Quốc Âm Thi Tập - Nguyễn Trãi

Thảo luận trong 'Thơ Ca' bắt đầu bởi Thùy Minh, 22 Tháng mười một 2022.

  1. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Tự thuật 9

    Ở thế nhiều phen thấy khóc cười,
    Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi.
    Lòng người một sự yêm chưng một,
    Đèn khách mười thu lạnh hết mười.
    Phượng những tiếc cao diều hãy liệng,
    Hoa thì hay héo cỏ thường tươi.
    Ai ai đều có hai con mắt,
    Xanh bạc dầu chưng mặt chúng ngươi.

    Cước chú:
    ở thế: ở trên đời
    phen: lần, chuyện
    ngoại tư mươi: ngoài bốn mươi tuổi
    yêm: (yếm) chán, ngán.
    một sự yêm chưng một: mỗi việc (nhìn thấy) đều đáng chán, ghét
    khách: đại từ phiếm chỉ, trỏ người nào đó (nhiều khi trỏ chính tác giả)
    phượng: điểu vương trong truyền thuyết cổ, chim đực là phượng, chim mái là hoàng.
    diều: diều hâu
    ai ai: người người.
    xanh bạc: dịch chữ thanh bạch nhãn, là cách nói gộp của thanh nhãn(trọng thị) và bạch nhãn (khinh thị). Bình thường nhìn thẳng thì mắt thấy con ngươi đen, không thèm nhìn mà ngó lên trời thì chỉ thấy lòng trắng, cho nên nói gộp là thanh bạch nhãn. Sách Tấn Bách Quan Danh viết: "Kê Hỉ tự là Công Mục, trải chức dương châu thứ sử, anh của Kê Khang. Khi nhà Nguyễn Tịch có việc hiếu, hỉ đến điếu. Tịch vốn có thể làm mắt xanh mắt trắng, khi gặp kẻ phàm tục thì nhìn bằng lòng trắng. Khi hỉ đến viếng, tịch không thèm khóc, nhìn hỉ mắt trắng dã, hỉ chán mà bỏ về. Khang nghe thấy chuyện ấy bèn cắp rượu ôm đàn đến chơi, rồi cùng nhau say khướt."
    dầu chưng: dịch chữ tuỳ ư (tùy ở)
    mặt chúng ngươi: mặt các ngươi, mặt các người
     
  2. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Tự thuật 10

    Danh chăng chác, lộc chăng cầu,
    Được ắt chẳng mừng, trật chẳng âu.
    Có nước nhiễu song, non nhiễu cửa,
    Còn thơ đầy túi, rượu đầy bầu.
    Người tri âm ít, cầm nên lặng,
    Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu.
    Mấy kẻ công danh nhàn lững đững,
    Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu.

    Cước chú:
    Câu 1, 2: danh không thể đổi, lộc không thể cầu, (nên) được không mừng, mất không lo
    nhiễu: vây quanh, song: song cửa
    người tri âm: người có thể nghe mà hiểu tiếng đàn;
    cầm: đàn; cầm nên lặng: tiếng đàn (cây đàn) trở nên lặng im, lặng lẽ
    lòng hiếu sinh: lòng quý trọng sinh mạng của các sinh linh
    lững đững: "dùng dằng nấn ná"; 2 câu cuối có nghĩa: mấy kẻ công danh thôi đừng nấn ná dùng dằng ở chốn quan trường làm gì nữa; "mấy kẻ công danh quen thói nấn ná ở chốn cửa quyền kia. [rồi mai kia cũng chỉ còn lại] một nấm mồ hoang xanh cỏ, có ai còn biết là ai nữa đâu".

     
  3. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Tự thuật 11

    Hoạn nạn nhiều thu tổn khí hào,
    Lâm tuyền chưa khứng dứt chiêm bao.
    Nước càng tuôn đến bể càng cả,
    Đất một chồng thêm núi một cao.
    Sự thế chưng ta dầu đạm bạc,
    Hiên mai đeo nguyệt quản tiêu hao.
    Vũ truyền thiên hạ Nhan Uyên ngặt,
    Đổi đất xong thì có khác nao.

    Cước chú:
    khí hào: hào khí
    lâm tuyền: rừng và suối, nơi ở ẩn.
    khứng (khẳng): có thể, biểu thị sự đồng ý, thuận ứng, vui lòng, sẵn lòng làm gì.
    sự thế: việc đời
    chưng: đối với
    quản: mặc kệ
    tiêu hao: hao tổn và mất mát.
    Vũ: tức Tỉ Văn Mệnh, con của cổn thường được gọi là đại Vũ (2205 - 2198 tcn), vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đầu tiên xác lập chế độ cha truyền con nối, có công trong việc trị thuỷ.
    Nhan Uyên: Nhan Hồi (521 - 481 tcn), họ nhan, tên hồi, tự là Tử Uyên, nên cũng gọi là Nhan Uyên, là con của ông nhan do, người nước Lỗ. Nhan Hồi theo học với đức Khổng Tử, kém Khổng Tử 30 tuổi, thiên tư thông minh, nhanh nhẹn, hiếu học, chuộng lễ, làm việc gì cũng không lầm lỗi đến hai lần,
    truyền: trao cho
     
  4. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Tức sự 1

    Chạnh yên hà, chái một gian đình,
    Quét đất thiêu hương giảng ngũ canh.
    Chim đỗ tổ dìn còn biết mặt,
    Hoa nen rừng thấy hoà hay danh.
    Đai lân bùa hổ lòng chăng ước,
    Bến trúc đường thông cảnh cực thanh.
    Có khuở giang lâu ngày đã tối,
    Thuyền hoà còn dỏi tiếng tranh tranh.

    Cước chú:
    chạnh: <từ cổ> rung động, vui thích, "chạnh: cảm động. chạnh nhớ: cảm nhớ. chạnh lòng: động lòng.
    chái: dùng tre củi dựng nơi ở xuềnh xoàng (nơi ấy gọi là cái chái).
    giảng: đem sách vở nghĩa lý ra dạy cho học trò
    dìn: nhìn
    nen: ken dày, mọc đặc
    hòa: cả, tất cả, thảy
    hay danh: biết tên
    đai lân: loại đai của các quan có thêu hình con lân.
    bùa hổ nghĩa là binh phù hình con hổ do tướng soái giữ để điều binh, trỏ tướng võ, rộng hơn nữa trỏ quyền lực.
    chăng: chẳng
    khuở: thuở
    giang: sông; lâu: lầu cao
    hòa: cả, tất cả, thảy
    dỏi: vang, kêu
    tranh tranh: đanh đanh, chan chát, (tiếng mái chèo đập vào mạn thuyền, dùng để xua cá hoặc để làm nhịp hát)
     
  5. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Tức sự 2

    Lấy biêu phú quý đổi biêu hèn,
    Có kẻ thì chê có kẻ khen.
    Chốn ở, chái căn lều lá,
    Mùa qua, chằm bức áo sen.
    Hoa còn để rụng lem đất,
    Cửa một dường cài sệt then.
    Ai thấy rằng cười là thế thái,
    Ghê thay biến bạc làm đen.

    Cước chú:
    biêu: cái, sự
    chái: nhà, lều dựng lên một cách tạm bợ, thô sơ
    chằm: xâu, khâu các lớp mỏng lại với nhau cho dày dặn; chằm: may kết bằng chỉ to, bằng kim đục.
    lem đất: lấm đất
    sệt then: (then cái cửa) trệt, kéo lết trên mặt đất
    thế thái: thói đời
    biến bạc làm đen: đổi trắng thay đen
     
  6. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Tức sự 3

    Thư trai vắng vẻ cảnh ngày trường,
    Một quyển Hy Kinh một triện hương.
    Léo chân nằm vườn Độc Lạc,
    Chặm lều ở đất Nam Dương.
    Hoa chăng thay rụng, bày chi phấn,
    Thông sá bù trì, mộng cột rường.
    Mựa trách thế gian lòng đạm bạc,
    Thế gian đạm bạc đấy lòng thường.

    Cước chú:
    thư trai: phòng sách
    Hy Kinh: kinh do Phục Hy soạn, trỏ Kinh Dịch, hay Hy Dịch.
    triện hương: là nấu sắt thành khuôn, chạm khắc nét chữ triện, nén mạt hương theo nét chữ, đốt lửa ở nét đầu của chữ triện, khiến cho hương cứ theo nét chữ mà cháy.
    Độc Lạc: vườn Độc Lạc của Tư Mã Quang (còn gọi Tư Mã Ôn công) nhà sử học lỗi lạc đời Tống. Theo Lạc Dương danh viên ký thì trong khu vườn này của ông có một phòng đọc sách chứa đến hơn vạn cuốn.
    chặm: kết, đan
    Nam Dương: địa danh ở tỉnh hồ bắc, Trung Quốc ngày nay, là nơi Khổng minh Gia Cát Lượng dựng lều ở ẩn.
    chăng: chẳng; bày: phô ra;
    chi phấn: son phấn. chi: mỡ, phấn: bột. chi phấn: đồ trang điểm của phụ nữ, sau trỏ những thứ đẹp đẽ.
    sá: nên; bù trì: chăm sóc
    mựa: chớ
     
  7. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Tức sự 4

    Tráu sưa sưa hai cụm trúc,
    Chường tấp tấp một nồi hương.
    Vượn chim kết bạn nước non quạnh,
    Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường.
    Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,
    Áo bô quen cật vận xênh xang.
    Bốn dân, nghiệp có cao cùng thấp,
    Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng.

    Cước chú:
    tráu: bờ dậu, rào giậu bằng tre nứa
    sưa sưa: sơ sơ, lưa thưa
    chường: bàn thờ
    quạnh: vắng vẻ
    trường: dài
    hài cỏ: hài (dép) kết bằng cỏ
    áo bô: áo may bằng vài thô
    cật: lưng
    bốn dân: bốn loại cư dân theo quan niệm thời xưa, dịch chữ tứ dân, gồm: sĩ , nông , công , thương
    đều hết: tất cả đều
    làm tôi: làm bề tôi
     
  8. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    自戒 Tự giới

    Làm người thì chử đạo Trung Dung,
    Khắn khắn răn dỗ thửa lòng.
    Hết kính hết thìn bề tiến thoái,
    Mựa tham mựa dại nết anh hùng.
    Hùm oai muông mạnh còn nằm cũi,
    Khiếu hót chim khôn phải ở lồng.
    Nén lấy hung hăng bề huyết khí,
    Tai nàn chẳng phải, lại thung dung.

    Cước chú:
    chử: sống theo đạo lý nào đó. "chử: sửa mình, hối hận".
    Trung Dung: Trung Dung ghi: "Vui, giận, buồn , mừng khi chưa phát ra thì gọi là trung, phát ra rồi mà đúng dịp thì gọi là hoà. Trung ấy là nguồn gốc lớn của trời đất; hoà ấy là sự đạt đạo của thiên hạ. Đến cựng cực của trung hoà thì muôn vật được đúng ngôi vị của nó, mà vạn vật được nuôi dưỡng."
    khắn khắn: khẩn khẩn
    răn dỗ: răn dạy
    thửa: đứng trước danh từ (thửa lòng: tấc lòng, tấm lòng)
    kính, thìn: kính trọng, gìn giữ
    bề tiến thoái: việc tiến và lui, chỉ việc xuất và xử, hành và tàng, ra làm quan hay về ở ẩn.
    mựa: chớ
    muông mạnh: thú dữ
    nén: ghìm lại, kìm lại
    tai nàn: tai nạn
     
  9. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Bảo kính cảnh giới 1

    Đạo đức hiền lành được mọi phương,
    Tự nhiên cả muốn chúng suy nhường.
    Lợi tham hết lấy nhiều thì cạnh,
    Nghĩa phải đam cho ít chẳng phường.
    Sự thế sá phòng khi được trật,
    Lòng người tua đoán khuở mừng thương.
    "Chẳng nhàn" xưa chép lời truyền bảo,
    Khiến chử cho qua một đạo thường.

    Cước chú:
    chúng: mọi người, trong quần chúng
    cả muốn: rất muốn (rất, ở mức độ cao)
    suy nhường: suy tôn và kính nhường;
    cạnh: tranh, ganh đua
    đam: đem
    phường: phương, <từ cổ> phương hại, trở ngại.
    sá: đâu có
    phòng: dự tính trước mà chuẩn bị cách ứng phó.
    được trật: được mất
    tua: nên
    đoán: nhận định, xử đoán, phán đoán
    khiến: sai bảo
    chử: sống theo đạo lý nào đó
    qua: bỏ qua, vuột đi mất
     
    ThuyTrang, chiqudoll, Tiên Nhi1 người nữa thích bài này.
  10. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Bảo kính cảnh giới 2

    Bền đạo trung dung chẳng khuở tàng,
    Màng chi phú quý nhọc khoe khoang.
    Đông về tuyết muộn mai nhiều bạc,
    Thu nẻo tin truyền cúc có vàng.
    Kết bạn mựa quên người cố cựu,
    Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang.
    Nước đào giếng, cơm cày ruộng,
    Thảy thảy dường bằng nguyệt cửu giang.

    Cước chú:
    Trung Dung: Trung Dung ghi: "Vui, giận, buồn , mừng khi chưa phát ra thì gọi là trung, phát ra rồi mà đúng dịp thì gọi là hoà. Trung ấy là nguồn gốc lớn của trời đất; hoà ấy là sự đạt đạo của thiên hạ. Đến cựng cực của trung hoà thì muôn vật được đúng ngôi vị của nó, mà vạn vật được nuôi dưỡng."
    tàng: che lấp, che khuất.
    chẳng khuở tàng: chẳng bao giờ bị che lấp; ý nói: đạo lí tốt đẹp không bao giờ bị che khuất
    nhọc: nhọc nhằn, mỏi mệt
    khoe khoang: khoe mẽ
    bạc: Việt hoá của bạch (trắng)
    nẻo: khi, lúc
    tin truyền: tin tức truyền đi (nghe nói, nghe truyền)
    mựa: chớ
    cố cựu: vốn đã chơi với nhau từ
    yên hà: khói và ráng (thường trong buổi chiều)
    vợ tao khang: chỉ người vợ cùng trải qua khó khăn; nỡ phụ: hiểu là không nỡ phụ
    thảy thảy: tất thảy
    nguyệt cửu giang: trăng in trên chín con sông, dù ở sông nào thì cái bản thể của nó vẫn không thay đổi.
     
    ThuyTrang, chiqudollTiên Nhi thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...