[Dịch] The Sea Wolf (Sói Biển) - Jack London

Thảo luận trong 'Truyện Hay' bắt đầu bởi Chanh97hh, 15 Tháng mười 2018.

  1. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 10

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi trở nên thân thiết hơn với Larsen Sói, nếu từ thân thiết bao gồm được tính cả với mối quan hệ giữa ông chủ và kẻ hầu, hay, nói đúng hơn, giữa vị vua và gã hề. Tôi chỉ là món đồ chơi của ông ta, ông ta coi trọng tôi như đứa trẻ coi trọng một món đồ chơi. Nhiệm vụ của tôi là mua vui, chừng nào tôi còn khiến ông ta vui thì mọi sự đều tốt đẹp; nhưng nếu để ông ta chán, hoặc để ông ta mắc phải một trong những cảm xúc tồi tệ, thì tôi sẽ bị đày từ bàn cabin về bếp, và đồng thời, tôi cũng được ban ơn may mắn thoát đi với tính mạng và thân thể nguyên vẹn.

    Sự cô đơn của người đàn ông này cũng dần bị đổ hết lên tôi. Trên thuyền không có ai là không ghét hay sợ ông ta, cũng không có ai ông ta không khinh bỉ. Ông ta hấp thụ nguồn sức mạnh lớn lao trong mình, nhưng dường như không bao giờ tìm được nhiệm vụ xứng đáng để trút nó ra. Ông ta giống Lucifer, linh hồn cao ngạo bị đày đọa trong một xã hội toàn những bóng ma Tomlinson vô hồn.

    Riêng sự cô đơn này đã đủ tệ, ông ta còn bị đày đọa bởi sự u sầu nguyên thủy của giống loài. Nhờ biết đến ông ta, tôi mới có thể hiểu rõ hơn về thần thoại Bắc Âu cổ xưa. Những kẻ man rợ da trắng, tóc nhạt màu đã xây nên những đền thờ đáng sợ có chung bản chất với ông ta. Chất mơ mộng từ dòng máu Latin yêu cười chẳng tồn tại trong ông. Khi ông ta cười, đó là vì một trò đùa chẳng có gì ngoài sự hung tợn. Nhưng ông ta hiếm khi cười; ông ta thường buồn bã. Đó là sự buồn bã sâu xa tựa cội rễ của giống loài. Đó là di sản giống loài, là nỗi buồn đã tạo nên phần trí não tỉnh tảo, thanh thản và đầy đạo đức.

    Trên thực tế, nỗi u sầu nguyên thủy đó phần lớn đã trở thành tôn giáo trong những hình thức buồn khổ hơn của nó. Nhưng sự chở che của tôn giáo bị Larsen Sói từ chối. Chủ nghĩa duy vật hung hăng của ông ta không cho phép điều đó. Thế nên, khi ông ta buồn khổ, ông ta chẳng còn lại gì ngoài sự ác độc. Nếu ông ta không phải là người quá đỗi khủng khiếp, hẳn đôi lúc tôi sẽ xót thương ông, như vào một buổi sáng nọ, tôi tới phòng riêng của ông ta để đổ đầy bình nước và tình cờ thấy ông ta. Ông ta không thấy tôi. Ông vùi đầu vào tay, đôi vai co giật như đang khóc. Ông ta đang bị cào xé bởi nỗi buồn khủng khiếp.

    Khi nhẹ chân bước ra, tôi nghe thấy ông ta rên rỉ, "Chúa ơi! Chúa! Chúa ơi!" Đó không phải lời kêu gọi chúa, mà chỉ là một lời nguyền rủa, xuất phát từ tận tâm hồn.

    Vào bữa tối, ông ta hỏi đám thợ săn cách chữa bệnh nhức đầu, tới đêm, người đàn ông mạnh mẽ đó như thể đã mù dở, loạng choạng về cabin.

    "Cả đời tôi chưa bao giờ ốm, Hump ạ," ông ta nói, khi tôi đỡ ông ta về phòng.

    "Tôi cũng chưa bao giờ đau đầu, trừ lần toác mười lăm phân trên đầu vì một cái trục tời." Cơn đau đầu quáng mắt này kéo dài ba ngày, ông ta vật vã như loài thú hoang, như cách người ta chịu đựng đau đớn trên con tàu này, không kêu ca, không thương cảm, hoàn toàn cô độc.

    Tuy nhiên, vào sáng nay, khi tôi tiếng vào phòng riêng của ông ta để dọn giường và lau chùi, tôi thấy ông ta đã khỏe và vùi đầu làm việc. Bàn và giường được phủ kín những bản thiết kế và phép tính. Với một tờ giấy trong lớn, la bàn và thước vuông trên tay, ông ta đang chép lại theo một mô hình hay cái gì đó khác.

    "Chào, Hump!" Ông ta hào hứng chào đón tôi. "Tôi vừa hoàn thành những bước cuối cùng. Muốn xem thành quả không?"

    "Nhưng nó là gì?" Tôi hỏi.

    "Một thiết bị tiết kiệm sức lao động cho người đi biển, phương pháp định hướng dễ hiểu với trình độ mẫu giáo," ông ta hóm hỉnh đáp. "Từ hôm nay, một đứa trẻ cũng sẽ biết cách định hướng cho tàu. Không cần những phép tính dài dòng nữa. Tất cả những gì anh cần là một ngôi sao trên bầu trời âm u để biết mình đang ở đâu. Nhìn đi. Tôi đặt tấm bảng chia tọa độ trong lên bản đồ sao, xoay tọa độ tới Bắc Cực. Nhờ bảng chia tọa độ, tôi sẽ biết được độ cao cung vòng và các đường phương vị. Tất cả những gì tôi cần làm là đặt bảng chia lên một ngôi sao, xoay bảng tới khi nó trùng với những điểm trên bản đồ bên dưới, thế là ngay lập tức, anh sẽ có vị trí chính xác của con tàu!" Giọng ông ta như lẫn tiếng ngân vang của bài ca chiến thắng, đôi mắt sáng hôm nay mang màu xanh trong như mặt biết, lấp lánh ánh sáng.

    "Hẳn ông rất giỏi toán," tôi nói. "Ông đi học ở đâu vậy?"

    "Chưa bao giờ thấy bên trong ngôi trường nào hết, xui xẻo thay," là câu trả lời. "Tôi đã phải tự tìm tòi. Anh nghĩ tại sao tôi lại làm ra thứ này?" Ông ta đột ngột yêu cầu.

    "Mong để lại dấu chân trên dòng cát thời gian?"

    Ông ta phá lên một trong những nụ cười khinh bỉ khủng khiếp nhất. "Không hề. Để được bằng sáng chế, để kiếm ra tiền, để chìm đắm trong tham lam, trong khi những kẻ khác vẫn làm việc hằng đêm. Đó là mục đích của tôi. Ngoài ra, tôi cũng thích làm việc này."

    "Niềm vui sáng tạo," tôi lẩm bẩm.

    "Tôi đoán đó là cách gọi nên được sử dụng. Một cách khác để thể hiện niềm vui của sự sống vẫn đang sống, sự thành công khi vượt qua khó khăn, niềm vui của kẻ nhanh chân thoát chết, niềm tự hào của con men có được vì nó là men và nó chuyển động."

    Tôi giơ hai tay lên bất lực, không thể phản đối chủ nghĩa duy vật vô nhân tính của ông ta, và bắt đầu dọn giường. Ông ta tiếp tục chép lại những đường và điểm trên bảng chia tọa độ bằng giấy trong. Đó là công việc đòi hỏi sự tinh tế và chính xác tối đa, tôi chỉ biết ngưỡng mộ cái cách ông ta kiềm giữ sức mạnh của mình khi cần sự cẩn thận và chuẩn xác.

    Khi dọn giường xong, tôi nhận ra mình đang say mê nhìn ông ta. Rõ ràng ông ta là một người đàn ông quyến rũ – với nét đẹp của những đường nét nam tính.

    Một lần nữa, với sự ngạc nhiên chưa bao giờ nguôi, tôi nhận ra sự độc ác, hay gian trá, hoặc tội lỗi không hề tồn tại trên mặt ông ta. Tôi tin rằng đây chính là gương mặt của một người không hề làm gì sai trái. Và vì thế, tôi ước mình không lầm. Điều tôi muốn nói là gương mặt ông ta là của một người không hề làm gì sai trái trước lương tâm mình, hoặc của một người không hề có lương tâm. Tôi từ chối nghĩ theo cách thứ hai. Ông ta là một tạo vật hấp dẫn, một người đàn ông nguyên thủy như thể tới từ thế giới chưa có sự phát triển của khái niệm đạo đức. Ông ta không bất tử, lại vô đạo.

    Như tôi đã nói, những nét nam tính của ông ta tạo nên một gương mặt đẹp. Ông ta mày râu nhẵn nhụi, mọi đường nét đều khác biệt, được cắt gọt sắc cạnh như chạm khắc; biển cả và mặt trời đã hun cháy làn da trắng nguyên bản thành màu đồng sậm vốn được tạo ra cho những cuộc chiến, tăng thêm vẻ tàn bạo và đẹp đẽ của ông ta. Đôi môi dày, chất chứa sự cứng rắn gần như khắc nghiệt thường thấy ở người môi mỏng hơn. Đường nét miệng, cằm, quai hàm cũng vừa cứng rắn vừa khắc nghiệt, với tất cả những nét dữ dội và cương quyết của đàn ông; mũi cũng vậy. Đó là cái mũi được sinh ra để chinh phục và chỉ huy. Nó gợi lên hình ảnh mỏ đại bàng. Hẳn nó vốn là của người Hi Lạp, cũng có thể là La Mã, nhưng dáng vừa quá lớn hoặc quá tinh tế để là một trong hai. Dù gương mặt ông ta là hiện thân của sự dữ dội và sức mạnh, nỗi u sầu nguyên thủy ông ta gánh chịu càng làm đậm thêm những đường nét ở miệng, mắt và lông mày, tạo nên sự vĩ đại và toàn vẹn mà thiếu nó sẽ thành không đầy đủ.

    Thế rồi tôi phát hiện ra rằng mình đang đứng ngẩn ngơ nghiên cứu ông ta. Tôi không thể nói rõ người đàn ông này đã hấp dẫn tôi như thế nào. Ông ta là ai? Ông ta là thứ gì? Sao ông ta lại trở nên giống như bây giờ? Dường như ông ta có tất cả mọi nguồn sức mạnh, tất cả mọi tiềm năng; thế thì tại sao ông ta lại ở đây, chỉ là chủ nhân vô danh của một con tàu buồn săn hải cẩu, nổi danh với những kẻ săn hải cẩu khác về tính hung bạo đáng sợ? Sự tò mò trỗi dậy trong tôi dâng lên thành lời nói:

    Tại sao ông không làm gây dựng nên những điều vĩ đại trên thế giới này? Với sức mạnh của mình ông có thể vươn lên bất cứ tầm cao nào. Vì không có lương tâm hay bản năng đạo đức, ông có thể làm chủ cả thế giới, bóp nát nó trong tay mình. Nhưng ông lại ở đây vào những năm tháng đỉnh cao của cuộc đời, bắt đầu bước sang sườn dốc đổ vể già nua và cái chết, sống tủi nhục chỉ để săn những con thú biển nhằm thỏa mãn ham muốn hư vinh và lòng ham trang điểm của phụ nữ, vẫy vùng trong lòng tham, như chính lời ông nói, khi xung quanh chẳng có bất cứ thứ thì đẹp đẽ. Tại sao? Với tất cả khả năng của ông, sao không làm điều gì hết? Chẳng điều gì có thể ngăn chân ông cả, chẳng điều gì có thể cản ông cả. Tại sao chứ? Ông thiếu dã tâm sao? Hay không thấy sự cám dỗ? Vấn đề nằm ở đâu?

    "Vấn đề nằm ở đâu à?" Ông ta đưa mắt nhìn khi tôi bắt đầu bùng nổ và vẫn theo dõi tới khi tôi ngậm miệng và đứng trước ông ta nín thở và lo lắng. Ông ta đợi một lát, như để tìm cách bắt đầu, rồi nói: "Hump, anh có biết ngụ ngôn của những người gieo hạt không? Nếu anh nhớ, thì một số hạt giống sẽ rơi xuống đá sỏi nơi chẳng có mấy đất, chúng sẽ nảy lên vì chẳng được đón đỡ bằng lớp đất sâu. Khi mặt trời lên, chúng bị nướng cháy, và vì không có rễ nên chúng phải khô héo. Một số hạt rơi vào gai, gai sẽ vươn ra, giữ chúng lại."

    "Thì sao?" Tôi nói.

    "Thì sao à?" Ông ta hỏi lại, có phần hăng hái. "Thì không tốt thôi. Tôi là một trong những hạt giống đó." Ông ta chúi đầu vào bảng chia tọa độ, tiếp tục việc sao chép. Tôi hoàn thành công việc của mình, và ngay lúc tôi mở cửa để ra ngoài, ông ta nói với tôi.

    "Hump, nếu anh nhìn về phía bờ biển phía tây bản đồ Na Uy, anh sẽ thấy một vết lõm gọi là Romsdal Fiord. Tôi được sinh ra trong vòng một trăm dặm nước cách nơi đó. Nhưng tôi không phải người Na Uy. Tôi là người Đan Mạch. Cha mẹ tôi là người Đan Mạch, tôi không hề biết họ đã làm thế nào để đến được vùng đất ngập nước trên bờ biển phía tây đó. Tôi chưa từng được kể. Chẳng còn gì bí ẩn hết. Họ là những người nghèo khó và mù chữ. Tổ tiên họ nghèo khó, mù chữ – những người lao động nghèo trên biển gieo con trai mình lên những con sóng theo tục lệ từ thủa sơ khai. Chẳng còn gì để kể."

    "Vậy mà có đấy," tôi phản đối. "Tôi vẫn thấy khó hiểu."

    "Tôi có thể nói gì cho anh nữa," ông ta yêu cầu, sự hung dữ lại sống dậy, "về cuộc sống thiếu thốn của một đứa trẻ – chỉ biết ăn cá, sống đời thô lỗ; về những chuyến đi biển từ khi mới biết bò; về các anh em tôi, từng người một ra khơi để kiếm sống trên biển sâu và không bao giờ trở lại; hay về chính tôi, không biết đọc, không biết viết, một thằng nhóc bồi tàu từ thủa lên mười trên các con tàu cũ ven biển; về đồng tiền công rẻ mạt và cách đối xử tàn tệ, giường ngủ và bữa sáng là những cú đá đấm thay cho lời nói, về sự sợ hãi, căm ghét và đau đớn là tất cả những gì linh hồn tôi biết đến? Tôi không muốn nhớ. Chỉ cần nghĩ tới thôi, sự điên rồ đã tuôn ra trong não tôi rồi. Nhưng có những tay thuyền trưởng vùng ven biển đó, những kẻ tôi quyết sẽ tìm và giết khi sức mạnh của người trưởng thành tới với tôi, có điều sợi chỉ vận mệnh ném tôi tới nơi khác vào lúc đó. Tôi đã trở lại, không lâu sau đó, nhưng đáng tiếc, những gã thuyền trưởng đó đều đã chết, tất cả chỉ trừ tay thuyền phó ngày xưa, đã trở thành thuyền trưởng khi gặp lại tôi. Tới khi tôi rời đi, gã chỉ là kẻ tàn tật không bao giờ đi lại được nữa."

    "Nhưng ông đọc Spencer và Darwin, lại chưa bao giờ vào trong một ngôi trường, làm thế nào ông học đọc và viết?" Tôi hỏi.

    "Thuyền dịch vụ thương mại của người Anh. Bồi tàu năm mười hai, mười bốn làm phục vụ viên, thuyền viên thường năm mười sáu, thuyền viên đủ tư cách và là thủ lĩnh của boong trước năm mười bảy; tràn đầy tham vọng và cô đơn vô tận, chẳng hề biết đến sự giúp đỡ hay đồng cảm, tôi đã tự mình học tất cả – định hướng, toán, khoa học, văn học, chẳng chừa thứ gì. Thành quả thế nào ư? Điều khiển và làm chủ một con tàu khi đang ở đỉnh dốc cuộc đời, như anh đã nói, khi tôi bắt đầu già yếu và sẽ chết. Đánh khinh, đúng chứ? Khi mặt trời lên, tôi sẽ bị nướng cháy, vì tôi không có gốc rễ, nên tôi héo tàn."

    "Nhưng lịch sử vẫn kể về những người nô lệ nổi dậy chống vua chúa," tôi gắt.

    "Lịch sử cũng kể về những gì đã xảy tới với đám nô lệ nổi dậy chống vua chúa," ông ta dữ dằn nói. "Không kẻ nào có cơ hội sống. Tất cả những con người vĩ đại ấy chỉ cần hiểu khi nào thời cơ đến. Những người Corsica biết đấy. Tôi đã mơ mộng tới những điều vĩ đại như người Corsica. Đúng ra tôi phải biết về thời cơ, nhưng nó không bao giờ đến. Những cái gai vươn ra và giữ tôi lại. Hump à, tôi có thể nói rằng anh hiểu tôi còn nhiều hơn bất cứ người sống nào, trừ anh của tôi."

    "Ông ta là ai? Ông ta ở đâu?"

    "Chủ tàu hơi nước Macedonia, tàu săn hải cẩu," ông đáp. "Chúng ta hẳn sẽ gặp gã ở bờ biển Nhật. Người tôi gọi gã là Larsen" Tử Thần "."

    "Larsen Tử Thần!" Tôi vô thức thốt lên, "Ông ta có giống ông không?"

    "Không hề. Gã là cục thịt của xác thú không đầu. So với tôi, gã có tất cả sự.. sự.."

    "Hung bạo," tôi đoán dò.

    "Đúng thế, cám ơn vì từ đó. Gã có tất cả sự hung bạo của ta; nhưng gã hầu như không biết đọc hay viết."

    "Và gã chẳng bao giờ triết lí về cuộc sống," tôi bổ sung.

    "Không hề," Larsen Sói trả lời, với nỗi buồn thăm thẳm. "Gã vui vẻ hơn nhiều khi sống đời đơn độc. Gã quá bận rộn sống để mà bận tâm suy nghĩ. Sai lầm của đời tôi là mở sách ra."
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  2. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 11

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tàu Bóng Ma tới điểm cực nam của chuyến hành trình khi đi qua Thái Bình Dương, và bắt đầu cắt về phía tây và bắc hướng tới một số hòn đảo đơn lẻ, theo tin đồn thì tàu sẽ đổ đầy thùng nước trước khi tiếp tục mùa săn dọc theo bờ biển Nhật Bản. Các thợ săn có dịp sử dụng súng trường và súng ngắn tới khi thấy thỏa mới thôi, các tay chèo và lái thuyền làm buồm con, buộc mái chèo và cột chèo bằng dây da và thừng để chúng không gây ra tiếng động khi rình hải cẩu và xếp thuyền theo hình bánh táo, theo như cách nói ở quê Leach. Nhân tiện, tay nó đang lành rất nhanh, dù vết sẹo sẽ theo nó cả đời.

    Thomas Mugridge sống trong sự sợ hãi trước nó, sợ cả việc lên boong khi trời đã tối. Có ba hay bốn trận cãi vã đã nổ ra ở khoang trước. Louis kể với tôi rằng lời đồn thổi của đám thủy thủ đã mò tới khoang sau, hai kẻ lẻo mép đã bị thuyền phó tẩn tới sống tới chết. Anh ta lắc đầu nghi ngại về tương lai của Johnson, tay chèo chung thuyền với mình. Johnson mắc tội tự do nói ra suy nghĩ của mình và có đôi lần đụng chạm tới Larsen Sói vì cách phát âm tên anh ta. Anh ta cũng đánh nhau với Johansen ở giữa tàu một tối nọ, kể từ đó thuyền phó gọi anh ta đúng như tên anh ta. Nhưng đương nhiên, khỏi cần hỏi cũng biết liệu Johnson có đánh nhau với Larsen Sói hay không. Louis cho tôi biết thêm thông tin về Larsen Tử Thần, khá khớp với mấy câu mô tả ngắn gọn của thuyền trưởng. Chúng ta có thể gặp Larsen Tử Thần tại bờ biển Nhật Bản.

    "Cẩn thận ruồi muỗi chết," Louis dự báo, "vì họ ghét nhau đúng như bản chất sói non của họ." Larsen Tử Thần chỉ huy tàu săn hải cẩu chạy bằng hơi nước duy nhất trong đội tàu, tàu có mười bốn thuyền con, trong khi các tàu buồm chỉ chở được có sáu thuyền. Người ta có bàn tán về khẩu pháo trên tàu, những trận chiến và thám hiểm lạ lùng mà con tàu có thể đã thực hiện, từ buôn lậu ma túy vào Mĩ tới buôn lậu vũ khí vào Trung Quốc, tới lừa đảo, bắt cóc và cướp biển. Nhưng tôi vẫn tin lời Louis, vì tôi chưa bao giờ thấy anh ta nói dối cả, và anh ta là cuốn bách khoa toàn thư về săn hải cẩu và những con người trong hải đội.

    Những lời đồn đại tiếp tục lan đi khắp nơi, cả trong bếp, cũng như buồng lái và khoang sau trên con tàu địa ngục này. Đàn ông đánh nhau và đấu tranh vì sự sống còn. Các thợ săn luôn tìm dấu hiệu đụng độ giữa Smoke và Henderson vào bất cứ lúc nào, những trận cãi vã trước đây của họ còn chưa nguôi, Larsen Sói thì nói thẳng sẽ giết kẻ còn sống nếu cuộc đụng độ nổ ra. Ông ta thẳng thắn tuyên bố vị trí ông có được chẳng dựa trên nền tảng đạo đức nào, rằng các thợ săn có thể giết và ăn thịt nhau, ông ta sẽ chẳng quan tâm nếu không cần họ còn sống để săn hải cẩu. Nếu họ kiềm chế được tới khi mùa săn kết thúc, ông ta hứa sẽ đãi họ một lễ hội hoành tráng, tất cả mối hận sẽ được giải quyết, những kẻ sống sót có thể ném kẻ không còn sống sót xuống biển và bịa ra câu chuyện họ đã mất tích như thế nào. Tôi nghĩ chính đám thợ săn cũng phải kinh sợ sự máu lạnh của ông ta. Họ có thể là những kẻ gian trá, nhưng chắc chắn họ rất sợ ông.

    Thomas Mugridge co mình phục tùng tôi, trong khi tôi sống trong nỗi sợ thầm kín trước gã. Nỗi sợ của gã có thể gợi lên lòng can đảm, một khái niệm kì lạ mà tôi hiểu rất rõ, bất cứ lúc nào lòng can đảm cũng có thể làm chủ nỗi sợ và thúc giục gã giết tôi. Đầu gối tôi đã khá hơn nhiều, dù vẫn thường đau một lúc lâu, cơn tê cứng cũng dần tan biến khỏi cánh tay bị Larsen Sói bóp nghiến. Không tính những điều đó thì cơ thể tôi đang ở tình trạng tốt và cảm nhận được rằng mình đang ở tình trạng tốt. Các cơ bắp của tôi rắn chắc hơn, phình to hơn. Tuy nhiên, bàn tay tôi là bức tranh sống động về nỗi đau. Tôi còn bị nổi nhọt, hẳn là do chế độ ăn uống, vì tôi chưa bao giờ chịu khổ đến thế này.

    Mấy buổi tối gần đây, tôi thấy khá thích thú khi thấy Larsen Sói đọc Kinh thánh, đây là một bản sao từ cuốn Kinh thánh được tìm thấy trong rương của thuyền phó quá cố sau cuộc truy lùng vô ích hồi đầu chuyến hành trình. Tôi băn khoăn không biết Larsen Sói có đạt được gì từ cuốn sách không, ông ta còn đọc thành tiếng cho tôi từ phần Truyền đạo[1] . Tôi có thể hình dung ông ta nói ra những suy nghĩ của mình như khi ông ta đọc cho tôi, giọng nói vang vọng, sâu và trầm trong cabin nhỏ hẹp, hấp dẫn và níu giữ tôi. Có lẽ ông ta không được học hành, nhưng rõ ràng ông biết cách thể hiện ý nghĩa của ngôn từ. Tôi có thể nghe ông đọc, kể cả bây giờ cho tới mãi mãi về sau, âm rung u sầu nguyên thủy vang lên khi đọc Truyền đạo từ đoạn mở đầu: "Tôi thâu chứa cho mình bạc vàng."

    "Của anh đó, Hump." Ông ta nói, gập sách lại giữa ngón tay và nhìn tôi. "Nhà Truyền đạo từng là vua của Israel tại Jerusalem từng nghĩ như tôi. Anh gọi tôi là kẻ bi quan. Đây không phải sự bi quan đen tối nhất hay sao? –" mọi sự đều là hư không ";" chẳng điều gì thật sự giá trị dưới ánh mặt trời ";" ai ai cũng có kết cuộc như nhau, "kể cả kẻ ngu dại lẫn người khôn ngoan, kẻ trong sạch lẫn kẻ ô uế, tôi nhân và thánh nhân; kết cuộc đó là cái chết, và đó là điều ác, như ông ta nói. Vì Nhà Truyền giáo yêu cuộc sống và không muốn chết, nên đã nói" vì con chó sống vẫn hơn con sư tử chết. "Ông ta ưa hư không hơn là nấm mồ câm lặng bất động. Tôi cũng thế. Bò trườn là tham lam; nhưng không bò thì chỉ là đá sỏi, trông thật đáng kinh tởm. Thật đáng kinh tởm thay cho sự sống trong tôi, mọi chuyển động, bản chất của mọi thứ chuyển động, sức mạnh của chuyển động và ý thức về sức mạnh của chuyển động. Bản thân cuộc sống là sự bất mãn, nhưng việc trông mong cái chết càng đáng bất mãn hơn."

    "Ông còn tệ hơn Omar[2]," tôi nói. "Sau giai đoạn hoang mang của tuổi trẻ, ít nhất ông ta đã thấy toại ý và biến chủ nghĩa duy vật của mình thành niềm vui sống."

    "Omar là ai?" Larsen Sói hỏi, và tôi không làm thêm việc gì khác vào hôm đó, cũng như hôm sau, sau nữa.

    Trong số sách vở được chọn ngẫu nhiên của mình, ông ta chưa từng có cơ hội chạm vào tập thơ "Rubaiyat[3]", với ông ta điều này như tìm ra được kho báu vậy. Tôi nhớ được rất nhiều, có lẽ là hai phần ba phần thơ tứ tuyệt, và tôi tìm được cách lôi ra khỏi đầu những phần còn lại không khó khăn gì. Chúng tôi nói chuyện hàng giờ về một khổ thơ đơn lẻ, rồi tôi chợt nhận ra ông ta đang đọc nó với niềm nuối tiếc và nổi loạn mà tôi không thể tự mình khám phá trong cuộc đời của mình. Có lẽ tôi đã ngâm với niềm vui riêng tư của mình, trí nhớ ông ta lại tốt, nên sau lần ngâm thứ hai, thường là lần đầu tiên, ông ta tự nhẩm được khổ thơ tứ tuyệt cho riêng mình. Ông ngâm nga lại từng câu, dồn vào chúng sự nổi loạn đam mê không ngơi nghỉ rất thuyết phục.

    Tôi tò mò không biết ông ta thích khổ thơ nào nhất, và không hề ngạc nhiên khi ông ta chọn được đoạn về sự giận dữ bất chợt và đồng ý với sự khác biệt giữa triết lí tự kiêu và tinh thần cuộc sống của người Ba Tư:

    Xin đừng hỏi tôi rằng: Đến từ đâu?

    Và xin đừng hỏi gì chuyện: Về sau?

    Chén rót đầy, rồi rót cho đầy nữa

    Để tôi quên điều sỉ nhục trong đầu. [4]

    "Tuyệt!" Larsen Sói hét lên. "Tuyệt! Đó là điểm nhấn. Sỉ nhục! Ông ta không thể dùng từ nào tốt hơn được." Tôi phản đối yếu ớt và vô ích. Ông ta làm tôi lúng túng, dùng lập luận phủ đầu tôi.

    "Bản chất của cuộc sống chính là thế. Khi cuộc sống biết nó phải chấm dứt sự sống, nó luôn nổi loạn. Nó không thể ngăn mình được. Nhà Truyền đạo tìm thấy cuộc sống và công việc của cuộc sống chỉ toàn hư không và phiền toái, một điều ác; nhưng ông ta thấy rằng cái chết, sự chấm dứt của hư không và phiền toái ấy, là một điều ác lớn hơn. Qua từng chương ông ta lo lắng bởi kết cuộc rồi sẽ đến với tất cả. Omar cũng thế, tôi cũng thế, anh cũng thế, chính anh, vì anh đã nổi loạn chống lại cái chết khi thằng Bếp mài sắc dao để giết anh. Anh sợ chết; đó là sự sống trong anh, thứ còn lớn lao hơn anh và không muốn chết. Anh có thể ba hoa về bản thân của sự bất tử. Tôi nói về bản năng của sự sống, thứ luôn sống, và khi bóng ma cái chết lại gần, sẽ làm chủ bản năng của thứ gọi là sự bất diệt kia. Nó làm chủ chính nó trong anh (anh không thể phản bác được), vì một gã Cockney điên khùng đã mài sắc dao."

    "Giờ anh sợ nó. Anh sợ tôi. Anh phông thể phủ nhận. Nếu tôi tóm lấy cổ họng anh như thế này," – bàn tay ông ta đặt tay lên họng tôi, và tôi ngừng thở, – và bóp nghẹt sự sống ra khỏi anh, lập tức, lập tức, bản năng của sự bất diệt của anh sẽ lu mờ, còn bản năng của sự sống, thứ khát khao được tiếp tục sống, sẽ trỗi dậy, rồi anh sẽ giãy dụa mong tự cứu mình. Sao? Tôi thấy nỗi sợ cái chết trong mắt anh. Anh vẫy vùng trong không khí, anh sử dụng tất cả sức lực nhỏ nhoi của mình để bám lấy sự sống. Tay anh đeo lấy tay tôi, mềm nhẹ như một miếng bơ. Ngực anh phập phồng, lưỡi anh thè ra, da xám đi và mắt trợn ngược. "Phải sống! Phải sống! Phải sống!" anh gào lên như thế; anh cũng đang gào lên như thế, chẳng cần tới sau này. Anh nghi ngờ sự bất diệt của mình, phải không? Ha! Ha! Anh không dám chắc về nó nữa. Anh không thể thay đổi nó. Sự sống là thứ duy nhất anh chắc chắn là thật. À, nó đang đen tối đi. Đó là sự đen tối của cái chết, sự chấm dứt sự tồn tại, sự chấm dứt cảm giác, sự chấm dứt cử động, thứ đang vây anh lại, thứ bao phủ lên anh, dâng lên quanh anh. Mắt anh đông cứng lại. Chúng mờ đi. Giọng tôi nghe mờ mịt và xa xôi. Anh không thể thấy mặt tôi. Nhưng anh vẫn giãy dụa trong nắm tay tôi. Anh đá chân. Cơ thể anh cong lại như một con rắn. Ngực anh phập phồng và co thắt. "Phải sống! Phải sống! Phải sống.." tôi không nghe thấy gì nữa. Ý thức tôi đã khô cạn trước bóng tối vô cùng chi tiết được ông ta vẽ ra, khi tỉnh táo lại tôi đã thấy mình đang nằm trên sàn, còn ông ta đang hút thuốc và nhìn tôi với đôi mắt suy ngẫm đầy vẻ tò mò quen thuộc.

    "Sao, tôi thuyết phục được anh chứ?" Ông ta hỏi. "Đây, uống thứ này đi. Tôi muốn hỏi anh vài câu." Tôi lắc đầu dưới sàn. "Lập luận của ông quá.. ờm – áp đặt," tôi cố gắng phát âm, mặc cho cơn đau dữ dội nơi cổ họng sưng. "Anh sẽ ổn sau nửa giờ," ông ta trấn an. "Và tôi hứa tôi sẽ không sử dụng bất kì hình thức minh họa bạo lực nào nữa. Đứng lên đi. Anh có thể ngồi lên ghế."

    Tôi chỉ là món đồ chơi của con quái vật này, cuộc thảo luận về Omar và Nhà Truyền đạo lại tiếp tục. Chúng tôi ngồi nói chuyện tới nửa đêm.

    [1] Truyền đạo: Sách Truyền đạo, một cuốn kinh thánh của đạo Tin Lành.

    [2] Omar: Omar Khayyam, nhà thơ Ba Tư

    [3] Rubaiyat: Tập thơ Rubaiyat của Omar Khayyam

    [4] Trích Tập thơ Rubaiyat (Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 2004)
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  3. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 12

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hai mươi tư giờ trước tôi đã chứng kiến một lễ hội tàn bạo. Gần như từ cabin tới boong mũi đều bị tàn phá như bệnh dịch. Tôi gần như không biết phải bắt đầu từ đâu. Larsen Sói chính là nguyên nhân sự việc. Mối quan hệ giữa những người đàn ông này luôn căng thẳng như dây đàn vì thù hận, cãi vã và ganh ghét và vẫn duy trì trạng thái cân bằng bấp bênh. Larsen Sói phá vỡ sự cân bằng đó, thế là những xúc cảm ma quỷ bùng lên như lửa bắt vào rơm khô.

    Thomas Mugridge đang chứng tỏ gã là kẻ tọc mạch, gián điệp và chỉ điểm. Gã cố gắng giành lại lòng yêu mến và phục hồi vị thế tốt đẹp trước thuyền trưởng bằng cách mách chuyện của những người khác. Tôi biết, gã đã lẻo mép về vài câu nói chớp nhoáng của Johnson với thuyền trưởng. Hình như Johnson đã mua một bộ đồ vải dầu từ tủ lương hiện vật và thấy chất lượng của chúng quá tệ hại. Anh ta không ngần ngại loan truyền sự thật đó. Tủ lương hiện vật là dạng kho chứa hàng khô cỡ nhỏ mà tàu buồm săn hải cẩu nào cũng có, bên trong có những món đồ đặc biệt mà cánh thủy thủ cần. Thủy thủ mua bất cứ thứ gì từ đó sẽ bị trừ vào khoản tiền được trả từ công việc săn hải cẩu sau này; mức săn này được áp dụng cho các thợ săn, các tay chèo và lái thuyền như sau: Thay cho lương, họ nhận được một "lay", mức giá tính theo số da họ bắt được tính theo tổ thuyền của mình.

    Nhưng tôi không biết Johnson phàn nàn điều gì về tủ lương hiện vật, nên đã kinh hoảng khi chứng kiến chuyện xảy ra. Tôi vừa lau dọn cabin xong và bị Larsen Sói dụ dỗ thảo luận về Hamlet, nhân vật Shakepear ưa thích của ông ta, thì Johansen đi xuống với Johnson theo sau. Mũ của anh ta đã tháo, sau khi thực hiện nghi thức chào trên biển, anh ta trang trọng đứng giữa cabin, lắc lư chẳng mấy dễ chịu vì tàu nghiêng, đối diện thuyền trưởng.

    "Đóng cửa, chốt lại," Larsen Sói nói với tôi.

    Tôi để ý thấy vẻ lo lắng trong mắt Johnson, nhưng nhầm nó với bản tính rụt rè hay xấu hổ của anh ta. Thuyền phó, Johansen, đứng cách anh ta vài mét, còn Larsen Sói thì ngồi trên ghế cabin trước mặt anh ta cách đúng ba thước.

    Sự im lặng đáng nghi kéo dài sau khi tôi đóng cửa và chốt lại – sự im lặng kéo dài gần một phút. Sau đó, Larsen Sói phá vỡ nó.

    "Yonson," ông ta mở miệng.

    "Tên tôi là Johnson, thưa ông," anh thủy thủ cứng nhắc sửa lại.

    "Ồ, vậy Johnson, – anh bạn! Có đoán được tại sao tôi lại gọi anh tới?"

    "Có và không, thưa ông," câu trả lời đến khá chậm. "Tôi làm tốt việc của mình. Thuyền phó biết thế, ông biết thế. Nên chẳng có gì đáng phàn nàn."

    "Tất cả chỉ có thế?" Larsen Sói hỏi, giọng ông ta êm, chậm rãi và ngân rung.

    "Tôi biết ông có ý kiến về tôi," Johnson tiếp tục bằng giọng điệu chậm rãi nặng nề không thay đổi của mình. "Ông không thích tôi. Ông.. ông.."

    "Tiếp tục đi," Larsen Sói khuyến kích. "Đừng lo sợ vì cảm xúc của tôi."

    "Tôi không sợ," anh thủy thủ phản bác, cơn giận ửng lên bất chấp làn da cháy nắng. "Ông không thích tôi vì tôi quá tự trọng, đó là lí do, thưa ông."

    "Anh quá tự trọng để tuân theo kỉ luật trên tàu, hẳn đó là ý anh, nếu anh hiểu tôi muốn nói điều gì," là lời phản bác của Larsen Sói.

    "Tôi hiểu tiếng Anh, và tôi hiểu ý của ông, thưa ông," Johnson trả lời, gương mặt anh ta đỏ hơn vì lắp bắp vốn tiếng Anh hạn hẹp của mình.

    "Johnson," Larsen Sói nói, với tư thái bác bỏ màn mở đầu vừa rồi để bắt đầu câu chuyện chính trong tay, "Tôi hiểu rằng anh không hài lòng với bộ đồ vải dầu đó."

    "Tôi không hài lòng. Chúng không tốt, thưa ông,"

    "Anh còn chê bai chúng."

    "Tôi nói những gì tôi nghĩ, thưa ông," anh thủy thủ dũng cảm đáp lại, cũng không hề quên phép lịch sự trên tàu, thêm "thưa ông" vào sau mỗi câu nói.

    Đây là lúc tôi có cơ hội liếc nhìn Johansen. Nắm tay to lớn của anh ta đang siết rồi thả, gương mặt tỏ rõ sự thù địch và hiểm ác khi nhìn Johnson. Tôi để ý thấy một vết bầm đã ngả màu nhưng vẫn còn nhìn ra được dưới mắt Johansen, dấu vết vụ va chạm vài đêm trước với anh thủy thủ.

    Đây là lần đầu tiên tôi tiên đoán được một điều kinh khủng sắp xảy đến – nhưng là điều gì thì tôi không thể tưởng tượng ra nổi.

    "Anh có biết chuyện sẽ xảy đến với những kẻ nói những điều anh đã nói về tủ lương hiện vật cũng như tôi không?" Larsen Sói hỏi.

    "Tôi biết, thưa ông," là câu trả lời.

    "Điều gì?" Larsen Sói đột ngột hùng hổ gắt lên.

    "Điều mà ông và thuyền phó sắp làm với tôi, thưa ông." Tới đây, Larsen nhảy dựng lên từ tư thế ngồi như một con thú hoang, như loài hổ, đổ xuống không gian bị bó hẹp này cơn bão thịnh nộ mà Johnson giơ tay lên chống chọi trong vô ích. Anh ta nâng một cánh tay để bảo vệ bụng, một tay khác giơ lên để bảo vệ đầu; nhưng nắm đấm của Larsen Sói nhắm vào giữa chúng, trên ngực, với âm thanh nghiền nát vang dội. Hơi thở của Johnson đột ngột bắn ra khỏi miệng, để đột ngột cạn kiệt, nghe vang dội và ép buộc như tiếng người vung rìu. Anh ta suýt ngã ngửa ra, nghiêng trái ngã phải để cố lấy lại thăng bằng.

    Johnson đã chiến đấu đủ dũng cảm, nhưng anh ta không thể đọ lại nổi Larsen Sói, chưa kể tới thuyền phó. Thật đáng sợ. Tôi chưa từng tưởng tượng một con người có thể chịu đựng chừng ấy mà vẫn còn sống và chống chọi. Johnson vẫn chống chọi. Đương nhiên, anh ta chẳng có mảy may cơ hội, anh ta cũng biết điều đó như tôi vậy, nhưng nhân phẩm trong anh ta không cho phép anh ngưng chiến đấu bảo vệ nó.

    Tôi không thể chứng kiến nổi nữa. Tôi cảm thấy mình sắp mất trí, nên chạy thẳng lên cầu thang để mở cửa và thoát ra ngoài boong. Nhưng Larsen Sói, bỏ nạn nhân lại giây lát, bằng cú nhảy mạnh khủng khiếp của mình đã xông tới cạnh tôi và ném tôi lại trong góc cabin.

    "Đây là hiện tượng của sự sống, Hump," ông ta trợn mắt nhìn tôi. "Ở lại và nhìn đi. Anh có thể thu thập được dữ liệu về tính bất diệt của linh hồn đấy. Hơn nữa, anh biết mà, chúng ta không thể làm tổn hại linh hồn Johnson. Chỉ có xác thân này là thứ chúng ta có thể phá hủy." Dường như hàng thế kỉ đã trôi qua, dù có lẽ sự việc xảy ra trong vòng chưa đầy mười phút. Trận đánh tiếp tục. Tới khi Johnson không còn vươn dậy được nữa, họ vẫn đánh và đá chỗ anh ta nằm.

    "Thôi nào, Johansen, thôi nào." Cuối cùng, Larsen Sói nói.

    Nhưng con thú bên trong thuyền phó đã thức giấc và cuồng loạn, Larsen Sói buộc phải đẩy anh ta ra bằng cách gạt cánh tay, trông rất nhẹ nhàng, nhưng đã khiến Johansen bật ra như cái nút chai, đập đầu vào tường kêu vang dội. Anh ta ngã xuống sàn, choáng váng một lúc, hít thở hổn hển và chớp mắt trông rất ngớ ngẩn.

    "Mở cửa ra, Hump," Larsen ra lệnh.

    Tôi tuân lệnh, hai kẻ cục súc xách anh chàng bất tỉnh như xách một túi rác và kéo anh ta lên cầu thang, qua cửa hẹp, ra ngoài boong. Louis, đồng đội cùng tổ thuyền của anh ta, quay bánh lái và chết lặng nhìn hộp la bàn.

    Nhưng Geogre Leach, cựu bồi tàu thì không. Cả khoang trước lẫn khoang sau, chẳng có điều gì có thể khiến chúng tôi ngạc nhiên hơn phản ứng của nó. Nó nhảy lên bục đuôi tàu dù không có mệnh lệnh nào, kéo Johnson tới trước, ở nơi nó có thể băng bó vết thương cho anh ta hết khả năng cùa mình và giúp anh ta cảm thấy thoải mái hơn.

    Tôi lên boong để hít thở không khí và cố gắng thư giãn thần kinh bị căng thẳng quá mức của mình. Larsen Sói đang hút một điếu thuốc, kiểm tra miếng đệm chẻ[1] mà tàu Bóng Ma thường kéo theo phía sau, nhưng hiện đã bị nhấc lên vì lí do nào đó.

    Đột nhiên, giọng Leach vang lên bên tai tôi. Giọng nó căng thẳng và khàn đặc trong cơn thịnh nộ. Tôi quay đầu, và thấy nó đứng ngay bên dưới bục đuôi tàu phía bên trái bếp. Mặt nó co giật và trắng bệch, mắt long sòng sọc, nắm đấm siết chặt giơ quá đầu, thằng nhóc đang ném những lời nguyền rủa thẳng vào mặt thuyền trưởng, người đang thong thả tiến lại gần bục đuôi tàu, chống tay lên góc cabin, liếc xuống nghiền ngẫm và tò mò nhìn thằng nhóc kích động.

    Leach vẫn tiếp tục, buộc tội Larsen Sói như thể ông ta chưa bao giờ bị buộc tội.

    Cánh thủy thủ sợ hãi tụ lại thành nhóm bên ngoài mái che khoang mũi, quan sát và lắng nghe. Cánh thợ săn lộn nhộn đứng ngoài buồng lái, nhưng suốt tràng gắt gỏng của Leach tôi không thấy bất cứ vẻ đùa cợt nào trên mặt họ. Đến họ cũng sợ, không phải bởi những lời lẽ kinh khủng của thằng nhóc, mà vì sự táo gan khủng khiếp của cậu ta. Dường như không có sinh vật sống nào có thể khinh thị Larsen Sói cả. Tôi biết điều đó, nên tôi kinh ngạc rồi ngưỡng mộ cậu bé, và tôi nhìn thấy ở cậu ta vẻ đẹp tuyệt diệu của sự bất diệt vươn ra ngoài xác thịt và nỗi sợ hãi cho xác thịt, như cảnh các nhà tiên tri cổ xưa lên án sự bất chính.

    Nghe những lời lên án kìa! Cậu ta lột trần linh hồn Larsen Sói trước sự khinh miệt của con người. Cậu ta đổ lên linh hồn ấy những lời nguyền rủa từ Chúa và các đấng thần linh, héo mòn nó dưới sức nóng của những lời sỉ nhục đáng bị Giáo hội truy đuổi. Cậu ta cất lên bài ca buộc tội, vang lên từ đỉnh cao thịnh nộ, từ đáy sâu kiệt quệ của cảnh hành hạ bẩn thỉu nhất.

    Mọi người đều trông đợi Larsen Sói sẽ nhảy lên và hủy diệt thằng nhóc. Nhưng đó không phải ý định của ông ta. Điếu thuốc đã hết, ông ta vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm trong im lặng và tò mò.

    Leach đẩy bản thân vào cơn mê muội vì nỗi giận dữ vô dụng.

    "Con lợn kia!" Nó dồn hết không khí trong phổi ra. "Tại sao không xuống đây mà giết tao đi, quân sát nhân? Cứ làm đi. Tao không sợ đâu. Cũng chẳng có ai ngăn ông cả! Xuống đây, đồ hèn! Giết tao đi! Giết đi!" Tới cảnh này, linh hồn bất định của Thomas Mugridge kéo gã lên sân khấu. Gã đã lắng nghe từ cửa nhà bếp, giờ mới mò ra với cái cớ đi vứt đồ ăn thừa qua thành tàu, nhưng rõ ràng là để chứng kiến màn giết chóc gã dám chắc sẽ xảy ra. Gã nhếch mép cười nhẽo nhợt với Larsen Sói, người dường như không nhìn thấy gã. Nhưng gã Cockney chẳng hề thấy ngại mà quay sang Leach, nói:

    "Láo toét thế cơ đấy! Sợ thật!"

    Cơn giận của Leach không vô dụng nữa. Cuối cùng đã có thứ tự dâng tới miệng, và đây là lần đầu tiên kể từ sau vụ chém, gã Cockney mò ra ngoài bếp mà không có dao. Gã còn chưa dứt lời đã bị Leach hạ đo ván. Ba lần gã cố đứng dậy, ra sức mò vào bếp, nhưng lần nào cũng lại bị đánh gục.

    "Ôi, Chúa tôi!" gã hét lên. "Cứu! Cứu! Kéo nó ra khỏi tao? Kéo nó đi!" Đám thợ săn nhẹ nhõm phá ra cười từ đáy vực. Bi kịch đã khép màn, hài kịch bắt đầu. Cánh thủy thủ phình to gan tụ tập lại ở khoang sau, lộn xộn nhe răng cười, quan sát gã Cockney đáng ghét bị đánh túi bụi. Kể cả tôi cũng cảm thấy niềm vui dậy lên trong lòng. Tôi thừa nhận tôi thích trận đòn Leach gây ra cho Thomas Mugridge, dù nó tệ hại gần ngang với trận đòn Mugridge đã gián tiếp gây ra cho Johnson. Nhưng biểu cảm trên mặt Larsen Sói không thay đổi, tư thế của ông ta cũng không. Dù với tất cả niềm tin vào lí trí của mình, nhưng dường như ông ta vẫn quan sát vở kịch và biến động của sự sống với hi vọng phát hiện ra điều gì đó lớn lao hơn. Không ai can thiệp cả. Leach đã có thể giết chết gã Cockney, nhưng sau khi thấy thù đã được trả, nó tránh khỏi kẻ thù đã nằm liệt dưới đất, kẻ đang rên rỉ và khóc lóc theo cách khá giống lũ chó con, rồi lại đi về phía trước.

    Nhưng hai vụ đó chỉ là những sự kiện mở màn cho chương trình ngày hôm ấy. Vào buổi chiều, Smoke và Henderson đã đánh nhau, rồi một loạt phát súng bắn ra từ buồng lái, theo sau là bốn người thợ săn còn lại vội vàng nhào ra boong tàu. Một cột khói dày khét, dạng khói của thuốc súng đen, bay qua cửa cầu thang xuống cabin và Larsen Sói nhảy ra từ đó. Tiếng đấm đá và đổ vỡ vang vào tai chúng tôi. Cả hai người đàn ông đều bị thương, ông ta đánh cả hai vì bất tuân lệnh và khiến bản thân thành vô dụng trước mùa săn. Thật ra, họ đều bị thương nặng, và sau khi đánh đập họ, ông ta tiến hành làm tiểu phẫu cho họ một cách thô bạo rồi băng vết thương lại. Tôi đóng vai trò trợ lí khi ông ta tìm và làm sạch vết đạn, tôi nhìn hai người đàn ông chịu đựng cuộc phẫu thuật tàn nhẫn không có thuốc giảm đau hay bất cứ thứ gì hỗ trợ, ngoài một cốc whiskey.

    Sau đó, trong phiên gác hai tiếng buổi chiều, rắc rối lại nổ ra ở đầu khoang mũi. Nó bắt nguồn từ vài câu nói nhảm nhí và khoác lác đã thành nguyên nhân gây ra trận đòn cho Johnson, và từ âm thanh chúng tôi nghe được cũng như từ những vết bầm tím của ngày hôm sau, hẳn là nửa khoang mũi đã ồn áo đánh nửa khoang còn lại.

    Phiên gác hai tiếng buổi tối và ban ngày cũng nổ ra trận đánh giữa Johansen và gã thợ săn gầy gò trông giống người Mĩ, Latimer. Nó bắt nguồn từ một số lời nhận xét của Latimer về tiếng ồn do thuyền phó tạo ra trong giấc ngủ, mặc dù Johansen đã bị đánh, anh ta vẫn khiến cả buồng lái phải thức suốt đêm trong khi bản thân anh ta vẫn ngủ ngon lành của mình và lại tiếp tục trận đánh hết lần này tới lần khác.

    [1] Miếng đệm chẻ: Công cụ đo tốc độ tàu thuyền đi trên biển tới giữa thế kỉ 19.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  4. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 13

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi làm việc của mình lẫn của Thomas Mugridge suốt ba ngày, tôi phải tự khen mình đã làm rất tốt. Tôi biết Larsen Sói ủng hộ việc này, còn cánh thủy thủ thì vui vẻ hài lòng trong khoảng thời gian triều đại của tôi tồn tại.

    "Miếng ngon sạch sẽ đầu tiên kể từ khi em lên tàu." Harrison đã nói thế với tôi ở cửa bếp, khi nó đem trả nồi và chảo đồ ăn tối từ khoang trước. "Chẳng hiểu sao, đồ ăn của Tommy cứ ngấy mỡ ấy – mùi mỡ bám lâu ngày – mà em đoán anh ta chưa thay áo kể từ hồi rời 'Frisco đâu."

    "Anh biết anh ta chưa hề thay," tôi đáp.

    "Em cá anh ta đi ngủ vẫn mặc nó," Harrison bổ sung.

    "Em không hề sai," tôi trả lời. "Vẫn nguyên cái áo đó, anh ta chưa hề cởi nó ra lần nào." Nhưng Larsen Sói chỉ cho phép gã nghỉ có ba ngày để chữa lành thương tích từ trận đánh. Tới ngày thứ tư, dù tập tễnh và đau đớn, gần như không thể nhìn, mắt sưng húp lại, gã vẫn bò bằng gáy xuống giường, chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ của mình. Gã sụt sịt và khóc, nhưng Larsen Sói chẳng hề thương hại. "Đừng có phục vụ đồ thừa nữa," là mệnh lệnh thay lời chào tạm biệt của ông ta. "Không để lại dầu mỡ, cặn bẩn, và nếu có thể, thì thi thoảng thay áo sạch đi, không thì mày sẽ bị ném qua thành tàu đấy. Hiểu không?"

    Thomas Mugridge yếu ớt bò qua cửa bếp, cú lắc nhẹ của tàu Bóng Ma khiến gã lảo đảo. Để đứng dậy, gã bám lấy giá sắt bao quanh bếp để giữ nồi niêu không bị trượt ra ngoài; nhưng nhắm không trúng, khiến bàn tay chống cả sức nặng thân người tì vào bề mặt nóng bỏng.

    "Ôi, Chúa ơi, Chúa ơi, con đã làm gì?" nó than khóc, ngồi xuống thùng than và chăm sóc vết thương mới của mình bằng cách vẩy tay ra trước và sau. "Tại sao những chuyện này lại xảy ra với con? Con muốn chết ốm mất thôi, con đã cố gắng sống không làm hại đến ai." Nước mắt chảy qua gò má bầm tím biến dạng của gã, mặt gã nhăn nhúm lại vì đau. Vẻ hoang dại thoáng xuất hiện trên gương mặt đó.

    "Ôi, mình ghét hắn! Mình ghét hắn!" gã rít lên.

    "Ai cơ?" Tôi hỏi, nhưng gã khốn khổ đang bận khóc than cho nỗi bất hạnh của mình. Không khó để đoán ai là người gã ghét và ai là người gã không ghét; dù tôi đã thoáng thẩy con ác quỉ bên trong gã xúi bẩy gã ghét toàn bộ thế giới. Thi thoảng tôi nghĩ gã ghét cả chính bản thân mình nữa, cuộc đời mới tàn ác với gã làm sao. Vào giây phút ấy, lòng thương cảm dâng tràn trong tôi, khiến tôi tủi hổ vì đã thích thú khi thấy gã khó chịu hay đau đớn. Cuộc sống không công bằng với gã. Nó chơi gã một vố đau khi biến gã thành chính gã hiện tại, nó vẫn chơi xỏ gã từ đó tới giờ. Gã chẳng có cơ hội nào trở thành thứ gì đó khác vượt trội hơn so với bản thân đâu? Như để trả lời câu hỏi thầm lặng đó của tôi, gã kêu than:

    "Tao chưa từng có cơ hội nào, một mảy may cũng không có! Chẳng có ai đưa tao đến trường, cho tao một miếng bánh mì lấp đầy cái bụng đói khát lúc còn là trẻ con? Có ai đã làm gì cho tao chưa? Có bao giờ chưa?"

    "Đừng bận tâm, Tommy," tôi nói, đặt tay lên vai an ủi gã. "Vui lên đi. Mọi chuyện rồi sẽ có ngày tốt đẹp. Anh còn ngày rộng tháng dài phía trước, anh có thể làm bất cứ điều gì mình muốn."

    "Nói dối!" hắn hét vào mặt tôi, gạt bàn tay ra. "Đó là lời nói dối, mày biết thế. Số phận tao đã định sẵn rồi, nó bắt tao phải sống cuộc đời rác rưởi. Mày thì sướng rồi. Mày sinh ra đã là một quí ông. Mày chưa bao giờ biết thế nào là đói, phải khóc lịm đi để ngủ mà bụng kêu rột rột như có một con chuột sống trong đó. Chẳng thể nào mà ổn được hết. Nếu tao là Tổng thống Hoa Kì vào ngày mai, liệu có nhờ thế mà cái bụng đói khát ngày nhỏ của tao được lấp đầy lấy một lần? Làm thế nào nhỉ? Tao sinh ra trong khốn khổ. Tao chịu khốn khổ đủ cho cả mười người. Tao đấy. Tao nằm trong bệnh viện nửa cuộc đời bệnh tật này. Tao bị sốt khi ở Aspinwall, ở Avana, ở New Orleans. Tao suýt chết vì bệnh scurvy[1], thối rữa cả sáu tháng trời vì nó ở Barbados. Bị đậu mùa ở Onolulu, gãy hai chân ở Thượng Hải, viêm phổi ở Unalaska, gãy ba xương sườn nội tạng xoắn hết cả khi ở Frisco. Và giờ thì thế này đây. Nhìn tao đi! Nhìn tao đi! Xương sườn tao lại bị đá bật khỏi sống lưng rồi. Tao sẽ ho ra máu."

    Bài diễn văn lên án số phận kéo dài trong khoảng hơn một tiếng, sau đó, khập khiễng và rên rỉ, gã lết đi làm việc, trong đôi mắt chất chứa mối hận thù với tất cả tạo vật trên đời.

    Nhiều ngày trôi qua, cuối cùng Johnson cũng bò được ra boong tàu để uể oải làm việc. Anh ta vẫn ốm yếu lắm, đã hơn một lần tôi thấy anh đau đớn leo lên buồm đỉnh hoặc mệt mỏi gục xuống khi đang đứng bên bánh lái. Tuy nhiên, điều tệ hại hơn cả là linh hồn anh ta đã vỡ vụn. Anh ta tủi hổ trước mặt Larsen Sói, gần như thậm thụt khi ở gần Johansen. Leach thì không. Nó đi lại trên boong như con hổ con, giương mắt nhìn Larsen Sói và Johansen với vẻ hận thù lồ lộ.

    "Rồi tôi sẽ xử ông, đồ Thụy Điển chân vuông." Tôi đã nghe nó nói thế với Johansen vào một tối nọ trên boong.

    Thuyền phó nguyền rủa nó trong bóng đêm, trong khoảnh khắc kế tiếp, có tiếng súng vang lên ở bếp tàu. Nhiều tiếng chửi rủa khác vang lên, tiếng cười nhạo báng, tới khi tất cả đã yên lặng tôi lẻn ra ngoài để rồi tìm thấy một lưỡi dao lớn cắm xuống ván gỗ cứng tới gần hai centimét. Vài phút sau, thuyền phó tới quờ quạng tìm dao, nhưng tôi đã bí mật trả nó lại cho Leach vào ngày hôm sau. Nó cười toe khi cầm lấy dao, nụ cười thể hiện lòng biết ơn chân thành hơn vô số những lời ca ngợi thường được kẻ cùng vai vế với tôi thốt ra.

    Không giống những người khác trên con tàu này, hiện tại tôi không dây vào cuộc cãi vã nào và khá được tôn trọng. Đám thợ săn có lẽ không chịu nổi sự hiện diện của tôi, nhưng chẳng ai ghét tôi cả; Smoke và Henderson đang hồi phục dần dưới một cái lều trên boong, đong đưa cả ngày trên võng, thề thốt với tôi rằng tôi còn giỏi hơn cả y sĩ trong bệnh viện, họ sẽ không quên ơn tôi tới tận cuối chuyến hành trình, sau khi đã được trả đủ lương. Họ làm như tôi cần tiền của họ ấy – tôi có thể mua đứt họ cộng thêm túi và đồ đạc, thêm cả con tàu buồm cùng tất cả các thiết bị với số tiền gấp một trăm lần! Nhưng tôi được giao nhiệm vụ chăm sóc vết thương và giúp họ phục hồi, nên tôi làm hết sức mình.

    Larsen Sói lại chịu một cơn đau đầu kinh khủng khác, lần này nó kéo dài hai ngày. Cơn đau hẳn phải kinh khủng lắm, vì ông ta gọi tôi vào và nghe lệnh tôi như một đứa trẻ trong cơn bệnh hoạn. Nhưng dường như tôi chẳng thể làm gì giúp ông ta đỡ hơn. Tuy nhiên, ông ta đã bỏ thuốc lá và rượu theo lời đề nghị của tôi, nhưng lí do tại sao một con quái thú như ông ta lại bị đau đầu khiến tôi cực kì băn khoăn.

    "Là ý trời đấy, đảm bảo với anh," Louis cho là như thế. "Đó là tai ương do những tội ác nảy mầm trong trái tim đen tối của lão, sẽ còn nhiều thứ hơn đang chờ, hoặc là.."

    "Hoặc là sao," tôi lặp lại.

    "Chúa đang ngủ gật và không làm nhiệm vụ của mình, nhưng tôi không nên nói thế."

    Tôi đã nhầm khi cho rằng mình đang được tất cả mọi người yêu quý. Thomas Mugridge vẫn ghét tôi, và gã còn tìm ra lí do mới để ghét tôi hơn. Phải mất một thời gian tôi mới lí giải được, rằng tôi bị ghét là vì may mắn có xuất thân tốt hơn gã – "một quý ông bẩm sinh," theo như lời gã.

    "Vẫn chưa thấy ai chết cả," tôi nói đùa với Louis, khi Smoke và Henderson đang thân thiện nói chuyện với nhau, thực hiện bài tập duỗi gân cốt đầu tiên trên boong.

    Louis quan sát tôi bằng đôi mắt xám sắc sảo và nghiêm nghị lắc đầu. "Thần báo tử đang đến, nương náu trong mọi dây lèo khi rít lên cảnh báo. Tôi đã cảm thấy thế từ lâu rồi, giờ tôi càng cảm thấy rõ rệt hơn như khi điều khiển hệ thống dây trong đêm tối. Bà ta đã ở rất gần, rất gần rồi."

    "Ai sẽ là nạn nhân đầu tiên?" Tôi hỏi.

    "Không phải Louis già béo bệu, đảm bảo với anh," anh ta phá lên cười. "Vì ruột gan tôi đảm bảo với tôi rằng ngày này năm sau, tôi sẽ đang nhìn vào đôi mắt lo lắng của bà mẹ già đang dõi ra biển ngóng trông đứa con trai đang tung hoàng ngoài khơi."

    "Hắn nói gì với mày?" Một lát sau đó, Thomas Mugridge tra hỏi tôi.

    "Anh ta nói, một ngày nào đó sẽ về nhà để gặp mẹ mình." Tôi miễn cưỡng đáp lại.

    "Tao chưa từng có mẹ," gã Cockney bình phẩm như vậy, khi quay sang nhìn tôi bằng đôi mắt vô vọng, vô hồn.

    [1] Scorbut (scurvy) là một bệnh do thiếu hụt vitamin C, biểu hiện dưới những triệu chứng như: Chảy máu nướu răng, chậm lành vết thương, các vết thâm tím rộng trên da (mảng xuất huyết dưới da, dân gian thường gọi là "vết ma cắn"). Thêm vào đó là sự dễ bị nhiễm trùng, dễ bị kích động và trầm cảm cũng là những tiêu chuẩn chẩn đoán.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  5. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 14

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi chợt nhận ra mình chưa bao giờ đánh giá đúng về phụ nữ. Nói tới phụ nữ, mặc dù chẳng phải người đa tình, nhưng tôi phát hiện ra rằng đến tận bây giờ tôi vẫn chưa từng sống ngoài bầu không khí có phụ nữ.

    Mẹ và các chị em gái luôn lo lắng cho tôi, còn tôi thì lúc nào cũng cố trốn tránh họ, vì họ sốt sắng về sức khỏe của tôi đến mức tôi cảm thấy phiền, họ thường xuyên xông vào phòng tôi, căn phòng bừa bộn một cách có trật tự luôn làm tôi tự hào, mặc dù nhìn nó thuận mắt thì họ vẫn biến nó trở nên bề bộn và ít trật tự hơn. Mỗi khi họ xong việc và rời đi thì tôi không thể tìm thấy đồ đạc nữa. Vậy mà bây giờ thì, than ôi! Tôi sẵn lòng chào đón sự hiện diện cùng tiếng sột soạt từ váy áo của họ, cái âm thanh mà tôi đã từng ghét cay ghét đắng! Tôi biết, nếu tôi lại được trở về nhà, tôi sẽ chẳng bao giờ khó chịu với họ nữa. Họ sẽ lo lắng và thăm viếng tôi mỗi buổi sáng, trưa, chiều, tối, họ sẽ phủi bụi, quét tước rồi dọn dẹp căn phòng tôi mỗi phút một lần, còn tôi thì vẫn sẽ chỉ ngả lưng quan sát họ và biết ơn rằng bên cạnh mình còn có mẹ và các chị em gái.

    Điều này lại khiến tôi suy nghĩ. Những người mẹ của hai mươi mấy người đàn ông trên tàu Bóng Ma giờ đang nơi đâu? Tôi cảm thấy việc đàn ông tách biệt hoàn toàn khỏi phụ nữ rồi tự mình khám phá thế giới mới thật thiếu tự nhiên và kém lành mạnh làm sao. Hệ quả không thể tránh khỏi của việc đó là thói hành xử thô lỗ và tàn bạo. Những người đàn ông trạc tuổi tôi có lẽ cũng có chị em gái, vợ hoặc con gái; nếu thế chẳng lẽ họ lại không biết đến sự dịu dàng, tinh tế và lòng cảm thông? Thực ra, chẳng ai trong số họ đã từng kết hôn. Trong nhiều năm như vậy mà không ai có quan hệ với một người phụ nữ tử tế, hay bị khống chế và cứu rỗi tâm hồn nhờ thứ năng lượng tự nhiên không thể khước từ tỏa ra từ tạo vật kì diệu ấy. Cuộc sống của họ không cân bằng. Sự nam tính vốn có phần cục súc đã phát triển quá mức cần thiết. Phần tâm hồni thuộc về bản chất con người đã bị bào mòn.

    Vì cảm thấy tò mò với hướng suy nghĩ mới mẻ này, tối qua tôi đã nói chuyện với Johansen – và đó cũng là những câu chuyện bên lề đầu tiên mà anh ta nói với tôi kể từ khi hành trình bắt đầu. Năm mười tám tuổi, anh ta rời Thụy Điển, giờ anh ta đã ba mươi tám tuổi, trong suốt khoảng thời gian đó anh ta chưa từng về thăm nhà. Vài năm trước, anh ta gặp một người đồng hương tại một căn nhà trọ dành cho thủy thủ ở Chile để được báo cho biết mẹ mình vẫn còn sống. "Có lẽ bây giờ bà ấy đã thành một bà cụ đẹp lão rồi," anh ta nói với ánh nhìn đăm chiêu vào hộp la bàn, đoạn bất thình lình liếc nhìn Harrison, người đang lái tàu chệch mất một độ khỏi hướng đi.

    "Lần cuối cùng anh viết thư cho bà ấy là khi nào?" Anh ta nhẩm tính thật to. "Tám mươi mốt; không phải – là tám mươi hai, ủa? Không – tám mươi ba nhỉ? Đúng rồi, là tám mươi ba. Mười năm trước. Tại một cảng nhỏ ở Madagascar. Tôi đang buôn bán."

    "Anh biết đấy." Anh ta nói tiếp, giống như đang trò chuyện với người mẹ cách xa nửa vòng trái đất, "mỗi năm tôi đều về nhà. Vậy thì viết thư để làm gì? Chỉ là một năm thôi mà. Năm nào cũng có chuyện xảy ra nên tôi không đi được. Nhưng giờ tôi đã là thuyền phó, khi tôi được trả lương ở Frisco, chắc được khoảng năm trăm đô la, tôi sẽ mua một chiếc thuyền buồm buôn ra biển, vòng quanh Horn tới Liverpool, tôi sẽ kiếm được nhiều tiền hơn; sau đó tôi sẽ về nhà. Lúc đó bà ấy sẽ không phải vất vả nữa."

    "Nhưng bà ấy có làm việc không? Bây giờ ấy? Bà ấy bao nhiêu tuổi rồi?"

    "Khoảng bảy mươi tuổi," anh ta đáp. Và rồi anh ta cất giọng khoe khoang: "Tại đất nước của chúng tôi, chúng tôi làm việc từ khi mới sinh ra cho đến chết. Đó là lí do vì sao chúng tôi sống rất thọ. Tôi sẽ sống đến một trăm tuổi." Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên cuộc trò chuyện này. Đó là những lời cuối cùng mà tôi nghe anh ta nói. Và có thể đó cũng là những lời cuối cùng của chính anh ta.

    Sau khi xuống cabin để đi ngủ, tôi lại cảm thấy đêm nay ở dưới này thì quá ngột ngạt. Hôm đó là một đêm yên tĩnh. Chúng tôi đã ra khỏi luồng gió Tín phong, tàu Bóng Ma thì đang tiến về trước với tốc độ một dặm trong một giờ đồng hồ. Vậy nên tôi kẹp chăn và gối dưới cánh tay rồi sải bước lên boong tàu.

    Khi tôi bước qua Harrison và hộp la bàn trên đỉnh cabin, tôi nhận ra cậu ta đã để tàu chệch mất ba độ. Tôi tưởng rằng cậu nhóc ngủ gật và không muốn em bị khiển trách hoặc gặp chuyện gì tệ hơn nên tôi cất tiếng gọi Harrison. Nhưng hóa ra cậu nhóc không ngủ. Cậu ta đang mở to mắt nhìn chăm chăm về phía trước. Cậu ta có vẻ rất căng thẳng, đến nỗi không thể trả lời tôi.

    "Có chuyện gì vậy?" Tôi hỏi. "Em ốm sao?" Harrison lắc đầu, thở dài như đã tỉnh ra, rồi kiềm hơi thở lại.

    "Em nên chỉnh lại cho đúng hướng đi," tôi mắng.

    Em ấy quay vài nấc bánh lái trong khi tôi đứng nhìn kim la bàn chầm chậm chuyển sang Bắc–Tây Bắc rồi đứng im sau vài cú đung đưa nhẹ.

    Tôi nắm lấy ga giường, đang lúc chuẩn bị trải ra thì có một chuyển động thu hút tầm mắt tôi, khiến tôi nhìn về phía sau lan can. Một bàn tay gân guốc nhỏ nước thành từng giọt đang nắm chặt lấy lan can. Sau đó, bàn tay thứ hai vươn ra từ bóng tối, đặt song song bên cạnh bàn tay thứ nhất. Tôi quan sát và bị mê hoặc. Tôi đang chứng kiến sự xuất hiện của vị khách đến từ màn đêm thăm thẳm nào đây? Dù tạo vật đó là gì đi nữa, nó đang men theo dây đo tốc độ leo lên tàu. Tôi nhìn thấy một cái đầu với mái tóc thẳng nhưng ướt sũng, sau đó ngoi lên cùng với đôi mắt và khuôn mặt không thể lẫn đi đâu được của Larsen Sói. Má phải ông đỏ lên vì máu chảy từ vết thương trên đầu.

    Ông ta nhanh chóng nhảy lên tàu, đứng dậy rồi lướt nhìn người ở bánh lái, dường như để xác nhận lại danh tính cũng như biết chắc rằng người đó không đáng để ông phải dè chừng. Nước biển tuôn ra từ cơ thể ông.

    "Này Hump," ông thấp giọng nói. "Thuyền phó đâu?"

    Tôi lắc đầu.

    "Johansen!" Ông ta nhẹ nhàng gọi, "Johansen!"

    "Anh ta đâu rồi?" Ông ta hỏi Harrison.

    Anh bạn trẻ dường như đã khôi phục thần trí và trả lời vừa đủ rõ:

    "Tôi không biết, thưa ông. Khi nãy tôi vừa nhìn thấy anh ấy đi lên trên."

    "Tao cũng đi lên trên đấy, nhưng tao không quay về bằng con đường tao dùng để đi lên. Mày có thể giải thích được không nào?"

    "Có lẽ ông đã ngã xuống biển, thưa ông."

    "Tôi có nên tìm anh ta trong khoang lái không, thưa ông?" Tôi hỏi.

    Larsen Sói lắc đầu.

    "Anh sẽ không tìm thấy anh ta đâu Hump. Nhưng có việc anh giúp được đấy. Đi thôi. Quên ga gối của anh và đặt nó vào chỗ cũ đi." Tôi bám gót ông ta. Con tàu hoàn toàn yên ắng.

    "Đám thợ săn chết tiệt!" Ông ta nói. "Vừa béo vừa lười đến mức không gác nổi bốn tiếng đồng hồ."

    Chúng tôi phát hiện ba thủy thủ đang ngủ trên đầu khoang mũi. Ông ta lật người họ lại rồi quan sát khuôn mặt họ. Họ là người gác boong tàu, nhưng có một quy tắc ngầm rằng khi thời tiết tốt thì đội gác tàu được ngủ, còn chỉ huy, người lái tàu và đội giám sát thì không.

    "Ai đang canh gác?" Ông hỏi.

    "Là tôi, thưa ông," Holyoak run run trả lời, anh ta là một thủy thủ vùng nước sâu. "Tôi chỉ mới chợp mắt được một phút thôi, thưa ông. Tôi thành thật xin lỗi, thưa ông. Sẽ không có lần sau."

    "Anh có nghe hay nhìn thấy thứ gì trên boong tàu không?"

    "Không thưa, ông; tôi–"

    Nhưng Larsen Sói khịt mũi khinh bỉ rồi quay đi bỏ mặc người thủy thủ ngạc nhiên dụi mắt vì được tha quá dễ dàng.

    "Từ bây giờ hãy đi nhẹ thôi," Larsen Sói vừa thì thầm cảnh báo, vừa di chuyển cơ thể vào lỗ thông khoang mũi rồi chuẩn bị đi xuống dưới.

    Tôi đi theo mà lòng run rẩy từng hồi. Tôi chẳng biết chút gì về những chuyện sắp xảy ra hay những chuyện đã xảy ra. Nhưng máu thì đã đổ, còn Larsen Sói lại chẳng hề có ý định sang mạn tàu với phần da đầu bị tách ra. Bên cạnh đó, Johansen đã mất tích.

    Đây là lần đầu tiên tôi đi xuống khoang mũi, tôi sẽ không bao giờ quên được ấn tượng của mình đối với nó kể từ khi đặt chân xuống bậc thang cuối cùng. Khoang mũi được xây dựng trực tiếp ở mắt của thuyền buồm dọc, có hình tam giác, ba cạnh tam giác đặt tổng cộng mười hai chiếc giường ngủ hai tầng. Khoang không lớn hơn phòng xép ở đường Grub bao nhiêu, mặc dù vậy, mười hai người đàn ông bị nhồi nhét trong không gian này để ăn ngủ và tiến hành mọi sinh hoạt. Phòng ngủ ở nhà của tôi cũng chẳng to, nhưng nó có thể chứa đến mười hai khoang mũi tương tự, nếu tính cả chiều cao mái nhà thì ít nhất phải gấp hai mươi lần nơi này.

    Khoang bốc mùi vừa chua lại vừa mốc, dưới ánh sáng lờ mờ từ ngọn đèn biển lắc lư, tôi nhìn thấy mỗi ngóc ngách của bức tường treo đủ loại ủng đi biển, vải dầu, quần áo sạch lẫn quần áo bẩn. Chúng đung đưa qua lại theo mỗi nhịp tàu tạo nên thứ âm thanh sột soạt như tiếng cây cối chà xát vào mái hoặc tường nhà. Một cái ủng từ đâu đó đập mạnh vào tường theo nhịp điệu bất định; trái ngược với màn đêm yên tĩnh trên biển, nơi đây điệp khúc của tiếng gỗ và vách ngăn kêu cót két cùng những tiếng ồn thăm thẳm dưới sàn kêu vang không ngừng nghỉ.

    Những người đang ngủ chẳng hề lấy đó làm phiền. Tổng cộng có tám người – hai người gác bên dưới, không khí đặc quánh lại vì hơi ấm và mùi của họ, lẫn trong tiếng ngáy, tiếng thở dài, tiếng rên rỉ nửa vời – biểu hiện đặc trưng của loài động vật mang danh con người. Tất cả bọn họ đều đang ngủ ư? Hay là họ đang vờ ngủ? Đây rõ ràng là cuộc truy lùng của Larsen Sói – tìm ra những người trông như đang ngủ, những người không ngủ và những người gần đây chưa ngủ. Cách ông ta thực hiện việc truy lùng khiến tôi nhớ lại một câu chuyện của Boccaccio[1] .

    Ông ta nhấc đèn biển khỏi giá treo đang lắc lư rồi đưa nó cho tôi. Ông bắt đầu từ những chiếc giường đầu tiên ở mạn phải. Ở giường trên là một thủy thủ người Kanaka đẹp trai được bạn bè gọi là Oofty–Oofty. Anh ta đang nằm ngửa, hơi thở bình ổn như một người phụ nữ. Anh gối tay dưới đầu, đặt cánh tay còn lại trên chăn. Larsen Sói đặt ngón cái và ngón trỏ lên cổ tay để đo mạch. Ngay lúc đó, anh thủy thủ người Kanaka bừng tỉnh. Anh ta thức dậy cũng nhẹ nhàng như khi ngủ. Cơ thể anh ta không hề chuyển động. Chỉ có đôi mắt là dịch chuyển. Anh ta trợn tròn đôi mắt to màu đen nhìn khuôn mặt chúng tôi. Larsen Sói đặt ngón tay lên môi, ra dấu bảo anh ta im lặng, thế là anh ta nhắm mắt lại.

    Người nằm tầng dưới là Louis với cơ thể ục ịch, ấm áp và đầy mồ hôi. Khi bị Larsen Sói nắm cổ tay, anh ta khó chịu trở mình, cong người lên bằng cách dồn trọng lượng thân thể lên vai và gót bàn chân trong giây lát. Môi anh ta động đậy rồi thốt ra lời đầy bí ẩn:

    "Một đồng shilling trị giá một phần tư xu; hãy giữ đèn của anh với giá ba xu, nếu không chủ quán sẽ bán cho anh với giá sáu xu." Sau đó, anh ta xoay người, thở dài nặng nề rồi nói: "Sáu xu là một đồng tanner, shilling là đồng shilling, nhưng tôi không biết đồng pony là bao nhiêu." Hài lòng giấc ngủ trung thực của anh thủy thủ người Kanaka, Larsen Sói bước đến hai giường kế tiếp ở mạn phải, dưới ánh sáng của ngọn đèn biển, nơi Leach và Johnson đang nằm ở giường trên và giường dưới.

    Larsen Sói cúi người xuống giường dưới để xem mạch Johnson, còn tôi đứng thẳng, cầm đèn và nhìn thấy Leach lén lút ngẩng đầu lên rồi ngó qua mép giường để quan sát xem chuyện gì đang xảy ra. Có lẽ cậu ta đã đoán được thủ thuật của Larsen Sói và biết chắc mình sẽ bị phát hiện, cây đèn đột ngột văng ra khỏi bàn tay tôi và khoang mũi chìm vào bóng tối. Hẳn ngay khoảnh khắc đó, cậu ta đã nhảy bổ xuống người Larsen Sói.

    Tiếng đầu tiên phát ra là thứ âm thanh khi một con bò đực và một con sói đụng độ. Tôi nghe Larsen Sói rống lên đầy phẫn nộ, còn Leach thì phát ra tiếng gầm gừ vừa tuyệt vọng vừa đáng sợ. Johnson lập tức lao vào hỗ trợ cậu ta, điều đó cho thấy vẻ hèn hạ vài ngày trước của anh ta trên boong tàu chỉ là một trò lừa bịp có kế hoạch.

    Quá sợ hãi vì trận chiến trong bóng tối này, tôi run rẩy tựa vào thang mà không leo lên nổi. Tôi lại thấy ruột gan cồn cào do phải chứng kiến cảnh tượng bạo lực. Trong hoàn cảnh này, dù tôi không nhìn thấy nhưng vẫn nghe thấy tác động của những đòn đánh – âm thanh nghiền ép phát ra từ hai bắp thịt đập mạnh vào nhau. Sau đó là tiếng va chạm của những cơ thể quấn lấy nhau, tiếng thở nặng nề và tiếng hổn hển vừa ngắn vừa gấp gáp từ những cơn đau bất chợt.

    Chắc chắn còn có nhiều đồng bọn khác cùng thực hiện âm mưu sát hại thuyền trưởng và thuyền phó, vì tôi nghe ra được nhiều người đã nhanh chóng chạy đến hỗ trợ Leach và Johnson.

    "Ai đó lấy dao đi!" Leach hét lên.

    "Nện vào đầu ông ta! Nghiền nát não ông ta ra!" Johnson gào lên. Sau tiếng gầm đầu tiên, Larsen Sói không còn phát ra âm thanh gì nữa. Ông chiến đấu dứt khoát và lặng lẽ để bảo toàn tính mạng. Lúc đầu, ông ta đã ngã xuống và không thể đứng lên, dù cho ông ta vô cùng cường tráng thì tôi vẫn cảm thấy ông không còn hi vọng nào nữa.

    Sức mạnh của họ gây ra ấn tượng mạnh mẽ trong tôi, vì cơ thể lành lặn của tôi đã bị thân thể bầm dập của họ hất ngã. Trong tình trạng hỗn loạn, tôi cố gắng bò vào một chiếc giường thấp để thoát thân.

    "Bắt được hai tay rồi! Bắt được rồi! Bắt được rồi!" Tôi nghe Leach hét lên.

    "Ai?" những người đang ngủ hỏi lại.

    "Gã thuyền phó khốn khiếp chứ ai!" Leach hổn hển trả lời. Từ ngữ nghèn nghẹt buột ra khỏi miệng cậu ta.

    Mọi người hân hoan hò reo, còn Larsen Sói thì bị bảy người đàn ông cường tráng đè lên người, tôi tin chắc chỉ riêng Louis là không tham gia vào vụ này. Khoang mũi giờ đây như một tổ ong giận dữ.

    "Chuyện gì vậy?" Tôi nghe Latimer hét xuống qua lỗ thông, anh ta quá thận trọng để bước xuống chốn địa ngục này.

    "Không ai lấy dao à?" Leach nài nỉ sau khoảng lặng đầu tiên.

    Số lượng người tham gia tấn công tự mâu thuẫn với nhau. Họ tự cản trở những nỗ lực của chính họ, còn Larsen Sói chỉ nỗ lực vì một mục đích duy nhất. Mục đích đó là chiến đấu để leo được lên thang. Trong không gian tối om, tôi vẫn lắng nghe bước đi của ông ta. Ngoại trừ những gã khổng lồ, không một người đàn ông nào có thể làm được những điều ông ta đang làm, gồng lên nhoài người chạm tới chân thang. Từng nấc một, ông tận dụng sức mạnh cánh tay để lôi mình lên, mặc kệ cả đám người đang vật vã kéo ông xuống. Rồi lại từng nấc một, bàn chân và bàn tay ông vẫy vùng leo lên thang.

    Đó là điều cuối cùng mà tôi nhìn thấy. Cuối cùng Latimer đã bỏ đi tìm đèn, soi nó vào lỗ thông. Larsen Sói đã gần lên được phía trên dù tôi không nhìn thấy ông. Tôi chỉ nhìn thấy rất nhiều người đang bám lấy ông. Đám đông ngoằn nghèo như một con nhện khổng lồ nhiều chân đung đưa tới lui theo nhịp con tàu. Từng nấc một, giữa những khoảng thời gian kéo co căng thẳng, đám đông bị kéo lên. Có lúc họ lảo đảo suýt ngã ngửa, nhưng rồi họ lại nắm chặt và tiếp tục.

    "Ai đó?" Latimer hô to.

    "Larsen," tôi nghe một giọng nói nghẹt trong đám đông.

    Latimer vươn bàn tay trống không xuống. Tôi thấy một bàn tay khác giơ lên nắm chặt tay anh ta.

    Latimer kéo lên, những chuyển động tiếp theo diễn ra rất nhanh. Larsen Sói vươn bàn tay kia lên để bám lấy thành lỗ thông. Đám đông vùng ra khỏi chiếc thang, những người này vẫn cố níu lấy kẻ thù đã trốn thoát. Họ bị thành của lỗ thông gạt lại rồi rơi xuống, bị chính đôi chân đang quẫy đạp mạnh mẽ ngăn lại. Leach là người cuối cùng rơi xuống từ lỗ thông, cậu ta tiếp đất bằng lưng, đầu và vai va đập mạnh vào những thân người ngổn ngang. Larsen Sói và chiếc đèn lồng biến mất, còn chúng tôi thì bị bỏ lại trong bóng tối.

    [1] Giovanni Boccaccio (1313 – 1357) là một nhà văn, nhà thơ người Ý. Boccaccio là một nhà nhân văn học thời Phục Hưng và là một nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm như Những người phụ nữ nổi tiếng (De mulieribus claris, 1374), Mười ngày (Decamerone, viết xong năm 1353) và các tập thơ bằng tiếng Ý. Các nhân vật trong truyện của Boccaccio thường là những nhân vật nổi tiếng trong thời đại của họ, đồng thời cũng là những người thực tế, tâm linh, và là những con người thông minh.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  6. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 15

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đám người họ lê lết ở dưới chân thang với hàng tá những lời nguyền rủa và rên rỉ.

    "Đứa nào thắp đèn lên đi; ngón tay cái tao trật khớp rồi," một người nói, đó là Parsons, một người đàn ông trầm tính, da ngăm đen, lái thuyền cùng tổ thuyền của Standish, có Harrison là tay chèo.

    "Mày sẽ tìm thấy nó ở chỗ cọc neo." Leach vừa nói vừa ngồi xuống cạnh giường nơi mà tôi đang trốn.

    Sau trận đấu, ai cũng bầm dập và phải đi tập tễnh. Cuối cùng cái đèn biển cũng được thắp sáng trở lại, tuy hơi mờ và khói. Trong ánh sáng mờ ảo, những người chân đất đi lại, băng bó vết thương và xoa bóp những chỗ thâm tím. Oofty–Oofty chỉnh ngón tay cái của Parsons, bẻ mạnh và nghe rắc một cái, nó đã vào đúng vị trí. Tôi để ý thấy khi người đàn ông Kanaka nắn ngón tay cho Kelly, khớp ngón tay của anh ta cũng bị rách hở đến tận xương. Anh ta cười để lộ hàm răng trắng bóng và giải thích rằng, vết thương này bị lúc đấm tung quai hàm Larsen.

    "Thì ra là mày, thằng mọi đen?" Kelly hùng hổ quát lên, gã là một người Mĩ gốc Ailen, tay chèo thuyền cho Kerfoot, đây là chuyến đi săn hải cẩu đầu tiên của gã.

    Vừa hét lên, gã vừa xáp cái bản mặt dữ tợn tới sát Oofty–Oofty.

    Người đàn ông Kanaka giật lui về giường ngủ, vừa bước lùi vừa kịp rút ra một con dao dài.

    "Ê, bình tĩnh nào; chúng mày làm phát tao mệt," Leach xen vào. Dù trẻ tuổi và ít kinh nghiệm, nhưng rõ ràng nó là đứa có tiếng nói nhất ở khoang mũi. "Tao cảnh cáo, mày đấy Kelly. Mày để Oofty yên đi. Trong bóng tối thì nó làm sao biết được đó là mày?" Kelly hạ giọng lầu bầu, còn anh chàng Kanaka khẽ cười để lộ hàm răng trắng và nụ cười hàm ơn. Anh ta quả là một tạo vật tuyệt đẹp, những đường nét hài hòa như con gái, đôi mắt to mơ màng và hiền lành trái ngược với lời đồn về bản tính hay gây lộn đánh nhau của mình.

    "Làm thế nào mà nào ông ta trốn được?" Johnson nói. Anh ta ngồi trên thành giường, cả cơ thể lộ rõ vẻ chán nản và tuyệt vọng. Anh ta vẫn còn thở phì phò vì cuộc vật lộn lúc nãy. Chiếc áo sơ mi anh mặc đã bị rách tả tơi trong lúc đánh nhau.

    "Bởi vì ông ta là một con quỷ, tôi đã bảo anh rồi," Leach trả lời, nó đứng đó với nỗi giận dữ và thất vọng tột cùng tụ lại thành những giọt nước nơi khóe mắt.

    "Và không thằng nào lấy dao!" Nó rên rỉ không ngừng.

    Nhưng những thủy thủ còn lại đang sợ hãi hậu quả họ sẽ phải chịu, không ai để ý tới nó hết..

    "Làm sao mà ông ta biết ai với ai được?" Kelly ngờ vực, rồi ngay lập tức liếc quanh đe dọa – "trừ khi có một đứa chim lợn."

    "Ông ta sẽ biết ngay khi nhìn thấy bọn mình," Parsons trả lời. "Chỉ cần liếc một cái là đủ hiểu."

    "Nói với ông ta rằng do boong tàu trơn trượt nên một chiếc răng của mày bị bật khỏi ra khỏi hàm," Louis nhăn nhở. Anh ta là người duy nhất không ra khỏi giường, và đang cảm thấy hoan hỉ bởi vì không có những vết bầm chứng tỏ bản thân đã tham gia vào trận đụng độ trong đêm. "Cứ đợi đến khi ông ta nhìn thấy miệng mày vào sáng mai xem – cả lũ đi đời luôn," anh ta cười khoái chí.

    "Chúng ta sẽ nói rằng chúng ta nghĩ đó là tay thuyền phó," một tên nói. Tên khác xen vào: "Tao biết tao phải nói gì – rằng tao nghe thấy động, tao nhảy ra khỏi giường, lãnh một cú đánh trời giáng dập quai hàm, rồi tự té lăn quèo. Tao chẳng biết ai đã đấm tao giữa đêm được."

    "Thế nên không phải tao đánh mày đâu, hiển nhiên rồi," Kelly thêm vào, mặt anh ta tươi tỉnh hẳn lên. Leach và Johnson không tham gia vào cuộc thảo luận, rõ ràng đồng bọn của họ đã coi hai người xui xẻo nhất này như đã chết rồi. Leach hiểu nỗi sợ của chúng và có hơi thất vọng. Sau hồi lâu nó nổi nóng:

    "Chúng mày làm tao mắc mệt! Thật là những ý tưởng rác rưởi! Nếu chúng mày bớt mồm lại và làm gì đó có ý nghĩa một chút, ông ta sẽ xong đời rồi. Tại sao không một đứa nào đưa tao con dao khi tao cần? Chúng mày làm tao phát ốm! Chúng mày rít lên như bị ông ta chạm tới là giết vậy. Chúng mày thừa biết ông ta sẽ không làm thế, bởi không có đủ người. Không có thuyền nào hay bờ biển nào gần đây, và ông ta cần chúng mày làm việc, ổng cần chúng mày. Ai sẽ là người kéo, căng buồm, lèo lái con tàu nếu ông ta mất chúng mày? Chỉ có tao và Johnson phải giơ đầu chịu báng thôi. Vào giường đi, che mặt lại; tao muốn ngủ."

    "Được rồi, ổn rồi mà," Parsons cất giọng. "Có thể ông ta sẽ không làm gì chúng ta, nhưng nhớ kỹ lời tao, từ giờ trở đi ông ta sẽ biến con tàu này thành ngục băng.."

    Tất cả những gì nghe được khiến tôi sợ hãi từ đầu chí cuối. Điều gì sẽ xảy ra khi những người này nhận ra sự hiện diện của tôi? Tôi không thể vật lộn tìm đường thoát thân như Larsen Sói được. Chính lúc này, Latimer gọi vọng xuống lỗ thông hơi:

    "Này Hump, Lão Già gọi mày."

    "Nó không có ở đây!" Parsons đáp lại.

    "Không, tôi đây," tôi đáp rồi trượt ra khỏi giường và cố gắng hết sức để giữ cho giọng nói của mình đủ dõng dạc, tự tin. Những tên thủy thủ nhìn tôi kinh ngạc. Nỗi lo sợ in đậm trên mặt họ, và vẻ nham hiểm sinh ra từ nỗi sợ đó.

    "Tôi đến đây!" Tôi hét lớn với Latimer.

    "Không, mày không đi đâu cả!" Kelly hét lên, bước lên chắn giữa tôi và cái thang, tay phải anh ta co lại như định bóp cổ.

    "Thằng lẻo mép! Tao sẽ bịt miệng mày!"

    "Để anh ta đi đi!" Leach ra lệnh.

    "Không đời nào!" Anh ta giận dữ đáp trả.

    Leach không hề đổi tư thế bên mép giường. "Tao bảo, để anh ta đi," nó nhắc lại, nhưng lần này giọng điệu đanh thép và cứng rắn hơn.

    Tên người Ailen có vẻ dao động. Tôi bước thẳng về phía hắn, và hắn đứng sang một bên. Khi tới được chân thang, tôi quay lại nhìn những gương mặt thú tính và hiểm ác đang nhìn xuyên qua tôi vào khung cảnh tranh tối tranh sáng bên ngoài. Một sự thương cảm sâu sắc đột nhiên trỗi dậy trong tôi.

    "Tôi không nghe và không thấy gì hết, tin tôi đi," tôi nói nhỏ.

    "Nghe tao đi, anh ta ổn mà," tôi có thể nghe Leach nói khi đang đi lên. "Anh ta cũng không thích Lão già như tao với chúng mày thôi."

    Tôi thấy Larsen Sói đang đợi mình trong cabin, mình trần và đầy máu. Ông ta chào đón tôi bằng nụ cười kì dị của mình.

    "Nào, bắt tay vào việc đi, bác sĩ. Các dấu hiệu cho thấy chuyến đi này sẽ còn dài đấy. Tôi không biết con tàu Bóng Ma sẽ thế nào nếu không có anh, và để trân quý tấm lòng cao thượng đó, tôi sẽ nói với anh rằng ông chủ của con tàu vô cùng biết ơn." Tôi biết cách sử dụng hộp thuốc sơ sài mà tàu Bóng Ma mang theo, và trong lúc tôi đun nước bằng bếp lò ở cabin, chuẩn bị dụng cụ để khâu vết thương, ông ta đi xung quanh, cười và bắt chuyện, xem xét vết thương một cách thận trọng. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy ông ta ở trần, vóc dáng vĩ đại của cơ thể ấy làm tôi ngộp thở.

    Tôi phải thừa nhận tôi bị mê hoặc bởi những đường nét hoàn hảo của Larsen Sói, bởi những gì tôi coi là tuyệt mĩ. Tôi đã quan sát những người đàn ông trong khoang mũi. Oofty–Oofty là người duy nhất có nét đẹp hài hòa, nhưng trong chừng mực nhất định, những đường nét đó trông có vẻ nữ tính.

    Nhưng Larsen Sói có dáng vẻ của một người đàn ông đích thực, nam tính, hoàn hảo như một vị thần. Khi ông ta di chuyển hoặc giơ tay, những múi cơ bắp lớn nổi lên và di chuyển dưới làn da láng bóng. Tôi đã quên nói rằng làn da sạm màu đồng chỉ có trên mặt ông ta. Cơ thể ông, nhờ vào dòng máu Bắc Âu, trắng như những người phụ nữ trắng nhất. Tôi nhớ lúc ông ta giơ tay lên để kiểm tra vết thương trên đầu, những bắp thịt di chuyển như một sinh vật sống dưới lớp vỏ da nhợt nhạt.

    Ông ta để ý thấy tôi đang nhìn chằm chằm vào mình.

    "Chúa đã ban phước cho ông," tôi nói.

    "Thế ư?" Ông ta trả lời. "Tôi cũng thường nghĩ như vậy, và tự hỏi tại sao."

    "Mục đích.." Tôi khơi mào.

    "Lợi ích," ông ta ngắt lời. "Cơ thể này được tạo để sử dụng. Những cơ bắp này được tạo ra để bóp nát, cấu xé, tiêu diệt những sinh vật sống ngăn tôi và cuộc sống. Thử chạm vào tôi xem," ông ta ra lệnh. Cơ bắp ông ta cứng như sắt. Và tôi cũng để ý thấy cơ thể ông ta vô thức co lại căng thẳng và cảnh giác, những cơ bắp uyển chuyển cuộn lại thành hình xung quanh hông, chạy dọc tấm lưng, vắt qua vai; khi cánh tay hơi nhấc lên, những thớ cơ co lại, ngón tay cong lại khiến cho bàn tay trông như móng vuốt; cả ánh mắt cũng thay đổi, nhìn vào chúng, tôi thấy sự cẩn trọng và toan tính, và không mang suy nghĩ gì khác ngoài trận chiến.

    "Ổn định, cân bằng," ông ta nói, thư giãn ngay lập tức, để cơ thể trở về trạng thái nghỉ ngơi. "Bàn chân bám chắc vào mặt sàn, cẳng chân để đứng vững, trong khi cánh tay và bàn tay, răng và móng, và tôi đấu tranh để giết hay không bị giết. Mục đích ư? Là vì lợi ích."

    Tôi không phản bác ông ta, tôi đã thấy cấu tạo của những quái vật chiến đấu nguyên sơ nhất, tôi cũng đã có ấn tượng rất mạnh với động cơ của tàu chiến hạm hoặc của con tàu chở hàng Atlantic.

    Tôi thấy ngạc nhiên vì chính mình, sau cuộc chiến kịch liệt ở khoang mũi, vết thương của thuyền trưởng khá sâu, nhưng tôi hãnh diện vì đã khâu vết thương lại rất khéo léo. Ngoại trừ hai vết thương nghiêm trọng, ông ta chỉ bị bầm tím và xây xát.

    Đòn đánh đêm qua đã khiến da đầu ông ta bị rách rộng ra vài phân. Dưới sự chỉ dẫn của ông, tôi đã làm sạch và khâu vết thương lại.

    "Nhân tiện, Hump, như tôi đã nhận xét, anh là một người đàn ông khéo léo," Larsen Sói nói khi tôi đã xong việc. "Anh biết đó, chúng ta thiếu một viên thuyền phó. Từ giờ trở đi, anh sẽ được nhận vào vị trí đó, nhận bảy mươi lăm đô la mỗi tháng, và được cả con tàu gọi là ông Van Weyden."

    "Tôi.. tôi không hiểu cách điều hướng tàu, ông biết mà," tôi há hốc miệng.

    "Chẳng cần phải hiểu."

    "Tôi thực sự không quan tâm đến việc được thăng chức," tôi phản đối. "Tôi thấy cuộc sống lênh đênh như hiện tại là đủ rồi. Tôi không có kinh nghiệm. Ông biết đấy, kẻ tầm thường cũng có thành quả của mình."

    Ông ta mỉm cười như thể ván đã đóng thuyền.

    "Tôi sẽ không làm thuyền phó trên con tàu địa ngục này!" Tôi thét phản đối.

    Tôi thấy khuôn mặt của ông ta đanh lại và vẻ tàn độc xuất hiện trong đôi mắt. Ông ta bước đến cánh cửa phòng mình, nói:

    "Vậy, bây giờ, chúc ngủ ngon, anh Van Weyden."

    "Chúc ngủ ngon, ông Larsen," tôi yếu ớt trả lời.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  7. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 16

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi cho rằng vị trí thuyền phó chẳng có gì thú vị ngoài việc không cần phải rửa chiếc đĩa nào nữa.

    Tôi không biết gì về những nhiệm vụ đơn giản nhất của một người thuyền phó, nếu không nhờ cánh thủy thủy thương hại, tôi đã làm hỏng hết rồi. Tôi không biết gì mấy về những sợi dây lèo và mối buộc, về cách chỉnh và giăng buồm; may mà những người thủy thủ đã nỗ lực chỉ bảo tôi. Louis chứng minh anh ta là một giáo viên rất cừ, và may mắn hơn nữa là tôi có ít rắc rối với những người dưới quyền.

    Những gã thợ săn thì khác hẳn. Họ thấu hiểu biển cả ở những mức độ khác nhau, nên họ coi tôi như một trò đùa. Thực tế thì, tôi cũng coi đây là một trò đùa, dân đất liền như tôi lại nắm vị trí thuyền phó; nhưng mà bị người khác lấy làm trò đùa là một vấn đề khác. Tôi không đòi hỏi gì, nhưng Larsen Sói yêu cầu tôi phải được nhận đầy đủ nghi thức trang trọng nhất – hơn xa những gì Johansen tội nghiệp từng nhận được – sau vài câu đe dọa, chửi bới và càu nhàu, ông ta đã bắt đám thợ săn đến đúng giờ. Từ giờ trở đi, tôi sẽ được cả tàu gọi là "Ông Van Weyden", chỉ Larsen Sói mới gọi tôi là "Hump". Thật buồn cười. Nếu gió đẩy hướng tàu chệch vài độ khi chúng tôi đang ăn tối, thì khi tôi rời khỏi bàn, Larsen sẽ nói, "Này Van Weyden, anh sẽ vui lòng xoay buồm sang hướng mạn trái chứ?" Thế là tôi sẽ đi lên boong tàu, ra hiệu Louis lại gần, và học hỏi từ anh ta những gì cần phải làm. Sau một vài phút, khi đã tiêu hóa trọn vẹn hướng dẫn và nắm vững trình tự, tôi sẽ đưa ra mệnh lệnh. Tôi nhớ rõ trong một kỉ niệm kiểu này, Larsen Sói đã xuất hiện khi tôi bắt đầu ra lệnh, ông ta hút thuốc lá và lặng lẽ quan sát cho đến khi mọi thứ được thực hiện xong, sau đó tiến về phía tôi dọc theo đuôi tàu mạn hứng gió.

    "Hump à," ông ta nói, – "Tha thứ cho tôi, Van Weyden, – tôi xin chúc mừng anh. Tôi nghĩ bây giờ anh đã có thể trả đôi chân của cha anh về dưới mộ, bởi vì anh trưởng thành rồi. Anh đã khám phá ra con đường riêng và học cách tự đứng trên đôi chân của mình. Chút thủ thuật với dây thừng, cách lái buồm, kinh nghiệm về những cơn bão và những điều tương tự đã đủ để khi kết thúc hành trình này anh có thể lên bất kì chiếc thuyền buồm nào."

    Trong khoảng thời gian này, giữa cái chết của Johansen và trước khi thuyền tới được bãi săn hải cẩu, tôi đã trải qua những giờ phút dễ chịu nhất trên tàu Bóng Ma. Larsen Sói rất chu đáo, đám thủy thủ giúp đỡ tôi, và tôi không còn phải gặp tên Thomas Mugridge đáng ghét nữa. Tôi có thể thoải mái nói rằng, tôi thầm tự hào về những ngày đó. Hoàn cảnh ấy nghe thật hoang đường – một kẻ không quen sóng gió lại nắm chức phó chỉ huy trên biển – thế mà tôi vẫn làm khá tốt; trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, tôi rất tự hào về bản thân mình, tôi dần yêu thích cơn lắc lư chồm sóng của con tàu dưới chân khi nó lao về phía bắc và phía tây, vượt qua vùng biển nhiệt đới, tới hòn đảo nơi chúng tôi có thể đổ đầy những thùng nước ngọt.

    Nhưng hạnh phúc của tôi không đơn thuần. Khoảng thời gian ít đau khổ hơn này nổi bật lên giữa quá khứ vô cùng khổ cực và tương lai cũng tối tăm không kém. Tàu Bóng Ma với cánh thủy thủ vẫn là một con tàu địa ngục tồi tệ nhất. Họ không bao giờ có thời gian nghỉ ngơi hay yên bình. Để đáp trả âm mưu lấy mạng ông ta và trận đòn ở khoang mũi, Larsen Sói đã thưởng cho họ sự khốn khổ mà ông ta dành hết sáng, trưa, chiều, tối tạo nên một cuộc sống không bằng chết với đám thủy thủ.

    Ông ta hiểu rõ ảnh hưởng tâm lí học nảy sinh từ những điều vặt vãnh, ông bắt thủy thủ đoàn làm những việc vặt vãnh đó đến mức gần như phát điên. Tôi thấy Harrison bị gọi ra từ chỗ ngủ để vứt một cái chổi sơn bỏ không đúng chỗ, và hai tên người gác ở dưới cũng bị đánh thức từ giấc ngủ mệt mỏi để đi cùng với cậu ta và chứng kiến cậu ta làm điều đó.

    Toàn những chuyện rất rất nhỏ, nhưng được nhân lên hàng ngàn lần qua một bộ óc thiên tài, nên trạng thái tinh thần của những người đàn ông trong khoang mũi suy sụp là điều có thể hiểu được.

    Tất nhiên, rất nhiều người càu nhàu, một số cuộc nổi loạn nhỏ liên tục xảy ra. Họ đánh nhau, luôn có hai hoặc ba người đàn ông phải tự chăm sóc những vết thương gây nên bởi bàn tay con quát vật là chủ nhân của họ. Phối hợp hành động là không thể vì kho vũ khí được cất giữ trong buồng lái và cabin. Leach và Johnson là hai nạn nhân được tính khí ác nghiệt của Larsen Sói đặc biệt chiếu cố. Cái nhìn u sầu sâu thẳm trên khuôn mặt và đôi mắt Johnson làm cho trái tim tôi như nhỏ máu.

    Leach thì khác. Con quái thú của lòng hiếu chiến lồng lộn bên trong nó.

    Dường như nó luôn bị kiểm soát bởi một cơn giận dữ vô độ choán hết thời gian để đau buồn. Môi nó co lại nhăn nhó như sinh ra đã thế, và chỉ cần nhìn thấy Larsen Sói thì đôi môi ấy buột ra âm thanh kinh khủng và đe dọa mà tôi cho rằng nó làm vậy trong vô thức. Tôi đã thấy nó nhìn theo Larsen Sói bằng đôi mắt giống như một con thú nhìn chủ, với tiếng gầm gừ của loài động vật vang ra từ cổ họng và rít qua hai hàm răng.

    Tôi nhớ một lần, trên boong tàu, vào một ngày nắng đẹp, tôi vỗ vào vai nó để chuẩn bị ra mệnh lệnh. Lưng của nó hướng về phía tôi, ngay khi bàn tay tôi vừa chạm vào, nó nhảy dựng lên trong không trung và tránh xa tôi, gầm gừ và quay đầu nhìn lại khi nhảy vọt lên. Khoảng khắc đó, nó đã nhầm lẫn tôi với người đàn ông nó căm ghét.

    Cả nó và Johnson đều sẽ giết Larsen Sói nếu có mảy may cơ hội, nhưng cơ hội không bao giờ đến. Larsen Sói quá khôn ngoan, bọn họ lại không có vũ khí thích hợp. Nếu chỉ bằng nắm đấm, họ không có cơ hội nào cả. Ông ta thường xuyên đánh nhau với Leach, kẻ luôn muốn phản kháng như một con mèo hoang, xòe hết răng, móng vuốt và nắm đấm ra cho đến khi nằm sóng soài kiệt sức hoặc bất tỉnh trên boong tàu. Nó không bao giờ từ chối một trận đánh nào hết. Tất cả sự giận dữ trong nó đều thách thức sự giận dữ trong Larsen Sói. Hai người không mấy khi xuất hiện trên boong tàu cùng lúc, nếu có gặp nhau họ sẽ nguyền rủa, gầm gừ, đánh đấm; tôi từng thấy Leach nhảy bổ tới Larsen Sói mà chẳng hề cảnh báo hay khiêu khích. Một lần, nó phi một con dao găm khá nặng của mình, chỉ lệch hai phân nữa thôi là trúng cổ họng Larsen Sói.

    Một lần khác, nó thả rơi một chiếc đinh cột thừng bằng thép từ thanh ngang cột buồm chính xuống. Thật khó để ném trúng vì tàu luôn tròng trành, nhưng đầu nhọn của cái đinh đã xuyên qua quãng đường gần hai mươi ba mét trong không khí, suýt thì trúng đầu của Larsen Sói khi ông ta đi lên từ bậc thang cabin, cắm sâu tới năm phân vào lớp ván gỗ cứng. Lại một lần khác, nó lẻn vào khoang lái và kiếm được một khẩu súng săn đã được nạp đạn, vội vã trở ra boong tàu thì bị Kerfoot bắt được và tước vũ khí.

    Tôi thường tự hỏi tại sao Larsen Sói không giết nó và kết thúc chuyện này đi. Nhưng ông ta chỉ cười và dường như còn tỏ vẻ thích thú. Có vẻ như sự chống đối ấy có sẵn trong nó một loại gia vị đặc biệt, tạo nên cảm giác thích thú mà cánh đàn ông vẫn cảm thấy khi nuôi những con vật hung dữ.

    "Đó là sự hấp dẫn của cuộc sống," ông ta giải thích, "khi mà cuộc sống bị kiểm soát trong tay một người. Con người là con bạc bẩm sinh, và mạng sống của chính họ chính là thứ đáng giá nhất có thể đem ra đặt cược. May rủi càng nhiều thì càng thú vị. Tại sao tôi phải ép mình từ chối niềm vui kích động linh hồn Leach tới điên dại? Về mặt đó, tôi đã ban ơn cho nó. Cả hai bên đều đạt được những cảm xúc tuyệt diệu nhất. Nó đang được sống cuộc đời cao quý hơn bất kì thủy thủ nào trong khoang mũi, mặc dù nó không biết điều đó. Nó có thứ mà họ không có, đó là một mục tiêu để thực hiện và hoàn thành, một cái đích mà nó dốc hết sức để vươn tới, là ham muốn giết tôi, là niềm tin rằng có thể giết chết tôi. Đúng thế đấy, Hump, nó đang sống hết mình. Tôi dám chắc rằng nó chưa từng trải nghiệm cuộc sống sâu sắc tới thế, đôi khi tôi còn ghen tị khi thấy nó đạt tới đỉnh điểm của cảm xúc và tinh thần trong cơn giận dữ."

    "À, nhưng thế thật hèn nhát," tôi thốt lên. "Ông có tất cả lợi thế."

    "Trong hai chúng ta, anh và tôi, kẻ nào hèn nhát hơn?" Ông ta nghiêm túc hỏi.

    "Nếu tình hình không ổn, anh sẽ thỏa hiệp với lương tâm của mình, tự biến mình thành bữa tiệc cho nó. Nếu anh thực sự vĩ đại, thực sự thành thật với chính mình, anh sẽ về phe với Leach và Johnson. Nhưng anh sợ, anh đã sợ.

    Anh muốn sống. Cuộc sống ở trong anh thốt lên rằng nó phải sống, cho dù phải đánh đổi thứ gì; Vì vậy, anh sống một cách đê hèn, không đúng với bản chất cao quý anh mong mình trở thành, anh phạm vào cái tội chống lại toàn bộ những nguyên tắc nhỏ bé đáng thương của chính anh, và, nếu có địa ngục, anh đã đâm đầu thẳng vào đó. Chà! Tôi chọn sống dũng cảm. Tôi không phạm tội, vì tôi sống thật với những gì cuộc sống ở trong tôi thúc giục. Ít nhất tôi cũng chân thành với linh hồn của tôi, còn anh thì không."

    Có một cái gì đó nhói lên trong lòng tôi khi nghe những gì ông ta nói. Có lẽ, sau tất cả, tôi đã chọn sống hèn nhát. Tôi càng ngẫm nghĩ nhiều về những gì được nghe, càng thấy mình có nghĩa vụ thực hiện những gì ông ta đã khuyên, tham gia cùng phe với Johnson và Leach, tìm cách giết ông ta. Ngay lúc này, tôi nghĩ lương tâm khắc nghiệt của tổ tiên Thanh giáo sinh ra tôi đã nhập vào tôi, thúc đẩy tôi đưa ra những quyết định và hành vi tàn nhẫn, coi giết người là một điều đúng đắn. Tôi bị ám ảnh bởi ý tưởng đó. Loại bỏ con quái vật này khỏi thế giới này hẳn là một hành động đúng đắn nhất. Nhân loại sẽ được sống tốt hơn và hạnh phúc hơn, cuộc đời sẽ công bằng và ngọt ngào hơn.

    Tôi suy nghĩ rất lâu, trăn trở trên giường mãi không ngủ được, suy xét lại mọi khía cạnh của tình trạng hiện tại. Tôi đã nói chuyện với Johnson và Leach trong phiên gác đêm khi Larsen Sói đã ở bên dưới.

    Nhưng cả hai người họ đã hết hi vọng, Tinh thần Johnson đã suy sụp, còn Leach đã tự khiến mình bại trận vài kiệt sức trong cuộc chiến vô ích. Nhưng có một đêm, nó nồng nhiệt bắt chặt tay tôi, nói:

    "Tôi nghĩ ông hơi nhạt nhẽo, quý ông Van Weyden ạ. Nhưng cứ sống như hiện tại đi và giữ kín miệng. Đừng nói gì hết. Chúng tôi coi như đã chết rồi. Tôi hiểu điều đó; nhưng, nếu như có một lúc nào đó, anh có thể làm cho chúng tôi một ân huệ, chúng tôi sẽ rất cần đấy."

    Ngay ngày hôm sau, khi đảo Wainwright đổ bóng xuống sườn tàu, Larsen Sói đột ngột buông lời tiên đoán. Ông ta tấn công Johnson, rồi bị Leach tấn công, nhưng đã một mình đánh bại cả hai bọn họ.

    "Leach," ông ta nói, "mày biết một lúc nào đó tao sẽ giết mày, phải không?"

    Nó gầm gừ thay cho câu trả lời.

    "Còn mày, Johnson, trước khi tao xử mày, mày sẽ chán đời đến nỗi tự nhảy qua thành tàu. Để rồi xem."

    "Đó là đề nghị đấy," ông ta nói thêm với riêng tôi. "Tôi đánh cược một tháng lương với anh, nó sẽ nhảy." Tôi đã ấp ủ niềm hi vọng rằng những nạn nhân của ông ta sẽ tìm được cơ hội trốn thoát khi chúng tôi đổ đầy các thùng nước trên tàu, nhưng Larsen Sói đã chọn một vị trí rất tốt. Tàu Bóng Ma nằm cách bờ biển chừng một nửa dặm. Ở đây có một hẻm núi sâu, với những bức tường núi lửa dốc đứng, không ai có thể leo lên được. Tại đây, dưới sự giám sát trực tiếp của ông ta – vì ông ta đã tự mình lên bờ – Leach và Johnson đổ đầy những chiếc thùng nhỏ và lăn chúng xuống bờ biển. Họ không hề có cơ hội trốn thoát bằng thuyền nhỏ.

    Tuy nhiên, Harrison và Kelly thì đã thử. Mỗi người họ làm việc trên một cái thuyền nhỏ, có nhiệm vụ di chuyển giữa tàu và bờ biển, mỗi lần di chuyển mang theo một thùng nước. Ngay trước khi ăn tối, họ xuất phát từ bãi biển với một cái thùng rỗng, thay đổi hướng đi sang trái để vòng quanh mũi đất nhô ra biển ngăn cách họ và sự tự do. Phía xa đằng sau làn bọt biển, các ngôi làng xinh đẹp của những người khai hoang Nhật Bản và thung lũng tràn đầy những tiếng cười nằm ở sâu trong đảo. Chỉ cần đi thật nhanh như kế hoạch, hai người họ có thể qua mặt Larsen Sói.

    Tôi đã thấy Henderson và Smoke lảng vảng trên boong cả buổi sáng, bây giờ tôi đã hiểu được lí do tại sao. Được trang bị những khẩu súng trường, chúng xả đạn vào những kẻ bỏ trốn. Đây là lúc cho màn phô bày kỹ năng của những tay súng máu lạnh nhất. Lúc đầu, đạn của chúng sượt qua hai bên mạn thuyền một cách vô hại rồi rơi xuống mặt nước; nhưng, khi những người đàn ông tiếp tục chèo thuyền mạnh hơn, chúng bắn ngày càng rát.

    "Xem tao bắn gẫy hạ mái chèo của Kelly nhé," Smoke nói và ngắm cẩn thận hơn.

    Lúc đó, tôi đang nhìn qua ống nhòm và thấy mái chèo bị anh ta bắn vỡ tan. Henderson nhân đôi chiến công khi ngắm trúng mái chèo của Harrison. Con thuyền xoay vòng vòng. Hai mái chèo còn lại nhanh chóng bị bắn nát. Họ cố chèo bằng phần cán gãy, nhưng lại mảnh gỗ lại bị bắn trúng tuột khỏi tay. Kelly bẻ một mảnh ván gỗ trên sàn thuyền ra và bắt đầu chèo, nhưng lại thả nó ra trong tiếng kêu đau đớn vì bị mảnh gỗ đâm vào tay. Sau đó, họ bỏ cuộc, để chiếc thuyền trôi dạt cho đến chiếc thuyền thứ hai được Larsen Sói cử đi từ bờ biển kéo về tàu.

    Cuối chiều hôm đó, chúng tôi nhổ neo và bỏ đi. Không có gì chờ đợi chúng tôi nữa ngoài ba hoặc bốn tháng trên bãi săn hải cẩu. Viễn cảnh đó thực tối tăm, tôi tiếp tục công việc với tâm hồn nặng trĩu. Dường như bóng tối tang tóc đã bao trùm tàu Bóng Ma. Larsen Sói bỗng phải nằm liệt giường bởi một cơn đau đầu kì lạ. Harrison bơ phờ đứng trước bánh lái, gần như là tựa nửa người vào đó, như thể bị mệt mỏi bởi chính trọng lượng cơ thể mình.

    Những người còn lại thì rầu rĩ và im lặng. Tôi đã trông thấy Kelly đang núp mình ở lỗ thông khoang mũi, bên phía khuất gió, đầu gục xuống gối, tay vòng sau đầu, trông chán nản không tả nổi. Còn Johnson, tôi có gặp anh ta đang nằm dài trên đỉnh khoang mũi, nhìn chằm chằm vào làn nước tung bọt trắng xóa phía trước mũi tàu. Tôi chợt nhớ lời đề nghị kinh khủng Larsen Sói từng nói. Dường như điều đó sắp thành sự thật. Tôi cố phá vỡ luồng suy nghĩ tiêu cực bằng cách bảo anh ta đi xuống; nhưng anh ta chỉ cười buồn bã và không chịu nghe lời.

    Leach tiếp cận tôi khi tôi trở lại đuôi tàu.

    "Tôi muốn nhờ ông một ân huệ, ông [1] Van Weyden," nó nói. "Nếu ông may mắn trở lại 'Frisco[2], ông sẽ thay tôi săn tìm Matt McCarthy chứ? Ông ấy là bố tôi. Ông ấy sống ở Hill, phía sau tiệm bánh mì Mayfair, ông là chủ một tiệm đóng giày mà ai cũng biết, sẽ không khó tìm đâu. Bảo với ông ấy rằng tôi đã rất hối tiếc về những rắc rối mình gây ra cho ông ấy và những gì tôi đã làm, và.. và hãy nói với ông ấy rằng" Chúa phù hộ cha, "giúp tôi."

    Tôi gật đầu, nhưng nói thêm:

    "Tất cả chúng ta sẽ quay trở lại San Francisco, Leach à. Tôi sẽ đi cùng cậu tới gặp ông Matt McCarthy."

    "Tôi muốn tin ông," nó trả lời, bắt lấy tay tôi, "nhưng tôi không thể. Larsen Sói sẽ xử tôi, tôi biết điều đó, và tất cả những gì tôi có thể hi vọng là ông ta làm điều đó nhanh lên."

    Ngay khi nó rời đi, tôi chợt nhận thấy một khát khao tương tự trong lòng. Nếu điều đó nhất định phải xảy ra, hãy để nó được kết thúc dứt khoát. Bóng tối ảm đảm đã hút tôi vào lòng nó. Điều tồi tệ nhất không thể tránh khỏi đã xuất hiện; khi tôi đi lại trên boong hàng giờ liền, tôi thấy mình bị ảnh hưởng bởi những ý nghĩ đáng sợ của Larsen Sói. Tất cả là vì điều gì? Đâu là sự vĩ đại của cuộc sống khi mà nó có thể hủy diệt linh hồn con người bừa bãi tới thế? Thật sự rẻ rúng và bẩn thỉu, sau tất cả, cuộc sống này nên kết thúc càng sớm càng tốt hơn. Kết thúc tất cả đi! Kết thúc tất cả đi! Tôi dựa vào lan can, dõi nhìn ra biển, nghĩ rằng chắc chắn sớm hay muộn tôi sẽ đằm mình xuống nước, chìm thật sâu, rơi xuyên qua màu xanh lạnh lẽo sâu thẳm của sự lãng quên.

    [1] Hiện nhân vật chính giữ chứng thuyền phó, hơn nữa, Leach đang có ý nhờ vả, nên người dịch để xưng hô là "ông".

    [2]"Frisco: Tức San Francisco, Leach nói tháu.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  8. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 17

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nói thế này thật lạ, nhưng mặc cho điềm gở u ám bao trùm cả con tàu, nhưng không có sự kiện đặc biệt nào xảy ra trên Tàu Bóng Ma. Chúng tôi đi theo hướng tây bắc cho đến khi nhìn thấy bờ biển Nhật Bản và bắt kịp một bầy hải cẩu lớn. Chẳng ai biết chúng đến từ đâu trên biển Thái Bình Dương bao la, hàng năm chúng di cư về phương bắc, tới nơi tụ tập đàn lớn của mình ở Biển Bering. Chúng tôi đuổi theo chúng, săn bắn và tiêu diệt chúng, quẳng những cái xác trần như nhộng cho cá mập, và ướp muối bộ da, thứ mà sau này sẽ làm đẹp cho bờ vai trắng nõn nà của những phụ nữ thành thị.

    Đó là một cuộc tàn sát phi nghĩa, tất cả chỉ để làm đẹp cho phụ nữ. Không ai ăn thịt và lấy mỡ hải cẩu. Sau một ngày giết chóc thuận lợi, boong tàu bị phủ kín bởi da và những cái xác, trơn trượt nhầy nhụa vì mỡ và máu, lỗ thoát nước đổi sang màu đỏ; cột buồm, những sợi dây thừng, lan can tung tóe những mảng màu kinh dị; những người đàn ông chẳng khác nào những tên đồ tể say mê công việc, cánh tay và bàn tay trần nhuốm màu đỏ gồng lên lia dao rạch và lột những tấm da khỏi cơ thể loài sinh vật biển tuyệt đẹp mà họ vừa mới giết.

    Nhiệm vụ của tôi là kiểm đếm các tấm da khi chúng được chuyển về tàu từ các thuyền con, theo dõi việc lột da, sau đó làm sạch sàn tàu và sắp xếp mọi thứ ngăn nắp trở lại. Đó không phải một công việc dễ chịu – linh hồn và dạ dày của tôi ghê tởm công việc này – nhưng, theo một cách nào đó, tôi thấy việc sắp xếp và chỉ đạo những người kia mang lại ích lợi.

    Việc này giúp tôi phát triển khả năng quản lí nhỏ bé của mình và tôi nhận thức được sự gian khổ và tàn khốc mình đang phải chịu chẳng hề tốt đẹp với "quý cô" Van Weyden.

    Tôi bắt đầu cảm thấy rằng mình không bao giờ có thể trở thành tôi của ngày xưa nữa. Dù hi vọng và niềm tin của tôi vào đời người vẫn tồn tại sau những lời chỉ trích tàn độc của Larsen Sói, ông ta vẫn khiến mọi thứ thay đổi, kể từ những điều nhỏ nhất. Ông ta đưa tôi đến với thế giới thực, nơi mà tôi hầu như chẳng biết điều gì, và từ ngày đó tôi luôn luôn thu mình lại. Tôi đã học cách quan sát cuộc sống khi nó diễn ra, để nhận ra rằng có những điều thực tế trên thế giới; thoát ra từ bờ cõi của tâm trí và tư tưởng, học được cách đặt những giá trị nhất định vào từng giai đoạn cụ thể và khách quan của sự tồn tại.

    Tôi thấy Larsen Sói thường xuyên hơn khi chúng tôi chiếm được bãi săn; thời tiết tốt và chúng tôi đang ở giữa đàn hải cẩu. Tất cả mọi người đều xuống thuyền, trên tàu chỉ còn lại ông ta, tôi và Thomas Mugridge, kẻ mà tôi không thèm đếm xỉa. Nhưng ở đây chẳng có gì vui. Sáu chiếc thuyền tản ra theo hình nan quạt từ tàu mẹ cho đến khi chiếc thuyền đầu tiên phía đón gió và các thuyền cuối cùng bên khuất gió chèo ra ngoài bán kính từ mười tới hai mươi dặm, săn lùng dọc theo một đường thẳng, cho đến khi màn đêm buông xuống hoặc thời tiết xấu bắt họ phải quay về. Nhiệm vụ của chúng tôi là lèo lái Bóng Ma về phía khuất gió theo chiếc thuyền cuối cùng, để tất cả những chiếc thuyền đều có đủ gió để di chuyển trong trường hợp thời tiết chuyển xấu.

    Điều khiển tàu Bóng Ma chỉ với hai người không phải một công việc dễ dàng, đặc biệt là những lúc gió mạnh, nào là đánh lái, nào là trông chừng thuyền con, nào là điểu chỉnh hoặc thu buồm, nên tôi phải học và phải học thật nhanh. Tôi dễ dàng học được cách lái tàu, nhưng chạy trên cột buồm ngang cao vút và liên tục lắc lư, với đôi tay chịu toàn bộ trọng lượng cơ thể khi tôi rời thang dây để leo lên cao thì khó hơn nhiều. Nhưng tôi học điều này rất nhanh, vì tôi cảm thấy một niềm khát vọng mãnh liệt muốn tự khẳng định mình trong mắt Larsen Sói, để chứng minh mình có quyền sống khi không dựa hoàn toàn vào trí óc. Và bất ngờ thay, tôi dần học được cách tận hưởng niềm vui thú khi cách trèo lên đỉnh cột buồm, dùng chân treo người ở độ cao chênh vênh đó và dùng ống nhòm hướng ra biển, tìm kiếm những chiếc thuyền.

    Tôi nhớ một ngày đẹp trời nọ, những chiếc thuyền đã rời đi săn sớm, tiếng súng của đội thợ săn dần mờ nhạt, xa xôi, và dần tắt hẳn khi đoàn thuyền tỏa ra khắp biển. Chỉ có một chút gió yếu ớt từ phía tây; nhưng lần cuối có gió là khi chúng tôi kịp lúc hất gió cho con thuyền cuối cùng nằm ở phía khuất gió. Từ trên đỉnh cột buồm tôi thấy rõ từng chiếc thuyền – sáu chiếc thuyền biến mất theo mặt cong của trái đất khi họ đi theo đàn hải cẩu về phía tây. Cả con tàu nằm yên, biển ôn hòa không một gợn sóng, chúng tôi không thể đi theo được. Larsen Sói cảm thấy lo sợ. Phong vũ biểu hạ thấp, bầu trời phía đông không khiến ông ta vui nổi. Ông ta nghiền ngẫm chân trời với vẻ cẩn thận vô cùng.

    "Nếu bão tới từ phía đó," ông ta nói, "thì nó sẽ rất dữ dội và nhanh chóng đẩy chúng ta về hướng ngược gió với đoàn thuyền. Rất có thể tôi sẽ có thêm giường trống ở buồng lái và khoang mũi."

    Đến mười một giờ, biển tĩnh lặng như mặt gương. Vào giữa trưa, mặc dù nơi chúng tôi đi nằm trọn vẹn trong vĩ độ bắc, nhưng sức nóng vẫn thực khủng khiếp. Không khí không hề tươi mát. Thật kinh khủng và ngột ngạt, làm tôi nhớ đến những gì những người lớn tuổi ở California gọi là "thời tiết động đất". Thứ thời tiết đó mang điềm xấu, và vô hình chung, nó khiến người ta cảm thấy rằng điều tồi tệ nhất sắp đến. Dần dần, cả bầu trời phía đông tràn ngập những đám mây vượt qua đầu chúng tôi giống như những dãy núi đen của địa ngục. Chúng lớn đến độ chúng tôi có thể thấy rõ những hẻm núi, con đèo, vách đứng cũng như bóng khuất trông như đang vô thức tìm kiếm vệt sóng trắng đánh vào những hốc đá được tạo thành do biển cả cứ mãi vỗ bờ. Tuy vậy, tàu chúng tôi vẫn chỉ đung đưa nhè nhẹ, trời không có gió.

    "Không có gió giật," Larsen Sói nói. "Mẹ Thiên Nhiên sắp trỗi dậy trên đôi chân sau và sẽ thổi bay tất cả, biển sẽ nổi giận. Hump à, có lẽ chúng ta chỉ giữ được một nửa số thuyền. Tốt nhất anh nên nhanh chân chạy đi nới lỏng buồm đỉnh ra."

    "Nhưng nếu gió vẫn tiếp tục rít, và chỉ có hai chúng ta?" Tôi hỏi, giọng hơi có ý chống đối.

    "Thì sao chứ, chúng ta phải chuẩn bị hết sức mình và bắt kịp những chiếc thuyền trước khi những tấm vải bố bị xé toạc ra. Sau đó, tôi sẽ chẳng thèm quan tâm về những chuyện đã xảy ra nữa. Những cái thanh chống sẽ đứng vững, tôi và anh cũng sẽ phải như vậy."

    Biển vẫn tĩnh lặng. Chúng tôi ăn tối, một bữa tối vội vàng và đầy lo lắng, trong khi mười tám người đàn ông còn lại đang lênh đênh đâu đó trên biển ở phía bên kia mặt cong của trái đất, với những rặng mây vĩ đại như ngọn núi từ thiên đường chầm chậm đổ xuống người họ. Dường như Larsen Sói không hềbị phân tâm, mặc dù khi trở lại boong tàu, tôi để ý lỗ mũi ông ta hơi co giật, một cử động rất nhanh và khó nhận thấy. Khuôn mặt ông ta đanh lại, những đường nét cương nghị trở nên sắc lẹm, nhưng trong mắt ông ta – một màu xanh dương, xanh như ngày hôm nay vậy – có một tia sáng lấp lánh kì lạ. Điều đó làm tôi giật mình, rằng ông ta đang vui mừng phát điên; ông ta đang vui vì có một cuộc chiến sắp xảy ra; ông ta sướng run lên, bởi ông ta nhận ra một trong những khoảnh khắc tuyệt vời của cuộc sống đang trỗi dậy như thủy triều dâng trào lên trong mình.

    Một lần, vô tình ông ta làm như vậy hoặc vô tình tôi đã thấy cảnh ông ta lớn tiếng cười ngạo nghễ và ngang ngược trước cơn bão đang tới. Tôi nhìn thấy ông ta đứng đó như gã lùn bước ra từ "Đêm Ả Rập" đối mặt với những vị thần khổng lồ và độc ác. Ông ta đang thách thức số phận mà không hề biết sợ.

    Ông ta đi xuống bếp.

    "Này Bếp," tôi nghe ông ta nói, "lúc nào mày rửa xong xoong chảo trong bếp, tao cần mày có mặt trên boong. Hãy sẵn sàng đợi lệnh."

    "Hump," ông ta nói, có lẽ ánh mắt mê hoặc đó quá mãnh liệt, tôi chỉ dám cúi đầu trước ông ta, "rượu whiskey tuyệt diệu này hẳn là thứ ông bạn Omar[1] của anh đã bỏ lỡ. Dẫu sao, tôi nghĩ ông ta chỉ sống nửa vời thôi."

    Nửa bầu trời phía tây đã trở nên âm u. Mặt trời tối đi và khuất dần khỏi tầm nhìn. Lúc đó là hai giờ chiều, ánh hoàng hôn ma quái chiếu xuyên qua không gian với những tia sáng màu tím bao trùm lên chúng tôi. Khuôn mặt của Larsen ửng đỏ trong ánh chiều tà. Xung quanh chúng tôi yên tĩnh đến kì lạ, nhưng lại tràn ngập những dấu hiệu và điềm báo về thứ sắp đến. Không khí ngột ngạt tới không thể chịu được. Mồ hôi đầm đìa trên trán, chảy xuống cả mũi tôi. Tôi cảm thấy mình như thể sắp ngất, và phải dựa vào lan can mới trụ được.

    Và rồi, ngay lúc đó, một cơn gió vô cùng nhẹ thổi qua. Nó bắt nguồn từ phía đông, đến và đi nhẹ như một lời thì thầm. Vải buồm không hề động đậy, nhưng da mặt tôi lại cảm thấy không khí đã lạnh đi.

    "Bếp," Larsen Sói gọi bằng giọng trầm (Thomas Mugridge biến sắc, lộ vẻ vô cùng kinh hãi), "buông dây góc lèo cột buồm dây tam giác và vắt nó ngang sang, khi con tàu sẵn sàng, buông dây lèo chỉnh buồm và buộc nó với thanh lèo. Nếu mày làm hỏng việc, đây sẽ là việc cuối cùng mày làm việc đó. Hiểu không?"

    "Anh Van Weyden, đứng sang bên đẩy buồm mũi qua. Sau đó, nhảy lên buồm đỉnh và căng chúng nhanh như Chúa bảo anh làm vậy – anh làm càng nhanh, anh sẽ càng thấy dễ. Còn thằng Bếp, nếu nó không cố gắng, cứ đấm vào giữa hai mắt nó."

    Tôi nhận ra lời khen ngầm và sự hài lòng trong lời chỉ dẫn của ông ta, vì trong đó không có chứa ý đe dọa nào. Chúng tôi đang quay đầu về phía tây bắc, ông ta định để tàu phóng đi ngay khi có luồng gió đầu tiên.

    "Chúng ta cần có gió thổi ở hông tàu," ông ta giải thích cho tôi. "Theo như những tiếng súng cuối cùng, đoàn thuyền hẳn đã trôi về phía nam." Ông ta quay lại và bước tới tay lái. Tôi đi về phía trước và giữ vị trí của mình trước những lá buồm tam giác. Gió bắt đầu lao xao, cơn này tiếp cơn khác. Cánh buồm nhè nhẹ vẫy.

    "Cảm ơn Chúa, thiên nhiên không trút hết cơn thịnh nộ của mình ra, ông Van Weyden ạ!" gã Cockney hào hứng thốt lên.

    Tôi thật lòng thấy biết ơn, vì trong thời gian này tôi đã học đủ để biết, với tất cả những tấm vải bố được căng ra như vậy, những thảm họa nào đang chờ đợi chúng tôi phía trước. Những tiếng thì thầm của gió trở thành luồng hơi mạnh, những cánh buồm căng ra, tàu Bóng Ma bắt đầu di chuyển. Larsen Sói kéo mạnh tay lái về bên trái, chúng tôi bắt đầu nương theo hướng gió. Gió bây giờ đã nổi phía sau tàu, rì rầm, phần phật từng luồng ngày càng mạnh mẽ hơn, những cái buồm dây tam giác của tôi đang giữ vỗ phành phạch. Tôi không nhìn thấy chuyện gì đang diễn ra ở nơi khác, mặc dù tôi cảm nhận được con tàu chồm nhảy khi áp lực gió thay đổi tác động vào cả cánh buồm chính và mũi. Tay tôi bận bịu liên tục trên lá buồm phụ rời, buồm tam giác, buồm tam giác trước. Tới khi phần nhiệm vụ này của tôi hoàn thành, tàu Bóng Ma đã tiến thẳng về phía tây nam. Gió bên hông tàu làm các dây lèo ở mạn phải kêu vun vút. Không kịp ngừng lại để thở, với trái tim vẫn đang đập như búa gõ vì đã dùng toàn bộ sức lực, tôi nhảy ngay lên buồm đỉnh. Trước khi gió trở nên quá mạnh, chúng tôi đã xếp và cuộn buồm xuống. Sau đó, tôi trở lại khoang sau để đợi lệnh.

    Larsen gật đầu khen ngợi và trao bánh lái cho tôi. Gió đều đặn hơn và biển động suốt một giờ đồng hồ khi tôi lái tàu, khó khăn tăng lên theo mỗi giây mỗi phút. Tôi không có kinh nghiệm cầm lái khi gió thổi mạn hông như vậy.

    "Bây giờ hãy chạy lên và cầm ống nhòm lên, tìm kiếm những chiếc thuyền. Chúng ta đạt được tốc độ ít nhất mười hải lí và chúng ta sẽ đạt được mười hai hoặc mười ba ngay bây giờ. Con tàu già này hãy còn dẻo dai lắm. Có thể thả một số buồm dây tam giác xuống nữa," Larsen nói thêm, quay sang Mugridge:

    "Ê Bếp, hạ buồm phụ rời và buồm tam giác, dây kéo buồm phải thật chắc và căng."

    Tôi trèo người lên thanh ngang cột buồm mũi, khoảng hai mươi mét phía trên boong tàu.

    Khi tôi dõi mắt nhìn vùng nước trống trước mặt, tôi nhận ra tại sao chúng tôi phải vội vã để cứu được người của mình. Thật vậy, khi tôi nhìn chằm chằm vào vùng biển hung dữ mà chúng tôi đang chạy qua, tôi không dám tin liệu có còn chiếc thuyền nào đang nổi.

    Dường như những con thuyền mỏng manh yếu đuối đó không thể cầm cự trước của gió và nước. Tôi không thể cảm nhận được sức mạnh của gió, vì chúng tôi đang lợi dụng nó. Từ trên cao, tôi nhìn ra phía xa và bên ngoài giới hạn của tàu Bóng Ma, đuôi tàu đang cắt một đường bọt biển trắng lóa thẳng tắp như chia cắt giữa bản năng và cuộc sống. Đôi khi con tàu nhô lên, nhảy qua một con sóng lớn, rồi nhấn chìm lan can trên mạn phải và boong tàu xuống làn nước đại dương đang sôi ùng ục. Vào những lúc như vậy, theo hướng gió thổi, tôi sẽ bay lên không trung với cơn chóng mặt dù người vẫn bám chặt vào đuôi quả lắc khổng lồ treo ngược, mỗi lần đung đưa cũng phải đi hết quãng đường hai mươi mét hoặc hơn. Những cú lắc kinh khủng khiến tôi sợ hãi, tôi dùng cả tay lẫn chân bám chặt lấy cột buồm, run rẩy và kiệt quệ mất một hồi lâu và không thể dõi mắt tìm trên mặt biển những chiếc thuyền bị mất tích hoặc bất cứ thứ gì khác. Biển gầm rú bên dưới và cố gắng nhấn chìm tàu Bóng Ma.

    Nhưng suy nghĩ về những người thủy thủ giữa hoàn cảnh này làm tôi vững vàng hơn, tôi cố gắng quên cả bản thân vì nhiệm vụ. Trong một tiếng đồng hồ, tôi chẳng thấy gì ngoài cảnh biển trần trụi, hoang vắng. Và rồi, nơi tia ánh sáng mặt trời chạm vào đại dương, biến mặt nước thành tấm màn bạc đầy phẫn nộ, tôi nhìn thấy một đốm đen nhỏ thoáng ló ra nơi chân trời trước khi biến mất. Tôi kiên nhẫn chờ đợi. Chấm đen nhỏ xíu đó tự tìm đường thoát ra khỏi lớp ánh sáng cuồng loạn, chếch vài độ trước mũi tàu chúng tôi. Tôi cố gắng không hét to, chỉ truyền đạt tin tức cho Larsen bằng cách vẫy tay. Ông ta thay đổi hướng đi, và tôi ra hiệu khẳng định khi đốm đen chết chóc hiện ra phía trước.

    Nó lớn dần với tốc độ nhanh đến nỗi lần đầu tiên tôi thấy trân trọng tốc độ của con tàu. Larsen ra hiệu cho tôi đi xuống, tới khi tôi đứng cạnh ông ta bên bánh lái thì ông hướng dẫn cho tôi cách dừng tàu lại.

    "Cứ hi vọng Diêm Vương mắc lỗi đi, nhưng đừng chỉ bám lấy suy nghĩ đó. Anh phải làm đúng công việc của mình, ra lệnh cho thằng Bếp giữ dây lèo trước."

    Tôi tìm cách đưa tàu tiến về phía trước, nhưng có rất ít lựa chọn nên đi về bên nào, cả hai bên lan can đều bị chìm trong nước biển thường xuyên như nhau. Sau khi đã hướng dẫn Thomas Mugridge những gì cần làm, tôi trèo lên chỗ buộc dây buồm phía trước tàu vài mét.

    Chiếc thuyền con giờ đã rất gần, tôi có thể khẳng định rằng nó đang hướng mũi thuyền ngược chiều gió và biển, bị lôi đi bởi chính cột và cánh buồm của nó, thứ đã bị ném xuống biển làm mỏ neo. Ba người đàn ông đang tát nước ra khỏi thuyền. Mỗi lần con sóng cao dâng lên che khuất họ, tôi lại phải chờ đợi với nỗi lo đến rợn người, sợ rằng họ không bao giờ trở lại nữa. Sau đó, rất đột nhiên, con thuyền lao thẳng qua ngọn sóng bạc trắng, mũi thuyền hướng lên trời, cả bụng thuyền lộ ra, ướt át và mờ mịt, cho tới khi con thuyền gần như dựng đứng. Có thể thoáng thấy ba người đàn ông tát nước điên cuồng trước khi con thuyền chuẩn bị lật úp và rơi vào cõi chết, mũi thuyền chúc xuống và để lộ ra toàn bộ phần đuôi thuyền trồi lên gần như thẳng. Nhưng sau mỗi lần như vậy, con thuyền lại xuất hiện trở lại như một phép màu.

    Tàu Bóng Ma đột nhiên thay đổi hướng đi, chạy ra xa con thuyền, tôi đã sốc khi mà Larsen Sói không cứu họ như thể đó là chuyện bất khả thi. Nhưng rồi, tôi nhận ra rằng ông ta chuẩn bị cho tàu dừng lại, ông ta đi xuống boong tàu trong trạng thái sẵn sàng.

    Lúc này chúng tôi đứng khựng lại trước gió, chiếc thuyền ngày càng xa hơn và đi song song với chúng tôi. Tôi cảm thấy con tàu đột ngột bật lên đi trong giây lát vì tất cả căng thẳng và áp lực đối lập với sức đẩy mạnh mẽ. Con tàu đang dồn lực để lao vào gió.

    Khi con tàu vuông góc với mặt biển, lực gió đã dồn mạnh nhất và cũng là lúc chúng tôi cho tàu chạy, bắt kịp với gió. Tôi đã xui xẻo và ngu ngốc đối mặt với gió. Nó quật vào tôi như một bức tường, bơm căng lồng ngực với luồng khí mà tôi không kịp thở ra. Tôi bị bóp nghẹt, còn tàu Bóng Ma đằm mình xuống trong giây lát trước khi phô mạn tàu ra và lăn tròn thẳng vào trong gió. Tôi đã trông thấy biển lớn hiện lộn qua phía trên đầu mình. Tôi quay sang một bên, nín thở và nhìn lại. Sóng nước bao trùm lên tàu Bóng Ma, còn tôi chỉ biết nhìn chằm chằm vào nó. Ánh sáng mặt trời đâm xuyên qua cung nước, tôi có thể thoáng thấy sắc lục trong suốt lấp lánh kéo theo lớp bọt đục màu trắng sữa.

    Sau đó, sóng nước đổ xuống, mọi chuyện tồi tệ theo đó cùng lúc xảy đến. Tôi bị nước quật điếng người, chẳng vào chỗ nào cụ thể mà là vào tất cả mọi nơi.

    Tôi không giữ được nữa và bị chìm dưới nước, những âm thanh kinh khủng của những người bị cuốn xuống biển mà tôi từng nghe lại vang lên trong đầu. Cơ thể tôi bị va đập khi nó bất lực để nước kéo đi và lật qua lật lại, tôi không thể nín thở được nữa và vô tình hít thứ nước muối bỏng rát vào trong phổi. Nhưng xuyên suốt lúc đó tôi chỉ bấu víu lấy một suy nghĩ duy nhất – tôi phải căng cái buồm phụ ra trước gió. Tôi không sợ chết. Tôi hoàn toàn tin vào điều đó, nhưng để làm được tôi phải tìm cách di chuyển. Cái suy nghĩ phải hoàn thành mệnh lệnh của Larsen vẫn sáng lên trong trí não đã mê đi của tôi, dường như tôi vẫn thấy ông ta đang đứng trên bánh lái giữa cõi hỗn mang hoang dã, dùng ý chí của mình để đọ sức với ý chí của giông bão và thách thức nó.

    Tôi bị hất vào chỗ mà tôi nghĩ là lan can, nhưng vẫn còn được hít thở không khí ngọt ngào một lần nữa. Tôi cố gắng đứng dậy, nhưng lại bị đập đầu, phải quỳ xuống, tứ chi chạm đất. Cơn sóng kì dị cuốn tôi đi đã quét xuống đầu mũi tàu và tới mắt tàu. Khi tôi bò đi bằng cả tứ chi, tôi có đi ngang qua chỗ Thomas Mugridge, hắn đang nằm một đống và rên rỉ. Không có thời gian để tìm hiểu nguyên do. Tôi phải căng cái buồm tam giác lại.

    Khi tôi lên được boong tàu, dường như tận thế đã đến. Hai bên sườn tàu đều có mảnh vụn của gỗ, thép và vải bố. Con tàu Bóng Ma đã bị vặn và xé thành nhiều mảnh. Buồm mũi và buồm đỉnh trước rách tung trước gió như những sợi ruy băng, vì không có ai ở đây để kịp thu lại sợi dây lèo, những mảnh vụn rải ra khắp lan can. Không khí dày đặc với những mảnh vỡ bay tứ tung, những sợi dây thừng rời rạc và những dây néo cột buồm rít lên và cuộn như rắn, tất cả đều rơi xuống xà của buồm mũi.

    Trụ cột buồm cách tôi khoảng vài phân, nó thúc đẩy tôi hành động. Có lẽ vẫn chưa hết hi vọng. Tôi nhớ lời cảnh báo của Larsen Sói.

    Ông ta đã dự đoán "Diêm Vương mắc lỗi" và đúng là Diêm Vương đã đi qua đây. Ông ta đâu rồi? Tôi bắt gặp cảnh tượng ông ta đang kéo lê dây lèo chính, nâng nó lên và căng ra bằng cơ bắp vĩ đại của mình, đuôi con tàu bốc ngược lên trong không trung, bóng cơ thể ông ta in lên làn sóng trắng. Tất cả những điều này và hơn thế nữa – cả một thế giới của sự hỗn độn và xác tàu – xảy ra trong chừng mười lăm giây, tôi đã được thấy, được nghe, được chứng kiến

    Tôi không dừng lại để xem chuyện gì đã xảy ra với chiếc thuyền nhỏ, mà nhảy bật đến dây lèo buồm phụ. Cánh buồm phụ đã bắt đầu vỗ, hơi phồng lên rồi xẹp xuống; nhưng với một vòng cuộn dây lèo và toàn bộ sức mạnh của mình, tôi dần kéo căng nó lại. Tôi có thể chắc chắn một điều: Tôi đã làm hết sức mình. Đột nhiên, dây kéo buồm được Mugridge bất cẩn kéo căng, hoặc những đinh giữ đã bị bật ra, cánh buồm phụ và buồm tam giác đã được kéo căng bởi bàn tay tóe máu của tôi lại tuột và vỗ phần phật vô dụng.

    Nhưng tôi vẫn kéo, giữ chặt công sức của mình bằng cách quấn hai vòng dây trên tay, tới khi buồm lại dần căng ra. Rồi đột nhiên, dây lèo trở nên nhẹ hơn nhiều, Larsen Sói đang đứng sau lưng tôi, điều khiển tàu một mình trong khi tôi bận dộng với những sợi dây.

    "Kéo căng ra," ông ta hét lên, "và lại đây!" Khi tôi đi theo ông ta, tôi nhận thấy bất chấp mọi sự tàn phá, con tàu về cơ bản đã lấy lại được vẻ ngăn nắp. Tàu Bóng Ma đang đi chầm chậm. Con tàu vẫn tiếp tục tuần tự tiếp tục nhiệm vụ của mình. Mặc dù phần còn lại của những cánh buồm trên tàu đã biến mất, buồm phụ vẫn căng ngược gió, buồm chính vẫn thẳng băng, chúng đang tự ghim mình xuống, đối diện với biển khơi giận dữ.

    Tôi tìm con thuyền kia, còn Larsen Sói dọn dẹp đống dây dợ của thuyền. Tôi thấy nó bị cuốn về phía khuất gió cách xa tàu không đến mười lăm mét. Với sự tính toán tuyệt vời của ông ta, chúng tôi tự trôi gần sát tới nó, nên chẳng cần làm gì khác ngoài móc thuyền lại và kéo nó lên tàu. Nhưng điều này nói dễ hơn làm.

    Trong mũi thuyền là Kerfoot, Oofty–Oofty ở ngồi ở đuôi, còn Kelly ở giữa. Khi chúng tôi trôi đến gần hơn, chiếc thuyền nổi trên một làn sóng trong khi chúng tôi chìm xuống trong hõm sóng gần như cao quá đầu. Tôi có thể thấy những cái đầu của ba người đàn ông đang thò cổ qua mạn thuyền nhìn xuống. Khoảnh khắc sau đó, chúng tôi lại nổi lên trong khi họ chìm sâu xuống. Không thể tin được rằng con sóng tiếp theo sẽ không đẩy tàu Bóng Ma đè bẹp nửa cái vỏ trứng dưới kia.

    Nhưng đúng lúc đó, tôi kịp quăng dây cho anh bạn người Kanaka, trong khi Larsen Sói cũng làm điều tương tự với Kerfoot. Cả hai cái dây nối được móc lại trong nháy mắt. Ba người khéo léo căn chỉnh thời điểm sóng cuộn, hành động cùng một lúc. Khi Bóng Ma nâng lan can ra khỏi mặt nước, chiếc thuyền được nâng gần con tàu, và trước khi sóng cuộn trở lại, chúng tôi đã nhấc nó qua một bên và lật nó xuống boong. Tôi thấy máu phun ra từ tay trái của Kerfoot. Không biết từ lúc nào ngón tay thứ ba của anh ta đã bị nghiền nát. Nhưng anh ta không hề tỏ ra đau đớn, anh ta dùng bàn tay phải giúp chúng tôi buộc chiếc thuyền vào vị trí của nó.

    "Đứng sang một bên để cái buồm phụ đó tránh qua đi, Oofty," Larsen Sói ra lệnh, ngay khi chúng tôi đã xong việc với chiếc thuyền. "Kelly, ra phía đuôi tàu và nới sợi dây lèo chính. Mày, Kerfoot, đi lên đằng trước xem thằng Bếp thế nào rồi. Anh Van Weyden, trèo lên cột buồm một lần nữa đi, cắt bỏ mọi thứ rác rưởi tùy thích." Vừa ra lệnh, ông ta đi về đuôi tàu, nhảy tới bánh lái như hổ vồ. Trong lúc tôi leo lên mạng dây thừng chằng ở cột buồm mũi, tàu Bóng Ma chầm chậm tiến lên. Lần này, khi chúng tôi đi vào hõm sóng và bị cuốn đi, nhưng không còn chiếc buồm lớn nào để bị thổi cả. Tôi đã leo được nửa đường đến chỗ thanh ngang giữ cột buồm, nép người tì vào nơi buộc dây buồm bởi gió đang thổi hết tốc lực, vì vậy tôi không thể rơi xuống khi mà tàu Bóng Ma gần như nghiêng một góc chín mươi độ, cột buồm song song với mặt nước. Lúc đó tôi không nhìn xuống, mà nhìn theo phương vuông góc với chiều thẳng đứng vào boong tàu Bóng Ma. Nhưng tôi không thấy boong tàu ở nơi đúng ra là boong tàu, vì nó bị chìm dưới làn nước lạnh lẽo. Qua làn nước này tôi có thể thấy hai cột buồm đang nổi lên, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tàu Bóng Ma trong giây phút này đã bị chìm dưới biển. Khi con tàu lắc mình nổi lên, thoát ra từ áp lực hai bên hông, con tàu lấy lại thăng bằng và boong tàu xuất hiện trở lại, giống như lưng của một con cá voi lộ ra trên bề mặt đại dương.

    Sau đó, chúng tôi điên cuồng tăng tốc băng qua vùng biển hoang vu, trong suốt thời gian đó tôi treo mình như một con ruồi trên thanh ngang cột buồm và tìm kiếm những chiếc thuyền khác. Trong nửa giờ, tôi nhìn thấy chiếc thuyền thứ hai, bị ngập và lật ngược lên, Jock Horner, Louis béo và Johnson đang tuyệt vọng bám lấy nó. Lần này tôi ở lại trên cao, và Larsen Sói đã thành công dừng tàu lại mà không bị cuốn đi. Như lần trước, chúng tôi trôi theo vòng cung đến gần chiếc thuyền. Dây dợ mau chóng được nối lại và quăng đễn chỗ những người đàn ông, họ tranh giành lên tàu như lũ khỉ. Chiếc thuyền đã bị nghiền nát và vỡ thành từng mảnh khi được kéo lên tàu; nhưng xác thuyền đã được buộc gọn lại, vì nó có thể được vá và sửa thành thuyền mới.

    Một lần nữa, tàu Bóng Ma đã bị thoát được giông bão, dù lần này tàu đã chìm trong một vài giây, tôi đã nghĩ rằng con tàu sẽ không bao giờ nổi lên được nữa. Ngay cả bánh lái, khá cao so với thắt lưng, cũng từng bị nước bao phủ và quét qua hết lần này đến lần khác.

    Vào những lúc như thế, tôi cảm thấy cô đơn một cách kì lạ trước Chúa, chỉ biết theo dõi sự hỗn loạn của cơn thịnh nộ của ngài. Nhưng sau đó bánh lái xuất hiện trở lại, cùng với đôi vai rộng của Larsen Sói, hai bàn tay ông ta nắm chặt tay quay và giữ con tàu đi đúng hướng bằng ý chí của mình, như một vị thần của trái đất, chế ngự cơn bão, hất dòng nước xuống và cưỡi lên nó tới nơi mình muốn tới. Và ôi chao, thật kì diệu làm sao, những người đàn ông nhỏ bé này có thể sống, hít thở và làm việc, điều khiển khối gỗ và vải mong manh yếu ớt qua này vượt qua cơn thịnh nộ khủng khiếp của thiên nhiên!

    Như lần trước, Bóng Ma nhảy ra hõm sóng, nâng boong tàu lên khỏi mặt biển, và lao ra trước luồng gió rít. Bây giờ đã là năm giờ rưỡi, và nửa giờ sau, khi tia sáng cuối cùng của ngày biến mất trong hoàng hôn mờ ảo và mãnh liệt, tôi nhìn thấy chiếc thuyền thứ ba. Nó bị lật ngửa, và không hề có dấu hiệu nào của thủy thủ đoàn. Larsen Sói lặp đi lặp lại chiến thuật của mình, ghìm thuyền từ xa và sau đó đón gió và chạy vòng cung xung quanh. Nhưng lần này ông ta trượt xa hơn mười hai mét, bỏ lại chiếc thuyền sau đuôi tàu.

    "Chiếc thuyền số bốn!" Oofty–Oofty hét lên, đôi mắt tinh của anh ta đọc số của nó ngay trong giây nó nhấc bổng lên rũ sạch bọt và lộn ngược.

    Đó là thuyền của Henderson, cùng với Holyoak và Williams đã thất lạc, một nhóm thủy thủ vùng nước sâu khác. Họ chắc chắn đã mất tích; nhưng chiếc thuyền vẫn còn, và Larsen Sói lại liều lĩnh cố lấy lại nó. Tôi xuống boong, nhìn thấy Horner và Kerfoot đang phản đối nỗ lực vô ích đó.

    "Thề có Chúa, tôi không để bất cứ cơn bão quái quỉ nào cướp mất thuyền của mình!" Ông ta hét lên, và dù bốn người chúng tôi đang đứng chụm đầu vào nhau, giọng ông ta nghe yếu ớt và xa xăm, như thể ông bị tách ra khỏi chúng tôi tới một khoảng không nào khác.

    "Anh Van Weyden," ông ta gào, nhưng tôi nghe vào tai như tiếng thì thầm, "giữ cái buồm tam giác đó với Johnson và Oofty! Những người còn lại ra đuôi tàu giữ dây lèo chính! Nhanh chân lên, hoặc tôi sẽ giong buồm đưa tất cả sang thế giới bên kia! Hiểu không?" Tới khi ông ta quay mạnh bánh lái khiến tàu Bóng Ma lao ra, những người thợ săn chẳng thể làm gì khác ngoài tuân lệnh và cố gắng hết sức trong canh bạc này.

    Tôi nhận ra canh bạc này mạo hiểm tới thế nào khi một lần nữa bị nhấn chìm bên dưới làn nước biển và phải bám lấy rào chắn trước cột buồm mũi để cứu lấy mạng mình. Những ngón tay của tôi bị kéo giật ra, tôi lại bị cuốn sang một bên và ném thẳng xuống biển.

    Tôi không thể bơi, nhưng trước khi chìm, tôi lại bị cuốn ngược trở lại. Một bàn tay mạnh mẽ nắm lấy tôi, khi tàu Bóng Ma cuối cùng cũng nổi lên, tôi nhận ra tôi nợ Johnson mạng sống. Tôi thấy anh ta lo lắng nhìn về phía ông ta, và rằng Kelly, người đã đi lên phía trước vào phút cuối, đã mất tích.

    Lần này, sau khi đã bỏ lỡ chiếc thuyền, và không còn ở vị trí tương tự như những lần trước, nên Larsen Sói buộc phải sử dụng chiến thuật khác.

    Chúng tôi chạy trước đầu gió theo mạn phải, sau đó đổi hướng cho tàu vòng lại và chạy chéo theo hướng gió về bên trái..

    "Tuyệt diệu!" Johnson hét vào tai tôi, lúc chúng tôi lại vượt qua con sóng khổng lồ; tôi hiểu anh ta, điều anh ta đang khen không phải tài lái tàu của Larsen Sói, mà là chiến công của tàu Bóng Ma.

    Bây giờ trời tối đến nỗi không thấy dấu hiệu của chiếc thuyền nào; nhưng Larsen Sói đã kiềm chế lại trước sóng gió điên cuồng như thể được dẫn dắt bởi bản năng không khoan nhượng. Lần này, mặc dù chúng tôi thường bị chìm nửa tàu xuống, nhưng không bị con sóng nào cuốn qua. Chúng tôi vòng lại gần chiếc thuyền bị lật ngược, suýt nữa nghiền nát nó khi cố kéo nó lên tàu.

    Tiếp đó là hai giờ làm việc khủng khiếp, tất cả chúng tôi – hai thợ săn, ba thủy thủ, Larsen Sói, và tôi – vật lộn với việc cuốn buồm, hết buồm đầu tới buồm khác, buồm phụ rồi buồm chính. Nhấp nhô dưới bóng tấm vải ngắn, boong tàu của chúng tôi hầu như không còn tí nước nào, tàu Bóng Ma ngụp lặn giữa những đợt sóng lớn cuồn cuộn như một nút bấc giữa đại dương.

    Ngay từ đầu tôi đã bị toác hết đầu ngón tay, và trong lúc cuốn buồm tôi phải làm việc với những giọt nước mắt đau đớn chảy dài trên má. Khi mọi việc đã hoàn thành, tôi bỏ cuộc như một ả đàn bà, lăn ra trên boong tàu trong tình trạng kiệt sức.

    Trong khi đó, Thomas Mugridge, trông giống như một con chuột bị chết đuối, đang bị lôi ra từ dưới đỉnh khoang mũi, nơi mà gã hèn nhát trốn. Tôi thấy gã bị kéo qua đuôi tàu vào cabin, và kinh ngạc nhận ra rằng căn bếp đã biến mất. Một khoảng trống sạch sẽ trên boong tàu thay thế cho vị trí vốn có của nó.

    Trong cabin, tôi thấy tất cả mọi người đang nhóm họp, cả những thủy thủ nữa. Trước khi cà phê được đun sôi trên bếp lò nhỏ, chúng tôi uống whiskey và gặm bánh quy cứng.

    Đời tôi chưa bao giờ hân hoan khi thấy đồ ăn và chưa bao giờ uống cà phê nóng ngon lành như vậy. Tàu Bóng Ma mạnh mẽ làm chồm lên, nhảy xuống, lắc lư không ngừng nên tới các thủy thủ cũng phải bám lấy thứ gì đó mới di chuyển được. Rất nhiều lần, ai đó kêu lên "Sóng đến đấy!" thế là chúng tôi xếp chồng lên nhau trên tường bên trái cabin như thể nó là boong tàu

    "Cẩn thận chả được tích sự gì." Tôi nghe Larsen Sói nói thế khi chúng tôi đã ăn và uống no bụng. "Chẳng thể làm gì trên boong tàu hết. Nếu có bất cứ điều gì có thể đánh chìm chúng ta, chúng ta cũng không thể thoát khỏi con đường của nó. Nghỉ thôi, tất cả đi ngủ đi một chút."

    Các thủy thủ trượt về phía trước, mở các đèn bên khi di chuyển, còn hai thợ săn vẫn ngủ trong cabin, nhưng hiện tại mà đi mở cửa trượt vào buồng lái thì không được khôn ngoan cho lắm. Kerfoot ngồi giữa Larsen Sói và tôi, chúng tôi cắt ngón tay đã dập nát của anh ta và khâu chỗ cụt lại. Mugridge, kẻ bị buộc phải nấu nướng và phục vụ cà phê, giữ lửa cháy, cứ phàn nàn về những chỗ đau âm ỉ, đang thề rằng gã đã bị gãy một hoặc hai cái xương sườn. Khi kiểm tra, chúng tôi thấy rằng gã bị gãy ba cái. Nhưng thương tích của gã phải chờ đến ngày mai, chủ yếu là vì tôi không hiểu gì về gãy xương sườn, trước tiên tôi phải tìm hiểu đã.

    "Tôi nghĩ nó không đáng," tôi nói thế với Larsen Sói, "một chiếc thuyền hỏng đổi lấy mạng sống của Kelly."

    "Nhưng Kelly chẳng đáng giá bao nhiêu," là câu trả lời.

    "Chúc ngủ ngon."

    Sau khi tất cả mọi việc, với đầu ngón tay tôi đau không chịu nổi, ba chiếc thuyền đang mất tích, chưa kể đến những con sóng hung dữ tàu Bóng Ma đang nhảy qua, tôi đã cho rằng mình không thể ngủ được. Nhưng mắt tôi khép lại ngay khi đầu chạm vào gối, và trong tình trạng hoàn toàn kiệt sức, tôi ngủ suốt đêm, còn tàu Bóng Ma vẫn chiến đấu qua cơn bão theo cách của mình giữa cô đơn và vô định.

    [1] Xem chú thích số 26
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  9. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 18

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày tiếp theo, khi cơn bão đã tan biến, tôi cùng với Larsen Sói "chăm sóc" thân hình gầy nhom và làm phẫu thuật chỉnh xương sườn cho Mugridge. Sau khi cơn bão tan đi, Larsen Sói đi tuần qua lại trên vùng đại dương nơi chúng tôi gặp bão, hơi chếch về phía tây, trong khi những chiếc thuyền đang được sửa chữa, những cánh buồm được thay mới và lại căng phồng đón gió. Căn bếp mới đã được xây lại từ những mẩu gỗ đầu thừa đuôi thẹo của khoang tàu. Chúng tôi tìm được và tiếp cận từng chiếc tàu săn hải cẩu một, phần lớn bọn họ đã lấy về những thuyền viên và thuyền không thuộc về họ. Đội tàu tập trung nhiều nhất ở bên phía tây theo hướng chúng tôi, các chiếc thuyền con thì nằm rải rác khắp vùng biển rộng, chúng là những chiếc đầu tiên đã điên cuồng trốn chạy để tìm nơi ẩn náu gần nhất.

    Chúng tôi khởi hành rời khỏi Cisco với hai chiếc thuyền đầy đủ thuyền viên, và, trong niềm vui lớn của Larsen Sói và nỗi đau của riêng tôi, ông ta đã đón được Smoke, cùng Nilson và Leach từ San Diego. Vì vậy, vào năm ngày cuối, chúng tôi thấy chỉ thiếu bốn người đàn ông, bao gồm Henderson, Holyoak, Williams, và Kelly, và lại một lần nữa tiếp tục săn bắn theo đàn hải cẩu.

    Khi chúng tôi đi theo hướng bắc, chúng tôi bắt đầu gặp phải những trận sương mù biển đáng sợ. Mỗi ngày, từng chiếc thuyền được thả xuống và biến mất trong màn sương ngay trước khi chạm nước, những người còn lại trong chúng tôi ở lại trên tàu thổi còi theo chu kì đều đặn, và cứ mười lăm phút lại bắn một phát súng. Đoàn thuyền cứ biến mất rồi lại xuất hiện, chuyện một con thuyền đi săn mất tích, rồi được một tàu buồm bất kì đón về cho tới khi về được đúng tàu mẹ đã là lẽ thường tình. Nhưng tàu của Larsen Sói vốn đang thiếu thuyền con, đúng như dự đoán, đã chiếm lấy những thuyền đi lạc của tàu khác và buộc những người đàn ông trên thuyền phải đi săn cùng tàu Bóng Ma, không cho phép họ quay trở lại tàu của mình khi chúng tôi nhìn thấy họ. Tôi nhớ ông ta đã giữ một thợ săn và hai người đàn ông dưới quyền bằng một khẩu súng trường ghim trước ngực, trong khi thuyền trưởng của họ đi ngang qua ném bánh qui tới và hỏi thông tin từ chúng tôi.

    Thomas Mugridge, bám víu vào cuộc sống một cách kì quặc và cố chấp, tập tễnh trở lại làm việc từ rất sớm, gã đảm nhiệm hai trách nhiệm là nấu ăn và bồi tàu.

    Johnson và Leach vẫn bị hành hạ và đánh đập nhiều hơn bao giờ hết, họ trông đợi cuộc sống của mình kết thúc với sự kết thúc của mùa săn; trong khi những thuyền viên còn lại sống cuộc sống của những con chó và làm việc như những chó vì vị chủ nhân tàn nhẫn của họ. Larsen và tôi đang duy trì mối quan hệ khá tốt, mặc dù tôi không thể loại bỏ ý nghĩ rằng tương lai mình sẽ làm một hành động đúng đắn là giết ông ta. Ông ta hấp dẫn tôi, đồng thời cũng khiến tôi rất sợ; tôi không thể tưởng tượng việc ông ta sẽ chết như thế nào. Trong ông ta có sức sống của tuổi trẻ vĩnh cửu, thứ luôn vươn lên và choán hết mọi viễn cảnh. Tôi chỉ có thể hình dung ông ta ở trạng thái sống khỏe mạnh, thống trị, chiến đấu, hủy diệt và sống sót.

    Có một lần ông ta đi sai hướng, khiến chúng tôi đi vào giữa đàn hải cẩu khi biển đang động mạnh, ông ta đã tự hạ thuyền xuống cùng với hai tay chèo, một người lái và ra khơi. Ông ta là một tay súng giỏi, đem được nhiều bộ da lên tàu trong những điều kiện mà đám thợ săn than là "không thể săn bắt nổi". Có vẻ như mỗi hơi thở của ông ta đều nặng nhọc như thể sinh mạng đang treo nơi bàn tay ấy và giãy giụa để đánh cuộc với cuộc đời.

    Tôi càng ngày càng học được nhiều hơn về nghề đi biển. Vào một ngày đẹp trời, bây giờ chúng tôi hiếm khi gặp được thời tiết đẹp như vậy lắm, tôi đã tự hài lòng khi có thể tự vận hành và điều khiển tàu Bóng Ma, tự mình kéo thuyền lên. Larsen đợt này hay bị hành hạ bởi những cơn đau đầu, nên tôi đứng bên bánh lái từ sáng đến tối, lèo lái con tàu trên đại dương đuổi sau chiếc thuyền khuất gió cuối cùng, dừng lại kéo thuyền và năm người kia lên mà không có sự chỉ đạo hay gợi ý từ ông ta.

    Lúc này chúng tôi tiếp tục phải đối mặt với những trận gió mạnh, vì đây là khu vực nhiều bão. Vào giữa tháng Sáu, một cơn bão đáng nhớ nhất và quan trọng nhất đời tôi xảy đến, những thay đổi khi vượt qua nó sẽ ảnh hưởng tới tương lai tôi sau này. Chúng tôi suýt chạy vào tâm bão. Larsen Sói xoay xở vượt qua nó và đi hướng về phía nam, đầu tiên là bằng buồm phụ tam giác mép đôi, sau đó là bằng những cột buồm trống không.

    Tôi chưa bao giờ tưởng tượng đại dương lại rộng lớn như vậy. Các vùng biển trước đây chúng tôi từng đi qua chỉ là những gợn sóng so với vùng biển này, từng con sóng trải dài phải đến nửa dặm tính từ đỉnh sóng này đến đỉnh sóng khác, tôi dám chắc điều đó vì tôi đứng trên đỉnh cột buồm. Sóng dữ dội tới mức chính bản thân Larsen Sói cũng không dám dừng lại, mặc dù ông ta đang bị đẩy xa về phía nam, tách khỏi đàn hải cẩu.

    Chúng tôi phải đến được tuyến đường của các tàu hơi nước bên kia Thái Bình Dương trước khi cơn bão dịu đi, và ở đây, trước sự ngạc nhiên của nhóm thợ săn, chúng tôi thấy mình đang ở giữa đàn hải cẩu – chúng là đàn thứ hai, hoặc đàn có nhiệm vụ bảo vệ. Điều này rất bất thường. Nhưng những gì diễn ra là "Xuống thuyền!", rồi tiếng nổ của súng vang lên, và cuộc tàn sát đáng sợ lại kéo dài suốt cả ngày.

    Vào thời gian này, Leach tiếp cận tôi. Lúc tôi vừa hoàn thành việc kiểm đếm số tấm da của chiếc thuyền cuối cùng trên tàu thì nó đến gần tôi và hạ giọng nói trong bóng tối:

    "Ông có thể nói cho tôi biết không, ông Van Weyden, chúng ta cách bờ biển bao xa, Yokohama ở hướng nào?"

    Trái tim tôi nhảy lên vui sướng, vì tôi biết những gì nó đang nghĩ, tôi chỉ phương hướng cho nó về phía tây tây bắc, cách đây khoảng năm trăm dặm

    "Cảm ơn, thưa ông," là tất cả những gì nó nói khi lủi vào bóng tối.

    Sáng hôm sau, thuyền số ba của Johnson và Leach đã mất tích. Những cái vòi nước và những cái hộp của tất cả các thuyền khác cũng bị mất tích cùng với giường và túi đi biển của hai người đàn ông. Larsen Sói nổi cơn giận dữ. Ông ta chuyển hướng tàu về phía tây tây bắc, phái hai thợ săn túc trực trên đầu cột buồm, dùng ống nhòm rà soát trên biển, còn ông ta đi lại trên boong như một con sư tử đang cơn thịnh nố. Ông ta biết quá rõ tôi đã đồng lõa với những kẻ chạy trốn nên không cho tôi lên vị trí tìm kiếm trên cột buồm.

    Gió to nhưng rất thất thường, để tìm thấy con thuyền nhỏ bé đó giữa màu xanh bao la kia giống như mò kim đáy bể. Nhưng ông ta điểu khiển chiếc Bóng Ma chạy với tốc độ tốt nhất, để cắt ngang tuyến đường giữa những kẻ đào tẩu và đất liền. Để chắc chắn, ông ta cho tàu chạy qua chạy lại cắt qua những cung đường ông ta biết chắc chắn Leach và Johnson sẽ đi.

    Vào buổi sáng ngày thứ ba, ngay sau tám tiếng chuông giữa các ca trực, Smoke hô rằng đã nhìn thấy chiếc thuyền từ trên cột buồm. Tất cả mọi người đều ra lan can. Một làn gió nhẹ nhàng thổi qua từ phía tây, dự báo rằng đằng đó sẽ thổi tới nhiều gió hơn; ở đó, hướng khuất gió, trong ánh sáng màu bạc mờ đục của bình minh, một đốm đen xuất hiện rồi biến mất.

    Chúng tôi xoay tàu xuôi gió và đuổi theo. Trái tim tôi nặng trĩu. Tôi muốn đổ bệnh trước tương lai sắp đến; khi tôi nhìn thấy vẻ đắc thắng trong mắt Larsen Sói, hình bóng ông ta choán ngợp trước mặt tôi, tôi cảm thấy mình như muốn lao vào ông ta ngay lập tức. Hẳn tôi đã choáng váng vì viễn cảnh tàn tệ Leach và Johnson sắp phải chịu tới nỗi không còn suy nghĩ tỉnh táo được nữa.. Tôi nhớ là mình đã mụ mị đi xuống khoang lái, nhưng ngay khi vừa mới leo trở lại boong với một khẩu súng săn đầy đủ đạn trong tay, thì bỗng có một tiếng hét làm tôi giật mình:

    "Có năm người đàn ông trên chiếc tàu đó!" Tôi phải tựa vào bậc thang xuống cabin trong tình trạng yếu đuối và run rẩy, nghe những người khác đã xác nhận những gì Smoke thấy là đúng Sau đó, đầu gối của tôi trĩu nặng, và tôi quỳ sụp xuống và ngay lập tức thấy kinh hoảng nhận ra mình đã định làm gì. Tôi cảm thấy may mắn vì mình đã kịp quẳng súng đi và lén quay trở lại boong.

    Không ai nhận thấy sự vắng mặt của tôi. Khoảng cách với chiếc tàu đó đã để chúng tôi nhận ra rằng nó lớn hơn bất kì chiếc tàu săn hải cẩu nào và được đóng theo hình dáng khác biệt. Khi chúng tôi tiến gần hơn, cánh buồm được thu vào và cột buồm hạ xuống. Mái chèo đã lắp sẵn, những người trên tàu đang chờ chúng tôi dừng lại và đưa họ sang.

    Smoke, người đã xuống boong và giờ đang đứng cạnh tôi, bắt đầu cười khúc khích đầy ẩn ý. Tôi tò mò nhìn anh ta.

    "Loạn xạ hết rồi!" Anh ta khúc khích. "Chắc chắn là một người đẹp."

    "Chuyện gì vậy?" Tôi hỏi lại.

    Anh ta cười tiếp. "Ông không thấy ở kia à, chỗ dây lèo ở cuối thuyền, ở dưới cùng ấy? Tôi sẽ không bao giờ bắn một con hải cẩu nào nữa nếu đó không phải là một người phụ nữ!" Tôi nhìn kỹ hơn, nhưng vẫn không dám chắc cho đến khi những tiếng reo hò nổ ra ở mọi phía.

    Chiếc tàu đó chở bốn người đàn ông, và thành viên thứ năm trên đó rõ ràng là một người phụ nữ.

    Tất cả chúng tôi đều rất hào hứng, ngoại trừ Larsen Sói, ông ta rõ ràng đang thất vọng vì đó không phải là chiếc tàu chở hai nạn nhân của mình.

    Chúng tôi hạ buồm phụ rời, kéo dây lèo buồm phụ theo hướng gió và căng ngang dây kéo buồm chính, đi xuôi chiều gió. Mái chèo đập xuống nước, những tiếng gõ lộc cộc dọc vang ra từ chiếc tàu bên cạnh. Lúc này tôi mới liếc nhìn người phụ nữ kia.

    Cô ấy mặc một cái áo choàng dài, hẳn là vì hơi lạnh sáng sớm, tôi không thể thấy gì ngoài khuôn mặt và mái tóc màu nâu nhạt lộ ra từ dưới chiếc mũ thủy thủ trên đầu cô. Đôi mắt to màu nâu rất sáng, khóe miệng ngọt ngào chứa chan tình cảm, khuôn mặt trái xoan thanh tú dù đã rám đỏ vì gió biển và mặt trời.

    Trông cô ấy giống một sinh vật đến từ một thế giới khác đối với chúng tôi. Tôi nhận ra mình khao khát muốn tiếp xúc với cô, như một kẻ chết đói muốn bánh mì. Nhưng tôi đã không gặp một người phụ nữ trong khoảng thời gian rất dài. Tôi biết tôi đang cực kì băn khoăn, gần như hoảng loạn – đây là một người phụ nữ à? – nên tôi như quên cả bản thân và nhiệm vụ thuyền phó, không hề giúp đỡ những người mới lên tàu. Khi một trong những thủy thủ đỡ cô ấy tới trước bàn tay đón đợi của Larsen Sói, cô ấy ngẩng đầu nhìn vào những khuôn mặt tò mò của chúng tôi và mỉm cười vừa vui vẻ vừa ngọt ngào, chỉ một người phụ nữ mới có thể mỉm cười như vậy, đã lâu rồi tôi mới được thấy nụ cười ấy, nên đã suýt quên rằng nó tồn tại.

    "Anh Van Weyden!" Giọng nói của Larsen Sói khiến tôi tỉnh táo lại.

    "Anh sẽ dẫn người phụ nữ này xuống dưới và giúp cô ấy cảm thấy thoải mái chứ? Dọn một chỗ trống ở cabin ấy. Để thằng Bếp làm việc đó đi. Còn anh thì hãy xem có thể chữa trị khuôn mặt này không. Mặt cô ấy bị cháy nắng tệ quá." Ông ta quay lưng lại với chúng tôi và bắt đầu hỏi han về những người mới. Chiếc tàu bị thả cho trôi đi, mặc dù một trong số người cho rằng việc đó "đáng tiếc muốn chết", bởi Yokohama rất gần đây.

    Tôi cảm thấy mình mang một nỗi sợ kì lạ với người phụ nữ tôi đang dẫn đi theo. Hơn thế, tôi đang rất lúng túng. Tôi cứ như thể mới vừa ngộ ra phụ nữ là sinh vật tinh tế và mong manh tới nhường nào, khi tôi cầm tay cô ấy để đỡ cô ấy xuống cầu thang, tôi phát hoảng bởi sự nhỏ bé và mềm mại của bàn tay ấy. Thật vậy, cô ấy là một người phụ nữ mảnh dẻ, tinh tế, như bất kì người phụ nữ nào, nhưng với tôi, cô ấy mảnh mai và tinh tế như tiên giáng trần, đến mức tôi sợ bàn tay cô sẽ vỡ vụn trong tay mình. Tôi thẳng thắn thừa nhận đó là ấn tượng đầu tiên của tôi, sau một thời gian quá dài không biết tới hình ảnh phụ nữ và lần đầu tiên diện kiến Maud Brewster.

    "Đừng bận tâm nhiều về tôi," cô ấy phản đối, khi tôi để cô ngồi xuống chiếc ghế bành của Larsen Sói bị tôi vội lôi ra từ cabin của ông ta. "Những người đàn ông đó đã tìm kiếm đất liền suốt sáng nay, hẳn tàu sẽ tới bờ vào đêm, anh có nghĩ thế không?" Niềm tin thuần khiết của cô ta vào tương lai trước mắt đã khiến tôi sửng sốt. Làm thế nào tôi có thể giải thích cho cô ấy tình hình nơi đây, về người đàn ông kì quặc rong ruổi trên biển như Định mệnh, về tất cả những điều tôi phải mất nhiều tháng mới hiểu? Dẫu sao, tôi vẫn thành thật trả lời:

    "Nếu đó là bất kì thuyền trưởng nào khác trừ ông ta, tôi đảm bảo rằng cô sẽ lên bờ ở Yokohama vào ngày mai. Nhưng thuyền trưởng của chúng tôi là một kẻ kì quặc, tôi mong cô hãy chuẩn bị cho bất cứ điều gì.. cô hiểu chứ? Cho bất cứ điều gì."

    "Tôi.. tôi phải thú nhận mình chẳng hiểu gì cả," cô do dự, trong mắt hàm chứa sự lo lắng, nhưng không hề sợ hãi.

    "Chẳng lẽ tôi đã luôn hiểu sai ư, rằng những người bị đắm tàu luôn được quan tâm hơn? Đây là một chuyện rất nhỏ, anh biết đấy, chúng ta đang rất gần với đất liền."

    "Thật thà mà nói, tôi không biết," tôi cố gắng trấn an cô ấy. "Tôi chỉ mong cô chuẩn bị sẵn sàng cho điều tồi tệ nhất, nếu nó xảy đến. Vị thuyền trưởng của chúng tôi là một kẻ hung bạo, một con quỷ, không ai có thể đoán trước hành động điên rồ tiếp theo của ông ta."

    Tôi trở nên kích động, nhưng cô ấy đã cắt ngang tôi bằng một câu "Ồ, tôi hiểu rồi," với giọng yếu ớt. Giờ suy nghĩ thôi đã cần nỗ lực lớn. Cô ấy gần như sắp ngã quỵ.

    Cô ấy không hỏi thêm gì nữa, còn tôi chẳng muốn nhắc lại, chỉ răm rắp làm theo mệnh lệnh của Larsen Sói, khiến cô ấy được thoải mái. Tôi rối lên như một bà nội trợ, sục sạo tìm các loại thuốc kem xoa dịu vết cháy nắng, thứ mà tôi biết có một chai như vậy trong kho riêng của Larsen Sói, rồi chỉ đạo Thomas Mugridge sửa soạn phòng riêng cho cô..

    Những cơn gió đang mạnh lên, Bóng Ma càng lúc càng nghiêng, khi phòng riêng đã được dọn xong, tàu nhúng mình xuống nước như một cái kẹp. Tôi đã hoàn toàn quên mất sự tồn tại của Leach và Johnson trước khi nghe thấy một tiếng hô như sấm, "Dừng thuyền!" vọng xuống từ bậc cầu thang cabin. Đó là giọng nói không lẫn đi đâu được của Smoke, vang lên từ đỉnh cột buồm. Tôi liếc nhìn người phụ nữ kia, nhưng cô ấy đang dựa lưng vào chiếc ghế bành, mắt nhắm lại, mệt mỏi tới kiệt quệ. Tôi đoán cô chẳng thể nghe được gì vào lục này, và tôi quyết tâm ngăn cản không để cô ấy nhìn thấy cảnh bạo lực chắc chắn sẽ xảy ra khi những kẻ đào tẩu bị bắt giữ. Cô ấy đang rất mệt mỏi. Rất tốt. Cô ấy nên ngủ.

    Những mệnh lệnh nhanh chóng truyền đi trên boong tàu, tiếng giậm chân và tiếng vỗ của các mép buồm vang lên, con tàu Bóng Ma lao vút đi trong gió theo hướng đó. Khi con tàu nhận đủ gió và nghiêng về một bên, chiếc ghế bành trượt trên sàn cabin, tôi vội giữ nó lại để ngăn người phụ nữ vừa được cứu không bị văng xuống sàn.

    Đôi mắt nặng trĩu của tỏ vẻ lúng túng và ngạc nhiên khi cố ngước nhìn tôi. Cô loạng choạng tí nữa thì vấp ngã, nên tôi dẫn cô ấy về cabin.

    Mugridge cười nhăn nhở đầy hàm ý trước mặt tôi khi tôi đẩy gã ra và ra lệnh cho gã trở lại làm việc trong bếp. Để trả thù, gã lan truyền với đám thợ săn rằng tôi có tố chất làm "hầu gái của Quý cô" xuất sắc như thế nào.

    Cô ấy nặng nề dựa vào tôi, có lẽ cô đã ngủ gật giữa quãng đường từ ghế bành tới phòng riêng. Tôi phát hiện ra điều này khi cô ấy ngã người vào giường ngủ lúc con tàu đột ngột tròng trành. Cô ấy bật dậy, uể oải cười, rồi lại lăn ra ngủ tiếp. Tôi để cô ấy nghỉ ngơi, dưới tấm chăn đôi nặng nề của thủy thủ, đầu gối lên chiếc gối tôi đã lấy từ giường của Larsen Sói.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
  10. Chanh97hh

    Bài viết:
    73
    Chương 19

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi lên boong tàu và thấy chiếc Bóng Ma đang chạy rạt về hướng mạn trái, rẽ gió mà đi nhằm thẳng hướng con thuyền quen thuộc đang chạy ngược gió vốn thuộc cùng đội tàu với chúng tôi. Tất cả mọi người đều ở trên boong tàu, vì họ biết sẽ có điều gì đó xảy ra khi Leach và Johnson bị kéo lên tàu.

    Bốn tiếng chuông vang lên báo đổi ca. Louis đứng thay vào vị trí cầm lái. Không khí có một chút ẩm ướt, tôi nhận thấy anh ta đang mặc đồ vải dầu.

    "Chúng ta sắp đón chờ điều gì đây?" Tôi hỏi anh ta.

    "Một cơn gió mạnh thổi qua, thưa ông," anh ta trả lời, "với một chút mưa chỉ đủ làm ướt cằm, không hơn."

    "Thật tệ, chúng ta đã phát hiện ra họ," tôi nói, khi mũi tàu Bóng Ma bị lệch một độ trên biển lớn. Trong khoảnh khắc chiếc thuyền vọt lên cao hơn cả tầm những cánh buồm con và hiển hiện toàn bộ trước mắt chúng tôi. Louis quay một nấc bánh lái và im lặng mất một lúc.

    "Họ sẽ không bao giờ tới được đất liền đâu, thưa ông, tôi nghĩ vậy."

    "Anh nghĩ họ không thể ư?" Tôi chất vấn.

    "Không, thưa ông. Ông có cảm thấy điều đó không?" Một cơn gió mạnh đã tạt vào tàu, khiến anh ta buộc phải xoay bánh lái thật nhanh để giữ con tàu thoát khỏi cơn gió. "Tới một mảnh vỏ trứng cũng không thể bơi trên vùng biển này trong vòng một giờ tới. Thật may mắn chúng ta có mặt ở đây mà cứu họ lên."

    Larsen Sói sải bước từ giữa tàu tới phần đuôi, nơi ông ta sẽ nói chuyện với những người đàn ông vừa được giải cứu. Bước chân êm như mèo của ông ta êm hơn một chút so với bình thường, đôi mắt ông sáng rực vui vẻ.

    "Ba thợ dầu và một kĩ sư," câu nói vang lên thay lời chào. "Nhưng chúng ta sẽ biến họ thành thủy thủ, hoặc tay chèo, sao chẳng được. Hiện người phụ nữ thế nào rồi?"

    Tôi không biết tại sao, nhưng tôi cảm thấy một cơn nhức nhối, đau xót như dao cứa khi ông ta nhắc đến cô ấy. Tôi nghĩ đó là phần suy nghĩ rối rắm và ngớ ngẩn của riêng mình, luôn tồn tại dù tôi có làm gì. Để đáp lại ông ta, tôi nhún vai.

    Larsen Sói mím môi tạo thành tiếng rít dài kì quặc. "Tên cô ta là gì?" Ông ta yêu cầu.

    "Tôi không biết," tôi trả lời. "Cô ta đang ngủ. Cô ra đã rất mệt mỏi. Thực ra tôi đang chờ nghe tin từ ông đấy. Tàu đó là tàu gì vậy?"

    "Tàu chuyển thư chạy bằng hơi nước," ông ta trả lời ngay. "Đích đến là Thành phố Tokio, từ'Frisco, sắp đi tới Yokohama thì bị cơn bão phá hỏng. Ống hơi cũ rồi. Thủng trên thủng dưới như một cái sàng. Họ đã lênh đênh bốn ngày. Anh không biết cô ta là ai, cô ta là người như thế nào, một cô thiếu nữ chưa chồng, một bà vợ hay góa phụ? Ái chà." Ông ta bỡn cợt lắc đầu và nhìn tôi với đôi mắt cười.

    "Ông có.." Tôi mở miệng. Câu hỏi liệu ông ta có định đưa những người bị nạn tới Yokohama hay không cứ treo nơi đầu lưỡi.

    "Tôi có gì cơ?" Ông ta hỏi.

    "Ông định làm gì với Leach và Johnson?"

    Ông ta lắc đầu.

    "Thực sự thì, Hump, tôi không biết. Anh thấy đấy, thêm được ngần này người, tôi đã có toàn bộ số thuyền viên tôi muốn."

    "Mong muốn tự do là tất cả những gì họ muốn," tôi nói. "Tại sao không đối xử với họ khác đi? Đưa họ lên tàu và xử nhẹ họ. Bất cứ điều gì họ đã làm, họ đều làm do bị ép buộc."

    "Bởi ta?"

    "Bởi ông," tôi tự tin trả lời. "Tôi phải cảnh báo ông, ông Larsen Sói, không chừng tôi sẽ quên mất tình yêu với cuộc đời vì mong muốn giết ông nếu ông đi quá xa trong việc hành hạ những người khốn khổ đó."

    "Hoan hô!" Ông ta reo lên. "Anh làm tôi tự hào đấy, Hump! Anh đã tự lập ngoài mong đợi của tôi. Anh là người khá đặc biệt. Anh thật bất hạnh khi sống ở nơi quá an nhàn, nhưng anh đang dần trưởng thành và tôi thấy thích anh hơn vì điều đó." Giọng nói và biểu cảm của ông ta thay đổi. Khuôn mặt ông ta rất nghiêm túc.

    "Anh có tin vào lời hứa không?" Ông ta hỏi. "Chúng là những điều thiêng liêng phải không?"

    "Tất nhiên," tôi trả lời.

    "Đây là một cái la bàn," ông ta tiếp tục nói, như một diễn viên tài năng. "Nếu tôi hứa sẽ không động tay vào Leach và Johnson, liệu anh có vì thế mà hứa sẽ không giết tôi? Ồ, không phải là tôi sợ anh, không phải là tôi sợ," ông ta vội thêm vào.

    Tôi không tin được vào tai mình. Ông ta bị làm sao vậy?

    "Có đồng ý không?" Ông ta sốt ruột hỏi.

    "Đương nhiên," tôi trả lời.

    Tay ông ta giơ ra, và khi tôi chân thành bắt lấy bàn tay đấy, tôi có thể thề rằng đã thấy vẻ hung ác xảo quyệt lóe lên trong mắt ông ta. Chúng tôi rảo bước qua bục đuôi tàu sang phía khuất gió. Chiếc thuyền bây giờ đã ở rất gần và đang bơi đi trong tuyệt vọng. Johnson đang cầm lái, Leach tát nước trong thuyền ra. Chúng tôi bắt kịp và chỉ còn cách họ khoảng hơn nửa mét. Larsen Sói ra hiệu cho Louis chậm lại một chút, chúng tôi dạt đến chỉ cách con thuyền khoảng hai mét theo chiều gió.

    Vào lúc này, Leach và Johnson ngước lên nhìn khuôn mặt của những người bạn cùng tàu với mình, những người đang đứng thành hàng nơi lan can giữa tàu. Không ai chào đón họ. Họ bị coi là những người đã chết với đồng đội của mình, khoảng cách giữa hai bên là vực thẳm giữa sự sống và cái chết.

    Một giây sau, họ ở đối diện với đuôi tàu, nơi Larsen Sói và tôi đang đứng.

    Chúng tôi đứng giữa hai đỉnh sóng, khi đỉnh sóng bên họ dâng lên cao, Johnson nhìn tôi, tôi có thể thấy rõ vẻ mệt mỏi và hốc hác trên mặt anh ta. Tôi vẫy tay với anh ấy, anh ấy đáp lại lời chào, nhưng đó là cái vẫy tay vô vọng và tiếc nuối. Anh ta như thể đang nói lời chia tay vậy. Tôi không nhìn vào mắt của Leach, vì nó đang trừng mắt với Larsen Sói, tiếng gầm gừ quen thuộc và không biết mệt mỏi mạnh mẽ y như nỗi hận thù hiển hiện trên mặt nó.

    Sau đó, họ tụt lại phía sau. Đột nhiên, cánh buồm chính căng tràn gió, con thuyền lật nghiêng về một bên lộ ra sống thuyền như thể nó sẽ úp xuống ngay lập tức.

    Larsen Sói bắn một tràng cười ha hả vào tai tôi và sải bước về bục đuôi tàu phía hứng gió. Tôi mong ông ta ra lệnh cho Bóng Ma dừng lại, nhưng con tàu cứ tiếp tục đi và ông ta chẳng tỏ thái độ nào. Louis đứng im nơi bánh lái, nhưng tôi nhận thấy nhóm thủy thủ phía trước mặt biến sắc nhìn về hướng chúng tôi.

    Tuy nhiên, tàu Bóng Ma vẫn lao nhanh cho đến khi chiếc thuyền thu nhỏ lại thành một dấu chấm trên đại dương. Khi giọng nói của Larsen Sói vang lên ra lệnh, chúng tôi đi theo hướng mạn phải.

    Chúng tôi dừng lại tại đó, cách con thuyền bé nhỏ như vỏ hến kia khoảng hơn hai dăm đường gió, sau đó buồm phụ hạ xuống và tàu dừng lại. Ở ngoài vùng hoang vu kia, không có nơi ẩn náu nào cho Leach và Johnson như trên Bóng Ma, và họ đã quyết tâm bắt đầu cuộc săn đuổi đối nghịch với chiều gió. Sau một tiếng rưỡi, họ đã tới được gần sát mạn tàu, chỉ cách đuôi tàu một sải chân, nhằm đưa chúng tôi vào chân tiếp theo. Và có ý định duy trì khoảng cách đó.

    "Vậy là tụi mày đã đổi ý rồi?" Tôi nghe thấy tiếng Larsen Sói lẩm bẩm, vừa với chính mình, vừa với họ như thể họ nghe được. "Mày muốn lên tàu, hả? Tốt thôi, vậy cứ tới đi. Coi chừng bánh lái đó!" Ông ta ra lệnh cho Oofty–Oofty, anh chàng người Kanaka, đã thay Louis cầm lái.

    Các mệnh lệnh dồn dập ra đời. Vì thiếu sức gió, các dây lèo buồm mũi và buồm chính chùng xuống. Chúng tôi chờ gió và chồm sóng, khi Johnson nới lỏng dây lèo trước mối hiểm nguy sắp tới, để con thuyền nhỏ cắt qua lằn tàu chạy cách chúng tôi chừng một trăm mét. Một lần nữa Larsen lại phá lên cười và vẫy tay ra hiệu gọi họ theo. Rõ ràng ông ta muốn chơi đùa với họ – muốn dạy cho họ một bài học, tôi hiểu điều đó, tuy không đánh đập, nhưng đây là một bài học đáng sợ vì con thuyền nhỏ bé có thể bị chìm bất cứ lúc nào.

    "Đó là nỗi sợ cái chết trong lòng họ," Louis lẩm bẩm vào tai tôi khi tôi đi về khoang trước để thu buồm phụ rời và buồm chéo.

    "Ồ, ông ấy sẽ cho dừng tàu ở đó và kéo họ lên thôi," tôi vui vẻ trả lời.

    Louis nhìn xoáy vào tôi. "Ông nghĩ vậy ư?" Anh ta hỏi.

    "Đương nhiên," tôi trả lời. "Anh không nghĩ vậy ư?"

    "Trong những ngày này, tôi không nghĩ đến điều gì ngoài những tấm da hải cẩu chúng ta săn được," anh ta trả lời. "Đó là lí do để tôi vùi đầu vào công việc. Tí rượu whiskey Frisco là đủ để tôi ngây ngất, còn ngây ngất hơn khi thấy người phụ nữ ông đã đưa xuống cuối tàu kia. À, tôi vẫn biết ông là một kẻ ngốc dẻo miệng mà."

    "Ý anh là sao?" Tôi hỏi với theo, vì anh ta đột ngột quay ngoắt đi.

    "Ý tôi là gì ư?" Anh ta gào lên. "Ông hỏi tôi cơ đấy! Ý tôi là gì nào quan trọng, phải là ý lão Sói là gì, là lão ấy!"

    "Nếu có chuyện xảy ra, anh sẽ làm ngơ sao?" Tôi không kiềm được câu hỏi, vì anh ta đã nói lên nỗi sợ hãi của chính tôi.

    "Làm ngơ? Louis già béo bệu làm ngơ thôi đã đủ rắc rối lắm rồi. Bây giờ mới chỉ là bắt đầu thôi, tôi đã bảo ông rồi, mới chỉ là bắt đầu thôi."

    "Tôi cứ tưởng anh không phải người hèn nhát," tôi rít lên.

    Anh ta khinh miệt nhìn tôi.

    "Nếu tôi chưa từng giúp lũ ngốc đáng thương đó – chỉ về phía cánh buồm nhỏ xíu đằng xa," thì ông nghĩ tôi còn sức bận tâm tới một người phụ nữ tôi chưa từng để mắt tới cho đến ngày hôm nay sao? "

    Tôi khinh bỉ quay đi và đi về phía đuôi tàu.

    " Tốt hơn hết là lên buồm đỉnh đi, anh Van Weyden, "Larsen Sói nói, khi tôi trở lại bục đuôi.

    Tôi cảm thấy nhẹ nhõm, ít nhất là hai người đó đang được để ý đến. Tôi hiếm khi mở miệng trừ khi là để đưa ra những mệnh lệnh cần thiết, nóng nảy nhảy lên những sợi dây buồm, những người khác thì đang đua nhau trèo lên đỉnh buồm. Sự sốt ruột của họ được Larsen Sói ghi nhận với một nụ cười dữ tợn.

    Chúng tôi gia tăng tốc độ, tới khi chiếc thuyền nhỏ bị tụt lại phía sau vài dặm, chúng tôi dừng lại chờ đợi. Mọi ánh mắt đều hướng về con thuyền ấy, ngay cả đôi mắt của Larsen Sói; nhưng ông ta là người duy nhất trên tàu không hề tỏ ra xúc động. Louis vẫn luôn chăm chú nhìn, không thể che giấu mà để lộ chút vẻ lo lắng trên khuôn mặt.

    Chiếc thuyền tiến lại gần hơn và gần hơn, lướt qua biển xanh trong suốt như một vật thể sống, nâng lên rồi hạ xuống cưỡi lên những con sóng lớn, hoặc biến mất đằng sau đỉnh sóng để rồi vút thẳng lên trời. Dường như nó không thể nào có thể tiếp tục sống, nhưng với mỗi lần sóng quét qua, nó lại làm được điều không thể. Một cơn gió mạnh kèm với mưa ào qua, làm ướt nhẹp toàn bộ con thuyền vừa hiện ra, gần đến chỗ chúng tôi.

    " Khẩn trương lên! "Larsen hét lên, tự mình lao tới bánh lái và xoay nó lại.

    Một lần nữa Bóng Ma vọt đi và chạy trước gió. Trong hai giờ đồng hồ, Johnson và Leach tiếp tục đuổi theo chúng tôi. Chúng tôi dừng lại và bỏ chạy, dừng lại và chạy tiếp; mảnh buồm nhỏ đằng xa nơi phía sau tàu cứ tung lên trời rồi lại rơi vào xuống giữa những con sóng. Khoảng một phần tư dặm tiếp theo, một màn mưa dày xuất hiện che khuất tầm nhìn. Không còn thấy con thuyền đâu nữa. Gió đã xoa tan mưa, nhưng chẳng còn mảnh buồm nào xuất hiện trên mặt nước sục sôi cả. Tôi nghĩ rằng mình đã thấy, trong thoáng, đáy của chiếc thuyền có màu đen trong một đợt sóng. Đó là điều tốt lành nhất, cho tất cả mọi người. Đối với Johnson và Leach, cuộc đấu tranh khắc nghiệt giành sự sống đã chấm dứt.

    Những người đàn ông còn lại tụ tập lại giữa tàu. Không ai trở xuống dưới, không ai nói gì. Chẳng ai liếc nhìn nhau. Từng người cứ như bị choáng váng tới mơ hồ, họ biết chắc điều đã xảy ra, nhưng lại không dám chắc và phải cố gắng để nhận ra những gì đã xảy ra. Larsen Sói cho họ quá ít thời gian để suy nghĩ. Ngay sau đó, ông ta đưa tàu Bóng Ma vào đúng hướng – nhằm tới đàn hải cẩu chứ không phải là cảng Yokohama. Nhưng những người đàn ông đã không còn sốt ruột kéo dây buồm. Tôi nghe thấy những lời nguyền rủa trong đám đông, chúng nặng nề và vô hồn như chính họ. Đội thợ săn thì không đến nỗi như vậy. Đó là câu chuyện không liên quan và ngoài tầm với của họ, họ đi xuống khoang lái với tiếng cười giòn.

    Khi tôi đi qua phía khuất gió ngang căn bếp trên đường ra phía sau tàu, tôi bị người kĩ sư mới được giải cứu tiếp cận. Khuôn mặt anh trắng bệch, môi run rẩy.

    " Lạy Chúa lòng lành! Thưa ông, con tàu bị cái quái quỷ gì thế này? "Anh ta thốt lên.

    " Anh có mắt; anh thấy rồi đấy, "tôi tàn nhẫn trả lời, bỏ mặc nỗi đau và sự sợ hãi trong trái tim mình.

    " Ông đã hứa gì? "Tôi nói với Larsen Sói.

    " Tôi đã không nghĩ đến việc đưa họ lên tàu khi tôi hứa điều đó, "ông ta trả lời." Và, dù sao đi nữa, anh phải đồng ý rằng tôi không hề đụng tay đụng chân đến họ. Chắc chắn là không nhé, không hề,"một lúc sau đó, ông ta cười.

    Tôi không trả lời. Tôi không thể nói nên lời, tâm trí đang rối bời. Tôi cần thời gian suy nghĩ, tôi biết. Người phụ nữ kia hiện vẫn đang ngủ trong cabin khách, cô ta là phần trách nhiệm tôi cần cân nhắc, và ý nghĩ hợp lí duy nhất lóe lên trong đầu tôi là tôi sẽ không làm gì hấp tấp nếu cô ấy cần bất kì sự giúp đỡ nào từ tôi.
     
    Nguyễn Ngọc Nguyên thích bài này.
Từ Khóa:
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...