Chương 10. Bách Gia đua sắc Bấm để xem Ăn cơm xong bọn họ nằm lăn ra đống cỏ khô trong hang. Đống cỏ này khá rộng, bằng bốn cái giường King-size loại lớn ghép lại, bên dưới lót một lớp lá khô dày hơn nửa thước nên khá êm. Gia đình Bảo lão tích góp cỏ và lá khô làm cái đệm này có hai mục đích. Ngoài để nằm, đến mùa đông bọn họ còn có thể dùng để đốt lửa sưởi ấm khi hết củi. Bảo thị thì lăn vào góc trong cùng. Mụ nằm quay mặt vào vách hang, một lúc sau đã thấy ngáy ô ô. Bảo nhi thì lăn vào nằm giữa Bảo thị và Bảo lão. Chỉ có Hoàng Chân thì không nằm, hắn ngồi bên đống lửa đã tàn ngẫm nghĩ. Bảo lão nằm ngửa nhìn lên trần hang, chân phải gác lên chân trái, bàn chân lão ngoáy ngoáy như đuổi ruồi. Hai bàn chân lão đen sì như hai khúc củi cháy dở, tay lão khoanh lại gối sau đầu, lão hào hứng tiếp tục câu chuyện dang dở. Miệng lão ngậm một cái que để xỉa răng, khi nói chuyện, cái que ngọ ngoạy, quằn quại như con giun. "Thời đại Bách Gia bắt đầu từ 1.000 năm về trước và kéo dài khoảng 500 năm." Lão kể tiếp.. Lịch sử lại được Bảo lão diễn tả lại một cách sinh động và có đôi chút lãng mạn. Theo lão nói, thời kỳ đầu của thời đại Bách Gia, Hậu Gia là một đại gia tộc mạnh nhất của phương nam, bọn họ chọn linh thú là Kỳ Long làm thương hiệu. Tiếp theo là vài đại gia tộc lớn chiếm lĩnh các vùng đất màu mỡ cũng bắt chước Hậu Gia, tự tìm kiếm linh thú để tôn thờ. Đầu tiên là Hoàng Gia ở phương bắc. Hoàng gia là hậu duệ của lão Hoàng Thiên, bọn họ lúc đó rất mạnh. Để đối chọi với ảnh hưởng của Hậu Gia ở phương nam, Hoàng Gia chọn Kỳ Phụng làm linh thú cạnh tranh với Kỳ Long. Tiếp theo đó là một loạt các lãnh chúa lớn. Bọn họ chọn Kỳ Lân, Kỳ Quy, Kỳ Tượng, Kỳ Mã, Kỳ Hùng, Kỳ Trư, Kỳ Ngưu, Kỳ Hầu, Kỳ Lang, Kỳ Hùm, Kỳ Beo.. làm linh thú. Còn các lãnh chúa nhỏ hơn, do không còn linh thú nào oai phong để chọn. Hơn nữa, bọn họ không dám chọn các linh thú mà các lãnh chúa lớn chọn, nên họ đành chọn các linh thú khác nhỏ bé hơn như Kỳ Hưu, Kỳ Tý, Kỳ Kê, Kỳ Hạc, Kỳ Xà.. Bảo lão vẫn tiếp tục hùng hồn kể, thỉnh thoảng lão lại đưa tay lên xỉa răng trông cứ như đứa trẻ đang cầm que chọc tổ dế. "Có một số chuyện rất tức cười." Lão nói. "Nhiều lãnh chúa khi chọn linh thú làm thương hiệu mà không biết kỳ thú mình chọn đã bị lãnh chúa khác chọn mất, vì thế mấy năm sau bọn họ mới phát hiện ra. Thế là dấy lên một loạt chửi bới, bôi bác, tố cáo nhau ăn cắp thương hiệu kỳ thú, vi phạm bản quyền, thương hiệu nhái, thương hiệu rởm.. vv" Lão ngoáy ngoáy chân ra vẻ rất thú vị: "Có lãnh chúa còn đưa ra khẩu hiệu:" Thương hiệu gia truyền mấy trăm năm. "Lãnh chúa khác lại nói:" Đề phòng thương hiệu rởm. "Thậm chí có lãnh chúa còn đưa ra khẩu hiệu giật gân như:" Nâng niu đầu lâu cọp "hoặc" Xơi kỳ cẩu 7 món là yêu nước ".. vv" "Để bảo vệ thương hiệu, các lãnh chúa này nếu ở gần thì đánh nhau dữ dội. Nếu ở xa thì đánh nhau bằng võ mồm, lu loa, chửi bới, kiện cáo tùm lum lên các lãnh chúa lớn nhờ phân xử." Phải nói rằng, kỹ năng kể chuyện của Bảo lão rất là hấp dẫn, khiến người nghe tròn cả mắt. "Ha ha.." Lão đang há miệng cười, bỗng lão chồm cả người dậy ọe ọe liên tục, hóa ra cây tăm đang ngậm trong miệng bị tụt vào trong cuống họng. Sau khi ho ọe đến đỏ cả mắt lại thêm đưa hai ngón tay vào móc móc, ngoáy ngoáy liên tục trong họng, lão mới moi được cây tăm ra. "Hừ.. hừ." Lão nhổ toẹt cây tăm ra góc hang, sau khi hoàn hồn thì ngồi nhăn nhó kể tiếp: "Thậm chí có nhiều lãnh chúa gửi đơn đến Hoàng Đế, Hậu Đế để đăng ký mấy thương hiệu đẹp. Sau đó bọn họ rao bán, tất nhiên giá cả cũng không tính bằng tiền vì lúc đó chưa có tiền, hàng hóa là phương tiện để trao đổi. Chủ yếu là gia súc, lương thực, phụ nữ và đồ có giá trị như đồng, sắt.." "Có những lãnh chúa vì đói, phải bán đi thương hiệu của mình. Sau đó đi chọn những thương hiệu khác kém hơn hoặc mua lại những thương hiệu khác rẻ hơn. Còn những lãnh chúa nhỏ nhất, bọn họ không dám tranh giành thương hiệu với các lãnh chúa lớn đành phải chọn mấy con kỳ thú yếu ớt làm thương hiệu như Kỳ Nhông, Kỳ Đà. Thậm chí có lãnh chúa phải chọn cả giun dế làm thương hiệu nghe rất kỳ cục. Thời kỳ này là thời kỳ loạn thương hiệu." Lão kết luận. Bỗng có tiếng Bảo nhi vang lên: "Cha. Kỳ thú với thú khác nhau như thế nào ạ?" Cô bé thắc mắc. "À.. à. Kỳ thú thì cũng giống thú nhưng to khỏe, dữ tợn hơn." Bảo lão trả lời. "A. Thế thì con biết rồi, kỳ thú chắc là do mấy con thú bị điên phải không? Có một lần con thấy một con chó to bị nổi điên, nó chạy lung tung và rất dữ tợn." Bảo nhi kể. "Vậy Kỳ Xà chắc là một con rắn điên to lắm phải không cha?" Bảo nhi lại hỏi. "À.. à.. Có thể to bằng con Trăn." Bảo lão ngập ngừng trả lời. "Vậy Kỳ Trăn thì to như con gì hả cha?" Bảo nhi hỏi tiếp. "À.. à.. Kỳ Trăn thì có thể to bằng con Mãnh Long." Bảo lão trả lời. "Vậy Kỳ Long thì to như con gì ạ?" Bảo nhi vẫn hỏi riết. "À.. à.. Kỳ Long thì có thể to bằng.. quả núi." Bảo lão lúng túng. Bảo nhi im lặng suy nghĩ một lúc rồi reo lên: "A. Có người bảo con Kỳ Long dài như quả núi, còn cha bảo to như quả núi, như vậy vừa dài vừa to thì thành hình vuông rồi còn gì." Cô bé cười to rất vui vẻ như phát hiện ra một việc hết sức vĩ đại là con Kỳ Long có hình vuông lại bị điên với cái mặt nhe đầy răng, còn đằng sau là cái mông bẹt dí. "Hả, hình vuông á." Bảo lão há hốc cả mồm, lão ngẫm nghĩ một lúc rồi phá ra cười ha hả. Thấy lão cười, Bảo nhi cũng cười theo. Bảo lão sau khi cười đã chán chê, lão lại chậm rãi nằm xuống: "Thôi, để ta kể tiếp. Trong thời đại Bách Gia, lúc đầu có hàng trăm đại gia tộc, về sau do chiến tranh bạo loạn, tranh chấp lãnh thổ, số gia tộc bị diệt vong nhiều lên. 200 năm sau của thời đại Bách Gia, số đại gia tộc chỉ còn khoảng trên dưới 100 gọi là trăm họ. Bọn họ chiếm cứ các vùng đất lớn, cử quân lính đồn trú, canh gác. Thậm chí xây dựng pháo đài, tường thành để bảo vệ lãnh thổ." "Do cuộc sống đã ổn định nên các lãnh chúa phải tập trung canh nông, chăn nuôi gia súc. Chợ búa được mở khắp nơi để giao lưu hàng hóa. Vải lụa được phát minh khiến cho da thú dần không còn được sử dụng làm quần áo. Cũng nhờ làm ra vải, đồng và chữ viết nên thời kỳ này văn hóa bắt đầu phát triển." "Các đại gia tộc đã ổn định thương hiệu, biểu tượng linh thú cũng được diễn họa khá rõ ràng như Kỳ Long là hình con rồng đang bay. Kỳ Phụng là con phượng hoàng hai đầu. Kỳ Lân là con sư tử phun lửa. Kỳ Quy là con rùa đang bơi. Kỳ Tượng là con voi đang tung vòi.. Bọn họ bắt đầu thêu Kỳ thú lên cờ hoặc tạc tượng để thờ cúng. Cờ được thêu có màu sắc vô cùng phong phú, hầu như bọn họ có thể dùng được màu gì thì đều dùng màu đó để in cờ và nhuộm quần áo. Vì vậy, lúc này gọi là thời kỳ trăm hoa đua nở, trăm nhà đua sắc." Bảo lão nhấn mạnh. "Thúc có biết, bọn họ chọn linh thú như thế nào không?" Hắn hỏi. "Hả, chọn như thế nào?" Bảo lão không hiểu nên hỏi lại. "Ý cháu là, tại sao bọn họ lại chọn một con kỳ thú nào đó mà không phải là con khác? Có điều gì liên quan đến kỳ thú mà bọn họ chọn hay không? Ví dụ, tại sao bọn họ chọn Kỳ Trư mà không chọn Kỳ Ngưu chẳng hạn?" Hắn hỏi. "À, cái đó thì ta không biết. Có thể là bọn họ thích vậy, cũng có thể con thú đó gắn liền với lịch sử của bọn chúng. Như Kỳ Long chẳng hạn, nó gắn liền với sự tích của Hậu Thổ cưỡi lên trời. Hoặc Kỳ Tượng, nó do Tịnh Gia nuôi để cưỡi trong mấy trăm năm." "À, con biết rồi. Kỳ Trư là do bọn họ nuôi để cưỡi, phải không ạ?" Tiếng Bảo nhi reo lên, xong cô bé lại gãi gãi đầu: "Không đúng, heo thì làm sao mà cưỡi được." "Đúng là ngốc ngếch." Bảo lão cười khù khụ: "Heo thì để ăn thịt chứ ai lại để cưỡi. Bọn họ chọn kỳ thú nào là do con thú đó có liên quan đến lịch sử của gia tộc bọn chúng. Có thể là chúng nuôi nhiều heo để ăn thịt, thấy heo có tác dụng, bọn chúng bèn chọn làm Kỳ thú, hiểu chưa?" "Vâng.. ạ, con hiểu rồi." Bảo nhi ấp úng. "Thế còn Kỳ Giun ạ, có phải bọn họ nuôi nhiều giun để ăn không?" Bảo nhi vẫn thắc mắc. "Hả." Bảo lão sửng sốt. Lão ngạc nhiên trước ý tưởng bất ngờ của con gái, lão ấp úng: "À.. có thể. Chẳng lẽ bọn chúng không có gì ăn, phải ăn giun chăng?" Lão nói xong, chợt nghĩ ra mình nói một câu rất dở hơi, bèn phá lên cười khùng khục: "Tóm lại, bọn họ chọn kỳ thú gì là việc của bọn chúng, ta không quan tâm." Lão nói. "Vậy, thời đại Bách Gia cuối cùng như thế nào ạ?" Hắn hỏi. "Hây dà, cuối cùng bọn họ diệt vong do tự đánh lẫn nhau." Bảo lão trả lời. "Nửa đầu của thời đại Bách Gia, quyền lực phương bắc rơi vào tay Hoàng Gia, bọn họ tự xưng là Hoàng Đế. Quyền lực phương nam rơi vào tay Hậu Gia, bọn họ xưng là Hậu Đế. Hai đại gia tộc này nắm quyền chi phối toàn bộ lục địa, các lãnh chúa khác đều phải phục tùng. Bọn họ được Hoàng Đế hoặc Hậu Đế phong làm chư hầu, gọi là đại vương như Tượng Vương, Mã Vương, Lân Vương, Quy Vương, Hầu Vương.. Nam bắc được chia đôi giới tuyến, lấy khoảng giữa hai con sông lớn làm ranh giới." "Nửa sau thời đại Bách Gia, các lãnh chúa càng ngày càng mạnh lên. Bọn họ bắt đầu thoát ly ảnh hưởng của hai đại đế, thậm chí họ còn liên kết với nhau để chống lại hai đại gia trên. Thời kỳ này, chiến tranh xảy ra liên tục, các đại gia tộc lần lượt bị tiêu diệt hoặc bị thôn tính, các gia tộc nhỏ bị biến mất hoàn toàn." Thời kỳ này là thời đại "cá lớn nuốt cá bé, con giẽ nuốt con giun." Bảo lão kết luận, lão há miệng ngáp ngáp mấy cái. "Thúc, thương hiệu của" Dân tộc "chúng ta là linh thú gì ạ?" Hắn hỏi. "Hả. Linh thú gì á?" Bảo lão ểu oải hỏi lại. "Dân tộc chúng ta không thờ linh thú mà thờ hai thứ." Lão nói. "Thứ gì ạ?" Hắn ngạc nhiên hỏi. "Thờ hai thứ mà sinh ra ngươi ý. Thôi buồn ngủ quá." Lão than thở: "Trời mưa chẳng làm được việc gì, đến tiểu đệ cũng chẳng được giải trí, quá chán.." Lão lảm nhảm. Ngoài trời mưa vẫn rơi rả rích, một lúc sau, trong hang vang lên tiếng ngáy "o o" của lão.
Chương 11. Thập nhị kỳ quốc Bấm để xem Chiều tà, trời vẫn tiếp tục u ám. Mặc dù mưa không còn ào ào như trút nước, nhưng vẫn rả rích bên ngoài hang. Bên bếp lửa, cả gia đình Bảo Y Đạo vẫn tiếp tục ngồi xúm xít, bọn họ đang chuẩn bị cơm tối. "Cứ như thế này không biết lúc nào ngớt." Bảo lão càu nhàu. Lão ngẫm nghĩ, còn bao nhiêu việc phải làm để chuẩn bị cho mùa đông sắp tới, thế mà trời mưa lớn làm cản trở công việc của lão. Ở góc hang, nơi có mấy cái lu đựng nước ăn, Bảo thị đang vo gạo chuẩn bị nấu cơm. Trước kia mưa nắng thế nào, mụ phải ra ngoài hang ngồi. Nhưng giờ đây, nhờ có Hoàng Chân gợi ý, bọn họ đã dọn một chỗ riêng biệt làm bếp. Chỉ có điều, bếp vẫn còn đơn sơ nên mỗi khi nổi lửa, khói bốc lên mù mịt trong hang như hun chuột. Bảo nhi thì đang lúi húi bên cạnh Bảo thị, cô bé đang giúp mụ nhặt rau. Hoàng Chân vẫn ngồi ở một bên đống lửa, hắn nhìn Bảo lão đang trầm ngâm uống trà và gợi chuyện: "Thúc, lúc nãy thúc đã kể về thời đại Bách Gia, vậy sau đó thì thế nào ạ?" "Hả." Bảo lão ngước nhìn hắn, ngẫm nghĩ một lát lão nói: "Thời đại Bách Gia kết thúc cách đây khoảng 500 năm, sau đó còn lại 12 đại gia tộc lớn lập thành 12 kỳ quốc là: Long Quốc. Lân Quốc. Quy Quốc. Phụng Quốc. Tượng Quốc. Mã Quốc. Lang Quốc. Trư Quốc. Ngưu Quốc. Dương Quốc. Kê Quốc. Hưu Quốc." "Mỗi quốc gia trên đều lập thương hiệu dựa trên linh thú đặc thù. Ban đầu là mấy linh thú mang tính truyền thuyết, nhưng truyền thuyết thì đâu có nhiều. Vì vậy, các quốc gia sau này chọn linh thú dựa theo con vật gắn bó với bọn họ nhất. Ví dụ như Trư Quốc, bọn họ nuôi rất nhiều heo làm thực phẩm, lâu dần con heo gắn bó với cuộc sống bọn họ và bọn họ thấy rằng, nếu thiếu con heo thì cuộc sống bọn họ không còn ý nghĩa, vì thế bọn họ chọn Kỳ Trư làm linh thú." "Hoặc như Ngưu Quốc. Bọn họ nuôi rất nhiều trâu, trâu vừa giúp bọn họ lao động vừa cung cấp thực phẩm, thậm chí vừa là con vật dùng trong chiến đấu. Mấy trăm năm, những đội Ngưu Binh giúp họ bảo vệ lãnh thổ. Vì vậy, bọn họ chọn Kỳ Ngưu. Các quốc gia khác cũng như vậy." Bảo lão kết luận, rồi lão nói thêm: "Thời đại 12 kỳ quốc kéo dài khoảng 300 năm. Trong thời gian đầu, bọn họ chung sống khá hòa bình, thậm chí còn tổ chức thi thố vui đùa với nhau. Đến mấy chục năm cuối cùng của thời đại 12 kỳ quốc, bọn họ bỗng gây sự đánh nhau lẫn lộn đến khi chỉ còn lại 7 quốc gia đến ngày nay." Ở góc bếp, Bảo nhi đang giúp mẹ, nhưng cô bé vẫn dỏng tai nghe nói chuyện. Các câu chuyện luôn gợi trí tò mò ham hiểu biết của cô, vừa làm cô vừa ngoái đầu lại hỏi chuyện: "Cha, sao không thấy mấy kỳ quốc ác thú như Kỳ Hùm, Kỳ Beo. Chẳng lẽ mấy ác thú này lại bị heo với gà tiêu diệt hay sao?" "Ờ.. ờ. Chắc mấy con hổ, con báo này bị gà đá chết rồi, mà nếu không bị gà đá thì chắc cũng bị heo húc lòi ruột chết, nếu không thì tại sao bọn chúng lại diệt vong nhỉ?" Bảo lão gãi đầu gãi tai. Lão không lý giải được tại sao mấy kỳ quốc ác ôn này biến mất, rõ ràng là bọn họ nuôi rất nhiều hổ báo: "Theo như ta được biết thì mấy kỳ quốc này lúc đầu rất mạnh, chúng nuôi rất nhiều hổ, báo tạo thành một đội quân Hùm binh, Beo binh đến mấy vạn con. Nuôi nhiều linh vật vốn là đặc trưng của các kỳ quốc." "Hổ, báo nuôi không phải để ăn thịt, cũng không thể huấn luyện làm kỳ binh được." Hắn giải thích. "Có thể đặc tính nuôi nhiều kỳ thú đã làm bọn họ diệt vong, vì hổ báo nuôi tốn rất nhiều thịt, một con hổ phải ăn hết hàng chục con trâu mới đủ lớn. Nếu nuôi được một đội quân hàng vạn con hổ thành một binh chủng thì không quốc gia nào kham nổi. Vả lại hổ báo không dễ thuần hóa, không thể huấn luyện dễ dàng như trâu ngựa được. Có lẽ bọn chúng nuôi nhiều ác thú quá, dần dần quốc gia suy yếu không đủ thực lực để chống chọi với các quốc gia khác, cuối cùng bị diệt vong." Hắn suy luận. "Có lý, có lý." Bảo lão phụ họa. "Heo, ngựa, trâu.. bọn chúng toàn ăn cỏ và lá cây, mà những thứ đó thì luôn có sẵn. Chúng lại dễ đẻ dễ nuôi, lâu dần mới trở thành nguồn lực cho các quốc gia được." Lão bồi thêm. "Nếu quốc lực đã mạnh, vậy làm sao bọn họ lại diệt vong được?" Hắn hỏi. "À. Có nguyên nhân của nó." Bảo lão trả lời: "Lúc ban đầu của thời đại 12 kỳ quốc, cẫn là hai đại cường quốc là Long Quốc ở phương nam và Phụng Quốc ở phương bắc chiếm ưu thế. Nhưng về sau, các nước khác không ngừng thôn tính các nước nhỏ hơn nên dần dần phát triển thành thế gần ngang với hai cường quốc kia. Về sau, bọn họ không còn nghe sự chỉ đạo của hai cường quốc kia nữa, thậm chí còn không ít lần tấn công làm suy yếu hai đại cường quốc." Lão nhăn trán rồi gãi gãi cái đầu bù xù như nhớ lại: "Ta được nghe nhiều câu chuyện kể trong thời kỳ này." Lão nói: "Mỗi một quốc gia đều có thế mạnh, yếu của riêng bọn họ, nếu không có nguyên nhân sẽ không có khả năng bị diệt vong. Nhưng các đại vương của bọn họ, không phải ai cũng đủ minh mẫn để lãnh đạo đất nước. Về sau, bọn họ bị sa vào mấy trò chơi vớ vẩn dẫn đến chia rẽ rồi tàn sát lẫn nhau, cuối cùng mất nước." "Diệt vong vì mấy trò chơi vớ vẩn ư! Nghe thật viễn tưởng?" Hắn ngạc nhiên như không tin vào tai mình. "Đúng vậy, bọn họ nghĩ ra mấy trò vớ vẩn làm dân tình mải mê ăn chơi sa đọa. Pháp luật kỷ cương dần hỗn loạn khiến quốc gia suy yếu, đến khi có chiến tranh ai cũng tham sống, sợ chết, cuối cùng bị thôn tính." Bảo lão nói: "Kẻ nghĩ ra mấy trò thâm nho này là lão đại vương của Quy quốc tên là Quân Thất Đức. Vào cuối thời kỳ 12 kỳ quốc, lão này nghĩ ra một kế để lôi cuốn các nước vào những cuộc vui chơi vô bổ rồi khơi mào mâu thuẫn dẫn đến chiến tranh hỗn loạn nhằm trục lợi, từng bước đưa Quy quốc thành một siêu cường." "Những trò gì thế?" Hắn hỏi. "Lão Quân Thất Đức này lợi dụng sự nhẹ dạ của mấy đại vương các nước, tổ chức ra mấy cuộc thi như Kê quốc thì thi chọi gà. Ngưu quốc thì thi chọi trâu. Trư quốc thì tổ chức lễ hội con heo. Hưu quốc thì tổ chức cờ bạc, cá độ.. Lão cho treo giải thưởng thật lớn và quảng cáo rùm beng khiến cho các nước mải mê tham gia. Ngoài ra, lão còn chê bai nước này yếu, nước kia kém.. dẫn đến các nước mâu thuẫn lẫn nhau.." "Ồ, mấy trò này thì có gì ghê gớm hả thúc?" Hắn thắc mắc, trong suy nghĩ của hắn, ở thế giới trước cũng đầy rẫy những trò này. "À, mấy trò này thì mới nghe tưởng không có gì, nhưng cách làm của nó mới là vấn đề." Bảo lão hóm hỉnh nói: "Ví dụ lão biết Kê quốc là đất nước của gà, lão liền xúi bẩy đại vương của Kê quốc tổ chức ra những lễ hội rất kỳ quái như thi chọi gà có thưởng. Giải thưởng rất cao như đất đai, gia súc, gái đẹp.. chức tước. Còn lão cho người tổ chức bán độ, cuối cùng lợi về lão, còn mâu thuẫn thì đã có mấy con bạc chịu. Lão còn được tiếng là nhà tổ chức.." "Ồ. Chọi gà thì có gì là ghê gớm, chắc chắn Kê quốc sẽ thắng, vì đất nước họ nuôi toàn gà mà." Hắn nói. "Chưa chắc." Bảo lão phản bác. "Nếu là chọi gà bình thường thì không nói, nhưng đây là chọi gà đặc biệt. Trường gà chỉ có một con gà.. trống duy nhất, còn những người tham gia thì mỗi người thả một con gà mái vào xem con gà trống.. đạp con gà mái nào trước là thắng." Lão nói. "Ha ha, thế thì đúng là lạ thật." Hắn cười phá lên. "Ừ. Như vậy, các quốc gia khác mới dám thi chứ chọi gà bình thường thì tất nhiên, bọn họ thua là cái chắc." "Chắc chọi trâu cũng như vậy, phải không thúc?" Hắn hỏi. "Ừ.. ừ, đúng vậy." Bảo lão khẳng định. "Vậy còn thi những cái gì lạ nữa ạ." Hắn thắc mắc. "Thi vắt sữa người chẳng hạn." Bảo lão tủm tỉm nói. "Vắt sữa người thì có gì đặc biệt, kiếm mấy con mụ" tú vo "là được." Bảo thị đang lúi húi nấu cơm liền quay người góp chuyện. "Vấn đề là không phải vắt sữa đàn bà, mà là vắt sữa.. đàn ông." Bảo lão cười khành khạch trả lời. "Đàn ông mà cũng có sữa sao?" Bảo thị ngớ người. "Tất nhiên, bọn họ thi.. vắt tiểu đệ xem thằng nào phọt ra nhiều sữa nhất, thằng đó sẽ thắng." Bảo lão tếu táo. "Trời!" Bảo thị đang ngồi thì ngã ngửa người ra bếp đúng vào vũng nước, mụ vội vàng đứng dậy, trông như vừa đái dầm. "Cha, vắt tiểu đệ mà cũng ra sữa sao?" Bảo nhi không hiểu hỏi. "À.. à, khi nào lớn ngươi sẽ biết thôi." Bảo lão nhăn nhở. "Vậy thì con mong sẽ nhanh lớn để biết nhiều thứ. Hoàng huynh, khi nào huynh có sữa, cho muội vắt thử nhé?" Bảo nhi háo hức nhìn hắn. "Ha.. ha." Trong hang tất cả mọi người đều cười, tất nhiên mỗi người cười vì có cách nghĩ không giống nhau. "Lão Quân Thất Đức đó còn xui đại vương của Trư quốc tổ chức mỗi năm một lần lễ hội con heo. Tại lễ hội này, tất cả mọi người tham dự đều khỏa thân nhảy múa." Bảo lão nói. "A, giống lễ hội Caravan ở Brazin đây mà." Hắn thầm nghĩ. Nhưng cái xứ này có vẻ ăn chơi hơn, ở Brazin ít ra mọi người còn đeo mấy miếng vải để che những chỗ nhạy cảm. "Tại lễ hội tổ chức thi nhiều thứ kỳ quái như thi bắn chim." Bảo lão đế thêm. "Ồ, bắn chim bằng cung hay bằng phi tiêu ạ?" Hắn hỏi. "Không, dùng tiểu đệ bắn chứ không phải bắn chim đang bay." Bảo lão dí dỏm: "Bọn chúng đặt một quả táo trên giá cách năm thước rồi cho bọn trai tráng xếp hàng dùng tiểu đệ để bắn, xem thằng nào làm rơi quả táo là thắng." Mặt lão nhăn nhó như cố nhịn cười. "Hơ hơ, đúng là lạ thiệt." Bảo thị mắc cỡ quá, mặt đỏ bừng. "Chưa hết, bọn chúng còn tổ chức nhiều cuộc thi kỳ quái như thi hoa hậu, thi nam vương. Những cuộc thi này không bình thường tý nào mà là những cuộc thi quái gở." Lão giơ tay chỉ lên miệng như nhấn mạnh tính đặc biệt. "Quái gở như thế nào ạ?" Hắn hỏi, trong ký ức của hắn cũng đã có lần đi thi Nam vương hồi còn là sinh viên. "Bọn họ cho mấy cô nương trẻ, cởi hết quần áo thi nhảy múa khỏa thân gọi là thi.." bé khỏe, bé đẹp ". Cô nào hàng hóa to.. đẹp thì đoạt giải hoa hậu. Thi Nam vương cũng như vậy." Lão hí hí nói: "Vì mấy trò quái đản đó, khiến cho dân chúng các nước, nhất là bọn tráng niên suốt ngày luyện tập.. miệt mài đến quên cả làm việc. Bọn chúng còn chê bai nước thua cuộc khiến cho đại vương nước đó cay cú, rồi cổ động bọn tráng niên thề lấy lại danh dự cho quốc gia.. Cứ thế, các cuộc thi kéo dài mấy chục năm, khiến cho nước nào cũng mải mê tuyển sinh, luyện tập, thi đấu giao hữu.." Lão kể lể. "Đúng là mấy trò nhảm nhí, vô bổ thật." Hắn phụ họa: "Vậy đây là nguyên nhân bọn họ diệt vong sao?" Hắn hỏi thêm. "Gián tiếp thì là như vậy." Bảo lão khẳng định: "Chiến tranh đầu tiên nổ ra là do đại vương Lang quốc và Hưu quốc đánh bạc, bọn họ đánh cược bằng đất đai và gia súc của đối phương. Lang quốc bị thua, nhưng bọn họ.. bùng, hai bên chửi bới, bôi nhọ lẫn nhau. Thậm chí Hưu quốc còn cho người ném phân vào nơi ở của đại vương Lang quốc. Lang quốc tức quá bèn bất ngờ tấn công Hưu quốc, hai bên đánh nhau mấy năm. Về sau, Lang quốc biết Tượng quốc cũng là con nợ bạc của Hưu quốc, hai nước bèn tuyên bố quịt nợ, rồi liên minh đánh Hưu quốc và chia đôi lãnh thổ." "Còn Dương quốc vì chế ra một loại rượu sữa dê, đàn ông uống vào khiến tiểu đệ vô cùng chắc khỏe. Trong các cuộc thi nam vương, bọn họ luôn đoạt huy chương vàng khiến cho Mã quốc luôn về nhì. Vì cay cú, Mã quốc bèn tố cáo Dương quốc chơi gian lận, dùng thuốc kích thích. Dương quốc phản bác lại, chê đàn ông Mã quốc là" đuôi chuột đòi ngoáy lọ mỡ, chầy bé đòi giã cối to ". Mã quốc tức quá bất ngờ đánh úp tiêu diệt Dương quốc để chiếm loại rượu bí truyền trên." "Còn Trư quốc vì trụy lạc sa đọa, sau mỗi kỳ lễ hội con heo, bọn đàn ông đàn bà.. đại chiến với nhau nhiều quá khiến chân tay run lẩy bẩy. Đến khi Quy quốc bất ngờ đánh úp còn không cầm nổi vũ khí. Quy quốc sau đó còn tấn công Kê quốc và sáp nhập thêm lãnh thổ chiếm được của hai quốc gia." "Sau đó, đại vương Tượng quốc thi chọi trâu bị thua, phải nộp mấy bà vợ cho đại vương Ngưu quốc cặp kè vài tháng. Đại vương Ngưu quốc liền đem mấy bà này cho khỏa thân dạo phố làm Tượng quốc mất mặt, bèn đánh úp Ngưu quốc. Ngưu quốc bị thua phải nhờ Long quốc giúp, cuối cùng Ngưu quốc bị diệt vong." "Long quốc và Tượng quốc mỗi bên chiếm một phần lãnh thổ của Ngưu quốc. Bọn họ sau đó còn đánh nhau mấy lần nhưng không bên nào thắng, cuối cùng đành giảng hòa." "Lân quốc thì đem mỹ nữ dụ dỗ mấy dãy đảo lớn nhỏ ngoài Đông Hải thành lãnh thổ của họ. Cuối cùng chỉ còn 7 quốc gia tồn tại đến ngày nay." Bảo lão nói xong. Lão với tay cho thêm mấy thanh củi vào bếp rồi nhặt một ít mảnh gỗ cho vào, lập tức trong hang xuất hiện một làn khói nhẹ thơm thơm tỏa ra. "Buổi tối phải đốt thêm thứ này, không thì muỗi vào đầy hang." Lão nói. Ở góc bếp trong hang, Bảo thị đã chuẩn bị xong bữa cơm tối, mụ quát bảo Ngọc nhi giúp dọn cơm trên nền hang. Nhìn hai mẹ con bọn họ loay hoay chuẩn bị, Bảo lão nói: "Thôi, chúng ta vừa ăn cơm vừa nói chuyện tiếp." Ngoài trời, màn đêm đã bắt đầu buông xuống, mưa vẫn rơi rả rích.
Chương 12. Thất hùng xưng bá. Bấm để xem Trong hang đá, ánh lửa bập bùng. Cả gia đình Bảo lão vừa ngồi quây quần bên bếp lửa ăn cơm, vừa nói chuyện. Thỉnh thoảng lại vang lên tiếng cười, cuộc sống của bọn họ đúng là tuy không khá giả nhưng cũng chẳng có gì lo lắng. Hoàng Chân vừa ăn cơm vừa suy nghĩ. Nếu cuộc sống phụ thuộc vào ông trời thế này, không phải là giải pháp hay. Giả sử không có mấy bộ xương thú, ít thảo dược quý mà Bảo lão lấy về được để đổi thóc thì cả gia đình này chỉ có cách hái rau rừng, đào củ chuối mà ăn thôi. Mặc dù Bảo thị có trồng một ít lúa nương, nhưng năng suất chẳng đáng là bao, may ra đủ dùng cho mẹ con Bảo thị đã là hạnh phúc lắm. Nếu như có thể khuyên được Bảo lão thay đổi tư duy, thay bằng việc phụ thuộc vào ông trời và cánh rừng rậm này để có thể chủ động cuộc sống. Ví dụ như chăn nuôi, trồng trọt, tự sản xuất mà sống. Nếu chăn nuôi thì chọn nuôi con gì, còn trồng trọt thì trồng cây gì, sản xuất thì sản xuất cái gì mới hiệu quả. Hắn ngồi suy nghĩ rất lâu, trong mớ kiến thức khoa học mà hắn nhớ từ kiếp trước, lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt là hắn ù ù cạc cạc, không biết nên làm cái gì hiệu quả. "Chẳng lẽ lại trồng rau, nuôi gà." Hắn lẩm bẩm rồi chậm rãi nhai miếng thịt khô. "Hoặc là khuyên cả nhà Bảo lão xuống thành Nam Sơn định cư buôn bán. Nhưng gia đình Bảo lão mấy chục năm sống trong chốn núi rừng, không quen sống ở thành thị. Vả lại bọn họ không có tiền làm vốn." "Hay là ta một mình xuống thành, xem có thể làm được việc gì. Nhưng với cái cơ thể gầy yếu này, nếu không có người giúp thì chẳng thể làm được việc gì lớn. Đến thân còn chẳng tự lo nổi, nói chi đến giúp người." "Hay là nghĩ cách sản xuất hàng hóa rồi đem đổi lấy lương thực, vải vóc. Hừ, cách này có vẻ khả thi, nhưng sản xuất cái gì đây?" Bằng vào kinh nghiệm mấy lần xuống núi, hắn biết kỹ thuật của thế giới này còn rất lạc hậu, vải vóc bọn họ sản xuất ra tuy khá tốt nhưng ít mẫu mã, màu sắc thì toe toét, không sang trọng tý nào, đồ gốm sứ cũng như vậy. Còn nói về đồ kim khí, gọi là thép tốt nhưng chém gió mấy phát còn quằn, chưa thể gọi là sắc như nước được, kỹ thuật luyện kim còn kém. "Nhưng nếu sản xuất hàng hóa, thì cần phải biết thế giới này muốn cái gì chứ, cũng không thể sản xuất bậy bạ được." Lập tức trong đầu hắn nghĩ ra mấy đại kế hoạch. Hắn bèn cất tiếng hỏi Bảo lão đang ngồi nhồm nhoàm bốc rau ăn: "Thúc. Như vậy, từ 200 năm nay, chỉ còn bảy quốc gia thôi ư? Vậy bọn họ có những đặc điểm gì ạ?" Trong thâm tâm, hắn muốn biết sơ bộ về các quốc gia để có cái nhìn tổng quan. Ví như ở thế giới trước của hắn thì các quốc gia Trung Đông có rất nhiều dầu mỏ. Nga thì đất đai rộng lớn và nhiều tài nguyên. Trung Quốc là nước có dân số đông nhất thế giới, còn Việt Nam thì chẳng có gì.. đáng để ý ngoài việc giao thông rất lộn xộn. Nếu biết đầu tư dựa theo đặc điểm của từng quốc gia sẽ rất có lợi, tất nhiên đấy chỉ là ý tưởng vĩ mô. Còn hiện tại, hắn mới lo được đủ ăn chứ chưa dám nghĩ xa vời. "Ừ, chỉ còn bảy quốc gia. Đó là Long Quốc. Lân Quốc. Quy Quốc. Phụng Quốc. Tượng Quốc. Mã Quốc. Lang Quốc. Mỗi quốc gia đều có những điểm riêng." Bảo lão nói xong, bèn cố nhét nắm rau xanh vào mồm. Xong lão giơ tay vạch vạch một hình vuông và mấy gạch ngang dọc trên nền hang rồi chỉ chỏ: "Bố cục của các quốc gia là như thế này." Lão phùng mồm trợn má nói: "Phía bắc có ba nước, theo thứ tự từ tây sang đông là: Lang Quốc, sa mạc GiGa và Mã Quốc. Phụng quốc thì ở tít phía trên sa mạc thì phải." "Ở giữa có ba nước là Tượng Quốc, Quy Quốc và Lân Quốc. Tuy nhiên Lân quốc ngoài Hỏa Đảo, không phải trên lục địa." "Cuối cùng ở phương nam là Long Quốc, chúng ta hiện đang sống trên vùng đất do Long Quốc cai trị." Lão cho tiếp một nắm rau nữa vào miệng nhai rau ráu, vừa kể tiếp: "Cách đây 200 năm, rút kinh nghiệm từ những quốc gia bị diệt vong nên bảy quốc gia trên đã không ngừng củng cố quân đội, xây thành đắp lũy và tấn công lẫn nhau. Nhưng không bên nào thắng, cuối cùng đành phải chung sống hòa bình." Sau khi dừng lại một chút để nuốt, lão lại nói: "Nếu nói đến điểm mạnh yếu, địa lý chiếm vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại của các nước." "Đầu tiên phải kể đến Lang quốc, đất nước bọn họ là những vùng băng tuyết trắng xóa, có nhiều chó sói sinh sống. Có lẽ khí hậu lạnh nên cơ thể bọn họ to lớn, khỏe mạnh hơn người thường, tóc vàng mắt xanh, mũi khoằm trông như ác quỷ." "Nhưng cơ thể khỏe mạnh không phải là yếu tố quyết định chiến tranh, mà uy lực của bọn họ là chiến xa. Mỗi khi có chiến tranh, họ sử dụng hàng trăm chiến xa chó sói kéo, trên xe chất đầy lao nhọn. Những chiến sỹ ngồi chiến xa, xông pha giữa chiến trận và phóng lao liên tục tiêu diệt kẻ địch từ xa. Khi cần bọn họ sẵn sàng đánh giáp lá cà, nhờ cơ thể khỏe mạnh lại thêm sự hỗ trợ của bầy sói nên không kẻ địch nào thích đối đầu với bọn họ. Điểm yếu của họ chính là ít dân số, thứ hai là chiến xa chỉ phát huy tác dụng trên địa hình tuyết bằng phẳng, nếu dùng trên vùng đồi núi hiểm trở thì không được." Bỗng có tiếng Bảo nhi vang lên: "Cha ơi, sao bọn họ không dùng ngựa mà phải dùng sói ạ? Con thấy người ta toàn dùng ngựa để kéo xe mà?" "À à, đấy là ngươi không biết. Ở nước này sói nhiều quá, nó cắn chết hết không những cả ngựa mà cả trâu bò ý chứ. Vì vậy, bọn họ đành phải dùng sói để kéo xe." Bảo lão trả lời vẻ khẳng định, sau đó lão lại nói tiếp: "Vì vậy, trong nhiều năm, bọn họ không mở rộng thêm được lãnh thổ, nhưng cũng không ai muốn chiếm vùng băng tuyết của bọn họ. Để khẳng định mình, bọn họ thêu hình đầu sói xám trên nền cờ trắng, nhìn từ xa là biết." Lão trợn mắt cố nuốt hết đám rau nhai nát trong miệng, rồi thở một hơi kể tiếp: "Tiếp theo là Mã quốc, điểm mạnh của bọn họ chính là ngựa. Nhờ cưỡi ngựa, bọn họ có thể di chuyển nhanh chóng qua các địa hình hiểm trở, xuất kỳ bất ý tấn công các quốc gia đối thủ." "Bọn họ còn có một câu nói" Vó ngựa Mã quốc chạy tới đâu, cỏ không mọc ở chỗ ấy ". Ý bảo rằng, ngựa Mã quốc nhiều đến nỗi đi đến đâu, cỏ cũng bị đạp nát. Điểm yếu là vũ khí bọn họ khá thô sơ, chủ yếu dùng loại cung tên nhỏ, tầm bắn ngắn. Còn mã đao tuy đáng sợ nhưng lại ít, không đủ trang bị cho binh lính." "Xã hội của bọn họ giống Lang quốc, đều là các bộ tộc rải rác trên thảo nguyên, nên binh lính không chuyên nghiệp, không quy củ, không có chiến thuật gì để tấn công các thành trì kiên cố của đối phương. Bọn họ đi ăn cướp thì được, cướp xong thì chạy, chẳng quân đội nước nào truy đuổi kịp." Bỗng Bảo nhi lại cất tiếng đầy thắc mắc: "Cha ơi, lúc nãy cha bảo ở Lang Quốc, ngựa bị sói ăn sạch. Tại sao ở nước này lại không có sói, hay là sói bị ngựa ăn sạch rồi ạ?" "À à.. ừ nhỉ, chắc ở đây ngựa nhiều quá đến nỗi cỏ cũng bị đạp chết sạch nữa là.. sói." Bảo lão ấp úng trả lời, lão ngẩn ngơ một lúc rồi nói tiếp: "Để thể hiện mình, cờ của bọn họ thêu hình ngựa trắng trên nền đen." Nói đến đây, lão phải ngừng lại một lát để nghĩ rồi mới tiếp tục: "Còn Phụng quốc, bọn họ xuất thân từ tầng lớp quý tộc Hoàng Gia. Qua bao nhiêu đời, quốc gia họ toàn những đại tướng lẫy lừng, pháp sư cao thủ. Nhưng toàn người tài không ai phục ai, thành ra rất lộn xộn, không còn kỷ luật." "Vì vậy, họ chỉ còn hư danh mà không đủ thực lực. Pháp sư cao thủ của họ chỉ dùng ám sát, đánh lén. Hai nữa, họ rất giỏi trong việc thuyết pháp, nhiều tướng lĩnh của đối phương đã bị họ lung lạc. Nhưng cuối cùng, thực lực không đủ, vì vậy, họ bị thua trong chiến tranh, phải chạy tít lên sa mạc phương bắc. Cờ của bọn họ là con phượng hoàng hai đầu trên nền vải xanh." Nghe đến đây, Bảo nhi lại tròn mắt hỏi: "Cha, sao ở nước này không có ngựa hay chó sói gì ạ?" Bảo lão tỏ vẻ ngẫm nghĩ, cuối cùng lão trả lời bừa: "À, tại vì bọn họ ở trong sa mạc không có cái gì để ăn, chỉ có chim bay trên trời mới thoát nên họ đành phải chọn chim làm biểu tượng." Sau khi trả lời bừa xong, thấy mọi người không hỏi han thêm, lão lại kể tiếp: "Còn Tượng quốc, nước này dựa vào núi rừng hiểm trở và một đội quân toàn là voi chiến vô địch. Nhưng điểm mạnh cũng chính là điểm yếu của họ, đó là voi ăn quá khỏe. Bọn họ cũng có câu nói" Chân voi Tượng quốc đi đến đâu, chuối không mọc ở chỗ ấy ". Ý là voi của Tượng quốc nhiều đến nỗi, đi đến đâu, chuối chỗ đó bị voi ăn sạch. Vì vậy, khi rời xa vùng rừng núi, voi không đủ cái ăn, cuối cùng không thể đi đánh xa được. Chiến cờ của bọn họ thêu hình voi trắng trên nền cờ xanh đỏ." Lão nói đến đây bèn uống một ngụm nước, vơ một đũa cơm vào miệng, vừa ăn vừa kể: "Lân quốc thì ưu điểm của bọn họ là chiến thuyền, chiến thuyền vừa to vừa chứa được nhiều lính, thêm nữa là máy bắn đá. Đạn của họ là những cái lu có chứa dầu cá, hoặc là bột cháy, nghe nói được tán từ xương của Hỏa Kỳ Lân ra. Khi bọn họ bắn trúng đâu là cái lu vỡ ra, ở đó bốc cháy dữ dội thiêu đốt mọi thứ." Kể đến đây, lão tấm tắc chặc lưỡi: "Chậc chậc. Vì vậy ở trên sông biển, chiến thuyền và máy bắn đá của bọn họ là vô địch, không có đối thủ. Nhưng thuyền không lên được đất liền, máy bắn đá không còn tác dụng. Vì vậy, thỉnh thoảng họ chỉ dám đổ quân quấy nhiễu ven biển chứ không chiếm đất của ai. Chiến cờ của họ thêu hình hỏa kỳ lân trên nền trắng." "Bột cháy tán từ xương của Hỏa Kỳ Lân ư?" Hắn nghĩ bụng, chắc là bột lưu huỳnh đây, ở đất nước nhiều núi lửa thì loại đó rất sẵn. Bảo lão vẫn tiếp tục hùng hồn: "Long quốc thì hơi khác một chút, địa hình rất nhiều ao hồ, sông ngòi nên chiến thuyền nhỏ và đông như lá tre." "Điểm mạnh của họ là binh lính rất giỏi bơi lội nên đánh nhau trên sông nước, họ chỉ cần lặn xuống thuyền lớn của địch rồi đục thủng. Nếu gặp thuyền nhỏ, bọn họ lặn đến gần rồi bất ngờ ngoi lên vung đao chém, rất khó đề phòng. Bọn họ còn có hàng ngàn ngưu binh, khi ra trận thì tung vào trận địa làm rối loạn quân địch." Nói đến đây, đôi mắt lão bỗng trở nên mơ màng, giọng nói đều đều như u mê: "Ngoài ra, Hậu Gia của Long quốc là một đại gia tộc nổi tiếng có nhiều người đẹp. Chà chà chà.. rất nhiều cô gái xinh đẹp nghiêng nước nghiêng thành nhá, chỉ cần nghĩ đến thôi là tim đập thình thịch, bủn rủn cả chân tay." Bỗng có tiếng Bảo thị hừ hừ vang lên: "Vậy khi ông nghĩ đến tôi có bủn rủn chân tay không hả?" "Hả hả." Bảo lão giật cả mình: "Có chứ, có chứ. Mỗi khi nghĩ đến mình, không những ta bủn rủn chân tay mà tim còn suýt ngừng đập luôn. Thôi để ta kể tiếp." Lão nhăn nhở xoa hai tay: "Hoàng hậu của nhiều nước vốn là người Hậu Gia. Vì vậy, khi có chiến tranh, Long quốc thường hay xúi giục hậu cung đối phương gây sức ép, nhất là dụ dỗ các nước thông gia đánh lén đối phương. Sử dụng mỹ nhân kế là chiêu bài hay dùng của họ." Nói đến đây, Bảo lão bỗng nhiên trợn mắt, há mồm như con cá ngão, hóa ra vì vừa ăn vừa nói làm lão bị nghẹn. Cũng có thể do lão vừa nghĩ đến bà vợ dữ bèn.. suýt tắt thở. Sau khi ngồi đần người ra một lúc, cảm thấy cục cơm đã trôi xuống dạ dày, lão bèn thở "phì" một cái, lắc lắc đầu. Bảo thị ngồi gần đó liền nhắc nhở: "Ông ăn nói từ từ thôi, có ai nói tranh của ông đâu mà vội vàng như vậy." Mụ nói xong liền lườm yêu chồng một cái. Bỗng có tiếng của Bảo nhi cất lên: "Cha, nếu Long Quốc hay dùng mỹ nhân kế thì chiến cờ phải thêu hình phụ nữ chứ nhỉ?" "Hả." Bảo lão ớ người ra suy nghĩ, một lúc sau lão mới giải thích vẻ rất dạy đời: "Không được, chiến cờ mà thêu hình phụ nữ thì trông kém khí thế. Ngươi không thấy phụ nữ toàn ở dưới đàn ông sao?" Sau đó, lão lại nói tiếp như sợ ai tranh mất: "Đã gọi là Long quốc thì tất nhiên phải là hình con rồng vàng trên nền đỏ." Dường như cảm thấy hài lòng với giải thích của mình, lão lại tiếp tục: "Cuối cùng là Quy quốc, nước này có đặc điểm đất rộng, người đông. Sau khi thôn tính mấy quốc gia nhỏ cách đây mấy trăm năm, dân số của Quy quốc đã trở thành nhiều nhất đại lục." "Đến nay họ là quốc gia có nền kinh tế và văn hóa phát triển rất mạnh, hơn nữa, họ rất giỏi trong việc xây dựng và sản xuất vũ khí. Mỗi khi chiếm được đất đai ở nơi nào, bọn họ đều lập tức xây thành, đắp lũy, giết sạch đàn ông, con trai nơi đó. Ngoài ra, họ còn cướp đoạt phụ nữ đối phương để đồng hóa dân tộc." Lão vỗ vỗ trán như nhớ ra sự việc gì đó: "Ta còn nghe nói, Quy quốc nổi tiếng nhờ một loại rùa đen, đàn ông nước này mà uống tiết của nó là cảm thấy.. hừng hực. Vì thế, dân số của họ mới tăng nhanh như vậy. Do đó, thường có câu nói" Lính Quy quốc đi tới đâu, đàn bà không ở chỗ ấy ". Ý nói là đàn bà mà gặp lính Quy quốc thì phải chạy nếu không thì.. hắc hắc." Kể đến đây, lão nhăn mặt cười một cách khó hiểu rồi vỗ tay kết luận: "Vì vậy bây giờ, chẳng có nước nào thích đối đầu với Quy quốc. Chiến cờ của họ có hình cái khiên như mai rùa và hai thanh gươm bắt chéo trên nền đỏ. Tuy nhiên, nếu các quốc gia khác liên minh lại với nhau thì bọn họ cũng chẳng dám làm gì." Lão khẳng định. Nói đến đây, lão đặt bát cơm đã hết sạch xuống đất rồi xoa xoa bụng, "khà" một tiếng ra vẻ đã no. "Vậy, hồi trước thúc đi lính cho quốc gia nào?" Hắn hỏi. "Tất nhiên là Long quốc. Cách đây 30 năm, có một cuộc loạn chiến giữa các nước mà nguyên nhân do lão đại vương của Quy quốc gây ra." Lão nói. "Quy quốc khơi mào chiến tranh ư? Chẳng phải thúc nói là Quy quốc không thể làm gì nếu các nước khác liên minh với nhau hay sao?" Hắn ngạc nhiên hỏi. "Tất nhiên, nhưng lão này rất khôn và mưu mẹo. Đầu tiên, lão gây chia rẽ giữa các nước để họ xích mích với nhau. Sau đó, lão giả vờ thành lập liên minh với một số nước, xúi giục họ tấn công nước khác nhằm" cò ngao tranh chấp, ngư ông đắc lợi ". Lão tên là Quân Thất Nhân, lão lên làm vua cách đây khoảng 40 năm." "Thời kỳ này, Quy quốc liên tục cải cách kinh tế, chính trị và huấn luyện binh lính. Lão cho xây nhiều thành lũy để đề phòng chiến tranh, đồng thời cho đúc nhiều vũ khí để trang bị cho quân đội. Thời gian lão cầm quyền, các nước khác phải luôn trong tình trạng căng thẳng đề phòng." "Ở phía bắc, lão bắt xây trường thành, đề phòng các nước đánh xuống. Phía tây, lão cho phá núi mở đường để dễ xâm chiếm Tượng quốc. Phía đông, lão cho lập các quân cảng, đóng nhiều chiến thuyền để cạnh tranh với Lân quốc. Còn phía nam, lão lùa dân chúng sang canh tác trên đất của Long quốc. Nếu binh lính Long quốc đến đuổi, thì lão cho người lu loa rằng Long quốc đàn áp dân chúng Quy quốc, từ đó lấy cớ gây chiến. Đồng thời lão cho xây thành, đưa binh lính đến với lý do bảo vệ dân. Cứ thế, lão cho lấn dần đất của các nước." Lão nói đến đây bèn ngừng lại, lắc lắc đầu rồi vớ cái bát nước để uống: "Đến khi thấy thời cơ, lão xúi giục Tượng quốc đánh chiếm đất của Long quốc. Khi hai nước đánh nhau thì Long quốc đại thắng, binh lính Tượng quốc bị thua phải chạy về nước. Quy quốc bèn rêu rao là phản đối Long quốc đánh Tượng quốc rồi bất thình lình đánh úp khiến Long quốc phải bỏ đất chạy về phía nam, lấy sông Đại Nam Giang làm phòng tuyến." Đang nói, lão chợt quay phắt người ra lệnh cho Bảo nhi đang ngồi tròn mắt: "Lấy cho ta cái tăm." Lão hất hàm. Bảo nhi ngơ ngác đi đến góc bếp lục lọi. Một lúc sau, cô bé đưa cho lão. Bảo lão vội cắm cây tăm vào miệng chọc chọc, ngoáy ngoáy: "Mấy miếng thịt khô này dai quá, đau cả răng." Lão lẩm bẩm. "Vậy sau đó thế nào hả thúc?" Hắn hỏi tiếp. "À. Sau đó, Long quốc nhờ Phụng quốc, Lang quốc, Mã quốc định đánh úp, uy hiếp Quy quốc. Nhưng bọn họ vì lợi riêng nên không chịu phối hợp với nhau, cuối cùng không làm gì được. Quy quốc còn đánh lén lại Phụng quốc khiến cho Hoàng đế phải bỏ cả kinh thành mà chạy lên phía bắc. Từ đó, đất đai của nước này rơi vào tay Quân Thất Nhân." "Nếu không nhờ có Lân Quốc đổ quân đánh úp vùng ven biển Quy quốc thì chắc chắn Long Quốc đã bị đánh bại, nhưng Lân quốc cũng không làm được gì hơn. Bây giờ, Quy quốc đã là quốc gia lớn nhất lục địa, bọn họ chiếm hết các vùng tài nguyên màu mỡ, cả vựa lúa của nhân gian." Lão thở dài nói. "Thúc. Tại sao cờ các nước khác thêu hình kỳ thú, mà của Quy quốc lại là hai thanh gươm và cái khiên ạ?" Hắn hỏi. "À, ta nghe nói vì một nguyên nhân." Bảo lão nhếch miệng: "Trước kia cờ của họ thêu hình con rùa đen trên nền trắng, trong một lần đánh nhau với Lân quốc, vương kỳ của lão Thất Nhân đó bị máy bắn đá của Lân quốc bắn te tua, thủng một lỗ to tướng đúng giữa mai rùa. Khi vương kỳ giơ lên, trông cứ như khoe biểu tượng.. phụ khoa của mấy bà đẻ." "Về sau, bọn trẻ con hay vẽ cái mai rùa thủng đó lên tường, chúng còn vẽ thêm mấy cái ria đen đen te tua xung quanh để mỉa mai Quy quốc. Vì thế, lão Thất Nhân đó tức lắm, lão bèn thay vương kỳ thành cái khiên và hai thanh gươm bắt chéo nhau, nền dùng đỏ chứ không dùng trắng nữa." Nói đến đây, lão cười hềnh hệch rồi với tay, lấy cái bát nước lên uống rất thong thả. "Thì ra là vậy." Hắn méo miệng cười. Ngoài trời, mưa vẫn rơi rả rích.
Chương 13. Chuẩn bị đến Tuyết Sơn Bấm để xem Mấy hôm sau thì trời ngớt mưa, đã có tia nắng hửng trên bầu trời. Hai mẹ con Bảo thị đã rời hang đi vặt rau rừng từ lúc sáng sớm, trời mưa mấy hôm khiến cho đám rau rừng bên bờ suối mọc lên tua tủa, nhưng nước lũ dưới suối vẫn còn chảy rất xiết khiến cho bọn họ không đi xa được. Bảo lão và Hoàng Chân thì men theo thượng nguồn con suối tìm mấy cây nứa chặt xuống. Họ bó mấy cây nứa với nhau rồi khênh về, vứt ở cửa hang. Bảo lão còn chặt được mấy đoạn dây rừng rất dài, một đoạn dây mây và một ít dây sắn. Đến chiều hôm đó thì mọi thứ đã được chuẩn bị. Bảo lão đứng ở cửa hang cầm dao chặt mấy cây nứa thành từng đoạn ngắn chừng một thước, đầu cây nứa được lão vát nhọn như hình mũi lao. "Đi rừng phải mang theo mấy thứ này." Lão nói oang oang như cái loa bật hết công suất. Hoàng Chân ngồi ở cửa hang, hắn mải mê bện mấy sợi dây rừng thành một cuộn dây dài, rồi xếp vào một góc. Còn đoạn dây mây to bằng ngón chân cái, hắn chặt ngắn cỡ một vòng tay rồi vứt vào hang, chờ đến tối sẽ đem hơ lửa để uốn thành công cụ trèo cây mà hắn đã từng xem trên tivi. Cả gia đình Bảo lão, ai cũng bận rộn. Có lẽ mấy ngày ngồi trong hang khiến họ chồn tay, chồn chân nên bọn họ rất hăng hái, đến tận chiều tối mới nghỉ. Sáng hôm sau, Bảo lão đưa hắn đến mấy cây to bên sườn núi tập trèo. Mấy cây này cũng khá lớn, to chừng vòng tay người ôm, thẳng đứng khoảng 20 thước. Lão bảo, mấy cây này giống loại chè cổ thụ trên đỉnh Tuyết Sơn nên bắt hắn chuẩn bị. Trong thâm tâm, lão rất lo lắng vì chưa thấy hắn trèo cây bao giờ. Tối hôm qua thấy hắn đem cái vòng mây ra uốn trên bếp lửa, lão rất ngạc nhiên vì không biết hắn định dùng làm gì. Đến khi thấy hắn đem vòng mây ra buộc vòng qua thân cây chuẩn bị trèo, lão mới biết công dụng của cái vòng. Lão đứng cạnh gốc cây, chú ý quan sát hành động của hắn. Đây là lần đầu tiên, lão thấy cách trèo cây bằng công cụ. Trước kia, mỗi khi trèo, lão cứ tay không mà leo thoăn thoắt như vượn, nhưng cũng chỉ leo được những cây nhỏ. Sau khi bị heo rừng húc, đùi trái lão bị đau nên không dám leo cây nữa. "Cái vòng này là ngươi nghĩ ra hả?" Lão hỏi. "Vâng." Hắn đang lom khom vòng cái dây mây và đoạn dây thừng qua thân cây để chuẩn bị trèo. Cái dây mây này, tối qua hắn phải ngồi hơ lửa để uốn. Hai đầu dây được hắn uốn thành hình chữ U, rồi buộc dây thừng vào hai đầu cho nó khỏi tuột. Trước kia, hắn cũng thỉnh thoảng đi leo núi, nên độ cao không làm hắn sợ hãi. Sau khi dùng chân móc đoạn dây thừng vào cổ chân, hắn cầm lấy cái vòng mây bắt đầu trèo. Một lúc sau, hắn đã leo lên được đến ngọn cây, vừa đứng ở trên, hắn vừa rung cây vừa ngó nghiêng như con đười ươi xổng chuồng. Bảo lão đứng dưới gốc cây ngửa mặt lên nhìn, lão thầm thán phục mấy dụng cụ mới chế của hắn, tưởng chừng như đơn giản nhưng rất hiệu quả. "Mía ơi, nếu mà trước kia ta có loại này thì cây to đến mấy, ta cũng trèo được". Lão nghĩ. Đến buổi chiều, mọi thứ đã được chuẩn bị đầy đủ. Các ống nứa đã được Bảo thị đổ đầy gạo rang, mấy cuộn dây thừng đã được bện xong. Bảo lão xếp các ống nứa vào hai cái gùi, lão đem con dao rựa ra mài xoàn xoạt bên bờ suối rồi giơ lên ngắm nghía, xong chém gió "vù vù" mấy phát. "Mọi thứ đã chuẩn bị xong, sáng mai chúng ta lên đường." Lão nói. Hắn đứng xem lão múa dao bên bờ suối rồi quay đầu ngó nghiêng xung quanh, thầm tính toán. Chỗ này đất tốt có thể trồng rau, còn chỗ kia đất nhiều đá cuội, chắc chỉ trồng cây ăn quả. Chỉ cần ven bờ suối dọn sạch mấy tảng đá, phạt sạch đám cỏ lau là có được đám đất trồng khá tốt. Nếu như có thể nuôi được một đàn gà vịt, nhưng ở đây không có chuồng trại, nếu nuôi gà vịt mà thả rông thì nó chạy sạch, hóa thành nuôi vịt giời. Mà thôi, ở đây gà rừng, vịt núi đầy rẫy, chỉ cần đặt mấy cái bẫy cũng không thiếu thịt. Nhưng nếu có cái cung thì tốt, thấy con nào béo là "phăng" chứ đặt bẫy, nhiều lúc toàn là loại nhép như con tép. Sau khi suy nghĩ mông lung một lúc, hắn quay người hỏi Bảo lão: "Thúc, thúc có cái cung tên nào không?" "Hả, để làm gì?" Bảo lão đang chém gió như thằng điên bèn ngoái đầu lại hỏi. "Cháu nghĩ, nếu có cái cung đi săn thì sẽ tốt hơn, thấy con nào béo mới bắn, chứ đặt bẫy phải chờ rất lâu. Hai nữa đi rừng dài ngày, nếu cần thịt thì mang cái cung sẽ rất tiện, bẫy không mang đi xa được." Hắn nói. "À, ta có một cái để trong hang, nhưng lâu ngày không dùng, để ta về lấy ra xem thử." Lão nói xong bèn xách con dao chạy hùng hục về hang như một thằng điên. Một lúc sau lão quay lại, tay cầm một cây cung đã mốc xanh và mấy mũi tên cong queo như que củi. "Lâu ngày, ta để quên dưới đám lá khô, để bắn xem còn tốt không?" Lão nói rồi lấy mũi tên lắp vào cung rồi giương lên ngắm vào một cây to, cách xa khoảng 20 thước. Sau khi đã ngắm nghía kỹ lưỡng, lão buông tay, mũi tên bay vụt qua thân cây cắm xuống đất làm tung lên mấy chiếc lá khô, lão lắc đầu rồi lẩm bẩm: "Hừ, lâu rồi ta không dùng đến nó, nhưng xem ra vẫn còn bắn được." "Để cháu bắn thử xem sao." Hắn nói rồi tiến đến bên lão, giơ tay ra cầm lấy cây cung. Sau khi lóng ngóng lắp mũi tên, hắn bắt chước lão giương cung lên nhắm vào thân cây và buông tay, mũi tên bay trúng gốc cây rồi rơi xuống đất nẩy lên vài cái. "Ha ha." Bảo lão cười lên khoái chí: "Xem ngươi bắn kìa, trúng gốc cây mà còn không cắm vào được." Lão ôm bụng cười nghiêng ngả như bị chập mạch. "Chắc tại cái cung này yếu quá." Hắn lấp liếm. "Yếu cái con khỉ." Bảo lão cười nhăn nhở: "Cung này là cung của bọn thợ săn, ta phải mất năm củ nhân sâm mới đổi được nó. Tại ngươi yếu quá, không giương nổi cung thì có." Lão vừa cười vừa nói, ý chê bai. "Nếu có con gà gô đứng kia thì thúc bắn được không?" Hắn vừa hỏi vừa chỉ về phía một tảng đá bên bờ suối. "Có gì mà không bắn được, chỉ là không biết trúng hay trượt." Lão trả lời. "Vậy, khoảng cách bao nhiêu thì thúc có thể bắn trúng?" Hắn hỏi tiếp. "Hả." Bảo lão gãi gãi đầu, suy nghĩ một lúc lão nói: "Nếu có con gà đứng cách.. một thước, ta đảm bảo bách phát bách trúng." "Mía nó, cách một thước thì ta đánh rắm cũng bách phát bách trúng, cần quái gì cung." Hắn lẩm bẩm. "Vậy trước kia đi lính, thúc không tập bắn cung hay sao?" Hắn hỏi. "Có chứ, cung của bọn lính là loại khác cái này, nó to và dài hơn, lực bắn rất mạnh. Ta tập mấy năm nhưng vẫn không thành, khó lắm. Ngươi đừng tưởng cầm cái cung là có thể bắn được ngay, phải luyện đến khi thành phản xạ và giương cung bằng cảm giác, chỉ cần giơ lên là có thể bắn trúng, lúc ấy mới được gọi là cao thủ." Lão giải thích một hơi. "Vậy cái cung này thúc có thể bắn được bao xa?" Hắn chìa cái cung, hỏi thăm dò. "Cái này nếu ngắm thẳng thì được khoảng 50 thước, còn bắn cầu vồng thì khoảng 100 thước." Lão giải thích. "Vậy cái cung của bọn lính thì sao ạ?" Hắn hỏi tiếp. "Cung của bọn lính là loại trường cung, có thể bắn xa hơn 150 thước. Nếu bắn thẳng trong vòng 70 thước, một tên cao thủ có thể lấy mạng người. Nhưng cũng chỉ có thể bắn được khoảng hai chục phát thôi." Lão trả lời. "Tại sao chỉ bắn được hai chục phát ạ? Cháu cứ tưởng là bắn được nhiều hơn chứ?" Hắn ngạc nhiên. "Hừ, ngươi không biết, một tên khỏe mạnh chỉ cần giương cung liên tiếp hai chục lần là mỏi nhừ tay rồi, làm sao mà bắn nổi nữa. Hơn nữa một bó tên hai chục mũi cũng khá nặng. Ngươi cứ nghĩ mà xem, một mũi tên to bằng ngón tay, dài cả thước thì nặng thế nào, chưa nói là cả bó. Vả lại khi ra trận, bọn chúng còn phải chạy, lại đeo cái cung nặng trịch, lại còn mặc giáp.. Chỉ cần chạy 200 thước là đã thở ra đằng đít, tưởng ngon hả." Lão nói liến thoắng. "Thì ra là vậy." Hắn ngẫm nghĩ. Như vậy với cái cung này, Bảo lão có thể bắn chết một con gà trong vòng 50 thước, quan trọng là có trúng hay không. Còn ta thì có thể bắn chết con gà trong vòng 20 thước, cũng không đơn giản như đan rổ. "Nếu ngươi có thể chăm chỉ luyện từ bây giờ thì vài năm nữa sẽ bắn giỏi như ta." Bảo lão giở giọng khuyến khích. "Hơ.. hơ. Cái này chắc khó quá, có loại nào dễ bắn hơn không hả thúc?" Hắn hỏi mà lòng thấy chán nản. "À.. có. Dưới bản có mấy cái nỏ, cái đó dễ bắn hơn nhưng phải mất chục củ nhân sâm mới đổi được." Bảo lão trả lời. "Có phải là loại giống như cái cung nhưng có thân dài như thế này, phải không ạ?" Hắn giơ cây cung lên và chỉ chỏ. Loại này, trước kia hắn đã nhìn thấy trong viện bảo tàng nào đó. "Đúng đó. Loại đấy thì ngươi có thể dùng được, tuy nó hơi nặng nhưng bắn dễ hơn. Mỗi khi lên nỏ thì chống xuống đất rồi kéo dây như thế này, hai nữa, nó có thể bắn khá xa và chuẩn." Lão vừa nói vừa vung tay giải thích. "Cháu hiểu rồi, vậy cái đó bắn xa hơn cái cung này không ạ?" Hắn hỏi tỏ vẻ vui mừng. "Loại đấy có thể bắn xa như trường cung." Bảo lão gật gù rồi đế thêm: "Nhưng nó có nhược điểm là bắn tương đối chậm, lại khá nặng. Mỗi khi bắn phải đặt tên lên giữa thân nỏ, rồi lấy ngón tay giữ, nếu không cẩn thận mũi tên sẽ rơi xuống, không bắn được." Lão kiên nhẫn giảng giải. "Vâng, cháu biết, cháu sẽ chế một cái để dùng." Hắn nói vẻ tự tin. "Cũng không khó lắm, chỉ cần kiếm ít ruột mèo hoặc gân thú sấy khô bện lại, là có một đoạn dây nỏ khá tốt. Còn cánh và thân nỏ thì vào rừng kiếm mấy khúc Thiết Sam là được." Bảo lão động viên. "Vâng, đợt này về cháu sẽ tìm cách làm." Hắn nói chắc như đinh đóng cột. Sau khi nâng thử cây cung bắn thêm vài phát nữa, thấy không dễ, hắn mới quyết tâm không tập cung nữa mà sẽ tìm cách chế một cái nỏ cho dễ dùng. Gì chứ với sự khéo tay của hắn, việc chế nỏ sẽ không khó khăn. Hắn đứng ngó nghiêng, thầm đánh giá địa hình, địa vật xung quanh hang. Bỗng một ý tưởng mới xuất hiện trong đầu, hắn ngẫm nghĩ một lúc rồi quyết định, buổi tối sẽ nói chuyện với gia đình Bảo lão. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống, mọi người đều đã ngồi quây quần bên bếp lửa. Bảo thị sắp mấy cái bát ăn cơm ra nền hang, Bảo nhi ngồi xếp đũa và thức ăn. Bữa cơm của bọn họ khá đạm bạc, ngoài cơm canh, còn thêm một đĩa rau sống mà mẹ con Bảo thị vừa hái ở rừng về. Bảo lão ngồi khoanh chân trước mấy cái bát, lão cầm đôi đũa lên rồi hỏi: "Mọi người đã rửa tay trước khi ăn chưa?" "Rồi.. rồi, lão gia." Mẹ con Bảo thị đồng thanh. "Thế thì ăn cơm thôi." Bảo lão ra lệnh. Bọn họ vừa ăn vừa uống, vừa nói chuyện, không khí trong hang thật là vui vẻ.
Chương 14. Bên hồ Nhật Hạ Bấm để xem "Thúc, cháu có chuyện muốn bàn với mọi người". Hắn vừa ăn vừa nói. "Chuyện gì vậy?" Bảo lão vừa nhai nhồm nhoàm vừa hỏi, Bảo thị và Bảo nhi giương đôi mắt lên nhìn hắn. "Cháu muốn chúng ta thử tính xem? Theo ý cháu, chúng ta sẽ không trồng khoai hoặc lúa nữa mà sẽ chuyển sang trồng thảo dược, rồi lấy thảo dược đem đi đổi thóc, như vậy có lẽ sẽ hiệu quả hơn?" "Ha ha." Bảo lão phá lên cười, lão tưởng hắn nghĩ ra cái gì mới lạ, chứ nói về thảo dược, cả cái vùng này không ai sánh được với lão. "Ngươi có biết, trồng được một củ nhân sâm mất bao nhiêu năm không? Trong từng ấy năm thì lấy gì mà ăn? Thảo dược thì sẵn trong rừng, chỉ cần chịu khó đi vài ngày là kiếm đầy một gùi. Còn khoai sắn thì đâu có sẵn, muốn đào một củ to cũng phải tìm mấy ngày, còn loại củ nhép thì không tính." Lão vừa nói vừa vung tay, đôi đũa ăn vung vẩy như lão nhạc trưởng đang chỉ huy dàn nhạc. "Nhưng chúng ta đâu cần trồng nhân sâm, chúng ta chỉ trồng những loại nào mọc nhanh và hay dùng thôi." Hắn ngừng nhai nhìn lão trả lời. "Loại trồng nhanh, hay dùng thì giá trị rất thấp." Bảo lão cười nhếch mép. Trong suy nghĩ của lão, mấy loại này trồng làm gì cho mất công. "Thúc, cháu muốn biết những loại thuốc hay dùng nhất là loại nào? Trước kia, thúc làm quân y, chắc phải biết loại nào hay dùng nhất chứ?" Hắn hỏi. "Tất nhiên." Bảo lão vênh mặt, lão đang nhai cơm nên phồng mồm về một bên rất tức cười: "Loại hay dùng nhất là chữa đau bụng, lòi dom.. gãy xương, bong gân, cầm máu, cảm sốt, ho lao.. ghẻ lở, hắc lào, tổ đỉa.. Ngươi không nghe câu" không hắc lào, không được vào quân đội. Không ghẻ, không có thẻ quân nhân "hay sao?" Lão trả lời. "Vậy, chúng ta sẽ trồng cây thuốc để chữa những loại bệnh này thôi, ngoài ra sẽ dành một ít đất trồng những cây thuốc quý lâu năm. Việc này, cô cô và Ngọc nhi cũng có thể ở nhà chăm sóc trồng trọt được, không cần phải đi xa để tìm kiếm." Hắn vừa gắp cơm vừa nói. "Ngươi cóc hiểu gì cả, trồng những loại đó thì bán được bao nhiêu, đây là những loại bệnh thông thường nên cây thuốc ở đâu cũng sẵn, không chữa được bằng loại này thì chữa bằng loại khác. Vả lại, nếu có trồng rồi đem đi đổi thóc thì mấy chục gùi mới đổi được nắm thóc đây, trồng loại này có mà chết đói." Lão gõ "cạch cạch" đôi đũa trên miệng bát. "Đúng đấy, chúng ta cứ tiếp tục trồng lúa và khoai thôi." Bảo thị đang nhai cơm bèn phụ họa. Vừa ăn, vừa suy nghĩ một lát, hắn ngước đầu hỏi: "Trước kia, thúc mang thuốc theo người bằng cách nào?" "Nhoàm.. nhoàm, ta chỉ mang những loại công dụng đặc biệt như: Rắn cắn, trị độc, vết thương nguy hiểm tính mạng.. Những loại thông thường thì ta hái ở những nơi xung quanh rồi về sắc lên để dùng. Còn bọn lính, ta hướng dẫn cho chúng cách chữa rồi chỉ cho chúng đi hái lá thuốc, về tự sắc lấy mà chữa." Lão trả lời như máy khâu nhưng tay vẫn gắp liên tục và miệng thì tòm tọp như heo. "Vậy nếu người bình thường mà bị bệnh thì thế nào? Họ có biết cách tự chữa không?" Hắn gặng hỏi tiếp. "Người bình thường thì phải hỏi lang y, sau đó mua hoặc tự tìm lá thuốc, sắc lên mà dùng." Lão trả lời. "Vậy các tiệm thuốc họ mua thảo dược của chúng ta, họ không mua thuốc đã chế biến sẵn hay sao?" Hắn hỏi thêm. "Chế biến sẵn!" Bảo lão thốt lên. Lão ngừng nhai, sau khi ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu: "Chắc không, vì thuốc chế biến sẵn hầu như chỉ chữa một loại bệnh. Còn thảo dược chưa chế biến thì có thể phối hợp loại này với loại kia để chữa nhiều bệnh hơn. Do đó, cũng sẽ dễ bán. Ta không tin các tiệm thuốc sẽ mua thuốc đã chế biến sẵn." "Cũng chưa chắc." Hắn lắc đầu: "Theo ý của cháu, chúng ta sẽ trồng và chế biến sẵn một số loại thuốc thông dụng, rồi sấy khô cho vào các bình gốm hoặc các hộp gỗ nhỏ, bên ngoài vẽ cách sử dụng. Sau đó, đem chào bán vào các tiệm thuốc hoặc bán cho binh lính. Chúng ta không cần bán đắt mà sẽ bán nhiều, kiếm lợi từ số lượng chứ không phải từ giá cao, số lượng ít, cháu nghĩ sẽ hiệu quả hơn trồng lúa hoặc cây lương thực khác." "Có chắc chắn không?" Vợ chồng Bảo lão sáng mắt. "Chúng ta chưa thử nên chưa chắc chắn lắm. Hay là đợt tới, trước khi xuống thành Nam Sơn, chúng ta chế biến thử một ít thuốc. Lọ gốm nhỏ thì cháu sẽ cho nặn trước một ít để nung, chế biến xong chúng ta sẽ cho vào lọ rồi mang đi chào bán. Còn chế biến loại thuốc nào thì tùy thúc lựa chọn." Hắn gợi ý rồi thong thả nhét đám rau xanh vào mồm. "Muội sẽ xuống ven bờ sông kiếm đất sét, lần trước huynh bày cho muội cách nặn nên muội sẽ nặn thử ít lọ gốm xem sao." Bảo nhi ngừng ăn góp lời. "Được, chúng ta sẽ thử xem." Bảo thị cũng háo hức không kém. Từ khi hắn nghĩ ra mấy thứ hữu ích, cả nhà Bảo lão đều mang tâm lý tin tưởng vào hắn. "Okey, chúng ta sẽ cùng quyết tâm." Hắn tự tin động viên. Cả nhà Bảo lão ngơ ngác, không hiểu hắn nói "Okey" nghĩa là gì. Bữa cơm tối kết thúc trong sự hy vọng. Sáng sớm hôm sau, mặt trời vẫn còn chưa ló ra sau rặng núi, tiếng gà rừng gáy đã le te khắp nơi. Hai người, Bảo lão và Hoàng Chân đã chuẩn bị lên đường. Trước khi đi, Bảo lão kiểm tra hai cái gùi cẩn thận. Lão đeo cái gùi to đựng các ống nứa chứa nước uống, con dao rựa sắc lém được lão đeo ở hông. Đằng sau cái gùi, lão còn buộc thêm mấy cái bùi nhùi giữ lửa và mấy cuộn dây thừng. Cái gùi có chứa ống nứa đựng gạo rang, lão chuẩn bị cho hắn. Lão còn đưa cho hắn một con dao rựa cũ rích, long cả cán và cong queo, mẻ ngang mẻ dọc. "Cầm lấy mà dùng. Đây là bảo bối tùy thân của ta trước đây, đã cùng ta chinh phạt hơn chục năm trong cánh rừng này." Lão nói vẻ trân trọng. "Hứ, có con dao mẻ mà cũng làm bộ." Hắn cười thầm nhưng vẫn tỏ vẻ ngoan ngoãn, trịnh trọng cầm lấy rồi chém gió mấy phát xem thử vừa tay không. "Cám ơn thúc, con dao này thật tốt. Để lúc nào rỗi, cháu sẽ đem mài cho sắc hơn." "Ừ, nhớ phải giữ gìn nó nghe không?" Bảo lão dặn dò thêm. Hai người bọn họ lên đường. Trước khi đi, hắn còn không quên khoác cái vòng mây qua đầu. Qua bên kia suối, hắn đứng lại vẫy tay với Bảo nhi rồi quay người chạy theo Bảo lão đã đi được một đoạn khá xa. Bảo lão vẫn cắm cúi bước, lão không có thói quen vẫy tay hay nói dăm lời thương yêu với đám đàn bà, con gái mỗi khi đi vào rừng. Họ đi qua những cánh rừng thưa với sườn đồi thoai thoải. Đây là khoảng rừng có ít cây to do bị chặt phá nhiều, những cây con còn chưa kịp cao nên hơi trống trải. Vì vậy, Bảo lão liên tục giục hắn phải đi thật nhanh qua cánh rừng này để kịp đến khu rừng rậm trước khi trời nắng to. Thỉnh thoảng, sau những tảng đá bên đường, một vài con rắn chừng 2 - 3 thước bất thình lình vụt ra, chạy ngoằn nghèo trước mặt họ, hoặc phành phạch mấy con gà rừng hoảng hốt bay vút lên từ đám cỏ lau cao cỡ đầu người. Gần đến giữa trưa, họ đã đến bên rìa cánh rừng già. Đây là nơi con người ít lai vãng đến nên cây cối xanh tươi, cao lớn khác thường. Rất nhiều cây to và cây cổ thụ cao vút trên nền trời xanh. Ở dưới mặt đất, chen chúc rất nhiều bụi cây rậm và nhiều dây leo cỡ cổ tay lòng thòng, đây đó lẫn lộn vài bụi dương xỉ cổ đại to vật xen lẫn xác da rắn. Không khí có vẻ rất âm u, ẩm thấp và hoang dại. Bảo lão dừng lại, lão ngó nghiêng rồi đi tới một gốc cây cổ thụ cành lá rậm rạp, rễ cây lô nhô trên mặt đất. Tới nơi, lão từ tốn hạ cái gùi xuống rồi ngồi trên một cái rễ cây lớn. Quẹt tay lau mấy giọt mồ hôi trên mặt, lão nói: "Nghỉ ở đây một lúc, chúng ta ăn trưa rồi tiếp tục lên đường." Lão quay đầu nhìn hắn, chỉ đạo. "Vâng." Từ lúc vào rừng, hắn vẫn lẽo đẽo đi sau lão. Giờ đã đến gần trưa nên trời khá nóng, mồ hôi hắn chảy ròng ròng trên tấm lưng trần, vừa thở phì phò, hắn vừa lẩm bẩm: "Bây giờ mà không nghỉ thì tý nữa, có mà đi bằng mông." Bọn họ dừng lại nghỉ ngơi một chút rồi lôi gạo rang, nước lã ra. Đến khi ăn đã cảm thấy đủ, lão bảo hắn ngồi nghỉ rồi xách dao vào mấy bụi cây, chặt lấy hai đoạn trông như hai cây gậy chừng hơn thước. Sau khi đã chặt xong, lão đưa lên ngang mắt ngắm nghía rồi quẳng cho hắn cây bé, còn cây to lão xách về vứt gần chỗ ngồi. Trước khi đi tiếp, lão cho tay vào giữa cái gùi lục lọi rồi lấy ra một cái bọc lá chuối, bên trong có một thứ nan nát, dinh dính, xanh xanh vàng vàng như sản phẩm được tạo ra bởi cơm thiu trộn dưa khú mà hệ tiêu hóa của con người thải ra ngoài. "Bôi cái này lên người, chống vắt, muỗi và côn trùng cắn." Lão nhắc nhở. Rồi lão cho hai ngón tay vào ngoáy ngoáy, móc ra một cục xanh xanh vàng vàng bôi lên khắp người từ đầu đến chân. Ngay lập tức, người lão bốc ra một mùi nồng nồng khai khai, vằn vện như trang phục đặc nhiệm chống khủng bố, đang xông vào tiệm massage bắt mấy em bán trôn. "Cái này làm bằng gì vậy, thúc?" Hắn nhăn mặt hỏi. "Lá lim non, gừng, củ tỏi giã nát trộn với vôi tôi và nước tiểu." Lão trả lời thản nhiên. "Hả, cháu tưởng là bôi.. bã lên người." Hắn cười méo cả miệng. Nghe hắn nói, lão ngớ ra rồi nhìn xuống, bỗng nhiên lão cười sằng sặc. Một lúc sau, định thần lại, lão gật gù: "Giống thật, giống thật. Trước kia, ta không để ý lại giống như vậy, ha.. ha." Bọn họ lại tiếp tục lên đường, đây đã là giữa rừng già. Bảo lão đi trước, tay trái lão cầm gậy gạt mấy bụi cây vẹt ra, rồi cẩn thận ngó ngiêng lách vào, tay phải lão lăm lăm con dao như sẵn sàng chém xuống. Lão bước thong thả, chậm rãi và cẩn thận, vừa đi lão vừa nói: "Phải để ý rắn cắn. Thường trên các bụi cây thấp hay có rắn lục, ban ngày, bọn chúng gần như mù chẳng thấy gì. Nhưng thấy động là chúng vụt ra đớp, chẳng may bị chúng cắn trúng mà cứu không kịp là xong đời." Hắn lẳng lặng đi theo sau lão, vừa đi vừa chú ý trên mặt đất và các bụi cây xung quanh. Thỉnh thoảng trên mặt đất lại có vài con vắt nâu, vắt trắng bằng chiếc đũa, ngóc đầu lên ngoe nguẩy đánh hơi. Thậm chí có con vắt xanh lè còn búng người đánh veo dính vào người hắn, nhưng khi bám phải cái thứ xanh xanh vàng vàng bèn quằn quại rớt xuống. Thỉnh thoảng, trên các ngọn cây cao lại ào ào bóng lũ khỉ di chuyển, vừa đu chúng vừa hú hí vang động cả khu rừng. Địa hình đã bắt đầu lên cao dần và rừng cây cũng ngày càng rậm rạp. Đến khi mặt trời gần khuất núi, bọn họ đã đến bên một cái hồ rất lớn, nước trong vắt nhìn thấy cả cuội dưới đáy. Xung quanh hồ là một dải đất trống cây cối thưa thớt, dường như nước hồ rút xuống làm lộ ra dải đất này. Mặt hồ lăn tăn, in bóng khung cảnh núi rừng trông thật hùng vĩ. Sau khi đến bên bờ hồ, Bảo lão cẩn thận hạ cái gùi xuống đứng quan sát. Một lúc sau, lão tay dao tay gậy, cẩn thận đi vòng quanh mấy cây to ven hồ xem xét rồi mới quay lại. "Chúng ta chuẩn bị nghỉ ở đây thôi." Lão nói. "Vâng." Hắn nhẹ nhàng hạ chiếc gùi nhỏ xuống đất rồi ngồi phịch xuống thở một hơi. Bọn họ đã đi suốt từ trưa đến giờ, thỉnh thoảng mới dừng lại nghỉ dăm phút, đến giờ đã thực sự mệt. "Hồ này là hồ gì hả thúc?" Hắn hỏi. "Đây gọi là hồ Nhật Hạ, mọi người đi rừng đều gọi như vậy. Chắc là trước kia, do một lão mặt trời rơi xuống." Lão trả lời. "Một cái hồ trên núi." Hắn lẩm bẩm, nếu là do thiên thạch rơi xuống, chắc khá sâu. Hắn lò dò bước xuống mép hồ, sau khi tiến xuống vài thước đã thấy nước lên đến tận đầu gối, hắn dừng lại. Mấy đàn cá nhỏ ven hồ thấy tiếng động, lập tức bu lại rỉa rỉa vào chân hắn nhồn nhột, nhưng chỉ rỉa được vài cái là chúng bơi mất, chắc mùi lá nát trên người hắn làm chúng không mấy hứng thú. Từ từ tuột phăng cái khố rồi ném lên bờ, hắn rùn người xuống rồi té nước lên người, kỳ cọ cho sạch hết mồ hôi nhầy nhụa, lẫn lộn với lớp bã xanh vàng, thứ này dính trên người thật là cực hình. "Ấy.. ấy. Sao ngươi lại rửa hết đi như vậy, ngày mai lấy gì mà bôi?" Bảo lão hét toáng lên: "Đám lá nát xanh vàng này, hiện đã bôi gần hết, không thể phí như vậy được." Lão bực bội lắm. "Cháu thấy nó dinh dính, khó chịu quá." Hắn nhún vai phân trần. "Ngươi phải biết chịu khổ chứ, mới đi được một ngày đã không chịu được thì mấy ngày nữa, biết làm sao?" Lão càu nhàu. "Hì hì, ngày mai cháu sẽ cố chịu đựng vậy." Hắn nhăn nhở. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, hắn tồng ngồng lên bờ nhún nhảy một hồi cho ráo nước rồi nhặt cái khố lên, mặc vào. Bảo lão đã nhặt được một nắm lá khô và ít cành cây, lão gom chúng lại một đống gần mép hồ rồi rút bùi nhùi ra nhóm lửa. Chỉ giây lát sau, một làn khói xanh bốc lên giữa đám lá rừng, tỏa ra trên mặt hồ mờ ảo như sương mai buổi sớm. Sau khi đã nhóm lửa xong, lão lấy một ống nước ra uống một ngụm rồi lấy bọc lá ra, đưa cho hắn: "Cầm lấy, chỉ còn từng ấy thôi, tý nữa bôi vào nếu ngươi không muốn làm mồi cho muỗi." Lão hăm dọa. "Vâng." Hắn giơ tay cầm lấy bọc lá của lão rồi đặt xuống cạnh đống lửa. "Tối nay, chúng ta ngủ ở đây hả thúc?" Hắn hỏi. "Ừ, tối nay nghỉ ở đây thôi, tý nữa ngươi đem cắm các ống nứa thành một vòng tròn chĩa ra phía ngoài, sau đó lấy dây chăng xung quanh phòng thú dữ. Sau đó nhặt ít lá rải xuống đất mà nằm, ta sẽ đi chặt thêm một ít cành to để đốt." Lão căn dặn. "Sao chúng ta không ngủ trên cây? Mấy ống nứa này có ngăn được thú dữ không ạ?" Hắn lo lắng hỏi. "Yên tâm đi, ngươi đã từng nghe câu" hổ sợ giang nứa, trăn sợ sắn dây "chưa? Cứ làm theo lời ta, đảm bảo đêm nay ngủ ngon." Lão động viên. "Vâng, nhưng" hổ sợ giang nứa, trăn sợ sắn dây "nghĩa là sao hả thúc?" Hắn tò mò. "À, đây là câu nói của bọn đi rừng. Nếu gặp hổ, chỉ cần gõ vào ống nứa, nghe tiếng gõ, hổ sẽ tránh đi. Còn trăn, nó chỉ sợ dây sắn, chỉ cần ném sợi dây sắn lên người nó là nó nằm im chịu trói. Hai con này thuộc loại đáng sợ nhất trong rừng đấy." "Vậy ngoài hai loại trên, còn loại nào đáng sợ hơn không hả thúc? Như heo độc, bò tót, voi, chó sói.. chẳng hạn." "À, nhiều lắm. Nhưng quan trọng là loài nào cũng sợ lửa, chúng ta đốt lửa lên thế này, chúng không dám lại gần, cứ yên tâm." Lão an ủi. Nói xong, lão xách dao vào mé rừng. Nhìn theo bóng lão biến mất sau mấy gốc cây to, hắn lưỡng lự rồi đi theo về hướng lão. Tới mấy bụi cây, hắn cẩn thận ngó nghiêng rồi bẻ mấy cành lá to, xong quay lại bên đống lửa, trải xuống đất tạo thành hai chỗ ngủ khá lý tưởng. Sau khi đã dọn dẹp xong hai chỗ ngủ, hắn lôi mấy ống nứa đựng nước của Bảo lão ra cắm rải rác thành mấy cái cọc quanh đống lửa theo mệnh lệnh của lão. Hắn còn lấy dây thừng ra, buộc quanh các ống nứa thành một vòng tròn. Bảo lão đã quay về bờ hồ, lão ôm một đống củi to khệ nệ, sau khi vứt phịch đống củi bên đống lửa, lão tới bên bờ hồ, khỏa nước rửa tay. Bọn họ ngồi quanh đống lửa cháy tí tách, vừa bốc gạo rang ăn, vừa nói chuyện. Chỉ một chốc sau, màn đêm nhanh chóng bao phủ mặt hồ. Không gian xung quanh chìm dần vào màn đêm mù mịt không còn nhìn rõ đâu với đâu. Ven bờ hồ, ủng oảng vang lên tiếng ếch kêu và tiếng côn trùng ri rỉ.
Chương 15. Vượt qua núi Quỷ Bấm để xem Chích chích, cao huýt.. cao huýt.. huýt.. huýt. Tiếng chim kêu, vượn hót vang động cả cánh rừng. Ở tít trên ngọn cây phía xa, một đàn vượn đang chuyền cành. Những cô vượn cái tru cái mỏ huýt líu lô, để cho các chàng vượn đực ngây ngô ngồi ngắm như những kẻ si tình. Đằng đông, phía chân trời đã bắt đầu hửng sáng, báo hiệu một ngày mới. Hoàng Chân thức giấc, hắn ngồi dậy nhìn quanh thấy Bảo lão vẫn còn đang cuộn mình dưới đám lá cây ngủ say sưa. Thỉnh thoảng lão lại chép chép miệng như đang mơ thấy một bữa đánh chén no nê nào đó. Gỡ bỏ đám lá cây trên mình đã đẫm sương đêm, hắn vươn vai đứng dậy, vặn người vài cái rồi đến bên mép hồ khỏa nước rửa mặt. Đêm qua, hắn ngủ không ngon giấc, có lẽ vì chưa ngủ giữa rừng hoang bao giờ nên hắn loay hoay cả đêm để canh đống lửa, sợ nó tắt. Mặc dù trước khi đi ngủ, hắn đã vứt thêm lá tươi vào đống lửa để tạo khói và bôi đám lá nát lên người, nhưng vẫn không đủ đuổi đám côn trùng vo ve loạn xạ bên tai. Vì vậy, đến nửa đêm, hắn phải liều đến gần mấy bụi cây bên hồ, bẻ thêm mấy cành lá rậm rạp rồi chui vào giữa, hòng ngăn đám côn trùng quấy nhiễu. Thỉnh thoảng gần mép hồ có tiếng con gì đó sột soạt hoặc kêu hừ hừ khiến hắn giật mình chồm dậy, tay lăm lăm con dao mẻ và cây nứa nhọn. Cứ vậy cả đêm, khiến sáng ra trông hắn phờ phạc như con nghiện. Bảo lão vẫn ngủ như chết, lão đã thành thói quen mặc kệ xung quanh khi đi ngủ. Ngủ giữa rừng hoang vu như thế này vốn không làm cho lão sợ hãi, có lẽ kinh nghiệm nhiều năm đi rừng và muôn lần cận kề cái chết đã làm lão chai sạn. Thỉnh thoảng, lão lại trở mình nói lảm nhảm vài câu gì đó "ủng oảng" như chó kêu. Trời đã dần sáng hơn làm tan đi đám sương mờ trên mặt hồ, so với hôm qua, mực nước trong hồ có vẻ rút đi một ít làm lộ ra đám sỏi cuội lổn nhổn, đây là tính chất của loại hồ trên núi. Khi có mưa, nước hồ lên rất nhanh, nhưng cũng rút xuống rất nhanh. Sau khi rửa mặt xong, hắn đứng lặng một chỗ nhìn về phía bên kia hồ. Nhật Hạ quả là một cái hồ lớn, đứng bên này không nhìn rõ bờ bên kia, chỉ thấy thấp thoáng bóng những ngọn núi xa tít trong mây mờ. Khung cảnh hoang sơ, vô cùng kỳ vĩ khiến cho hắn thấy xúc động. Ở thế giới trước kia của hắn, không bao giờ có được những giây phút như vậy. Quay về bên đống lửa, hắn thấy Bảo lão đã ngồi dậy, tiếng vượn hót vang động đánh thức giấc mộng của lão. Lão ngồi trong đám cành cây, thò cái đầu lên nhìn quanh trông xa giống hệt một con đười ươi với cái đầu bù xù như tổ quạ. "Tối qua ngủ ngon không?" Lão hỏi. "Dạ, tối qua cháu không ngủ được." Hắn trả lời. "Ừ, cứ đi vài lần là quen thôi." Bảo lão động viên. Lão đứng dậy, chui ra khỏi đám cành cây rậm rạp rồi đến bên mép hồ múc nước rửa hai cái mắt và miệng một cách rất qua loa. Sau đó, lão đến bên hắn ngồi xuống lục cái gùi rồi bốc một nắm gạo rang cho vào mồm nhai tòm tọp. Sau khi đã uống thêm một ngụm nước, lão nói: "Hôm nay, chúng ta sẽ vòng theo mép hồ sang rặng núi bên kia là đến gần chân núi Quỷ. Từ đó, chúng ta đi vòng dưới chân núi về phía tây nam, sang đến bên kia núi là đã ở dưới chân dãy Tuyết Sơn rồi." "Núi Quỷ, sao lại có cái tên nghe rùng rợn vậy, thúc?" Hắn lạ lùng hỏi. "À, người ta bảo đấy là nơi ở của Quỷ. Từ xưa đến nay, bộ lạc chúng ta chưa ai dám vào đó bao giờ." Lão trả lời thản nhiên. "Nơi ở của Quỷ ư? Vậy ở đây có Quỷ thật không ạ?" Hắn phân vân. Không biết thế giới này có Quỷ thật hay chỉ là mấy con thú kỳ lạ nào đó còn tồn tại từ thời nguyên thủy. "Ta không biết, nghe mọi người nói vậy chứ có ai dám lên núi xem Quỷ bao giờ. Chỉ nghe nói trong vùng núi này, thỉnh thoảng bốc lên nhiều đám sương mù có mùi thối thum thủm. Buổi tối, đứng từ xa còn nhìn thấy nhiều ánh mắt quỷ đỏ rực như ánh lửa. Cây cối thì thưa thớt, cành lá cong queo và khô khốc, đến thú rừng, chim chóc cũng không có một con, dường như chúng sợ hãi một thứ gì đó. Ngày xưa, cha ta kể rằng có nhiều người vào trong núi Quỷ đều chết mất xác, không còn ai trở về." Lão trầm ngâm. "Cháu nghĩ, có thể là do một nguyên nhân tự nhiên nào đó mà chúng ta chưa biết. Vậy nếu chúng ta đi vòng qua núi Quỷ thì sẽ mất bao nhiêu ngày hả thúc?" Hắn hỏi tiếp. "Khoảng ba ngày. Sau đó, chúng ta mất thêm nửa ngày nữa sẽ tới cánh rừng chè cổ đại trên đỉnh Tuyết Sơn." Lão trả lời sau khi lẩm nhẩm tính toán. "Như vậy nếu nhanh, chúng ta sẽ mất bốn ngày rưỡi. Thêm khoảng một, hai ngày ở lại là mất 11 ngày mới có thể trở về được, phải không ạ?" Hắn hỏi. "Đúng." Bão lão khẳng định: "Bây giờ chúng ta chuẩn bị lên đường thôi kẻo muộn." Lão nhanh nhẹn nhấc cái gùi lên vai, sau khi cầm lấy cây gậy và con dao, lão xăm xăm đi trước, mặc kệ cho hắn còn chưa kịp ăn sáng. Vội vàng bốc một nắm gạo rang cho vào mồm, hắn xốc cái gùi lên vai, tay dao tay gậy chạy theo lão như một con vịt con lạch bạch theo mẹ. Bảo lão nghênh ngang đi trước, thỉnh thoảng lão lại dừng lại ngó nghiêng như để định hướng lối đi. Cũng may, bọn họ đi men theo mép hồ nên không phải vạch lá tìm đường như trước. Khi mặt trời đã lên chừng con sào, họ đã đi được khá xa. Thỉnh thoảng, một con rắn to như cổ tay, dài cỡ 4 - 5 thước đang nằm phơi nắng bên mép hồ giật mình vì bóng người, tháo chạy vào rừng đánh "roẹt". Đến một con suối khá lớn, nước chảy đục ngầu và tương đối xiết, Bảo lão dừng lại. Lão đến gần một cây to xem xét, sau khi đã xác định được vết dao lần trước, bọn họ bắt đầu men theo bờ suối và băng qua các tảng đá đi về hướng nam. Dọc bờ suối, những con nhái bén, chẫu chàng nhìn thấy bọn họ, hoảng hốt nhảy bòm bõm xuống nước. Thỉnh thoảng, họ lại nhìn thấy một con rết lớn như ngón chân cái dài chừng bốn chục phân, bò loằng ngoằng trên đám lá rụng ven bờ. Bảo lão liền cầm gậy vụt lấy vụt để vào đầu nó, sau đó lão xách đuôi con rết lên rồi bỏ vào cái gùi, mặt mỉm cười vẻ mãn nguyện. "Tối nay có tí thịt ăn rồi." Lão phấn khởi nói. Suốt chặng đường ven bờ suối đến chân dãy núi Quỷ, lão đã hạ gục được bốn con rết lớn và ba con ếch bầu to bằng bàn tay. Con suối chảy ngoằn nghèo, uốn khúc giữa hai hàng cây rậm rạp ven bờ, bọn họ đi đến trưa thì gặp một khúc quanh lớn. Đây là khúc quanh do con suối chuyển dòng gây ra, bờ suối mở rộng ra mấy chục thước, khá bằng phẳng với đá cuội lô nhô. Những dòng nước uốn lượn qua các tảng đá nghe róc rách, đứng ở khúc quanh có thể nhìn thấy dãy núi Quỷ xa xa cao chừng 200 - 300 thước, một màu xanh ngắt. Bảo lão đứng giữa khúc quanh, lão vẫy hắn đến gần rồi giơ tay, chỉ về núi Quỷ và nói: "Chúng ta nghỉ trưa ở đây thôi, ăn xong chúng ta không men theo bờ suối nữa mà đi chéo về phía kia, vòng qua núi Quỷ về phía nam." Hắn đứng nhìn theo hướng tay lão chỉ, rồi im lặng quay người tìm một tảng đá to dưới bóng cây để nghỉ ngơi. Bỗng có ánh lấp lánh dưới lòng suối làm hắn chú ý, hắn đi đến bên tảng đá, nhẹ nhàng đặt cái gùi xuống rồi lội đến bên vật lấp lánh đó nhặt lên xem xét. Đó là một hòn đá to bằng nắm tay có mặt đen bóng phản chiếu ánh sáng mặt trời, hắn xoay xoay hòn đá rồi cúi người đập hòn đá vào một tảng đá lớn. "Cách" hòn đá vỡ một góc, những mảnh vỡ đen sì rơi lả tả xuống mặt nước. "Đá Quỷ." Bảo lão thốt lên, lão đã đứng sau lưng hắn từ lúc nào. Khi thấy hắn cầm hòn đá lên xem, lão tò mò đứng phía sau quan sát. Màu đen lấp lánh của hòn đá phản chiếu ánh mặt trời làm lão lóa mắt, trong trí nhớ của lão lập tức hiện về lời kể ma quỷ của cha lão dạo nào làm cho lão run rẩy. "Đây là đá Quỷ ư?" Hắn cầm hòn đá giơ về phía lão. Bảo lão lùi lại, lão rùng mình hoảng hốt trước hòn đá màu đen đầy ma quái trước mắt. "Vứt xuống, vứt xuống đi." Lão rối rít. "Đó là máu thịt của Quỷ đó." Lão run cầm cập. "Máu thịt của Quỷ? Sao cháu chẳng thấy giống gì cả." Hắn cười nói, mắt liếc về phía lão vẻ chế nhạo, không ngờ Bảo lão can đảm như thế mà lại sợ một hòn đá đen. "Đúng là máu thịt Quỷ đó, từ bé ta đã nghe kể về nó. Khắp trong bản, ai cũng sợ. Nghe nói đó là máu thịt của Quỷ chảy ra, ai giữ nó thì đến đêm, Quỷ sẽ tìm về giết cả nhà, da thịt bị lột ra, thân thể sẽ bị hút sạch máu." Lão vừa run vừa nói, hai hàm răng va vào nhau lập cập. "Ha ha.. Thúc có biết nó là cái gì không? Hắn vừa cười vừa tung hòn đá trong tay, đây là than đá đó, thúc hiểu không? Không phải máu Quỷ gì cả, cũng không phải sợ nó." Hắn đưa hòn đá về phía lão. Bảo lão vội vàng chạy tót ra nấp sau một tảng đá. Lão hoảng quá nên bị trượt chân, té quay giữa dòng nước, hai chân hai tay chổng lên trời. Sau khi lồm cồm bò dậy, lão hoảng loạn co rúm người lại. "Ngươi không biết gì cả, đó là máu thịt của Quỷ, chỉ cần đốt trên đống lửa, nó sẽ đỏ rực và bốc mùi rất khó chịu. Ngươi mà không vứt nó sẽ chết thảm đó." Lão líu cả lưỡi. "Hứ. Thúc đừng sợ, đây là than đá mà, không phải máu thịt Quỷ đâu." Hắn thấy tức cười sự nhát gan của lão, ai đời cọp beo không sợ mà lại đi sợ một hòn đá. Hắn cũng không biết rằng, tại trái đất trước kia than đá được phát hiện ra từ rất lâu trước công nguyên, nhưng mãi đến tận thế kỷ 18, khi cuộc cách mạng công nghiệp tại nước Anh ra đời cùng với sự phát triển của máy hơi nước thì than đá mới được sử dụng rộng rãi. Thậm chí tại Việt Nam, thời vua Tự Đức (1829 - 1883). Người ta còn chưa biết than đá dùng để làm gì. Có câu chuyện kể rằng, một viên quan cho người đào được một khối than đá lớn, thấy đen óng ánh bèn dâng lên hoàng cung, nhưng cả triều đình không biết cục đá này dùng để làm gì. Vua Tự Đức khi đó còn cho rằng hòn đá này do máu của Quỷ sinh ra sẽ đem lại sự xui xẻo cho nhà vua, do đó đem vứt đi. Kể ra thì cũng oan cho Bảo lão, than đá tại thế giới này vẫn là thứ mà hầu như tất cả mọi người vừa nhìn thấy là đã sợ hãi, chưa nói đến chuyện đem ra sử dụng. Bảo lão vẫn còn run lẩy bẩy, lão thò đầu ra khỏi tảng đá hỏi: "Than đá à, than đá là cái gì?" "Cái này là do thực vật, cây cối từ hàng trăm triệu năm trước bị chôn sâu trong lòng đất, lâu ngày hóa thành than đá chứ không phải máu Quỷ gì cả." Hắn giải thích. Bảo lão ngạc nhiên, từ trước đến giờ lão chưa bao giờ nghe nói đến cây cối bị chôn dưới lòng đất hàng trăm triệu năm lại hóa thành than đá. Lão đứng dậy, rụt rè đến gần hắn nhìn chòng chọc vào hòn đá đen bóng kỳ lạ kia. "Có thật là do cây cối hóa thành không?" Lão hỏi. "Tất nhiên. Nếu gặp may, ta có thể nhặt được một hai hòn vẫn còn nguyên vết lá cây đó. Thậm chí, nếu nhìn kỹ hòn đá này, ta còn có thể thấy cả các thớ gỗ đã hóa đá." Hắn giải thích. "Vậy không phải do máu Quỷ sinh ra sao?" Lão rụt rè hỏi. "Không phải, chắc đây là hòn đá từ núi Quỷ trôi xuống theo khe suối. Nếu vậy, núi Quỷ chắc là có mỏ than đá lộ thiên." Hắn giải thích thêm. "Khi thúc nói núi Quỷ có sương mù bốc lên mùi thum thủm, lại thêm cây cối gầy héo, khô khốc, cháu đã nghi ở đó có hiện tượng lạ do tự nhiên sinh ra." Hắn thốt lên. "Chắc chắn không phải Quỷ chứ?" Bảo lão vẫn chưa hết băn khoăn. "Chắc chắn vậy, chúng ta kiếm chỗ nghỉ ăn trưa rồi cháu sẽ kể cho thúc nghe về sự hình thành than đá." Hắn nói xong bèn đi về phía tảng đá dưới tán cây. Trong thâm tâm, hắn quyết định sẽ đem các kiến thức khoa học ra để kể cho lão, mặc dù có thể lão không hiểu. Bảo lão vội vàng đi theo. Đến tảng đá, bọn họ ngồi xuống lấy gạo rang, nước uống ra vừa ăn vừa nói chuyện. Trên đường đi, hắn đã kể cho Bảo lão rất nhiều kiến thức về sự hình thành than đá. Đó là do cách đây hàng trăm triệu năm về trước, những vùng đầm lầy hoặc bờ biển có rất nhiều cây cối to lớn rậm rạp. Các cây cối này bị chết đi, đổ xuống tạo thành một lớp xác thực vật rất dày. Việc tích tụ xác cây cối được tích lũy trong một thời gian rất dài cho đến khi có một hiện tượng tự nhiên nào đó như biến động địa chất, hoặc núi lửa phun trào khiến cho các cánh rừng này bị vùi sâu vào trong lòng đất hoặc lòng biển. Do sự phân hủy xác thực vật xảy ra ở trong tình trạng thiếu khí và dưới tác động của áp suất, nhiệt độ cao nên dần dần, lớp xác thực vật này biến thành các mỏ than bùn.. Qua thời gian lâu hơn nữa thì trở thành than nâu hoặc than đá. Về sau, do một nguyên nhân nào đó như các mảng địa chất xô dịch nhau khiến cho các mỏ than này trồi lên gần mặt đất. Ở vị trí này, chúng rất dễ bắt lửa do bị sét đánh, hoặc do nhiệt lượng tích lũy qua năm tháng, đến một ngưỡng nào đó gây cháy ngầm. Khi xảy ra hiện tượng trên, hơi nước và các loại khí được sinh ra như khí cácbon (CO), khí lưu huỳnh (SO2) sẽ thoát lên trên mặt đất gây ra hiện tượng sương khói, kèm theo mùi thối thum thủm khiến cho động vật chết hàng loạt vì ngộ độc. Đó là lý do trên các mỏ than bị cháy ngầm thường không có sinh vật nào sống. Đồng thời, do các khí đó thoát ra kèm theo nhiệt độ khu vực mỏ tăng cao dẫn đến cây cối bị thiếu nước và giảm hô hấp, héo vàng không phát triển được. Hắn giơ tay chỉ và hỏi Bảo lão: "Thúc có nhìn thấy trên núi Quỷ có nhiều vùng cây cối lưa thưa và lá vàng đúng không?" Bảo lão ngơ ngác nhìn theo hướng tay hắn, giây lát sau lão hỏi: "Tại sao ngươi biết được việc này?" Lão giương mắt nhìn hắn, ý dò xét. "Ha.. ha. Trước kia, cháu đã đọc một quyển sách nói như vậy." Hắn trả lời. "Hả, ngươi biết chữ ư?" Lão ngạc nhiên lẩm bẩm: "Từ trước tới nay, phàm người có học đều là con nhà giàu có, quan lại thế lực, còn đám thường dân như ta mà biết chữ thì đếm trên đầu ngón tay cũng không thấy. Té ra ngươi cũng không đơn giản, chắc ngươi là người có lai lịch. Nhưng tại sao ngươi lại không nhớ được gốc gác của mình mà lại biết nhiều thứ lạ như vậy?" "À, cháu cũng không nhớ tại sao." Hắn cười xòa. Đây là lần đầu tiên, hắn đem kiến thức khoa học ra giải thích, một phần là do hưng phấn, một phần là để trấn an cơn sợ hãi của lão. Các mỏ than đá này do biến động địa chất có thể trồi lên gần sát với lớp đất bề mặt, khi gặp mưa lũ rất dễ bị lở, lộ ra và bị cuốn trôi về các con sông khiến cho người ta dễ bắt gặp. Than đá có giá trị rất lớn, có thể dùng để đun nấu, nung gốm, luyện thép, làm năng lượng cho các máy hơi nước và các nhà máy điện.. Ngoài ra chúng còn có thể dùng để chế tạo nhiều vật liệu giá trị khác như nhựa, dầu hỏa, hóa chất.. Nói đến than đá, không thể quên được lợi ích của nó trong cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên của loài người. Bảo lão há hốc mồm ra nghe như con khỉ trong chuồng thú chờ người ta cho ăn. Đối với đun nấu và nung gốm thì lão còn hiểu, chứ nói đến năng lượng hay nhà máy điện thì lão chẳng hiểu cái gì sất. Thậm chí mấy từ ngữ này, lão cũng lần đầu nghe thấy nên tưởng hắn nói tiếng ngoại ngữ. Uống một ngụm nước, hắn nói tiếp: "Cháu nghĩ rằng, chúng ta nên vượt qua dãy núi Quỷ này chứ không cần đi vòng nữa, có thể sẽ nhanh hơn được một ít, nhưng quan trọng là cháu muốn khảo sát các dấu hiệu của mỏ than ở đâu, chúng có lộ thiên không." "Chắc chắn không xảy ra vấn đề gì chứ?" Bảo lão vẫn lo lắng. "Ồ, không, thúc yên tâm, trong rừng cháu sẽ nghe lời thúc. Nhưng việc này, thúc nên tin vào sự hiểu biết của cháu." Hắn góp ý. "Thôi được, ta cũng liều một lần xem sao." Bảo lão ngậm ngừng sau khi cân nhắc vài giây. Một lúc sau, bọn họ lại lên đường, nhưng lần này, họ đi thẳng theo con suối đến chân núi rồi xiên rừng trèo lên. Dãy núi Quỷ là một dãy núi không quá cao, địa hình thoai thoải nên khá thuận lợi khi leo trèo. Đến chiều, họ đã tới được giữa dãy núi, từ đây có thể nhìn thấy dãy Tuyết Sơn rất gần. Sau khi xác định được phương hướng và địa thế dãy núi, Bảo lão rất mừng, xem ra vượt qua núi Quỷ rút ngắn được rất nhiều thời gian. Cứ thế này, đến trưa mai, bọn họ có thể đến được chân núi Tuyết Sơn. Nhưng lão vẫn chưa hết lo lắng về lời nguyền mà cha lão đã kể ngày xưa. Trên đường vượt núi, hắn vừa đi vừa nhìn xung quanh, thậm chí chỗ nào lá cây khô vàng, chỗ nào đất có vết đen cũng được hắn quan sát cẩn thận. Mặc dù trận mưa vừa rồi đã làm lá cây xanh tươi lên không ít nhưng vẫn không che dấu hết được những khoảng rừng còi cọc do thiếu nước. Sau khi đã leo lên đến một đỉnh núi, bọn họ quyết định dừng chân. Bảo lão tìm một chỗ đất trống để ngủ, lão đi chặt mấy cành cây về nhóm lửa, giây lát sau, ngọn lửa đã bốc lên tỏa ra một làn khói mờ bay theo gió. Lão lục cái gùi lấy bốn con rết và ba con ếch ra, xiên vào que rồi hơ trên đống lửa, một lúc sau, lão đưa cái que lên mũi ngửi ngửi, mùi thịt nướng bốc ra làm lão chảy cả nước dãi. Chờ cho hắn đi khảo sát trở về, lão bày mấy xiên thịt nướng trên nắm lá cây rồi hí hửng cầm một con rết đại lên ngắm nghía. Sau đó, lão cho con rết lên miệng cắn cái roạt để tước sạch vỏ và hai hàng chân rồi nhai ngấu nghiến ngon lành. "Ăn đi, ngon hơn thịt gà đó." Lão chỉ vào mấy con rết còn lại bảo hắn. "Dạ, mấy con rết này, cháu ăn không quen, để cháu ăn thử con ếch này xem." Hắn trả lời trong khi tay xách con ếch lên lột da, rồi bẻ hai cái đùi cho vào mồm nhai. "Khá ngon, thịt rất mềm đó thúc." Hắn nhăn nhở cười, hàm răng lem nhem vì muội than dính vào. "Con này ăn ngon hơn." Bảo lão vui mừng vì hắn không ăn tranh mất mấy con rết của lão. "Đúng là ở đây có dấu vết của mỏ than lộ thiên, không biết có lớn không?" Hắn vừa ăn vừa nói: "Cháu hy vọng sẽ đến lúc khai thác mỏ than này để lấy chất đốt, sẽ rất hữu ích." "Củi trên rừng thiếu gì, cần gì phải đến đây mà lấy than." Bảo lão cằn nhằn. "Thúc không biết giá trị của nó đâu? Nếu có nó, chúng ta có thể luyện ra được sắt cực tốt." "Hả, ngươi cũng biết cách luyện sắt?" Bảo lão tròn mắt hỏi. Nghĩ đến cái hang đầy những dao kiếm treo lủng lẳng làm lão thấy hưng phấn vô cùng. Từ xưa đến nay, trong bản của lão không có ai biết cách luyện sắt cả, bọn họ toàn phải đi mua với giá đắt đỏ nên đồ dùng bằng sắt là cả một gia tài lớn đối với họ. Nếu có một cái hang đầy đồ sắt thì thực sự là phát tài lớn. "Không, nhưng cháu biết phương pháp." Hắn trả lời. "Hừ, thế mà cũng khoe." Bảo lão mất hứng, lão thở dài đánh sượt. "Nhưng thúc yên tâm, có loại than đá này, đảm bảo cháu sẽ luyện ra sắt tốt nhất. Lúc đó, chúng ta sẽ sản xuất ra các loại công cụ sắt để bán, giá trị sẽ rất lớn." "Hả, thật không?" Bảo lão vẫn còn nghi ngờ, nhưng nhìn ánh mắt hắn, lão biết không cần hỏi nữa, ánh mắt hắn khẳng định tất cả. Đến tối khuya, sau khi bẻ thêm ít cành lá làm chỗ lót, bọn họ đã chìm vào giấc ngủ trong màn đêm của núi Quỷ. Bên cạnh họ, đống lửa vẫn cháy, nổ tí tách.
Chương 16. Trên đỉnh Tuyết Sơn Bấm để xem "Dậy, dậy đi, trời sáng rồi.". Mấy cú đập vai của Bảo lão làm hắn thức giấc. "Quái, sao sớm thế nhỉ, trời vẫn còn chưa sáng rõ mà." Hắn hé mắt nhìn. "Tranh thủ dậy sớm đi, kẻo nắng." Bảo lão giục. "Trời còn sớm quá mà thúc." Hắn uể oải ngồi dậy. "Sớm gì nữa, ta nằm cả đêm không ngủ được, chỉ lo có con Quỷ nào đến gần chạy không kịp." Bảo lão ngồi chồm hỗm bên cạnh hắn, trông lão phờ phạc, hai mắt đỏ ngầu, vừa ngáp lão vừa cười như thằng dở hơi biết bơi. "Ở đây yên tĩnh quá, không có tiếng chim kêu nào!" Hắn thốt lên. "Ừ, không thấy có động tĩnh gì, làm ta thấy lo lo." Bảo lão than thở. "Hổ báo thúc còn không sợ, sao lại lo Quỷ ạ?" Hắn hỏi. "A, hổ báo ta nhìn thấy suốt, chứ Quỷ đã gặp bao giờ đâu mà biết nó vuông tròn, gầy béo ra sao." Lão thật thà nói. "Ha ha, không ngờ thúc lại nhát gan thế?" Hắn cười trêu. "Con người thì cũng phải sợ một cái gì chứ! Đêm hôm qua, ta cứ thấy run run, cảm giác rất bất an." Lão phân trần: "Chúng ta vừa đi vừa ăn cho nhanh kẻo nắng. Chỗ này đồi núi cây cối thưa thớt, tý nữa nắng lên mà đi không kịp sẽ rất mệt đấy." "Hừ, thúc sợ Quỷ thì cứ nói thẳng ra, chứ sợ gì nắng." Hắn tếu táo rồi liếc nhìn Bảo lão mặt đang nhăn như khỉ ăn phải mắm tôm. Bảo lão cũng chẳng thèm phân trần, lão khoác gùi lên vai, vừa bốc nắm gạo rang, vừa đi rất nhanh. Trong thâm tâm, lão muốn biến khỏi nơi này càng nhanh càng tốt, mặc dù tối qua lão tỏ ra can đảm, nhưng những lời nguyền mà từ nhỏ, lão đã được nghe cứ càng ngày càng làm lão căng thẳng. Cuối cùng đến gần sáng, lão quyết tâm bỏ ngủ để chạy sớm cho nó lành. Theo bước chân họ, các cánh rừng của núi Quỷ lùi dần về phía sau. Khi họ xuống đến chân dãy núi, mặt trời đã lên khá cao, theo ước lượng của hắn thì khoảng 9 giờ sáng, nếu tính theo giờ trái đất. Ở đây, cây cối đã bắt đầu rậm rạp. Càng ngày, càng có nhiều cây cổ thụ lớn cỡ vài người ôm không xuể, cao vút hàng chục thước. Các cành lá tỏa ra tít ở trên cao, dầy đặc đến nỗi ánh mặt trời cũng khó xiên qua. Không khí dường như oi ả, ẩm ướt hơn rất nhiều. Trên con đường bọn họ đi, một lớp thảm lá cây rất dày phủ trên mặt đất và vô số bụi cây cao ngang đầu với những sợi dây rừng lõng thõng, to như cổ tay vắt ngang dọc. Vài con cánh cam to như quả trứng gà bay rè rè giữa những đàn ong, bướm phấp phới. Khung cảnh kỳ vĩ, cổ đại như trong kỷ Jurassic của các phim khoa học viễn tưởng. Từ lúc bước chân vào cánh rừng già, Bảo lão đã có vẻ tự tin như mọi khi. Lão xăm xăm đi trước, thỉnh thoảng ngó nghiêng rồi cầm gậy gạt mấy bụi cây một cách cẩn thận. Thậm chí có lúc lão còn dừng lại, khịt khịt đánh hơi như chó săn. "Ở đây có một đàn heo rừng vừa đi qua." Lão chỉ vào mấy vết chân hằn trên mặt đất và mấy đám rễ cây bị ủi bật trơ trọi. "Thúc không sợ mấy con này sao?" Hắn vừa thở hổn hển vừa hỏi, chủ ý để lão phân tâm mà đi chậm lại, không thì mệt chết. "Chỗ nào có thú rừng thì ta lại không sợ, không như trên núi Quỷ, chẳng thấy bóng dáng con thú nào, thế mới ghê. Ngươi đúng là nghé con không sợ hổ, ngủ ở cái chỗ như thế mà cứ ngáy khò khò." Lão nói mà đầu cũng chẳng thèm ngoái lại. "Tại thúc không biết nên mới sợ. Chỗ không có thú thì chưa chắc đã nguy hiểm, thúc có muốn cháu nói nguyên nhân không?" Hắn cố tình đi chậm lại, gợi chuyện. "Hả, nguyên nhân gì, kể coi." Lão ngoái đầu đi chậm lại chờ đợi. "Ha, mắc mưu rồi. Phải khề khà cho lão đi chậm lại mới được, nếu không mệt rã cả ba chân." Hắn mỉm cười gian xảo. Thế là hắn vừa đi vừa kể từ nguyên nhân các mỏ than gần mặt đất dễ xảy ra cháy ngầm, đến khi chúng thoát ra một lượng khí than rất độc như khí các bon, khí lưu huỳnh gây ngộ độc hô hấp, khiến cho những con vật nào hít phải nhiều sẽ bị chết. Quan trọng nhất là những khí này đều không mùi, không vị nên rất khó bị phát hiện, nhất là khí lưu huỳnh hydro sulfua (H2S) độc hơn rất nhiều các loại khí độc khác. Đầu tiên nó gây mùi trứng thối nhưng sau đó, nó làm cho mũi mất cảm ứng với mùi này nên người ta cứ hít mãi mà không biết dẫn đến ngộ độc khí. Người nào hít nhiều còn bị choáng váng, ngất xỉu, thậm chí dẫn đến tử vong. Bảo lão nghe vậy bèn hỏi vặn lại hắn, tại sao biết mà vẫn dám trèo lên, lại còn ngủ lại ngáy o o nữa khiến cho hắn chỉ biết cười trừ. Hắn còn giải thích cho lão biết cách để ý khi đến gần các mỏ than bị cháy ngầm như dựa vào đặc tính thời tiết. Trời mưa hoặc cuối thu nhiệt độ sẽ không cao, nhiệt độ tích tụ trên mặt đất thấp sẽ không có khả năng gây cháy rừng, lan xuống các phần mỏ bên dưới. Thứ hai là dựa theo hướng gió, nếu đi trên vùng đồi thoáng, không chui vào các khe rãnh núi thì cũng không việc gì. Cứ thế, hắn vừa đi vừa kể, thấy Bảo lão im lặng, hắn bèn gặng hỏi: "Cháu giải thích thế thúc có hiểu không nhỉ?" "Mía! Ngươi cứ nói luyên thuyên, ta chẳng hiểu gì cả. Cái gì mà khí độc tích tụ, sườn đồi thoáng gió.. Ta mà hiểu ngươi nói thì đi ăn bã.. còn dễ hơn, cứ lảm nhảm như thằng điên." Lão càu nhàu rồi vọt bước. "Hừ, đúng là bọn cổ đại lạc hậu, văn hóa thấp, nói khoa học thế mà cũng không hiểu." Hắn lầu bầu rồi cong đít chạy theo. Họ đi mãi đến chân một dãy núi khá cao thì dừng lại. Dãy núi khá hùng vĩ, cao chừng trên ngàn thước, trên đỉnh núi thấp thoáng mây mờ ẩn hiện với bóng cây cối lô nhô xanh ngắt, trên vách núi xen kẽ rất nhiều bụi tre trúc và dây mây chằng chịt. Sau khi đã nghỉ ngơi một lúc, Bảo lão kiểm tra lại cái gùi và đám dây rợ. Sau đó lão đu người bám vào mấy rễ cây nhỏ, bắt đầu leo lên. Từ đây trở đi đã bắt đầu khó khăn, lão phải dùng dao phạt rất nhiều đám cây bụi và những dây mây đầy gai rậm rạp. Đôi khi, có con rắn đen đen, vàng vàng vằn vện chạy đánh roẹt ngay trước mặt lão làm lão giật thót mình không kịp vung dao. Còn vắt, thì nhiều vô kể nhưng không làm họ e ngại. Tuyết Sơn là một dãy núi khá dốc chứ không thoai thoải như dãy núi Quỷ, chân và sườn núi khá nhiều tảng đá to trơ trụi, chỉ có rêu và những dây leo nhỏ bám vào. Bảo lão trèo lên trước, thỉnh thoảng lão còn phải giơ tay để kéo hắn lên. Vài lần trượt chân, cái mông lão giáng thẳng vào mặt hắn, khiến cho hắn được ăn bữa phao câu bất đắc dĩ. Nhưng cũng có lần, lão được nếm thử món trứng chọi đá khi leo lên một tảng đá to đầy rêu trơn tuột, hai quả trứng của lão đập cái "bét" vào phiến đá khiến lão trợn mắt, lặng người đến vài phút. Cứ thế, đến tầm ba, bốn giờ chiều, bọn họ đã lên gần đến đỉnh, Bảo lão đã có vẻ mệt mỏi, lão chỉ lên đỉnh núi có rất nhiều bóng cây to nhấp nhô. "Kia là chè Tuyết cổ thụ đấy." Lão nói vẻ hưng phấn. Bọn họ leo đến gần, những cây chè cổ thụ to cỡ hai, ba người ôm, cao hàng chục thước, thân cây mốc meo đầy rêu và địa y, ở những chỗ cành cây chĩa ra còn có mấy bụi phong lan xanh mướt. Tán cây rộng, trải ra che kín cả ánh mặt trời. Bảo lão dướn người vặt một đọt lá ở mấy cành thấp, lão cho vào mồm nhai thử rồi gật gù: "Đúng là chè Tuyết đây! Vị chè chát chát nhưng rất tuyệt, chúng ta đi lên thêm một chút nữa rồi tìm chỗ nghỉ, sáng mai dậy sớm. Hái chè phải hái vào lúc tờ mờ sáng thì chè ngấm sương mới ngon. Rất tiếc mùa này cuối thu nên hơi ít búp non, đến đầu mùa xuân chúng ta quay lại sẽ tha hồ mà thu hoạch." "Những cây chè này chắc phải sống đến mấy trăm năm ấy nhỉ." Hắn hỏi bâng quơ. "Ừ, trên đỉnh núi còn những cây to đến 5 - 6 người ôm không xuể, chắc đến cả ngàn năm. Giống chè này chỉ sống trên đỉnh núi cao, ở dưới chân núi không có. Mấy dẫy núi này, mùa đông trên đỉnh của chúng phủ trắng toàn tuyết là tuyết, lạnh vô cùng. Có lẽ giống chè này hít sương gió, uống băng tuyết nên mới thơm ngon, tinh khiết đến vậy." Lão cảm thán. Bọn họ tiếp tục leo lên thêm, đến một chỗ khá bằng phẳng, họ dừng lại nghỉ ngơi dưới tán một cây chè to. Sau khi vác dao chặt được một ít củi và mấy đám rêu khô, Bảo lão bắt đầu châm lửa. Chỉ một lúc sau, đống lửa đã cháy bùng lên, nổ tí tách, khói trắng tỏa ra quấn quanh những thân chè mờ ảo như trong tiên cảnh. Lão chặt một ống nứa làm hai đoạn cắm bên đống lửa rồi đổ nước, bứt mấy lá chè vò nát cho vào. Xong xuôi, lão lục gùi lấy gạo rang bày ra rồi ngồi tựa lưng vào một gốc cây chè, dáng vẻ rất hài lòng. Chỉ một lúc sau, nước trong hai ống nứa đã sôi ùng ục, hơi nước bốc ra hương chè tươi quện với mùi cháy của vỏ nứa lan tỏa khắp cánh rừng. Bảo lão đưa cho hắn một ống, còn lão cầm một ống đưa lên miệng nhấm nháp, khà khà rồi gật gù thỏa mãn. "Uống đi, trà tươi thật là ngon." Lão mỉm cười với hắn. "Tối nay, chúng ta ngủ trên cây hay dưới đất hả thúc?" Hắn vừa đưa ống nứa lên miệng nhấp một ngụm chè vừa khà khà hỏi. "Ngủ dưới đất là được rồi, lên cây khó ngủ lắm, đến đêm gió to nhỡ rơi xuống là bẹp xác." Lão trả lời. "Nhỡ ở đây có con ác thú nào thì sao ạ?" Hắn hỏi. "Hả, ngươi không sợ Quỷ, lại sợ ác thú sao. Ha ha.." Lão nói móc, hàm ý trả đũa câu nói của hắn ban sáng. "Nhưng chúng ta cũng phải đề phòng chứ? Nhỡ đêm tắt lửa, ác thú mò đến thì toi?" Hắn nhìn lão chờ đợi. "Thế thì ngươi thức mà trông đống lửa, còn ta phải ngủ một giấc cho đã, đi từ sáng đến giờ mệt khiếp." Lão cười, ánh mắt gian xảo. "Thôi kệ, cháu cũng rất mệt đây. Ác thú mà đến thì nó bắt con nào to béo chứ con nhỏ, lại gầy thì chắc nó chẳng thèm." Hắn nói một cách mập mờ. "Hả." Bảo lão trố mắt rồi lão cười khành khạch: "Hí hí, ngươi cũng đáo để đấy. Nhưng không phải lo, khi chúng ta trong rừng, có con thú nào dám lại gần đâu, đúng không?" Lão hỏi giọng chế giễu. "Vâng, cháu cũng thấy lạ, sao không thấy con thú nào ở gần? Bình thường, trong rừng có nhiều loại thú rất dạn, thấy người chúng còn không thèm chạy, vậy mà lần này đi rừng lại chẳng thấy con nào cả?" Hắn thốt lên ngạc nhiên. "Hây da, bí quyết đấy." Lão nheo mắt tinh quái. "Ta giã một ít phân hổ khô trộn vào đám lá nát để bôi lên người, lũ thú đánh hơi từ xa là chạy mất. Phân hổ có một mùi đặc trưng khiến đám thú sợ, không dám đến gần." Lão đắc ý nhăn nhở. "Phân hổ ư?" Hắn giơ tay sờ sờ lên mặt, lè lưỡi rồi ọe mấy bãi nước bọt: "Thảo nào không thấy con thú nào ở gần, cháu cứ tưởng vào rừng sẽ được ngắm mấy con báo hoặc heo rừng, hươu nai gì đó chứ." Hắn nhăn mũi cười khổ sở. "Há, ngươi ngắm chúng xong thì xuống đất mà ngắm giun luôn nhé, đừng tưởng mấy con thú nhỏ là không nguy hiểm. Bình thường, chúng thấy người từ xa là lủi, nhưng khi chúng đói hoặc gặp người bất thình lình thì lại khác. Một con báo chưa đến chục cân hoặc một con heo rừng cỡ hai chục cân cũng đủ lấy mạng ngươi đấy, biết không? Chưa kể đến mấy con khác như khỉ đột, mèo rừng, chó sói.." Lão trợn mắt, vung vẩy hai tay. "Vậy trước kia thúc bị heo rừng húc, có phải thúc quên không bôi phân hổ lên người?" Hắn hỏi. "Hừ, ta có bôi. Hôm đó, ta hái đầy một gùi chè xong nên rất hưng phấn, khi xuống núi ta không để ý. Bỗng nghe xoạt một tiếng, các bụi cây bị ngả ra hai bên rồi thấy cái đầu đen sì của nó lao tới, ta bèn ném cái gùi vào nó rồi nhảy phắt lên, đu vào một sợi dây rừng, nhưng hơi chậm." Lão kể đến đây thì nhăn trán như cố nhớ tiếp: "Ta bị nó húc cho một phát gần trúng thằng cu, đau thấu xương. Ta liều chết bám chặt rồi cố sức leo lên một cành cây to, nó lồng lộn ở dưới đất húc tan cả cái gùi của ta, mấy tiếng sau nó mới bỏ đi. Đến hôm sau, ta tụt xuống, nhặt cái gùi rồi tìm đường lết về nhà." "Sau lần đó, ta nằm mấy tháng mới bình phục. Đấy là một con heo độc, đi rừng mà để nó nhìn thấy thì chẳng mấy ai sống sót trở về. Cũng may, kinh nghiệm đi rừng của ta rất phong phú, hai nữa ta lại biết cách cầm máu, rịt thuốc nên không chết." Lão than thở. "Thúc, heo độc không sợ mùi hổ sao?" Hắn hỏi. "Hừ, cả bầy hổ cũng không làm nó sợ. Heo độc thường là những con đực sống lâu năm đi kiếm ăn một mình, nó không dát như heo đàn. Nó rất hung dữ và hiếu chiến, bất kỳ con nào đi vào khu vực kiếm ăn của nó cũng đều bị nó tấn công." Bảo lão còn kể cho hắn nghe có lần lão chứng kiến một con heo độc đánh nhau với một con hổ lớn, cái mõm con heo có hai cái răng nanh nhọn hoắt, cong lên như hai con dao dài cả chục phân. Nó lao vào con hổ húc túi bụi, con hổ chỉ có nước gào thét nhảy tránh rồi tát bên này một cái, vồ bên kia một cái. Thỉnh thoảng con hổ bấu được vào lưng con heo rồi ngoặm vào đít, nhưng da lưng con heo dầy đến bốn năm phân nên vuốt hổ không làm gì được. Con heo này cũng rất khôn, nó chạy như bay, lôi con hổ chui qua mấy gốc cây đổ làm con hổ phải buông ra. Rồi nó lập tức quay ngoắt lại, nhằm bụng con hổ mà húc tới, hai cái răng nanh của nó húc thủng bụng con hổ, lòi cả ruột gan ra ngoài. Đánh nhau được mấy tiếng, con hổ đành bỏ chạy. Những cuộc chiến kiểu này bao giờ cũng có một con bỏ mạng, không heo thì hổ. Thậm chí trước kia lão còn nhìn thấy một con voi rừng bị con heo độc húc, rách toạc cả hai chân sau, cuối cùng con voi cũng phải bỏ chạy. "Thúc, vậy trong rừng con thú nào đáng sợ nhất?" Hắn hỏi. "Hừ, nhiều lắm. Nhưng có mấy loại cực kỳ nguy hiểm, đi rừng chẳng may để nó nhìn thấy thì coi như là chết, trừ khi nhanh chân chạy kịp. Vì vậy, khi vào rừng phải để ý, phải nghe ngóng các tiếng động, phải ngửi, phải quan sát, nếu thấy dấu vết mấy con này thì phải tránh đi." Nói đến đây, lão nheo mắt vẻ cười cợt: "Ngoài ra, phải biết được thói quen của nó, cách nó di chuyển, săn mồi và ngủ, thậm chí phải nếm cả phân xem nó no hay đói, ăn thịt hay lá cây. Con nào ăn thịt thì phân sẽ chua chua, nát nát. Con nào ăn lá thì phân sẽ bã bã, hăng hăng. Hiểu chưa?" "Vâng, cháu hiểu rồi." Hắn trả lời. Bảo lão thấy thế bèn dặn thêm: "Nhưng cũng có con không để lại dấu vết gì, vì vậy phải quan sát những con vật xung quanh như chim, sóc, khỉ, hươu nai.. nếu trong rừng không có bóng mấy con này thì chắc chắn sẽ có thú dữ ở gần.. Tóm lại, ngươi cứ chịu khó chết hụt nhiều lần, tự nhiên sẽ có kinh nghiệm." "Hả.. Mía ơi, đúng là cháu không thích chịu khó kiểu này mà!" Hắn cười méo cả mặt.
Chương 17. Trở về hang đá Bấm để xem "Trèo lên nữa đi, chỗ mấy cành to ấy." Bảo lão đứng dưới đất chỉ đạo. Trên cây chè cổ thụ, Hoàng Chân đang thoăn thoắt ôm cái vòng mây trèo lên, nhanh không kém dân chuyên nghiệp. Đến một chỗ khá cao, hắn tháo dây thừng buộc một đầu vào thân cây, một đầu buộc vào eo rồi trườn dọc theo cái cành ra chỗ mấy tán lá còn xanh mơn mởn. Một tay hắn cầm cái móc tự chế bằng một ngọn trúc dài để kéo các cành lá ở xa lại gần. Thỉnh thoảng, một đám mây trắng bay ngang qua ngọn cây khiến bóng hắn chập chờn như Tôn Ngộ Không đang đằng vân giá vũ trong vườn thượng uyển. Tít về phía chân trời, ánh mặt trời vẫn còn chưa ló rạng, chỉ có một vầng sáng màu da cam, mảnh như sợi chỉ vắt ngang trên đỉnh các dãy núi chập trùng. Lưng chừng núi, mây mù phủ trắng xóa không rõ đâu với đâu. Hắn ngồi trên một chạc cây ba nhánh, tay trái cầm cái móc để kéo mấy nhánh chè, tay phải thoăn thoắt vặt các búp chè non rồi bỏ ra cái gùi sau lưng, thiện nghệ như mấy cô gái H'mông hái chè trên đỉnh núi. Khi cái gùi đã kha khá, hắn buộc dây thả cái gùi xuống cho Bảo lão hứng lấy. Lão nhanh chóng trút các búp chè còn tươi vào cái gùi to rồi kêu lên mấy tiếng "quang quác" như gà mái đẻ để ra hiệu cho hắn kéo cái gùi lên vặt tiếp. Những tán chè dầy đặc khiến cho hắn vặt luôn tay, chẳng mấy chốc hai cái gùi đã được lèn chặt các búp chè. Đến khi mặt trời lên chênh chếch, ánh nắng làm tan đi những đám mây lưng chừng núi thì hắn đã bẻ thêm được rất nhiều các cành chè to lẫn cả búp. Lần này, hắn bẻ cả cành rồi ném luôn xuống cho Bảo lão đi nhặt, bọn họ dự định buộc thành đống rồi vác về nấu chè tươi giải khát. "Đủ rồi đấy." Tiếng Bảo lão vang lên dưới gốc cây: "Hái nữa thì nhiều quá, không mang nổi về đâu." "Vâng, cháu xuống đây." Hắn thả cây sào và cái vòng rồi đu dây thừng tuột xuống đất đánh phịch. Sau khi cuộn lại sợi dây và mấy thứ đồ nghề, hắn hưng phấn đến bên hai cái gùi ngắm nghía thành quả. Hai cái gùi đầy ắp búp chè, từng búp chè tươi mơn mởn, tôm chè lông trắng mịn như tuyết chen lẫn mấy chiếc lá non đầu cành trông thật thích mắt. Bão lão đã xếp chặt hai cái gùi, ngoài ra lão còn nhồi thêm búp chè vào mấy ống nứa rỗng rồi buộc túm các ống nứa lại thành bốn bó, xếp vào hai bên cái gùi. "Chúng ta kiếm chỗ cất mấy cái đồ này, lần sau đến còn dùng tiếp chứ, thúc?" Hắn chỉ vào cuộn dây và cái vòng mây cùng cây móc tự chế. "Ừ, để ta cất dưới tảng đá to đằng kia." Bảo lão xách đống đồ nghề rồi đi về phía một tảng đá. Một lúc sau, lão quay lại, tay cầm sợi dây thừng. "Cái này phải mang theo vì rất cần thiết. Bây giờ chúng ta nghỉ ngơi, ăn uống một chút rồi nhanh chóng quay về. Hôm nay là ngày thứ tư rồi đấy, chậm nhất thì ba ngày nữa là về đến nhà." Lão phấn khởi nhìn đống búp chè, miệng mỉm cười sung sướng. Một lúc sau, bọn họ lên đường trở về theo lối cũ. Bảo lão nhanh nhẹn đi trước, lưng lão đeo cái gùi to lại thêm hai bó ống nứa dựng đứng hai bên, phía trên cái gùi lại thêm một bó cành chè to tướng che khuất cả đầu và lưng lão. Phía sau, hắn cũng giống như lão, trông bọn họ như hai bụi cây di động, hai cái đầu bù xù ngoi giữa đám lá cây rậm rạp trông như Rôbinsơn trên hoang đảo. Đường đi xuống khó khăn hơn rất nhiều so với lúc đi lên, đơn giản là bọn họ phải mang nặng mà các cành lá rậm rạp lại che mắt khiến họ không nhìn rõ phía dưới. Đến mấy chỗ dốc, Bảo lão phải quàng sợi dây qua mấy gốc cây rồi bọn họ bám theo sợi dây từ từ tụt xuống. Sau khi xuống, lão lại thu sợi dây để quàng vào gốc cây khác. Cứ như vậy, gần đến chân núi thì trời đã tối, họ phải quyết định nghỉ lại. "Gần đây có một cái động lớn, lần trước ta đã ngủ ở đó, để ta đi tìm xem nó ở phía nào." Bảo lão nói. Lão hạ cái gùi và đám lá chè rồi xách dao mò mẫm quanh sườn núi một chốc rồi quay lại, vẻ mặt mừng rỡ: "Tìm thấy rồi, chúng ta qua đó nghỉ đêm." Lão xốc cái gùi và đám lá lên vai rồi nhanh nhẹn dẫn đường. Đến cửa động, lão lách qua mấy tảng đá rồi chui vào kêu toáng lên: "Vào đê, trong này rộng rãi lắm." Tiếng lão oang oang vang động cả cái hang. "Vụt, vụt." Hàng trăm con dơi trong hang bị tiếng động giật mình xáo xác bay vụt ra loạn xạ, có con bay suýt va vào mặt hắn. Theo lối đi của lão, hắn tiến vào cái động và hạ cái gùi cùng đám lá chè xuống. Đây là một cái động lớn sâu hun hút không thấy đáy, trần động càng vào trong càng rộng ra, trên trần đầy thạch nhũ rủ xuống, có cái to như cột nhà, sần sùi nhiều hình dáng kỳ quái. Bảo lão đang lúi húi trên một phiến đá lớn trong động, giữa phiến đá còn dấu vết của một đống tro không rõ từ bao giờ. Sau khi sắp xếp đâu vào đấy, bọn họ ra ngoài kiếm củi, một ít rêu khô rồi đốt lửa, ăn và ngủ qua đêm chờ mai đi tiếp. "Ở đây có thú dữ không hả thúc?" Hắn ngước nhìn lão qua đám khói mờ trong động. "Có, nhưng trong động đốt lửa thì chúng không dám vào, có chăng chỉ mấy con rắn là cùng." Lão trả lời thản nhiên. "Vậy rắn nguy hiểm hơn hay ác thú nguy hiểm hơn hả thúc?" Hắn tò mò hỏi. Bảo lão nghe hắn hỏi bèn trả lời: "Cũng tùy lúc gặp con nào. Thường thì ác thú nguy hiểm hơn vì chúng đói, phải đi săn mồi mà con người là con vật mà chúng có thể bắt. Con thú nào đã ăn thịt người rồi thì sẽ bị nghiện, rất dễ dàng tìm người bắt tiếp. Cũng có con rất khôn, thấy người là tránh vì kinh nghiệm dạy chúng, con người là loại động vật nguy hiểm." "Còn rắn thì khác, con người không phải là món ăn của chúng, chúng cắn chỉ để tự vệ hoặc để đe dọa thôi. Do đó, khi gặp rắn độc, chúng ta chỉ cần tránh đi là xong. Nhưng khi gặp ác thú thì khác, chúng ta mà không tránh kịp thì dễ bị chúng tấn công ngay." Lão ngả lưng ra nền hang mà nói. "Nhưng cũng có những con rắn khổng lồ ăn thịt người rất đáng sợ, chúng còn nguy hiểm hơn cả ác thú, nhưng rất may, trong tự nhiên chúng không có nhiều nên hiếm gặp." Lão nói tiếp. "Rắn khổng lồ ư, chúng to như thế nào hả thúc?" Hắn tròn mắt hỏi. "To như cái cột nhà, dài cả chục thước. Chúng đủ sức nuốt cả trâu, hổ mà gặp nó cũng phải chạy cúp đít. Nhưng nó hay sống ở nơi hoang sơn cùng cốc, rừng núi âm u, hiếm khi ra chỗ rộng rãi bằng phẳng như bãi cỏ hay sườn đồi." "Đấy là con trăn đó chứ, thúc?" Hắn ngạc nhiên hỏi. "Không hẳn con trăn. Trăn có hai loại chính là con trăn đất và trăn gấm, cả hai loại này thường ít khi ăn thịt người. Con trăn đất có thân mầu đen xám mốc thếch, còn con trăn gấm có màu vàng đất, cả hai con đều có những hoa văn trên người rất đặc trưng và nó không giống rắn." "Ngoài ra còn có vài con trăn rất lạ, có con người rất ngắn và béo mum múp, cũng có con người rất gầy và dài. Trăn không có nọc nên khi nó tấn công thì chủ yếu là quấn chặt lấy con mồi cho ngạt thở, thậm chí nó còn tha con mồi lên cây rồi lợi dụng độ cứng của thân cây để làm gãy hết xương con mồi mới nuốt. Thức ăn của nó là những con thú nhỏ như con non, khỉ, hoẵng.." Lão giảng giải. "Còn rắn khổng lồ thì khác. Có người nói nó là rắn hổ chúa, người thì nói nó là rắn hổ mang chúa, thực ra hai loại này khác nhau nhưng đều chung sở thích là thích ăn rắn, rắn càng độc thì nó càng thích ăn. Con mồi của nó như là rắn hổ mang, rắn cạp nong, cạp nia.." "Còn rắn khổng lồ thì nghe nói nó là con lai của rắn hổ chúa hoặc hổ mang chúa với trăn hoặc ngược lại. Nó có nọc độc và cách bắt mồi giống như trăn nhưng nguy hiểm hơn rất nhiều, mỗi khi bắt mồi nó chạy ào ào trên các ngọn cây nghe như bão lốc nên nhiều người còn gọi nó là con trăn gió. Loại này đi rừng mà gặp nó thì tháng sau ngồi sau nải chuối ngắm gà khỏa thân luôn." Lão nói. "Ghê thế cơ à, nếu nó nguy hiểm như vậy thì là vô địch rồi còn gì, nếu loại này mà đầy cả rừng thì ghê quá thúc nhỉ." Hắn rùng mình sởn cả gai ốc. "Ừ, nhưng cũng may, con này không đẻ được. Nói chính xác thì nó không có khả năng phối giống với loài trăn hoặc loài rắn khác, nếu không thì chúng đầy rừng núi, đúng là rất nguy hiểm." Lão gật gù rồi dặn: "Thôi ngủ đi, sáng mai dậy sớm cho nó mát." Chỉ một lúc sau, trong hang đã vang lên tiếng khò khò của lão. Sáng sớm hôm sau, Bảo lão thức dậy khá sớm, lão nhìn lên trần hang rồi chửi rủa ầm ĩ như mấy bà già lắm mồm: "Lũ khốn nạn, dám ị vào mồm ta lúc ta đang ngủ." Lão nhặt một đoạn cành cây cháy dở ném lên trần hang đánh cạch một tiếng làm lũ dơi bay nháo nhác. Sau khi chửi bới chán chê, lão đánh thức hắn dậy ăn sáng để chuẩn bị lên đường. Trên con đường băng qua khu rừng già dưới chân dãy núi Tuyết, Bảo lão dừng lại ngó nghiêng rồi đến bên một bụi cây, lão lấy cây gậy khiều cái gì đó rồi cho lên miệng nhấm nháp rồi nhổ phì phì. "Có vị đăng đắng, con này ăn lá cây chứ không phải ăn thịt." Lão nói thản nhiên như đang ăn kẹo. Sau đó lão chĩa cây gậy về phía hắn, đầu gậy còn dính một chất nhầy nhầy xanh ngắt. "Nếm thử không cho biết?" Lão hất hàm hỏi. "Dạ không, ghê quá, thế này thì giun sán đầy bụng mất." Hắn lắc đầu. "Ta chỉ nếm thôi chứ có nuốt vào bụng đâu mà lo." Lão cười nhăn nhở. Họ lại tiếp tục đi tiếp, con đường mà họ đi về khá thuận lợi. Do đã có kinh nghiệm qua núi Quỷ nên họ lại theo đường cũ, nhưng Bảo lão có chết cũng nhất định không ngủ tại đó, lão vẫn camêrun nên bắt qua hết núi Quỷ mới chịu nghỉ chân. Do đó hôm ấy, họ phải đốt đuốc đi trong đêm, cũng may núi Quỷ không phải là nơi dã thú sinh sống nên không có con ác thú nào để ý đến họ. Đến trưa ngày thứ bảy, họ đã vượt qua hồ Nhật Hạ tiến vào vùng rừng thưa, từ đây về đến dãy Tam Sơn cũng không bao xa. Sự phấn khích làm cho họ quên cả mệt mỏi, chỉ mong muốn nhanh chóng về đến nhà. Đến cuối giờ chiều, dãy Tam Sơn đã thấp thoáng sau mấy tán rừng, Bảo lão quyết định nghỉ chân một lúc bên dòng suối. Bảy ngày đi đường mệt nhọc với đống lá nát trộn phân hổ bê bết trên người làm lão khó chịu, lão hạ cái gùi và đống lá chè xuống rồi cởi khố vắt lên một cành cây, nhảy ùm một cái xuống dòng suối mát lạnh rồi cười lên hô hố. "Xuống đây tắm rửa cho sạch sẽ rồi về nhà." Lão vẫy tay rối rít gọi hắn. "Vâng, người cháu cũng bẩn quá rồi, đúng là bôi thứ này lên người chẳng sung sướng gì." Hắn chậm rãi hạ đống lá xuống một phiến đá giữa dòng rồi cởi khố vứt sang một bên, nước suối mát làm tan cơn nóng và rửa trôi thứ cặn bã đeo bám hắn suốt mấy ngày qua khiến hắn nhẹ cả người. Bảo lão thì nằm ngửa tơ hơ giữa dòng suối, lão vùng vẫy chân tay rồi kỳ cọ khắp người. Thỉnh thoảng hứng chí, lão lại ngụp đầu xuống dòng nước rồi bất thình lình ngóc đầu lên rú mấy tiếng hú quái dị như Táczăng-Boy trong phim "Chúa tể rừng xanh". Hắn tìm một chỗ nước sâu đến thắt lưng rồi ngồi thụp xuống, chỉ để hở mỗi cái đầu. Ngâm trong nước mát một lúc và kỳ cọ làm hắn thấy tỉnh táo và hơi đói "chắc tối nay, ta phải đánh hết chục bát cơm." Hắn tự nhủ. Bọn họ tắm rửa một lúc lâu, thỉnh thoảng hứng chí, Bảo lão lại tồng ngồng chạy dọc con suối đuổi theo mấy con cá nhỏ hoặc vồ bắt mấy con ếch, nhưng lão vồ mãi vẫn chưa bắt được con nào. Một lúc sau, lão lùa được một đám cá suối vào chỗ nước cạn bèn réo gọi hắn đến bắt cùng. Hai người trần truồng, lom khom chạy nhảy dưới suối như hai con khỉ bị động kinh. Giả sử có bác phó nháy ở đây chụp vài pô rồi đăng lên YouTube, chắc chắn là đẹp rạng ngời và không chói lóa như mấy em người mẫu khỏa thân vì môi trường một cách khiên cưỡng trong quảng cáo. Cuối chiều, trên cái cây bên dòng suối xuất hiện một đàn khỉ, chúng có vẻ muốn xuống uống nước nhưng e ngại hai con khỉ lớn lạ lẫm đang nhảy nhót dưới kia. Vài con khỉ con ngồi bắt chí cho nhau rồi rung cành kêu "khẹch khẹch" như ngạc nhiên về hai đồng loại to lớn dưới suối. Đặc biệt, cả hai con đều có cái đuôi ngắn cũn mọc ở đằng trước mà không phải ở sau mông. Nhất là con khỉ to, dưới gốc đuôi lại có túm lông đen đen trông rất tức cười. Con khỉ đầu đàn khá bạo dạn, nó leo đến gần cành cây nhặt lấy cái khố của Bảo lão ngắm nghía, rồi nó khoác lên người ngồi nhe răng ra một cách ngô nghê ngớ ngẩn. Trên cành cây phía xa, lũ khỉ còn lại rung cành, vỗ tay như thầm khen ngợi sự can đảm của nó. "Ấy, ấy, cho mày chết." Bảo lão nhặt một hòn đá ném về con khỉ rồi chạy đến cái cây. Con khỉ hoảng sợ xách cái khố của lão chạy tót vào rừng rồi leo tít lên một cây to ngồi vắt vẻo, hai hàm răng há ra kêu "khẹch khẹch". Mắt nó trừng trừng nhìn về phía lão như trêu ngươi làm lão điên tiết, nhảy nhót lồng lộn như thằng điên. Lão nhặt đá, ném cành cây về phía nó nhưng không làm nó sợ. Trái lại, một lúc sau, nó chuyền cành sang một cây khác rồi tót vào rừng, biến mất khỏi tầm mắt. "Quân ăn cướp, đồ mất dạy. Rồi tao sẽ lột da mày ra." Lão tức tối chửi rủa ầm ĩ rồi trở về bờ suối một cách chán nản, sau khi đã làm đủ mọi cách mà không lấy lại được cái khố. "Mía nó, đành về hang thôi." Lão thở dài nhìn theo đàn khỉ tiếc rẻ. "Ở trong hang còn mấy cái nữa, tuy đã cũ nhưng mặc tạm vẫn được." Lão làu bàu rồi xách cái gùi lên, chui vào giữa đám lá chè. Đám lá chè tuy rậm rạp nhưng lại chỉ che đến bụng lão, còn phía dưới hở hoác khiến lão phải cho một tay kéo mấy cành lá che đi, nhưng thấp thoáng vẫn thấy cái gì đó lủng lẳng. "Vòng ba của thúc trông nuột phết." Hắn cười nhăn nhở phía sau lão. "Hử. Bây giờ, ngươi đi trước dẫn đường." Lão ra lệnh. "Yes ser, tuân lệnh sếp." Hắn dập chân như quân nhân chuyên nghiệp rồi nhanh nhẹn chạy đến mặc cái khố, đeo cái gùi cùng đám lá chè lên vai thẳng tiến về dãy Tam Sơn. Bảo lão mặt nhăn như bánh cu đơ ngâm nước lẽo đẽo theo sau, thỉnh thoảng có tiếng động ven bờ làm lão rối rít chạy đến nấp sau lưng hắn. Cũng may trời đã gần tối nên thằng cu của lão lẫn vào trong đám lá, nếu có ai nhìn thấy chắc cũng không để ý. Họ đi dọc theo dòng suối về hang, từ xa cửa hang hiện ra thấp thoáng sau mấy bụi cây. Bước qua con suối, chân hắn chạm vào lớp đất mềm làm hắn hưng phấn, hắn há miệng định hét lên một tiếng gọi Bảo nhi thì một tiếng quát khẽ vang lên làm hắn giật mình nhìn lại. "Đứng im, không được động đậy." Tiếng của Bảo lão phía sau. Lão rút con dao lẳng lặng tiến đến bờ suối quan sát, sau đó nhìn quanh khắp con suối và khịt khịt đánh hơi như chó săn. Ở trên bờ suối có nhiều vết chân như chân mèo nhưng to như cái bát đại hướng về cửa hang. Dấu chân của Chúa sơn lâm.
Chương 18. Chúa sơn lâm xuất hiện Bấm để xem "Có hổ." Bảo lão thét lên, lão co cẳng chạy thẳng lên núi bỏ mặc hắn đang đứng ngơ ngác như con nai vàng đứng trên lá vàng khô. "Hả, hổ ư. Bỏ mẹ, quái vật rừng xanh đã đến rồi." Một ý nghĩ thoáng qua đầu hắn. Không kịp suy nghĩ thêm, hắn cong đít chạy theo lão nhanh như tên lửa Sputnik mà Liên Xô dùng để phóng vệ tinh đầu tiên trên thế giới. Bảo lão đã đến cửa hang, lão lay cái hàng rào gỗ, gọi khàn cả giọng: "Mẹ con nàng có trong đó không? Mở cửa ra." Lão gào thảm thiết như con heo bị chọc tiết. "Lão gia đã về." Có tiếng hai mẹ con Bảo thị trong hang vọng ra. Bảo thị mừng rỡ chạy ra mở cửa hang, mụ lúi húi gỡ đám dây buộc vào cái cửa do chục cây nứa bó thành. Sau khi mở cửa, Bảo lão lách vào hang như tên bắn. Hắn cũng hồng hộc chạy vào theo, đoạn đường tuy không dài nhưng chạy nước rút như thế này không kém gì vận động viên Olimpic quốc tế. Nếu như có lão trọng tài ở đây, thế nào cũng cho hắn đạt huy chương vàng. Bảo thị nhanh chóng đóng cửa hang lại, mụ cẩn thận lấy sợi dây thừng buộc thêm mấy vòng cho chắc. Vừa thở hổn hển, Bảo lão vừa hỏi: "Ở nhà không việc gì chứ? Thấy dấu chân hổ bên bờ suối hướng về cửa hang làm ta hết cả hồn, sợ hai mẹ con nàng có chuyện gì." Lão gỡ cái gùi và đám lá chè xuống nền hang rồi đứng chống tay vào hai đầu gối thở hồng hộc. "Ơ, thế cái khố của cha đâu mà lại cởi truồng thế kia?" Tiếng Bảo nhi hỏi. "Hả." Bảo lão há hốc mồm nhìn xuống dưới, lão mới phát hiện ra là đang khỏa thân vì môi trường. Lão vội vàng che hai tay vào chỗ kín rồi lúi húi quay mông chạy vào vách hang lục mấy cái bọc đang treo lủng lẳng. Bảo thị xấu hổ vội quay mặt ra ngoài cửa hang giả vờ không để ý. "Khốn kiếp mấy con khỉ cướp khố của ta rồi chạy mất, làm ta đuổi mãi không được." Tiếng của lão vọng ra từ góc hang. Hai mẹ con Bảo thị che miệng cười khúc khích, Bảo thị còn nói mát: "Mất cái khố thì thôi, chứ mất cái trong khố mới khổ chứ nhỉ?" "Hừ." Bảo lão mặt nhăn như khỉ, nhưng lão chẳng dám tranh luận với mụ vợ nổi tiếng đanh đá này. Lão mặc vội cái khố rách rồi bước đến bên hắn, thu xếp lại mấy bó lá chè đang vứt ngổn ngang giữa hang. "Ở nhà có xảy ra chuyện gì không?" Lão ngước đầu lên hỏi. Bảo thị đang nhìn mấy đám lá chè xanh to tướng, nghe lão hỏi, mụ trả lời giọng lo lắng: "Sau khi thúc điệt ông đi được hai hôm, có con hổ rất to xuất hiện quanh đây. Tối nào nó cũng lảng vảng ở cửa hang, thiếp phải gõ cây nứa rã cả tay nó mới bỏ đi. Sau đó nó mò xuống bản bắt heo, gà. Bọn thợ săn trong bản đã lùng nó mấy ngày nhưng nó rất khôn, thấy bóng thợ săn là lủi mất nên mọi người tưởng nó đã chạy vào rừng." Mụ chảy nước mắt nói tiếp: "Đến chiều hôm qua, đám trẻ ra bờ suối tắm bị nó vồ mất một đứa, tất cả mọi người trong bản đều đi tìm khắp nơi nhưng không thấy đứa trẻ tội nghiệp đâu, chắc là bị nó ăn thịt rồi. Từ mấy hôm nay, mẹ con thiếp chỉ ở trong hang, không dám đi ra ngoài." "Hừ, con hổ này vẫn còn quanh quẩn ở đâu đây thôi. Ta đã phát hiện ra dấu vết của nó còn rất mới, mấy ngày tới, thế nào nó cũng đến." Bảo lão trầm giọng nói. Lão đi vào góc hang gỡ cây cung và mấy mũi tên xuống rồi kéo thử cây cung đánh "pưng" một cái. "Mía nó, tối nay mà nó đến, ta sẽ cho nó nếm thử sự lợi hại." Lão hùng hồn nói một cách tự tin. "Thúc có chắc chắn bách phát bách trúng không?" Hắn nhớ đến tài nghệ bắn gà của lão nên vặn hỏi. "Chỉ cần nó đứng ở cửa hang thò đầu vào, làm gì ta chẳng bắn trúng." Lão cười khẩy vẻ cao ngạo. "Nhưng hàng rào dầy thế kia thì nó thò đầu vào thế nào được, hả thúc?" Hắn cười hỏi. "Ừ nhỉ. Nếu nó không thò đầu vào được thì thôi, ta không bắn nữa cho phí tên." Lão gãi đầu chưng hửng. "Vâng, được rồi. Bây giờ cháu đói quá, ở nhà có gì ăn không ạ?" Hắn xoa bụng hỏi. "À.. à, để cô cô đi dọn cơm." Bảo thị cuống quít, mụ nhanh nhẹn chạy vào bếp bưng cái nồi cơm xuống, đặt giữa nền hang. "Tưởng thúc điệt ông đi chục ngày mới về, sao lại nhanh vậy? Ăn tạm đi, tôi mới nấu được một ít, định để hai mẹ con ăn, bây giờ để tôi đi nấu thêm." Mụ liến thoắng. "À, nhờ sự sáng suốt của ta, quyết định đi qua núi Quỷ nên nhanh được 3 đến 4 ngày." Bảo lão vỗ ngực tự khoe. "Núi Quỷ ư, ông toàn là uống thuốc liều mà không sợ bục diều." Mẹ con Bảo thị lè lưỡi, lắc đầu thán phục. "Hứ, chỉ biết tranh công." Hắn liếc nhìn lão mà cảm thấy khâm phục vì da mặt lão bỗng dày không kém gì da heo. Bảo thị đã xới cơm ra hai cái bát, mụ ngước nhìn hai người rồi bảo: "Hai người ăn cơm đi." "Được, chúng ta ngồi ăn trước." Bảo lão khoanh chân ngồi đánh "phẹt" xuống nền hang. Chẳng cần phải chờ đợi, lão bưng cái bát lên xúc tòm tọp như nhồi gà nhồi vịt. Chỉ vèo một cái, bát cơm đã sạch nhẵn. Đối diện lão, hắn cũng xúc cơm, ăn lấy ăn để như vừa trải qua nạn đói năm 1945. "Còn nữa không?" Lão chìa cái bát không ra hỏi. "Khiếp, hai thúc cháu nhà ông ăn cơm cứ như ăn cướp." Bảo thị lắc đầu. "Bảy ngày trong rừng toàn ăn gạo rang, uống nước lã khiến cho bụng ta cứ kêu lọc xọc, nghe xót cả ruột." Lão lắc đầu than thở. "Tội nghiệp, đây, chỉ còn hai bát này, để thiếp đi nấu thêm nữa." Bảo thị xới thêm cho hai người rồi mụ nhanh nhẹn đi tới bếp vo gạo, nấu thêm cơm. Ăn xong bát cơm, lão chép miệng: "Cũng tàm tạm, tí nữa ăn tiếp." Lão vỗ vỗ cái bụng "bồm bộp". "Tưởng chỉ có mình là đói, hóa ra lão còn đói hơn cả mình." Hắn cười thầm. Chừng tiếng sau, Bảo thị đã nấu xong nồi cơm mới, bọn họ lại quây quần bên bếp lửa vừa ăn vừa nói chuyện. Hai mẹ con Bảo thị vừa ăn vừa ngồi nghe Bảo lão bốc phét, thỉnh thoảng lại có tiếng ồ à, xít xoa thán phục của Bảo nhi. "Hai mẹ con nàng có biết không? Lúc đi qua núi Quỷ, ta còn bắt sống được bốn con rết to như cổ chân và đánh chết ba con rắn hổ bằng bắp đùi, chúng ta xẻ thịt chúng rồi nướng ăn trên núi Quỷ. Ha ha, thật là tuyệt." Lão nháy mắt với hắn rồi huênh hoang như Binladen đòi khủng bố tiếp nước Mỹ. "Đúng là bốc phét mà không biết ngượng mồm." Hắn đỏ mặt thầm nghĩ. "Trên đỉnh núi Tuyết, ta còn ôm cả tảng đá choảng vào một con heo độc. Nó lao tới húc, ta giơ tảng đá lên đập vào mõm khiến nó gãy cả nanh, chính là con ngày xưa đã húc ta, ha ha.. Ngày xưa may cho nó là ta không vớ được tảng đá nào, bây giờ cho nó đáng đời." Lão nói lải nhải như ăn phải củ cải bị ngâm trong nước giải rồi phơi ngoài nắng cho nó ải. "Sao không kể luôn bị dơi ị vào mồm và bị con khỉ cướp mất cái khố đi cho nó hoành tráng." Hắn nhăn mũi nghĩ. Bảo lão vẫn còn hưng phấn, lão liên tục vung chân, múa tay như bị chập dây thần kinh. Sau khi ăn cơm xong, lão vò nát một nắm lá chè cho vào nồi đặt lên bếp lửa. Một lúc sau nước sôi, lão rót nước chè ra bát cho mọi người cùng uống, hương chè tươi tỏa ra thơm lừng cả cái hang. "Con hổ này rất khôn, nó đã ăn thịt người, chắc chắn sẽ quay lại tìm người bắt tiếp." Bảo lão lo lắng sau khi uống mấy ngụm trà. "Thúc, thú rừng thiếu gì, tại sao con hổ này không bắt, lại mò xuống đây bắt người?" Hắn cau mày hỏi. "Hừ, chắc là nó đã già nên không bắt được thú rừng mới phải mò xuống chỗ này kiếm ăn. Trước kia dưới bản, bọn thợ săn cũng bắn được một con như vậy. Đối với hổ thì người hay thú cũng đều như nhau, đều là đống thịt biết di động. Thú còn phải đuổi bắt, không dễ. Trong khi người thì chạy chậm, sức chống trả lại yếu ớt. Chỉ cần nó bắt người một lần mà thấy dễ dàng thì lần sau, nó lại tìm cách bắt tiếp. Hơn nữa, thịt người mềm, không dai như thịt thú khiến cho con hổ bị nghiện, nó sẽ liều lĩnh hơn." Bảo lão giải thích. "Thế thì nguy hiểm quá nhỉ?" Hắn thốt lên. "Giống ác thú này còn biết lựa chọn người để tấn công. Khi phát hiện ra thợ săn có vũ khí, nó lủi mất. Nhưng nếu nó thấy người không mang vũ khí hoặc trẻ con thì thế nào nó cũng tìm cách vồ ăn thịt." Lão trầm ngâm. "Phải tìm cách tiêu diệt nó thôi, chừng nào nó còn ở ngoài kia thì chưa yên được." Hắn nhìn lão lo lắng. "Bọn thợ săn này thật là vô dụng, mấy ngày rồi mà chưa bắt được nó." Lão lắc đầu, bĩu môi tỏ vẻ khinh thường. "Bọn họ cũng cố gắng săn lùng nó suốt mấy ngày nay rồi, nhưng không thấy nó đâu." Bảo thị góp lời. "Nếu là cha thì có bắt được nó không?" Bảo nhi hỏi. Từ tối đến giờ, cô bé đang rất hâm mộ về những chuyện hào hùng mà lão đã kể. "Hả, ta nghĩ, nếu nó chán sống mà mò đến đây, ta sẽ chém nó ra làm hai mảnh." Lão ngập ngừng giơ hai ngón tay lên trời. "Chỉ sợ nó mà đến thì lão chạy vãi cả.. bã ra ấy chứ." Hắn thầm nghĩ rồi quyết định góp lời: "Cháu nghĩ là phải tìm cách đặt bẫy mới diệt được nó, chứ săn lùng nó thế này thì cũng chẳng khác gì đuổi hổ về rừng. Sợ lúc nào đó, nó quay lại bắt người tiếp." Hắn góp ý. "Đúng.. đúng, để sáng mai, chúng ta xuống bản hỏi bọn thợ săn rồi sẽ nghĩ cách, chắc phải nhờ bọn chúng giúp một tay." Lão gật đầu phụ họa. Bọn họ ngồi nói chuyện đến khuya, có lẽ mấy ngày đi rừng căng thẳng khiến cho Bảo lão và hắn vô cùng mệt mỏi nên chẳng mấy chốc họ đã lăn quay ra đống cỏ ngáy "o o". Bảo thị đi ngủ muộn, mụ còn bận dỡ đống búp chè để ngày mai sao lên chờ ngày bán. Ngoài trời, màn đêm vô cùng yên tĩnh, chỉ có mảnh trăng cuối thu cong như lưỡi liềm trên bầu trời, tỏa xuống mặt đất một thứ ánh sáng vàng nhờ nhờ yếu ớt, không đủ soi rõ mọi vật. Nửa đêm, dưới tán cây ngoài cửa hang có một bóng đen to lớn vằn vện đang nằm phục, tiếng động trong hang thu hút sự chú ý của nó. Nó lẳng lặng bò đến gần ngó qua hàng rào, ánh lửa trong hang hắt qua khe hở, soi rọi bóng bốn người đang nằm ngủ. Dường như cảm thấy không xơ múi được gì ở nơi này, nó lặng lẽ chuồn xuống bản. Đến gần sáng, tất cả mọi người trong hang đều giật mình tỉnh giấc vì tiếng gào hét và tiếng thanh la, chiêng trống "phèng phèng" từ dưới bản vọng đến ầm ĩ. Giây lát sau, hơn chục ánh đuốc soi sáng cả một góc núi lẫn tiếng người chửi rủa, hò thét đang ngày càng kéo đến gần. Chúa sơn lâm đã xuất hiện.
Chương 19. Bàn kế giết cọp. Bấm để xem Bình minh vừa ló rạng, trong ngôi nhà sàn to nhất bản Tam Sơn, có ba lão già đang ngồi uống trà xanh, hút thuốc lào trừ bữa. Người ở giữa khoảng trên 50 tuổi là lão trưởng bản có ngoại hiệu là Phập Bách Phát. Thực ra tên thật của lão là Phập Văn Phát, lão là con nhà nòi hơn chục đời làm trưởng bản kiêm thợ săn nổi tiếng trong vùng. Tương truyền, mỗi khi lão bắn tên, trong vòng trăm thước, không con thú nào có thể chạy thoát vì vậy mới được mọi người gọi là Phập Bách Phát. Lão bưng bát nước chè lên nhấp một ngụm rồi súc miệng òng ọc, khỏi cần đánh răng rồi nuốt ực một cái. Mặt lão đỏ bừng, dáng vẻ cau có luôn xuất hiện trên khuôn mặt hiếm khi thấy nụ cười. Người bên trái có dáng vẻ gầy tầm 55 tuổi, khuôn mặt tinh quái với đôi mắt ti hí, lão có ngoại hiệu là Cắm Vào Đầu. Cũng như Phập trưởng bản, lão có tên thật là Cắm Văn Đâu. Nhưng khi đi săn, lão chỉ thích kết liễu mấy con thú bằng cách phóng thẳng lao vào đầu con mồi nên mọi người dần gọi là Cắm Vào Đầu. Người cuối cùng tướng người hơi béo, bụng phệ tầm duới 50 tuổi. Mặt lão vàng vàng, tròn tròn như cái bánh đa gắn hai chùm ria mép trông như biểu tượng emoticons trên Messenger. Mỗi khi lão mở miệng, hai chùm ria mép lại nhấp nhô lên xuống y như ta cầm cái chổi quét nhà xí. Ngoại hiệu của lão là Đút Vô Mồm. Có lẽ từ bé lão tham ăn nên luôn nghĩ đến phải đút cái gì đó vào mồm nên lâu dài, mọi người đều gọi lão như vậy đến mức quên cả tên thật của lão là Đút Văn Mô. Thỉnh thoảng, Đút Vô Mồm lại vớ lấy cái điếu cày châm lửa rít xòng xọc. Sau khi nhắm mắt tận hưởng hơi thuốc, lão "phì" một hơi làm khói thuốc tuôn ào ào ra như cháy nhà. Phập trưởng bản mặt vẫn còn hầm hầm, trời còn chưa sáng mà con hổ khốn nạn lẻn vào chuồng cắn chết con heo nái của lão, thế là mất toi mấy năm chăm bẵm. Lão khàn khàn giọng: "Phải tổ chức nhiều đợt truy sát, quyết săn lùng con thú này. Để nó sống ngày nào, cả bản ta không yên ngày ấy." "Vâng, thưa trưởng bản." Đút lão ngửa mặt phả khói thuốc lên mái nhà vừa trả lời: "Tiếc là nhà đệ không còn con heo nào, nếu không đệ tình nguyện cho nó đến bắt, đỡ cho trưởng bản phải lo lắng." "Hừ, đệ ăn còn khỏe hơn cả hổ, tình nguyện cái nỗi gì. Chỉ sợ hổ mà mò đến cũng bị đệ ăn tuốt không còn mẩu xương." Cắm lão lầu bầu. "Vậy, các huynh đệ có cách nào không? Chúng ta rượt theo nó mấy ngày rồi mà không thấy nó đâu, cứ như chơi trò ú tim vậy?" Phập trưởng bản lo lắng hỏi. Sau khi ngồi liếc mắt nhìn vẫn không thấy hai lão trả lời, Phập trưởng bản lắc đầu chán nản. Bỗng có tiếng ken két từ dưới cầu thang vọng lên rồi một cái đầu bù xù xuất hiện nơi cửa chính. "Kính chào trưởng bản và hai vị trưởng lão tôn kính." Tiếng của người mới đến cất lên. Phập trưởng bản ngước mắt nhìn về người mới đến, tưởng ai hóa ra là lão lang băm trong hang đá. Lão cất giọng e hèm: "Bảo Y Đạo đấy à, có chuyện gì vậy? Vào nhà đi." Bảo lão lễ phép bước vào nhà, theo sau lão là một thằng nhóc người khá gầy. "Có chuyện gì mà lão lại dắt cả thằng nhãi này đến đây, định gả con gái cho nó sao?" Tiếng Cắm lão vang lên. "Thế đã chuẩn bị rượu thịt chưa?" Đút lão cười tươi hớn hở. "Dạ không ạ." Bảo lão lúng túng: "Hạ.. dân chỉ đến tìm ba vị để.. nhờ giúp đỡ một chuyện." Lão ấp úng. "Có chuyện gì, cứ nói thử xem?" Phập trưởng bản mặt vẫn còn nhăn nhó như ăn phải thịt chó điên lên tiếng. "Dạ, hạ dân định tìm cách bắt hổ, nhưng chỉ có mỗi hai thúc điệt, sợ không đủ sức nên đến nhờ Phập lão, Cắm lão và Đút lão cho thêm người giúp." Bảo lão khúm núm. "Cái dề, giúp ngươi bắt hổ ư." Phập trưởng bản trề môi. "Ha ha." Cái mặt khó chịu của lão nở nụ cười trông méo mó, nhăn nhúm như trái phật thủ đặt trên nóc tủ. "Một thằng già sợ chết và một tên nhãi còn chưa biết hết sự đời lại bày đặt bắt hổ. Đúng là" chim chích đòi mổ diều hâu, gà con tha quạ biết đâu mà tìm ". Ha ha." "Thật là ngu ngơ nằm giữa rừng mơ đây mà, chỉ sợ chúng ta giúp lão đi chôn xác thì có. Ha ha." Đút lão đế thêm. "Chắc lúc đó không cần chúng ta giúp, vì xác lão nằm trong phân hổ rồi còn đâu." Cắm lão nhếch mép cười khẩy. "Thôi ngươi về đi, khi nào lùng bắt hổ, chúng ta sẽ gọi hai người. Đến lúc đó, chúng ta sẽ cho làm tiên phong." Phập trưởng bản e hèm sau khi cố rặn một nụ cười khích lệ. Trước tràng cười mỉa mai khinh miệt của ba lão già, cả hắn lẫn Bảo lão lẫn đều bất ngờ. Cứ tưởng sẽ được động viên ủng hộ, không ngờ người ta lại coi thường như vậy. Đúng là mấy lão cổ hủ, não bằng quả nho, bụng to như quả bí. Đuổi hổ mà cứ chạy loăng quăng khắp nơi như vậy thì bắt thế quái nào được. "Chúng ta về thôi, thúc." Hắn giật mép khố của Bảo lão nhắc nhở. Bảo lão vẫn còn đang đứng đờ người, lão cũng không biết nói gì nữa bèn lúng túng lùi người ra cửa: "Dạ, cám ơn trưởng bản và hai vị tôn kính đã quan tâm, hạ dân xin phép ra về." "Chậm đã." Phập trưởng bản gọi. "Dạ, trưởng bản có gì căn dặn." Bảo lão khúm núm. "Từ xưa đến nay, chúng ta chưa bao giờ coi gia đình lão là thành viên của bản. Nhưng mọi nghĩa vụ đối với bản, lão vẫn phải thực hiện. Thế năm nay, lão đã nộp thuế đường chưa nhỉ?" Phập trưởng bản nhắc nhở. "Dạ, hạ nhân đã chuẩn bị xong rồi, lần này hạ nhân không có tiền nên nộp bằng thóc ạ." Bảo lão run rẩy. "Tốt, về chuẩn bị 40 đấu thóc, mỗi người nhà lão 10 đấu. Nghe rõ không?" Phập trưởng bản lên giọng. "Sao nhiều thế ạ? Năm ngoái nộp mỗi người có năm đấu thôi mà?" Bảo lão ngạc nhiên. "Năm ngoái khác, năm nay khác, sang năm còn khác nữa, nghe rõ không?" Cắm trưởng lão trừng mắt. "Đúng đấy, nói cái dề, lão cứ làm theo là được. Bảo nộp 10 đấu thì nộp 10 đấu, bảo 20 đấu là nộp 20 đấu, định lý sự hả?" Đút lão phả khói lên mái nhà, liếc mắt trầm giọng hỏi. "Dạ, nhưng thằng cháu hạ nhân mới ở được sáu tháng, sao phải nộp 10 đấu ạ?" Bảo lão uất ức. "Cái đó ta không quan tâm, đây là lệ của bản, ở một ngày cũng phải đóng như một năm, rõ không? Mùa đông sắp đến rồi, không thu của lão thì chúng ta nộp.. thủ cấp lên đại tù trưởng hả?" Phập trưởng bản gằn giọng. Thấy Bảo lão còn đang lừng chừng, lão đế thêm: "Thôi, về đi. Muốn sống yên ổn thì nôn ra, nếu không đừng trách chúng ta tàn bạo." "Chúng ta đi về." Bảo lão lắc đầu thất vọng. Lão kéo tay hắn bước xuống cầu thang. Trên đường về, lão cúi gằm mặt không nói một lời nào, sự ấm ức bùng nổ trong người làm lão thấy khó chịu. "Thế này có khác gì cướp ngày." Hắn thốt lên bực tức. Bảo lão thở dài, lắc đầu không nói gì. Lão lẳng lặng đi về hang, mặt xám xịt. Bảo thị đứng ở cửa hang chờ đợi. Thấy hai người về, mụ hớn hở nở nụ cười: "Thế nào? Trưởng bản có cho thêm người đi bắt hổ không?" Mụ nhìn về phía lão, thấy lão không nói gì, mụ hỏi lại giọng lo lắng: "Có chuyện gì vậy? Lão ấy làm gì hai người?" Mụ cầm tay lão ân cần. "Lão khốn đó không cho người giúp bọn ta, lại còn bắt nộp thuế đường." Bảo lão tức tối. "Hả, phải nộp bao nhiêu?" Bảo thị run rẩy. "40 đấu thóc đó, đúng là ăn cướp." Lão trợn mắt giọng đầy bi phẫn. "Sao nhiều vậy?" Bảo thị tý nữa ngã ngửa ra hang. "Thế là mất toi một chum thóc, mùa đông này chúng ta chắc ăn vỏ trấu luộc." Lão căm hận nghiến răng kèn kẹt. "Thúc, chúng ta không nộp thì sao?" Hắn nhìn vợ chồng Bảo lão. "Không được, nếu không nộp thì bọn chúng sẽ chẳng để cho mình yên, chỉ có nước vào rừng mà sống với dã thú." Bảo thị nói giọng chán nản. "Chúng ta tính kế khác vậy, dù sao chúng ta vừa hái được rất nhiều chè, có thể đổi ra thóc." Hắn an ủi. Bọn họ vào trong hang ngồi im lặng, trên khuôn mặt Bảo thị vẫn còn chưa hết lo lắng. "Cháu tính thế này, thúc và cô cô xem có được không?" Một hồi lâu sau, hắn lên tiếng. "Tiểu Hoàng định như thế nào?" Bảo thị hỏi. "Nếu lão trưởng bản không chịu giúp thì chúng ta tự tìm cách diệt hổ vậy." Hắn trả lời. Bởi vì bọn họ ở sát bìa rừng lại cách khá xa bản, nên con hổ đi tìm mồi, thế nào cũng đi qua chỗ họ, nếu không tìm cách diệt nó trước thì có ngày họ sẽ gặp nguy hiểm. Chẳng lẽ Bảo thị lẫn Ngọc nhi phải ở trong hang mãi không dám ra ngoài. "Chỉ cần đặt một cái bẫy lớn trên đường nó đi qua là diệt được." Hắn nói. "Cũng không đơn giản, nhìn dấu chân nó, ta biết nó rất to." Bảo lão trả lời. Bảo lão còn gợi ý đào một cái hố sâu và to, đề phòng con hổ quá lớn sập bẫy nhưng vẫn nhảy lên được. Nhưng cuối cùng lão phải đổi ý vì con đường này, dưới đất toàn đá tảng, muốn đào được cái hố to, không vất vả cả chục ngày thì đào không xong, lại còn phải cắm chông, rải lá ngụy trang nữa. Quan trọng là bọn họ đang đào mà con hổ xuất hiện thì chạy không kịp, lúc đó không biết người săn hổ hay hổ săn người. "Sao cha bảo nếu nó xuất hiện sẽ cho nó một đao làm hai mảnh?" Bảo nhi hỏi. "Hừ, nếu nó đứng im thì ta cho nó thành ba, bốn mảnh cũng được. Còn để nó vồ được thì ta thành muôn mảnh." Bảo lão hừ hừ trả lời. "Đúng là cha chỉ giỏi nói khoác." Bảo nhi lắc đầu bĩu môi. "Nói khoác là thế nào, ngươi cứ bảo nó đứng im thử coi, ta cho nó thành món giả cầy ngay." Bảo lão lý sự. "Thôi thôi, hai cha con ông im lặng để tiểu Hoàng nghĩ cách, cứ ầm ĩ nhức cả đầu." Bảo thị gắt gỏng. "Thúc lại đây, cháu có ý tưởng này, chúng ta sẽ đặt bẫy." Hắn nhặt hai cái que dưới đất lên đặt song song, một đầu hắn lấy sợi cỏ buộc lại rồi tách đầu kia ra thành hình chữ V, xếp trên nền hang. Cả Bảo lão và Bảo thị đều đến bên cạnh chăm chú xem hắn làm. ".. Sau đó chúng ta sẽ làm thế này.." Hắn vừa nói vừa chỉ tay giải thích.. "Cuối cùng là thế này.." "Hay hay, liên hoàn bẫy.." Bảo lão tán thưởng. "Chưa hết, chúng ta còn làm thêm thế này.. chờ nó dính đòn là nhảy xuống kết liễu." Hắn giơ tay ngang cổ rồi làm dấu hiệu cứa một cái như người ta cắt tiết một con gà. "Được, quá hay, sao mà ngươi thông minh giống ta hồi trước vậy nhỉ." Bảo lão vỗ đùi khen ngợi. "Nếu trước kia ông mà giỏi như thế thì bây giờ đã là đại tù trưởng rồi." Bảo thị bĩu môi lườm yêu chồng.