Trần tình 4 Lộng lộng trời, tây chút đâu, Nào ai chẳng đội ở trên đầu? Song cửa ngọc vân yên cách, Dại lòng đan nhật nguyệt thâu. Chim đến cây cao chim nghĩ đỗ, Quạt hay thu lạnh quạt sơ thâu. Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế, Ắt đã tròn bằng nước ở bầu. tây:(tư) riêng, cá nhân, trái với công đâu: không hề, không; ý cả câu 1: trời lồng lộng, là chung của tất cả, không của riêng ai song cửa: cửa sổ ngọc vân: áng mây đẹp đan: đơn, chỉ có một. Cũng có thể tác giả chơi chữ đồng âm, vừa hàm ý chỉ "son, đỏ". thâu: xuyên qua, xuyên suốt, (bóng) thấu, hiểu thấu. nghĩ đỗ: nghĩ dịch từ chữ tự 自 (tự tại, tự mình, một mình mình), nghĩ đỗ: chim tự do đậu một mình trên cành sơ: hơi, mới bắt đầu, ban đầu ngoài: quá một ngưỡng tuổi chẵn ắt: hẳn, nhất định, dịch từ chữ tất 必, biểu thị ý khẳng định cấp độ cao.
Trần tình 5 Con cờ khảy, rượu đầy bầu, Đòi nước non chơi quản dầu. Đạp áng mây ôm bó củi, Ngồi bên suối gác cần câu. Giang san mắt thấy nên quen thuộc, Danh lợi lòng nào ước chác cầu. Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi, Rêu bụi bụi thấy tiên đâu. Cước chú: khảy: gảy, "khảy: lấy móng tay, đầu ngón tay mà đánh nhẹ nhẹ", chỉ việc đánh cờ đòi: nhiều quản: mặc, kệ dầu: như vậy lòng nào: ý phủ định - chẳng lòng nào chác cầu: chác: mua, cầu: tìm; tìm mua. Vương Chất 王質: người đời Tấn. Truyện kể, một hôm Vương Chất đi kiếm củi trên núi thạch thất, thấy hai vị đang đánh cờ bên bờ suối, bèn buông rìu đứng xem. Đứng một hồi, thì một vị ngẩng lên bảo Chất về nhà; Chất đứng dậy toan cầm rìu quay về thì thấy cán rìu đã mục, lưỡi rìu đã hoen rỉ hết cả. Đến khi về đến nhà, mới phát hiện ra là mọi thứ đã thay đổi. Không ai nhận ra ông; lần hỏi mãi mới biết là đã trải qua mấy trăm năm rồi.
Trần tình 6 Chèo lan nhàn bát khuở tà dương, Một phút qua đi một lạ dường. Ngàn nọ so miền Thái Thạch, Làng kia mỉa cảnh Tiêu Tương. Hàng chim ngủ khi thuyền đỗ, Vầng nguyệt lên khuở nước cường. Mạc được thú mầu trong khuở ấy, Thế gian hay một khách văn chương. Cước chú: chèo lan: dịch chữ lan tương trong cụm quế trạo lan tương 桂棹蘭槳 trong bài Thiếu Ti Mệnh phần Cửu ca sách Sở Từ. Bài này miêu tả người ẩn sĩ bơi chiếc thuyền con giữa sóng nước mênh mông để đi tìm một người đẹp lý tưởng (mỹ nhân)- đó là con người với những vẻ đẹp ưu trội bên trong. nhàn: vô sự, an tĩnh, hư không bát: chèo đi; thường nói về sự chèo ghe, khiến đi bên tay mặt, hay là bên mặt chèo mũi thì kêu là bát; khiến đi bên phía tay trái hay là bên cọc chèo bánh thì kêu là cạy khuở tà dương: lúc hoàng hôn dường: hư từ cuối câu, vô nghĩa ngàn: núi Thái Thạch: địa danh, theo truyền thuyết là nơi Lý Bạch uống rượu say, nhảy xuống sông bắt trăng mà chết. mỉa: giống, giống như, sánh với Tiêu Tương: địa danh đẹp mạc: hình dung ra mầu: kì diệu
Trần tình 7 Chén chăng lọ chuốc rượu la phù, Khách đến ngâm chơi miễn có câu. Lòng một tấc đan còn nhớ chúa, Tóc hai phần bạc bởi thương thu. Khó bền, mới phải người quân tử, Mình gắng, thì nên kẻ trượng phu. Cày ruộng cuốc vườn dầu hết khoẻ, Tôi Đường Ngu ở đất Đường Ngu. Cước chú: chén: cái chén, cốc chăng: phủ định từ lọ: đâu cần chuốc: rót rượu mời la phù: tên rượu, còn có tên gọi khác là la phù xuân câu: câu nói, câu chuyện đan: đỏ thương: động lòng, ái ngại cho, lưu tích còn trong từ thương xót. khó bền: gian khổ mà vẫn vững vàng, bền bỉ mới phải: mới là Đường Ngu: Đường Nghiêu (Đào Đường) và Nghiêu Thuấn (Hữu Ngu) hai đời vua thịnh trị theo quan niệm của nho gia.
Trần tình 8 Chớ cậy sang mà ép nè, Lời chăng phải vuỗn khôn nghe. Co que thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hoè. Hai chữ "công danh" chăng cảm cốc, Một trường ân oán những hăm he. Làm người mựa cậy khi quyền thế, Có khuở bàn cờ tốt đuổi xe. Cước chú: chăng: chẳng vuỗn: vẫn co que: quanh quẹo, lắt léo, không thẳng thay: từ biểu thị nhấn mạnh hơn nữa cảm xúc đang nói đến (như: độc ác thay, giỏi giang thay...) bấy: cảm thán từ (Nghĩa cả câu 3: lòng vòng, quanh co như ruột ốc) trái hòe: cây họ đậu, lá kép, hoa vàng, quả thắt lại từng quãng hình tràng hạt. chăng: chẳng cảm: nhận thấy, hiểu được, âm Việt hoá của chữ cảm giác cốc: hiểu, biết hăm he: ngăn cản và doạ dẫm mựa: chớ, không khuở: quãng, thời, lúc, thuở
Trần tình 9 Bảy tám mươi bằng một bát tay, Người sinh ở thế mới hèn thay. Lan Đình tiệc họp mây ảo, Kim Cốc vườn hoang dế cày. Nhật nguyệt soi đòi chốn hiện, Đông hè trải đã xưa hay. Ta còn lãng đãng làm chi nữa, Tượng có trời bày đặt vay! Cước chú: bát tay: gang tay hèn: nhỏ bé, hữu hạn, không đáng gì (ý nói cuộc đời ngắn ngủi, chỉ như một gang tay, sự sống trên đời thật chẳng đáng gì) Lan Đình: tên đình ở tây nam huyện thiệu hưng tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, nơi thư Pháp Gia nổi tiếng đời Tấn là Vương Hi Chi thường họp bạn khách bút mực văn chương để uống rượu ngâm thơ. mây ảo: đám mây phù du, hợp rồi tan biến vào hư ảo Kim Cốc: tên vườn trong biệt thự của Thạch Sùng - một phú gia đời Tây Tấn, phụ cận thành Lạc Dương. Trong vườn Kim Cốc, Thạch Sùng trồng cây san hô, đốt nến thay củi, giăng lụa là dài năm mươi dặm, hạt tiêu trát vách, đó là ngôi vườn xa hoa và danh tiếng thời bấy giờ. (Ý nói: những thứ dù lộng lẫy, hào hoa cuối cùng cũng chỉ còn là hư ảo, hoang tàn) đòi: nhiều hiện: hiển lộ, lộ ra, ló ra. lãng đãng: rong chơi khắp nơi, lang thang tượng: đại khái, ước chừng, đại để bày đặt: sắp xếp, an bài vay: thán từ cuối câu
Thuật hứng 1 Trúc mai bạn cũ họp nhau quen, Cửa mận tường đào chân ngại chen. Chơi nước chơi non đeo tích cũ, Qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn. Thì nghèo, sự biến nhiều bằng tóc, Nhà ngặt, quan thanh lạnh nữa đèn. Mùi thế đắng cay cùng mặn chát, Ít nhiều đã vấy một hai phen. Cước chú: trúc mai: cây trúc, cây mai - tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao của người quân tử họp: tụ lại, hợp lại cửa mận tường đào: chốn quan trường xa hoa nhiều thị phi, sát phạt đeo: mang tích: thói nghiện, niềm ham thích thì: thời, trong thời thế sự biến: sự việc thay đổi, sự cố chính trị ngặt: nghèo, khó khăn quan thanh: quan liêm khiết, sống thanh nhàn, không ô trọc nữa: hơn, lưu tích còn trong hơn nữa đèn: đồ thắp sáng vấy: dính vào, bết vào
Thuật hứng 2 Có thân thì cốc khá làm sao, Lảng bảng công hư, tuổi tác nào. Người ảo hoá khoe thân ảo hoá, Khuở chiêm bao thốt sự chiêm bao. Rừng thiền ắt thấy, nên đầm ấm, Đường thế nào nề, chẳng thấp cao. Ai rặng mai hoa thanh hết tấc, Lại chăng được chép khúc "ly tao". Cước chú: cốc: hiểu, biết, trong giác ngộ. khá: có thể, (khả năng) công hư: công sức bỏ uổng ảo hóa: biến ảo, chỉ vạn vật không có thực tính khuở: khoảng, thời thốt (thuyết): nói thiền: an định, lối tu của nhà Phật nào nề: không nệ ly tao: tên tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Khuất Nguyên.
Thuật hứng 3 Một cày một cuốc, thú nhà quê, Áng cúc lan xen vãi đậu kê. Khách đến chim mừng hoa xảy rụng, Chè tiên nước kín nguyệt đeo về. Bá Di người rặng thanh là thú, Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề. Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp, Cầu ai khen miễn lệ ai chê. Cước chú: Áng: đám, khóm cây Xảy: bỗng, chợt nước kín (có bán chép là nước nghín ) : Gánh nước Bá Di: cùng Thúc Tề là hai người con nước vua cô trúc triều nhà Thương. Sau khi vua nước cô trúc chết, hai người nhường ngôi cho nhau. Sau khi chu Vũ Vương diệt nhà Thương, cả hai đều đi ở ẩn, vì không muốn hạ mình ăn thóc nhà Chu, hái rau vi ăn chống đói, sau chết trong núi thủ dương. Nhan Tử: học trò Khổng Tử, nhà nghèo nhưng thông minh, nhanh nhẹn, hiếu học, chuộng Lễ; mất sớm - khi mới 31 tuổi. rặng: nói rằng ngặt: khó khăn, ngặt nghèo lề: lề lối, lề thói quản: mặc kệ Cầu.. lệ: nghĩa trong văn cảnh bài thơ không cần, không sợ.
Thuật hứng 4 Văn này gẫm thấy mới thon von, Thương hải hay khao, thiết thạch mòn. Chí cũ ta liều nhiều sự hóc, Người xưa sử chép thảy ai còn. Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc, Nước chảy âu khôn xiết bóng non. Song viết lại toan nào của tích, Bạc mai vàng cúc để cho con. Cước chú: văn này: chỉ lễ nhạc, pháp độ, giáo hoá hay đạo Nho nói chung. thon von: cheo leo, nguy hiểm, gian nan thương hải: biển xanh, nói tắt từ câu thương hải tang điền hay: có thể khao: khô thiết thạch: sắt và đá liều: liệu, liệu lượng, lường hóc: gập ghềnh, không suôn sẻ; lưu tích còn trong hiểm hóc thảy: tất cả há dễ: đâu dễ thâu lòng trúc: thấu hiểu được lòng trúc âu: lẽ nào, có lẽ khôn: khó có thể xiết: làm trôi đi song viết: của cải, tư nghiệp, cuộc sống toan: tính toán, lo toan của tích: của cải tích trữ Bạc mai vàng cúc: nghĩa tượng trưng: để lại cho con mai - cúc (cái đẹp, cái thanh cao) quý như bạc vàng.