Dẫn chứng liên hệ bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Thùy Minh, 6 Tháng mười một 2021.

  1. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024

    Liên hệ mở rộng bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường


    Điểm sáng tạo cho bài văn nghị luận từ lâu được đưa vào khung điểm chính thức của biểu điểm, đáp án các kì thi.

    Sáng tạo trong văn nghị luận thể hiện qua nhiều khía cạnh: Cách dùng từ, đặt câu, cách kiến tạo câu văn, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật, cách vận dụng kết hợp các thao thác lập luận, cách so sánh, liên hệ mở rộng..

    Vậy làm thế nào để đạt được số điểm sáng tạo, với đoạn nghị luận xã hội là 0.25 điểm và bài nghị luận văn học là 0.5 điểm?

    Tôi xin chia sẻ một cách (trong nhiều cách) để đạt điểm sáng tạo, đó là phải biết vận dụng liên hệ so sánh thêm với những ngữ liệu có liên quan đến tác phẩm nghị luận.

    Chú ý:

    - Khi liên hệ, so sánh, ta phải chỉ ra điểm tương đồng hoặc khác biệt giữa các ngữ liệu để đi đến những nhận xét, khái quát cần thiết.

    - Không nên lạm dụng thao tác này, mỗi bài nghị luận chỉ nên liên hệ, so sánh từ 2 - 3 ngữ liệu.

    Liên hệ mở rộng khi viết đoạn mở bài:

    "Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu,

    Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát.

    Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền, vượt thác,

    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi."

    "Trăm dáng sông xuôi ấy" không chỉ đẹp trong tự nhiên mà còn trở thành những dòng sông gợi thương gợi nhớ trong trang văn, trang thơ của biết bao người nghệ sĩ. Đó là dòng Vàm Cỏ Đông trong thơ Hoài Vũ, dòng sông quê hương "xanh biếc" trong thơ Tế Hanh, là "sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh" trong thơ Hoàng Cầm, là dòng Đà giang "độc bắc lưu" trong tùy bút Nguyễn Tuân.. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho văn đàn một áng văn tuyệt mĩ mà cảm hứng được khơi nguồn từ dòng sông xứ Huế thơ mộng: Sông Hương. Trong bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?", dòng Hương giang được Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả, cảm nhận qua nhiều phương diện và trong cả hành trình dài từ thượng nguồn đến khi ra biển cả. Đoạn văn: "Trong những dòng sông.. chân núi Kim Phụng" khắc họa vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn. Qua đoạn văn người đọc còn cảm nhận được những nét độc đáo, tài hoa trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

    Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn sông Hương vùng thượng nguồn:

    VD1: Trong tâm thức của mỗi người, dù có đi qua trăm núi, ngàn sông, thì dòng sông quê Hương vẫn luôn là dòng nhớ, dòng thương vô tận. Với tình yêu sâu nặng dành cho con sông xứ sở, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông bằng cái nhìn đầy ưu ái, có chút "thiên vị" trong câu văn đầu tiên của bài bút kí. Nhà văn chẳng ngại ngần khi xếp sông Hương ngang hàng cùng những dòng sông đẹp trên thế giới. Không những vậy, sông Hương còn thuộc về duy nhất thành phố Huế. Đó là điểm riêng biệt của dòng Hương: Tạo hóa sinh ra sông Hương là để dành riêng cho thành phố Huế. Nên không phải ngẫu nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường trong suốt bài kí này đã nhất quán trong việc khắc họa con sông như đã đi cùng Huế bằng cả một mối tình trọn vẹn, nhìn sông Hương và Huế như một cặp tình nhân lí tưởng, gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở:

    Nếu như chẳng có dòng Hương

    Câu thơ xứ Huế nửa đường đánh rơi

    (Nếu như chẳng có sông Hương – Huy Tập)

    VD2: Nhắc đến sông Hương, ta nhớ ngay đến dòng sông êm đềm thơ mộng đã đi vào bao áng thơ ca nhạc họa:

    "Con sông dùng dằng con sông không chảy.

    Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.."

    (Tạm biệt Huế - Thu Bồn)

    "Sông Hương nước chảy, thuyền trôi lững lờ,

    Em trao nón đợi và em hẹn hò."

    (Huế thương – nhạc An Thuyên)

    "Hương Giang ơi, dòng sông êm

    Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình."

    (Bài ca quê hương - Tố Hữu)

    Nhưng để mang đến cái nhìn trọn vẹn hơn về dòng sông xứ sở, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã "lội" ngược dòng sông Hương để tìm về khúc thượng nguồn của nó, rồi đắm say, mê mẩn, tạc nó vào trang văn như tạc một bức họa tuyệt mĩ.

    Giữa đại ngàn, sông Hương hiện lên như một "bản trường ca của rừng già". "Trường ca" là định danh chỉ áng thơ hay bản nhạc có dung lượng lớn và mang âm hưởng hùng tráng. Khi được dùng để so sánh với sông Hương, câu văn đã mang đến những liên tưởng thú vị, tạo ấn tượng về dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ. Nó hiện lên với chiều dài chiều rộng hùng vĩ và dòng chảy cuộn trào mãnh liệt. Không những vậy, khi chảy giữa "rừng già" bí ẩn, dòng sông còn mang trên mình vẻ đẹp của sự hoang dại, nguyên sơ..

    [​IMG]

    Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn sông Hương vùng ngoại vi thành phố:

    Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện và miêu tả của nhà văn về đặc điểm văn hóa của sông Hương. Dấu tích văn hóa in đậm ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn.

    Miêu tả dòng sông quãng này, Ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ họa trên trang sách dòng sông Hương với vẻ đẹp của sắc nước, dáng hình, mà đó còn là vẻ đẹp toát ra từ thần thái "như triết lí, như cổ thi" – vẻ đẹp trầm mặc của dòng sông. Khác hẳn với dòng sông vùng thượng nguồn "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc..", sông Hương khi giáp mặt thành phố lại mang một diện mạo mới. Vẻ "u tịch" của những rừng thông, nét "âm u" của những lăng tẩm, cùng "núi phủ, mây phong, mảnh trăng thiên cổ.." đã khiến dòng sông trở nên trầm mặc, tĩnh lặng.

    Nếu so sánh sông Hương như một bản trường ca thì có lẽ, sông Hương khi chảy qua quãng này chính là những nốt trầm sâu lắng nhất của bản trường ca kia. Phải chăng, chính vẻ trầm mặc đó của sông Hương, của xứ Huế đã khơi nguồn cảm xúc để những giai điệu da diết ngân lên trong nhạc phẩm "Huế tình yêu của tôi" :

    Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ

    Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt

    Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được

    Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư.

    Cái tài của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ, từ một con sông chảy giữa tự nhiên, giữa đời thường.. ông đã nhìn thấy thần thái của nó, rồi nảy một vài từ "trầm mặc.. như triết lý, như cổ thi" – chính xác đến vô cùng để người đọc có thể hình dung rõ ràng vẻ đẹp tinh tế ấy của dòng sông.

    Đặt trong văn cảnh cả bài kí, ta có thể lý giải vẻ trầm mặc của dòng sông như một chút lo lắng, bồn chồn của người con gái trước khi đối diện với người tình mong đợi. Dòng sông – người con gái như băn khoăn trong lòng: Liệu đã tìm đúng đường về? Vậy nên, vẻ trầm mặc ấy "kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.." mới tiếp chuyển sang một trạng thái khác..

    Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn sông Hương chảy vào thành phố Huế:

    Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK và like bài để đọc tiếp nội dung ẩn nha!

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
    Xem tiếp bên dưới: Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn sông Hương rời xa thành phố Huế
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng năm 2023
  2. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn sông Hương rời xa thành phố Huế:

    "Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ."

    Sông Hương cho đến khi rời đi vẫn phô hết vẻ đẹp của sự thơ mộng, duyên dáng đến say đắm lòng người. Phép tu từ nhân hóa "ôm" mang đến những liên tưởng thú vị. Cái ôm ấy trước hết khiến ta hình dung dòng chảy mềm mại của sông Hương khi chảy men theo chân đảo Cồn Hến, đồng thời còn khiến ta cảm nhận được biết bao tình cảm yêu thương mà sông Hương dành cho Huế. Cái ôm dịu dàng của tình yêu, cái ôm vương vấn không nỡ xa rời. Chữ "ôm" ấy mới chính xác và tinh tế làm sao!

    Hành trình sông Hương ra biển qua cách miêu tả của nhà văn làm sống dậy cả một vùng xanh mướt và thơ mộng của thiên nhiên Huế. Từ đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói đến màu xanh biếc của tre trúc, của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Cách miêu tả đậm chất thơ, chất họa khiến tất cả: dòng sông Huế, cảnh vật Huế hiện lên như một bức tranh thủy mặc. Chữ dùng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật gợi thương gợi nhớ biết bao. Sương khói nơi đảo Cồn Hến không phải bồng bềnh hay bao phủ bình thường mà là "mơ màng" - trạng thái rất con người. Sông Hương cũng không xuôi chảy hay trôi đi bình thường mà hết "ôm" lại "lưu luyến"; nhà văn cũng không tả tre trúc xanh biếc mà phải là màu xanh biếc của tre trúc để gây ấn tượng thật đậm về cái màu xanh mát rượi, mê đắm kia - màu xanh đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử với những vần thơ tuyệt bút:

    "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền."

    Ngòi bút tài hoa, lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tỉ mỉ, trau chuốt như đề thơ, đề họa vào từng con chữ để mang đến dòng Hương Giang xinh đẹp, thơ mộng ở nhiều góc độ: sông Hương không chỉ mang vẻ đẹp tự thân của dáng hình, sắc nước, điệu chảy.. sông Hương còn đẹp khi được tô điểm bởi thiên nhiên Huế. Giống như dòng Đà Giang "ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hao ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân" trong tùy bút Nguyễn Tuân.

    Chưa dừng lại ở đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nhìn thấy ở sông Hương đoạn "rẽ ngoặt" sang hướng Đông Tây để gặp thị trấn Bao Vinh xưa cổ là trạng thái "sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói" của người con gái sông Hương. Khúc rẽ ngoạt kia đơn giản chỉ là khúc cua lượn rất tự nhiên của bất cứ dòng sông nào khi gặp chướng ngại giữa hành trình:

    "Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em

    Sông lượn khúc, lượn dòng mà tới biển."

    Có dòng sông nào chỉ chảy theo một đường thẳng duy nhất trong suốt hành trình của nó? Sông Hương cũng thế, có gì lạ đâu? Ấy vậy mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trao cho nó trạng thái "giật mình", "đột ngột" để tạo hồn cho sông Hương. Chia tay mà còn có điều chưa kịp nói thì sao có thể yên tâm rời đi? Nên người con gái sông Hương trở về gặp thành phố tình yêu của nó lần cuối để trao gửi chút ân tình còn vương vấn. Và thị trấn Bao Vinh nơi sông Hương gặp thành phố lần cuối ấy đã trở thành không gian lãng mạn của tình yêu qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Điểm gặp cuối này giống như giếng nước, gốc đa, sân đình của những chàng trai, cô gái trong ca dao xưa.

    "Với thành phố Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình." - là nơi cái nhìn của thành phố đau đáu dõi theo lưu thủy sông Hương, đến mãi khi dòng sông hòa mình vào biển cả. Mười dặm trường là mười dặm thương nhớ luyến lưu. Còn với sông Hương, khúc quanh bất ngờ này khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy "có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người". Con mắt tinh tế, nhạy cảm của nhà văn đã liên tưởng ngay đến tâm trạng dùng dằng, bịn rịn của người con gái khi chia tay người yêu của mình. "Và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu". Phép "nhân cách hóa" mới độc đáo làm sao? Làm thế nào mà khúc quanh của dòng sông lại khơi dậy trong tâm trí nhà văn trí tưởng tượng thơ mộng đến thế? Sức liên tưởng, tưởng tượng của người nghệ sĩ luôn đem đến người đọc nhiều bất ngờ, thú vị. Và dòng sông vốn chỉ là dòng sông trong con mắt của bao người, qua lăng kính người nghệ sĩ lại trở thành cô gái chung tình, sâu sắc lạ. Nỗi "vương vấn" trước lúc chia xa, chút "lắng lơ kín đáo" của người con gái chủ động tìm gặp lại người yêu qua ngòi bút nhân hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến sông Hương hiện lên một cách trọn vẹn hơn. Trọn vẹn ở cái nghĩa, cái tình mà dòng nước ấy dành cho thành phố Huế. Trước khi về đến thành phố, nó tìm kiếm tình yêu. Khi đã tìm được tình yêu thì dịu dàng bồi đắp, đến lúc chia xa thì vấn vương, lưu luyến. Rõ ràng, sông Hương đã đi với Huế bằng cả một mối tình trọn vẹn.

    Không dừng lại ở phép nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn so sánh nỗi "vương vấn", "cái lẳng lơ kín đáo" của sông Hương khi tìm gặp lại thành phố "như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: Còn non- còn nước- còn dài- còn về- còn nhớ.." Sông Hương giống nàng Kiều, thành phố Huế tựa Kim Trọng. Tình cảm sông Hương dành cho Huế mang cái sâu đậm, nồng nàn của mối tình Kim - Kiều trong văn học trung đại Việt Nam. Một sự so sánh đậm chất thơ, rất đẹp, rất tình. Nó khiến ta nhớ đến đêm tình tự đầy lưu luyến của nàng Kiều trước khi Kim Trọng đi xa. Nó khiến ta hình dung từng nhịp sóng Hương Giang như từng nhịp tim nàng Kiều thổn thức:

    "Dùng dằng chưa nỡ rời tay

    Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà

    Ngại ngùng một bước một xa

    Một lời trân trọng châu sa mấy hàng."

    Với cách so sánh, nhân hóa ấy, con sông cũng như mang nặng tình người - tình lứa đôi thủy chung son sắt. Nước có bao giờ cạn, non chẳng khi nào dời, tình nghĩa đậm sâu dẫu cách xa mãi "còn nhớ". Lời hát dân gian điểm tô cho trang kí những giai điệu ngân nga, ngọt ngào, Điểm tô cho sông Hương vẻ đẹp ân tình, sâu đậm. Lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò xứ Huế hay giọng hò xứ Huế đã khiến nhà văn liên tưởng đến lời thề của dòng sông? Ai biết? Thiết nghĩ cũng chẳng ai cần biết rạch ròi, văn chương đâu phải là phép toán.

    Giọng hò khắp lưu vực sông Hương không chỉ là lời thề thủy chung của sông Hương với thành phố Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đi đến sự khái quát đó "là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở." Ân tình của con người với mảnh đất cố đô là vẻ đẹp văn hóa tinh thần của con người Huế. Vậy đó, dõi theo thủy trình sông Hương, người đọc không chỉ thấy vẻ đẹp vừa cá tính mãnh liệt, vừa thơ mộng trữ tình của dòng nước Hương giang mà còn thấy lung linh sắc màu thiên nhiên, cảnh vật Huế, lấp lánh vẻ đẹp nhân cách tâm hồn Huế. Ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường họa nét vẽ sông Hương mà như mở ra cõi vô biên khiến người đọc đắm say hết thảy đất và người nơi đây.

    Vẻ đẹp của dòng Hương Giang khi rời khỏi kinh thành Huế được khắc họa bằng ngòi bút tài hoa, giàu cảm xúc; cách miêu tả đậm chất họa, chất thơ; bằng những liên tưởng, so sánh, nhân hóa rất lạ, rất đẹp. Cứ như nhà văn đang "đề thơ" vào sông nước vậy.
     
  3. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Liên hệ mở rộng khi viết đoạn khát quát (sau mở bài) :

    Các dòng sông là cái nôi của những vùng, các nền văn hóa đa sắc màu nên viết về nó các nhà thơ, nhà văn thường viết bằng cả sự am tường, bằng một tình yêu tha thiết, sâu lắng. Từ lâu, con sông Hương của xứ Huế cũng đã rất nhiều lần đi vào các tác phẩm văn hóa, thơ ca. Dòng sông ấy đã từng được nhà thơ Hàn Mặc Tử miêu tả:

    "Gió theo lối gió mây đường mây

    Dòng bắp buồn thiu hoa bắp lay

    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay"

    Hay một nhà thơ nào đó cũng ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế:

    "Thiếu nữ thẫn thờ vê áo mỏng

    Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai

    Ven dòng sông phẳng con đò mộng

    Lả lướt đi về trong nắng mai"

    Bởi vậy, viết về dòng sông Hương là một thử thách. May thay nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vượt qua thử thách ấy để tặng cho đời bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Trong tác phẩm này nhà văn đã cảm nhận về đẹp của sông Hương từ nhiều góc độ, phương diện. Nhà văn đã tìm hiểu thủy trình, khám phá vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và nhìn dòng sông trong sự gắn bó với nền văn hóa của xứ Huế, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cảm nhận về nó một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất với một tâm hồn nghệ sĩ đầy rung cảm.

    Trong bài kí, vẻ đẹp của sông Hương trước hết được tác giả cảm nhận từ góc nhìn địa lí qua thủy trình, cảnh sắc thiên nhiên của dòng Hương giang từ vùng thượng lưu qua vùng đồng bằng rồi về thành phố Huế. Ở mỗi khúc đoạn dòng sông lại hiện lên với một vẻ đẹp riêng đầy cuốn hút. Trong đó, đoạn văn này miêu tả vẻ đẹp của sông Hương ở khúc thượng nguồn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 18 Tháng năm 2023
Trả lời qua Facebook
Đang tải...