Chương 2
QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản.
2.3. 1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920)
QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản.
2.3. 1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920)
Những yếu tố tác động đến quyết định rời Việt Nam đi phương Tây (trước năm 1911) Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, các tầng lớp nhân dân trong xã hội bị phân
Hóa sâu sắc, điêu đứng trong cảnh nước mất, nhà tan, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị tha hóa về con người, bị đọa đày trong đói rách về bệnh tật. Giai cấp cần lao lâm vào số phận nô lệ bi thảm, quyền sống của con người bị chà đạp
Thảm hại. Xã hội Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khai thác tài nguyên và bóc lột dã man của cải và sức lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc.
Trong khi đó, tình hình thế giới trong thời gian này lại có những chuyển biến mạnh mẽ. Chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Trước sự hung hăng của chủ nghĩa đế quốc, phần lớn các nước Mỹ La-tinh, châu Á, châu Phi đã trở thành thuộc địa của chúng, trong đó có đất nước ta. Bên cạnh những mâu thuẫn xã hội đã tồn đọng nhiều năm trời, sự lan rộng của chủ nghĩa đế quốc đã làm phát sinh mâu thuẫn mới, đó là mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Vì thế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa lan rộng, trong đó có đất nước ta.
Mặt khác, phong trào kháng chiến chống Pháp bùng lên và lan rộng trong cả nước. Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và ý chí căm thù giặc Pháp sôi sục. Song, trước sau đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Nhiều phong trào cứu nước do các sĩ phu và văn thân theo ý thức hệ phong kiến. Các phong trào Duy Tân, Đông Du dựa trên lý luận dân chủ tư sản đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Sự thất bại của các phong trào này, đặc biệt trong số đó là phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu đã khiến Nguyễn Ái Quốc thấy được nhiều hạn chế của con đường cứu nước của các bậc tiền bối: Không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ. Trước tình cảnh ấy, Nguyễn Tất Thành, khi đó mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với quyết tâm cháy bỏng: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu".
Trong khi đó, xét đến nước Pháp, đất nước đang là kẻ thù của Việt Nam, Người cần tìm hiểu về kẻ thù của mình, tìm hiểu về bản chất của kẻ cai trị mình. Bên cạnh đó, trong lịch sử, Pháp là nước nơi khai sinh ra bản tuyên ngôn Nhân quyền năm 1789 với khẩu hiệu: "Tự do, bình đẳng, bác ái". Đây là khẩu hiệu đã lôi cuốn Người quyết tâm xác thực và tìm kiếm những yếu tố làm nên khẩu hiệu ấy. Không những thế, Pháp còn là nước có nền văn minh tiên tiến và khoa học phát triển, vận dụng và học hỏi được từ sự phát triển này là một lợi thế rất lớn cho dân tộc ta. Hội tụ những yêu cầu thiết yếu, Người đã quyết định chọn Pháp là điểm đến đầu tiên trong quá trình học hỏi, nghiên cứu của mình. Như vậy, có thể thấy việc Nguyễn Tất Thành chọn châu Âu làm điểm đến không phải là một quyết định ngẫu nhiên mà là sự kết tinh của quá trình phân tích, suy luận kết hợp với bối cảnh trong nước và thế giới.
Hóa sâu sắc, điêu đứng trong cảnh nước mất, nhà tan, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị tha hóa về con người, bị đọa đày trong đói rách về bệnh tật. Giai cấp cần lao lâm vào số phận nô lệ bi thảm, quyền sống của con người bị chà đạp
Thảm hại. Xã hội Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khai thác tài nguyên và bóc lột dã man của cải và sức lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc.
Trong khi đó, tình hình thế giới trong thời gian này lại có những chuyển biến mạnh mẽ. Chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Trước sự hung hăng của chủ nghĩa đế quốc, phần lớn các nước Mỹ La-tinh, châu Á, châu Phi đã trở thành thuộc địa của chúng, trong đó có đất nước ta. Bên cạnh những mâu thuẫn xã hội đã tồn đọng nhiều năm trời, sự lan rộng của chủ nghĩa đế quốc đã làm phát sinh mâu thuẫn mới, đó là mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Vì thế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa lan rộng, trong đó có đất nước ta.
Mặt khác, phong trào kháng chiến chống Pháp bùng lên và lan rộng trong cả nước. Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và ý chí căm thù giặc Pháp sôi sục. Song, trước sau đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Nhiều phong trào cứu nước do các sĩ phu và văn thân theo ý thức hệ phong kiến. Các phong trào Duy Tân, Đông Du dựa trên lý luận dân chủ tư sản đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Sự thất bại của các phong trào này, đặc biệt trong số đó là phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu đã khiến Nguyễn Ái Quốc thấy được nhiều hạn chế của con đường cứu nước của các bậc tiền bối: Không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ. Trước tình cảnh ấy, Nguyễn Tất Thành, khi đó mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với quyết tâm cháy bỏng: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu".
Trong khi đó, xét đến nước Pháp, đất nước đang là kẻ thù của Việt Nam, Người cần tìm hiểu về kẻ thù của mình, tìm hiểu về bản chất của kẻ cai trị mình. Bên cạnh đó, trong lịch sử, Pháp là nước nơi khai sinh ra bản tuyên ngôn Nhân quyền năm 1789 với khẩu hiệu: "Tự do, bình đẳng, bác ái". Đây là khẩu hiệu đã lôi cuốn Người quyết tâm xác thực và tìm kiếm những yếu tố làm nên khẩu hiệu ấy. Không những thế, Pháp còn là nước có nền văn minh tiên tiến và khoa học phát triển, vận dụng và học hỏi được từ sự phát triển này là một lợi thế rất lớn cho dân tộc ta. Hội tụ những yêu cầu thiết yếu, Người đã quyết định chọn Pháp là điểm đến đầu tiên trong quá trình học hỏi, nghiên cứu của mình. Như vậy, có thể thấy việc Nguyễn Tất Thành chọn châu Âu làm điểm đến không phải là một quyết định ngẫu nhiên mà là sự kết tinh của quá trình phân tích, suy luận kết hợp với bối cảnh trong nước và thế giới.