu người ta, khác nào đứa ăn đứa ở, còn gì nhục hơn nữa! Khi đi đến nửa đường, bỏ trốn sang nước Tống, bị nghẽn đường lại sang nước Sở, đến đất Uyển Thành (đất nước Sở). Người đi săn ở đất Uyển Thành, trông thấy Bách Lý Hề, ngờ là quân gian, bắt đem trói lại. Bách Lý Hề nói: - Tôi là người nước Ngu, vì nước Ngu mất, nên phải trốn đến đây. Người đi săn hỏi: - Nhà ngươi có biết nghề gì không? Bách Lý Hề nói: - Tôi khéo nuôi trâu. Người đi săn cởi trói cho Bách Lý Hề, rồi đem về cho nuôi trâu, chóng béo tốt lắm, tiếng đồn đến vua nước Sở. Vua nước Sở triệu Bách Lý Hề vào mà hỏi rằng: - Cách nuôi trâu phải thế nào? Bách Lý Hề nói: - Cho ăn phải có điều độ, không nên bắt làm mệt nhọc quá, lúc nào trong lòng cũng nghĩ đến trâu. Vua nước Sở nói: - Nhà ngươi nói phải lắm! Chẳng những cách nuôi trâu như thế mà thôi, dẫu cách nuôi ngựa cũng thế. Vua nước Sở cho Bách Lý Hề làm chức Ngữ nhân, ra chăn ngựa ở xứ Đông Hải. Tần Mục công xem trong sổ những người đi theo hầu Bá Cơ có tên Bách Lý Hề, mà không thấy người, lấy làm sự lạ, liền hỏi Công tử Trí. Công tử Trí nói: - Bách Lý Hề là bề tôi nước Ngu trước, bây giờ trốn đi rồi! Tần Mục công bảo Công Tôn Chi rằng: - Nhà ngươi trước có ở nước Tấn thì tất biết Bách Lý Hề là người thế nào? Công Tôn Chi nói: - Bách Lý Hề là một người hiền: Biết vua nước Ngu là người không thể can được thì không can, thế là người trí; theo vua nước Ngu sang ở nước Tấn, mà không chịu làm tôi nước Tấn, thế là người trung. Vả cũng là người có tài, chỉ vì chưa được gặp thời mà thôi. Tần Mục công nói: - Ước gì ta được Bách Lý Hề mà dùng thì hay! Công Tôn Chi nói: - Tôi nghe đồn vợ con Bách Lý Hề ở cả nước Sở, chắc là Bách Lý Hề trốn sang nước Sở, âu là ta sai người sang nước Sở mà hỏi dò xem. Tần Mục công sai người đi, lúc về báo với Tần Mục công rằng: - Bách Lý Hề ở xứ Nam Hải, chăn ngựa cho vua nước Sở. Tần Mục công nói: - Ta muốn cho người đem đồ lễ vật sang xin về, không biết vua nước Sở có cho không? Công Tôn Chi nói: - Nếu vậy thì không đem được Bách Lý Hề về. Tần Mục công hỏi: - Tại làm sao? Công Tôn Chi nói: - Vua nước Sở bắt Bách Lý Hề chăn ngựa chỉ vì không biết Bách Lý Hề là người hiền; bây giờ đem đồ lễ vật sang xin về khác nào bảo cho vua Sở biết. Vua nước Sở đã biết Bách Lý Hề là người hiền, tất nhiên dùng Bách Lý Hề, khi nào chịu cho ta. Chi bằng chúa công nói về cái tội Bách Lý Hề theo hầu mà dám bỏ trốn, rồi xin chuộc về để trị tội, ấy là kế của Quản Di Ngô ngày xưa đánh lừa nước Lỗ mà thoát thân đó. Tần Mục công khen phải, sai người đem năm bộ da dê sang biếu vua nước Sở mà nói rằng: - Nước tôi có một kẻ tiện thần là Bách Lý Hề, trốn sang quí quốc, vậy chúa công tôi muốn bắt về trị tội, để làm gương cho kẻ khác. Chúa công tôi xin đem năm bộ da để chuộc về. Vua nước Sở sợ mất lòng vua nước Tần, liền sai người bắt Bách Lý hề để giao trả. Khi Bách Lý Hề bị bắt, người xứ Đông Hải ai cũng bảo là tất phải tội chết, đều có ý thương xót mà ứa nước mắt xuống. Bách Lý Hề nói: - Tôi nghe vua nước Tần có chí muốn làm bá vương, có cần gì mà phải bắt tội một đứa theo hầu, nay đem tôi về là có ý muốn dùng tôi đấy. Chuyến này tôi đi tất được phú quí, can gì mà phải khóc. Nói xong, liền bước lên tù xa đi sang nước Tần. Tần Mục công sai Công Tôn Chi ra đón tận ngoài bờ cõi, rồi triệu vào tiếp kiến. Tần Mục công hỏi Bách Lý Hề rằng: - Năm nay nhà ngươi bao nhiêu tuổi? Bách Lý Hề nói: - Tôi vừa đến 70 tuổi. Tần Mục công than rằng: - Tiếc thay, già lắm rồi! Bách Lý Hề nói: - Chúa công sai tôi đi đuổi giống chim bay hay là đi bắt giống thú dữ thì tôi đã già thật, nhưng nếu khiến tôi bàn việc chính trị thì tôi còn trẻ nhiều! Ngày xưa ông Lã Vọng 80 tuổi đầu, đi câu ở bến sông Vị; vua Văn Vương đem về phong làm thượng phụ, rồi giúp nên cơ nghiệp nhà Chu. Nay tôi gặp chúa công, tôi thiết tưởng còn sớm hơn Lã Vọng được 10 tuổi. Tần Mục công thấy nói khí khái như vậy, có ý kính trọng mà hỏi rằng: - Nay nước ta tiếp giáp các nước Nhung Địch, không dự hội với trung quốc. Nhà ngươi nên bảo ta làm thế nào cho cường thịnh được. Bách Lý Hề nói: - Chúa công không nệ tôi là người hèn mạt già yếu mà hỏi đến tôi, tôi đâu lại còn dám tiếc lời không nói. Nguyên đất Ung Kỳ là một nơi hiểm trở, vua Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu ngày xưa nhờ đất ấy mà cường thịnh, nay nhà Chu không biết giữ mà cho nước Tần ta, ấy là lòng trời muốn mở mang cho nước Tần ta đó! Vả lại ở cõi phía Tây này cả thảy đến vài mươi nước nhỏ, nếu ta kiêm tính các nước ấy thì đất có thể cày được, dân có thể dùng được, các nước chư hầu ở trung quốc, còn ai tranh nổi với chúa công; bấy giờ chúa công sẽ tìm cách mà tiến vào trung quốc, tôi dám chắc rằng nghiệp bá chủ cầm lỏng ở trong tay chúa công đó. Tần Mục công nghe lời, liền đứng ngay dậy mà nói rằng: - Nay ta được nhà ngươi giúp, khác nào như nước Tề được trọng phụ! Tần Mục công cùng với Bách Lý Hề nói chuyện với nhau trong 3 ngày, lấy làm hợp ý lắm. Tần Mục công liền phong cho Bách Lý Hề làm thượng khanh, giao lấy quyền chính trong nước. Bởi thế người nước Tần gọi Bách Lý Hề là "Ngũ cổ đại phu"; lại tương truyền nhau rằng: Bách Lý Hề là một người ở dưới mõm trâu mà vua nước Tần đem lên để dùng. Vì Bách Lý Hề đang ở nước Sở, nhà vua nước Tần đem năm bộ da dê đi chuộc về. Bách Lý Hề xin từ chức thượng khanh và tiến dẫn một người khác để thay mình.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  7. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 26 Bách Lý Hề nhận được vợ cũ Tần Mục công mộng thấy điềm lành

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tần Mục công biết cái tài của Bách Lý Hề, muốn phong làm chức thượng khanh. Bách Lý Hề nói: - Tôi có một người bạn tên là Kiển Thúc, tài gấp mười tôi, nay chúa công muốn sửa sang chính trị thì nên dùng Kiển Thúc mà cho tôi giúp vào. Tần Mục công nói: - Cái tài của nhà ngươi thì ta đã biết rõ rồi! Nhưng chưa biết Kiển Thúc là người thế nào? Bách Lý Hề nói: - Kiển Thúc là người hiền, chẳng những chúa công chưa biết, dẫu người nước Tề và nước Tống cũng chưa ai biết cả, nhưng mà chỉ có một mình tôi biết mà thôi. Nguyên khi trước tôi định theo Công tử Vô Tri ở nước Tề, Kiển Thúc can tôi rằng không nên, tôi liền bỏ nước Tề mà thoát được cái vạ Vô Tri; sau tôi định theo Vương tử Đồi nhà Chu, Kiển Thúc cũng can tôi rằng không nên, tôi lại bỏ nhà Chu mà thoát được cái vạ Vương tử Đồi; sau tôi theo vua nước Ngu, Kiển Thúc lại can tôi rằng không nên, nhưng bấy giờ tôi nghèo khổ quá, phải liều mà làm quan, thành ra bị người nước Tấn bắt. Hai lần trước, tôi theo lời Kiển Thúc thì thoát khỏi tai vạ, mà một lần sau không theo lời thì suýt nữa đến nỗi hại thân, xem thế thì biết cái tài trí của Kiển Thúc hơn người nhiều lắm. Bấy giờ Kiển Thúc ẩn thân ở làng Minh Lộc nước Tống, xin chúa công cho người đi triệu ngay về. Tần Mục công mới sai Công tử Trí giả hình làm người đi buôn, đem đồ lễ vật sang nước Tống để đón Kiển Thúc. Bách Lý Hề lại viết riêng một bức thư gởi sang. Công tử Trí đi đến làng Minh Lộc, gặp mấy người nông phu ngồi nghỉ ở trên bờ ruộng, cùng nhau gõ nhịp mà hát rằng: "Núi treo không thang hề.. đá mọc lủng củng; đường đi không đuốc hề.. bùn lầy xùng xục! Cùng ngồi ở trên bờ ruộng hề.. kia kìa suối ngọt mà đất nục; Chúng ta chân lắm tay bùn hề.. chăm chỉ về sự trồng thóc! Trời cho không mất mùa hề.. miếng ăn được sung túc; Hưởng trọn tuổi trời hề.. chẳng vinh mà cũng chẳng nhục!" Công tử Trí ngồi trên xe, nghe thấy bài hát có ý ung dung tự thích, không theo thói đời, mới bảo người đánh xe rằng: - Người ta thường nói: Làng nào có người quân tử ở thì đổi được những phong tục dở, nay ta tới làng Kiển Thúc ở, mà trong đám người cày ruộng cũng đều có cái tư cách cao thượng, thế thì chắc rằng Kiển Thúc là một bậc đại hiền. Nói xong liền xuống xe hỏi thăm mấy người cày ruộng rằng: - Nhà Kiển Thúc ở chỗ nào? Người cày ruộng nói: - Nhà ngươi hỏi làm gì? Công tử Trí nói: - Có người bạn cũ của Kiển Thúc là Bách Lý Hề gởi ta một bức thư đưa cho Kiển Thúc. Người cày ruộng trỏ mà bảo rằng: - Đi lên một quảng nữa có cái rừng trúc, bên tả có suối, bên hữu có đá, ở giữa có một cái nhà tranh, đó là nhà Kiển Thúc. Công tử Trí chắp tay vái chào, rồi lại lên xe đi độ nửa dặm nữa, đến cái nhà tranh ấy, đỗ xe ở ngoài, sai người gõ cửa gọi. Có một đứa trẻ con mở cửa ra mà hỏi rằng: - Quí khách đi đâu thế? Công tử Trí nói: - Tôi đến thăm Kiển Thúc tiên sinh. Đứa trẻ con nói: - Thầy tôi đi vắng. Công tử Trí hỏi: - Tiên sinh đi chơi đâu? Đứa trẻ con nói: - Thầy tôi cùng với hai cụ bên láng giềng đi xem suối Thạch Hương, độ một chốc nữa thì về. Công tử Trí không dám vào trong nhà vội, còn ngồi ở trên viên đá để đợi. Đứa trẻ con lại khép cửa, trở vào trong nhà. Lát sau có một người to lớn mắt tròn mày rậm, mặt vuông mình dài, lưng vác hai chiếc chân hươu, từ phía tây đi về. Công tử Trí thấy hình dáng khác thường, liền đứng dậy đón chào. Người ấy bỏ cái chân hươu xuống đất, cùng với Công tử Trí đáp lễ. Công tử Trí hỏi đến họ tên. Người ấy đáp rằng: - Tôi tên gọi Kiển Bính, tên tự là Bạch Ất. Công tử Trí hỏi: - Ông với Kiển Thúc là thế nào? Kiển Bính nói: - Ấy là thân phụ tôi đấy. Công tử Trí lại thi lễ mà nói rằng: - Tôi được nghe tiếng đã lâu! Kiển Bính hỏi: - Ngài là người ở đâu? Đến đây có việc gì? Công tử Trí nói: - Có người bạn cũ của cụ nhà, tên là Bách Lý Hề, nay làm quan ở nước Tần, gởi tôi bức thư đưa sang đây. Kiển Bính nói: - Xin mời vào ngồi chơi tạm trong nhà, thân phụ tôi cũng sắp về bây giờ! Nói xong, Kiển Bính liền đẩy hai cánh cửa, nhường cho Công tử Trí vào trước, rồi lại vác hai chân hươu vào sau, đưa cho đứa trẻ con cất đi. Kiển Bính mời Công tử Trí ngồi, cùng nhau bàn những việc cày ruộng trồng dâu, lại nói đến võ nghệ nữa. Kiển Bính nói đâu ra đấy, rất có thứ tự. Công tử Trí khen thầm trong lòng rằng: - Người cha có hiền thì người kia mới được như thế, Bách Lý Hề tiến dẫn thật quả không sai! Khi uống trà xong, Kiển Bính sai đứa trẻ con ra cửa đón Kiển Thúc. Được một lúc, đứa trẻ con chạy vào báo rằng: - Ông đã về! Bấy giờ Kiển Thúc cùng với hai ông cụ láng giềng về đến ngoài cửa, trông thấy có xe đỗ, ngạc nhiên mà nói rằng: - Người làng ta, làm gì có cái xe này? Kiển Bính ở trong nhà chạy ra thuật lại chuyện Công tử Trí. Kiển Thúc và hai ông cụ bên láng giềng cùng vào, chào hỏi Công tử Trí, rồi mời nhau ngồi. Kiển Thúc nói: - Mới rồi tiện nhi nói em tôi là Bách Lý Hề có gởi một bức thư, xin ngài cho xem. Công tử Trí đưa trình bức thư của Bách Lý Hề. Kiển Thúc mở ra đọc, trong thư đại lược nói rằng: "Em là Bách Lý Hề này không biết nghe lời anh dặn, suýt nữa thì mắc nạn ở nước Ngu, may mà vua nước Tần muốn dùng người hiền, chuộc em ở trong bọn chăn trâu chăn ngựa, em về giao cho quyền chính; nhưng em tự lượng sức hèn tài mọn, một mình không làm nổi, muốn nhờ anh giúp vào. Vua nước Tần cũng mến tiếng anh lắm, vậy có sai Công tử Trí đem lễ vật sang đón, xin anh nhận lời cho; nếu anh còn quyến luyến ở chỗ sơn lâm thì em cũng bỏ nước Tần mà theo anh sang ở đất Minh Lộc vậy". Kiển Thúc nói: - Tại sao vua nước Tần lại biết Bách Lý Hề? Công tử Trí thuật lại những chuyện Bách Lý Hề trốn sang nước Sở; vua nước Tần biết là người hiền, đem năm bộ da dê sang chuộc về, kể hết cả lại một lượt, rồi lại nói với Kiển Thúc rằng: - Chúa công tôi phong Bách Lý Hề làm chức thượng khanh, nhưng Bách Lý Hề tiến dẫn tiên sinh, muốn mời tiên sinh sang giúp cho thì mới dám nhận chức, vậy chúa công tôi có sai tôi mang lễ vật sang đây để mời tiên sinh. Nói xong, Công tử Trí liền sai người ra mở thùng xe đem các đồ lễ vật vào, bày la liệt ở trong nhà. Hai cụ láng giềng vốn là kẻ nông phu, xưa nay chưa được trông thấy những lễ vật ấy bao giờ, nhìn nhau lấy làm kinh dị, bảo Công tử Trí rằng: - Có quí nhân đến đây mà chúng tôi không biết, xin ngài tha lỗi cho. Công tử Trí nói: - Các cụ dạy quá lời! Chúa công tôi mong đợi Kiển Thúc tiên sinh đây khác nào như lúa khô mà mong mưa, nhờ hai cụ nói hộ cho một lời thì chúng tôi lấy làm cảm ơn lắm. Hai cụ bên láng giềng bảo Kiển Thúc rằng: - Vua nước Tần đã biết trọng người hiền như thế thì cũng không nên để cho quí nhân phải về không. Kiển Thúc nói: - Ngày trước vua nước Ngu không dùng Bách Lý Hề, đến nỗi mất nước. Nay vua nước Tần đã biết trọng người hiền mà dùng Bách Lý Hề thì một mình Bách Lý Hề cũng đã đủ rồi. Lão phu đây đã lâu không nghĩ đến việc đời nữa, xin tha cho lão phu. Các đồ lễ vật này, lão phu xin nộp lại, nhờ ngài nói hộ với vua nước Tần cho. Công tử Trí nói: - Nếu tiên sinh không đi thì Bách Lý Hề cũng không chịu nhận chức. Kiển Thúc ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thở dài mà than rằng: - Bách Lý Hề là người có tài mà lâu nay chưa gặp được minh chủ, âu là ta cũng phải giúp Bách Lý Hề mà đi một phen mới được, nhưng chẳng bao lâu rồi ta cũng lại về đây cày ruộng mà thôi. Đứa trẻ con vào nói với Kiển Thúc rằng: - Chân hươu đã nấu chín rồi! Kiển Thúc sai vào đầu giường lấy chai rượu mới cất, đem ra để thết khách. Kiển Thúc mời Công tử Trí và hai ông cụ láng giềng cùng uống rượu, đũa tre chén đất, chủ khách cùng nhau thù tạc, đều no say vui vẻ cả. Trời đã gần tối, Kiển Thúc mời Công tử Trí ngủ ở lại trong nhà tranh. Sáng hôm sau, hai ông cụ bên láng giềng lại mời một tiệc rượu để tiễn chân. Trong khi uống rượu, Công tử Trí khen tài Kiển Bính, cũng mời sang nước Tần một thể. Kiển Thúc vâng lời, rồi đem các đồ lễ vật chia cho hai ông cụ láng giềng, nhờ trông nom hộ nhà cửa, lại dặn dò người nhà phải chăm chỉ công việc ruộng nương, không được trễ biếng. Kiển Thúc từ giã hai ông cụ láng giềng rồi cùng Kiển Bính và Công tử Trí lên xe thẳng đường tiến sang nước Tần. Khi gần đến bờ cõi nước Tần, Công tử Trí về trước, vào yết kiến Tần Mục công, nói với Tần Mục công rằng: - Kiển Thúc đã đến, và con trai là Kiển Bính cũng người có tài, tôi mời cả hai để chúa công dùng. Tần Mục công mừng lắm, liền sai Bách Lý Hề đi đón. Khi Kiển Thúc vào, Tần Mục công xuống thềm nghênh tiếp, mời ngồi và hỏi rằng: - Bách Lý Hề thường nói tiên sinh là người hiền, xin tiên sinh chỉ bảo cho. Kiển Thúc nói: - Nước Tần ta ở cõi chốn Tây này tiếp giáp với các nước Nhung Địch, đất hiểm quân mạnh, mà không được bằng các nước trung quốc là chỉ vì không có uy đức đó thôi. Không có uy thì sao cho người ta sợ; không có đức thì sao cho người ta mến; người ta không sợ, không mến thì làm bá chủ thế nào được. Tần Mục công nói: - Uy và đức, hai điều ấy điều nào nên làm trước? Kiển Thúc nói: - Nên lấy đức làm gốc, lại có uy để giúp vào. Nếu có đức mà không có uy thì sao giữ được nước, có uy mà không có đức thì sao yên được dân. Tần Mục công nói: - Ta muốn sửa đức mà lập uy thì nên làm thế nào? Kiển Thúc nói: - Dân nước Tần ta tập nhiễm phong tục rợ mọi, không biết lễ nghĩa, nay muốn cho dân biết tôn kính người trên tất phải dùng giáo hóa và hình phạt. Có giáo hóa thì dân biết ơn, có hình phạt thì dân biết sợ, bấy giờ kẻ trên người dưới, khác nào như thân thể trong một người. Quản Di Ngô giúp nước Tề mà sai khiến được thiên hạ, cũng vì lẽ ấy. Tần Mục công hỏi: - Cứ theo như lời nói của tiên sinh, có thể làm bá chủ thiên hạ được không? Kiển Thúc nói: - Thế cũng chưa đủ! Muốn làm bá chủ thiên hạ thì có ba điều nên kiêng: Chớ có tham lam; chớ có tức giận; chớ có vội vàng. Tham lam thì nhiều điều lầm lỗi; tức giận thì nhiều sự khó khăn; vội vàng thì nhiều việc tan nát. Chúa công biết kiêng ba điều ấy thì có thể làm nên cơ nghiệp bá chủ. Tần Mục công khen phải, rồi nói với Kiển Thúc rằng: - Tiên sinh thử nghĩ xem công việc ngày nay điều gì là cần hơn? Kiển Thúc nói: - Tề hầu già yếu, công nghiệp bá chủ mỗi ngày một suy kém, chúa công nên thu phục lấy các nước Nhung Địch ở về cõi Tây này; khi đã thu phục được rồi, bấy giờ sẽ tìm cách mà tiến vào trung quốc, dùng sự ân nghĩa mà chữa những điều khuyết điểm của Tề hầu, như thế thì còn ai tranh được ngôi bá chủ nữa. Tần Mục công bằng lòng mà nói rằng: - Tiên sinh và Bách Lý Hề thật là bậc tôn trưởng của thứ dân trong thiên hạ. Nói xong, liền phong Kiển Thúc làm hữu thứ trưởng. Bách Lý Hề làm tả thứ trưởng, cùng làm chức thượng khanh, gọi là hai quan tể tướng. Lại cho Kiển Bính làm quan đại phu. Từ bấy giờ nước Tần mỗi ngày một cường thịnh. Tần Mục công nghe đồn nước nào có người hiền tài cũng sai người đi tìm. Công tử Trí tiến người nước Tần là Tây Khất Thuật. Tần Mục công cũng triệu đến để dùng. Bách Lý Hề nghe đồn Do Dư nước Tấn là người có tài, mới hỏi thăm Công Tôn Chi, Công Tôn Chi nói: - Do Dư ở nước Tấn mãi không có ai dùng, nay đã làm quan ở nước Tây Nhung rồi! Bách Lý Hề có ý tiếc lắm. Lại nói chuyện vợ Bách Lý Hề là Đỗ Thị từ khi Bách Lý Hề đi vắng, vẫn làm thuê làm mướn để kiếm ăn; sau nghèo khổ quá, không lấy gì cho đủ được, mới đem con lưu lạc sang nước Tần, làm nghề đi giặt thuê. Con trai Bách Lý Hề tên là Thị, tên tự là Mạnh Minh, chỉ quen tính lêu lổng, theo người ta đi săn bắn, chẳng chịu làm ăn gì cả. Đỗ Thị thường đem lời khuyên bảo mà Mạnh Minh cũng không nghe. Đến lúc Bách Lý Hề làm tể tướng nước Tần, Đỗ Thị đã được nghe tiếng, lại hai ba lần trông thấy ngồi xe đi qua mà không dám nhận. Bấy giờ trong dinh Bách Lý Hề cần đến người giặt thuê, Đỗ Thị đã tình nguyện xin vào giặt, làm lụng rất chăm chỉ, người nhà đều có lòng yêu, nhưng vẫn chưa lần nào được giáp mặt Bách Lý Hề. Một hôm, Bách Lý Hề ngồi ở nhà trên, các phường nhạc gẩy đàn thổi sáo ở dưới thềm. Đỗ Thị nói với người nhà rằng: - Tôi cũng có biết âm nhạc, xin cho tôi đến dưới thềm nghe một vài bài đàn. Người nhà đưa Đỗ Thị đến dưới thềm, nói chuyện với các phường nhạc. Các phường nhạc hỏi Đỗ Thị rằng: - Trong các nghề âm nhạc, nhà ngươi biết những thứ nào? Đỗ Thị nói: - Tôi biết gẩy đàn, lại biết hát nữa. Các phường nhạc liền đưa cho một cây đàn cầm, Đỗ Thị ôm cây đàn mà gẩy, nghe tiếng rất ai oán! Các Phường nhạc đều chịu là hay; lại bảo Đỗ Thị hát chơi một bài. Đỗ Thị nói: - Từ khi tôi lưu lạc đến đây, chưa hề cất tiếng hát bao giờ nay muốn xin lên nhà trên hát hầu quan tể tướng một bài. Các phường nhạc lên nói với Bách Lý Hề. Bách Lý Hề cho lên. Đỗ Thị cúi đầu khép nép rồi cất tiếng hát. Hát rằng: "Bách Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày nào cùng nhau ly biệt: Mổ con gà mái ấp, thổi nồi cơm gạo vàng. Chứ thương thì thương.. ngày nay giàu sang, quên ta hay sao!.. Bách Lý Hề, năm bộ da dê! Cha ăn thịt cá, con đói khóc dài; chồng mặc gấm vóc, vợ giặt thuê hoài! Chứ thương thì thương.. ngày nay giàu sang quên ta hay sao!.. Bách Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày xưa, tiễn chàng ra đi, thiếp tôi nước mắt chứa chan, tới bây chừ, thấy chàng ngồi đó, thiếp tôi ruột đứt đôi cơn! Chứ thương thì thương.. ngày nay giàu sang, quên ta hay sao!.." Bách Lý Hề nghe câu hát ấy lấy làm ngạc nhiên, gọi đến trước mặt mà hỏi chuyện thì thành ra vợ mình khi trước liền ôm lấy mà khóc òa lên một hồi lâu, rồi hỏi đến đứa con, Đỗ Thị nói: - Nó vẫn đi săn bắn ở trong xóm. Bách Lý Hề sai người đi triệu đến. Vợ chồng cha con thành ra lại được sum họp cùng nhau. Tần Mục công nghe tin vợ con Bách Lý Hề mới đến sai người đem cho 1.000 chung thóc và một xe vàng lụa. Ngày hôm sau, Bách Lý Hề đem con là Mạnh Minh vào yết kiến Tần Mục công. Tần Mục công cho Mạnh Minh làm quan đại phu, cùng với Tây Khất Thuật và Kiển Bính đều giữ việc đi đánh giặc. Vua nước Khương Nhung là Ngô Lý đem quân sang quấy nhiễu. Tần Mục công sai Mạnh Minh, Tây Khất Thuật và Kiển Bính đem quân đi đánh. Ngô Lý bị thua, chạy sang nước Tấn. Vua nước Tây Nhung là Xích Ban thấy nước Tần cường thịnh, sai Do Dư đem lễ vật sang yết kiến Tần Mục công, để dò xem Tần Mục công là người thế nào. Tần Mục công đưa Do Dư đi chơi các nơi lâu đài vườn tược, có ý khoe khoang. Do Dư nói: - Chúa công sửa sang như thế này, bắt ma làm hay bắt người làm? Bắt ma làm thì khổ ma, bắt người làm thì khổ người! Tần Mục công nghe nói lấy làm lạ, liền hỏi Do Dư rằng: - Nước Tây Nhung không có lễ nhạc pháp độ gì cả thì lấy gì mà trị nước? Do Dư cười mà nói rằng: - Ấy chỉ có lễ nhạc pháp độ mà trung quốc đến nỗi hay biến loạn đó! Thánh nhân đời xưa lập ra văn pháp để bó buộc người ta mới được yên ổn một chút; sau này sinh ra khiêu dâm, chỉ mượn cái danh lễ nhạc để che chở thân mình, chỉ mượn cái uy pháp độ để đốc trách kẻ dưới, khiến cho nhiều người oán giận mà gây ra cuộc tranh chiến lẫn nhau. Còn như nước Tây Nhung tôi thì không thế, người trên thì lấy ân nghĩa mà tiếp đãi kẻ dưới, kẻ dưới thì lấy trung tín mà phụng thờ người trên, kẻ trên người dưới, không có hình tích gì với nhau, thế mới thật là đời thịnh trị. Tần Mục công nín lặng, không nói gì cả, sau đem lời nói của Do Dư thuật lại cho Bách Lý Hề nghe. Bách Lý Hề nói: - Do Dư là bậc đại Hiền ở nước Tấn, tôi vẫn nghe tiếng đã lâu! Tần Mục công nghe lời, có ý buồn mà nói rằng: - Do Dư là bậc đại hiền mà Tây Nhung dùng được, ấy là một sự lo cho nước Tần ta, biết làm thế nào? Bách Lý Hề nói: - Nội Sử Sưu là người mưu trí, chúa công nên bàn với hắn. Tần Mục công liền cho triệu Nội Sử Sưu vào để thương nghị, Nội Sử Sưu nói: - Vua Tây Nhung ở nơi rợ mọi, chưa được nghe âm nhạc của trung quốc ta bao giờ, nay chúa công sai người đem một bộ nữ nhạc đưa cho vua Tây Nhung; còn Do Dư thì giữ lại ở đây không cho về vội, khiến cho vua tôi ngờ vực lẫn nhau, chính sự sinh ra trễ biếng, như thế thì dẫu muốn lấy cả nước Tây Nhung cũng được, huống chi là một mình Do Dư. Tần Mục công khen phải, liền giữ Do Dư ở lại, cùng ăn một mâm, cùng nằm một chiếu; lại sai bọn Kiển Thúc, Bách Lý Hề và Công Tôn Chi thay đổi nhau mà tiếp đãi Do Dư, để dò hỏi những địa thế và binh lực của nước Tây Nhung. Một mặt sai Nội Sử Sưu đem bộ nữ nhạc sang dâng vua Tây Nhung là Xích Ban. Xích Ban bằng lòng lắm; từ bấy giờ ngày đêm say mê về bộ nữ nhạc, chẳng thiết gì đến chính sự cả. Do Dư ở nước Tần một năm mới về. Vua Tây Nhung thấy Do Dư về chậm, có ý không bằng lòng. Do Dư nói: - Tôi vẫn xin về luôn mà vua nước Tần cứ cố ý giữ lại mãi. Vua Tây Nhung nghi là có ý gì với nước Tần, từ bấy giờ không tin dùng Do Dư nữa. Do Dư thấy vua Tây Nhung say mê bộ nữ nhạc, chẳng thiết gì đến chính sự, lại cố ý can ngăn. Vua Tây Nhung không nghe lời. Tần Mục công nghe tin, sai người sang mật triệu Do Dư. Do Dư bỏ Tây Nhung về với Tần Mục công. Tần Mục công cho làm chức á khanh, cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề cùng cầm quyền chính. Do Dư liền dâng kế đánh Tây Nhung. Khi quân nước Tần kéo sang đất Tây Nhung, đường đi lối lại đều thông thuộc cả. Vua Tây Nhung không chống cự nổi, phải đầu hàng nước Tần. Vua Tây Nhung xưa nay vẫn là đầu cả các nước Nhung Địch. Bấy giờ các nước nhỏ nghe thấy vua Tây Nhung phải đầu hàng nước Tần, cũng đều đem nhau đến đầu hàng cả. Tần Mục công mở tiệc ăn mừng. Các quan triều thần thay đổi nhau mà chúc thọ. Tần Mục công uống rượu say quá, khi vào trong cung, mê mẩn chẳng biết gì cả, nội thị thấy vậy đều lấy làm sợ hãi. Các quan triều thần nghe tin, kéo nhau vào vấn an. Thế tử Bình mời quan thầy thuốc vào xem mạch, mạch chạy như thường, nhưng mắt nhắm và không nói năng cử động được. Quan thầy thuốc nói: - Đó là việc quỷ thần. Xin sai người làm lễ cúng. Nội Sử Sưu nói: - Dẫu cúng cũng vô ích. Ngủ say như thế tất là có giấc mộng, nên chờ ít lâu, tự khắc tỉnh lại, chớ nên làm huyên náo. Thế tử Bình ngồi liền ở bên cạnh, bỏ ăn bỏ ngủ: Chờ đến ngày thứ năm, Tần Mục công mới tỉnh dậy, mồ hôi trán đầm đìa như mưa. Thế tử Bình quỳ xuống mà hỏi rằng: - Phụ thân nghe trong mình thế nào? Sao giấc ngủ lâu như thế? Tần Mục công nói: - Ta vừa mới ngủ được một lúc! Thế tử Bình nói: - Phụ thân đã ngủ năm ngày nay, tất là có mộng thấy gì lạ, chớ chẳng không. Tần Mục công ngạc nhiên mà hỏi rằng: - Sao nhà ngươi lại biết? Thế tử Bình nói: - Nội Sử Sưu nói thế. Tần Mục công liền gọi Nội Sử Sưu đến bên cạnh giường mà bảo rằng: - Mới rồi ta mộng thấy một người đàn bà, mặt hoa da ngọc, tay cầm cái ấn ngọc mà nói là phụng mệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế đến triệu ta. Ta liền đứng dậy đi theo, bỗng thấy hình như đi ở trong đám mây, đến một cung điện, thềm cao chín thước, trên rủ rèm châu. Người đàn bà đưa ta vào lạy ở dưới thềm. Được một lúc rèm châu cuốn lên, trông thấy trên điện: Cột vàng tường gấm, hào quang rực rỡ, có một vị Ngọc Hoàng mũ miện áo bào, ngồi trên ngai vàng, hai bên có các quan đứng hầu, nghi vệ rất nghiêm chỉnh! Đức Ngọc Hoàng truyền ban cho chén rượu, một người nội thị bưng chén rượu bằng ngọc đưa cho ta, mùi hương ngào ngạt. Đức Ngọc Hoàng lại sai người đem một cái sổ tay ra, gọi tên ta mà tuyên cáo rằng: "Nhâm hiếu"! Nhà ngươi nghe lời trẫm mà dẹp loạn cho nước Tấn". Khi tuyên cáo xong, người đàn bà ấy bảo ta lạy tạ, rồi lại đưa ta về. Ta hỏi tên là gì? Thì người ấy tự xưng là Bảo phu nhân ở núi Thái Bạch. Nếu ta vì hắn lập đền thờ thì hắn sẽ phù hộ cho được nên nghiệp bá chủ. Ta lại hỏi nước Tấn có loạn gì thì hắn không chịu nói, bảo là việc trời không dám tiết lộ. Bấy giờ ta nghe tiếng chim trĩ kêu, bỗng sực tỉnh dậy, chẳng hay đó là điềm gì? Nội Sử Sưu nói: - Hiện nay Tấn hầu đang yêu Ly Cơ, ghét thế tử, tài nào mà khỏi loạn được. Đức Ngọc Hoàng truyền mệnh cho chúa công, ấy là cái phúc cho chúa công đó! Tần Mục công nói: - Bảo phu nhân là thế nào? Nội Sử Sưu nói: - Tôi nghe nói đời Tần Văn công ta ngày xưa, có người ở đất Trần Sương bắt được một con vật kỳ dị, đem dâng Tần Văn công. Khi đi đến nửa đường, bỗng gặp hai đứa trẻ bảo: Con vật ấy là loài Vị, nó hay ăn óc người chết ở dưới đất; con Vị cũng nói được như người mà bảo: Hai đứa trẻ kia là loài Trĩ tinh: Một con trống, một con mái, nếu bắt được con trống thì làm nên nghiệp vương, bắt được con mái thì làm nên nghiệp bá. Bấy giờ người Trần Sương liền bỏ con Vị mà đuổi theo bắt hai đứa trẻ. Hai đứa trẻ hóa ra hai con chim Trĩ mà bay mất. Người Trần Sương thuật chuyện lại cho Tần Văn công nghe. Tần Văn công sai chép chuyện ấy vào sách, hiện còn cất ở trong kho. Đất Trần Sương nay ở phía Tây núi Thái Bạch, chúa công nên ra đấy đi săn bắn để xem xét thì có thể biết rõ được. Tần Mục công mở sách ra xem, quả như lời nói của Nội Sử Sưu. Ngày hôm sau, Tần Mục công đi săn bắn ở núi Thái Bạch. Người ở Trần Sương chăng lưới bắt được con chim Trĩ, tự nhiên hóa ra con Thạch Kê bằng đá, trông rất kỳ dị, liền đem dâng Tần Mục công, Nội Sử Sưu nói: - Ấy tức là Bảo phu nhân đó! Đó là cái điềm bắt được con mái thì làm nên nghiệp bá! Chúa công nên lập đền thờ ở đất Trần Sương. Tần Mục công bằng lòng truyền lập đền thờ, gọi là đền Bảo phu nhân, sau quả nhiên Tần Mục công dẹp được loạn nước Tấn.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  8. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 27 Ly Cơ lập kế giết Thân Sinh Hiến công gần chết dặn Tuân Tức

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tấn Hiến công từ khi lấy được cả nước Ngu và nước Quắc, các quan triều thần đều vào chúc mừng, chỉ có Ly Cơ trong bụng không bằng lòng, bởi vì bản tâm muốn cho Tấn Hiến công sai thế tử Thân Sinh đi đánh Quắc, không ngờ lại hóa ra Lý Khắc đi thay, mà lại lập nên công trạng, chẳng còn nghĩ kế gì để hại thế tử Thân Sinh cho được nữa! Ly Cơ lại bàn riêng với Ưu Thi rằng: - Lý Khắc là đảng Thân Sinh, bây giờ công to chức trọng như vậy thì ta còn làm gì nổi! Ưu Thi nói: - Tuân Tức đem một viên ngọc bích và một cỗ ngựa mà bày mưu lập kế để lấy được nước Ngu cùng nước Quắc, thế thì tài còn gấp mấy Lý Khắc, mà công trạng cũng chẳng kém gì Lý Khắc, bây giờ phu nhân dùng Tuân Tức làm chức thái phó để dạy Tề Hề và Trác Tử thì mới có thể trị nổi Lý Khắc được. Ly Cơ nói với Tấn Hiến công, dùng Tuân Tức làm chức thái phó để dạy Tề Hề và Trác Tử. Ly Cơ lại bảo Ưu Thi rằng: - Nay Tuân Tức đã vào đảng với ta rồi! Nhưng còn Lý Khắc ở trong triều thì mưu kế của ta khó lòng mà thành được, bây giờ biết dùng kế gì mà trừ được hắn đi. Có trừ được Lý Khắc thì mới có thể hại nổi Thân Sinh. Ưu Thi nói: - Lý Khắc là người bề ngoài thì cương trực mà trong lòng hay lo sợ, nếu đem sự lợi hại mà bảo hắn thì hắn tất có ý bắt cá hai tay, bây giờ ta sẽ dụ hắn phải theo ta. Lý Khắc là người thích uống rượu, để tôi xin bày tiệc rượu mời hắn, rồi thử đem lời nói dò xem ý hắn thế nào, nếu hắn theo lời thì may cho phu nhân lắm, mà hắn không theo lời nữa thì tôi đây là một người phường hát, chẳng qua cũng là sự nói đùa bỡn đó thôi, có tội gì mà sợ! Ly Cơ khen phải. Ưu Thi liền đến nói với Lý Khắc rằng: - Quan đại phu lâu nay đi đánh dẹp nước Ngu và nước Quắc, khó nhọc nhiều lắm, tôi muốn đem chén rượu nhạt đến để ngồi hầu quan đại phu, gọi là mua vui trong một đôi lúc, chẳng hay quan đại phu nghĩ thế nào? Lý Khắc thuận cho. Ưu Thi liền mang rượu đến nhà Lý Khắc để mời Lý Khắc uống. Trong khi ăn tiệc, Lý Khắc và vợ là Mạnh Nương cùng ngồi. Ưu Thi sụp lạy hai lạy, dâng chén rượu để chúc mừng, rồi ngồi hầu rượu ở bên cạnh, chuyện trò đùa bỡn, rất vui vẻ! Rượu đã ngà ngà say. Ưu Thi đứng dậy múa để chúc thọ, rồi nói với Mạnh Nương rằng: - Bà lớn cho tôi ăn uống, tôi xin ca một bài hát mới để bà lớn nghe. Mạnh Nương rót chén rượu để thưởng cho Ưu Thi, và đưa cho một món thịt dê mà hỏi rằng: - Bài hát mới là bài gì? Ưu Thi nói: - Tên gọi là bài Hạ Dự! Quan đại phu đây được nghe bài hát ấy thì mới có thể giữ được phú quí. Nói xong, liền gõ nhịp hát. Hát rằng: "Chim Hạ Dự ngô ngô hề.. chi cho bằng ô ô! Người ta họp cả ở trong vườn hoa hề.. sao mày cứ đậu ở cành khô! Vườn hoa kia, tốt đẹp dường bao hề.. cành khô kia, tất có ngày bị lưỡi dao! Lưỡi dao sắp đến nơi hề.. cành khô kia biết làm thế nào!.." Ưu Thi hát xong, Lý Khắc cười hỏi: - Thế nào là vườn hoa? Thế nào là cành khô? Ưu Thi nói: - Thí dụ như người ta, mẹ đang làm phu nhân, con sắp sửa được nối ngôi vua, tức là một cái cây tươi tốt rườm rà, các giống chim nương tựa ở đấy, thế gọi là vườn hoa; nhược bằng mẹ đã chết rồi, con lại bị người ta dèm pha, chẳng bao lâu sẽ có tai vạ, tức là một cái cây gốc lay lá rụng, các giống chim còn nương tựa vào đâu, thế gọi là cành khô. Nói xong, liền cáo từ lui ra. Lý Khắc trong lòng áy náy, đứng dậy trở vào thư phòng, một mình lững thững, đi quanh trong nhà, vừa đi vừa nghĩ; nghĩ quẩn nghĩ quanh, không thể ngủ được, nghĩ thầm trong lòng rằng: Ưu Thi là một người yêu của chúa công và phu nhân bây giờ, vẫn được ra vào ở chỗ cung cấm, ngày hôm nay hát như thế tất là có ý. Hắn nói chưa hết lời, âu là sáng mai ta sẽ hỏi lại. Đến nửa đêm, ruột nóng như lửa, không thể nhịn được, Lý Khắc sai người gọi Ưu Thi đến để hỏi chuyện. Ưu Thi biết trước, đã sắp sửa mũ áo chỉnh tề đi theo người nhà vào thẳng đến tận chỗ giường nằm của Lý Khắc. Lý Khắc cho Ưu Thi ngồi ở bên cạnh giường, lấy tay vỗ vào đùi mà hỏi rằng: - Bài hát của nhà ngươi ca hôm nay, ta đã hiểu ý, có phải là trỏ thế tử Thân Sinh ở đất Khúc Ốc không? Tất là nhà ngươi có được biết chuyện làm sao nên nói cho ta hay, đừng giấu làm gì! Ưu Thi nói: - Tôi vẫn muốn nói đã lâu, nhưng chỉ hiềm ngài là quan thái phó của Thân Sinh, nên chưa dám nói, sợ ngài lấy làm quái dị mà thôi. Lý Khắc nói: - Nhà ngươi nói để cho ta biết cách mà tránh vạ, thế là nhà ngươi yêu ta, có gì mà quái dị! Ưu Thi cúi đầu ghé lại bên gối mà nói thầm rằng: - Chúa công đã hứa lời với phu nhân, định giết Thân Sinh mà lập Hề Tề rồi đó! Lý Khắc nói: - Ngộ chúa công nghĩ lại mà thôi đi chăng? Ưu Thi nói: - Chúa công yêu phu nhân, điều đó ngài đã biết; chúa công lại yêu Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ, điều đó ngài cũng đã biết. Trong thì có phu nhân, ngoài thì có Lương Ngũ và Đông Quan Vũ, việc ấy còn thôi thế nào được! Lý Khắc nói: - Theo ý chúa công mà giết Thân Sinh thì ta không nỡ, mà giúp Thân Sinh để chống chúa công thì ta không dám, âu là ta cũng trung lập chẳng theo bên nào cả, mới có thể thoát nạn được. Ưu Thi nói: - Ngài nghĩ phải lắm! Khi Ưu Thi lui về rồi, Lý Khắc ngồi cho đến suốt sáng, đem quyển sách Sử Tô và Bốc Yển ghi chép mấy lời trong quẻ bói ngày trước, tính ra vừa được 10 năm, mới thở dài mà than rằng: - Việc bói toán cũng nghiệm thật! Nói xong, liền đến nhà quan đại phu là Phi Trịnh Phủ, đuổi hết người xung quanh đi, rồi bảo Phi Trịnh Phủ rằng: - Lời nói Sử Tô và Bốc Yển đến ngày nay mới nghiệm. Phi trịnh Phủ hỏi: - Ngài đã nghe thấy những gì? Lý Khắc nói: - Đêm mới rồi Ưu Thi có bảo tôi rằng: Chúa công sắp giết Thân Sinh mà lập Tề Hề. Phi Trịnh Phủ hỏi: - Vậy thì ngài trả lời thế nào? Lý Khắc nói: - Tôi bảo hắn là tôi cứ giữ trung lập mà thôi. Phi Trịnh Phủ nói: - Ngài nói như thế thì khác nào trông thấy lửa cháy mà lại cho thêm củi vào. Cứ như ngài bây giờ thì tôi thiết tưởng nên giả cách làm ra ý không tin; hắn thấy ngài không tin thì tất phải e sợ mà chưa dám làm vội: Bấy giờ ngài sẽ vì Thân Sinh mà lập thêm bè đảng để giữ gìn lấy ngôi thế tử, rồi sau tìm cách mà giãi bày với chúa công, khiến cho chúa công nghĩ lại, như thế thì còn có thể cứu vớt được. Nay ngài bảo là ngài trung lập thì Thân Sinh thành ra thế cô, chẳng bao lâu sẽ bị tai vạ. Lý Khắc dẫm chân xuống đất mà than rằng: - Tiếc thay! Tôi không bàn với ngài trước! Lý Khắc cáo từ trở về, giả cách ngã xe, rồi ngày hôm sau nói là bị thương ở chân, không vào triều được. Ưu Thi đem chuyện Lý Khắc nói lại cho Ly Cơ nghe. Ly Cơ rất bằng lòng; đêm hôm ấy nói với Tấn Hiến công rằng: - Lâu nay thế tử vẫn ở đất Khúc Ốc, chúa công nên cho người triệu về, nói là thiếp có lòng nhớ mong thế tử lắm, để thiếp mua chuộc lấy lòng thế tử, họa may thế tử nghĩ lại mà khỏi làm hại thiếp chăng. Chúa công nghĩ thế nào? Tấn Hiến công nghe lời, cho người triệu thế tử Thân Sinh về. Thân Sinh vào yết kiến Tấn Hiến công, rồi lại vào cung yết kiến Ly Cơ. Ly Cơ bày tiệc để thết đãi. Đêm hôm ấy, Ly Cơ lại khóc lóc mà nói với Tấn Hiến công rằng: - Thiếp muốn mua chuộc lòng thế tử mà bày tiệc để thết đãi, chẳng ngờ thế tử vô lễ quá! Tấn Hiến công nói: - Làm sao? Ly Cơ nói: - Khi thế tử rượu đã ngà ngà say, lại giở giọng đùa bỡn mà bảo thiếp rằng: "Cha ta già rồi! Đằng ấy nghĩ thế nào?" Thiếp nổi giận mà không trả lời. Thế tử lại nói: "Ông ta ngày xưa già, đem mẹ ta để lại cho cha ta, nay cha ta già, tất lại để đằng ấy cho ta chứ còn ai!". Nói xong toan xông lại mà nắm lấy tay thiếp, thiếp chống cự mãi mới chạy thoát. Nếu chúa công không tin thì xin chúa công cho thiếp cùng thế tử vào chơi trong vườn hoa, rồi chúa công đứng ở trên đài nhìn xem thì sẽ biết tình. Tấn Hiến công nghe lời. Sáng hôm sau, Ly Cơ triệu thế tử Thân Sinh cùng vào chơi trong vườn hoa. Ly Cơ đã lập kế sẵn; đem mật ngọt bôi vào mái tóc khi vào đến vườn hoa, ong bướm bay xúm xít lại, đậu khắp trên đầu. Ly Cơ nói với Thân Sinh rằng: - Kìa! Sao thế tử không đuổi hộ những ong bướm đi cho tôi. Thân Sinh vô tình, đi đằng sau lưng lấy tay áo xua đuổi đàn ong bướm. Tấn Hiến công đứng ở trên đài trông thấy, yên trí là Thân Sinh trêu ghẹo Ly Cơ trong lòng tức giận, toan bắt Thân Sinh để đem chém. Ly Cơ quì xuống mà tâu rằng: - Nay thiếp triệu đến mà chúa công đem giết đi thì làm cho thiếp mang tiếng là mưu giết thế tử. Và việc đó cũng là một việc ám muội, người ngoài chưa ai biết đến, chúa công nên nhịn. Tấn Hiến công liền cho Thân Sinh trở về Khúc Ốc, rồi mật sai người bới lông tìm vết để trị tội. Một hôm Tấn Hiến công đi săn ở đất Địch Hoàn. Ly Cơ lại cùng với Ưu Thi thương nghị, rồi sai người ra bảo thế tử Thân Sinh rằng: - Đêm qua thiếp nằm mộng thấy Tề Khương (mẹ Thân Sinh) kêu đói, không có gì ăn, thế tử nên mau mau mà cúng tế. Bấy giờ Tề Khương lại có nhà thờ ở đất Khúc Ốc, Thân Sinh liền làm lễ tế, rồi sai người đem phần tế biếu Tấn Hiến công. Tấn Hiến công đi săn chưa về, phần tế ấy để lại trong cung tới 6 ngày Tấn Hiến công mới về. Ly Cơ đem thuốc độc bỏ vào rượu và tẩm vào thịt mà đệ trình Tấn Hiến công, rồi nói: - Thiếp nằm mộng thấy Tề Khương kêu đói, nhân chúa công đi vắng, thiếp sai người ra bảo thế tử làm lễ tế Tề Khương; đây la phần tế của thế tử biếu chúa công đó! Tấn Hiến công toan rót rượu ra uống. Ly Cơ quì xuống mà can rằng: - Những đồ ăn từ ngoài đem đến, nên phải cho thử mới được. Tấn Hiến công khen phải, liền đem rượu rót thử xuống đất, tự nhiên đất vỡ tung ra. Lại gọi chó đến, cắt một miếng thịt ném cho con chó ăn thì con chó chết ngay. Ly Cơ giả cách không tin, lại gọi một đứa nội thị nhỏ ra bắt ăn thử. Đứa nội thị không chịu ăn. Ly Cơ cố bắt ép. Đứa nội thị vừa mới nuốt khỏi cổ họng thì đã hộc máu mồm máu mũi ra mà chết. Ly Cơ giả cách kinh hoảng, chạy xuống dưới thềm mà kêu ầm lên rằng: - Ối trời đất ôi! Cơ nghiệp này bao giờ cũng là của thế tử! Chúa công đã già rồi, thế tử lại không thể chờ đợi trong ít lâu được hay sao! Nói xong nước mắt chảy xuống ròng ròng, lại quì trước mặt Tấn Hiến công, nức nở nói rằng: - Thế tử sở dĩ bày ra mưu kế này chỉ tại mẹ con thiếp mà thôi, xin chúa công đem rượu thịt ấy mà cho thiếp ăn. Thiếp xin chết thay chúa công để cho thế tử được thỏa dạ! Nói xong cầm lấy chén rượu toan uống. Tấn Hiến công vội vàng giằng lấy, tức giận uất lên, không thể nói được nữa. Ly Cơ lăn xuống đất mà khóc, lại than thở rằng: - Thế tử nhẫn tâm quá! Cha đẻ ra mà còn muốn giết, huống chi là ai! Lúc trước chúa công toan bỏ đi, thiếp vẫn không muốn, đến khi trêu ghẹo thiếp ở trong vườn, chúa công cũng toan đem giết, thiếp lại cố xin hộ để đến ngày nay suýt nữa thì làm hại chúa công, thật là lỗi tại thiếp đó! Tấn Hiến công nín lặng giờ lâu, rồi giơ tay ôm lấy Ly Cơ, đỡ dậy bảo rằng: - Thôi, phu nhân cứ dậy, để ta tuyên cáo việc này cho các quan nghe, rồi giết đứa tặc tử ấy đi mới được. Nói xong, liền ra ngự triều, triệu các quan đại phu đến thương nghị. Các quan biết là chủ ý Tấn Hiến công quyết định như vậy, đều nhìn nhau mà không dám nói. Đông Quan Ngũ nói: - Thế tử vô đạo như vậy, tôi xin đem quân đi đánh. Tấn Hiến công sai Đông Quan Ngũ làm phó tướng, đem quân đi dánh đất Khúc Ốc. Hồ Đột dẫu đóng cửa ở trong nhà, không đi đến đâu, nhưng vẫn cho người dò la công việc trong triều, nghe tin Đông Quan Ngũ và Lương Ngũ đem quân đi dánh Khúc Ốc, tức khắc cho người tâm phúc đi mật báo cho Thân Sinh biết trước. Thân Sinh nói chuyện với quan thái phó là Đỗ Nguyên Khoản. Đỗ Nguyên Khoản nói: - Phần tế để trong cung đã 6 ngày thì rõ là người ở trong cung bỏ thuốc độc, thế tử nên làm một cái trạng khiếu oan, chẳng lẽ cả trong triều thần lại không ai dám nói hay sao! Còn hơn là cứ ngồi mà chịu chết. Thân Sinh nói: - Chúa công ta ngày nay say mê Ly Cơ quá, không có Ly Cơ thì ăn không được ngon, ngủ không được yên. Nay tôi khiếu oan mà không minh ra được thì lại càng thêm tội; may mà minh ra được thì vị tất chúa công phải trị tội Ly Cơ, mà khiến cho chúa công lại thêm một nỗi đau lòng, chi bằng tôi chịu chết đi cho rồi. Đỗ Nguyên Khoản nói: - Ta hãy trốn sang nước khác, để lo liệu về sau thế tử nghĩ thế nào? Thân Sinh nói: - Chúa công không xét cho là vô tội mà sai người đem quân đến đánh tôi, tôi đã mang cái tiếng là người giết cha thì dẫu đi đến đâu, người ta cũng coi tôi như một giống chim cú, chim quạ mà thôi. Nếu trốn đi mà đổ lỗi cho chúa công thì thành ra bêu cái tiếng ác của quân phụ cho các nước chư hầu người ta chê cười. Thôi thì một chết là hơn! Nói xong liền viết thư trả lời Hồ Đột rằng: - Thân Sinh này có tội, xin đành chịu chết! Nhưng chúa công nay già rồi, các công tử (trỏ Hề Tề và Trác Tử) hãy còn ít tuổi, xin ngài lưu ý giúp đỡ cho; tôi dẫu chết xuống suối vàng, thật cũng đội ơn nhiều lắm! Thân Sinh ngoảnh mặt về phía Bắc, sụp lạy hai lạy, rồi tự thắt cổ mà chết. Sáng hôm sau, Đông Quan Ngũ đem quân đến, thấy Thân Sinh đã chết liền bắt Đỗ Nguyên Khoản về nộp Tấn Hiến công và nói với Tấn Hiến công rằng: - Thế tử biết tội, đã tự tử mà chết trước rồi! Tấn Hiến công sai Đỗ Nguyên Khoản làm chứng vào cái tội trạng của Thân Sinh, Đỗ Nguyên Khoản kêu ầm lên rằng: - Trời có thấu nỗi oan này cho chăng! Tôi sở dĩ không chết đi mà chịu cho bắt về đây, chính là muốn giãi bày cái tâm địa của thế tử đó. Phần tế để ở trong cung đã 6 ngày, nếu có thuốc độc từ trước thì còn gì mà không biến vị! Ly Cơ đứng nấp ở sau bình phong, nghe thấy Đỗ Nguyên Khoản nói như vậy, vội vàng quát to lên rằng: - Đỗ Nguyên Khoản giữ chức thái phó mà thế tử làm phản, chẳng đem giết đi, còn để làm gì! Tấn Hiến công sai kẻ lực sĩ cầm cái dùi đồng đánh vào đầu Đỗ Nguyên Khoản, chảy óc ra mà chết. Các quan trong triều đều gạt nước mắt thương thầm. Đông Quan Ngũ và Lương Ngũ bảo Ưu Thi rằng: - Trùng Nhĩ và Di Ngô là một đảng với thế tử, thế tử dẫu chết rồi, nhưng hai vị công tử kia hãy còn, ta cũng lấy làm lo ngại. Ưu Thi bảo Ly Cơ lập kế để hại Trùng Nhĩ và Di Ngô. Đêm hôm ấy, Ly Cơ lại khóc nức nở mà nói với Tấn Hiến công rằng: - Thiếp nghe đồn Trùng Nhĩ và Di Ngô cùng dự mưu với Thân Sinh. Nay Thân Sinh chết đi thì hai vị công tử kia đổ lỗi tại thiếp, đã sẵn định đem quân về đánh để cướp và giết thiếp đi, chúa công cũng nên xét đến việc ấy. Tấn Hiến công còn có ý chưa tin. Sáng hôm sau ra triều, có người bảo rằng: - Trùng Nhĩ và Di Ngô định vào triều, khi đến cửa quan, nghe thấy việc thế tử Thân Sinh chết, đều lại quay xe đi cả. Tấn Hiến công nói: - Trùng Nhĩ và Di Ngô không cáo từ với ta mà bỏ đi ngay, tất là có dự mưu với Thân Sinh đó! Nói xong, liền sai Bột Đề đem quân sang đất Bồ để bắt Công tử Trùng Nhĩ; Giả Hoa đem quân sang đất Khuất để bắt Công tử Di Ngô, Hồ Đột gọi người con thứ là Hồ Yển đến trước mặt bảo rằng: - Công tử Trùng Nhĩ người có tướng lạ: Xương sườn dính nhau, con mắt hai đồng tử. Lại là người hiền minh, mai sau tất làm nên, vả nay thế tử Thân Sinh chết rồi, thì tất đến Trùng Nhĩ được nối ngôi, mày nên sang đất Bồ mà cùng với anh mày là Hồ Mao (bấy giờ Hồ Mao đã theo Trùng Nhĩ sang ở đất Bồ) cùng nhau giúp Trùng Nhĩ đi trốn. Hồ Yển vâng lời tức khắc sang đất Bồ để theo Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ sợ hãi, cùng với Hồ Mao và Hồ Yển cùng nhau đi trốn. Bỗng nghe báo Bột Đề đã đem quân đến vây nhà Trùng Nhĩ, Trùng Nhĩ cùng với Hồ Mao và Hồ Yển chạy ra vườn sau trốn đi. Bột Đề cầm gươm đuổi theo, Hồ Mao và Hồ Yển trèo tường ra trước, rồi đẩy bức tường để dắt Trùng Nhĩ. Bột Đề nắm được vạt áo Trùng Nhĩ, vừa giơ gươm toan chém thì vạt áo đứt, Trùng Nhĩ chạy thoát được. Bột Đề đem cái vạt áo ấy về nộp Tấn Hiến công. Trùng Nhĩ trốn sang nước Địch. Vua nước Địch hôm trước nằm mộng thấy con rồng xanh phủ ở trên mặt thành, bấy giờ có Trùng Nhĩ đến, liền vui vẻ mời vào. Được một lúc, lại có một bọn kéo đến, gọi cửa thành gấp lắm, Trùng Nhĩ ngỡ là quân đuổi theo, liền bảo trên mặt thành bắn tên xuống. Người dưới thành kêu ầm lên rằng: - Chúng tôi không phải là quân đuổi theo, đều là bề tôi ở nước Tấn tình nguyện đi theo Công tử. Trùng Nhĩ trèo lên trên mặt thành nhìn xem ai thì thấy một người đi đầu là Triệu Thôi, tên tự là Tử Dư (em Triệu Uy) hiện đang làm quan nước Tấn. Trùng Nhĩ nói: - Triệu Thôi đã tới đây thì ta không lo gì nữa! Nói xong, Trùng Nhĩ sai mở cửa đón Triệu Thôi vào. Trong bọn ấy có Tư Thần, Ngụy Thù, Hồ Xạ Cô, Điên Hiệt, Giới Tử Thôi, Nguyên Trẩn đều là những người danh tiếng; lại có bọn Hồ Thúc đến vài ba mươi người. Trùng Nhĩ giật mình, nói: - Các ngươi đang ở trong triều, sao lại đến cả đây thế này? Bọn Triệu Thôi đồng thanh trả lời: - Chúa công thất đức; yêu Ly Cơ, giết thế tử, chẳng bao lâu nước Tấn tất có loạn to. Chúng tôi vốn biết Công tử là người hiền minh, vậy xin quyết chí để theo Công tử. Trùng Nhĩ khóc mà nói rằng: - Các người có lòng giúp tôi, bao giờ tôi dám quên ơn. Ngụy Thù nói: - Công tử ở đất Bồ đã mấy năm nay, người đất Bồ ai cũng yêu mến, xin một lòng theo Công tử. Nếu Công tử nhờ người nước Địch giúp cho lại đem quân đất Bồ kéo về, tôi chắc rằng trong triều tất có người nổi lên làm nội ứng. Bấy giờ trừ những loạn đảng ở bên cạnh chúa công đi mà giữ yên được cơ nghiệp nước nhà, chẳng hơn là cứ trốn tránh mãi thế này hay sao! Trùng Nhĩ nói: - Nhà ngươi nói hăng hái lắm! Nhưng e rằng làm thế thì khiến cho quân phụ ta phải sợ hãi, cớ đâu ta dám theo lời. Ngụy Thù là một người dũng sĩ, thấy Trùng Nhĩ không theo lời, liền nghiến răng nghiến lợi, dẫm chân xuống đất mà nói rằng: - Công tử sợ bọn Ly Cơ như là hùm cọp rắn rết, còn bao giờ thành sự được. Hồ Yển bảo Ngụy Thù rằng: - Công tử không phải sợ bọn Ly Cơ, chỉ sợ hai chữ danh nghĩa mà thôi. Ngụy Thù không dám nói nữa. Nguyên Trùng Nhĩ từ thuở bé vốn là người có lễ phép mà lại biết trọng kẻ hiền sĩ, vậy nên đến khi trốn, nhiều người muốn theo: Chỉ có quan đại phu là Khước Nhuế cùng với Lã Di Xanh và Quắc Xạ (Công tử Di Ngô gọi là cậu), ba người ấy chạy sang đất Khuất, đem việc Giả Hoa sắp đến bắt báo cho Công tử Di Ngô biết. Công tử Di Ngô liền sai người đóng cửa thành lại để chống giữ. Giả Hoa không có ý muốn bắt Di Ngô, mật sai người vào bảo Di Ngô rằng: - Công tử nên trốn ngay đi, nếu không thì sắp có quân tiếp theo, không thể nào địch nổi! Công tử Di Ngô bảo Khước Nhuế rằng: - Trùng Nhĩ nay ở nước Địch, hay là ta cũng chạy sang nước Địch, phỏng có nên không? Khước Nhuế nói: - Chúa công vẫn bảo hai vị công tử thông mưu với nhau, bởi vậy mới sai người đem quân đi đánh; bây giờ cùng chạy đến cả một chỗ thì Ly Cơ lại có cớ mà nói được. Vả chúa công thế nào cũng sai người đem quân đi đánh nước Địch, chi bằng chạy sang nước Lương thì hơn. Nước Lương tiếp giáp với nước Tần, mà nước Tần nay đang cường thịnh; khi chúa công trăm tuổi rồi, ta có thể mượn binh lực nước Tần mà về nước được. Công tử Di Ngô liền chạy sang nước Lương. Giả Hoa giả cách đuổi theo không kịp, đem quân trở về. Tấn Hiến công nổi giận, truyền đem Giả Hoa ra chém. Phi Trịnh Phủ tâu rằng: - Ngày trước chúa công sai đắp thành cho hai vị công tử ở, bắt làm kiên cố quá, vậy nên nay không đánh nổi, chứ Giả Hoa có tội gì đâu! Lương Phủ cũng tâu rằng: - Di Ngô là người ngu hèn, không cần gì hắn, còn Trùng Nhĩ có tiếng là người hiền, hiện nay các quan trong triều đi theo nhiều lắm. Vả nước Địch là một nước thù với ta, nếu ta không đánh nước Địch mà trừ Trùng Nhĩ đi thì mai sau tất có tai vạ. Tấn Hiến công liền tha cho Giả Hoa; sai người triệu Bột Đề đến. Bột Đề nghe tin Giả Hoa suýt phải tội chết, có ý sợ hãi, mới nói với Tấn Hiến công, tình nguyện đem quân đi đánh nước Địch. Tấn Hiến công cho đi. Bột Đề đem quân đến nước Địch. Vua nước Địch cũng đem quân ra chống giữ. Quân hai bên giữ nhau đến hơn hai tháng. Phi Trịnh Phủ nói với Tấn Hiến công rằng: - Cha con không nên tuyệt tình quá! Hai vị công tử cũng chưa có tội trạng gì, nay đã chạy trốn mà còn cố theo để giết, chẳng hóa ra nhẫn tâm lắm sao! Vả quân ta vị tất đã đánh nổi nước Địch, nếu ta cố đánh mãi thì chỉ nghề nhọc quân mà để cho nước láng giềng người ta chê cười mà thôi. Tấn Hiến công nghĩ lại, triệu Bột Đề đem quân về. Tấn Hiến công nghi các vị công tử phần nhiều là đảng Trùng Nhĩ và Di Ngô, mai sau tất làm ngăn trở cho Hề Tề, liền hạ lệnh đuổi hết các vị công tử, rồi lập Hề Tề lên làm thế tử. Các quan trong triều chỉ có Đông Ngũ Quan, Lương Ngũ và Tuân Tức ưng ý mà thôi, còn ai cũng không bằng lòng, phần nhiều cáo ốm xin từ chức. Đến tháng chín năm ấy, Tấn Hiến công định sang hội với Tề Hoàn công ở đất Quì Khâu, nhưng sang không kịp, lại trở về nước. Trong khi đi đường, bị bệnh đau nặng, đến lúc về cung, Ly Cơ ngồi ở dưới chân mà khóc rằng: - Chúa công gặp sự gia biến, đuổi hết các vị công tử mà lập Hề Tề (con Ly Cơ) : Một mai chúa công trăm tuổi, thiếp là đàn bà, Hề Tề hãy còn bé, bấy giờ các vị công tử ỷ thế nước ngoài mà đem quân về thì mẹ con thiếp biết trông cậy vào đâu cho được! Tấn Hiến công nói: - Phu nhân chớ lo! Quan thái phó Tuân Tức vốn người trung thành, để ta đem thế tử Hề Tề mà ủy thác cho hắn. Nói xong, liền gọi Tuân Tức đến bên cạnh giường nằm mà hỏi rằng: - Ta nghe nói quân tử lấy điều trung tín làm gốc. Thế nào gọi là điều trung tín? Tuân Tức nói: - Hết lòng để thờ vua thì gọi là trung: Dẫu chết không sai lời thì gọi là tín. Tấn Hiến công nói: - Ta muốn đem thế tử Hề Tề ủy thác cho nhà ngươi, chẳng hay nhà ngươi có nhận lời chăng? Tuân Tức sụp lạy mà nói rằng: - Tôi xin hết sức giúp thế tử. Tấn Hiến công ứa hai hàng nước mắt xuống. Ly Cơ cũng rên rỉ khóc ở trong màn. Mấy hôm sau, Tấn Hiến công mất, Ly Cơ ẵm Công tử Hề Tề đưa cho Tuân Tức. Bấy giờ Hề Tề mới 11 tuổi. Tuân Tức đi theo mệnh lập Hề Tề lên nối ngôi. Ly Cơ cũng đi theo mệnh cho Tuân Tức làm chức thượng khanh, Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ làm chức tả tư mã để tống thống binh quyền, đi tuần hành trong nước. Phàm các việc chính trị, bất cứ việc lớn việc nhỏ đều phải trình với Tuân Tức rồi mới được thi hành.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  9. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 28 Lý Khắc một tay giết hai vua Di Ngô nhờ Tần về nước Tấn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tuân Tức lập Công tử Hề Tề lên nối ngôi, các quan trong triều đều đến bái mệnh cả, chỉ có Hồ Đột cáo ốm không đến. Lý Khắc nói riêng với Phi Trịnh Phủ rằng: - Bây giờ lập Hề Tề còn Trùng Nhĩ và Di Ngô làm sao? Phi Trịnh Phủ nói: - Việc này cốt ở tay Tuân Tức, để ta dò xem ý hắn thế nào. Nói xong, hai người đem xe đến nhà Tuân Tức, Tuân Tức mời vào, Lý Khắc nói: - Nay chúa công mất đi, Trùng Nhĩ và Di Ngô đều ở ngoài cả, ngài là quan đại thần trong nước, sao không đón Trung Nhĩ là một vị Công tử hơn tuổi để về nối ngôi, mà lại lập Hề Tề là con Ly Cơ thì sao cho người ta phục. Vả lại các bè đảng của các vị công tử, ai cũng oán mẹ con Hề Tề thâm nhập cốt tủy, chỉ sợ uy tiên quân ta ngày xưa mà thôi. Bây giờ nghe tin tiên quân mất rồi, tất nhiên sinh biến: Mặt ngoài thì nước Tần và nước Địch giúp vào, mặt trong thì người nước nhà nổi lên, bấy giờ ngài nghĩ cách gì mà giữ cho nổi! Tuân Tức nói: - Tôi chịu di mệnh của tiên quân ta mà lập Hề Tề thì tôi chỉ xin hết một lòng để giúp Hề Tề mà thôi, còn ngoài ra không biết có ai cả; nếu không giúp nổi thì đành chịu chết để đáp lại tấm lòng ủy thác của tiên quân ta thuở xưa. Phi Trịnh Phủ nói: - Thế thì chết uổng mà thôi, sao ngài không nghĩ lại. Tuân Tức nói: - Tôi đã nhận lời với tiên quân rồi, dẫu biết rằng chết uổng, cũng không dám sai lời. Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ hai ba lần khuyên bảo mãi nhưng, Tuân Tức cứ một lòng sắt đá, nhất định không nghe. Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ cáo từ lui ra. Hai người nói riêng với nhau rằng: - Ta nghĩ Tuân Tức là bọn đồng liêu với nhau, đem việc phải để đến bảo hắn; hắn lại nhất định không nghe thì biết làm thế nào? Phi Trịnh Phủ nói: - Hắn giúp Hề Tề ta giúp Trùng Nhĩ, mỗi đàng giúp một bên có ngại chi điều ấy! Nói xong, hai người liền mật ước với nhau, sai kẻ lực sĩ đi lẫn vào trong bọn thị vệ, nhân lúc Hề Tề đi đổ ra mà giết; bấy giờ có Ưu Thi đứng ở bên cạnh, cầm gươm đến cứu, cũng bị bọn lực sĩ giết chết. Tuân Tức nghe tin, giật mình kinh sợ, vội vàng chạy đến ôm lấy thây Hề Tề mà khóc rằng: - Ta chịu di mệnh để giúp thế tử mà giúp không nổi, thật là cái lỗi của ta! Nói xong, toan đập đầu vào cột. Ly Cơ vội vàng sai người ngăn lại mà can rằng: - Xin quan đại phu nghĩ lại, Hề Tề dẫu chết, còn Trác Tử cũng có thể giúp được! Tuân Tức liền sai bắt vài ba mươi người canh giữ Hề Tề ở đấy đem giết cả đi, rồi cùng với các quan lập Trác Tử lên nối ngôi. Bấy giờ Trác Tử mới lên 9 tuổi. Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ giả cách không biết, không dự hội nghị. Lương Ngũ nói: - Việc giết thế tử này chính là Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ vì Thân Sinh mà báo thù; nay không dự hội nghị lại càng rõ lắm, xin đem quân đến bắt để trị tội. Tuân Tức nói: - Hai ngưới ấy là lão thần ở nước Tấn ta, nhiều người qui phục, nếu trị mà không nổi thì lại thành ra hỏng việc, âu là ta hãy ẩn nhẫn một chút, rồi sẽ liệu dần. Lương Ngũ lui về, nói riêng với Đông Quan Ngũ rằng: - Tuân Tức là người trung, nhưng ít mưu kế, làm việc gì cũng nhút nhát lắm, không có thể trông cậy được! Nay Lý Khắc dẫu cùng với Phi Trịnh Phủ là một đảng, nhưng Lý Khắc vì việc Thân Sinh bị oan càng thêm căm tức; nếu ta trừ được Lý Khắc đi thì Phi Trịnh Phủ tự khắc phải sinh chán. Đông Quan Ngũ nói: - Dùng kế gì mà trừ cho được? Lương Ngũ nói: - Nay nhân lúc có tang, thế nào Lý Khắc cũng phải đi đưa đám, ta sai người đón đường mà giết đi thì chẳng khó nhọc gì cả, chỉ mất công một ngày thôi. Đông Quan Ngũ khen phải, rồi bảo Lương Ngũ rằng: - Đồ Ngạn Di là một người có sức khỏe mang nổi 3.000 cân, nếu ta đem tước lộc mà dỗ hắn thì có thể sai được. Nói xong, liền bảo Đồ Ngạn Di. Đồ Ngạn Di quen thân với quan đại phu là Chuy Xuyền, lại đem việc ấy đến bảo Chuy Xuyền và hỏi có nên làm hay không. Chuy Xuyền nói: - Việc Thân Sinh ngày xưa vì mẹ con Ly Cơ mà bị oan, người trong nước ai cũng thương xót, nay Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ định giết đảng Ly Cơ, rồi đón Công tử Trùng Nhĩ vế nối ngôi, đó là một việc nghĩa cử! Nếu nhà ngươi giúp đứa gian nịnh thì chúng ta không tha nhà ngươi, mà muôn đời về sau, nhà ngươi còn đeo mãi cái tiếng xấu ấy, nhà ngươi chớ có nghe lời. Đồ Ngạn Di nói: - Chúng tôi dốt nát không biết gì, chẳng hay làm thế nào từ chối được. Chuy Xuyền nói: - Nhà ngươi từ chối thì tất hắn lại sai người khác, chi bằng cứ giả cách nhận lời, rồi phản lại mà giết bọn gian nịnh ấy, tức là nhà ngươi có công to, sau này được phú quí, vừa được danh tiếng, chẳng hơn là làm sự bất nghĩa mà chết thiệt thân ư! Đồ Ngạn Di nói: - Ngài dạy phải lắm! Chuy Xuyền nói: - Chỉ sợ nhà ngươi lại biến tâm mà thôi! Đồ Ngạn Di nói: - Nếu ngài không tin thì xin ăn thề. Nói xong, liền cắt tiết gà trống uống máu ăn thề. Đồ Ngạn Di lui về. Chuy Xuyền tức khắc thuật chuyện lại cho Phi Trịnh Phủ nghe. Phi Trịnh Phủ bàn nhau với Lý Khắc, rồi sửa soạn sẵn để định hôm đưa đám thì khởi sự. Đến hôm ấy, Lý Khắc cáo ốm không đi. Đồ Ngạn Di nói với Đông Quan Ngũ rằng: - Các quan đều đi đưa đám cả, chỉ có Lý Khắc không đi, đó là Lý Khắc đến ngày tận số! Xin ngài giao cho tôi 300 quân giáp binh, để tôi đến nhà Lý Khắc bắt mà giết đi là xong. Đông Quan Ngũ bằng lòng, liền giao cho Đồ Ngạn Di 300 quân giáp binh. Đồ Ngạn Di giả cách đến vây nhà Lý Khắc. Lý Khắc cố ý sai người báo tin cho Tuân Tức biết. Tuân Tức giật mình kinh sợ mà hỏi Đông Quan Ngũ. Đông Quan Ngũ nói: - Tôi nghe Lý Khắc sắp sửa nổi loạn, vậy có sai người đem quân đến vây nhà, không can ngại gì việc ấy! Tuân Tức ruột nóng như lửa, liền sai Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ đem quân đi ngay để dò la tin tức, còm mình thì ẵm Trác Tử ngồi ở trong triều. Đông Quan Ngũ đi đến nửa đường, gặp Đồ Ngạn Di. Đồ Ngạn Di giả cách đến gần để nói có việc cần kíp, liền giơ tay bóp cổ Đông Quan Ngũ. Đông Quan Ngũ gãy cổ mà chết, quân sĩ bỏ chạy tán loạn cả. Đồ Ngạn Di thét to lên rằng: - Công tử Trùng Nhĩ đem quân nước Tần và nước Địch về hiện đóng ở ngoài thành. Ta đây phụng mệnh quan đại phu là Lý Khắc. Vì Thân Sinh mà báo thù, giết những đảng gian nịnh, để đón Công tử Trùng Nhĩ về làm vua. Trong bọn các ngươi, ai muốn theo thì đứng lại, ai không muốn theo thì cho đi! Quân sĩ thấy nói Trùng Nhĩ về làm vua, đều tình nguyện xin theo cả. Lương Ngũ nghe tin Đông Quan Ngũ bị giết, toan trở về trong triều để cùng với Tuân Tức đem Trác Tử đi trốn, chẳng ngờ lại bị Đồ Ngạn Di đuổi theo kịp; Lý Khắc, Phi Trịnh Phủ và Chuy Xuyền cũng kéo quân đến. Lương Ngũ biết không chạy thoát được, liền rút gươm đâm cổ, nhưng đâm không đứt, lại bị Đồ Ngạn Di nắm ngay được. Lý Khắc xông lại, giơ gươm chém Lương Ngũ đứt làm hai mảnh. Bấy giờ quan đại phu là Giả Hoa cũng đem quân đến đánh giúp, rồi cùng nhau kéo vào trong triều. Tuân Tức vẫn nghiễm nhiên không sợ hãi gì cả, tay trái ẵm Trác Tử, tay phải giơ ống tay áo để đỡ che. Trác Tử sợ hãi khóc ầm lên. Tuân Tức bảo Lý Khắc rằng: - Đứa bé này tội lỗi gì! Thôi thì nhà ngươi giết ta mà tha cho giọt máu của tiên quân. Lý Khắc nói: - Thân Sinh cũng là giọt máu của tiên quân ta đó! Nào bây giờ thấy ở đâu! Nói xong, liền ngoảnh mặt lại bảo Đồ Ngạn Di rằng: - Sao nhà ngươi không hạ thủ đi! Đồ Ngạn Di tức khắc giằng lấy Trác Tử mà ném xuống đất, chỉ nghe thấy đánh "nhóe" một tiếng thì Trác Tử đã chết tươi rồi. Tuân Tức nổi giận, giơ gươm đánh nhau với Lý Khắc, cũng bị Đố Ngạn Di chém chết. Lý Khắc lại kéo quân vào trong cung. Ly Cơ chạy trốn vào phòng Giả Quân. Giả Quân đóng cửa không cho vào. Ly Cơ lại chạy vào trong vườn, đâm đầu xuống hồ mà chết. Lý Khắc sai vớt xác lên mà đem xả ra; lại giết cả họ hàng nhà Lương Ngũ, Đông Quan Ngũ và Ưu Thi. Lý Khắc họp các quan ở trong triều mà bảo rằng: - Nay đã trừ được đảng loạn rồi! Trong bọn công tử, chỉ có Trùng Nhĩ là hiền mà nhiều tuổi hơn cả, nên lập lên làm vua. Các quan ai thuận thì ký tên vào một quyển sổ. Phi Trịnh Phủ nói: - Việc này tất phải có lão quan là Hồ Đột làm chủ mới được! Lý Khắc liền sai người đem xe đi đón Hồ Đột. Hồ Đột từ chối mà nói rằng: - Lão phu có hai con đi theo Công tử Trùng Nhĩ đi trốn, nay lão phu dự vào việc này thì sao cho tiện. Lão phu già rồi, điều ấy xin tùy ý các quan. Lý Khắc liền cầm bút viết ngay tên mình ở trên nhất, thứ nhì đến tên Phi Trịnh Phủ, dưới đến bọn Cung Chi Kỳ, Giả Hoa và Chuy Xuyền, cả thảy hơn 30 người, rồi sai Đồ Ngạn Di sang nước Địch đón Công tử Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ xem trong tờ biểu không thấy tên Hồ Đột, có ý nghi hoặc. Ngụy Thù nói: - Người ta đón mà không về, thế thì muốn ở mãi đây hay sao! Trùng Nhĩ nói: - Nhà ngươi không biết rõ, số là các công tử còn nhiều, cứ gì một ta. Vả Hề Tề và Trác Tử mới bị giết, đảng phái cũng hãy còn nhiều. Nay ta đã về thì không có thể lại đi được, nếu trời có lòng tựa, lo gì không có ngày được nối ngôi. Hồ Yển cũng lấy việc nhân lúc biến loạn để về lấy ngôi là một sự dở, liền khuyên Trùng Nhĩ không nên về. Trùng Nhĩ mới từ chối rằng: - Trùng Nhĩ này là một người có tội mới đi trốn, lúc cha còn đã không được phụng dưỡng, lúc cha chết thì càng không được trông nom, có đâu lại dám nhân sự biến loạn để về nối ngôi, xin các quan chọn người khác. Đồ Ngạn Di về bảo với Lý Khắc. Lý Khắc toan sai đi đón lần nữa. Quan đại phu là Lương Do Mỹ nói: - Trong bọn công tử, ai không có thể nối ngôi được, sao ngài không đi đón Di Ngô. Lý Khắc nói: - Di Ngô là người tham lam mà tàn nhẫn, không bằng Trùng Nhĩ. Lương Do Mỹ nói: - Chẳng còn hơn các công tử khác ư? Các quan đều cộng nhận Di Ngô. Lý Khắc bất đắc dĩ lại sai Đồ Ngạn Di và Lương Do Mỹ sang nước Lương để đón Di Ngô. Bấy giờ Công tử Di Ngô ở nước Lương, vua nước Lương gả con gái cho, sinh được một người con tên là Ngữ. Di Ngô ngày đêm mong trong nước có sự biến loạn để thừa cơ trở về; đến lúc nghe tin Tấn Hiến công mất, liền sai Lã Di Xanh đem quân vè đánh lẻn lấy đất Khuất. Tuân Tức nhân trong nước lắm việc, cũng chưa kịp hỏi đến. Sau Lã Di Xanh nghe tin Hề Tề và Trác Tử bị giết, các quan sai người đi đón Trùng Nhĩ về nối ngôi, liền sai người phi báo cho Di Ngô biết. Di Ngô cùng với Quắc Xạ và Khước Nhuế thương nghị, định đem quân về cướp ngôi. Bỗng thấy Lương Do Mỹ đến đón Di Ngô liền chắp tay để lên trán mà khấn trời rằng: - Thế này mới thật là lòng trời định cướp ngôi của Trùng Nhĩ mà cho ta đó! Nói xong, mừng rỡ hiện ra nét mặt, Khước Nhuế nói: - Trùng Nhĩ có phải là không muốn nối ngôi đâu, mà không chịu về, tất là có nghi ngại điều gì đây! Xin Công tử chớ tin vội. Vả các quan ở trong nước mà đón ai về nối ngôi, tất là có ý muốn cầu lợi. Ngày nay Công tử về nước, khác nào như người vào hang hùm, tất phải có đồ phòng thân, tôi thiết tưởng nên mượn thế nước ngoài để giúp sức cho thì mới có thể được. Mà các nước láng giềng ngày nay chỉ có Tần là mạnh hơn cả, Công tử nên sai người kết giao với Tần, nếu Tần chịu giúp sức cho thì ta không ngại gì nữa. Di Ngô theo lời, liền viết thư hẹn cho Lý Khắc một trăm vạn mẫu ruộng ở đất Phần Dương, và hẹn cho Phi Trịnh Phủ bảy mươi vạn mẫu ở đất Phụ Quì, sai Đồ Ngạn Di về báo tin trước, rồi lại viết một bức thư, sai Lương Do Mỹ sang sứ nước Tần, và thuật chuyện các quan đại phu ở nước Tấn cho sang đón Di Ngô về nối ngôi. Tần Mục công bảo Kiển Thúc rằng: - Khi trước ta đã nằm mộng thấy đức Ngọc Hoàng Thượng Đế sai ta dẹp loạn nước Tấn; nay ta nghe nói Trùng Nhĩ và Di Ngô đều là người hiền cả, ta định chọn mà giúp cho một người, chưa biết nên giúp ai. Kiển Thúc nói: - Trùng Nhĩ ở nước Địch, Di Ngô ở nước Lương, đều tiếp giáp nước ta cả, sao chúa công không sai người đến thăm để xét xem là người thế nào. Tần Mục công theo lời, liền sai Công tử Trí sang thăm Trùng Nhĩ trước, rồi sau thăm đến Di Ngô. Công tử Trí sang thăm Trùng Nhĩ, sai người nói riêng với Trùng Nhĩ rằng: - Công tử nên nhân dịp này mà về nước đi, chúa công tôi xin đem quân giúp cho Công tử. Trùng Nhĩ nói chuyện lại với Triệu Thôi. Triệu Thôi nói: - Người ta đón mình không chịu về, mà nay lại muợn thế nước ngoài để về thì còn ra thế nào! Trùng Nhĩ liền ra nói với Công tử Trí rằng: - Quí quốc có lòng giúp thì tôi xin cám ơn, nhưng cha tôi mới chết, có đâu tôi dám nghĩ đến điều ấy. Nói xong, phục xuống đất mà khóc. Công tử Trí biết là người hiền, trong bụng khen thầm, rồi cáo từ lui ra; lại sang nước Lương để thăm Di Ngô. Di Ngô bảo Công tử Trí rằng: - Ngài phụng mệnh vua Tần sang thăm tôi, có điều gì, xin ngài chỉ bảo cho. Công tử Trí lại bảo Di Ngô nên nhân dịp mà về nước. Di Ngô nói chuyện với Khước Nhuế. Khước Nhuế nói: - Vua nước Tần có yêu gì ta, chẳng qua cũng là chỉ muốn cầu lợi, Công tử nên hẹn trước mà xin cắt đất để cho Tần. Di Ngô nói: - Bây giờ mà cắt nhiều đất cho Tần thì chẳng thiệt hại nước Tấn ta lắm sao! Khước Nhuế nói: - Công tử không được về nối ngôi thì lấy gì mà có nước Tấn, nào phải là của riêng Công tử đâu mà Công tử tiếc! Di Ngô lại ra tiếp kiến Công tử Trí, cầm tay mà bảo rằng: - Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ đã thuận cho tôi về nối ngôi, tôi đều có hẹn lời để báo đáp lại, không dám quên ơn; nếu quí quốc có lòng giúp tôi, khiến cho tôi giữ yên được cơ nghiệp thì tôi xin biếu năm thành, để gọi là đền ơn chút đỉnh. Nói xong, liền rút tờ ước thư ở trong tay áo ra đưa cho Công tử Trí. Nét mặt có ý tự đắc. Công tử Trí toan từ chối không nhận, Di Ngô lại nói: - Tôi có 40 nén hoàng kim, 6 đôi bạch ngọc, xin dâng Công tử, nhờ Công tử nói giúp với vua Tần cho, không bao giờ tôi dám quên ơn. Công tử Trí mới nhận lời. Khi về đến nước Tần, Công tử Trí thuật lại chuyện Trùng Nhĩ và Di Ngô cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công nói: - Trùng Nhĩ hiền hơn Di Ngô nhiều lắm, ta nhất định giúp cho Trùng Nhĩ. Công tử Trí nói: - Chúa công giúp cho Trùng Nhĩ, là lo việc hộ nước Tấn, hay là muốn lấy tiếng với thiên hạ. Tần Mục công nói: - Đó là việc nước Tấn, có dự gì đến ta! Ta cũng muốn lấy tiếng với thiên hạ mà thôi. Công tử Trí nói: - Chúa công lo hộ cho nước Tấn thì nên chọn người hiền mà lập, nếu muốn lấy tiếng với thiên hạ thì không cần phải chọn. Dẫu lập ai mình cũng vẫn được tiếng, mà lập người hiền thì người ta hơn mình, lập kẻ bất hiền thì người ta kém mình, đàng nào lợi hơn? Tần Mục công nói: - Nghe lời nhà ngươi khiến ta tỉnh ngộ ra được! Nói xong, liền sai Công Tôn Chi đem quân giúp Di Ngô về nước Tấn. Vợ Tần Mục công là em thế tử Thân Sinh nước Tấn, tức là nàng Mục Cơ. Lúc bé Giả Quân (vợ thứ Tấn Hiến công) nuôi ở trong cung, Mục Cơ là người rất nhân đức, nghe tin Công Tôn Chi giúp Di Ngô về nước Tấn, liền gửi một bức thư cho Di Ngô, bảo khi về nước phải hậu đãi Giả Quân; còn các vị công tử khi trước chạy trốn, đều không có tội lỗi gì, nên cho về cả, để thêm nhiều vây cánh. Di Ngô sợ mất lòng Mục Cơ, cũng phúc thư lại, xin vâng lời dặn. Tề Hoàn công nghe tin nước Tấn có loạn, đem quân đến đất Cao Hương (đất nước Tấn), gặp nước Tần kéo đến; vua Huệ Vương nhà Chu cũng sai quan đại phu là Vương tử Đảng đem quân đến họp. Tề Hoàn công liền sai Thấp Bằng hội với quân nhà Chu và quân nước Tần cùng đưa Di Ngô về nước Tấn để nối ngôi, tức là Tấn Huệ công. Người nước Tấn ai cũng yêu mến Trùng Nhĩ là người hiền, đến lúc nghe tin Di Ngô về làm vua, đều có ý không bằng lòng. Tấn Huệ công đã lên nối ngôi, lập con là Ngữ làm thế tử, cho Hồ Đột, Quắc Xạ làm thượng đại phu; Đồ Ngạn Di làm hạ đại phu. Lại sai Vương Do Mỹ theo Vương tử Đảng sang nhà Chu, Hàn Giản theo Thấp Bằng sang nước Tề để tạ ơn. Công Tôn Chi nước Tần còn ở nước Tấn để đòi lấy năm thành. Tấn Huệ công có ý tiếc, liền họp các quan lại để thương nghị. Quắc Xạ đưa mắt nhìn Lã Di Xanh. Lã Di Xanh nói: - Chúa công khi trước phải khấn lễ với nước Tần là vì chưa được về nối ngôi thì nước Tấn chưa phải là của chúa công. Nay đã nối ngôi rồi, dẫu không cho nước Tần, nước Tần cũng chẳng làm gì nổi. Lý Khắc nói: - Chúa công mới lên nối ngôi, mà đã thất tín với một nước láng giềng cường thịnh thì quyết không nên. Khước Nhuế nói: - Nay mất năm thành tức là mất nửa nước Tấn, dẫu nước Tần cố sức sang đánh, cũng vị tất đã lấy nổi được năm thành ta; vả lại tiên quân ta ngày xưa trải bao khó nhọc mới mở mang được đất ấy, ta chớ nên bỏ hoài! Lý Khắc nói: - Đã biết là cơ nghiệp của tiên quân, sao lại hẹn cho người ta? Hẹn mà không cho thì thật làm nước Tần phải tức giận. Vả lại tiên quân ta ngày xưa ở đất Khúc Ốc, chẳng qua chỉ một khu đất nhỏ, mà biết sửa sang chính trị, rồi mở mang dần dần, thành ra một nước lớn. Nếu chúa công biết sửa sang chính trị ma giao hiếu với các nước láng giềng thì lo gì không có năm thành. Khước Nhuế quát to rằng: - Lời của Lý Khắc không phải là vì nước Tần, mà vì một trăm vạn mẫu ruộng ở đất Phần Dương, chỉ sợ chúa công không cho, vậy phải mượn việc nước Tấn để làm lệ mà theo. Phi Trịnh Phủ lấy cánh tay đẩy Lý Khắc. Lý Khắc biết ý, không dám nói nữa. Tấn Huệ công nói: - Bây giờ mình không cho thì là thất tín, mà cho thì lại làm cho nước mình phải suy yếu, hay là ta chịu một vài thành, phỏng có nên không? Lã Di Xanh nói: - Dẫu cho một vài thành, cũng không gọi là thủ tín được, mà chỉ xui cho nước Tần đem lòng tranh cạnh, chi bằng ta cứ từ chối đi là hơn. Tấn Huệ công liền sai Lã Di Xanh viết thư trả lời nước Tần. Trong thư đại lược nói rằng: "Lúc trước Di Ngô này có hẹn với quí quốc xin dâng năm thành, nay được về nước, nghĩ đến cái ơn quí quốc, toan y lời hẹn, nhưng các quan đại thần nước tôi đều nói rằng:" Đất nước Tấn là của tiên quân ngày xưa để lại. Sao chúa công lại dám tự tiện đem cho người khác ". Tôi cố cãi mãi mà không được, xin quí quốc hãy thư lại cho ít bữa, tôi không dám quên lời". Tấn Huệ công hỏi: - Ai là người dám vì ta sang sứ nước Tần? Phi Trịnh Phủ xin đi. Tấn Huệ công thuận cho. Nguyên Tấn Huệ công khi sắp về nước, có hứa lời cho Phi Trịnh Phủ 70 mẫu ruộng ở đất Phụ Quì, bây giờ Tấn Huệ công không cho nước Tần, khi nào chịu cho Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ. Phi Trịnh Phủ ngoài miệng dẫu không nói ra, nhưng trong lòng có ý căm tức, mới xin đi sứ để định nói với nước Tần. Phi Trịnh Phủ theo Công Tôn Chi đến nước Tần, vào yết kiến Tần Mục công, đệ trình tờ quốc thư. Tần Mục công xem xong nổi giận, đập bàn mà nói rằng: - Ta vẫn biết Di Ngô không đáng làm vua, ngày nay quả nhiên ta bị hắn lừa dối. Nói xong, toan chém Phi Trịnh Phủ, Công Tôn Chi nói: - Đó không phải là tội Phi Trịnh Phủ, xin chúa công dung thứ cho. Tần Mục công vẫn còn chưa nguôi cơn giận, hỏi rằng: - Người nào xui cho Di Ngô phụ ơn ta, ta muốn đâm chết! Phi Trịnh Phủ nói: - Xin chúa công cho phép đuổi hết người chung quanh, để tôi xin nói. Tần Mục công truyền người xung quanh lui cả ra, rồi vẫy Phi Trịnh Phủ lại gần mà hỏi. Phi Trịnh Phủ nói: - Các quan đại phu nước tôi, ai cũng cám ơn quí quốc mà muốn nộp đất, chỉ có Lã Di Xanh và Khước Nhuế cố tình ngăn trở. Nay quí quốc cứ làm ra ý tử tế, gọi hai người ấy sang mà giết đi, rồi giúp cho Trùng Nhĩ về; bấy giờ tôi cùng Lý Khắc xin làm nội ứng mà đuổi Di Ngô, quí quốc nghĩ thế nào? Tần Mục công khen rằng: - Kế ấy phải đó! Ta cũng nghĩ như vậy. Nói xong, liền sai quan đại phu là Lãnh Chi theo Phi Trịnh Phủ sang nước Tấn, rồi lập kế dụ Lã Di Xanh và Khước Nhuế đến để giết đi.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  10. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Bài viết:
    2,079
    HỒI THỨ 29 Tấn Hiến công bắt giết người trung Quản Di Ngô trối trăng việc nước

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chủ ý của Lý Khắc định đón Trùng Nhĩ vế nối ngôi, Trùng Nhĩ chối từ không chịu nhận. Di Ngô lại khấn lễ để xin về, bất đắc dĩ cũng phải theo ý mọi người mà lập Di Ngô, tức là Tấn Huệ công. Ai ngờ khi Tấn Huệ công đã được nối ngôi, những ruộng đất hẹn cho khi trước, chẳng được gì cả; mà Tấn Huệ công lại tin dùng bọn Lã Di Xanh và Khước Nhuế, còn bao nhiêu các quan cựu thần đều không coi ra gì. Lý Khắc đã có ý không phục, đến lúc khuyên Tấn Huệ công nên nộp đất cho nước Tần, là vì việc nước mà nói thì lại bị bọn Khước Nhuế cho là có ý riêng, bởi vậy Lý Khắc vẫn tức giận mà không dám nói ra, khi bãi triều về, hầm hầm lộ ra nét mặt. Sau Phi Trịnh Phủ phụng mệnh đi sứ nước Tần, bọn Khước Nhuế sợ rằng thông mưu với Lý Khắc, liền sai người dò thám ý tứ. Phi Trịnh Phủ cũng sợ Khước Nhuế có cho người dò thám, mới không từ biệt với Lý Khắc mà đi ngay. Khi Lý Khắc sai người mời Phi Trịnh Phủ sang để nói chuyện thì Phi Trịnh Phủ đã ra khỏi cửa thành rồi, Lý Khắc theo không kịp, lại phải trở về. Có người báo tin cho Khước Nhuế biết. Khước Nhuế vào nói với Tấn Huệ công rằng: Lý Khắc thấy chúa công giữ lấy quyền chính, lại không cho ruộng Phần Dương, có ý oán giận, nay nghe tin Phi Trịnh Phủ sang sứ nước Tần, lại thân hành đi đuổi theo, tức là có mưu làm phản. Vả lại Lý Khắc vẫn muốn lập Trùng Nhĩ, chứ không muốn lập chúa công nếu bây giờ thông mưu với Trùng Nhĩ thì khó lòng mà giữ nổi, chi bằng ta bắt tội chết để khỏi di họa về sau. Tấn Huệ công nói: - Lý Khắc là người có công với ta, nay lấy cớ gì mà giết được? Khước Nhuế nói: - Lý Khắc giết Tề Hề và Trác Tử, lại giết quan đại thần là Tuân Tức, kể tội thì đáng giết lắm, còn cái công đón chúa công về nước chẳng qua là một cái ơn riêng, nếu chúa công không vì ơn riêng mà bỏ nghĩa lớn thì tôi xin phụng mệnh đến giết Lý Khắc. Tấn Huệ công cho đi, Khước Nhuế đến nhà Lý Khắc, bảo Lý Khắc rằng: - Chúa công sai tôi đến nói cho ngài biết: Nếu không có ngài chúa công không được về nối ngôi, công ấy bao giờ dám quên, nhưng ngài giết hai vua và quan đại thần thì chúa công không dám vì ơn riêng ấy mà bỏ nghĩa lớn, xin ngài tự liệu lấy. Lý Khắc nói: - Không có người bị giết thì sao chúa công lên ngôi được! Nếu muốn bắt tội thì thiếu gì câu, tôi đã hiểu ý rồi! Khước Nhuế lại cố bách mãi. Lý Khắc rút gươm nhảy xuống đất mà kêu to lên rằng: - Trời ôi! Có thấu tình oan: Trung mà phải tội! Còn mặt mũi nào trông thấy Tuân Tức ở dưới đất nữa! Nói xong liền đâm cổ mà chết. Tấn Huệ công giết Lý Khắc rồi các quan có nhiều người không phục, như bọn Cung Hoa, Giả Hoa va Chuy Xuyền đều kêu ca oán giận. Tấn Huệ công muốn giết tất cả. Khước Nhuế nói: - Phi Trịnh Phủ còn đang ở nước ngoài mà ta giết nhiều người quá thì sợ hắn sinh nghi, âu là chúa công hãy chịu ẩn nhẫn một chút. Tấn Huệ công nói: - Mục Cơ nước Tần có dặn ta phải hậu đãi Giả Quân và cho hết các công tử về, nhà ngươi nghĩ thế nào? Khước Nhuế nói: - Các công tử ai không muốn tranh ngôi, chớ nên cho về: Còn việc hậu đãi Giả Quân để báo ơn Mục Cơ là phải lắm. Tấn Huệ công liền vào yết kiến Giả Quân. Bấy giờ Giả Quân nhan sắc cũng hãy còn xuân, Tấn Huệ công bỗng động lòng dâm dục mà bảo Giả Quân rằng: - Mục Cơ có dặn ta cùng với ngươi giao hoan, nhà ngươi nên bằng lòng. Nói xong, liền đứng dậy ôm lấy Giả Quân. Các cung nhân trông thấy, đều buồn cười mà tránh đi cả. Giả Quân sợ uy Tấn Huệ công, bất đắc dĩ phải nghe lời, rồi ứa hai hàng nước mắt mà bảo Tấn Huệ công rằng: - Thiếp trước hầu tiên quân đã không giữ được trọn đạo, nay lại hầu chúa công. Thần thiếp cũng chẳng tiếc gì, nhưng xin chúa công vì thế tử Thân Sinh ngày xưa mà giải tình oan khuất, để cho Mục Cơ được bằng lòng. Tấn Huệ công nói: - Hề Tề và Trác Tử bị giết thì minh oan của Thân Sinh đã giải được rồi! Giả Quân nói: - Thi thể Thân Sinh còn chôn tạm ở đất Khúc Ốc, xin chúa công làm lễ cải táng, để khiến cho hồn oan được yên, đó cũng là một điều ước mong của người trong nước. Tấn Huệ công sai em Khước Nhuế là Khước Khất sang đất Khúc Ốc đề cải táng cho Thân Sinh; lại sai Hồ Đột đến làm lễ tế ở trước mộ. Khi đào lên thì thi thể Thân Sinh vẫn còn nguyên như lúc sống, nhưng mùi thối không thể chịu được. Khước Khất thắp hương mà khấn rằng: - Thế tử lúc còn sống là người trong sạch, sao lúc chết lại hôi hám như vậy, xin thế tử chớ làm cho quan sĩ phải kính sợ. Khấn xong, bao nhiêu mùi hôi mất hết, lại thấy mùi hương thơm ngào ngạt. Quân sĩ mới thu liệm cải táng đi chỗ khác. Người đất Khúc Ốc kéo nhau đi đưa tất cả, ai cũng ứa nước mắt mà thương khóc. Đến ngày thứ ba, Hồ Đột đem đồ lễ đến tế; tế xong, sắp sửa trở về, bỗng có một toán quân sĩ kéo đến, xe ngựa đông lắm, Hồ Đột không biết là quân nào, vội vàng tránh ra một bên, trông thấy một người râu tóc bạc, mũ cao áo dài ở trên xe bước xuống, đến trước mặt Hồ Đột mà bảo rằng: - Thế tử muốn mời ngài lại để nói chuyện. Hồ Đột xem ai thì thành ra quan thái phó là Đỗ Nguyên Khoản. Trong khi hoảng hốt, Hồ Đột cũng quên mất, không nhớ là thế tử đã chết rồi, mới hỏi lại rằng: - Thế tử ở đâu? Đỗ Nguyên Khoản trỏ vào xe sau mà nói rằng: - Ấy xe thế tử đó! Hồ Đột liền đi đến trước xe, thấy thế tử Thân Sinh mũ áo đeo gươm, trông như lúc sống. Thân Sinh sai người dắt Hồ Đột lên ngồi xe, rồi bảo rằng: - Ngài cũng còn nhớ đến tôi chăng? Hồ Đột ứa nước mắt mà nói rằng: - Thế tử bị oan, dẫu người qua đường cũng phải thương xót, huống hồ chi Hồ Đột này, khi nào lại quên được! Thân Sinh nói: - Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế thương tôi là người nhân hiếu, cho tôi làm chủ ở đất Khúc Ốc này. Di Ngô xử với Giả Quân rất vô lễ, tôi ghét nó mà toan làm cho nó không cải táng được; nay vua nước Tần là người hiền, tôi muốn đem nước Tấn cho Tần, để người nước Tần giữ việc cúng tế tôi về sau, ngài nghĩ có nên không? Hồ Đột nói: - Thế tử ghét vua nước Tấn bây giờ, nhưng dân nước Tấn có tội gì! Mà sao thế tử muốn bỏ người cùng họ mà đi cầu người khác họ giữ việc cúng tế. Nếu như vậy thì tôi e rằng trái mất cái đạo nhân hiếu. Thân Sinh nói: - Ngài nói cũng phải, nhưng tôi đã tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế rồi! Để tôi sẽ tâu lại, có thể nào trong bảy ngày nữa tôi cho một người thầy đồng lên miệng báo cho ngài biết. Đỗ Nguyên Khoản đứng ở dưới xe, gọi Hồ Đột mà bảo rằng: - Thôi, ngài nên trở về! Nói xong, liền giơ tay dắt Hồ Đột xuống xe. Hồ Đột vấp chân ngã lăn xuống đất, giật mình tỉnh dậy, thành ra đang nằm ở nhà quán xá, liền hỏi người hầu xung quanh rằng: - Sao ta lại ở đây? Người xung quanh nói: - Khi tế vừa xong thì ngài ngã xuống, gọi mãi không tỉnh, chúng tôi phải vực lên xe rồi đưa ngài về đây. Hồ Đột biết là mình nằm mộng, có ý lấy làm lạ, nhưng không nói cho ai biết, giả cách kêu mệt nhọc, nghỉ lại ở nhà quán xá. Được bảy ngày nữa, bỗng có một người thầy đồng xin vào yết kiến. Hồ Đột sai đuổi hết người xung quang rồi cho vào. Người thầy đồng nói: - Thế tử Thân Sinh bảo tôi nói lại để ngài biết rằng: Hiện đã tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế thì Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉ trị tội một mình hắn mà thôi, không hại gì đến nước Tấn cả. Hồ Đột giả cách không hiểu, hỏi lại rằng: - Trị tội một mình hắn là ai? Người thầy đồng nói: - Tôi chỉ biết nói thế thôi, còn không hiểu việc gì hết. Hồ Đột sai đem tiền bạc thưởng cho người thầy đồng, rồi dặn không được nói cho ai biết. Hồ Đột về nước, nói chuyện với con Phi Trịnh Phủ là Phi Báo. Phi Báo nói: - Chúa công làm nhiều điều càn dở, tất không an toàn được, có lẽ nước Tấn lại về tay Trùng Nhĩ mà thôi! Phi Trịnh Phủ cùng với quan đại phu nước Tần là Lãnh Chi trở về nước Tấn, mới về đến ngoài cõi nghe tin Lý Khắc bị giết. Phi Trịnh Phủ trong lòng nghi hoặc, toan quay sang nước Tần, nhưng lại nghĩ đến con là Phi Báo hiện đang ở nhà, nếu mình trốn đi thì tất con bị hại, bởi vậy trù trừ chưa quyết. Bỗng gặp quan đại phu là Cung Hoa, Phi Trịnh Phủ mới hỏi chuyện Lý Khắc, Cung Hoa kể lại đầu đuôi một lượt. Phi Trịnh Phủ hỏi: - Bây giờ tôi có nên về không? Cung Hoa nói: - Những người đồng chí với Lý Khắc còn nhiều, như Cung Hoa này cũng tức là trong đảng ấy. Nay chúa công chỉ giết một mình Lý Khắc, còn không liên lụy đến ai cả, huống chi ngài hiện đang đi sứ nước Tần, tôi thiết tưởng cứ nên làm như người không biết là hơn; bằng nay sợ mà không về thì thành ra mình lại tự thú là người có tội. Phi Trịnh Phủ nghe lời, liền trở về nước Tấn, đưa Lãnh Chi vào yết kiến Tấn Huệ công. Lãnh Chi dâng các đồ lễ vật, rồi đệ trình tờ quốc thư, Tấn Huệ công mở ra xem. Trong thư đại lược nói rằng: "Nước tấn và nước Tần, hai nước vốn là thân thuộc với nhau thì đất của nước Tấn cũng tức như của nước Tần. Các quan đại phu nước Tấn không chịu nộp đất, cũng là trung với nước mình, cớ đâu tôi lại tham muốn mà bỏ đi cái bụng tốt của các quan đại phu: Nhưng tôi có một việc cần, muốn cùng với quan đại phu Lã Di Xanh và quan đại phu Khước Nhuế cùng hội nghị. Xin mời sang ngay kẻo tôi mong đợi." Cuối thư lại có viết một câu rằng: "Nay xin trả lại cái tờ ước thư ngày trước". Tấn Huệ công là người kiến thức nhỏ nhen, thấy lễ vật của nước Tần rất hậu, lại trả lại tờ ước thư của mình xin nộp đất ngày trước, trong lòng mừng lắm, toan sai Lã Di Xanh và Khước Nhuế sang tạ ơn nước Tần. Khước Nhuế nói riêng với Lã Di Xanh rằng: - Nước Tần cho sứ đến, không phải là ý tử tế, nay xem của nhiều nói ngọt như vậy, tất là có ý muốn lừa ta. Chúng ta sang đến nơi, không khéo thì nước Tần bắt hiếp chúng ta phải nộp đất. Lã Di Xanh nói: - Tôi không ngờ người nước Tần lại tử tế với ta được đến như thế! Đó tất là Phi Trịnh Phủ nghe tin Lý Khắc bị giết, sợ không khỏi tội: Mới lập mưu với người nước Tần, muốn cho người nước Tần giết chúng ta đi, để hắn nổi loạn. Khước Nhuế nói: - Phi Trịnh Phủ cùng với Lý Khắc, nguyên vẫn là một đằng. Lý Khắc bị giết, Phi Trịnh Phủ tài nào mà không sợ, ngài nói phải đó. Nay trong triều thần thì đảng Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ đến một nửa; nếu Phi Trịnh Phủ lòng nào tất nhiên nhiều người đồng mưu với hắn, chi bằng ta hãy bảo sứ nước Tần về trước, rồi ta sẽ dò xét xem. Lã Di Xanh khen phải, liền vào nói với Tấn Huệ công, hãy bảo Lãnh Chi về nước Tần trước, rồi sẽ cho Lã Di Xanh và Khước Nhuế sang sau. Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người tâm phúc ngày đêm chực ở cửa nhà Phi Trịnh Phủ để dò thám. Phi Trịnh Phủ thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế không sang nước Tần, liền mật cho người triệu bọn Kỳ Cử, Cung Hoa, Giả Hoa và Chuy Xuyền, vân vân, đêm hôm ấy đến nhà để hội nghị. Quân thám tử về báo Khước Nhuế. Khước Nhuế tức khắc cùng Lã Di Xanh thương nghị, sai người gọi Đồ Ngạn Di đến, bảo rằng: - Tai vạ nhà ngươi sắp đến nơi, nhà ngươi có biết không? Đồ Ngạn Di giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Tôi làm gì mà nên tai vạ? Khước Nhuế nói: - Nhà ngươi ngày trước giúp Lý Khắc giết Hề Tề và Trác Tử, nay Lý Khắc đã bị giết, chúa công lại sắp giết cả nhà ngươi, chúng ta thấy nhà ngươi có công đón lập chúa công không nỡ để nhà ngươi bị giết, vậy nên chúng ta bảo cho mà biết. Đồ Ngạn Di vừa khóc vừa nói: - Tôi chỉ là một đứa vũ phu, bị người ta sai khiến, nào có biết thế là nên tội đâu! Xin ngài làm ơn cứu cho. Khước Nhuế nói: - Chúa công giận lắm, không thể nói được! Nay chỉ có một kế này, may ra thoát khỏi được chăng. Đồ Ngạn Di liền quì xuống hỏi kế, Khước Nhuế vội vàng đỡ dậy mà bảo rằng: - Nay Phi Trịnh Phủ cũng là một đảng với Lý Khắc, cùng các quan đại phu âm mưu, định giết chúa công mà đón Trùng Nhĩ về nối ngôi. Nhà ngươi giả cách sợ tội mà thông mưu cùng với Phi Trịnh Phủ; khi đã dò được thực tình rồi thì đem ra mà thú, rồi ta tâu với chúa công lấy ba mươi vạn mẫu ruộng ở đất Phụ Quì ngày trước hẹn cho Phi Trịnh Phủ ấy mà cho nhà ngươi, lại thăng chức cho để đền công nữa, nhà ngươi còn lo gì tội! Đồ Ngạn Di mừng mà nói rằng: - Nếu vậy thì thật là ngài cải tử hoàn sinh cho tôi đó, tôi xin hết lòng mà vâng lời, nhưng hiềm vì một nỗi tôi nói năng vụng lắm thì biết làm thế nào? Lã Di Xanh nói: - Để ta dạy nhà ngươi. Nói xong, liền nghĩ sẵn câu hỏi và câu trả lời, để cho Đồ Ngạn Di học thuộc lấy. Đêm hôm ấy, Đồ Ngạn Di đến gõ cửa Phi Trịnh Phủ, nói có việc bí mật. Phi Trịnh Phủ từ chối là đang say rượu nằm ngủ, không ra tiếp kiến, Đồ Ngạn Di đứng đợi, mãi đến canh khuya cũng không trở về. Phi Trịnh Phủ cho gọi vào. Đồ Ngạn Di vào đến nơi, liền quì xuống đất mà rằng: - Xin ngài cứu cho, kẻo tôi chết mất! Phi Trịnh Phủ giật mình, liền hỏi. Đồ Ngạn Di nói: - Chúa công bảo là tôi giúp Lý Khắc giết Hề Tề và Trác Tử, sắp đem chém tôi, xin ngài cứu cho! Phi Trịnh Phủ nói: - Nay quyền chính ở trong tay Lã Di Xanh và Khước Nhuế, sao nhà ngươi không đến mà kêu với người ta? Đồ Ngạn Di nói: - Điều ấy là mưu tự Lã Di Xanh và Khước Nhuế, tôi tiếc rằng không thể ăn thịt được hai người ấy. Kêu với họ thì có ích gì! Phi Trịnh Phủ còn chưa tin lời, lại hỏi rằng: - Thế thì bây giờ nhà ngươi định thế nào? Đồ Ngạn Di nói: - Công tử Trùng Nhĩ là người thân hiếu, trong nước ai cũng muốn tôn lên làm vua, mà vua nước Tần ngày nay đang ghét chúa công ta là người bội ước, cũng muốn lập Trùng Nhĩ, để Trùng Nhĩ mượn quân nước Tần và nước Địch; còn ngài ở trong hợp nhau với đảng Thân Sinh cũ mà làm nội ứng. Trước hết chém đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế, rồi đuổi chúa công đi mà lập Trùng Nhĩ, chắc hẳn phải nên việc. Phi Trịnh Phủ nói: - Nhà ngươi có giữ được một lòng như thế không? Đồ Ngạn Di liền cắn đầu ngón tay chảy máu ra mà thề rằng: - Nếu tôi sai lời thì xin chết cả họ. Phi Trịnh Phủ tin lời, hẹn đến canh ba đêm hôm sau thì lại hội nghị. Đêm hôm sau, Đồ Ngạn Di lại đến thì đã thấy Kỳ Củ, Cung Hoa, Giả Hoa và Chuy Xuyền đã ở đấy rồi; lại có Thúc Kiên, Nu Hổ, Đặc Cung và Điền Kỳ bốn người nữa, đều là môn hạ của Thân Sinh cũ, cùng với Phi Trịnh Phủ và Đồ Ngạn Di cả thảy 10 người, cùng nhau uống máu ăn thề để giúp Trùng Nhĩ. Phi Trịnh Phủ bày tiệc thết đãi, các người uống rượu say rồi đâu về đấy cả. Đồ Ngạn Di về báo Khước Nhuế biết, Khước Nhuế nói: - Nhà ngươi nói thế không có bằng cứ gì cả, làm thế nào lấy được bức thư của Phi Trịnh Phủ thì mới trị tội được. Đêm hôm sau, Đồ Ngạn Di lại đến nhà Phi Trịnh Phủ để xin tờ thư đem cho Trùng Nhĩ. Phi Trịnh Phủ đã viết sẵn sàng rồi, chín người cùng ký tên cả, chỉ thiếu có một mình Đồ Ngạn Di. Đồ Ngạn Di cũng cầm bút ký tên nốt. Phi Trịnh Phủ niêm phong kỹ càng, rồi giao cho Đồ Ngạn Di, dặn Đồ Ngạn Di phải cẩn thận, chớ tiết lộ cho ai biết. Đồ Ngạn Di được bức thư, quí như người được của đem thẳng đến nhà Khước Nhuế, Khước Nhuế xem xong, liền giấu kín Đồ Ngạn Di ở trong nhà, rồi đem bức thư cùng với Lã Di Xanh sang thuật chuyện lại cho quốc cữu là Quắc Xạ rằng: - Nếu không trừ ngay đi thì tất sinh biến loạn. Đêm hôm ấy, Quắc Xạ vào ngay trong cung, yết kiến Tấn Huệ công, rồi kể hết cái mưu Phi Trịnh Phủ, lại nói với Tấn Huệ công rằng: - Sáng mai ra triều, chúa công nên đem bức thư này ra làm chứng cớ mà trị tội đi. Ngày hôm sau, Tấn Huệ công ra triều, Lã Di Xanh, Khước Nhuế đã sai các võ sĩ phục sẵn ở xung quanh. Tấn Huệ công gọi Phi Trịnh Phủ mà hỏi rằng: - Ta đã biết rằng nhà ngươi định đuổi ta mà lập Trùng Nhĩ, nhà ngươi có chịu tội không? Phi Trịnh Phủ vừa toan phân giải thì Khước Nhuế chống gươm mà quát to lên rằng: - Nhà ngươi sai Đồ Ngạn Di đem thư đưa cho Trùng Nhĩ, may nhờ hồng phúc chúa công ta mà ta lại đón bắt được Đồ Ngạn Di ở ngoài thành. Bọn nhà ngươi cả thảy 10 người, Đồ Ngạn Di đã thú nhận cả rồi, nhà ngươi còn nói gì nữa! Tấn Huệ công cầm bức thư ném ra trước án. Lã Di Xanh nhặt lấy, rồi chiếu danh đọc lên, để cho võ sĩ bắt. Chỉ có Cung Hoa xin phép ở nhà, tức khắc sai người đi nã, còn 8 người ở đấy, đều ngơ ngác nhìn nhau mà không cãi thế nào được nữa. Tấn Huệ công truyền đem ra chém. Trong bọn ấy có Giả Hoa kêu ầm lên rằng: - Năm xưa tôi phụng mệnh tiên quân đi đánh chúa công, cái ơn tha cho chúa công đi trốn, xin chúa công nghĩ lại. Lã Di Xanh nói: - Ngày trước nhà ngươi làm tôi tiên quân mà tư tình với chúa công, ngày nay nhà ngươi làm tôi chúa công, lại tư tình với Trùng Nhĩ, thế là một đứa tiểu nhân phản phúc, càng nên giết lắm. Giả Hoa không nói thế nào được nữa. Tám người đều chết chém cả. Cung Hoa ở nhà nghe tin bọn Phi Trịnh Phủ bị giết, toan tức khắc vào triều để xin nhận tội. Em là Cung Tứ can rằng: - Vào thì tất chết, chẳng thà trốn đi còn hơn. Cung Hoa nói: - Ngày trước ta bảo Phi Trịnh Phủ cứ về, để đến nỗi Phi Trịnh Phủ chết, mà ta sống lấy một mình thì sao gọi là trượng phu được. Ta không phải là không muốn sống, nhưng ta không nỡ phụ lòng Phi Trịnh Phủ. Nói xong, không đợi cho người đến bắt, tức khắc vào thẳng trong triều để xin chịu tội. Tấn Huệ công cũng sai đem chém, Phi Báo nghe tin cha là Phi Trịnh Phủ bị giết, tức khắc trốn sang nước Tần. Tấn Huệ công muốn giết cả họ những người trong bọn Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ. Khước Nhuế nói: - Trị tội người ta, không bắt đến vợ con, đó là phép đời xưa. Nay bọn phản nghịch đã bị giết cũng đủ làm gương cho kẻ khác rồi, cần gì giết lắm cho người ta kinh sợ. Tấn Huệ công mới tha không giết nữa, rồi phong Đồ Ngạn Di làm trung đại phu, thưởng cho mười vạn mẫu ruộng ở đất Phụ Quì. Phi Báo đến nước Tần, vào yết kiến Tần Mục công phục xuống đất mà khóc. Tần Mục công hỏi. Phi Báo đem chuyện Phi Trịnh Phủ bị giết mà thuật lại đầu đuôi một lượt, rồi nói với Tần Mục công nên đem quân sang đánh. Tần Mục công hội các quan để thương nghị. Kiển Thúc nói: - Nếu dân không phục thì tất sinh biến, chúa công nên đợi cho sinh biến, rồi sẽ sang đánh. Tần Mục công nói: - Ta cũng lấy làm nghi lắm, trong một lúc mà giết đến chín quan đại phu, nếu dân không phục thì sao thế được; huống chi ta sang đánh mà không có nội ứng thì làm gì nổi. Phi Báo liền ở lại làm quan đại phu nước Tần. Bấy giờ Vương tử Đái nhà Chu sai người xui nước Nhung Địch đem quân vào đánh kinh sư để định ở trong làm nội ứng. Chu Tương Vương sai người cấp báo với các nước chư hầu. Tần Mục công và Tấn Huệ công đem quân đến cứu. Quân Nhung Địch nghe tin các nước chư hầu đến cứu liền đốt phá cửa Đông Môn rồi kéo nhau về. Tấn Huệ công trông thấy Tần Mục công, có ý thẹn thùng. Tần Mục công lại tiếp được tờ mật thư của Mục Cơ kể tội mình vô lễ với Giả Quân, và không cho các công tử về nước; lại bảo nên đổi lỗi ngay đi mới được, bởi vậy Tấn Huệ công có ý nghi Tần Mục công, vội vàng rút quân về nước. Phi Báo xui Tần Mục công đánh lẻn quân nước Tấn. Tần Mục công nói: - Nay nước Tấn vì việc cứu nhà Chu mà đến đây, ta dẫu có thù riêng, cũng không nên đánh vội. Nói xong, liền rút quân về. Tề Hoàn công cũng sai Quản Di Ngô đem quân cứu nhà Chu, nghe tin quân Nhung Địch đã rút về rồi, liền sai người sang trách vua Nhung Địch. Vua Nhung Địch sợ uy nước Tề, sai người sang xin lỗi rằng: - Chúng tôi có dám xâm phạm kinh sư đâu, bởi vì Vương tử Đái xui chúng tôi làm vậy. Chu Tương Vương mới đuổi Vương tử Đái. Vương tử Đái chạy sang nước Tề. Quản Di Ngô đau nặng. Tề Hoàn công đến hỏi thăm thấy Quản Di Ngô gầy lắm, mới cầm lấy tay mà nói rằng: - Trọng phụ đau nặng lắm, bất hạnh mà có sự gì thì tôi biết giao quyền chính cho ai được? Bây giờ Ninh Thích và Tân Tu Vô cũng đều mất cả rồi, Quản Di Ngô thở dài mà than rằng: - Tiếc thay cho Ninh Thích! Tề Hoàn công nói: - Trừ Ninh Thích ra, lại không có ai nữa hay sao. Tôi muốn giao quyền chính cho Bão Thúc Nha, Trọng phụ nghĩ thế nào? Quản Di Ngô nói: - Bão Thúc Nha là người quân tử, nhưng không có tài chính trị, hay phân biệt thiện ác quá; yêu điều thiện thì phải, chứ ghét điều ác quá thì không ai chịu được, Bão Thúc Nha thấy ai có điều ác gì thì suốt đời không quên, đó cũng là một điều dở. Tề Hoàn công nói: - Thấp Bằng thế nào? Quản Di Ngô nói: - Thấp Bằng là người hay hỏi kẻ dưới mà không xấu hổ; lúc nào cũng lo nghĩ đến việc nước, có thể dùng được. Nói xong, liền thở dài mà than rằng: - Trời sinh Thấp Bằng, khác nào như cái lưỡi của tôi, nay tôi đã chết thì cái lưỡi cũng không sống được. Tôi e rằng chúa công dùng Thấp Bằng cũng chẳng được bao lâu! Tề Hoàn công nói: - Thế thì Dịch Nha thế nào? Quản Di Ngô nói: - Chúa công không hỏi, tôi cũng sắp nói. Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, ba người ấy quyết không nên gần. Tề Hoàn công nói: - Dịch Nha làm thịt con để cho tôi ăn, thế là yêu tôi hơn yêu con, còn nghi gì nữa! Quản Di Ngô nói: - Tình người ta không gì yêu hơn con. Con mà nỡ như thế thì còn nghĩ gì đến vua! Tề Hoàn công nói: - Thụ Điêu tự hoạn mình đi để xin vào hầu tôi, thế là yêu tôi hơn yêu thân mình, còn nghi gì nữa! Quản Di Ngô nói: - Tình người ta không gì yêu hơn thân. Thân mà nỡ như thế thì còn nghĩ gì đến vua! Tề Hoàn công nói: - Khai Phương là Công tử nước Vệ, bỏ ngôi thế tử mà theo tôi; khi cha mẹ chết, cũng chẳng thiết về, thế là yêu tôi hơn cha mẹ, còn nghi gì nữa! Quản Di Ngô nói: - Tình người ta không gì thân hơn cha mẹ. Cha mẹ mà nỡ như thế, còn nghĩ gì đến vua! Vả lại ngôi thế tử sắp lên làm vua thì ai mà không muốn, nay Khai Phương bỏ ngôi thế tử theo chúa công thì tất còn muốn được hơn ngôi thế tử nữa, chúa công chớ nên gần; gần thì tất có ngày sinh loạn. Tề Hoàn công nói: - Ba người ấy theo hầu tôi đã lâu lắm, sao tôi không thấy trọng phụ nói đến bao giờ? Quản Di Ngô nói: - Tôi không nói ra là để chiều ý chúa công. Thí dụ như nước, tôi làm cái bờ đê, để khiến cho nước khỏi tràn chảy; nay bờ đê đã bỏ đi rồi thì khó lòng mà giữ được nước. Chúa công chớ nên gần. Tề Hoàn công nín lặng, rồi cáo từ lui ra.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...