Tự thán 40 Ngủ thì nằm đói lại ăn, Việc vàn ai hỏi áo bô cằn. Tranh giăng vách nài chi bức, Đình thưởng sen nừng có căn. Vườn quạnh dầu chim kêu hót, Cõi trần có trúc dừng ngăn. Già vuỗn lấy rượu phù khoẻ, Hoạ lại quên lòng khó khăn. Cước chú: vàn: vạn, lưu tích còn trong muôn vàn áo bô: áo vải thô cằn: sờn sợi, bợt màu nài chi: cần chi; bức: tấm (bức tranh, tấm ảnh) nừng: ít, chỉ, chỉ có vườn quạnh: vắng, lưu tích còn trong từ quạnh quẽ, quạnh vắng, hiu quạnh. dừng ngăn: <từ cổ> ngăn cách vuỗn: vẫn phù: đỡ, giúp, vực họa: may ra
Tự thán 41 Chớ còn chẳng chẳng, chớ quyền quyền, Lòng hãy cho bền đạo Khổng môn. Tích đức cho con hơn tích của, Đua lành cùng thế mựa đua khôn. Một niềm trung hiếu làm biêu cả, Hai quyển thi thư ấy báu chôn. Ở thế làm chi câu thúc nữa, Nhi tôn đã có phúc nhi tôn. Cước chú: chẳng chẳng: <từ cổ> bất cần, xua tay từ chối hết, không thiết đến cái gì, trái với quyền quyền. quyền quyền: thiết tha, quyến luyến, cố giữ lấy đua lành: theo đuổi những điều tốt lành mựa: chớ, không nên khôn: khôn ranh, khôn lỏi (với ý xấu) biêu: cái được nêu lên đại diện cho những cái khác cùng loại, như trong tiêu biểu, tiêu chuẩn; biêu cả: điều lớn lao, thứ lớn lao thi thư: Kinh thi, Kinh thư - sách vớ kinh điển Nho gia; báu chôn: của quý giá giấu chôn dưới đất; ý nói Kinh thi, Kinh thư như của báu chôn dưới đất câu thúc: Trói buộc, mất tự do nhi tôn: con cháu
自述 Tự thuật 1 Thế gian đường hiểm há chăng hay, Cưỡng còn đi, ấy thác vay. Nước kiến phong quang hầu mấy kiếp, Rừng Nho nấn ná miễn qua ngày. Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái, Tật được tiêu nhờ thuốc đắng cay. Kỳ, ký, nô, thai đà có đấy, Kẻ dìn cho biết lại khôn thay! Cước chú: há: nào có, có lẽ đâu, liệu có phải chăng hay: chẳng hay biết cưỡng: cố tình làm trái. thác: sai, lầm vay: vậy, thay nước kiến: đất nước, vinh hoa trong giấc mơ của Thuần Vu Phần, khi tỉnh dậy chỉ là tổ kiến trên cành hoè, chỉ mộng huyễn. phong quang: cảnh tượng phồn hoa rừng Nho: dịch chữ Nho lâm 儒林, chữ này có nhiều nghĩa :(1) giới nhà Nho nói chung, như phần Nho lâm ngoại truyện trong Sử Ký; (2) phiếm chỉ nho sinh, người đọc sách; (3) tác phẩm của nhà Nho; (4) kinh học nho gia; (5) học quan lòng ưu ái: lòng yêu nước, ái dân tật được tiêu: bệnh tật tiêu tan kỳ: ngựa có vằn xanh vằn đen, thuộc loại ngựa tốt, thiên lý mã; kỳ ký: ngựa tốt như ngựa kỳ, thuộc hàng thiên lý nô: ngựa xấu, ngựa yếu; nô thai: hai loại ngựa kém, sau trỏ những người kém tài, dốt nát. dìn: thấy, nhìn thấy
Tự thuật 2 Tính ắt trần trần nẻo sinh, Ngại đòi thì thế biến nhiều hành. Tuổi tàn, cảnh đã về ban muộn, Tóc bạc, biên khôn chác lại xanh. Ở thế thì cho ta những thiệt, Khoe mình khá chịu miệng rằng lành. Khiêm nhường ấy mới biêu quân tử, Ai thấy Di Tề có thửa tranh. Cước chú: tính ắt: bản tính hẳn là... trần trần: khư khư, khăng khăng, nhất định không chịu thay đổi. nẻo: khi lúc đòi: theo đòi thế: thế gian; thế biến: thế gian biến đổi hành: đường lối; nhiều hành: nhiều lối ban: khi, lúc, đứng trước tính từ, chỉ quãng thời gian nào đó của đời người. biên: tóc mai khôn chác: khó có thể đổi biêu: nêu cao Di Tề: Bá Di và Thúc Tề là con vua nước cô trúc - quốc gia chư hầu nhà Thương - những người nghĩa khí trung trực thửa tranh: sự tranh giành
Tự thuật 3 Vuỗn sinh lẩn thẩn mỗ già, Mọi sự đều nên thuấn nhã đa. Bà ngựa dầu lành, nào bá nhạc, Cái gươm nhẫn có, thiếu Trương Hoa. Ngon mùi đạo phiến hoàng quyển, Rửa lòng sầu chén tử hà. Phong nguyệt dầu ta ai kẻ đoán, Được ngâm nga ắt sá ngâm nga. Cước chú: vuỗn: vẫn mỗ: tôi, ta thuấn nhã đa: không tính (xem nhẹ, coi như không có gì) bà ngựa: con ngựa cái Bá Nhạc: (680-610 tcn) - nguyên tên là Tôn Dương, người thời Xuân Thu, nước Kỳ Cáo (nay huyện vũ thành tỉnh Sơn Đông). Ông là người rất giỏi luyện ngựa, được tần mục công tin dùng, được phong làm bá nhạc tướng quân. Bá Nhạc sau này đem tất cả kinh nghiệm luyện ngựa của mình viết thành cuốn bá nhạc tướng mã kinh nhẫn: ví như, nếu, dầu nhẫn Trương Hoa: người TQ có cây kiếm quý hóa rồng phiến hoàng quyển: quyển sách nhuộm màu vàng tử hà: vị thuốc bổ
Tự thuật 4 Khó khăn là của thế gian yêm, Huống mỗ già dại dột thêm. Cúc đợi đến thu, hương chỉn muộn, Mai sinh phải tuyết, lạnh chăng hiềm. Gia sơn, đường cách muôn dặm, Ưu ái, lòng phiền nửa đêm. Bể hiểm nhân gian ai kẻ biết, Ghê thay thế nước vị qua mềm. Cước chú: yêm (yếm): chán, ngán chỉn: nên chăng hiềm: chẳng e, chẳng ngại gia sơn: núi nhà, trỏ quê nhà hiểm: hiểm ác, hiểm độc Câu cuối: Sách Đạo Đức Kinh ghi: "Trong trời đất không gì mềm yếu bằng nước, thế mà mọi thứ cứng mạnh chẳng thể thắng nổi nước. Yếu mà thắng mạnh, mềm mà thắng cứng; trong thiên hạ ai mà không biết cái lẽ ấy thì chẳng thể hành sự được."
Tự thuật 5 Hơn thiệt đành phần sự chớ liều, Được nhàn ta ắt sá tiêu diêu. Ngọc lành nào có tơ vện, Vàng thật âu chi lửa thiêu. Ỷ Lý há cầu quan tước Hán, Hứa Do quản ở nước non Nghiêu. Phồn hoa chẳng dám, ngặt yên phận, Trong thế, anh hùng ấy mới biêu. Cước chú: đành: phải chịu, phải chấp nhận phần: phân ắt: hẳn, nhất định sá: nên tơ vện: <từ cổ> vết lỗi nhỏ âu chi: lo chi Ỷ Lý: tức Ỷ Lý Quý - một ẩn sĩ trong Thương Sơn Tứ Hạo, sống vào đời Hán sơ. há cầu: đâu cần Hứa Do: ẩn sĩ đời vua Nghiêu. Vua Nghiêu vi hành, mến đức của Hứa Do ngỏ ý muốn truyền ngôi cho. Nhưng Hứa Do không chịu, coi đó là những lời bẩn tai, bèn rửa tai bên bờ dĩnh thuỷ. quản: cho dù, bất luận; quản ở: chẳng ở, dù thế nào cũng không chịu ở ngặt yên phận: nghèo yên phận trong thế: trong đời biêu: tiêu biểu
Tự thuật 6 Lan còn chín khúc, cúc ba đường, Quê cũ chăng về nỡ để hoang. Thương nhẫn Biện Hoà ngồi ấp ngọc, Đúc nên Nhan Tử tiếc chi vàng. Quan thanh bằng nước, nhà bằng khánh, Cảnh ở tựa chiền, lòng tựa sàng. Dường ấy của no cho bậc nữa, Hôm dao đáo để cố công mang. Cước chú: lan, cúc: cây lan, cây cúc khúc: đoạn chăng: chẳng nhẫn: cho Biện Hoà: người nước sở thời Xuân Thu. Sách Hàn Phi Tử ghi chuyện: Biện Hoà người nước sở nhặt được một viên ngọc thô ở kinh sơn, đem đến dâng cho Lệ Vương, Lệ Vương cho thợ ngọc xem, thợ ngọc bảo đó là đá. Vua cho hoà là nói dối, bèn chặt chân trái hoà đi. Khi lệ vương chết, Vũ Vương tức vị, hoà lại đem viên ngọc thô ấy hiến lên Vũ Vương, Vũ Vương lại sai thợ ngọc xem, vẫn bảo là đá. Vua cho hoà là lừa, bèn sai người chặt nốt chân phải. Vũ Vương băng, Văn Vương tức vị, Hoà ngồi ôm ngọc khóc dưới chân núi kinh sơn, liền ba ngày ba đêm, khóc hết nước mắt thì ra máu. Văn Vương nghe biết chuyện ấy, bèn sai người đến hỏi: người trong thiên hạ bị chặt chân thì thiếu gì, sao ngươi cứ khóc mãi thế? Hoà bảo: ta chẳng phải buồn vì bị chặt chân. Ngọc quý mà bảo là đá, người ngay mà bảo là dối, cho nên ta mới khóc. Văn Vương sai thợ mài, quả là ngọc thực, bèn gọi ngọc ấy là hoà thị chi bích. Nhan Tử: tức Nhan Uyên - danh sĩ cao khiết bên TQ. khánh: nhạc khí cổ thuộc bộ gõ, thường làm bằng một phiến đá liền, có khung giá để treo, phía nên có một lỗ quai xỏ, phần dưới hình bán nguyệt. chiền: chùa chiền sàng: thác nước hôm dao: buổi chiều, buổi sáng đáo để: đáo để trong tiếng Hán nghĩa là cuối cùng, rốt cuộc.
Tự thuật 7 Thuốc tiên thường phục tử hà xa, Bồng đảo khôn tìm ngày tháng qua. Tính ắt nhiễm cùng bầy mộc thạch, Lòng còn chạnh có thú yên hà. Lồng chim ao cá từ làm khách, Ngòi nguyệt ngàn mai phụ lệ nhà. Cửa động chẳng hay lìa nẻo ấy, Bích đào đã mấy phút đâm hoa. Cước chú: tử hà xa: còn gọi thai bàn, thai bào, nhân bào, rau thai, nhau thai. Trung y cho rằng tử hà xa vị cam, hàm, ôn, nhập phế, có tác dụng bổ thận ích tinh, ích khí dưỡng huyết... Bồng đảo: tên ngọn núi huyền thoại. Tương truyền là nơi ở của tiên. tính: bản tính mộc thạch: Sách Mạnh Tử thiên Tận tâm thượng có đoạn: "Mạnh Tử nói: Thuấn ở trong núi sâu, sống cùng gỗ đá, chơi cùng hươu nai cho nên ông không khác gì dân của núi đó. Nhưng khi ông nghe thấy một điều thiện, nhìn thấy một việc lành thì vui sướng như nước suối nước sông đang chảy, không gì có thể ngăn được". chạnh: rung động, vui thích, "chạnh: cảm động. chạnh nhớ: cảm nhớ. chạnh lòng: động lòng từ: từ khi, từ lúc cửa động: cửa hang; lìa: rời xa
Tự thuật 8 Mấy thu áo khách nhuốm hơi dầm, Bén phải Đông Hoa bụi bụi xâm. Rủ vượn hạc xin phương giải tục, Quyến trúc mai kết bạn tri âm. Nha tiêm tiếng động án chu dịch, Thạch đỉnh hương tàn khói thuỷ trầm. Lều tiện qua ngày yên thửa phận, Đài cao chẳng lọ đắp Hoàng Câm. Cước chú: khách: đại từ phiếm chỉ, trỏ người nào đó (nhiều khi trỏ chính tác giả) dầm: ướt Đông Hoa: chỉ các quan trung ương, sau trỏ triều đình nói chung. nha tiêm: cái thẻ ngà, dài như cái xăm dùng để đánh dấu trang sách. án: án sách chu dịch: tức sách dịch, một trong những kinh điển quan trọng của nho gia. thuỷ trầm: cây trầm hương. thạch đỉnh: đỉnh núi lều tiện: lều nhỏ, xơ xác, nghèo chẳng lọ: chẳng cần Hoàng Câm: tức Hoàng kim đài, cũng gọi Chiêu Hiền Đài, nằm ở hương Cao Lý, huyện Định Hưng. Đài do Yên Chiêu Vương (311- 279 tcn) đời Chiến Quốc dựng lên để Chiêu Hiền Đài sĩ trong thiên hạ.