Sáng ngày hôm sau, cơn bão đã ngưng, tàu Bóng Ma lướt nhẹ trên mặt biển êm đềm lặng gió. Thi thoảng, luồng gió nhẹ sẽ thổi qua, Larsen Sói kiểm tra sàn sau tàu liên tục, mắt ông ta dõi nhìn mặt biển phía đông bắc, hướng gió tín phong sẽ thổi.
Cánh đàn ông lên hết trên boong bận rộn chuẩn bị cho những con thuyền đủ loại của mình trước mùa săn bắt. Có bảy chiếc xung quanh, ngoài con thuyền ba lá của thuyền trưởng, các thợ săn sẽ dùng sáu thuyền còn lại. Ba người bao gồm một thợ săn, một tay chèo, một một người lái sẽ thành một tổ thuyền. Trên tàu buồm, những tay chèo và lái thuyền là thuyền viên. Những người thợ săn đáng ra cũng phải chịu sự chỉ huy của gác tàu, luôn luôn nghe lệnh Larsen Sói.
Tôi đã học tất cả những điều này và nhiều điều khác nữa. Tàu Bóng Ma được xem là tàu buồm nhanh nhất trong cả đội tàu ở San Francisco và Victoria. Thực ra, nó từng là một du thuyền cá nhân, được thiết kể để chạy nhanh nhất có thể. Những đường nét và phụ kiện của nó, dù tôi không biết gì về những thứ này, đã tự chứng tỏ khả năng của chúng. Johnson đang kể cho tôi về con tàu trong cuộc trò chuyện ngắn ngủi vào phiên gác hai tiếng
[1] * tối ngày hôm qua. Anh ta kể rất nhiệt tình, tình yêu của anh dành cho con tàu xinh đẹp chẳng khác nào những kẻ mê ngựa với ngựa hay. Anh ta tỏ ra ghê sợ viễn cảnh tương lai, tôi được giải thích rằng trong các thuyền trưởng tàu săn hải cẩu, Larsen Sói có tiếng tăm rất tệ. Chính tàu Bóng Ma là thứ cám dỗ Johnson kí hợp đồng tham gia chuyến đi, nhưng anh ta bắt đầu hối hận rồi.
Theo như anh ta nói, tàu Bóng Ma là một tàu buồm mười tám tấn có thiết kế tuyệt đẹp. Sườn ngang, nói cách khác là chiều rộng của nó có độ dài bảy mét, chiều dài hơn hai mươi bảy mét. Long cốt bằng chì tuyệt hảo, tuy không biết rõ trọng lượng chính xác nhưng luôn giữ tàu ổn định, dù thân tàu luôn căng những tấm vải khổng lồ. Từ boong tới mối dây trên cột đỉnh buồm chính là khoảng hơn ba mươi mét, cột buồm mũi lại có cột đỉnh ngắn hơn khoảng hai mét rưỡi tới ba mét. Tôi kể ra những chi tiết đó để kích thuớc thế giới trôi nổi nhỏ bé chứa hai mươi hai con người này được chú ý hơn. Đây là một thế giới cực kì nhỏ bé, nó là một dấu chấm, một con bọ giữa đại dương, tôi lấy làm ngạc nhiên khi người ta dám mạo hiếm du hành vượt biển trên một vật quá nhỏ bé và mong manh tới vậy.
Larsen Sói cũng nổi tiếng về độ liều lĩnh khi lái tàu. Tôi đã nghe Henderson và một người thợ săn tên là Standish, một người California, bàn luận về điều đó.
Hai năm trước, ông ta đã đưa tàu Bóng Ma vượt qua một cơn bão ở Biển Bering, thế nên các cột buồm hiện tại được lắp lại khỏe hơn, chắc chắn hơn. Người ta nói khi lắp lại chúng, ông ta đã nói thà lật thuyền còn hơn mất những cột gỗ đó.
Tất cả những người trên tàu, trừ Johansen, người đã vui hơn bởi được thăng chức, đều vì lí do nào đó mới lên tàu Bóng Ma. Một nửa số họ là thủy thủ vùng nước sâu, lí do của họ là không biết gì về tàu lẫn thuyền trưởng hết. Những gã thợ săn đều đã được nghe về lời đồn, họ bắn rất giỏi, nhưng cũng nổi tiếng về tính nóng nảy thích gây gổ tới nỗi không thể đăng kí đi lên bất kì con tàu tử tế nào.
Tôi đã làm quen được với một thuyền viên khác. Anh ta tên là Louis, một gã Ireland vùng Nova Scotia có gương mặt tròn vui tính, một người bạn thân thiện, sẵn sàng nói bất kì điều gì miễn là tìm được người chịu nghe. Vào buổi chiểu, khi đầu bếp đã ngủ gật còn tôi bận gọt đống khoai tây bất tận, Louis sẽ nhảy vào bếp để "kiếm chuyện". Lí do anh ta lên tàu là vì đã kí trong lúc say. Anh ta quả quyết với tôi hết lần này tới lần khác rằng việc lên tàu là điều cuối cùng anh ta dám nghĩ đến nếu tỉnh táo. Có vẻ anh ta đã đi săn hải cẩu theo mùa cả hơn chục năm nay và được coi là một trong hai hoặc ba người lái thuyền giỏi nhất trong cả đội tàu.
"Ôi, chàng trai," anh ta lắc đầu ái ngại với tôi, "Anh đã lên con tàu tệ nhất; dù lúc đó anh có say như tôi hay không. Săn hải cẩu đúng là thiên đường của thủy thủ, nếu chúng ta lên bất cứ con tàu nào khác. Đầu tiên là thuyền phó, nhưng, nhớ lời tôi, sẽ còn nhiều người nữa phải chết trước khi chuyến đi kết thúc. Nơi đây, đứng giữa anh và tôi và hai cột lan can là con quỷ Larsen Sói, còn tàu Bóng Ma là con tàu địa ngục kể từ khi lão làm chủ nó. Sao tôi biết hả? Sao tôi biết? Sao tôi quên được lão ngày ở Hakodate hai năm trước, khi lão nổi điên lên bắn bốn người của chính mình? Chẳng phải lúc đó tôi đang nằm trên Emma L cách đó chưa đến một trăm mét sao? Năm đó lão còn dùng tay đấm chết một người. Đúng thế, ông ta đã giết chết gã.. Ôi. Đầu gã vỡ toang như vỏ trứng ấy. Lão là một con quái thú, Larsen Sói là con quái thú khủng khiếp nhất trong Khải Huyền; lão sẽ không có kết cục tốt đẹp đâu. Nhưng nhớ là tôi chưa nói gì với anh đó; tôi chưa bao giờ rỉ ra một từ nào cả; vì Louis già bệu sẽ sống sót qua chuyến hành trình này, dù thằng con trai út của mẹ anh đi ngủ với cá."
"Larsen Sói!" anh ta khịt mũi sau một lúc. "Nghe mà xem, có thấy không! Ông ta là sói, ông ta không thâm độc như một số kẻ. Nhưng ông ta không hề có tim. Sói, ông ta chỉ là sói thôi. Anh không thắc mắc về danh tiếng của ông ta sao?"
"Nhưng nếu ông ta có tiếng xấu tới vậy," tôi hỏi, "làm thế nào ông ta thuê được người lên tàu?"
"Anh làm thế nào để thuê người làm bất cứ việc gì trên đất và biển của Chúa trời?" Louis vặn lại với khí thế hừng hực của người Celt. "Làm thế nào anh gặp được tôi trên thuyền nếu tôi không say như lợn lúc kí tên? Có những kẻ không thể lên thuyền của những người tử tế hơn, như đám thợ săn, có những kẻ không biết, như đám ngu ở tàu buôn kia. Nhưng họ sẽ lên tàu, họ sẽ lên tàu rồi hối tiếc hết cả đời còn lại. Tôi có thể khóc thương đám tội nghiệp đó, nếu tôi quên trên đời còn có Louis già béo bệu cùng bao khốn khổ. Mà tôi không nói một lời nào đâu, nhớ chưa, không một lời nào."
"Đám thợ săn láu cá lắm," anh ta lại tiết lộ, vì không chịu được bệnh thừa lời hành hạ. "Nhưng cứ đợi đến lúc chúng chọc vào lão mà xem. Lão sẽ xử lí chúng. Nếu là lão, lão sẽ khiến trái tim thối rữa thâm độc của chúng biết sợ Chúa lần nữa. Hãy nhìn gã thợ săn kia kìa. Horner, Horner" Lươn ", người ta gọi gã thế đó, giờ nó ít lời như đám ba phải, có nói cũng lít nhít như con gái, anh sẽ nghĩ tưởng bơ còn rắn hơn miệng gã. Nhưng gã có giết lái thuyền của mình vào năm ngoái không? Tôi đã nghĩ đó là một tai nạn đáng tiếc, nhưng rồi tôi gặp tay chèo cùng tổ thuyền đó ở Yokohama, thế mới sáng mắt ra. Cả Smoke nữa, cái thằng đen đúa quỉ quyệt – bọn người Nga đã nhốt gã ba năm trong mỏ muối ở Siberia vì săn trộm cá ở Đảo Copper, trên đất Nga? Còng cả tay lẫn chân của gã với thuyền phó lại. Vậy hai gã đó có bao giờ gây gổ đánh lộn không? Smoke đã chuyển bạn mình lên đỉnh hầm mỏ bằng giỏ treo; mỗi lần một miếng, hôm nay cái chân, ngay mai cái tay, ngày kia cái đầu, cứ vậy cho tới hết."
"Không thể nào có chuyện đó được!" Tôi thốt lên, sau khi nỗi sợ hãi qua đi.
"Chuyện gì?" Anh ta hỏi lại, nhanh như chớp. "Tôi chẳng nói gì cả. Tôi điếc, còn anh thì đần, nếu muốn được yên thân; tôi chưa bao giờ mở miệng nói bất kì điều gì về họ lẫn lão. Chúa nguyền rủa linh hồn ấy! Biết đâu lão sẽ thối rữa để ăn năn trong mười ngàn năm nữa, rồi đi xuống tầng địa ngục thấp nhất từng có!" Johnson, người đã cào xước ngực tôi khi tôi mới lên tàu, có vẻ là người không được chia nhiệm vụ ở mũi tàu hay đuôi tàu rõ ràng như những người khác. Thực ra, anh ta chẳng có gì rõ ràng hết. Có người bị ấn tượng bởi sự thẳng thắn và nam tính của anh ta, nhưng rồi lại bị thất vọng bởi những biểu hiện có thể bị nhầm với tính rụt rè. Nhưng anh ta không rụt rè. Anh ta can đảm bảo vệ lòng tin và nhân phẩm của mình. Anh ta sẽ đứng ra bảo vệ những điều đó, như lần đầu tiên chúng tôi gặp mặt, anh ta bị nhầm tên thành Yonson vậy. Dựa vào biểu hiện đó và chính con người anh ta, Louis đã đưa ra nhận xét và tiên đoán thế này.
"Nó là một đứa ổn, cái thằng đầu đá Johnson đang ở khoang mũi với chúng ta," anh ta nói. Nó là thủy thủ giỏi nhất trong đám trên khoang mũi. Nó là tay chèo của tôi. Nhưng nó gặp rắc rối nên mới phải tìm đến Larsen Sói, giống như khói sẽ bay lên trên vậy. Chỉ mình tôi biết thôi. Tôi đoán trước được như nhìn cách mây cuộn tròn trước cơn bão. Tôi trò chuyện với nó như là anh em, nhưng nó không ưa nói chuyện hoặc toàn hiểu nhầm ý tôi. Nó nổi cáu khi không được như ý, mà lúc nào ở đây cũng lắm kẻ mách lẻo sẵn sàng truyền lời tới tai Sói. Sói rất mạnh, nên lão ghét sức mạnh, mà lão nhận ra Johnson rất mạnh – chẳng khúm núm chút nào, mấy câu "Vâng, thưa ông," "Cảm ơn, thưa ông," mà cậu ta thốt lên đơn giản vì bị chửi hoặc đánh thôi. Ôi, gió đến rồi! Gió đến rồi! Chúa mới biết tới bao giờ tôi sẽ có tay chèo khác. Tại sao thằng ngốc đó lại phải lên tiếng khi Lão Già gọi nó là Yonson, "Tên tôi là Johnson, thưa ông," rồi lại còn đánh vần ra từng chữ cái một. Anh phải thấy bản mặt Lão Già! Tôi cứ nghĩ lão sẽ xông tới cho nó một trận ngay cơ. Lão không làm thế, nhưng rồi sẽ cho nó một trận thôi, lão sẽ đập nát trái tim thằng đầu đá đó, hoặc làm theo cái cách tôi chưa từng chứng kiến, cách mấy gã trên thuyền của lão từng chết. "
Thomas Mugridge càng ngày càng tai quái. Tôi buộc phải gọi gã bằng" ông "mỗi khi mở miệng. Một trong số lí do cho cớ sự ấy là vì Larsen Sói có vẻ thích gã. Theo như tôi biết, chuyện thuyền trưởng thân thiết với đầu bếp là chuyện chưa từng xảy ra, nhưng rõ ràng Larsen Sói đang làm như vậy. Thi thoảng ông ta sẽ thò đầu xuống bếp, thân mật châm chọc Mugridge. Và có một lần, vào chiều nay, ông ta đứng ở bục đuôi tàu và nói chuyện với gã tới tận mười lăm phút tròn. Khi hai người họ dứt chuyện, Mugridge trở vào bếp, hào hứng lạ thường, thậm chí còn vừa làm việc vừa ngâm nga những bài hát vùng Coster bằng giọng nam the thé lộn xộn.
" Tao luôn thân thiết với cấp trên, "gã cất giọng tự tin nói với tôi." Tao biết tại sao, vì tao luôn biết cách để được yêu quý. Thuyển trưởng trước của tao ấy, tao chẳng phải nghĩ ngợi gì khi tạt vào cabin trò chuyện hay làm một ly. Ông ta nói với tao, "Mugridge, Mugridge, anh sinh lầm chỗ rồi." "Sao lại thế?" tao hỏi lại. "Anh đáng ra phải sinh trong nhà quyền quý, không phải làm việc kiếm sống." Tao mà nói dối thì trời đánh tao đi. Ông ấy đã nói thế với tao, còn tao ngồi ngay ở trong cabin riêng của ông ấy, vui vẻ lại thoải mái, hút một điếu thuốc, còn uống rượu rum nữa. "Giọng lách cha lách chách của gã khiến tôi mất tập trung. Tôi chưa bao giờ thấy ghét giọng ai đến thế. Giọng gã lổn nhổn và nhầy nhụa, nụ cười thì giả lả, chưa kể đến tính tự phụ khủng khiếp khiến tôi ghê tởm tới nỗi đôi lúc toàn thân run lên. Về mặt tích cực, thì hẳn tôi sẽ không còn gặp kẻ đáng ghê tởm và khó ưa hơn gã nữa. Gã nấu nướng bẩn thỉu không thể tả; nhưng gã là kẻ làm ra tất cả đồ ăn trên tàu, nên tôi buộc phải chọn lựa cẩn thận những gì cho vào miệng từ những phần ít bẩn nhất trong chỗ đồ gã nấu.
Đôi bàn tay khiến tôi gặp phiền nhiễu lớn, vì chúng không quen làm việc. Móng tay bị đổi màu, nhuộm đen đi, còn lớp da thì nhẵn những ghét, tới nỗi có dùng bàn chải cũng không hết nổi. Tiếp đó, những vết rộp xuất hiện hành hạ tôi không dứt. Tôi còn bị vết bỏng lớn ở cẳng tay vì không giữ được thăng bằng một lần tàu nghiêng nên đã bị ném vào bếp lò. Đầu gối tôi cũng chẳng tốt hơn. Cục sưng không biến mất, nó vẫn ở nguyên trước xương bánh chè. Khập khiễng trên cái chân đó từ sáng tới tối càng khiến nó tệ đi. Tôi cần nghỉ ngơi, ấy là nếu cái chân này còn có thể lành lại.
Nghỉ ngơi! Tôi chưa bao giờ hiểu nghĩa từ này. Tôi đã nghỉ ngơi cả cuộc đời này và còn không biết điều đó. Nhưng nếu giờ tôi có thể ngồi yên nửa tiếng đồng hồ không làm gì, không cả nghĩ ngợi, thì đó sẽ là nửa tiếng dễ chịu nhất đời. Nhưng mặt khác, chuyện này cũng khiến tôi sáng ra nhiều điều. Từ giờ trở đi, tôi sẽ biết coi trọng cuộc sống của những con người lao động. Tôi chưa từng nghĩ rằng làm việc lại là một điều tệ hại. Từ năm giờ rưỡi sáng tới mười giờ đêm, tôi là nô lệ của tất cả mọi người, không có một giây rảnh rang cho chính mình trừ lúc trộm lười biếng vào cuối phiên gác hai tiếng buổi tối. Tôi sẽ dừng lại một phút để nhìn ra mặt biển lấp lánh ánh mặt trời, hoặc nhìn một người thủy thủy đang đu lên cột buồm đỉnh, siết dây chằng ở rầm néo buồm, rồi sau đó tôi sẽ nghe cái giọng đáng ghét vang lên," Ê, mày đó, Hump! Đừng có chểnh mảng! Tao vẫn coi chừng mày đấy. "
Có mùi căng thẳng tỏa ra từ buồng lái, có tin đồn là Smoke và Henderson đã đánh nhau. Henderson có vẻ là một trong số những thợ săn giỏi nhất, một gã ù lì và khó bị kích động; nhưng hẳn gã kích động nên mặt Smoke mới có một bên mắt sưng và thâm tím, trông ác độc hơn hẳn khi vào cabin dùng bữa tối.
Một chuyện tồi tệ xảy ra ngay trước bữa tối đã cho tôi thấy sự tàn nhẫn và hung bạo của những người đàn ông này. Có một tay mới trong nhóm thuyền viên, tên là Harrison, một thằng nhóc nông thôn trông khá lóng ngóng. Tôi cho là nó đã nuôi giấc mơ phiêu lưu nên mới thực hiện chuyến đi đầu tiên này của mình. Gió thổi nhẹ và thất thường, nên con tàu bị chệch hướng, có lúc những cánh buồm bật từ bên nọ sang bên kia và họ phải cử người trèo lên chỉnh dây nâng buồm đỉnh.
Không hiểu sao, khi Harrison trèo lên, dây góc buồm bị mắc vào cuối mối buộc ở cuối dây nâng buồm. Theo như tôi biết, có hai cách để gỡ nó ra – một là hạ xà buồm xuống, việc tương đối dễ dàng, không nguy hiểm; hai là trèo từ dây chằng lên cuối dây nâng buồm, một nhiệm vụ hết sức nguy hiểm.
Johansen gọi Harrison leo ra dây nâng buồm. Ai cũng thấy là thằng nhóc đang sợ. Dù nó có giỏi tới đâu, thì nó cũng đang đứng trên boong tàu tới hơn hai chục mét, chỉ có thể bám vào những sợi dây chằng mỏng và đung đưa. Nếu sức gió ổn định thì còn đỡ, nhưng tàu Bóng Ma đã lắc lư suốt trên mặt biển dài, mỗi lần lắc những tấm vải lại phần phật kêu kéo dây nâng buồm quật tứ tung. Chỉ một lần quật, chúng có thể hất một con người xuống không khác một con ruồi.
Lúc này, Harrison đã bắt đầu leo ra dây nâng buồm rồi. Tôi nhìn lên từ cửa bếp, có thể thấy rõ thằng bé run lẩy bẩy như lên cơn sốt rét. Nó di chuyển chậm chạp và cẩn trọng, nhích từng tấc một. Giữa nền trời xanh trong, trông nó như một con nhện khổng lồ bò trên mạng của mình.
Nó phải leo ngược lên, vì buồm mũi ở rất cao; và dây nâng buồm chạy qua rất nhiều mối dây lên tới trên xà buồm và cột buồm, nên nó có nhiều chỗ để tay và chân. Nhưng gió gây cản trở lớn, gió không đủ mạnh lại không ổn định nên buồm không căng. Khi nó trèo được nửa đường, tàu Bóng Ma nghiêng một cú dài theo chiều gió và dựng thẳng trở lại ngay hõm sóng sâu hoắm. Harrison dừng lại và bám thật chặt. Từ hai mươi mét bên dưới, tôi có thể thấy cơ bắp nó căng ra vì cố bám lấy sự sống của chính mình.
Cánh buồm rũ xuống, xà buồm vung ra giữa thuyền. Các dây chằng gião ra, dù chuyện xảy ra rất nhanh, tôi vẫn có thể thấy chúng tụt xuống vì sức nặng cơ thể hằng bé. Sau đó, xà buồm bật sang bên hết sức đột ngột, cánh buồm lớn bung ra như pháo bắn, ba hàng dây mép buồm bật vào vải bố vang như tiếng súng. Harrison đang lảo đảo giữa không trung. Nhưng nó đột ngột ngưng lảo đảo. Những dây chằng thoáng cái căng lại. Vang lên tiếng rít như roi quất vào không khí. Khớp xương của nó đã gẫy. Một bàn tay tuột khỏi chỗ bám. Bàn tay kia níu được thêm một vài giây, rồi cũng tuột theo. Cơ thể nó rơi thẳng xuống, nhưng nó xoay xở tự cứu bằng cách móc được chân lại. Thế là nó bị treo lơ lửng, đầu chúc xuống. Nó cố gắng với tay lên dây chằng lần nữa; nhưng nó chẳng làm được gì nhiều và lại bị treo ngược, thằng nhóc khốn khổ.
" Tôi cá nó không muốn ăn tối nữa đâu, "tôi nghe thấy giọng Larsen Sói vọng ra từ bếp." Nhìn mắt cá nó đi. "Thật ra Harrison rất ốm yếu vì bị say sóng; nó đã đu người ở một chốn nguy hiểm quá lâu mà không di chuyển. Tuy nhiên, Johansen kiên quyết bắt nó hoàn thành nhiệm vụ.
" Đáng xấu hổ, "Tôi nghe Johnson làu bàu bằng giọng tiếng Anh chính xác và cáu bẳn. Anh ta đang đứng ở mối buộc dây chính, cách chỗ tôi vài mét." Thằng nhóc đã sẵn sàng. Nó sẽ học được nhiều điều nếu có cơ hội. Nhưng chuyện này.. "Anh ta im bặt, trước khi quyết định thốt ra từ" giết người ".
" Suỵt, im đi! "Louis thì thầm với anh ta." Mày còn thương mẹ mày thì ngậm mồm vào! "Nhưng Johnson vẫn cứ nhìn và tiếp tục làu bàu.
" Nhìn đi, "tay thợ săn tên Standish nói với Larsen Sói," đó là tay chèo của tôi, tôi không muốn mất nó. "Chẳng sao đâu, Standish," ông ta trả lời. "Nó là tay chèo của anh khi nó ở trên thuyền, nhưng nó là thủy thủ của tôi khi nó đứng trên boong. Tôi muốn làm gì nó cũng được."
"Nhưng chẳng có lí do gì.." Standish bắt đầu nói một tràng.
"Chẳng sao đâu, sẽ ổn thỏa hết," Larsen Sói đáp lại. "Tôi đã nói rồi, đừng nhiều lời thêm nữa. Thằng nhóc đó là người của tôi, tôi sẽ nấu nó lên ăn nếu muốn." Vẻ giận dữ ánh lên trong mắt người thợ săn, nhưng anh ta quay gót và đi vào buồng lái chỗ bậc cầu thang rồi đứng ở đó và nhìn lên.
Tất cả mọi người đều ở trên boong, mọi ánh mắt đều dõi lên cao, nơi mạng sống của một con người đang giãy giụa trước cái chết. Sự vô cảm của những người đàn ông này, những người cùng lúc được trao quyền kiểm soát sự sống của người khác, thật đáng kinh ngạc. Tôi, môt kẻ sống ngoài guồng quay của thế giới, chưa bao giờ dám mơ rằng chuyện này có thể xảy ra. Sự sống luôn là một điều gì đó thiêng liêng; nhưng ở đây nó chẳng là gì cả, chỉ là một con số mang tính thương mại. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận các thủy thủ đều đáng thương hại, như Johnson chẳng hạn; nhưng những kẻ chức cao hơn (thợ săn và thuyền trưởng) thì đều tàn nhẫn như nhau. Standish phản đối chỉ vì gã không muốn mất tay chèo của mình. Nếu đó là tay chèo của thợ săn khác, gã cũng sẽ như chúng, chỉ cảm thấy buồn cười.
Còn về Harrison ư. Johansen phải mất tới mười lăm phút vừa chửi vừa mắng mới khiến nó tỉnh lại. Một lúc sau, nó leo ra được tới tới cuối xà buồm, bám chắc hơn nhờ móc hai chân vào nhau. Nó gỡ dây góc buồm, giờ thì đã rảnh tay trèo dốc xuống nếu bám theo các dây nâng buồm về tới cột buồm. Nhưng nó đã hết can đảm. Dù vị trí hiện tại của nó không an toàn, nó không muốn bỏ ra để leo vào vị trí không an toàn hơn trên những dây nâng buồm.
Nó đưa mắt nhìn con đường mình sẽ phải đi rồi nhìn xuống boong. Mắt nó trợn trừng, người thì run cầm cầm. Tôi chưa từng thấy dấu vết của sự sợ hãi hiện hữu rõ rệt trên mặt một con người tới thế. Johansen gọi nó xuống trong vô vọng. Nó có thể bị hất xuống khỏi xà buồm bất cứ lúc nào, nhưng nó đã đầu hàng nỗi sợ. Larsen Sói, đi qua đi lại và trò chuyện với Smoke, không thèm để ý tới thằng nhóc nữa, dù có một lần ông ta hét với người cầm lái: "Anh đang chệch hướng đấy, chàng trai! Cẩn thận đấy, nếu không muốn gặp rắc rồi."
"Vâng, thưa ông," lái tàu đáp lại, hạ vài nấc bánh lại xuống.
Anh ta cảm thấy mắc tội vì đã khiến tàu Bóng Ma chệch hướng khá nhiều, để cơn gió nhẹ có thể làm căng buồm mũi và giữ nó ổn định. Anh ta đã cố gắng cứu Harrison khốn khổ khỏi cơn thịnh nộ của Larsen Sói.
Thời gian trôi đi, sự hồi hộp khủng khiếp hành hạ tôi. Thomas Mugridge, mặt khác, lại coi đây là chuyện rất buồn cười, liên tục thò đầu ra khỏi cửa bếp để buông ra những lời nhận xét tự cho là hóm hỉnh. Tôi căm ghét gã! Và sự căm ghét đó qua khoảng thời gian đáng sợ này tăng tới mức khổng lồ! Lần đầu tiên trong đời tôi trải nghiệm cảm giác khát khao muốn giết người – "muốn thấy màu đỏ." như một trong số những nhà văn thuộc trường phái ấn tượng của chúng ta đã viết. Sự sống nói chung có lẽ vẫn là điều thiêng liêng, nhưng sự sống của một vài người cụ thể như Thomas Mugridge lại là một điều báng bổ. Tôi sợ hãi nhận ra mình đang muốn điều gì, một suy nghĩ chợt lóe qua đầu tôi: Liệu bản thân tôi có bị môi trường tàn nhẫn này ảnh hưởng không? – Tôi, một kẻ luôn phản đối hình phạt tử hình, cho rằng đó không phải công lí, dù là đối với những tội ác kinh hủng nhất.
Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, tôi chợt thấy Johnson và Louis gây sự với nhau. Cuộc cãi vã chấm dứt khi Johnson giật tay ra khỏi bàn tay giữ chặt của Louis và tiến lên. Anh ta đi qua boong, nhảy lên chỗ mối buộc dây buồm mũi và bắt đầu leo lên. Đôi mắt nhanh nhạy của Larsen Sói phát hiện ra ngay. "Ê, anh kia, anh định làm gì?" Ông ta hét lên.
Johnson dừng leo. Anh ta nhìn thẳng vào mắt thuyền trưởng, chậm rãi đáp: "Tôi sẽ đưa thằng nhóc xuống."
"Anh trèo xuống khỏi mối dây đó ngay, tránh xa nó ra! Có nghe không! Xuống ngay!" Johnson do dự, thói quen vâng lệnh chủ tàu trong nhiều năm đã chiến thắng, anh ta ủ rũ nhảy xuống và đi lên mũi tàu.
Vào năm giờ rưỡi chiều, tôi xuống cabin để dọn bàn ăn; tôi không biết mình đã làm những chuyện đó thế nào, khi mà mắt và trí óc vẫn tràn ngập hình ảnh cậu bé trai mặt trắng bệch và run rẩy, kì cục bám trên xà buồm quật trái phải như một con bọ. Vào sáu giờ, khi tôi phục vụ bữa tối và đi lên boong để lấy đồ ăn ở trong bếp, tôi vẫn thấy Harrison ở đúng vị trí đó. Cuộc trò chuyện trên bàn ăn là về những việc khác.
Dường như không ai quan tâm đến sự sống đang treo lơ lửng trên cao kia. Nhưng, khi đi về bếp một lần nữa, tôi vui mừng thấy Harrison lảo đảo đi từ mối dây buộc tới vòm mái mũi tàu. Cuối cùng cậu bé cũng dồn đủ can đảm để leo xuống.
Trước khi đóng bút về câu chuyện này, tôi thấy mình buộc phải đề cập đên cuộc trò chuyện với Larsen Sói trong cabin lúc đang rửa chén bát. "Chiều nay trông anh rất nhợt nhạt," ông ta bắt đầu nói. "Có chuyện gì thế?" Tôi nhận ra ông ta thừa biết điều gì đã khiến tôi trông bệnh hoạn chẳng khác Harrison, ông đang nhử tôi. Tôi đáp: "Đó là vì cách cậu bé đó bị đối xử tàn nhẫn." Ông ta bật cười. "Giống say sóng, chắc thế. Một số người bị, một số người thì không."
"Không phải," tôi phản đối.
"Thế cả thôi," lão tiếp tục. "Trái đất này tràn ngập sự tàn nhẫn giống như biển cả tràn ngập sóng. Có những kẻ phát ốm vì điều này, có những kẻ phát ốm vì điều khác. Chỉ có lí do duy nhất đó thôi."
"Nhưng ông nhạo báng mạng sống của một người, chẳng lẽ không có thứ gì có giá trị với ông sao?" Tôi hỏi.
"Giá trị? Giá trị gì?" Ông ta nhìn tôi, đôi mắt lạnh nhạt và bất động, dường như chúng đang nở nụ cười hoài nghi. "Kiểu giá trị nào? Anh đánh giá chúng bằng cách nào? Ai đánh giá chúng?"
"Tôi," tôi đưa ra câu trả lời.
"Thế điều gì là có giá trị với anh? Hãy nói về sự sống của một người khác ấy. Nói đi, nào, có đáng giá? Giá trị cuộc sống? Làm sao tôi có thể đặt ra một giá trị hữu hình cho nó?" Không hiểu sao tôi, một kẻ luôn tràn đầy ý kiến về bất cứ thứ gì, lại câm bặt trước Larsen Sói. Tôi đã cho rằng tính cách của người đàn ông này là một phần nguyên do, nhưng phần lớn hơn là vì quan điểm hoàn toàn khác biệt của ông ta. Không như những người theo chủ nghĩa duy vật khác mà tôi đã gặp, những người tôi còn có điểm chung để trò chuyện, tôi không hề có điểm chung nào với ông ta. Có lẽ, đó cũng là lí do mà tâm trí đơn giản nguyên sơ của ông ta khiến tôi bối rối. Ông ta xông thẳng tới cốt lõi vấn đề, tấn công bằng những câu hỏi chi tiết tới không cần thiết, với tinh thần bi quan đẩy tôi vào vùng nước sâu không có gì chống đỡ. Giá trị cuộc sống ư? Làm sao tôi có thể đột nhiên trả lời câu hỏi ấy vào lúc này. Sự thiêng liêng của cuộc sống là một điều tôi coi là tiên đề hiển nhiên. Giá trị của nó là một lẽ tất yếu tôi chưa bao giờ nghi ngờ. Nhưng ông ta lại nghi ngờ điều hiển nhiên đó, tôi không biết phải nói gì.
"Chúng ta đã nói về chuyện này ngày hôm qua," ông ta nói. "Tôi coi sự sống giống như men rượu, một thứ nuốt chửng những sự sống khác để có thể sống, và sự sống chỉ là tính tham được thỏa mãn. Thế nên, nếu xét theo giá trị cung cầu, sự sống là thứ rẻ mạt nhất trên thế giới. Trên đời có thừa đất, nước và không khí, nhưng nhu cầu của sự sống là vô hạn. Thiên nhiên quá hào phóng. Hãy nhìn lũ cá và cả triệu trứng của chúng. Tương tự, hãy nhìn anh và tôi. Trong bụng của chúng ta có lẽ đã từng chứa cả triệu sự sống khác. Nếu chúng ta có thể tìm đủ thời gian và cơ hội tận dụng giá trị của mọi sự sống đã chết đi trong ta, chúng ta sẽ trở thành cha của những đất nước và những lục địa đông nghẹt.
" Sự sống ư? Ha ha! Không có giá trị gì hết. Thứ rẻ rúng nhất trong tất cả mọi thứ. Nó đi ăn mày mọi ngõ ngách. Thiên nhiên đã chìa bàn tay nuông chiều nó. Nơi chỉ đủ chỗ cho một cuộc sống, thiên nhiên gieo xuống cả ngàn sinh mạng, thế nên sinh mạng này ăn sinh mạng khác tới khi kẻ mạnh nhất và tham lam nhất trụ lại được. "
" Ông đã đọc Darwin, "tôi nói." Nhưng ông đã hiểu nhầm, dẫn đến kết luận rằng nỗ lực vật lộn tồn tại tạo ra cuộc đời vô liêm sỉ và tan nát. "Ông ta nhún vai." Anh biết anh chỉ nói thế nếu là về cuộc sống của con người, chứ không phải lũ gà, lũ cá đã bị anh hay tôi hay bất cứ con người nào tiêu diệt. Sự sống của con người chẳng có gì khác, trừ chuyện anh cảm thấy và nghĩ rằng có lí do khác. Tại sao tôi lại phải trân trọng sự sống vốn rẻ mạt không hề có giá trị? Có nhiều thủy thủ hơn số lượng tất cả tàu bè trên biển cần, có nhiều công nhân hơn số lượng nhà máy cần. Tại sao, anh, kẻ sống trên đất liền, hiểu được rằng dù có dựng nhà cho những con người nghèo khổ sống trong khu ổ chuật của các thành phố, với bệnh tật và nghèo đói dày vò, thì vẫn còn nhiều hơn nữa những kẻ nghèo chết đi thèm khát một mẩu bánh mì hoặc một ít thịt (được tạo ra từ một sinh mạng bị hủy diệt), nếu hiểu anh sẽ biết phải làm gì. Anh đã bao giờ nhìn thấy phu tàu London đánh nhau như thú hoang vì một công việc chưa? "Ông ta bắt đầu đặt chân lên cầu thang, nhưng quay đầu lại để nói câu cuối cùng." Anh có biết, giá trị duy nhất của sự sống là thứ sư sống tự đặt cho mình, và đương nhiên giá trị đó sẽ bị thổi phồng, vì nó luôn tạo ra định kiến có lợi cho chính nó. Cứ nhìn thằng nhóc trèo lên buồm đi. Nó níu kéo như thể nó là một thứ vô cùng giá trị, một kho báu đáng giá hơn cả kim cương, hồng ngọc. Nó có coi anh như vậy không? Không. Còn tôi? Không hề? Với nó, câu trả lời là có. Nhưng tôi không chấp nhận cách đánh giá của nó.
Nó đánh giá cao bản thân tới đáng buồn. Có quá nhiều sinh mạng đòi hỏi được sinh ra. Nếu nó trượt chân ngã, đánh rơi não mình xuống boong như mật ong chảy khỏi tổ, thế giới sẽ chẳng có tổn thất nào. Nó chẳng có giá trị gì với thế giới. Nguồn cung của sinh mạng quá lớn. Với nó, chỉ có nó là có giá trị, và để thể hiện giá trị đó hoang đường ra sao, khi chết, nó sẽ vô tình đánh mất bản thân. Chỉ mình nó coi chính mình đáng giá hơn kim cương, hồng ngọc. Kim cương và hông ngọc đã mất, đổ ra sàn để nước biển cuốn đi. Nó chẳng mất gì cả, vì muốn mất thì nó phải hiểu được định nghĩa của sự mất. Anh có thấy không? Anh có gì để nói chứ? "
" Thưa ông, ít nhất, ông rất nhất quán, "đó là tất cả những gì tôi có thể nói, đoạn, tôi tiếp tục rửa bát.
[1] Phiên gác hai tiếng: Nguyên văn" dog–watch", thuật ngữ hàng hải. Dog watch là khoảng ca làm việc từ 16 giờ tới 20 giờ, và sẽ được chia ra làm hai. Ca gác đầu vào buổi chiều từ 16 giờ tới 18 giờ. Ca gác hai tiếng tiếp theo vào buổi tối từ 18 giờ tới 20 giờ.