- Xu
- 13,813,518


Dẫn chứng mở rộng bài Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm
Điểm sáng tạo cho bài văn nghị luận từ lâu được đưa vào khung điểm chính thức của biểu điểm, đáp án các kì thi.
Sáng tạo trong văn nghị luận thể hiện qua nhiều khía cạnh: Cách dùng từ, đặt câu, cách kiến tạo câu văn, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cách vận dụng kết hợp các thao thác lập luận, cách so sánh, liên hệ mở rộng..
Vậy làm thế nào để đạt được số điểm sáng tạo, với đoạn nghị luận xã hội là 0.25 điểm và bài nghị luận văn học là 0.5 điểm?
Tôi xin chia sẻ một cách (trong nhiều cách) để đạt điểm sáng tạo, đó là phải biết vận dụng liên hệ so sánh thêm với những ngữ liệu có liên quan đến tác phẩm nghị luận.
Chú ý:
- Khi liên hệ, so sánh, ta phải chỉ ra điểm tương đồng hoặc khác biệt giữa các ngữ liệu để đi đến những nhận xét, khái quát cần thiết.
- Không nên lạm dụng thao tác này, mỗi bài nghị luận chỉ nên liên hệ, so sánh từ 2 - 3 ngữ liệu.

Liên hệ Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm
1. Dẫn chứng liên hệ khái quát: thơ miền Nam chống Mĩ:
Trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm nằm trong số những tác phẩm tiêu biểu của thơ phong trào thơ chống Mĩ. Hàng loạt các tập thơ ra đời đã thể hiện lòng yêu nước sục sôi, tinh thần đấu tranh anh dũng của thế hệ trẻ miền Nam. Thơ của họ là tiếng lòng của những con người nguyện sống chết cho non sông:
Nếu thơ con bất lực
Con xin nguyện trọn đời
Dùng chính trái tim mình làm trái phá
Sống chết một lần thôi.
(Trần Quang Long)
Thơ của họ bừng bừng khí thế hào hùng của tuổi trẻ trong đấu tranh giải phóng quê hương:
Ta nghe chừng đoàn người ngựa Thăng Long
Đang phá vỡ trùng vây, đập tan quân cướp nước
Ta đã thấy vành đai mở rộng
Thành phố rộn ràng khoác áo tứ thân.
(Nguyễn Kha)
Thơ Nguyễn Khoa Điềm nói riêng và thơ chống Mĩ nói chung đã góp phần tạo nên hình ảnh đẹp của thế hệ trẻ miền Nam: yêu nước, sẵn sàng hi sinh, chiến đấu bảo vệ đất nước.
2. Dẫn chứng liên hệ khái quát: hình ảnh đất nước trong thơ:
Cảm hứng về đất nước đã trở thành mạch chủ lưu trên dòng sông văn học 1945 – 1975. Cảm hứng ấy mang đậm tính sử thi, được thể hiện trong niềm tự hào sâu xa về đất nước, về truyền thống dân tộc, về lịch sử dựng nước và giữ nước, trong tình yêu quê hương, trong sự yêu mến và gắn bó với mọi nẻo đường xử sở... Đất nước trong thơ Chế Lan Viên là những hình ảnh gần gũi, thân thương:
Ta đã yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu kiều, bờ tre, mái rạ.
Mái đình cong cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo.
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả.
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo.
là lịch sử bốn nghìn năm vẻ vang anh dũng:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
...Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
Thơ Trần Đăng Khoa cũng bộc bạch những xúc cảm sâu xa về văn hoá dân tộc khi nhà thơ khắc hoạ hình tượng đất nước qua biểu tượng tiếng đàn bầu :
Những dây đàn bầu
Lại rung lên những âm thanh về con người và mặt đất
Tiếng ân tình mấy ngàn năm trước
Tiếng đàn bầu, tiếng đàn bầu
Ngân nga trong đêm trăng
Giữa hai mùa lúa
Dây đàn tưởng không bén tay chú nữa
Mà căng trong không gian
Tự rung lên ngàn đời sức mạnh Việt Nam.
(Tiếng đàn bầu và đêm trăng - Trần Đăng Khoa)
Nằm trong cảm hứng chung ấy, chương thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước với tư tưởng: Đất Nước của Nhân dân.
3. Dẫn chứng liên hệ khi phân tích 9 câu đầu:
- Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Không khí cổ tích huyền diệu đã được gợi nhắc đến qua nhịp điệu "ngày xửa ngày xưa". Đó chính là nhịp điệu ngàn đời của thần thoại, cổ tích và nó đã đánh thức trong tâm trí mỗi người không gian riêng của những phép màu thần thoại với đôi hài bảy dặm, với Thánh Gióng vươn vai thành tráng sĩ, với cô Tấm thảo hiền từ quả thị bước ra... Gắn với không khí cổ tích ấy, Đất Nước càng trở nên kì diệu, thiêng liêng.
- Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Từ câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta nhớ đến miếng trầu têm cánh phượng của cô Tấm, nhớ đến một trong những truyện cổ tích xưa nhất của người Việt: "Sự tích trầu cau", nhớ đến câu thành ngữ "Miếng trầu là dầu câu chuyện" và những lời hát dân ca da diết trữ tình: "Ăn một miếng trầu, gặp đây ăn một miếng trầu/ Không ăn cầm lấy cho nhau vừa lòng/ Trầu này trầu tính trầu tình/ Ăn vào cho đỏ môi mình môi ta"...Miếng trầu vốn là biểu tượng đẹp của nhân duyên tình nghĩa. Lời thơ hàm súc Nguyễn Khoa Điềm gợi lên những nét riêng trong đời sống sinh hoạt, trong phong tục tập quán và bản sắc tâm hồn người dân Việt Nam.
- Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước hiện lên với truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, lời thơ như có sự cộng hưởng của những câu ca dao xưa:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què.
Suốt chiều dài lịch sử bốn nghìn năm, dân tộc ta luôn luôn phải đương đầu với những thế lực ngoại xâm hung bạo. Trong những cuộc trường chinh không nghỉ ấy, cây tre Việt Nam đã lập nên bao kì tích. Từ truyền thuyết "Thánh Gióng" – khúc ca hào hùng về truyền thống yêu nước yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam đã thấy hiển hiện hình bóng cây tre. Chàng trai làng Gióng nhổ tre làm vũ khí đánh tan giặc Ân xâm lược. Trong những cuộc kháng chiến vệ quốc anh hùng, cây tre, đòn gánh tre, chông tre, mũi tên tre ... đã tham dự vào cuộc chiến đấu và lập nên bao chiến công. Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa làm hiện lên sống động hình ảnh cây tre trong lịch sử dân tộc chống ngoại xâm, vừa đem lại những nhận thức về đất nước ở phương diện: Đất Nước có trong truyền thống yêu nước đánh giặc ngàn đời của nhân dân ta.
- Đất Nước còn hiện hữu trong vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam với nghĩa tình chung thủy:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Câu thơ được xây dựng bằng các chất liệu của văn hóa, văn học dân gian. Ta như nhận thấy bóng dáng của câu thành ngữ "Gừng cay muối mặn" và những lời ca dao, dân ca đậm chất trữ tình:
Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Và:
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Tình nghĩa thủy chung chồng vợ là một trong những bản sắc tâm hồn của những con người đất Việt. Bản sắc ấy góp phần làm nên chân dung tinh thần của Đất Nước. Có lẽ vì thế mà trong những đoạn thơ sau, khi kể tên những danh lam thắng cảnh của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đề cập đến phương diện này...
- Đất Nước còn gắn liền với nền nông nghiệp trồng lúa nước từ bao đời và truyền thống lao động của nhân dân:
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Hình ảnh hạt gạo gợi nhớ đến sự tảo tần lam lũ của người nông dân đất Việt:
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK để like bài, đọc nội dung ẩn nhé!
Cần đăng nhập và nhấn Thích để xem đoạn này
Xem thêm:
Link 1: Dẫn chứng liên hệ bài: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Link 2: Dẫn chứng liên hệ bài: Người Lái Đò Sông Đà
Chỉnh sửa cuối: