Chương 10
Tôi trở nên thân thiết hơn với Larsen Sói, nếu từ thân thiết bao gồm được tính cả với mối quan hệ giữa ông chủ và kẻ hầu, hay, nói đúng hơn, giữa vị vua và gã hề. Tôi chỉ là món đồ chơi của ông ta, ông ta coi trọng tôi như đứa trẻ coi trọng một món đồ chơi. Nhiệm vụ của tôi là mua vui, chừng nào tôi còn khiến ông ta vui thì mọi sự đều tốt đẹp; nhưng nếu để ông ta chán, hoặc để ông ta mắc phải một trong những cảm xúc tồi tệ, thì tôi sẽ bị đày từ bàn cabin về bếp, và đồng thời, tôi cũng được ban ơn may mắn thoát đi với tính mạng và thân thể nguyên vẹn.
Sự cô đơn của người đàn ông này cũng dần bị đổ hết lên tôi. Trên thuyền không có ai là không ghét hay sợ ông ta, cũng không có ai ông ta không khinh bỉ. Ông ta hấp thụ nguồn sức mạnh lớn lao trong mình, nhưng dường như không bao giờ tìm được nhiệm vụ xứng đáng để trút nó ra. Ông ta giống Lucifer, linh hồn cao ngạo bị đày đọa trong một xã hội toàn những bóng ma Tomlinson vô hồn.
Riêng sự cô đơn này đã đủ tệ, ông ta còn bị đày đọa bởi sự u sầu nguyên thủy của giống loài. Nhờ biết đến ông ta, tôi mới có thể hiểu rõ hơn về thần thoại Bắc Âu cổ xưa. Những kẻ man rợ da trắng, tóc nhạt màu đã xây nên những đền thờ đáng sợ có chung bản chất với ông ta. Chất mơ mộng từ dòng máu Latin yêu cười chẳng tồn tại trong ông. Khi ông ta cười, đó là vì một trò đùa chẳng có gì ngoài sự hung tợn. Nhưng ông ta hiếm khi cười; ông ta thường buồn bã. Đó là sự buồn bã sâu xa tựa cội rễ của giống loài. Đó là di sản giống loài, là nỗi buồn đã tạo nên phần trí não tỉnh tảo, thanh thản và đầy đạo đức.
Trên thực tế, nỗi u sầu nguyên thủy đó phần lớn đã trở thành tôn giáo trong những hình thức buồn khổ hơn của nó. Nhưng sự chở che của tôn giáo bị Larsen Sói từ chối. Chủ nghĩa duy vật hung hăng của ông ta không cho phép điều đó. Thế nên, khi ông ta buồn khổ, ông ta chẳng còn lại gì ngoài sự ác độc. Nếu ông ta không phải là người quá đỗi khủng khiếp, hẳn đôi lúc tôi sẽ xót thương ông, như vào một buổi sáng nọ, tôi tới phòng riêng của ông ta để đổ đầy bình nước và tình cờ thấy ông ta. Ông ta không thấy tôi. Ông vùi đầu vào tay, đôi vai co giật như đang khóc. Ông ta đang bị cào xé bởi nỗi buồn khủng khiếp.
Khi nhẹ chân bước ra, tôi nghe thấy ông ta rên rỉ, "Chúa ơi! Chúa! Chúa ơi!" Đó không phải lời kêu gọi chúa, mà chỉ là một lời nguyền rủa, xuất phát từ tận tâm hồn.
Vào bữa tối, ông ta hỏi đám thợ săn cách chữa bệnh nhức đầu, tới đêm, người đàn ông mạnh mẽ đó như thể đã mù dở, loạng choạng về cabin.
"Cả đời tôi chưa bao giờ ốm, Hump ạ," ông ta nói, khi tôi đỡ ông ta về phòng.
"Tôi cũng chưa bao giờ đau đầu, trừ lần toác mười lăm phân trên đầu vì một cái trục tời." Cơn đau đầu quáng mắt này kéo dài ba ngày, ông ta vật vã như loài thú hoang, như cách người ta chịu đựng đau đớn trên con tàu này, không kêu ca, không thương cảm, hoàn toàn cô độc.
Tuy nhiên, vào sáng nay, khi tôi tiếng vào phòng riêng của ông ta để dọn giường và lau chùi, tôi thấy ông ta đã khỏe và vùi đầu làm việc. Bàn và giường được phủ kín những bản thiết kế và phép tính. Với một tờ giấy trong lớn, la bàn và thước vuông trên tay, ông ta đang chép lại theo một mô hình hay cái gì đó khác.
"Chào, Hump!" Ông ta hào hứng chào đón tôi. "Tôi vừa hoàn thành những bước cuối cùng. Muốn xem thành quả không?"
"Nhưng nó là gì?" Tôi hỏi.
"Một thiết bị tiết kiệm sức lao động cho người đi biển, phương pháp định hướng dễ hiểu với trình độ mẫu giáo," ông ta hóm hỉnh đáp. "Từ hôm nay, một đứa trẻ cũng sẽ biết cách định hướng cho tàu. Không cần những phép tính dài dòng nữa. Tất cả những gì anh cần là một ngôi sao trên bầu trời âm u để biết mình đang ở đâu. Nhìn đi. Tôi đặt tấm bảng chia tọa độ trong lên bản đồ sao, xoay tọa độ tới Bắc Cực. Nhờ bảng chia tọa độ, tôi sẽ biết được độ cao cung vòng và các đường phương vị. Tất cả những gì tôi cần làm là đặt bảng chia lên một ngôi sao, xoay bảng tới khi nó trùng với những điểm trên bản đồ bên dưới, thế là ngay lập tức, anh sẽ có vị trí chính xác của con tàu!" Giọng ông ta như lẫn tiếng ngân vang của bài ca chiến thắng, đôi mắt sáng hôm nay mang màu xanh trong như mặt biết, lấp lánh ánh sáng.
"Hẳn ông rất giỏi toán," tôi nói. "Ông đi học ở đâu vậy?"
"Chưa bao giờ thấy bên trong ngôi trường nào hết, xui xẻo thay," là câu trả lời. "Tôi đã phải tự tìm tòi. Anh nghĩ tại sao tôi lại làm ra thứ này?" Ông ta đột ngột yêu cầu.
"Mong để lại dấu chân trên dòng cát thời gian?"
Ông ta phá lên một trong những nụ cười khinh bỉ khủng khiếp nhất. "Không hề. Để được bằng sáng chế, để kiếm ra tiền, để chìm đắm trong tham lam, trong khi những kẻ khác vẫn làm việc hằng đêm. Đó là mục đích của tôi. Ngoài ra, tôi cũng thích làm việc này."
"Niềm vui sáng tạo," tôi lẩm bẩm.
"Tôi đoán đó là cách gọi nên được sử dụng. Một cách khác để thể hiện niềm vui của sự sống vẫn đang sống, sự thành công khi vượt qua khó khăn, niềm vui của kẻ nhanh chân thoát chết, niềm tự hào của con men có được vì nó là men và nó chuyển động."
Tôi giơ hai tay lên bất lực, không thể phản đối chủ nghĩa duy vật vô nhân tính của ông ta, và bắt đầu dọn giường. Ông ta tiếp tục chép lại những đường và điểm trên bảng chia tọa độ bằng giấy trong. Đó là công việc đòi hỏi sự tinh tế và chính xác tối đa, tôi chỉ biết ngưỡng mộ cái cách ông ta kiềm giữ sức mạnh của mình khi cần sự cẩn thận và chuẩn xác.
Khi dọn giường xong, tôi nhận ra mình đang say mê nhìn ông ta. Rõ ràng ông ta là một người đàn ông quyến rũ – với nét đẹp của những đường nét nam tính.
Một lần nữa, với sự ngạc nhiên chưa bao giờ nguôi, tôi nhận ra sự độc ác, hay gian trá, hoặc tội lỗi không hề tồn tại trên mặt ông ta. Tôi tin rằng đây chính là gương mặt của một người không hề làm gì sai trái. Và vì thế, tôi ước mình không lầm. Điều tôi muốn nói là gương mặt ông ta là của một người không hề làm gì sai trái trước lương tâm mình, hoặc của một người không hề có lương tâm. Tôi từ chối nghĩ theo cách thứ hai. Ông ta là một tạo vật hấp dẫn, một người đàn ông nguyên thủy như thể tới từ thế giới chưa có sự phát triển của khái niệm đạo đức. Ông ta không bất tử, lại vô đạo.
Như tôi đã nói, những nét nam tính của ông ta tạo nên một gương mặt đẹp. Ông ta mày râu nhẵn nhụi, mọi đường nét đều khác biệt, được cắt gọt sắc cạnh như chạm khắc; biển cả và mặt trời đã hun cháy làn da trắng nguyên bản thành màu đồng sậm vốn được tạo ra cho những cuộc chiến, tăng thêm vẻ tàn bạo và đẹp đẽ của ông ta. Đôi môi dày, chất chứa sự cứng rắn gần như khắc nghiệt thường thấy ở người môi mỏng hơn. Đường nét miệng, cằm, quai hàm cũng vừa cứng rắn vừa khắc nghiệt, với tất cả những nét dữ dội và cương quyết của đàn ông; mũi cũng vậy. Đó là cái mũi được sinh ra để chinh phục và chỉ huy. Nó gợi lên hình ảnh mỏ đại bàng. Hẳn nó vốn là của người Hi Lạp, cũng có thể là La Mã, nhưng dáng vừa quá lớn hoặc quá tinh tế để là một trong hai. Dù gương mặt ông ta là hiện thân của sự dữ dội và sức mạnh, nỗi u sầu nguyên thủy ông ta gánh chịu càng làm đậm thêm những đường nét ở miệng, mắt và lông mày, tạo nên sự vĩ đại và toàn vẹn mà thiếu nó sẽ thành không đầy đủ.
Thế rồi tôi phát hiện ra rằng mình đang đứng ngẩn ngơ nghiên cứu ông ta. Tôi không thể nói rõ người đàn ông này đã hấp dẫn tôi như thế nào. Ông ta là ai? Ông ta là thứ gì? Sao ông ta lại trở nên giống như bây giờ? Dường như ông ta có tất cả mọi nguồn sức mạnh, tất cả mọi tiềm năng; thế thì tại sao ông ta lại ở đây, chỉ là chủ nhân vô danh của một con tàu buồn săn hải cẩu, nổi danh với những kẻ săn hải cẩu khác về tính hung bạo đáng sợ? Sự tò mò trỗi dậy trong tôi dâng lên thành lời nói:
Tại sao ông không làm gây dựng nên những điều vĩ đại trên thế giới này? Với sức mạnh của mình ông có thể vươn lên bất cứ tầm cao nào. Vì không có lương tâm hay bản năng đạo đức, ông có thể làm chủ cả thế giới, bóp nát nó trong tay mình. Nhưng ông lại ở đây vào những năm tháng đỉnh cao của cuộc đời, bắt đầu bước sang sườn dốc đổ vể già nua và cái chết, sống tủi nhục chỉ để săn những con thú biển nhằm thỏa mãn ham muốn hư vinh và lòng ham trang điểm của phụ nữ, vẫy vùng trong lòng tham, như chính lời ông nói, khi xung quanh chẳng có bất cứ thứ thì đẹp đẽ. Tại sao? Với tất cả khả năng của ông, sao không làm điều gì hết? Chẳng điều gì có thể ngăn chân ông cả, chẳng điều gì có thể cản ông cả. Tại sao chứ? Ông thiếu dã tâm sao? Hay không thấy sự cám dỗ? Vấn đề nằm ở đâu?
"Vấn đề nằm ở đâu à?" Ông ta đưa mắt nhìn khi tôi bắt đầu bùng nổ và vẫn theo dõi tới khi tôi ngậm miệng và đứng trước ông ta nín thở và lo lắng. Ông ta đợi một lát, như để tìm cách bắt đầu, rồi nói: "Hump, anh có biết ngụ ngôn của những người gieo hạt không? Nếu anh nhớ, thì một số hạt giống sẽ rơi xuống đá sỏi nơi chẳng có mấy đất, chúng sẽ nảy lên vì chẳng được đón đỡ bằng lớp đất sâu. Khi mặt trời lên, chúng bị nướng cháy, và vì không có rễ nên chúng phải khô héo. Một số hạt rơi vào gai, gai sẽ vươn ra, giữ chúng lại."
"Thì sao?" Tôi nói.
"Thì sao à?" Ông ta hỏi lại, có phần hăng hái. "Thì không tốt thôi. Tôi là một trong những hạt giống đó." Ông ta chúi đầu vào bảng chia tọa độ, tiếp tục việc sao chép. Tôi hoàn thành công việc của mình, và ngay lúc tôi mở cửa để ra ngoài, ông ta nói với tôi.
"Hump, nếu anh nhìn về phía bờ biển phía tây bản đồ Na Uy, anh sẽ thấy một vết lõm gọi là Romsdal Fiord. Tôi được sinh ra trong vòng một trăm dặm nước cách nơi đó. Nhưng tôi không phải người Na Uy. Tôi là người Đan Mạch. Cha mẹ tôi là người Đan Mạch, tôi không hề biết họ đã làm thế nào để đến được vùng đất ngập nước trên bờ biển phía tây đó. Tôi chưa từng được kể. Chẳng còn gì bí ẩn hết. Họ là những người nghèo khó và mù chữ. Tổ tiên họ nghèo khó, mù chữ – những người lao động nghèo trên biển gieo con trai mình lên những con sóng theo tục lệ từ thủa sơ khai. Chẳng còn gì để kể."
"Vậy mà có đấy," tôi phản đối. "Tôi vẫn thấy khó hiểu."
"Tôi có thể nói gì cho anh nữa," ông ta yêu cầu, sự hung dữ lại sống dậy, "về cuộc sống thiếu thốn của một đứa trẻ – chỉ biết ăn cá, sống đời thô lỗ; về những chuyến đi biển từ khi mới biết bò; về các anh em tôi, từng người một ra khơi để kiếm sống trên biển sâu và không bao giờ trở lại; hay về chính tôi, không biết đọc, không biết viết, một thằng nhóc bồi tàu từ thủa lên mười trên các con tàu cũ ven biển; về đồng tiền công rẻ mạt và cách đối xử tàn tệ, giường ngủ và bữa sáng là những cú đá đấm thay cho lời nói, về sự sợ hãi, căm ghét và đau đớn là tất cả những gì linh hồn tôi biết đến? Tôi không muốn nhớ. Chỉ cần nghĩ tới thôi, sự điên rồ đã tuôn ra trong não tôi rồi. Nhưng có những tay thuyền trưởng vùng ven biển đó, những kẻ tôi quyết sẽ tìm và giết khi sức mạnh của người trưởng thành tới với tôi, có điều sợi chỉ vận mệnh ném tôi tới nơi khác vào lúc đó. Tôi đã trở lại, không lâu sau đó, nhưng đáng tiếc, những gã thuyền trưởng đó đều đã chết, tất cả chỉ trừ tay thuyền phó ngày xưa, đã trở thành thuyền trưởng khi gặp lại tôi. Tới khi tôi rời đi, gã chỉ là kẻ tàn tật không bao giờ đi lại được nữa."
"Nhưng ông đọc Spencer và Darwin, lại chưa bao giờ vào trong một ngôi trường, làm thế nào ông học đọc và viết?" Tôi hỏi.
"Thuyền dịch vụ thương mại của người Anh. Bồi tàu năm mười hai, mười bốn làm phục vụ viên, thuyền viên thường năm mười sáu, thuyền viên đủ tư cách và là thủ lĩnh của boong trước năm mười bảy; tràn đầy tham vọng và cô đơn vô tận, chẳng hề biết đến sự giúp đỡ hay đồng cảm, tôi đã tự mình học tất cả – định hướng, toán, khoa học, văn học, chẳng chừa thứ gì. Thành quả thế nào ư? Điều khiển và làm chủ một con tàu khi đang ở đỉnh dốc cuộc đời, như anh đã nói, khi tôi bắt đầu già yếu và sẽ chết. Đánh khinh, đúng chứ? Khi mặt trời lên, tôi sẽ bị nướng cháy, vì tôi không có gốc rễ, nên tôi héo tàn."
"Nhưng lịch sử vẫn kể về những người nô lệ nổi dậy chống vua chúa," tôi gắt.
"Lịch sử cũng kể về những gì đã xảy tới với đám nô lệ nổi dậy chống vua chúa," ông ta dữ dằn nói. "Không kẻ nào có cơ hội sống. Tất cả những con người vĩ đại ấy chỉ cần hiểu khi nào thời cơ đến. Những người Corsica biết đấy. Tôi đã mơ mộng tới những điều vĩ đại như người Corsica. Đúng ra tôi phải biết về thời cơ, nhưng nó không bao giờ đến. Những cái gai vươn ra và giữ tôi lại. Hump à, tôi có thể nói rằng anh hiểu tôi còn nhiều hơn bất cứ người sống nào, trừ anh của tôi."
"Ông ta là ai? Ông ta ở đâu?"
"Chủ tàu hơi nước Macedonia, tàu săn hải cẩu," ông đáp. "Chúng ta hẳn sẽ gặp gã ở bờ biển Nhật. Người tôi gọi gã là Larsen" Tử Thần "."
"Larsen Tử Thần!" Tôi vô thức thốt lên, "Ông ta có giống ông không?"
"Không hề. Gã là cục thịt của xác thú không đầu. So với tôi, gã có tất cả sự.. sự.."
"Hung bạo," tôi đoán dò.
"Đúng thế, cám ơn vì từ đó. Gã có tất cả sự hung bạo của ta; nhưng gã hầu như không biết đọc hay viết."
"Và gã chẳng bao giờ triết lí về cuộc sống," tôi bổ sung.
"Không hề," Larsen Sói trả lời, với nỗi buồn thăm thẳm. "Gã vui vẻ hơn nhiều khi sống đời đơn độc. Gã quá bận rộn sống để mà bận tâm suy nghĩ. Sai lầm của đời tôi là mở sách ra."
Sự cô đơn của người đàn ông này cũng dần bị đổ hết lên tôi. Trên thuyền không có ai là không ghét hay sợ ông ta, cũng không có ai ông ta không khinh bỉ. Ông ta hấp thụ nguồn sức mạnh lớn lao trong mình, nhưng dường như không bao giờ tìm được nhiệm vụ xứng đáng để trút nó ra. Ông ta giống Lucifer, linh hồn cao ngạo bị đày đọa trong một xã hội toàn những bóng ma Tomlinson vô hồn.
Riêng sự cô đơn này đã đủ tệ, ông ta còn bị đày đọa bởi sự u sầu nguyên thủy của giống loài. Nhờ biết đến ông ta, tôi mới có thể hiểu rõ hơn về thần thoại Bắc Âu cổ xưa. Những kẻ man rợ da trắng, tóc nhạt màu đã xây nên những đền thờ đáng sợ có chung bản chất với ông ta. Chất mơ mộng từ dòng máu Latin yêu cười chẳng tồn tại trong ông. Khi ông ta cười, đó là vì một trò đùa chẳng có gì ngoài sự hung tợn. Nhưng ông ta hiếm khi cười; ông ta thường buồn bã. Đó là sự buồn bã sâu xa tựa cội rễ của giống loài. Đó là di sản giống loài, là nỗi buồn đã tạo nên phần trí não tỉnh tảo, thanh thản và đầy đạo đức.
Trên thực tế, nỗi u sầu nguyên thủy đó phần lớn đã trở thành tôn giáo trong những hình thức buồn khổ hơn của nó. Nhưng sự chở che của tôn giáo bị Larsen Sói từ chối. Chủ nghĩa duy vật hung hăng của ông ta không cho phép điều đó. Thế nên, khi ông ta buồn khổ, ông ta chẳng còn lại gì ngoài sự ác độc. Nếu ông ta không phải là người quá đỗi khủng khiếp, hẳn đôi lúc tôi sẽ xót thương ông, như vào một buổi sáng nọ, tôi tới phòng riêng của ông ta để đổ đầy bình nước và tình cờ thấy ông ta. Ông ta không thấy tôi. Ông vùi đầu vào tay, đôi vai co giật như đang khóc. Ông ta đang bị cào xé bởi nỗi buồn khủng khiếp.
Khi nhẹ chân bước ra, tôi nghe thấy ông ta rên rỉ, "Chúa ơi! Chúa! Chúa ơi!" Đó không phải lời kêu gọi chúa, mà chỉ là một lời nguyền rủa, xuất phát từ tận tâm hồn.
Vào bữa tối, ông ta hỏi đám thợ săn cách chữa bệnh nhức đầu, tới đêm, người đàn ông mạnh mẽ đó như thể đã mù dở, loạng choạng về cabin.
"Cả đời tôi chưa bao giờ ốm, Hump ạ," ông ta nói, khi tôi đỡ ông ta về phòng.
"Tôi cũng chưa bao giờ đau đầu, trừ lần toác mười lăm phân trên đầu vì một cái trục tời." Cơn đau đầu quáng mắt này kéo dài ba ngày, ông ta vật vã như loài thú hoang, như cách người ta chịu đựng đau đớn trên con tàu này, không kêu ca, không thương cảm, hoàn toàn cô độc.
Tuy nhiên, vào sáng nay, khi tôi tiếng vào phòng riêng của ông ta để dọn giường và lau chùi, tôi thấy ông ta đã khỏe và vùi đầu làm việc. Bàn và giường được phủ kín những bản thiết kế và phép tính. Với một tờ giấy trong lớn, la bàn và thước vuông trên tay, ông ta đang chép lại theo một mô hình hay cái gì đó khác.
"Chào, Hump!" Ông ta hào hứng chào đón tôi. "Tôi vừa hoàn thành những bước cuối cùng. Muốn xem thành quả không?"
"Nhưng nó là gì?" Tôi hỏi.
"Một thiết bị tiết kiệm sức lao động cho người đi biển, phương pháp định hướng dễ hiểu với trình độ mẫu giáo," ông ta hóm hỉnh đáp. "Từ hôm nay, một đứa trẻ cũng sẽ biết cách định hướng cho tàu. Không cần những phép tính dài dòng nữa. Tất cả những gì anh cần là một ngôi sao trên bầu trời âm u để biết mình đang ở đâu. Nhìn đi. Tôi đặt tấm bảng chia tọa độ trong lên bản đồ sao, xoay tọa độ tới Bắc Cực. Nhờ bảng chia tọa độ, tôi sẽ biết được độ cao cung vòng và các đường phương vị. Tất cả những gì tôi cần làm là đặt bảng chia lên một ngôi sao, xoay bảng tới khi nó trùng với những điểm trên bản đồ bên dưới, thế là ngay lập tức, anh sẽ có vị trí chính xác của con tàu!" Giọng ông ta như lẫn tiếng ngân vang của bài ca chiến thắng, đôi mắt sáng hôm nay mang màu xanh trong như mặt biết, lấp lánh ánh sáng.
"Hẳn ông rất giỏi toán," tôi nói. "Ông đi học ở đâu vậy?"
"Chưa bao giờ thấy bên trong ngôi trường nào hết, xui xẻo thay," là câu trả lời. "Tôi đã phải tự tìm tòi. Anh nghĩ tại sao tôi lại làm ra thứ này?" Ông ta đột ngột yêu cầu.
"Mong để lại dấu chân trên dòng cát thời gian?"
Ông ta phá lên một trong những nụ cười khinh bỉ khủng khiếp nhất. "Không hề. Để được bằng sáng chế, để kiếm ra tiền, để chìm đắm trong tham lam, trong khi những kẻ khác vẫn làm việc hằng đêm. Đó là mục đích của tôi. Ngoài ra, tôi cũng thích làm việc này."
"Niềm vui sáng tạo," tôi lẩm bẩm.
"Tôi đoán đó là cách gọi nên được sử dụng. Một cách khác để thể hiện niềm vui của sự sống vẫn đang sống, sự thành công khi vượt qua khó khăn, niềm vui của kẻ nhanh chân thoát chết, niềm tự hào của con men có được vì nó là men và nó chuyển động."
Tôi giơ hai tay lên bất lực, không thể phản đối chủ nghĩa duy vật vô nhân tính của ông ta, và bắt đầu dọn giường. Ông ta tiếp tục chép lại những đường và điểm trên bảng chia tọa độ bằng giấy trong. Đó là công việc đòi hỏi sự tinh tế và chính xác tối đa, tôi chỉ biết ngưỡng mộ cái cách ông ta kiềm giữ sức mạnh của mình khi cần sự cẩn thận và chuẩn xác.
Khi dọn giường xong, tôi nhận ra mình đang say mê nhìn ông ta. Rõ ràng ông ta là một người đàn ông quyến rũ – với nét đẹp của những đường nét nam tính.
Một lần nữa, với sự ngạc nhiên chưa bao giờ nguôi, tôi nhận ra sự độc ác, hay gian trá, hoặc tội lỗi không hề tồn tại trên mặt ông ta. Tôi tin rằng đây chính là gương mặt của một người không hề làm gì sai trái. Và vì thế, tôi ước mình không lầm. Điều tôi muốn nói là gương mặt ông ta là của một người không hề làm gì sai trái trước lương tâm mình, hoặc của một người không hề có lương tâm. Tôi từ chối nghĩ theo cách thứ hai. Ông ta là một tạo vật hấp dẫn, một người đàn ông nguyên thủy như thể tới từ thế giới chưa có sự phát triển của khái niệm đạo đức. Ông ta không bất tử, lại vô đạo.
Như tôi đã nói, những nét nam tính của ông ta tạo nên một gương mặt đẹp. Ông ta mày râu nhẵn nhụi, mọi đường nét đều khác biệt, được cắt gọt sắc cạnh như chạm khắc; biển cả và mặt trời đã hun cháy làn da trắng nguyên bản thành màu đồng sậm vốn được tạo ra cho những cuộc chiến, tăng thêm vẻ tàn bạo và đẹp đẽ của ông ta. Đôi môi dày, chất chứa sự cứng rắn gần như khắc nghiệt thường thấy ở người môi mỏng hơn. Đường nét miệng, cằm, quai hàm cũng vừa cứng rắn vừa khắc nghiệt, với tất cả những nét dữ dội và cương quyết của đàn ông; mũi cũng vậy. Đó là cái mũi được sinh ra để chinh phục và chỉ huy. Nó gợi lên hình ảnh mỏ đại bàng. Hẳn nó vốn là của người Hi Lạp, cũng có thể là La Mã, nhưng dáng vừa quá lớn hoặc quá tinh tế để là một trong hai. Dù gương mặt ông ta là hiện thân của sự dữ dội và sức mạnh, nỗi u sầu nguyên thủy ông ta gánh chịu càng làm đậm thêm những đường nét ở miệng, mắt và lông mày, tạo nên sự vĩ đại và toàn vẹn mà thiếu nó sẽ thành không đầy đủ.
Thế rồi tôi phát hiện ra rằng mình đang đứng ngẩn ngơ nghiên cứu ông ta. Tôi không thể nói rõ người đàn ông này đã hấp dẫn tôi như thế nào. Ông ta là ai? Ông ta là thứ gì? Sao ông ta lại trở nên giống như bây giờ? Dường như ông ta có tất cả mọi nguồn sức mạnh, tất cả mọi tiềm năng; thế thì tại sao ông ta lại ở đây, chỉ là chủ nhân vô danh của một con tàu buồn săn hải cẩu, nổi danh với những kẻ săn hải cẩu khác về tính hung bạo đáng sợ? Sự tò mò trỗi dậy trong tôi dâng lên thành lời nói:
Tại sao ông không làm gây dựng nên những điều vĩ đại trên thế giới này? Với sức mạnh của mình ông có thể vươn lên bất cứ tầm cao nào. Vì không có lương tâm hay bản năng đạo đức, ông có thể làm chủ cả thế giới, bóp nát nó trong tay mình. Nhưng ông lại ở đây vào những năm tháng đỉnh cao của cuộc đời, bắt đầu bước sang sườn dốc đổ vể già nua và cái chết, sống tủi nhục chỉ để săn những con thú biển nhằm thỏa mãn ham muốn hư vinh và lòng ham trang điểm của phụ nữ, vẫy vùng trong lòng tham, như chính lời ông nói, khi xung quanh chẳng có bất cứ thứ thì đẹp đẽ. Tại sao? Với tất cả khả năng của ông, sao không làm điều gì hết? Chẳng điều gì có thể ngăn chân ông cả, chẳng điều gì có thể cản ông cả. Tại sao chứ? Ông thiếu dã tâm sao? Hay không thấy sự cám dỗ? Vấn đề nằm ở đâu?
"Vấn đề nằm ở đâu à?" Ông ta đưa mắt nhìn khi tôi bắt đầu bùng nổ và vẫn theo dõi tới khi tôi ngậm miệng và đứng trước ông ta nín thở và lo lắng. Ông ta đợi một lát, như để tìm cách bắt đầu, rồi nói: "Hump, anh có biết ngụ ngôn của những người gieo hạt không? Nếu anh nhớ, thì một số hạt giống sẽ rơi xuống đá sỏi nơi chẳng có mấy đất, chúng sẽ nảy lên vì chẳng được đón đỡ bằng lớp đất sâu. Khi mặt trời lên, chúng bị nướng cháy, và vì không có rễ nên chúng phải khô héo. Một số hạt rơi vào gai, gai sẽ vươn ra, giữ chúng lại."
"Thì sao?" Tôi nói.
"Thì sao à?" Ông ta hỏi lại, có phần hăng hái. "Thì không tốt thôi. Tôi là một trong những hạt giống đó." Ông ta chúi đầu vào bảng chia tọa độ, tiếp tục việc sao chép. Tôi hoàn thành công việc của mình, và ngay lúc tôi mở cửa để ra ngoài, ông ta nói với tôi.
"Hump, nếu anh nhìn về phía bờ biển phía tây bản đồ Na Uy, anh sẽ thấy một vết lõm gọi là Romsdal Fiord. Tôi được sinh ra trong vòng một trăm dặm nước cách nơi đó. Nhưng tôi không phải người Na Uy. Tôi là người Đan Mạch. Cha mẹ tôi là người Đan Mạch, tôi không hề biết họ đã làm thế nào để đến được vùng đất ngập nước trên bờ biển phía tây đó. Tôi chưa từng được kể. Chẳng còn gì bí ẩn hết. Họ là những người nghèo khó và mù chữ. Tổ tiên họ nghèo khó, mù chữ – những người lao động nghèo trên biển gieo con trai mình lên những con sóng theo tục lệ từ thủa sơ khai. Chẳng còn gì để kể."
"Vậy mà có đấy," tôi phản đối. "Tôi vẫn thấy khó hiểu."
"Tôi có thể nói gì cho anh nữa," ông ta yêu cầu, sự hung dữ lại sống dậy, "về cuộc sống thiếu thốn của một đứa trẻ – chỉ biết ăn cá, sống đời thô lỗ; về những chuyến đi biển từ khi mới biết bò; về các anh em tôi, từng người một ra khơi để kiếm sống trên biển sâu và không bao giờ trở lại; hay về chính tôi, không biết đọc, không biết viết, một thằng nhóc bồi tàu từ thủa lên mười trên các con tàu cũ ven biển; về đồng tiền công rẻ mạt và cách đối xử tàn tệ, giường ngủ và bữa sáng là những cú đá đấm thay cho lời nói, về sự sợ hãi, căm ghét và đau đớn là tất cả những gì linh hồn tôi biết đến? Tôi không muốn nhớ. Chỉ cần nghĩ tới thôi, sự điên rồ đã tuôn ra trong não tôi rồi. Nhưng có những tay thuyền trưởng vùng ven biển đó, những kẻ tôi quyết sẽ tìm và giết khi sức mạnh của người trưởng thành tới với tôi, có điều sợi chỉ vận mệnh ném tôi tới nơi khác vào lúc đó. Tôi đã trở lại, không lâu sau đó, nhưng đáng tiếc, những gã thuyền trưởng đó đều đã chết, tất cả chỉ trừ tay thuyền phó ngày xưa, đã trở thành thuyền trưởng khi gặp lại tôi. Tới khi tôi rời đi, gã chỉ là kẻ tàn tật không bao giờ đi lại được nữa."
"Nhưng ông đọc Spencer và Darwin, lại chưa bao giờ vào trong một ngôi trường, làm thế nào ông học đọc và viết?" Tôi hỏi.
"Thuyền dịch vụ thương mại của người Anh. Bồi tàu năm mười hai, mười bốn làm phục vụ viên, thuyền viên thường năm mười sáu, thuyền viên đủ tư cách và là thủ lĩnh của boong trước năm mười bảy; tràn đầy tham vọng và cô đơn vô tận, chẳng hề biết đến sự giúp đỡ hay đồng cảm, tôi đã tự mình học tất cả – định hướng, toán, khoa học, văn học, chẳng chừa thứ gì. Thành quả thế nào ư? Điều khiển và làm chủ một con tàu khi đang ở đỉnh dốc cuộc đời, như anh đã nói, khi tôi bắt đầu già yếu và sẽ chết. Đánh khinh, đúng chứ? Khi mặt trời lên, tôi sẽ bị nướng cháy, vì tôi không có gốc rễ, nên tôi héo tàn."
"Nhưng lịch sử vẫn kể về những người nô lệ nổi dậy chống vua chúa," tôi gắt.
"Lịch sử cũng kể về những gì đã xảy tới với đám nô lệ nổi dậy chống vua chúa," ông ta dữ dằn nói. "Không kẻ nào có cơ hội sống. Tất cả những con người vĩ đại ấy chỉ cần hiểu khi nào thời cơ đến. Những người Corsica biết đấy. Tôi đã mơ mộng tới những điều vĩ đại như người Corsica. Đúng ra tôi phải biết về thời cơ, nhưng nó không bao giờ đến. Những cái gai vươn ra và giữ tôi lại. Hump à, tôi có thể nói rằng anh hiểu tôi còn nhiều hơn bất cứ người sống nào, trừ anh của tôi."
"Ông ta là ai? Ông ta ở đâu?"
"Chủ tàu hơi nước Macedonia, tàu săn hải cẩu," ông đáp. "Chúng ta hẳn sẽ gặp gã ở bờ biển Nhật. Người tôi gọi gã là Larsen" Tử Thần "."
"Larsen Tử Thần!" Tôi vô thức thốt lên, "Ông ta có giống ông không?"
"Không hề. Gã là cục thịt của xác thú không đầu. So với tôi, gã có tất cả sự.. sự.."
"Hung bạo," tôi đoán dò.
"Đúng thế, cám ơn vì từ đó. Gã có tất cả sự hung bạo của ta; nhưng gã hầu như không biết đọc hay viết."
"Và gã chẳng bao giờ triết lí về cuộc sống," tôi bổ sung.
"Không hề," Larsen Sói trả lời, với nỗi buồn thăm thẳm. "Gã vui vẻ hơn nhiều khi sống đời đơn độc. Gã quá bận rộn sống để mà bận tâm suy nghĩ. Sai lầm của đời tôi là mở sách ra."