- Xu
- 145,268
HỒI THỨ 50 Trọng Toại tôn lập Công tử Tiếp Triệu Thuẫn khuyên can Tấn Linh công
Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Đắc Thần sang nước Tề để chúc mừng vua mới và tạ ơn nước Tề đã sai sứ sang viếng tang. Tề Huệ công mời ăn tiệc, nhân hỏi Trọng Toại và Thúc Tôn Đắc Thần rằng: - Chẳng hay vua mới nước Lỗ sao lại đặt tên là Ác. Thế gian thiếu gì tên đẹp mà lại dùng một chữ xấu xí ấy. Trọng Toại nói: - Tiên quân tôi lúc mới sinh Thế tử Ác, có sai quan Thái sử bói xem tốt xấu thế nào; quan Thái sử bảo rằng trong số tất phải ác tử không được hưởng lộc, vậy nên Tiên quân tôi mới đem chữ "Ác" đặt tên để mà trấn áp những sự dở đi. Nhưng Thế tử Ác nguyên là đích tử mà phải lập, chứ Tiên quân tôi vẫn không có lòng yêu; Tiên quân tôi chỉ yêu người con hơn tuổi nhất là Công tử Tiếp. Công tử Tiếp tính nết hiền hậu, biết kính trọng các quan đại thần, khắp người trong nước ai cũng muốn cho lên làm vua. Tề Huệ công nói: - Đời xưa cũng có phép được lập người con hơn tuổi, huống chi lại là con yêu. Thúc Tôn Đắc Thần nói: - Nước Lỗ tôi vẫn quen lệ lập đích tử, khi nào không có đích tử mới lập người con hơn tuổi, bởi vậy Tiên quân tôi bỏ Công tử Tiếp mà lập Công tử Ác, người trong nước chẳng ai thuận cả. Nếu quí quốc có lòng vì nước tôi đổi lập vua hiền thì Công tử Tiếp xin cùng với quí quốc làm hôn nhân, rồi dốc một lòng mà thần phục quí quốc. Tề Huệ công bằng lòng, nói: - Nay hai quan đại phu cầm quyền mà làm được việc ấy, ta cũng xin theo ý. Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Đắc Thần xin uống máu để ăn thề và lập tờ hôn ước. Tề Huệ công thuận cho. Bọn Trọng Toại về đến nước Lỗ, bảo Quí Tôn Hàng Phủ rằng: - Ngày nay công nghiệp bá chủ của nước Tấn đã suy kém rồi, nước Tề sắp lại cường thịnh. Nước Tề muốn đem đích nữ gả cho Công tử Tiếp, như vậy thì nước ta càng thêm vây cánh. Quí Tôn Hàng Phủ nói: - Chúa công bây giờ là cháu gọi vua Tề bằng cậu, vua Tề có con gái, sao không gả cho Chúa công mà lại gả cho Công tử Tiếp. Trọng Toại nói: - Vua Tề nghe nói Công tử Tiếp là người hiền, muốn giao hoan với Công tử Tiếp, nhận làm cậu cháu; còn như bà phu nhân Khương Thị là con gái Tề Chiêu công, các con Tề Hoàn công coi như cừu địch, vậy nên bốn đời vua nước Tề đều lấy em thay anh. Kẻ kia chẳng nghĩ gì đến anh, huống chi là cháu. Quí Tôn Hàng Phủ nín lặng, khi lui về, thở dài mà than rằng: - Đông môn thị đã muốn có ý khác rồi! Nói xong, liền mật bảo với Thúc Trọng Bành Sinh. Thúc Trọng Bành Sinh nói: - Ngôi vua đã định rồi, ai còn dám có ý khác! Thúc Trọng Bành Sinh cũng chẳng nghĩ gì đến. Trọng Toại cùng với Kính Doanh bàn mưu đem bọn dũng sĩ phục ở trong chuồng ngựa, sai người bảo là ngựa mới đẻ con. Kính Doanh bảo Công tử Tiếp cùng với vua Lỗ (tức là Công tử Ác) và Công tử Thị Thân Bành ra chuồng ngựa để xem. Bọn dũng sĩ đổ ra, cầm côn gỗ đánh chết vua Lỗ, lại giết chết cả Công tử Thị nữa. Trọng Toại nói: - Quan Thái phó là Thúc Trọng Bành sinh hãy còn, nếu chưa trừ bỏ được người ấy thì tất không xong việc. Trọng Toại liền sai nội thị giả cách phụng mệnh vua Lỗ đến triệu Thúc Trọng Bành Sinh. Thúc Trọng Bành Sinh sắp sửa vào cung. Người nhà là công Nhiễm Vụ Nhân vẫn biết cái mưu của Trọng Toại, nghi là có ý gì khác, mới can Thúc Trọng Bành Sinh rằng: - Quan Thái phó chớ vào, vào thì tất chết. Thúc Trọng Bành Sinh nói: - Vua sai người triệu thì dẫu chết ta cũng đành lòng. Công Nhiễm Vụ Nhân nói: - Nếu vua triệu thật quan Thái phó đã không chết, chỉ e rằng không phải vua triệu thì chết uổng mà thôi. Thúc Trọng Bành Sinh không nghe. Công Nhiễm Vụ Nhân nắm lấy vạt áo mà khóc. Thúc Trọng Bành Sinh dứt đứt vạt áo, rồi đi thẳng vào cung; không thấy vua Lỗ đâu cả, mới hỏi các nội thị. Các nội thị nói: - Chúa công đi ra chuồng ngựa, để xem ngựa mới đẻ. Các nội thị liền đưa Thúc Trọng Bành Sinh đi ra chuồng ngựa. Bọn dũng sĩ lại đổ ra giết chết Thúc Trọng Bành Sinh, rồi đem thi thể chôn ở trong đống phân ngựa. Kính Doanh sai người bảo Khương Thị rằng: - Chúa công cùng Công tử Thị đều bị ngựa đá chết rồi. Khương Thị khóc ầm lên, rồi đi ra chuồng ngựa để xem. Khi Khương Thị đến thì thi thể vua Lỗ và Công tử Thị đã đưa ra ngoài cung môn. Quí Tôn Hàng Phủ nghe tin, biết ngay là mưu kế của Trọng Toại, không dám nói ra, lại bảo riêng Trọng Toại rằng: - Nhà ngươi tàn ngược quá, ta nghĩ không đang tâm! Trọng Toại nói: - Đấy là mưu của Kính Doanh, chứ ta có dự đâu đến. Quí Tôn Hàng Phủ nói: - Giả sử nước Tấn đem quân đến hỏi tội thì ta biết nói ra thế nào? Trọng Toại nói: - Xem việc nước Tề và nước Tống trước thì đủ biết. Kẻ kia giết vua lớn mà còn chẳng ai hỏi tội, huống chi ta giết hai đứa trẻ con ấy, còn lo ngại gì! Quí Tôn Hàng Phủ ôm lấy thi thể vua Lỗ mà khóc, đến nỗi khản cả tiếng. Trọng Toại nói: - Quan Đại thần nên phải bàn việc lớn trong nước, sao lại bắt chước thói đàn bà! Quí Tôn Hàng Phủ mới gạt nước mắt không khóc nữa. Thúc Tôn Đắc Thần đến hỏi Trọng Toại rằng: - Anh tôi là Thúc Trọng Bành Sinh ở đâu? Trọng Toại chối là không biết. Thúc Tôn Đắc Thần cười mà rằng: - Anh ta có chết đi thì cũng là trung thần; cái chí anh ta như thế, can gì phải giấu! Trọng Toại mới nói thực với Thúc Tôn Đắc Thần và bảo với các quan triều thần rằng: - Công việc ngày nay, cần phải lập vua trước đã. Công tử Tiếp là người hiền mà lại nhiều tuổi hơn cả các công tử, nên lập lên làm vua. Các quan triều thần đều vâng dạ xin theo, rồi cùng tôn lập Công tử Tiếp lên làm vua, tức là Lỗ Tuyên công. Thúc Tôn Đắc thần bới đống phân ngựa, đem thi thể Thúc Trọng Bành Sinh ra mà làm lễ an táng. Khương Thị nghe tin hai con bị giết, Trọng Toại lập Công tử Tiếp lên làm vua, vật mình lăn khóc, chết đi sống lại đến mấy lượt. Trọng Toại lại nịnh Lỗ Tuyên công, viện lẽ mẫu dĩ tử quí, xin tôn Kính Doanh lên làm Quốc mẫu. Khương Thị buồn rầu, ngày đêm khóc lóc, sai thị nữ thu xếp đồ đạc để sắp sửa trở về nước Tề. Trọng Toại lại giả cách sai người lưu lại mà nói rằng: - Chúa công bây giờ dẫu không phải phu nhân sinh ra, nhưng phu nhân vẫn là đích mẫu, bao giờ Chúa công cũng trọng đãi, can gì mà phu nhân phải về nước Tề. Khương Thị mắng rằng: - Thằng giặc Trọng Toại kia! Mẹ con ta có phụ bạc gì với mày mà mày lại làm những việc tàn ngược như vậy, nên còn định nói lừa ta, quỉ thần có biết, tất chẳng dung tha cái tội ấy! Khương Thị không vào yết Kính Doanh nữa, tức khắc lên xe đi ngay. Khi đi qua những chỗ chợ to phố lớn, Khương Thị lại khóc to lên mà kêu rằng: - Trời đất ôi! Trời đất ôi! Hai con nhỏ của tôi có tội lỗi gì! Thân tôi đây có tội lỗi gì! Mà thằng giặc Trọng Toại nỡ lòng giết con đích mà lập con thứ. Nay tôi từ biệt nước Lỗ không bao giờ về nữa. Người trong nước nghe nói, ai cũng động lòng thương xót, có kẻ lại chảy nước mắt khóc. Ngày hôm ấy nước Lỗ đến nỗi tan chợ, bởi vậy mới gọi Khương Thị là Ai Khương; lại vì cớ trở về nước Tề, cũng gọi là Xuất Khương. Xuất Khương về đến nước Tề, cùng với Chiêu công phu nhân, mẹ con gặp nhau, đem những sự oan khổ nói chuyện với nhau, rồi hai mẹ con cùng khóc lóc. Tề Huệ công thấy khóc lóc như vậy, có ý ghét không muốn nghe, mới sai người làm riêng một cái cung để cho hai mẹ con ở. Lại nói chuyện em cùng mẹ Lỗ Tuyên công là Thúc Miện, vốn người trung thực, thấy anh là Công tử Tiếp nhờ sức Trọng Toại, giết em mà lên làm vua, trong lòng khinh bỉ mới không vào chúc mừng. Lỗ Tuyên công sai người triệu Thúc Miện, muốn dùng cho làm quan to. Thúc Miện cố ý từ chối không làm. Có người bạn Thúc Miện hỏi Thúc Miện vì cớ gì mà không làm quan, Thúc Miện nói: - Không phải là tôi có ghét gì phú quí, nhưng trông thấy anh tôi lại nhớ đến các em, vậy nên tôi không đành lòng. Người bạn nói: - Công tử đã cho anh bất nghĩa thì sao không bỏ mà sang nước khác? Thúc Miện nói: - Anh tôi chưa hề có tuyệt tình với tôi, sao tôi nỡ tuyệt tình trước. Gặp bấy giờ Lỗ Tuyên công sai sứ đến thăm hỏi và đem vàng lụa đưa tặng cho Thúc Miện. Thúc Miện chối từ không lấy mà nói rằng: - Tôi đây cũng không đến nỗi đói rét, có đâu lại còn dám tham! Sứ giả hai ba lần nói mãi. Thúc Miện bảo rằng: - Khi nào tôi có thiếu dùng, tôi sẽ xin đến lấy, chứ bây giờ thì quyết không dám nhận. Người bạn nói: - Công tử không chịu làm quan, cũng đủ tỏ cái nghĩa khí rồi, nay trong nhà túng tiêu, chúa công có tặng tống thì xin cứ nhận, can gì mà từ chối! Dẫu Công tử nhận, cũng không ai dám bảo là tham. Thúc Miện chỉ cười, chẳng nói một câu gì cả. Người bạn thở dài mà lui ra. Sứ giả về nói Lỗ Tuyên công. Lỗ Tuyên công nói: - Em ta vốn nghèo, như vậy thì không biết lấy gì mà tiêu cho đủ. Lỗ Tuyên công sai người đêm đến rình xem Thúc Miện làm gì thì thấy đang thắp đèn ngồi khâu giày, để ngày hôm sau đem bán lấy tiền ăn. Lỗ Tuyên công than rằng: - Chú mày muốn học lối Bá Di, Thúc Tề thuở xưa, hái rau vi ở núi Thủ Dương mà ăn hay sao! Thôi thì ta cũng tùy ý. Thúc Miện suốt đời không chịu ăn lộc của anh, mà cũng không nói đến lỗi của anh bao giờ. Người nước Lỗ ai cũng khen Thúc Miện là người có nghĩa khí. Đến đời Lỗ Thành công lại dùng người con là Công Tôn Anh Tề làm quan đại phu. Bấy giờ ngoài Họ Thúc Tôn Thị, thêm có Thúc Thị, Thúc Lão, Thúc Cung, Thúc Chiếp, Thúc Ưởng và Thúc Nghệ, đều là con cháu sau Thúc Miện cả. Trọng Toại nhân khi tết Nguyên Đán, tâu với Lỗ Tuyên công rằng: - Nay Chúa công nội chủ chưa có ai, ngày trước tôi đã cùng với vua Tề kết lập tờ hôn thư, việc ấy Chúa công chớ nên để chậm. Lỗ Tuyên công nói: - Bây giờ nên sai ai sang sứ Tề? Trọng Toại nói: - Việc này tự tôi bày ra. Xin Chúa công cho tôi đi. Lỗ Tuyên công liền sai Trọng Toại sang nước Tề thỉnh hôn. Tháng hai năm ấy, đón con gái nước Tề là Khương Thị về, lập làm phu nhân. Trọng Toại lại mật tâu Lỗ Tuyên công rằng: - Chúa công mới lên làm vua, tất phải dự hội với các nước chư hầu thì ngôi vua mới vững bền được. Chúa công nên lễ đút vua Tề, để vua Tề cho Chúa công dự hội. Lỗ Tuyên công khen phải, liền sai Quí Tôn Hàng Phủ sang tạ ơn vua Tề về việc kết hôn và nói với vua Tề rằng: - Chúa công tôi nhờ ơn nhà vua mà được nối ngôi, nếu không một lần dự hội với chư hầu, chắc nhà vua cũng có ý thẹn thay. Nay nhà vua nghĩ tình cho được dự hội, thì Chúa công tôi sẽ xin đem ruộng đất ở Tế Tây mà hiến nhà vua. Tề Huệ công bằng lòng, ước định đến tháng 5 năm ấy thì cùng với Lỗ Tuyên công hội nhau ở đất Bình Châu (đất nước Tề). Đêm hôm ấy, Lỗ Tuyên công đến trước. Tề Huệ công đến sau, làm lễ tương kiến. Trọng Toại bưng những sổ biên ruộng đất ở Tế Tây đưa nộp Tề Huệ công. Tề Huệ công nhận ngay. Lỗ Tuyên công từ biệt Tề Huệ công rồi về. Trọng Toại nói: - Ngày nay ta mới có thể nằm yên được! Từ bấy giờ nước Lỗ thường sai sứ sang triều cống nước Tề, đến sau Tề Huệ công nghĩ cái tình tử tế của nước Lỗ, liền giao trả cho nước Lỗ những ruộng đất ở Tề Tây. Lại nói chuyện Sở Trang Vương (Lữ) lên làm vua đã ba năm trời mà không làm một việc gì cả, ngày nào cũng chỉ đi săn bắn và cùng với mỹ nữ uống rượu mua vui ở trong cung. Sở Trang Vương ra lệnh tuyên yết ở chốn triều môn rằng: - Nếu ai dám can thì bắt phải tội chết! Quan Đại phu là thân Vô Úy vào yết kiến Sở Trang Vương, thấy Sở Trang Vương tay phải ôm Trịnh Cơ, tay trái ôm Sái Nữ, xung quanh chỗ ngồi đều đầy những đồ âm nhạc. Sở Trang Vương hỏi Thân Vô Úy rằng: - Quan Đại phu tới đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói câu gì đó! Thân Vô Úy nói: - Tôi tới đây không phải là muốn uống rượu và nghe hát, nguyên vì mới rồi tôi đang đi chơi, có người đem một câu đố nói với tôi, mà tôi không đoán ra được, vậy tôi muốn tâu để Đại vương nghe. Sở Trang Vương nói: - Câu đố gì mà quan Đại phu không đoán ra được, nói cho ta nghe. Thân Vô Úy nói: - Có một con chim lớn, lông đủ năm sắc đẹp, đậu ở trên gò cao nước Sở đã 3 năm nay, mà không thấy bay, cũng không thấy kêu, không biết là con chim gì? Sở Trang Vương hiểu là có ý can mình, mới cười mà bảo rằng: - Ta đã biết rồi! Con chim ấy không phải là chim thường, 3 năm không bay, bay tất cao đến tận trời; 3 năm không kêu, kêu tất làm cho người ta phải khiếp sợ. Nhà ngươi hãy đợi mà xem. Thân Vô Úy sụp lạy rồi lui ra. Đợi trông mấy hôm, Sở Trang Vương vẫn chơi bời như cũ. Quan Đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến. Khi vào, trông thấy Sở Trang Vương, liền khóc òa lên; Sở Trang Vương nói: - Tại sao mà khóc lóc như vậy? Tô Tòng nói: - Tôi khóc là vì nỗi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất? Sở Trang Vương nói: - Vì cớ gì mà nhà ngươi chết, lại vì cớ gì mà nước Sở mất? Tô Tòng nói: - Tôi muốn can Đại Vương tất không nghe mà giết tôi. Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa, mà Đại vương cứ say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính trị, còn gì mà nước Sở không mất! Sở Trang Vương sầm nét mặt lại mà bảo rằng: - Ta đã có lệnh: Ai can thì bắt tội chết, sao nhà ngươi đã biết là chết mà dám can, chẳng cũng ngu lắm sao! Tô Tòng nói: - Tôi dẫu ngu cũng chưa đến nỗi ngu lắm như Đại Vương. Sở Trang Vương nổi giận mà nói rằng: - Sao nhà ngươi lại dám bảo là ta ngu lắm? Tô Tòng nói: - Đại vương làm vua một nước, quân mã hùng cường, các nước chư hầu ai cũng sợ hãi mà phải đến triều cống, đó là cái lợi muôn đời; nay say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính trị, khiến cho nước lớn đánh ở mặt ngoài, nước nhỏ phản ở mặt trong, thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời, không phải ngu là gì! Cái ngu của tôi, chẳng qua là đến chết mà thôi, nhưng Đại vương giết tôi thì đời sau tất gọi tôi là trung thần, ví tôi với Long Bàng và Tỷ Can thuở trước, vậy thì tôi chẳng ngu chút nào! Còn cái ngu của Đại vương thì tôi e rằng cầu làm một đứa thất phu mà không thể được! Thôi, tôi nói đến đây là hết, tôi xin mượn cái thanh gươm của Đại vương đeo, mà đâm cổ ở trước mặt Đại vương, để khỏi trái với cái mệnh lệnh của Đại vương đã ban bố. Sở Trang Vương vội vàng đứng dậy, ngăn Tô Tòng mà bảo rằng: - Lời nói của quan Đại phu thật là trung trực lắm, vậy ta xin nghe. Nói xong, liền sai bỏ hết những đồ âm nhạc đi, đuổi Trịnh Cơ, xa Sái Cơ, rồi lập Phàn Cơ làm chủ ở trong cung. Sở Trang Vương thường có nói rằng: - Khi trước ta hay săn bắn, Phàn Cơ thường có can mà ta không nghe, sau Phàn Cơ bỏ không ăn thịt các giống cầm thú. Ấy là một người hiền nội trợ của ta đó! Sở Trang Vương lại dùng Vỉ Giả, Phan Uông và Khuất Đãng để chia quyền của quan lệnh doãn là Đấu Việt Tiêu, và chỉnh đốn lại các công việc chính trị trong nước. Sai Công tử Qui Sinh (người nước Trịnh sang làm quan ở nước Sở) đem quân đi đánh Tống, cùng với quân nước Tống đánh nhau ở Đại Cức, bắt được quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên. Sai Vỉ Giả đem quân sang cứu Trịnh, cùng với quân nước Tấn đánh nhau ở Bắc Lâm, bắt được tướng nước Tấn là Giải Dương. Sang năm sau, mới tha cho Hoa Nguyên và Giải Dương về nước. Từ bấy giờ thế lực nước Sở mỗi ngày một cường thịnh. Sở Trang vương có ý muốn làm bá chủ Trung Nguyên. Quan Thượng khanh nước Tấn là Triệu Thuẫn thấy nước Sở cường thịnh, muốn kết với Tần để chống cự nước Sở. Triệu Xuyên hiến kế rằng: - Tần có thuộc quốc gọi là nước Sùng, phụ thuộc nước Tần đã lâu, nay ta đem quân đi đánh Sùng thì Tần tất phải cứu, bấy giờ ta sẽ giảng hòa. Triệu Thuẫn theo lời, liền tâu với Tấn Linh công sai Triệu Xuyên đem quân đi đánh Sùng. Triệu Sóc nói với Triệu Thuẫn rằng: - Nước Tần từ xưa vẫn thâm thù với ta, nay ta lại đánh thuộc quốc của Tần, chắc là nước Tần giận lắm, khi nào chịu giảng hòa. Triệu Thuẫn nói: - Chủ ý ta đã nhất định rồi! Triệu Sóc lại nói với Hàn Quyết. Hàn Quyết tủm tỉm cười, rồi ghé tai Triệu Sóc mà bảo rằng: - Triệu Tướng quốc làm việc này là muốn giúp cho Triệu Xuyên để giữ lấy quyền thế họ Triệu, không phải là muốn giảng hòa với Tần. Triệu Sóc nín lặng mà lui ra. Nước Tần nghe tin nước Tấn đánh Sùng, không đến cứu Sùng, lại đem quân đi đánh Tấn, vây đất Tiêu Ấp. Triệu Xuyên rút quân về để cứu Tiêu Ấp. Quân Tần mới lui về. Triệu Xuyên từ bấy giờ được giữ binh quyền. Du Biền ốm chết, Triệu Xuyên lại thay chức của Du Biền. Tấn Linh công đã lớn tuổi, sinh ra hoang dâm bạo ngược, ham sự chơi bời, tin yêu một quan Đại phu tên gọi Đồ Ngạn Giả, tức là con Đồ Kích, cháu Đồ Ngạn Di. Đồ Ngạn Giả khéo hót nịnh, bởi vậy nói câu gì Tấn Linh công cũng nghe. Tấn Linh công sai Đồ Ngạn Giả lập một cái vườn hoa ở trong kinh thành, đi tìm những thứ hoa cỏ lạ trồng ở trong vườn. Trồng nhiều nhất là hoa đào, cứ về mùa xuân thì hoa đào nở ra, trông như hoa gấm, mới đặt tên là Đào Viên. Trong vườn ấy có xây một cái đài cao ba từng; khoảng giữa lại có lập một cái lầu gọi là Giáng Tiên Lâu. Cột vẽ hoành sơn, gạch hoa ngói đỏ, bốn bề bao lơn con tiện, đứng trên ấy mà trông xuống thì phố xá, thành quách đều như ở trước mặt cả. Tấn Linh công thấy vậy, có ý bằng lòng, thường thường lên lầu cùng với Đồ Ngạn Giả thi nhau giương cung bắn chim, uống rượu làm vui. Một hôm, Tấn Linh công truyền cho phường hát múa hát ở trên đài, nhân dân xúm quanh ở ngoài vườn để xem. Tấn Linh công bảo Đồ Ngạn Giả rằng: Bắn chim sao bằng bắn người, ta cùng với nhà ngươi hãy thử chơi. Ai bắn trúng mắt thì được giải nhất, bắn trúng vai và cánh tay thì tha không kể, nếu bắn không trúng thì phạt một đấu rượu thực to. Tấn Linh công bắn về phía hữu. Đồ Ngạn Giả bắn về phía tả. Nhân dân ở ngoài vườn, người thì mũi tên trúng vào mang tai, người thì mũi tên trúng vào cạnh sườn, đều nhốn nháo bỏ chạy cả, lại kêu ầm lên rằng: - Ai bắn cung như vậy! Tấn Linh công giận lắm, truyền cho quân sĩ cùng bắn, tên ra như mưa, nhân dân người vỡ đầu, kẻ sẩy trán, người lòi mắt, kẻ gẫy răng, tiếng khóc như ri. Tấn Linh công đứng ở trên đài trông thấy, ném cái cung xuống đất mà cười ha hả, bảo Đồ Ngạn Giả rằng: - Ta chơi ở cái đài này, chưa có hôm nào vui như hôm nay! Từ bấy giờ dân nước Tấn không ai dám đi qua đến đấy nữa! Người nhà Chu đem dâng Tấn Linh công một con mãnh khuyển, tên gọi là Linh Ngao, mình cao ba thước, sắc như than đỏ, mà lại tinh khôn lắm, biết theo ý người. Người nào có lỗi, Tấn Linh công vẫn gọi Linh Ngao sai cắn. Con Linh chồm lên, cắn vào tận mặt, kỳ chết mới thôi. Tấn Linh công dùng một người nuôi con Linh Ngao, mỗi ngày cho ăn mấy cân thịt dê. Con Linh Ngao cũng khéo theo ý người nuôi, bảo sao được vậy. Người nuôi con Linh Ngao ấy gọi là Ngao nô, được ăn lộc quan trung đại phu. Tấn Linh công truyền cho các quan đại phu vào triều ở trong cung. Mỗi lần coi triều hoặc đi chơi đâu thì Ngao nô vẫn dắt con Linh Ngao hầu ở bên cạnh, ai trông thấy cũng phải khiếp sợ. Bọn Triệu Thuẫn thường khuyên Tấn Linh công nên dùng người hiền, xa kẻ nịnh, và chăm nom việc chính trị trong nước. Tấn Linh công cứ như người điếc, chẳng thèm để lời nói vào tai, lại có ý nghi kị. Một hôm tan triều, các quan đại phu đều lui về cả, chỉ có Triệu Thuẫn và Sĩ Hội còn đứng ở cửa cung. Hai người đang nói chuyện với nhau, than thở về việc nước, bỗng thấy có hai người nội thị khiêng một cái giỏ tre ở trong cung ra. Triệu Thuẫn nói: - Sao lại có cái giỏ tre từ trong cung ra như vậy? Tất là có cớ sao đây! Nói xong, liền gọi hai người nội thị mà bảo rằng: - Đem lại đây xem, đem lại đây xem! Hai người nội thị cắm đầu đi thẳng, không nói gì cả. Triệu Thuẫn hỏi rằng: - Trong giỏ tre đựng cái gì thế! Nội thị nói: - Ngài là quan Tướng quốc, nếu ngài muốn xem thì xin ngài đến mà xem, chứ chúng tôi không dám nói. Triệu Thuẫn trong lòng càng nghi, rủ Sĩ Hội cùng đến để xem, trông thấy một cánh tay của người thò ra phía ngoài giỏ. Triệu Thuẫn và Sĩ Hội liền nắm giỏ tre lại, thành ra ở trong có một cái thây người chết. Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ, hỏi đầu đuôi tại làm sao. Nội thị không dám nói. Triệu Thuẫn nói: - Nếu nhà ngươi không chịu nói thì ta chém đầu nhà ngươi trước. Nội thị mới chịu nói: - Người này nguyên là một tên thiện phu, Chúa công sai nấu món thịt gấu, nấu mãi không xong, Chúa công giục hai ba lần mới được, mà khi Chúa công nếm thì lại chưa chín, bởi vậy Chúa công mới đánh chết, chém làm mấy khúc, rồi sai chúng tôi đem khiêng bỏ ra ngoài đồng. Chúa công đe hẹn thời khắc cho mà đi, nếu chậm thì chúng tôi có tội. Triệu Thuẫn lại tha cho nội thị cứ việc khiêng đi. Nội thị đi khỏi rồi, Triệu Thuẫn bảo Sĩ Hội rằng: - Chúa công bạo ngược quá! Coi mạng người như cỏ rác. Nước nhà chẳng bao lâu sẽ đến ngày nguy vong. Âu là hai ta cùng vào khuyên can. Sĩ Hội nói: - Hai ta khuyên can mà Chúa công không nghe thì sau không ai dám nói nữa, chi bằng để tôi vào trước, nếu tôi khuyên can mà Chúa công không nghe, bấy giờ quan Tướng quốc sẽ vào. Tấn Linh công đang ngồi ở trên thềm, trông thấy Sĩ Hội vào, biết là có ý muốn khuyên can, liền bảo Sĩ Hội rằng: - Quan Đại phu chớ nói, ta đã biết tội rồi, để ta xin đổi. Sĩ Hội sụp lạy mà tâu rằng; - Người ta ai là không có lỗi, mà không biết lỗi là người ngu. Chúa công biết lỗi tất đổi, thế là một điều đại phúc cho nước nhà, chúng tôi lấy làm mừng lắm. Nói xong lui ra, thuật chuyện lại với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn nói: - Chúa công nếu có lòng đổi lỗi thì chỉ trong ngày hôm nay tất có chính lệnh khác. Ngày hôm sau, Tấn Linh công truyền sắp xa giá đi ra chơi Đào Viên. Triệu Thuẫn nói: - Xem Chúa công cử động như thế thì có phải là người biết đổi lỗi đâu, hôm nay ta phải nói mới được. Triệu Thuẫn tức khắc đến đứng trước cửa Đào Viên để đợi khi xa giá Tấn Linh công đến thì ra mà kiến. Tấn Linh công ngạc nhiên mà hỏi rằng: - Ta chưa hề có triệu nhà ngươi bao giờ, sao nhà ngươi lại đến đây? Triệu Thuẫn sụp lạy xin lỗi và tâu với Tấn Linh công rằng: - Tôi nghe nói dẫu ông vua vô đạo đến đâu cũng chưa ai lấy việc giết người làm vui bao giờ! Nay Chúa công nuôi chó để cắn người, bắn cung để hại người, lại vì một điều lỗi nhỏ mà xả thây đứa thiện phu; mạng người rất là quan trọng, mà Chúa công coi rẻ như vậy thì sao cho giữ yên được nước nhà. Nếu tôi không nói thì không ai dám nói nữa, xin chúa công quay xe về triều, nghĩ đổi lỗi trước, khiến cho nước nhà khỏi sự biến loạn thì tôi dẫu chết cũng được thỏa lòng! Tấn Linh công có ý thẹn thò, lấy vạt áo che mặt mà bảo rằng: - Nhà ngươi hãy lui về, để cho ta chơi một hôm nay nữa, từ mai trở đi, ta xin theo lời. Triệu Thuẫn đứng chắn cửa vườn, không cho Tấn Linh công vào. Đồ Ngạn Giả ở bên cạnh, liền nói: - Quan Tướng quốc khuyên can Chúa công, thế là phải lắm, nhưng xa giá đã đến đây, chẳng lẽ về không, cũng khiến cho người ta chê cười, âu là quan Tướng quốc hãy lui về, đến buổi triều sáng mai, rồi sẽ thương nghị. Tấn Linh công cũng nói với Triệu Thuẫn rằng: Buổi triều sáng mai, ta sẽ triệu nhà ngươi! Triệu Thuẫn bất đắc dĩ đứng tránh ra một bên, để cho Tấn Linh công đi, rồi trừng mắt ra nhìn Đồ Ngạn Giả mà mắng rằng: - Làm cho nước nhà đến nỗi nguy vong là bởi lũ này! Nói xong, vẫn còn hầm hầm tức giận. Đồ Ngạn Giả theo Tấn Linh công vào chơi trong vườn. Tấn Linh công đang vui cười, Đồ Ngạn Giả bỗng thở dài mà nói rằng: - Tiếc thay, cuộc vui chỉ có một lần này mà thôi! Tấn Linh công nói: - Sao quan Đại phu lại nói như vậy? Đồ Ngạn Giả nói: Tôi chắc rằng sáng mai thì Triệu Tướng quốc lại nói lôi thôi, không để cho Chúa công được đến đây nữa. Tấn Linh công nổi giận mà nói rằng: - Từ xưa đến nay, chỉ có bề tôi bị vua kiềm chế, chưa nghe thấy vua bị bề tôi kiềm chế bao giờ. Lão ấy còn sống thì thật là không tiện cho ta lắm, ta biết dùng kế gì mà trừ đi cho được. Đồ Ngạn Giả nói: - Tôi có biết một người tên gọi Thư Nghê. Người ấy nhà nghèo, tôi vẫn chu cấp cho, bởi vậy cảm cái ơn tôi, vẫn xin cố sức chết để mà đền báo. Nếu sai người ấy giết chết Triệu Tướng quốc đi thì Chúa công tha hồ mà vui chơi, không lo gì nữa! Tấn Linh công nói: - Nếu làm được việc ấy thì công nhà ngươi to lắm! Đêm hôm ấy, Đồ Ngạn Giả mật triệu Thư Nghê đến, cho ăn cơm uống rượu, rồi bảo Thư Nghê rằng: - Triệu Thuẫn chuyên quyền, nay ta phụng mệnh Chúa công sai nhà ngươi đến giết đi, nhà ngươi nên phục ở cửa nhà Triệu Thuẫn, đợi đến đầu canh năm, khi hắn vào triều thì xông lại đâm chết, chớ có làm hỏng việc. Thư Nghê vâng lệnh, liền dắt một cây dao nhọn đến dinh Triệu Thuẫn, trông thấy cửa mở toang ra, xe ngựa đã sắp sẵn ở ngoài cửa. Trên thềm bóng đèn lờ mờ, Thư Nghê mới lẻn vào núp ở một chỗ tối. Bấy giờ Triệu Thuẫn mũ áo đại triều, tay cầm cái hốt, nghiễm nhiên ngồi ở gian giữa (nguyên là Triệu Thuẫn muốn vào triều nhưng trời còn sớm quá, vậy nên ngồi đấy để đợi cho sáng). Thư Nghê thấy vậy, giật mình kinh sợ, lui ra ngoài cửa, thở dài mà than rằng: - Người ta một lòng cung kính như thế kia, tức là trung thần, nếu ta giết người trung thần thì là bất trung, không giết thì là trái mệnh vua, lại là bất tín. Bất trung bất tín thì còn sống làm gì nữa! Thư Nghê lại đứng giữa cửa mà nói to lên rằng: - Ta là Thư Nghê đây, thà trái mệnh vua, không nỡ giết người trung thần! Nay ta tự tử mà chết, nhưng sau này tất Chúa công lại sai người khác đến, quan Tướng quốc nên phải phòng bị mới được. Nói xong, liền đập đầu vào cây hòe ở trước cửa, vỡ óc ra mà chết. Người nhà Triệu Thuẫn náo động cả lên, vội vàng vào cáo với Triệu Thuẫn. Quan Xa hữu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh nói với Triệu Thuẫn rằng: - Quan Tướng quốc ngày nay không nên vào triều nội, nếu vào triều thì tôi e rằng có biến. Triệu Thuẫn nói: - Chúa công đã hẹn với ta hôm nay vào triều sớm, nếu ta không vào thì là không biết giữ lễ, còn việc chết sống đã có số mệnh, ta có lo gì! Triệu Thuẫn truyền cho người nhà đem Thư Nghê chôn ở dưới gốc cây hòe rồi lên xe vào triều. Tấn Linh công thấy Triệu Thuẫn không chết, liền hỏi Đồ Ngạn Giả về việc Thư Nghê thế nào. Đồ Ngạn Giả nói: - Thư Nghê đi không thấy về, có người nói là đập đầu vào cây hòe mà chết, chưa rõ vì cớ gì. Tấn Linh công nói: Kế ấy mà không thành thì biết làm thế nào? Đồ Ngạn Giả nói: - Tôi còn có một kế, chắc hẳn thế nào cũng giết được Triệu Thuẫn. Tấn Linh công nói: - Kế gì? Đồ Ngạn Giả nói: - Ngày mai Chúa công mời Triệu Thuẫn vào uống rượu tại trong cung, rồi phục sẵn quân giáp sĩ ở phía sau tường, đợi khi đang uống rượu dở dang, Chúa công giả cách mượn thanh gươm của Triệu Thuẫn đeo để xem; tất nhiên Triệu Thuẫn phải cởi gươm mà đưa cho Chúa công. Bấy giờ tôi đứng bên, sẽ quát to lên là Triệu Thuẫn rút gươm, toan sự hại vua, quân sĩ đâu, mau mau đến để cứu giá; quân sĩ đổ ra, bắt mà giết đi. Như vậy thì người ngoài ai cũng bảo là Triệu Thuẫn làm phản bị giết. Chúa công tránh được cái tiếng giết quan đại thần. Chúa công nghĩ thế nào? Tấn Linh công khen phải, rồi theo kế mà làm. Ngay hôm sau, Tấn Linh công ra triều, bảo Triệu Thuẫn rằng: - Quan Tướng quốc đã hết lòng khuyên bảo ta, nay ta có sửa tiệc rượu ở trong cung, để tạ ơn quan Tướng quốc. Nói xong, liền bảo Đồ Ngạn Giả đưa Triệu Thuẫn vào cung. Quan Xa hữu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh theo vào. Khi bước lên thềm, Đồ Ngạn Giả bảo Đề Di Minh rằng: - Nay Chúa công cùng với quan Tướng quốc uống rượu, cấm người khác không ai được lên thềm cả. Đề Di Minh liền đứng ở dưới thềm. Triệu Thuẫn sụp lạy hai lạy, rồi ngồi ở bên hữu Tấn Linh công. Đồ Ngạn Giả đứng hầu bên tả. Khi uống rượu mới được ba tuần, Tấn Linh công bảo Triệu Thuẫn rằng: - Ta nghe nói thanh gươm của quan Tướng quốc đeo tốt lắm, quan Tướng quốc cho ta xem. Triệu Thuẫn không biết là kế lừa, toan cởi gươm ra để đưa. Đề Di Minh ở dưới thềm trông thấy, quát to lên rằng: - Bề tôi hầu rượu vua, theo lễ không được uống quá ba chén, cớ sao lại rút gươm ở trước mặt vua như thế? Triệu Thuẫn biết ý, liền đứng ngay dậy. Đề Di Minh hầm hầm tức giận, bước thẳng lên trên thềm vực Triệu Thuẫn xuống. Đồ Ngạn Giả gọi Ngao nô thả con Linh Ngao đuổi theo. Theo kịp đến gần cửa cung, Đề Di Minh cầm ngay cái dúi đồng đánh con Linh ngao gẫy cổ. Con Linh ngao chết. Tấn Linh công giận lắm, truyền cho quân sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn. Đề Di Minh đứng chắn ngang lại, để cho Triệu Thuẫn chạy trước. Quân giáp sĩ tới nơi, đâm nát Đề Di Minh ra, lập tức chết ngay. Triệu Thuẫn đang chạy, thấy có một người đuổi kịp đến nơi. Triệu Thuẫn sợ lắm. Người ấy nói: - Quan Tướng quốc chớ sợ, tôi đến cứu ngài đây? Triệu Thuẫn hỏi: - Nhà ngươi là ai? Người ấy nói: - Quan Tướng quốc không nhớ người nằm nhịn đói ở trong bụi dâu khi xưa hay sao! Linh Chiếp tức là tên tôi đó! Nguyên từ hồi 5 năm về trước, Triệu Thuẫn có đi săn ở Cửu Nguyên Sơn, ngồi nghỉ trong bụi dâu, trông thấy một người con trai nằm lăn dưới đất. Triệu Thuẫn nghi là thích khách mới sai người ra bắt. Người ấy đói không trở dậy được, hỏi đến họ tên thì người ấy nói: - Tên tôi là Linh Chiếp. Tôi sang học nước Vệ, đã ba năm nay, bây giờ trở về, tiền lưng hết cả, không lấy gì mà ăn, nhịn đói đã ba ngày hôm nay rồi! Triệu Thuẫn nghe nói thương lắm, sai người mang cho cơm và nem. Linh Chiếp chia đôi, đem một nửa bỏ vào trong cái giỏ con của mình, còn một nửa để ăn. Triệu Thuẫn hỏi: - Nhà ngươi cất đi một nửa để làm gì thế? Linh Chiếp nói: - Tôi còn mẹ già, mẹ tôi ở Tây môn. Tôi đi vắng đã lâu ngày, chưa biết mẹ tôi còn hay là mất; nay chỉ cách đây có mấy dặm, may mà mẹ tôi hãy còn thì tôi xin đem cái lộc của quan Tướng quốc ban cho này về dâng mẹ tôi. Triệu Thuẫn khen là hiếu tử, bảo cứ ăn hết đi, rồi lại lấy cơm và thịt khác ra cho, để xếp vào giỏ. Linh Chiếp lạy ta rồi đi. Sau Linh Chiếp ứng mộ ra lính, lại gặp ở trong số quân giáp sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn ấy, Linh Chiếp nghĩ đến cái ơn Triệu Thuẫn cứu mình ngày trước, vậy mới cố sức để cứu Triệu Thuẫn. Bấy giờ người nhà Triệu Thuẫn bỏ chạy tán loạn cả. Linh Chiếp ghé lưng cõng Triệu Thuẫn, chạy ra triều môn. Bọn giáp sĩ giết xong Đề Di Minh, lại kéo nhau đuổi theo Triệu Thuẫn. Gặp có Triệu Sóc đem quân đến đón Triệu Thuẫn, tức khắc vực Triệu Thuẫn lên xe. Triệu Thuẫn vội vàng gọi Linh Chiếp bảo cùng lên xe thì Linh Chiếp đã bỏ trốn rồi. Bọn giáp sĩ thấy quân Triệu Sóc đông lắm, mới không đuổi theo nữa, Triệu Thuẫn bảo Triệu Sóc rằng: - Nay ta không thể về nhà được! Một là sang nước Địch, hai là sang nước Tần, phải tìm một chỗ để nương thân mới xong. Bấy giờ hai cha con (Triệu Thuẫn và Triệu Sóc) cùng ra cửa Tây môn, đi về phía tây.
Quay về bài gốc
0SHARES
Quay về bài gốc
0SHARES