Bạn được Huyentrann mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 40: Hoa Sơn luận kiếm

Âu Dương Phong lạnh lùng nói:

– Tới sớm thì Tỷ thí sớm, tới muộn thì tỷ thí muộn. Lão ăn mày, hôm nay ngươi tỷ thí với ta là để phân thắng phụ hay quyết sống chết?

Hồng Thất công nói:

– Vừa phân thắng phụ vừa quyết sống chết, ngươi ra tay không cần dung tình.

Âu Dương Phong nói:

– Tốt lắm!

Tay trái y vốn để sau lưng, đột nhiên vung ra, trong tay đã cầm xà trượng, dằn mạnh cán trượng xuống mặt đá một cái, nói:

– Ở đây hay là đổi chỗ khác?

Hồng Thất công chưa trả lời, Hoàng Dung đã nói chen vào:

– Tỷ võ ở Hoa sơn tỷ võ không hay, cứ xuống thuyền mà tỷ thí.

Hồng Thất công sửng sốt hỏi:

– Để làm gì?

Hoàng Dung nói:

– Để Âu Dương tiên sinh lấy oán báo ơn, đánh lén sau lưng lần nữa

Hồng Thất công hô hô cười rộ, nói:

– Mắc lừa một lần thì học khôn một ít, ngươi đừng hy vọng lão khiếu hóa ta tha cho lần nữa.

Âu Dương Phong nghe Hoàng Dung lên tiếng mỉa mai lại hoàn toàn không đổi sắc mặt, hai chân khẽ cong lại, đưa chiếc trượng qua tay phải, chưởng trái từ từ vận kình lực Cáp mô công lên.

Hoàng Dung đưa Đả cẩu bổng cho Hồng Thất công nói:

– Sư phụ, Đả cẩu bổng thêm Cửu âm thần công, động thủ với lão gian tặc này không cần nói chuyện nhân nghĩa đạo đức gì cả.

Hồng Thất công nghĩ thầm:

– Chỉ bằng vào võ công vốn có của mình mà muốn thắng y vốn rất không dễ, nhưng lúc Lão Độc vật tỷ thí với Hoàng lão tà mà đã đánh nhau tới mức gân cốt rã rời thì không thể chống Hoàng lão tà được

Liền gật gật đầu cầm ngọn Đả cẩu bổng, một chiêu Đả thảo kinh xà bên trái, một chiêu Bát thảo tầm xà bên phải chia ra đánh vào hai bên.

Âu Dương Phong giao thủ với y mấy lần vẫn chưa thấy y sử dụng Đả cẩu bổng pháp, hôm ấy trên chiếc thuyền cháy liều mạng đánh nhau, tình thế khẩn cấp mà Hồng Thất công cũng chưa từng sử dụng. Âu Dương Phong từng thấy Hoàng Dung sử dụng bổng pháp này chiêu số tinh kỳ đã không dám coi thường, lúc ấy thấy Hồng Thất công đánh ra hai chiêu, tiếng bổng rít gió, quả nhiên không phải tầm thường. Lúc ấy rung xà trượng đỡ tả gạt hữu, đánh thẳng vào trung cung địch nhân. Xà trượng của y đã rơi mất hai lần, trong tay đang cầm là chiếc thứ ba, hình đầu người trên trượng lại càng ngụy dị đáng sợ, chỉ là hai con rắn tuy độc tính không khác nhưng thuần dưỡng chưa lâu, lúc lâm địch không được linh động thuần thục như hai con đầu tiên.

Hồng Thất công hôm trước bị quái xà của y cắn vào lưng, lại bị y đập một chưởng suýt mất mạng, dưỡng thương gần hai năm nay mới hồi phục. Đó là trận đại bại suốt đời y chưa từng gặp, cũng là mối nguy hiểm trong đời chưa từng gặp, mối thù này há lại không trả? Lúc ấy vận bổng rít gió, hăng hái tấn công.

Hai người lần đầu luận kiếm ở Hoa sơn là tranh nhau danh tiếng và Cửu âm chân kinh, lần thứ hai qua chiêu ở đảo Đào Hoa là vì hôn sự của Quách Tĩnh và Âu Dương Khắc, đó đều là chỉ quyết thắng phụ chứ không quan hệ tới việc sống chết. Lần thứ ba đánh nhau trên biển, sống chết chỉ còn cách một sợi tơ nhưng Hồng Thất công ra tay vẫn còn nhường nhịn, lần ác chiến thứ tư này mới đúng là dùng hết toàn lực không chút dung tình. Hai người đều biết đối phương tuổi tác tuy tăng nhưng võ công càng lợi hại hơn trước, chỉ cần mình hơi sơ xuất, trúng phải một chiêu nửa thức của đối phương thì khó tránh khỏi mất mạng tại đương trường.

Hai người qua lại giao đấu hơn hai trăm chiêu, đột nhiên ánh trăng mất đi, sắc trời chuyển thành tối om. Đó là cảnh tối tăm trước khi trời rạng sáng, trong chớp mắt sẽ lập tức sáng lên. Hai người đều sợ trong đêm tối trúng phải độc thủ của đối phương, chỉ giữ vững môn hộ, không dám tấn công. Quách Tĩnh và Hoàng Dung không kìm được lo lắng, bước lên vài bước, nếu Hồng Thất công có chút sơ sót nào sẽ lập tức ra tay giúp đỡ. Quách Tĩnh mắt nhìn hai người ác đấu, nhưng trong lòng thì ý nghĩ dâng trào:

– Hai người này đều là cao thủ hạng nhất trên đời nhưng một người thì hành hiệp trượng nghĩa, một người thì cậy mạnh làm ác, đủ thấy bản thân võ công vốn không chia thiện ác, toàn là do người dùng. Làm việc thiện thì võ công càng mạnh càng tốt, làm điều xấu thì võ công càng mạnh càng xấu.

Đến cuối cùng sắc trời rối đen, chiêu thức của hai người đã không còn nhìn rõ, nhưng nghe tiếng binh khí rít gió và tiếng quát tháo giao đấu không kìm được tim đập thình thịch, nghĩ thầm:

– Sư phụ vì vận công trị thương, lỡ mất hai năm luyện tập. Cao thủ thì công lực vốn không chênh lệch nhau bao nhiêu, mà một tiến một thoái như thế đừng nói là vì thế mà thua vào tay Âu Dương Phong. Nếu là như thế, lúc đầu quả thật không nên tha y ba lần.

Y lại nhớ tới lời Khưu Xứ Cơ giải thích hai chữ Tín nghĩa, phải phân biệt rạch ròi đại tín đại nghĩa với tiểu tín tiểu nghĩa, nếu vì để giữ trọn điều tín nghĩa nhỏ mọn cho mình mà làm hỏng việc lớn, thì tính ra cũng không thể gọi là có tín nghĩa. Nghĩ tới chỗ đó, máu nóng tràn lên, nghĩ thầm:

– Tuy sư phụ và y có nói rõ là đơn đả độc đấu, nhưng nếu y hại sư phụ, từ đây hoành hành trong thiên hạ thì không biết còn có bao nhiêu người tốt sẽ phải chết dưới tay y. Trước đây mình không hiểu rõ ý nghĩa thật sự của hai chữ Tín nghĩa, đến nỗi làm không ít chuyện hồ đồ.

Lúc ấy tâm ý đã quyết, song chưởng cùng giơ lên, đang định nhảy vào giúp đỡ.

Chợt nghe Hoàng Dung kêu lên:

– Âu Dương Phong, Tĩnh ca ca của ta từng kích chưởng hẹn ước với ngươi, tha ngươi ba lần không giết, nào ngờ ngươi vẫn cậy mạnh hà hiếp ta. Ngươi nói không giữ lời, còn không bằng một kẻ vô danh tiểu tốt trong võ lâm, thì còn mặt mũi nào mà tranh giành danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công?

Âu Dương Phong nhất sinh làm không biết bao nhiêu điều ác, nhưng nói ra thì thủy chung một là một, hai là hai, chưa bao giờ hối hận, bình sinh cũng luôn tự phụ về điều đó, y quyết không tới nỗi trái ước cưỡng bách Hoàng Dung lúc ấy đang cùng Hồng Thất công giao đấu, chợt nghe nàng nói tới chuyện ấy bất giác tai nóng bừng, trong lòng rối loạn, ra trượng chậm lại, suýt nữa bị Đả cẩu bổng điểm trúng.

Hoàng Dung lại kêu lên:

– Ngươi có hiệu là Tây độc, hành sự gian trá vốn cũng không cần phải nói, nhưng lại bắt một gã tiểu bối hậu sinh tha cho ba lần không giết thì đã mất cả mặt mũi rồi, mà còn nuốt lời với hậu bối, đúng là khiến hảo hán trên giang hồ chê cười. Âu Dương Phong ơi Âu Dương Phong, có một chuyện mà người trong khắp thiên hạ không ai bằng lão nhân gia người, đó là mặt dày thiên hạ đệ nhất!

Âu Dương Phong cả giận, nhưng lập tức biết ngay đây là quỷ kế của Hoàng Dung, có ý khích cho mình tức giận xấu hổ, chỉ cần nội công vận chuyển hơi không thuần nhất sẽ lập tức thua dưới tay Hồng Thất công, lúc ấy bèn làm như không nghe không thấy gì. Nào ngờ Hoàng Dung càng chửi càng ngoa, trong võ lâm có rất nhiều chuyện xấu xa chẳng liên hệ gì với y cũng đổ cả lên đầu y. Nàng nói bừa bãi đủ chuyện một hồi, tựa hồ khắp dưới gầm trời này chỉ có một mình y là kẻ xấu, hàng ngàn hàng vạn tội ác trên đời đều do một mình y làm ra. Nếu nói y làm những việc xấu xa tàn ác thì Âu Dương Phong vốn chẳng hề để ý, nhưng Hoàng Dung lại mấy lần nói y làm những việc xấu xa hạ lưu trong giang hồ, nói thấy y năn nỉ Linh Trí thượng nhân, lại năn nỉ Sa Thông Thiên làm "Ông chú", lạy Bành Liên Hổ làm "Cha nuôi" để xin một bí phương thuốc độc, đủ chuyện hạ lưu vô sỉ, xấu xa bậy bạ, nói từng nghe có lần y tự tiến cứ xin làm đội trương thân binh cho Hoàn Nhan Hồng Liệt để được hàng đêm canh gác Triệu vương phủ. Tới như việc Quách Tĩnh ba lần tha y ở Tây Vực thì kéo y trong cột băng ra thế nào, lại thêm mắm dặm muối khiến y không sao chịu nổi. Lúc đầu Âu Dương Phong còn nhịn được, sau cùng nghe nàng nói tới mức quá đáng, nhịn không được cãi lại mấy câu. Không ngờ Hoàng Dung đang muốn khích y đấu khẩu với mình, lại càng ăn nói bừa bãi. Cứ thế một hồi, Âu Dương Phong quyền cước binh khí thì ác đấu với Hồng Thất công, miệng thì gây gỗ với Hoàng Dung, nói tới mức hao hơi kiệt lực, dùng sức cãi nhau với Hoàng Dung còn hơn cả dùng sức đánh nhau với Hồng Thất công. Lại qua một lúc, Âu Dương Phong tâm trí dần dần cảm thấy không chi trì được, nghĩ thầm:

– Nếu mình không sử dụng công phu trong Cửu âm chân kinh thì nhất định khó mà thủ thắng.

Y tuy chưa từng theo lời Hoàng Dung nói mà chuyển vận kinh mạch toàn thân đi ngược, nhưng tu tập nửa năm, dựa vào võ học uyên thâm, nội công thâm hậu cũng đã có chút thành tựu, lúc ấy xà trượng vung lên, chợt ra quái chiêu. Hồng Thất công giật nảy mình, ngưng thần tiếp chiến.

Hoàng Dung kêu lên:

– Nguyên tư anh nhi, ba ba tây lạc tấn tuyết long văn binh.

Âu Dương Phong sửng sốt:

– Câu này có ý gì?

Y nào biết Hoàng Dung toàn là buộc miệng nói bừa, khua môi múa lười, đem một tràng âm thanh không có ý nghĩa gì nói bừa ra. Chỉ là giọng điệu của nàng biến hóa đa đoan, có lúc như phẫn nộ quát tháo, có lúc như thành khẩn khuyên răn, lúc như hoảng sợ than thở, lúc như mừng rỡ ca ngợi, đột nhiên nàng lại dùng giọng điệu truy vấn kêu lên mấy tiếng liên tiếp, rõ ràng là đang hỏi vặn rất gấp Âu Dương Phong tuy muốn không đếm xỉa gì tới, nhưng không tự chủ được kêu lên:

– Ngươi nói gì thế?

Hoàng Dung giả tiếng Phạn trả lời mấy câu. Âu Dương Phong ngơ ngác không hiểu, kiệt lực tìm trong kinh văn mà Quách Tĩnh viết cho, nhất thời những thanh âm, hình dáng, chiêu số, bí quyết hỗn loạn không có chương pháp gì ùn ùn hiện ra trong đầu, chỉ thấy trời đất xoay chuyển, lại càng không biết mình ở đâu Hồng Thất công đột nhiên thấy trượng pháp của y lộ ra chỗ sơ hở rất lớn, quát lên:

– Này!

Một bổng gõ vào thiên linh cái của y.

Một bổng ấy kình lực tới mức nào, Âu Dương Phong trong đầu vốn đã rối loạn, bị cái gõ ấy lại càng hoa mắt váng đầu, không biết nói gì kêu lớn một tiếng, cắp ngược xà trượng quay người bỏ chạy, Quách Tĩnh kêu:

– Chạy đi đâu?

Rồi tung người đuổi theo, Âu Dương Phong đột nhiên nhảy bật lên, lộn nhào ba vòng trên không, trong chớp mắt lăn bảy tám vòng sau sườn núi, không biết chạy đi đâu. Hồng Thất công, Quách Tĩnh, Hoàng Dung ba người nhìn nhau ngạc nhiên, hoảng sợ phá ra cười.

Hồng Thất công thở dài nói:

– Dung nhi, hôm nay đánh bại Lão Độc vật thì công lao của ngươi rất lớn. Có điều thầy trò chúng ta liên thủ lấy hai chọi một, không khỏi có chỗ thắng cũng bất võ.

Hoàng Dung cười nói:

– Sư phụ, công phu này không phải là người dạy sao?

Hồng Thất công cười nói:

– Công phu của ngươi là trời sinh. Có lão già ranh mãnh khôn ngoan như cha ngươi mới sinh ra được đứa con gái ranh mãnh khôn ngoan như ngươi.

Chợt nghe sau núi có người kêu lên:

– Giỏi lắm, nói xấu người ta sau lưng, lão ăn mày, ngươi có biết thẹn không đấy?

Hoàng Dung kêu lớn:

– Cha?

Rồi nhảy bật lên chạy ra. Lúc ấy mặt trời vừa mọc, dưới ánh nắng sớm một người mắc áo dài màu xanh thong thả bước ra, chính là đảo chủ Đào Hoa Đông tà Hoàng Dược Sư.

Hoàng Dung sấn lên trước, hai cha con ôm chầm lấy nhau. Hoàng Dược Sư thấy con gái không còn có vẻ trẻ con, đã hoàn toàn trở thành một thiếu nữ, trông giống hệt người vợ đã mất, trong lòng vừa vui mừng vừa thương cảm.

Hồng Thất công nói:

– Hoàng lão tà, trên đảo Đào Hoa ta từng nói rằng con gái ngươi thông minh lanh lợi, quỷ kế đa đoan, chỉ có người khác mắc mưu y thị, chứ y thị quyết không chịu thua ai, bảo ngươi không cần lo lắng. Ngươi nói đi, lời lão khiếu hóa có chỗ nào sai không?

Hoàng Dược Sư cười khẽ một tiếng, kéo tay con gái bước tới nói:

– Chúc mừng ngươi đánh bại Lão Độc vật. Người này thất bại, cũng đỡ được một mối lo cho cả ngươi và ta.

Hồng Thất công nói:

– Anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và lão khiếu hóa mà thôi. Ta thấy con gái ngươi, đám sâu bọ trong bụng lại cắn bừa nhảy bậy, nước dãi lại chảy ra. Chúng ta cứ sảng khoái động thủ ngay, ngươi làm thiên hạ đệ nhất cũng được, ta làm thiên hạ đệ nhất cũng được, ta chỉ chờ được ăn thức ăn ngon của Dung nhi nấu thôi.

Hoàng Dung cười nói:

– Không, nếu người thua thì con mới nấu thức ăn cho người ăn.

Hồng Thất công nói:

– Phì, không sợ xấu hổ, ngươi muốn đè nén ta phải không?

Hoàng Dược Sư nói:

– Lão khiếu hóa, sau khi ngươi bị thương đã lỡ mất hai năm luyện tập, e hiện đã không phải là đối thủ của ta. Dung nhi, bất kể ai thắng ai bại ngươi cũng phải nấu thức ăn kính mời sư phụ.

Hồng Thất công nói:

– Đúng đấy, như thế mới là lời nói của bậc đại tôn sư, đường đường đảo chủ đảo Đào Hoa, chứ như con nha đầu này thì còn nhỏ nhen lắm. Chúng ta cũng đừng chờ tới chính ngọ hay không, lại đây?

Nói xong giơ trúc bổng ra định xông lên động thủ.

Hoàng Dược Sư lắc đầu nói:

– Ngươi mới đánh nhau hồi lâu với Lão Độc vật, tuy không thể nói là gân cốt rã rời nhưng cũng đã mệt mỏi mất một lúc. Hoàng mỗ lại có thể chiếm tiện nghi sao? Chúng ta cứ chờ tới chính ngọ sẽ đấu, ngươi cứ dưỡng sức đi.

Hồng Thất công tuy biết y nói có lý nhưng không chịu chờ đợi, cứ nhất định đòi tỷ võ lập tức. Hoàng Dược Sư ngồi xuống tảng đá, không nhìn ngó gì tới y.

Hoàng Dung thấy hai người tranh cãi không thôi, bèn nói:

– Cha, sư phụ, con có một cách cho hai người có thể lập tức tỷ võ, mà cha cũng không chiếm tiện nghi.

Hồng Thất công và Hoàng Dược Sư cùng nói:

– Hay đấy, cách gì vậy?

Hoàng Dung nói:

– Hai người là bạn già lâu năm, bất kể ai thắng ai bại cũng làm tổn thương hòa khí. Nhưng lần luận kiếm ở Hoa sơn hôm nay, lại thành cái thế phải phân thắng bại, có đúng không?

Hồng Hoàng hai người vốn cũng đã nghĩ tới chuyện đó, lúc ấy nghe nàng nói tới, tựa hồ đã có một cách hay trọn vẹn đôi bề, đã có thể lập tức động thủ, lại có thể không để Hoàng Dược Sư chiếm tiện nghi, vả lại còn khiến hai nhà không bị tổn thương hòa khí, cùng hỏi:

– Ngươi có chủ ý gì vậy?

Hoàng Dung nói:

– Là thế này: Cha ra chiêu với Tĩnh ca ca trước, xem tới chiêu thứ mấy thì đánh bại y. Sau đó sư phụ lại qua chiêu với Tĩnh ca ca. Nếu cha dùng chín mươi chín chiêu để thủ thắng, mà sư phụ dùng một trăm chiêu, thì là cha thắng. Nếu sư phụ chỉ dùng chín mươi tám chiêu thì sư phụ thắng.

Hồng Thất công cười nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca tỷ võ với cha trước, hai người tinh lực đều sung mãn, đến khi sư phụ tỷ võ thì hai người cũng đều đã giao đấu một trận, há không phải là rất công bằng sao?

Hoàng Dược Sư gật đầu nói:

– Cách này quả không kém. Tĩnh nhi, lại đây, ngươi có dùng binh khí không?

Quách Tĩnh nói:

– Không!

Ðang định bước tới Hoàng Dung lại nói:

– Khoan đã còn có một chuyện phải nói rõ. Nếu hai vị tiền bối mà trong vòng ba trăm chiêu đều không đánh bại được Tĩnh ca ca, thế thì làm sao?

Hồng Thất công hô hô cười rộ, nói:

– Hoàng lão tà, lúc đầu ta còn khen ngươi sinh được đứa con gái xinh đẹp này, chỉ tận tâm kiệt lực giúp đỡ cho cha, hà, nào ngờ đàn bà hướng ra ngoài, đó quả thật là lời chí lý. Y thị chỉ dốc lòng muốn thằng tiểu tử ngốc này đạt được danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công thôi!

Hoàng Dược Sư tính tình quái dị hẹp hòi nhưng rất thương yêu con gái, nghĩ thầm:

– Mình thành toàn tâm nguyện cho nó một lần cũng được.

Lúc ấy bèn nói:

– Lời của Dung nhi cũng đúng đấy. Hai lão già chúng ta nếu không đánh bại được Tĩnh nhi trong vòng ba trăm chiêu, thì còn mặt mũi nào mà làm thiên hạ đệ nhất võ công?

Rồi xoay chuyển ý nghĩ nghĩ thầm:

– Mình vốn có thể cố ý nhường nhịn, cho y đón đỡ được ba trăm chiêu, nhưng lão khiếu hóa lại không chịu nhường, ắt trong ba trăm chiêu có thể đánh bại y. Vậy thì mình không phải là nhường Tĩnh nhi, mà là nhường lão khiếu hóa – Nhất thời trầm ngâm không quyết.

Hồng Thất công đẩy vào lưng Quách Tĩnh một cái nói:

– Động thủ mau đi, còn chờ gì nữa?

Quách Tĩnh loạng choạng một cái, xông tới trước mặt Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư nghĩ thầm:

– Tốt, ta cứ thử công phu của y trước. Rồi sẽ quyết định.

Chưởng trái lật ra, vỗ chếch tới đầu vai y, kêu lên:

– Chiêu thứ nhất.

Đang lúc Hoàng Dược Sư còn chưa quyết, Quách Tĩnh trong lòng cũng không định được chủ ý:

– Mình quyết không thể chiếm được danh hiệu thiên hạ đệ nhất, nhưng nên nhường cho đảo chủ đắc thắng hay là nhường cho sư phụ thắng?

Đang lúc ngần ngừ, Hoàng Dược Sư đã vung chưởng đánh ra. Y giơ tay phải lên đỡ gạt, thân hình loạng choạng một cái, suýt ngã, nghĩ thầm:

– Mình thật hồ đồ, còn nghĩ nhường nhịn cái gì nữa? Mình dùng hết toàn lực cũng quyết chống không được ba trăm chiêu.

Nhìn thấy chiêu thứ hai của Hoàng Dược Sư đánh tới, lúc ấy ngưng thần đón đỡ, lúc ấy tâm ý đã quyết, cứ mặc kệ hai người dùng chân công phu đánh thắng mình, ai mau ai chậm là do họ tự quyết, chứ mình tuyệt nhiên không hề thiên vị bên nào.

Vừa qua vài chiêu Hoàng Dược Sư vô cùng kinh ngạc: "Võ công của thằng tiểu tử ngốc này làm sao lại luyện được tới mức ấy? Nếu mình chỉ hơi nhường nhịn, thì đừng nói là bị y đón đỡ hơn ba trăm chiêu, chỉ sợ còn thua dưới tay y nữa".

Cao thủ tỷ võ, quả thật không thể nhường nhịn nửa phần. Hoàng Dược sự lúc đầu xuất thủ chỉ dùng bảy phần kình lực, nào ngờ bị Quách Tĩnh dốc toàn lực tấn công, lại bị rơi vào thế hạ phong. Y trong lòng hốt hoảng, vội triển khai Lạc anh thần kiếm chưởng pháp, thân hình lãng đãng, ra sức giành lại tiên cơ.

Nhưng công lực của Quách Tĩnh quả thật đã khác hẳn ngày trước, Hoàng Dược Sư đổi dùng mười mấy loại chưởng pháp nhưng thủy chung vẫn không thể cướp được tiên cơ, đánh được hơn một trăm chiêu, y thi triển chiêu thức kỳ lạ, Quách Tĩnh không ngờ y lại dùng kế, suýt nữa bị chân trái y đá trúng, lùi lại hai bước, lúc ấy trở thành thế ngang sức. Hoàng Dược Sư thở ra một hơi, kêu thầm:

– Xấu hổ thật?

Muốn thừa cơ chiếm thượng phong, không ngờ Quách Tĩnh giữ gìn môn hộ rất nghiêm cẩn, bất kể y tấn công như sóng to gió dữ, thủy chung vẫn không cần có công chỉ cần không có tội, quyền cước lại càng không có nửa chút sơ hở. Tai nghe con gái đếm:

– Hai trăm lẻ ba, hai trăm lẻ bốn.

Hoàng Dược Sư vô cùng sốt ruột:

– Lão thiêu hóa xuất thủ mãnh liệt, nếu trong một trăm chiêu đánh bại Tĩnh nhi, thì mình còn mặt mũi nào nữa. Chiêu số chợt thay đổi, chưởng ảnh trùng trùng, ra tay vô cùng mau lẹ.

Lần này Quách Tĩnh lập tức rơi vào thế hạ phong, chỉ cảm thấy hơi thở khó khăn, như có một tòa núi lớn đè lên người mình, nhìn thấy mắt nảy đom đóm, dần dần không chống đỡ nổi. Hoàng Dược Sư ra tay càng nhanh, thế công mau lẹ, Hoàng Dung càng đếm mau hơn. Quách Tĩnh môi khô lưỡi đắng, tay chân nhũn ra, càng lúc càng thấy khó chống đỡ, chỉ đành dựa vào sự kiên nghị cố sức đón đỡ, đang lúc nguy cấp chợt nghe Hoàng Dung kêu lớn một tiếng "Ba trăm". Hoàng Dược Sư biến hẳn sắc mặt, nhảy lùi ra ngoài.

Lúc ấy Quách Tĩnh đã bị ép tới mức đầu váng mắt hoa, thân hình không tự chủ được, lùi mau về bên trái, kế xoay mười mấy vòng, nhìn thấy trời xoay đất chuyển, đang muốn ngã vật ra, lúc nguy cấp chân trái dùng công phu Thiên cân trụy, định kìm chế thân hình. Nhưng hậu kình trong nội công của Hoàng Dược Sư rất lớn, người tuy đã lui ra nhưng dư thế của quyền chiêu chưa giảm, Quách Tĩnh đứng không vững đành khom lưng cúi đầu, tay trái dùng lực phát kình xuống đất, mượn kình lực mãnh liệt của Hàng long thập bát chưởng xoay về bên trái mười mấy vòng, trong đầu mới cảm thấy sáng suốt, ngẩn ra một lúc rồi nói với Hoàng Dược Sư:

– Hoàng đảo chủ, người mà ra vài chiêu nữa, thì con không ngã không được.

Hoàng Dược Sư thấy y có định lực như thế, chống được Kỳ môn ngũ chuyển mà mình luyện tập hơn mười năm mới thành công, không tức giận mà lại mừng rỡ, cười nói:

– Lão khiếu hóa, ta không xong rồi, danh hiệu thiên hạ đệ nhất nhường cho ngươi thôi.

Hai tay chắp lại một cái, xoay người định bỏ đi.

Hồng Thất công nói:

– Khoan đã, khoan đã, ta cũng chưa chắc đã xong. Chiếc thiết tiêu của ngươi xin đưa cho Tĩnh nhi mượn.

Chiếc ngọc tiêu của Hoàng Dược Sư đã gãy, trong lưng giắt một ngọn thiết tiều, lúc ấy rút ra đưa cho Quách Tĩnh.

Hồng Thất công nói với Quách Tĩnh:

– Ngươi dùng võ khí, ta dùng tay không ra chiêu với ngươi.

Quách Tĩnh ngạc nhiên nói:

– Thế này..

Hồng Thất công nói:

– Chưởng pháp của ngươi là ta dạy, làm sao đấu quyền cước được? Vào đi!

Năm ngón tay trái cong như móc câu, chụp vào cổ tay y định đoạt thiết tiêu. Quách Tĩnh không hiểu dụng ý của y, buông tay thả tiêu, không hề chống cự. Hồng Thất công mắng:

– Tiểu tử ngốc, chúng ta đang tỷ võ chứ mà!

Tay trái đưa trả thiết tiêu cho y, tay phải lại vươn ra đoạt lấy. Quách Tĩnh lúc ấy rút tiêu lại tránh. Hoàng Dung đếm:

– Một chiêu!

Cao thủ tỷ võ trên tay có binh khí hay không không khác nhau lắm, Hồng Thất công sử dụng Hàng long thập bát chưởng, chưởng phong quét ra ngoài một trượng, Quách Tĩnh tuy có thiết tiêu, nhưng làm sao vào gần phản kích? Y vốn không quen sử dụng binh khí, nhưng từ khi ở Tây Vực quạ chiêu với Âu Dương Phong trong thập thất, kiếm pháp đã có tiến bộ rất lớn. Trước nay võ công ắt phải luyện cả công lẫn thủ, Quách tĩnh lại luyện binh khí có tới tám phần là thủ, hai phần tấn cồng. Nên biết chiêu số binh khí mà Giang Nam lục quái dạy cho y không thể kể là loại võ công thượng thặng, nhưng y sau khi tập luyện Cửu âm chân kinh lại tập luyện theo đó, đó là lúc trong thập thất ở Tây Vực, lúc bấy giờ y chỉ cầu tự bảo toàn, không rảnh mà đả thương đối phương, dùng trường kiếm chống đỡ trượng gỗ của Âu Dương Phong, luyện tập không ít cách thức phòng thân thủ thế, lúc ấy dùng tiêu làm kiếm, đón đỡ chưởng phong lợi hại tuyệt luân của Hồng Thất công, lại càng có công hiệu.

Hồng Thất công thấy y giữ môn hộ rất nghiêm cẩn, trong lòng rất mừng, tự nhủ:

– Thằng nhỏ này tiến bộ rất lớn, cũng không uổng công mình dạy dỗ, nhưng nếu trong vòng hai trăm chiêu mình đánh bại y thì rất khó nhìn mặt Hoàng lão tà. Sau hai trăm chiêu rồi, mình sẽ ra đòn nặng mới nên.

Lúc ấy vẫn theo Hàng long thập bát chưởng ra chiêu, từ một lần biến tới chín lần biến theo thứ tự đánh ra, gió rít vù vù, bóng chưởng trùm lên toàn thân Quách Tĩnh.

Lúc ấy nếu Hồng Thất công quyết ra đòn thật nặng, thì công phu binh khí của Quách Tĩnh chưa đạt tới mức đăng phong tháo cực, vốn không dễ chống đỡ, nhưng Hồng Thất công quyết ý sau hai trăm chiêu mới thủ thắng, lại là nghĩ lầm một điều. Nên biết Quách Tĩnh đang lúc thiếu niên khỏe mạnh, sau khi luyện Dịch cân đoàn cất thiên nội lực lại càng hùng hậu, Hồng Thất công tuổi tác đã không còn trẻ, trên lưng lại bị rắn độc và chưởng lực của Âu Dương Phong đả thướng, Hàng long thập bát chưởng chiêu nào cũng phải dùng chân lực, đến lần biến thứ chín đã là một trăm sáu mươi hai chưởng, lực đạo tuy vẫn cương mãnh lợi hại, nhưng hậu kình đã suy giảm thấy rõ.

Đến quá chiêu thứ hai trăm, ngọn thiết tiêu của Quách Tĩnh đã không theo kiếm chiêu nữa, chiêu số ở tay trái phối hợp lại gia tăng kình lực. Hồng Thất công nghĩ thầm không hay, nếu thẳng thắn đối chưởng thì biết đâu sẽ phải thua dưới tay y, thằng tiểu tử ngốc này chỉ có thể lấy mưu mà thắng chứ không thế lấy lực mà chống, lúc ấy song chưởng dạt ra hai bên, mở toang môn hộ, Quách Tĩnh sửng sốt nghĩ thầm:

– Chiêu chưởng pháp này sư phụ chưa từng dạy qua nếu đối địch với người khác thì có thể sấn vào trung cung đánh tới trước ngực đối phương, nhưng trước mắt đối thủ lại là ân sư của mình, há lại có thể ra sát thủ?

Vừa thoáng ngần ngừ, Hồng Thất công cười nói:

– Ngươi mắc lừa rồi.

Chân trái phóng ra đá bay ngọn thiết tiêu trong tay y, chưởng phải lật lại đánh vào đầu vai y.

Một chưởng ấy thủ hạ dung tình, không muốn làm y bị thương, chỉ dùng tám thành công lực vừa đủ để y ngã ngửa là kể như thắng. Nào ngờ Quách Tình mấy năm nay dãi dầu sương gió, thân thể trở nên khỏe mạnh, bị một chưởng ấy chỉ lảo đảo, đầu vai tuy đau buốt nhưng vẫn không ngã. Hồng Thất công thấy y vẫn đứng vững không kìm được giật nảy mình nói:

– Ngươi thổ khí ra ba lần, điều hòa hơi thở, đừng để bị nội thương.

Quách Tĩnh theo lời hít thở, hơi thở lập tức thấy dễ chịu, nói:

– Đệ tử thua rồi.

Hồng Thất công nói:

– Không, mới rồi ngươi nhường ta thôi, chứ nếu vì thế mà nhận thua thì Hoàng lão tà làm sao chịu phục? Đón chiêu đây!

Nói xong lại phát chưởng đánh tới.

Quách Tĩnh trong tay không có binh khí, nhìn thấy đòn tới mãnh liệt, lập tức sử dụng Không minh quyền mà Chu Bá Thông dạy cho để hóa giải. Bộ Không minh quyền này là quyền thuật chí nhu trong thiên hạ, do Chu Bá Thông theo Đạo đức kinh sáng chế ra, trong Đạo đức kinh có câu:

– Binh mạnh ắt sẽ bị diệt, gỗ cứng ắt sẽ bị gãy. Cứng mạnh ở dưới, mềm yếu ở trên.

Lại nói:

– Trong thiên hạ không gì mềm yếu bằng nước, nhưng vật gì cứng mạnh cũng không thắng được, không gì chuyển dịch được. Yếu thắng mạnh, nhu thắng cương, thiên hạ ai cũng biết nhưng không ai làm được.

Bộ Hàng long thập bát chưởng lại là quyền thuật chí cương chí kiên trong võ học, có câu "Nhu có thể khắc cương", nhưng cũng nên biết công lực loại nhu cũng không nhất định sẽ thắng cương, với công phu tu vi của Hồng Thất công thì cho dù Chu Bá Thông dùng quyền thuật chí nhu đối phó cũng chưa chắc có thể thắng. Nhưng Quách Tĩnh đã luyện tập công phu Song thủ hỗ bác, tay phải dùng Không minh quyền, tay trái dùng Hàng long chưởng, cương nhu giúp đỡ cho nhau, âm dương bổ sung cho nhau, quyền chiêu của Hồng Thất công tuy cương mãnh không gì chống được nhưng cũng không làm gì được y.

Hoàng Dung bên cạnh đếm, thấy sắp hết ba trăm chiêu mà Quách Tĩnh vẫn hoàn toàn không có vẻ gì thất bại, trong lòng mừng rỡ, cứ đếm từng chiêu từng chiêu. Hồng Thất công nghe nàng đếm tới chiêu hai trăm chín mươi bảy, không kìm được lòng hiếu thắng, đột nhiên ra chiêu Kháng long hữu hối, xô núi dốc biển đánh tới, chiêu này đánh ra trong lòng lập tức hối hận, chỉ sợ Quách Tĩnh đón đỡ không được lại bị trọng thương, kêu lớn:

– Cẩn thận đấy!

Quách Tĩnh vừa nghe tiếng kêu, chưởng phong đã vỗ tới giữa mặt, chỉ thấy thế tới rất mãnh liệt, biết không thể dùng Không minh quyền hóa giải, lúc nguy cấp tay trái vẽ một vòng tròn vù một tiếng cũng đánh ra một chiêu Kháng long hữu hối. Chỉ nghe bình một tiếng, song chưởng chạm nhau, hai người đều toàn thân rúng động. Hoàng Dược Sư và Hoàng Dung đều bật tiếng la hoảng, bước tới gần xem.

Chỉ thấy hai người song chưởng đè lên nhau, đứng im bất động, Quách Tĩnh có ý nhường nhịn nhưng thấy chưởng lực của sư phụ lợi hại, nếu lúc này rút lại nhất định chưởng thế của y thuận thế xô tới ắt mình sẽ bị trọng thương, quyết định vận kình chống đỡ một lúc đợi chưởng lực của y hơi giảm sẽ lui ra nhận thua, Hồng Thất công thấy Quách Tĩnh ngang nhiên chống đỡ một chưởng tụ hết công lực bình sinh của mình, bất giác vừa sợ vừa mừng, càng có ý thương tài, lòng hiếu thắng giảm bớt, quyết ý nhường y thắng một chiêu này để thành toàn danh tiếng cho y, lúc ấy lưu kình không phát, từ từ thu lực lại.

Đang lúc đôi bên bất phân thắng bại, nhường nhịn lẫn nhau ấy, chợt nghe sau núi có một người kêu lớn ba tiếng, nhào lộn ba vòng nhảy ra, chính là Tây độc Âu Dương Phong. Hồng Thất công và Quách Tĩnh đồng thời thu chưởng nhảy lùi ra phía sau. Chỉ thấy Âu Dương Phong y phục toàn thân rách nát, trên mặt máu tươi ròng ròng, quát lớn:

– Thần công trong Cửu âm chân kinh ta đã luyện thành, ta là thiên hạ đệ nhất võ công?

Rồi vung xà trượng lên quét ngang bốn người.

Hồng Thất công nhấc Đả cẩu bổng gạt xà trượng của y ra, qua lại một chiêu, bốn người ai cũng hoảng sợ chiêu số của Âu Dương Phong vốn đã kỳ lạ, lúc ấy lại càng vô cùng quái dị, lúc chợt cào lên mặt mình một cái, lúc chợt chân đá mạnh vào mông mình một cái trượng nào đánh tới giữa đường ắt cũng đổi hướng, quả thật không biết y định đánh vào đâu. Hồng Thất công vô cùng ngạc nhiên hoảng sợ, đành dùng Đả cẩu bổng pháp giữ kín môn hộ, đâu dám ngang nhiên tấn công.

Đấu đến lúc hăng, Âu Dương Phong đột nhiên giơ tay chát chát chát đánh vào mặt mình ba cái nảy lửa, gào lớn một tiếng, hai tay chụp xuống đất sấn vào.

Hồng Thất công vừa hoảng sợ vừa buồn cười, nghĩ thầm:

– Bổng pháp của ta sở trường nhất về chuyện đánh chó, ngươi lại đột nhiên làm ra hình dáng chó, há không phải là tự lao đầu vào lưới sao?

Rồi giơ ngọn trúc bổng ra đâm lên lưng y.

Nào ngờ Âu Dương Phong đột nhiên lăn một vòng đè lên đoạn giữa của ngọn trúc bổng rồi thuận thế lăn tới, Hồng Thất công cầm không vững đành bỏ trúc bổng xuống. Âu Dương Phong đột nhiên phi thân nhảy vọt lên, hai chân liên hoàn đá ra. Hồng Thất công cả kinh, lui mau về phía sau.

Lúc ấy Hoàng Dung đã nhặt ngọn thiết tiêu dưới đất đưa cho cha. Hoàng Dươc sư nhấc tiêu rung lên điểm tới. Âu Dương Phong kêu lên:

– Đoàn Hoàng gia, ta không sợ Nhất dương chỉ của người đâu.

Nói xong tung người nhảy xổ lên.

Hoàng Dược Sư thấy cử chỉ của y đã biết y thần trí điên loạn, chỉ là trong lòng tuy điên khùng nhưng ra tay còn lợi hại hơn lúc chưa điên. Cho dù y trí tuệ hơn người nhưng cũng không hiểu rõ đạo lý bên trong, làm sao biết Âu Dương Phong khổ luyện theo chân kinh giả mà Quách Tĩnh viết cho, vốn đã khiến y đầu óc mờ mịt, Hoàng Dung lại giở đủ trò đưa y vào đường ngang ngõ tắt, tập bừa luyện ẩu, lại thêm nóng lòng thủ thắng, tham luyện cho mau, dụng công càng gấp, chỉ là y võ công vốn cao cường, tuy đi lầm đường, trong lòng có lầm nhưng ra tay lợi hại, càng khiến Hồng Hoàng hai vị đại tôn sư càng ngạc nhiên không sao hiểu được.

Qua vài mươi chiêu, Hoàng Dược Sư lại thua trận. Quách Tĩnh sấn lên đón đánh. Âu Dương Phong đột nhiên khóc nói:

– Con trai ơi, con chết thảm lắm?

Rồi vứt xà trượng giang hai tay nhảy xổ lên ôm. Quách Tĩnh biết y cho rằng mình là Âu Dương Khắc cháu y, nghe y kêu lên thảm thiết, trong lòng vừa bất nhẫn vừa sợ hãi, phát chưởng xô y ra du Dương Phong tay trái đột nhiên lật lại nắm chặt cánh tay Quách Tĩnh, tay phải ôm chặt y. Quách Tĩnh vận kình giãy giụa nhưng Âu Dương Phong vô cùng khỏe mạnh, ôm chặt y không sao động đậy.

Hồng Thất công và cha con Hoàng Dược Sư cả kinh, nhất tề sấn lên cứu.

Hồng Thất công vươn chỉ điểm mau vào huyệt Phượng vĩ trên lưng Âu Dương Phong, muốn bắt y phải buông tay đón đỡ. Không ngờ lúc ấy kinh mạch toàn thân của y đã chạy ngược, huyệt đạo đều đã thay đổi vị trí, phát chỉ của Hồng Thất công đâm tới y vẫn không cảm thấy gì, không hề đếm xỉa tới. Hoàng Dung quay đầu nhấc một tảng đá lớn lên, đập mạnh xuống đỉnh đầu y, Âu Dương Phong tay phải nắm thành quyền từ dưới đánh thẳng lên. Hoàng Dung tay cầm không vững, tảng đá bay khỏi tay rơi xuống vực. Quách Tĩnh nhân lúc Âu Dương Phong buông lỏng tay phải, dùng sức giật mạnh, nhảy lui ra phía sau, vừa định thần đã thấy Âu Dương Phong đang ác đấu với Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư giắt ngọn thiết tiêu vào lưng, tay không giao đấu.

Lúc ấy chiêu số Âu Dương Phong sử dụng càng thêm kỳ quái, vô cùng ngụy dị, thân hình lúc nằm lúc đứng, thậm chí có lúc một tay chống xuống đất, thân hình nằm ngang trên không, chỉ dùng một tay đối chưởng với địch nhân. Hoàng Dược Sư toàn thần ra chiêu nghênh địch, nhưng chưa biết sẽ ra sao. Hồng Thất công, Quách Tĩnh, Hoàng Dung ba người nhìn thấy vô cùng hoảng sợ. Hoàng Dung thấy cha liên tiếp gặp nguy hiểm, kêu lên:

– Sư phụ, đối phó với gã điên này thì bất tất phải theo quy củ võ lâm, chúng ta xông cả vào đi!

Hồng Thất công nói:

– Nếu là lúc bình thời thì chúng ta vốn có thể hợp sức bắt sống y, nhưng hôm nay là ngày luận kiếm ở Hoa sơn, anh hùng thiên hạ đều biết phải đơn đả độc đấu, chúng ta lấy nhiều chống ít sẽ bị hảo hán giang hồ chê cười.

Chỉ thấy Âu Dương Phong càng thêm điên cuồng, sùi cả bọt mép, nghiêng đầu xông vào húc mạnh. Hoàng Dược Sư chống đỡ không được, đành ngã xuống đất lăn ra.

Đột nhiên Âu Dương phong cúi xuống tấn công, trên thượng bàn hoàn toàn không che đỡ. Hoàng Dược Sư cả mừng, nghĩ thầm:

– Thằng điên này rốt lại đã hồ đồ rồi.

Liên tiếp dùng công phu Đàn chỉ thần công búng mau vào huyệt Nghênh hướng cạnh mũi y. Phát chỉ này phóng tới rất mau, nào ngờ vừa chạm vào da mặt y, Âu Dương Phong hơi nghiêng đầu qua táp luôn vào ngón tay. Hoàng Dược Sư cả kinh, vội vung tay trái đập vào huyệt Thái dương của y, bắt y hả miệng ra. Âu Dương Phong tay phải cũng vung ra đỡ gạt, răng cắn càng chặt.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung từ hai bên cùng xông vào Âu Dương Phong mới nhả ngón tay Hoàng Dược Sư ra, mười ngón tay cào lên mặt Hoàng Dung. Dưới ánh nắng sáng chỉ thấy y diện mạo nanh ác, mặt đầy máu tươi, Hoàng Dung trong lòng hoảng sợ, la hoảng lùi ra. Quách Tĩnh vội phát chưởng cứu viện. Âu Dương Phong vung tay đón đỡ, Hoàng Dung mới thoát thân được.

Chỉ hơn mười hiệp, Quách Tĩnh trên vai dưới đùi liên tiếp trúng đòn. Hồng Thất công nói:

– Tĩnh nhi lui ra, để ta vào thử lại xem.

Rồi tay không sấn lên. Hai người vừa qua một phen kịch đấu, lúc ấy lại càng hung hiểm. Lúc Âu Dương Phong giao đấu với Hoàng Dược Sư và Quách Tĩnh, Hồng Thất công đứng cạnh lưu ý xem xét, thấy y ra chiêu tuy vô cùng cổ quái nhưng đường lối bên trong quả thật cũng có thể nhận ra, chủ yếu là vận dụng Cáp mô công nghịch chuyển đánh ra, đòn trên thành đòn dưới, đòn trái thành đòn phải, tuy không hoàn toàn như thế nhưng trong mười phần cũng có bảy tám phần không sai, trong lòng đã hiểu được đại khái, lúc đối chiến tuy vẫn rơi vào thế hạ phong, nhưng cũng có công có thủ, ba chiêu đánh trả được một chiêu.

Hoàng Dung lấy khăn tay ra buộc vết thương trên ngón tay cha. Hoàng Dược Sư lại càng nhìn ra đường lối rõ hơn, liên tiếp kêu:

– Thất huynh, đá vào lưng y, Đánh vào huyệt Cự khuyết. Lật tay đánh vào huyệt Thiên trụ.

Hoàng Dược Sư người ngoài thì tỉnh, Hồng Thất công theo lời đánh ra, trong giây lát đã chuyển thành thế ngang tay. Chỉ là hai người trong lòng đều thẹn thầm "Đây là hợp sức cả Đông tà Bắc cái đối phó với một mình Tây độc".

Đang thấy đã có thể thủ thắng thì Âu Dương Phong đột nhiên há miệng phun một bãi nước bọt vào mặt Hồng Thất công.

Hồng Thất công vội nghiêng người tránh qua, Âu Dương Phong liệu được tiên cơ, phát chưởng đánh vào phương vị Hồng Thất công nghiêng qua đồng thời lại phun một bãi đờm vào chỗ ấy. Hồng Thất công tình thế nguy cấp, đã định không tránh, nhưng bãi đờm rít gió bay tới, nếu trúng mắt tuy có thể không bị thương nhưng cũng mười phần đau đớn, mà địch nhân nhất định sẽ thừa cơ tấn công, lại càng khó chống đỡ, trong lúc hoảng loạn vươn tay phải ra chụp lấy bãi đờm, tay trái đánh trả một chiêu, đánh thêm không đầy vài hợp, Âu Dương Phong lại phun mau một bãi nước bọt, y lấy cả nước bọt đờm dãi làm lợi khí tấn công đối phương, đánh kèm với quyền cước, khiến người ta hoa mắt luống cuống, trong lòng sợ sệt.

Hồng Thất công thấy rõ ràng y làm nhục mình, bất giác nộ khí bừng lên, cùng lúc tay phải nắm bãi đờm trơn ướt lầy nhầy rất khó chịu, lại không muốn bôi lên người mình, đánh đến lúc hăng, đột nhiên xòe tay phải ra quát:

– Xem đây!

Rồi mau lẹ chùi lên mặt Âu Dương Phong. Chiêu này rõ ràng là bôi đờm lên mặt y nhưng bên trong còn ẩn chứa sát thủ. Âu Dương Phong thần trí tuy điên loạn nhưng tai mắt tứ chi linh mẫn hơn cả lúc bình thời, thấy Hồng Thất công vung chưởng chà lên mặt, lập tức nghiêng đầu tránh. Hồng Thất công tay chưởng lật lại đâm thẳng qua, Âu Dương Phong đột nhiên há miệng ra táp.

Đó chính là tuyệt chiêu mới rồi y đã dùng dể đánh bại Hoàng Dược Sư, xem ra tựa hồ rất buồn cười, nhưng y há miệng rất mau khiến người ta không tránh kịp, với võ công đăng phong tháo cực của Hoàng Dược Sư như thế mà cũng bị trúng đòn. Hoàng Dược Sư, Hoàng Dung, Quách Tĩnh nhìn thấy rất rõ, chỉ thấy bàn tay Hồng Thất công xòe ra trước miệng y còn cách không đầy một tấc mà y đột nhiên há miệng, hàm răng trắng nhởn lóe lên dưới ánh nắng đã táp mạnh vào tay Hồng Thất công, bất giác đồng thanh la lên:

– Cẩn thận!

Nào ngờ ba người bọn họ và Âu Dương Phong lại quên mất một việc. Hồng Thất công có hiệu là Cửu chỉ thần cái, năm xưa vì tham ăn tham uống để chậm trễ thời khắc, không kịp tới cứu mạng một hảo hán trên giang hồ, trong cơn phẫn hận đã nổi giận chặt đứt ngón trỏ của mình. Một cái táp ấy của Âu Dương Phong vừa mau vừa chuẩn, nếu là người khác thì ngón trỏ ắt đã bị cắn trúng, nhưng Hồng Thất công lại không có ngón trỏ, chỉ nghe cạch một tiếng, hai hàm răng của y đập vào nhau, đã cắn trượt. Hồng Thất công không có ngón trỏ, Âu Dương Phong vốn biết rõ, nhưng lúc ấy y như cọp điên vồ bừa táp bậy, đời nào còn nghĩ tới những chi tiết lặt vặt ấy?

Cao thủ tỷ võ, nếu võ công đôi bên đều đạt tới mức lư hỏa thuần thanh thì đều đánh nhau cả ngày vẫn chưa phân thắng bại, cơ hội thủ thắng duy nhất chỉ là nhờ đối phương ngẫu nhiên phạm sơ sót nhỏ, lúc ấy Âu Dương Phong táp trượt một cái, Hồng Thất công đâu chịu bỏ qua? Lập tức ra chiêu Tiếu khẩu á á, ngón giữa đâm thẳng vào huyệt Địa thương trên khóe môi y.

Ba người đứng ngoài thấy Hồng Thất công đắc thủ, đang định há miệng khen hay, không ngờ chữ hay chưa ra khỏi miệng, Hồng Thất công đã lộn nhào lại lật người ra ngoài. Âu Dương Phong huỵch huỵch huỵch huỵch lui lại bốn bước, dáng như say rượu nhưng rất lại vẫn đứng vững, ngẩng đầu lên trời cười lớn. Nguyên là y kinh mạch đảo chuyển, phát chỉ ấy của Hồng Thất công tuy đâm trúng đại huyệt trên Túc Dương minh Vị kinh của y, nhưng y chỉ thấy toàn thân hơi tê song lập tức trở lại như thường, lại thừa cơ đánh một chưởng vào đầu vai Hồng Thất công. May là y trúng chỉ trước, một chưởng ấy lực đạo cũng không còn lợi hại lắm, Hồng Thất công thuận thế lật người ra ngoài, hóa giải được một nửa chưởng lực trong lúc hoảng sợ lại ra một chiêu Kiến long tại điền, cũng đẩy Âu Dương Phong lùi lại mấy bước. Hồng Thất công may mà hóa giải mau lẹ, chưa bị trọng thương nhưng nửa người tê rần, nhất thời đã không côn cách nào tái chiến. Y là thân phận đại tôn sư, nếu không nhận thua thì không khác gì kẻ vô lại, đồng thời trong lòng quả thật khâm phục đối phương võ công cao cường, bèn ôm quyền nói:

– Âu Dương huynh, lão khiếu hóa khâm phục ngươi rồi, ngươi là thiên hạ đệ nhất võ công!

Âu Dương Phong ngẩng đầu lên trời cười lớn, hai tay khua rối lên trời, với Hoàng Dược Sư:

– Đoàn Hoàng gia, ngươi có phục ta hay không?

Hoàng Dược Sư trong lòng bất nhẫn, nghĩ thầm:

– Danh hiệu thiên hà đệ nhất võ công lại rơi vào tay một thằng điên, mình và lão khiếu hóa há lại không bị thiên hạ chê cười sao?

Nhưng nếu bước lên tái đấu thì tự lượng sức mình khó lòng thủ thắng, đành gật gật đầu.

Âu Dương Phong nhìn Quách Tĩnh nói:

– Hài nhi, võ nghệ cha ngươi cái thế, thiên hạ vô địch, ngươi có mừng không?

Âu Dương Khắc là con của y tư thông với chị dâu sinh ra, tiếng là chú cháu nhưng thật ra là cha con, lúc ấy y thần trí nửa mê nửa tỉnh, tưởng Quách Tĩnh là Âu Dương Khắc, lại đem chuyện bí mật giữ kín trong lòng mấy mươi năm nói ra. Quách Tĩnh nghĩ mọi người ở đây đều không phải là đối thủ của y danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công của y quả không có gì đáng xấu hổ bèn nói:

– Bọn ta đều đánh không lại ngươi!

Âu Dương Phong hì hì cười ngờ nghệch, hỏi Hoàng Dung:

– Con dâu ngoan, ngươi mừng không?

Hoàng Dung thấy ba người cha, sư phụ, Quách Tĩnh nối nhau thua trận đã sớm nghĩ cách đối phó với gã điên này, nhưng nghĩ tới nghĩ lui không ra kế hay, lúc ấy nghe y hỏi lại thấy y hoa tay múa chân, dáng vẻ kỳ quái dưới ánh nắng cái bóng sau lưng y cũng lắc la lắc lư, linh cơ chợt động bèn nói:

– Ai nói ngươi là thiên hạ đệ nhất? Có một người ngươi không đánh thắng được đâu.

Âu Dương Phong cả giận ưỡn ngực nói:

– Là ai? Là ai? Bảo y ra đây tỷ thí với ta.

Hoàng Dung nói:

– Người ấy võ công cao cường, nhất định ngươi không thắng được y đâu.

Âu Dương Phong nói:

– Là ai? Là ai? Bảo y ra đây tỷ thí với ta.

Hoàng Dung nói:

– Y tên Âu Dương Phong.

Âu Dương Phong gãi đầu gãi tai, nghi ngờ nói:

– Âu Dương Phong à?

Hoàng Dung nói:

– Không sai. Ngươi tuy võ công cao cường nhưng không đánh thắng được Âu Dương Phong đâu.

Âu Dương Phong trong lòng càng hồ đồ, chỉ cảm thấy cái tên Âu Dương Phong nghe rất quen, nhất định là người rất gần gũi với mình, nhưng mình là ai?

Liền buột miệng hỏi:

– Thế ta là ai?

Hoàng Dung cười nhạt nói:

– Ngươi là ngươi. Ngươi tự mình còn không biết, sao lại hỏi ta?

Âu Dương Phong trong lòng lạnh buốt, nghiêng đầu vất vả suy nghĩ, nhưng trong óc hoàn toàn rối loạn, càng muốn truy tầm xem mình là ai lại càng không hiểu rõ. Nên biết những người có trí lực siêu việt có lúc một mình suy nghĩ thường nghĩ rằng: "Mình là ai? Trước khi sinh ra mình là cái gì? Sau khi chết mình sẽ là cái gì?", rất nhiều nghi vấn. Những triết nhân xưa nay thường vì thế mà khốn khổ. Âu Dương Phong tài trí hơn người, bấy nhiêu nghi vấn có lúc cũng từng hiện ra trong óc, lúc ấy liên tiếp đánh thắng ba đại cao thủ, nhưng kinh mạch toàn thân lúc thuận lúc nghịch, trong lòng lúc mừng lúc giận, lại chợt nghe Hoàng Dung nói thế, bất giác nhìn quanh ngơ ngác, lẩm bẩm:

– Ta, ta là ai? Ta ở đâu đây? Ta đang làm gì?

Hoàng Dung nói:

– Âu Dương Phong muốn tìm ngươi tỷ thí, muốn cướp Cứu âm chân kinh của ngươi.

Âu Dương Phong nói:

– Y ở đâu?

Hoàng Dung chỉ vào cái bóng sau lưng y, nói:

– Kia, y đứng sau lưng ngươi kia.

Âu Dương Phong quay mau đầu lại, nhìn thấy cái bóng của mình, sửng sốt nói:

– Đó.. đó.. y.. y..

Hoàng Dung nói:

– Y muốn đánh ngươi đấy!

Âu Dương Phong ngồi xổm xuống, phát chưởng tấn công cái bóng, cái bóng cũng đồng thời ngồi xuống đánh ra một chưởng. Âu Dương Phong cả sợ, chưởng trái chưởng phải liên hoàn đánh ra, cái bóng hai tay cũng rung lên không thôi. Âu Dương Phong thấy đối phương ra đòn lợi hại, xoay người chống cự, y quay mặt về phía mặt trời, cái bóng đã ở sau lưng. Y phát giác địch nhân đột nhiên mất hút, kêu lớn:

– Chạy đi đâu?

Rồi sấn về bên trái mấy bước.

Bên trái là một vách núi trọc nhẳn bóng, ánh nắng trời chiếu cái bóng của y lên vách núi, càng giống một địch nhân đứng thẳng. Âu Dương Phong quyền phải vung mạnh đánh vào vách núi, chỉ thấy đau tới mức muốn gãy hết xương, kêu lớn:

– Lợi hại thật?

Rồi lập tức phi chân trái đá ra. Chỉ thấy cái bóng trong vách núi cũng nhấc chân đá lên, hai chân chạm nhau, Âu Dương Phong đau không chịu nổi, không dám tái đấu, xoay người định chạy.

Lúc ấy y chạy về phía mặt trời, quả nhiên không thấy địch nhân, chạy ra một trượng, quay đầu nhìn lại chỉ thấy cái bóng đuổi sát theo sau, hoảng sợ kêu lên:

– Nhường cho ngươi danh hiệu thiên hạ đệ nhất võ công đấy, ta nhận thua là được.

Cái bóng không hề động đậy. Âu Dương Phong xoay người chạy tiếp, vừa quay đầu lại thấy cái bóng đuổi sát theo. Y chạy không thoát, đánh không thắng, sợ tới mức khiếp đảm, vừa kêu vừa la, chạy thẳng xuống núi. Qua một lúc, nghe tiếng y từ dưới sườn núi văng vẳng vang lên, vẫn là "Đừng đuổi ta, đừng đuổi ta!"

Hoàng Dược Sư và Hồng Thất công thấy một vị đại tôn sư võ học một đời trở thành như thế bất giác nhìn nhau thở dài. Lúc ấy tiếng kêu của Âu Dương Phong lúc đứt lúc nối đã cách mấy dặm, nhưng tiếng vọng trong sơn cốc vẫn vang lên không ngớt, nghe như sói kêu ma khóc, bốn người tuy đứng dưới ánh sáng mặt trời mà trong lòng đều cảm thấy ớn lạnh.

Hồng Thất công thở dài nói:

– Người này không sống được lâu đâu.

Quách Tĩnh đột nhiên nói một mình:

– Còn ta? Ta là ai?

Hoàng Dung biết y là người ngay thẳng, chỉ sợ y vất vả suy nghĩ về chuyện ấy lại càng ngơ ngẩn, vội nói:

– Ngươi là Quách Tĩnh. Tĩnh ca ca, đừng nghĩ về mình nữa, cứ nghĩ về việc của người ta thôi.

Quách Tĩnh giật mình tỉnh ngộ nói:

– Đúng thế. Sư phụ, Hoàng đảo chủ, chúng ta xuống núi thôi.

Hồng Thất công mắng:

– Tiểu tử ngốc, ngươi còn gọi y là Hoàng đảo chủ à? Ta lại tát cho ngươi mấy cái bây giờ.

Quách Tĩnh ngẩn người, chỉ thấy Hoàng Dung mặt đỏ bừng, như cười mà không phải cười, lập tức tỉnh ngộ, thẹn thùng kêu lên:

– Nhạc phụ!

Hoàng Dược Sư hô hô cười rộ, một tay kéo con gái, một tay kéo Quách Tĩnh, nói với Hồng Thất công:

– Thất huynh, đạo của võ học vô cùng vô tận, hôm nay nhìn thấy võ công của Lão Độc vật, quả thật khiến người ta vừa sợ vừa thẹn. Từ khi Trùng Dương chân nhân qua đời, càng không có ai là thiên hạ đệ nhất võ công nữa.

Hồng Thất công nói:

– Dung nhi thì công phu nấu nướng là thiên hạ đệ nhất, chuyện đó thì ta dám nói.

Hoàng Dung bĩu môi cười nói:

– Không cần phải khen, chúng ta xuống núi mau đi, con sẽ nấu vài món ăn ngon cho người là được.

Hồng Thất công, Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh, Hoàng Dung bốn người xuống Hoa sơn, Hoàng Dung giỏi lựa thức ngon, thạo việc nấu nướng, cho Hồng Thất công ăn một trận thỏa thích. Đêm ấy bốn người ngụ lại tái khách điếm, cha con Hoàng Dược Sư ngủ một phòng, Quách Tĩnh và Hồng Thất công ngủ một phòng.

Sáng hôm sau Quách Tĩnh tỉnh dậy thì Hồng Thất công ngủ trên giường đối diện không biết đã đi đâu trên bàn còn ba chữ lớn viết bằng mỡ:

– Ta đi đây.

Cũng không biết là dùng đùi gà hay giò heo viết lên.

Quách Tĩnh vội chạy qua báo cho cha con Hoàng Dược Sư. Hoàng Dược Sư thở dài nói:

– Thất huynh nhất sinh hành sự như con thần long, thấy đầu mà không thấy đuôi.

Rồi nhìn Quách Hoàng hai người mấy cái, nói:

– Tĩnh nhi, mẹ ngươi qua đời rồi, người thân nhất trên đời là đại sư phụ Kha Trấn ác của ngươi, ngươi theo ta tới đảo Đào Hoa mời đại sư phụ ngươi làm chủ hôn, hoàn thành hôn sự giữa ngươi và Dung nhi được không?

Quách Tĩnh buồn vui lẫn lộn, nói không nên lời, chỉ gật đầu liên tiếp. Hoàng Dung bĩu môi cười khẽ, định mắng y là:

– Thằng ngốc.

Nhưng đưa mắt nhìn cha một cái, lại nhịn không nói ra.

Ba người dọc đường du sơn ngoạn thủy, thong thả đi về phía đông nam, không phải một ngày đã tới địa hạt lộ nam Lưỡng Chiết, thấy đảo Đào Hoa đã không còn xa nữa, đột nhiên trên không có tiếng điêu kêu rất gấp, hai con bạch điêu từ phía bắc bay xuống.

Quách Tĩnh cả mừng, buông tiếng hú dài, đôi điêu đáp:

– Xuống đậu trên vai y.

Y lúc rời Mông Cổ lên đường vội vã chưa kịp mang theo đôi điêu. Lúc bấy giờ gặp lại vô cùng mừng rỡ, đưa tay không ngừng vuốt ve lưng điêu, chợt thấy chân con điêu trống có buộc một miếng đa cuộn thành cái ống nhỏ, vội mở ra xem, chỉ thấy bên trên dùng mũi đao nhọn rạch mấy hàng chữ Mông Cổ: "Quân ta tấn công xuống nam, định tập kích Tương Dương, biết ông tinh trung vì nước nên liều chết báo tin. Ta làm lụy mẹ ông chết thảm, thẹn thùng không còn mặt mũi nào gặp lại, qua thành xa ở phương tây nương tựa trưởng huynh, suốt đời không về đất cũ nữa. Mong ông tự trân trọng, hưởng phúc thọ vô cùng."

Trên tấm da ấy không đề lạc khoản nhưng Quách Tĩnh vừa nhìn thấy đã biết ngay là thủ bút của công chúa Hoa Tranh, lúc ấy bèn dịch văn tự Mông Cổ trên tấm da cho cha con Hoàng Dược Sư nghe. Rồi hỏi:

– Nhạc phụ, người nói nên làm thế nào?

Hoàng Dược Sư nói:

– Ở đây tuy gần Lâm An, nhưng báo cho triều đình biết thì người chấp chính chưa chắc đã tin, ngần ngừ không quyết, ắt lỡ việc lớn. Con tiểu hồng mã của ngươi cước lực mau lẹ, nên lập tức tới Tương Dương. Nếu viên trấn tướng ở đó chịu nghe lời thì ngươi giúp y giữ thành, nếu không thì cứ một chưởng đánh chết y, suất lãnh sĩ tốt bách tính cùng ngăn chặn đại quân Mông Cổ. Ta và Dung nhi ở đảo Đào Hoa chờ tin mừng.

Quách Tĩnh luôn miệng khen hay, Hoàng Dung trên mặt thì có vẻ không vui. Quả thật là biết con gái không ai bằng cha, Hoàng Dược Sư cười nói:

– Được, Dung nhi, ngươi đi đi. Làm xong việc lớn thì phải lập tức trở về, cho dù triều đình có phong thưởng cũng không nên đếm xỉa gì tới.

Hoàng Dung cả mừng, cười nói:

– Cái đó tự nhiên.

Hai người lạy chào cha, cùng cưỡi một ngựa giong cương đi về phía tây.

Quách Tĩnh chỉ sợ chậm mất một ngày, quân Mông Cổ đã phá thành rồi, lúc ấy thì thảm cảnh tàn sát khó có thể tưởng tượng, nên trên đường không dám trễ nải. Buổi tối hôm ấy hỏi nơi trú lại, thì đã tới nơi giáp giới giữa lộ nam Lường Chiết và lộ nam Giang Tây.

Quách Tĩnh cất miếng da có thủ bút của Hoa Tranh trong bọc, nhớ tới lúc nhỏ cùng Hoa Tranh, Đà Lôi nô đùa trên đại mạc, bao nhiêu tình cảnh đều như hiện ra trước mắt, vô cùng buồn thảm. Hoàng Dung mặc kệ y ngơ ngẩn xuất thần, cứ vá áo dưới đèn.

Quách Tĩnh chợt nói:

– Dung nhi, cô ta nói là làm lụy khiến mẹ ta chết thảm, thẹn không còn mặt mũi nào gặp ta, như thế là có ý gì?

Hoàng Dung nói:

– Cha cô ta bức tử mẹ ngươi, tự nhiên cô ta trong lòng khó xử.

Quách Tĩnh ờ một tiếng, cúi đầu nhớ lại tình hình trước và sau khi mẹ mất, đột nhiên nhảy bật dậy, đập mạnh xuống bàn một cái kêu lên

– Ta biết rồi, té ra là thế!

Hoàng Dung bị y làm giật mình, mũi kim đâm vào tay ứa máu, cười nói:

– Biết thế nào, cứ chuyện bé xé ra to, ngươi biết cái gì?

Quách Tĩnh nói:

– Ta và mẹ lén mở mật lệnh của đại hãn, quyết ý về nam, lúc ấy trong lều không có ai khác mà đại hãn lại lập tức biết ngay, bắt mẹ con ta tới, đến nỗi mẹ ta tự vẫn tựu nghĩa. Tại sao chuyện ấy lộ ra, trước nay ta vẫn không hiểu, té ra, té ra là cô ta.

Hoàng Dung lắc đầu nói:

– Công chúa Hoa Tranh thật lòng thương yêu ngươi, cô ta quyết không tố cáo làm hại ngươi đâu.

Quách Tĩnh nói:

– Cô ta không hại ta, nhưng là muốn giữ ta lại. Cô ta ở ngoài trướng nghe mẹ con ta nói chuyện, đi báo cho cha biết, chỉ cho rằng đại hãn nhất định sẽ giữ không cho ta đi, nào ngờ lại sinh ra đại họa như thế.

Nói xong liên tiếp thở dài.

Hoàng Dung nói:

– Đó là cô ta vô tình có lỗi, ngươi cũng nên tới Tây Vực tìm cô ta đi?

Quách Tĩnh nói:

– Ta và cô ta chỉ có tình nghĩa anh em, cô ta bây giờ sống dựa vào trưởng huynh, ở Tây Vực vô cùng tôn quý, ta đi tìm làm gì?

Hoàng Dung mỉm cười duyên dáng, trong lòng rất vui vẻ.

Hôm ấy hai người một ngựa tới huyện Thượng Nhiêu ở lộ nam Giang Tây, trên đường núi cỏ cao tới bụng ngựa, vô cùng hoang vắng, thấy phía trước có một dải rừng rậm tối đen. Đang trên đường đi, đôi bạch điêu trên không đột nhiên kêu lên tức giận sà mau xuống, chớp mắt đã khuất sau cánh rừng. Quách Hoàng hai người biết có chuyện lạ vội thúc ngựa đuổi theo. Vòng qua cánh rừng, chỉ thấy đôi điêu đang bay lượn lên xuống ác đấu với một người, nhìn tới thì ra là Bành trưởng lão của Cái bang. Chỉ thấy y huy động cương đao bảo vệ toàn thân, đao pháp mau lẹ hiểm độc đôi điêu tuy dũng mãnh nhưng cũng khó mà thủ thắng. Đấu được một lúc, con điêu trống đột nhiên liều mạng lao xuống quặp vào khăn của Bành trưởng lão mổ mạnh vào đầu y một cái. Bành trưởng lão cương đao vung lên, chém rụng một mớ lông cánh của nó.

Hoàng Dung thấy một bên đầu Bành trưởng lão trọc lóc, thiếu mất một miếng da, không hề mọc tóc, lập tức hiểu ra:

– Lần trước điêu nhi bị trúng tên, té ra là gã ăn mày xấu xa này bắn. Về sau đôi điêu ác đấu với người ta ở cạnh chợ Thanh Long, cào được một miếng da đầu thì cũng chính là gã ăn mày độc ác này.

Bèn cao giọng quát:

– Họ Bành kia, ngươi nhìn xem bọn ta là ai.

Bành trưởng lão ngẩng đầu thấy hai người, hoảng sợ tới mức hồn phi phách tán, quay ngươi định chạy.

Con điêu trống sà mau xuống mổ vào đỉnh đầu y. Bành trưởng lão vung đao bảo vệ trên đầu, con điêu mái bên cạnh cũng sà mau xuống, chiếc mỏ dài vươn ra mổ trúng mắt trái y. Bành trưởng lão kêu lớn một tiếng, ném cương đao xuống nhảy vào một bụi gai bên cạnh, bụi gai này rất rậm rạp, Bành trưởng lão tính mạng là quan trọng, còn kể gì tới việc bị gai cào, vừa lăn vừa bò rúc vào chỗ rậm rạp nhất. Lúc ấy thì đôi điêu đã không còn cách nào đả thương y nữa, chỉ là không chịu bỏ qua, cứ bay vòng quanh bụi gai không chịu đi.

Quách Tĩnh gọi đôi điêu, kêu lên:

– Y đã mất một mắt, tha cho y thôi.

Chợt nghe trong bụi cỏ rậm sau lưng vang lên mấy tiếng kêu, Quách Tĩnh kêu lên:

– A?

Tung người nhảy xuống ngựa, vạch bụi cỏ ra, chỉ thấy một đứa nhỏ ngồi dưới đất, bên cạnh lộ ra hai bàn chân đàn bà, vội vạch cỏ tiếp, chỉ thấy một cô ái áo xanh ngã ngất trên mặt đất, chính là Mục Niệm Từ.

Hoàng Dung vừa sợ vừa mừng, kêu lớn:

– Mục tỷ tỷ?

Rồi cúi xuống đỡ lên.

Quách Tĩnh bế đứa nhỏ lên, đứa nhỏ ánh mắt long lanh nhìn y chằm chằm, không hề sợ hãi. Hoàng Dung đẩy mấy cái lên người Mục Niệm Từ, lại dùng sức ấn lên mũi nàng.

Mục Niệm Từ dần dần tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy hai người, ngờ là đang trong mơ, run lên nói:

– Ngươi.. ngươi là Quách đại ca.. Hoàng muội tử..

Quách Tĩnh nói:

– Mục thế tỷ, tại sao lại ở đây? Cô không bị thương chứ?

Mục Niệm Từ chống tay muốn đứng lên, nhưng chưa đứng vững đã ngã xuống, chỉ thấy hai tay hai chân nàng đều bị trói chặt. Hoàng Dung vội bước qua cắt dây trói cho nàng. Mục Niệm Từ không quên đứa nhỏ mà Quách Tĩnh đang bế, định thần hồi lâu, mới có vẻ xấu hổ kể lại những chuyện đã qua.

Nguyên là Mục Niệm Từ thất thân với Dương Khang trên núi Thiết Chưởng, lại có mang, chỉ mong về tới nơi ở cũ tại phủ Lâm An, nhưng đi tới Thượng Nhiêu, thì đã không còn chi trì được nữa, bèn ngụ lại ở một gian nhà bỏ hoang trong rừng, không bao lâu thì sinh được một đứa con trai. Nàng không muốn thấy mặt người khác, định cứ ở lại trong rừng săn bắt hái lượm để sống, may là đứa nhỏ thông minh lanh lợi, cũng khiến nàng đỡ được nỗi hiu quạnh.

Hôm ấy nàng dắt con đi nhặt củi trong rừng, vừa khéo Bành trưởng lão đi qua, thấy nàng xinh đẹp sấn vào định có ý phi lễ. Mục Niệm Từ võ công tuy cũng không kém, nhưng Bành trưởng lão là một trong bốn đại trường lão của Cái bang, có thể sánh ngang với bọn Lỗ Hữu Cước, chỉ sau có Hồng Thất công mà thôi, Mục Niệm Từ tự nhiên không phải là đối thủ của y, không bao lâu đã bị y đánh ngã trói lại, vừa sợ vừa giận ngất đi. Nếu không phải là Quách Hoàng hai người đi ngang, mà đôi điêu ánh mắt sắc bén, từ trên không phát hiện được kẻ thù thì Mục Niệm Từ một đời khốn khổ, thế ắt lại phải chịu nhục với tên ác đồ này rồi.

Đêm ấy Quách Hoàng hai người nghỉ lại ở nhà Mục Niệm Từ. Hoàng Dung kể việc Dương Khang chết trong miếu Thiết Thương ở huyện Gia Hưng, thấy Mục Niệm Từ lệ rơi như mưa, có ý không quên tình cũ, càng không dám nói rõ chân tình, chỉ nói Dương Khang bị trúng độc của Âu Dương Phong, nghĩ thầm:

– Như thế cũng không phải mình bịa đặt, y há chẳng phải bị trúng chất độc của độc xà của Âu Dương Phong mà chết sao?

Quách Tĩnh thấy đứa nhỏ mặt mũi anh tuấn, nhớ tới việc kết nghĩa với Dương Khang, than thở không thôi. Mục Niệm Từ rơi lệ nói:

– Quách đại ca, xin ngươi đặt cho đứa nhỏ này một cái tên.

Quách Tĩnh nghĩ một lúc rồi nói:

– Ta và cha nó kết nghĩa anh em, chỉ đáng tiếc là kết thúc không hay, ta cũng chưa hết nghĩa với bạn bè, đó là một điều đáng ân hận trong đời. Chỉ mong đứa nhỏ này lớn lên có lỗi ắt sửa, ra sức làm điều nhân nghĩa, ta đặt tên cho nó là Dương Quá, tự Cải Chi, cô thấy được không?

Mục Niệm Từ cảm tạ nói:

– Chỉ mong được như lời Quách đại ca.

Sáng hôm sau, Quách Tĩnh và Hoàng Dung tặng Mục Niệm Từ nhiều tiền bạc để hai mẹ con sinh sống qua ngày. Quách Tĩnh khuyên nàng về Lâm An. Mục Niệm Từ chỉ lắc đầu không đáp, lát sau mới khẽ nói:

– Hai mẹ con ta tới miếu Thiết Thương ở Gia Hưng thăm mộ cha nó trước.

Ba người từ biệt nhau, buồn bã chia tay.

Hai người đi về phía tây tới lộ nam Lường Hồ, chuyển lên phía bắc, không phải một ngày tới Tương Dương, thấy dân tình yên ổn chợ búa sầm uất, hoàn toàn không có dấu hiệu chiến tranh, biết đại quân Mông Cổ chưa tới, trong lòng cũng được an ủi. Tương Dương là trọng trấn phía bắc của nhà Nam Tống, có đặt chức An phủ sứ, lại thêm tinh binh bảo vệ. Quách Tĩnh nghĩ tới quân tình khẩn cấp, không kịp ghé nhà trọ, cùng Hoàng Dung tìm tới yết kiến An phủ sứ Lữ Văn Đức.

Vị An phủ sứ này tay cầm binh phù, oai phong lẫm liệt, Quách Tĩnh tuy ở Mông Cổ từng làm nguyên soái nhưng ở Nam Tống thì chỉ là một người dân thường áo vải, làm sao gặp được y? Hoàng Dung biết không có tiền không xong, bèn tiếng người giữ cửa một lượng vàng. Người giữ cửa tuy lập tức biến sắc, lộ vẻ mừng rỡ, nhưng xếp ngày tiếp khách của An phủ sứ thì mau nhất cũng phải sau nửa tháng, lúc ấy chỉ tiếp kiến các đại quan quý nhân, cũng chưa chắc đã có thể gặp được Quách Tĩnh. Quách Tĩnh sốt ruột kêu lên:

– Quân tình khẩn cấp, làm sao chờ được?

Hoàng Dung vội đưa mắt ra hiệu, kéo y qua một bên, hạ giọng nói:

– Tối nay xông vào gặp!

Hai người tìm nơi nghỉ ngơi, chờ đến quá canh hai thi triển khinh công đột nhập vào phủ An phủ sứ. An phủ sứ Lừ Văn Đức đang ôm người thiếp ngồi cao uống rượu nghe nhạc, toàn tâm toàn ý vỗ về người thiếp của mình. Quách Hoàng hai người nhảy vào, Quách Tĩnh vái dài nói:

– Tiểu nhân có chuyện quân vụ khẩn cấp xin bẩm báo.

Lữ Văn Đức cả kinh quát lớn:

– Có thích khách!

Rồi đẩy người thiếp ra chui xuống gầm bàn. Quách Tình sãi chân bước tới, nắm một cái nhấc y lên nói:

– An phủ sứ đừng sợ, tiểu nhân không có ý làm hại.

Rồi đẩy y ngồi vào chỗ cũ.

Lữ Văn Đức sợ tới mức mặt không còn huyết sắc chỉ run lẩy bẩy. Chợt thấy dưới thềm có mấy mươi tên quân sĩ xông vào, đều cầm đao thương, sấn tới định cứu. Hoàng Dung rút chuỷ thủ ra chĩa vào ngực Lữ Văn Đức. Đám quân sĩ đồng thanh quát tháo nhưng không dám sấn lên. Hoàng Dung nói:

– Ngươi bảo họ đừng làm ầm lên, bọn ta có chuyện muốn nói.

Lữ Văn Đức tay chân run bần bật hạ lệnh, đám quân sĩ lúc bấy giờ mới im lặng.

Quách Tĩnh thấy y nắm quân một mặt, lãnh trọng nhiệm ngăn giặc giữ đất mà lại bị thịt như thế, trong lòng thầm than thở, lúc ấy bèn báo tin đại quân Mông Cổ sắp đánh úp Tương Dương, xin y lập tức điều binh khiển tướng, bố trí chướng ngại vật để giữ thành. Lữ Văn Đức trong bụng hoàn toàn không tin, nhưng miệng thì liên tiếp vâng dạ. Hoàng Dung thấy y cứ phát run, bèn hỏi:

– Người có nghe không?

Lữ Văn Đức nói:

– Nghe.. nghe rồi.

Hoàng Dung hỏi:

– Nghe cái gì?

Lữ Văn Đức nói:

– Có.. có quân Kim sắp tới đánh úp, phải chuẩn bị đề phòng, phải chuẩn bị đề phòng.

Hoàng Dung tức giận nói:

– Là quân Mông Cổ, không phải quân Kim!

Lừ Văn Đức giật nảy mình, nới:

– Quân Mông Cổ à? Không phải đâu. Mông Cổ và thừa tướng chúng ta liên minh đánh Kim, quyết không có ý khác.

Hoàng Dung nghiến răng nói:

– Ta nói quân Mông Cổ thì là quân Mông Cổ.

Lữ Văn Đức gật đầu lia lịa, nói:

– Cô nương nói quân Mông Cổ thì là quân Mông Cổ.

Quách Tĩnh nói:

– Tính mệnh nhà cửa của bách tính trong quận toàn nằm trong tay đại nhân. Tương Dương là bình phong của Nam triều, đại nhân phải thật lưu ý.

Lữ Văn Đức nói:

– Không sai, không sai, lão huynh nói không sai chút nào. Mời lão huynh cứ về thôi.

Quách Hoàng hai người thở dài một tiếng, vượt tường ra ngoài, chỉ nghe sau lưng mọi người quát tháo ầm lên:

– Bắt thích khách, bắt thích khách!

Ầm ĩ một hồi.

Hai người chờ hai ngày, thấy trong thành không có động tĩnh gì, Quách Tĩnh nói:

– Gã An phủ sứ này thật đáng ghét! Chẳng bằng theo lời nhạc phụ, cứ giết y trước rồi sẽ định kế.

Hoàng Dung nói:

– Trong vòng vài ngày quân giặc sẽ tới. Gã cẩu quan này giết không có gì đáng tiếc, chỉ là trong thành tất nhiên sẽ đại loạn, quân không có tướng, khó mà chống địch.

Quách Tĩnh cau mày nói:

– Đúng thế, nhưng làm sao bây giờ?

Hoàng Dung trầm ngâm nói:

– Trong Tả truyện có chép một chuyện cũ gọi là Huyền Cao khao quân, hay chúng ta cứ theo cách ấy.

Quách Tĩnh mừng rỡ nói:

– Dung nhi, đọc sách quả thật là rất có ích. Đó là chuyện gì, cô mau nói cho ta nghe, xem chúng ta có học được không.

Hoàng Dung nói:

– Học thì có thể học, chỉ là phải mượn thân xác của ngươi để dùng một phen.

Quách Tĩnh sửng sốt nói:

– Cái gì?

Hoàng Dung không đáp, lại bật ra tiếng cười khúc khích.

Nàng cười một lúc mới nói:

– Được, ta kể chuyện ấy cho ngươi nghe. Vào thời Xuân thu, nước Trịnh có một thương nhân tên Huyền Cao, y ra ngoài buôn bán, trên đường gặp đại quân nước Tần đang tới đánh úp nước Trịnh. Lúc ấy nước Trịnh hoàn toàn không đề phòng, chỉ e quân Tần mà tới là sẽ lập tức mất nước. Huyền Cao tuy là thương nhân nhưng rất yêu nước, lúc ấy nghĩ ra một kế, một mặt sai người liền đêm về báo cho Trịnh bá, mình thì dắt mười hai con bò tới gặp chủ tướng quân Tần nói là vâng lệnh Trịnh bá tới khao quân. Tướng Tần cho rằng nước Trịnh đã có phòng bị, không dám đánh úp nữa, lập tức đem quân về.

Quách Tĩnh mừng rỡ nói:

– Kế ấy rất hay, nhưng tại sao lại nói phải mượn thân xác của ta?

Hoàng Dung cười nói:

– Không phải là cần mười hai con bò sao? Ngươi tuổi con trâu, có phải không?

Quách Tĩnh nhảy bật dậy kêu lên:

– Giỏi lắm, cô quanh co để chửi ta.

Rồi đưa ngón tay cù nàng. Hoàng Dung phá ra cười bỏ chạy.

Hai người trò chuyện một lúc, Hoàng Dung nói:

– Đêm nay chúng ta vào phủ An phủ sứ lấy trộm một mớ vàng bạc của y, sáng mai ta sẽ mặc nam trang, khoác quần áo nhà quan, ra ngoài khao thưởng đại quân Mông Cổ, xem có thể lừa được họ lui quân không.

Quách Tĩnh vỗ tay khen hay. Đêm ấy hai người theo kế mà làm, gã An phủ sứ này kiếm được vàng bạc chất cao như núi, hai người trộm được một bao vàng bạc lớn và một bộ quan phục, người trong phủ đều ngủ say không biết. Hoàng Dung đổi mặc quan phục, rõ ràng là một viên quý quan tuấn tú, lúc ấy mang vàng bạc lên con tiểu hồng mã phi về phía bắc.

Đến giờ Ngọ hôm sau, Quách Tĩnh ngóng cổ chờ ở cửa bắc, chỉ thấy con tiểu hồng mã phi nhứ bay trong đám bụi mù, vội bước ra đón. Hoàng Dung kéo cương ngựa, mặt hiện vẻ hoảng sợ, run lên nói:

– Đại quân Mông Cổ e có hơn mười vạn, chúng ta làm sao chống cự được?

Quách Tĩnh giật nảy mình nói:

– Nhiều đến thế à?

Hoàng Dung nói:

– Xem ra Thành Cát Tư Hãn đã dốc cả nước tới đánh, định một trận diệt Tống. Ta đem vàng bạc tặng cho viên đại tướng tiên phong, y không choán được chúng ta đã biết tin, nói mượn đường để đánh Kim chứ không phải là đánh Tống. Ta dùng lời lẽ vạch trần chân tướng, y kinh nghi bất định, lập tức dừng ngựa lại không tiến, chắc là sẽ hồi báo lại với đại nguyên soái.

Quách Tỉnh nói:

– Nếu họ lui quân thì tự nhiên không gì tốt bằng, nhưng chỉ sợ.. nhưng chỉ sợ..

Hoàng Dung nhướng mày nói:

– Xem thanh thế của quân Mông Cổ như thế nhất định sẽ không chịu khinh dị rút lui.

Quách Tĩnh nói:

– Cô nghĩ cách nào hay đi.

Hoàng Dung lắc đầu nói:

– Ta đã nghĩ suốt một ngày một đêm rồi. Tĩnh ca ca, nếu nói đơn đả độc đấu thì trong thiên hạ chỉ có hai ba người thắng được ngươi thôi, dù địch nhân có mười người trăm người cũng không đáng gì với hai chúng ta cả, nhưng hiện tại địch quân là hàng ngàn hàng vạn hàng chục vạn người thì còn có cách gì được?

Quách Tĩnh thở dài nói:

– Quân dân Đại Tống chúng ta so với người Mông Cổ thì đông gấp mười lần, nếu hàng vạn người chung lòng thì còn sợ gì tinh binh Mông Cổ? Chỉ hận là hận nhà vua hèn nhát hôn ám, dối dân hại nước.

Hoàng Dung nói:

– Quân Mông Cổ không tới thì thôi, chứ nếu tới chúng ta giết một người là được một người, lúc nguy cấp thế này chúng ta còn có có thể nhờ được con tiểu hồng mã, cũng không cần lo việc thiên hạ tới mức như thế.

Quách Tĩnh nghiêm trang nói:

– Dung nhi câu ấy không đúng đâu. Chúng ta học binh pháp trong di thư của Vũ Mục, há lại không học bốn chữ Tinh trung báo quốc mà Nhạc Vũ Mục dạy? Hai chúng ta người đơn lực bạc nhưng cũng phải tận tâm kiệt lực, vì nước chống giặc. Cho dù mất mạng ở sa trường, cũng không uổng một phen cha mẹ sư phụ nuôi dạy.

Hoàng Dung thở dài nói:

– Ta vốn biết khó mà tránh khỏi có ngày hôm nay. Thôi thôi thôi, ngươi sống thì ta cũng sống, ngươi chết thì ta cũng chết là được.

Hai người bàn bạc xong, trong lòng lại thấy khoan khoái lúc ấy trở về chỗ trọ, đối ẩm trò chuyện, nghĩ tới việc quân địch vào cõi, đối diện với cảnh sinh ly tử biệt, so với ngày trước càng thân thiết hơn. Uống đến canh hai, chợt nghe ngoài thành vang lên tiếng kêu khóc ầm ầm, từ xa xa vẳng lại, võ cùng thê thảm.

Hoàng Dung kêu lên:

– Tới rồi!

Hai người nhảy phắt dậy, chạy lên đầu thành chỉ thấy nạn dân ngoài thành ùn ùn kéo tới, dắt già bế trẻ, dòng người cuồn cuộn không dứt.

Nào ngờ quan thủ thành ra lệnh cho quân sĩ đóng chặt cửa thành, không cho nạn dân vào thành. Qua không ban lâu, Lữ Văn Đức phái thêm quân sĩ giương cung lắp tên chĩa vào nạn dân quát thét đuổi lui. Nạn dân dưới thành kêu lớn "Quân Mông cổ đánh tới rồi!". Quan thủ thành cứ nhất định không chịu mở cửa. Nạn dân dưới thành kêu gào khóc lóc, tiếng khóc vang trời.

Quách Hoàng hai người đứng trên thành phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy từ xa có một con rồng lửa ngoằn ngoèo bò tới, rõ ràng là cánh tiên phong của quân Mông Cổ đã tới. Quách Tĩnh ở dưới trướng của Thành Cát Tư Hãn lâu ngày, biết rõ thói quen công thành của quân Mông Cổ, luôn luôn là bắt tù binh giặc lên thành trước, nhìn thấy mấy vạn nạn dân tập trung dưới thành, đội tiên phong của quân Mông Cổ mà tới, thì quân dân trong thành ngoài thành Tương Dương thế không khỏi bị tàn sát bằng hết.

Lúc ấy tình thế khẩn cấp, đã không thể còn ngần ngừ, Quách Tĩnh đứng trên thành vung tay quát lớn:

– Nếu thành Tương Dương bị quân Mông Cổ hạ, thì không ai sống được, ai là hảo hán mau theo ta xông ra chống giặc!

Quan thủ thành phía bắc là thân tín của Lữ An phủ, nghe Quách Tĩnh kêu gọi như thế, tức giận quát:

– Gian tặc dám làm loạn nhân tâm, mau bắt nó xuống đây?

Quách Tĩnh từ trên thành nhảy xuống, tay phải vươn ra đã nắm ngực viên quan thủ thành nhấc cao lên, mình thì nhảy lên con ngựa của y.

Trong quan binh vốn có nhiều người trung nghĩa, nhìn thấy nạn dân kêu khóc dưới thành đã rất bất nhẫn, lúc ấy thấy Quách Tĩnh bắt được quan thủ thành, bất giác vừa mừng vừa sợ, không ai xông lên cứu giúp trưởng quan. Quách Tĩnh quát:

– Mau truyền lệnh mở cửa thành!

Quan thủ thành tính mạng là gấp, chỉ đành theo lời ra lệnh Cửa bắc mở toang, nạn dân như sóng ùn ùn đổ vào.

Quách Tĩnh giao viên quan thủ thành cho Hoàng Dung coi giữ, lại định cầm thương giục ngựa ra thành. Hoàng Dung nói:

– Chờ một lúc!

Rồi sai quan thủ thành cởi hết áo giáp mũ trụ cho Quách Tĩnh mặc, rỉ tai Quách Tĩnh nói:

– Giả truyền thánh chỉ, đem quân ra thành.

Rồi lật tay phất vào huyệt đạo của viên quan thủ thành, vứt y xuống phía sau cổng thành. Quách Tĩnh nghĩ kế này rất hay, lúc ấy cao giọng quát:

– Vâng thánh chỉ: An phủ sứ thành Tương Dương Lữ Văn Đức hôn ám bất tài, lập tức cách chức, các tướng sĩ theo ta ra thành chống giặc!

Y nội công thâm hậu, mấy câu ấy vận khí đan điền phát thoại, tuy trong thành ngoài thành đang huyên náo nhưng người nào cũng nghe thấy rất rõ, trong chớp mắt tất cả đều im phăng phắc. Trong lúc hoảng loạn, quân sĩ làm sao còn phân biệt thật giả?

Lại thêm trong quân trên dưới đối với Lữ Văn Đức trước nay vẫn có lòng nghi ngờ, biết y nhu nhược sợ chết, lúc ấy cường địch vào cõi, giữa lúc kinh hoàng luống cuống chợt nghe thấy lệnh hôn quan bị cách chức, có người dẫn quân ra chống giặc, bốn phía đều bật lên tiếng hoan hô.

Quách Tĩnh dẫn sáu bảy ngàn người ngựa ra thành, nhìn thấy quân dung không tề chỉnh, đội ngũ rối loạn, làm sao có thể đối địch với tinh binh Mông Cổ?

Nghĩ lại trong di thư của Vũ Mục có nói: "Việc gấp thì dùng kỳ binh, binh nguy thì dùng trá kế". Bèn lập tức truyền lệnh, sai hơn ba ngàn quân sĩ ra mai phục phía đông sau núi, nghe một tiếng pháo lệnh thì đồng thời hò reo, phất cờ, nhưng không ra đánh, lại sai hơn ba ngàn quân mai phục phía tây sau núi, nghe tiếng pháo hiệu thứ hai cũng reo hò phất cờ, hư trương thanh thế. Thống lĩnh hai đội quân thấy Quách Tĩnh đã có mưu kế, chỉ huy rõ ràng, đều vâng lệnh dẫn quân đi.

Đến lúc nạn dân đã vào hết trong thành, trời đã sáng hẳn. Tai nghe tiếng chiêng khua vang, tiếng vó ngựa rầm tập phi tới, nhìn thấy bụi bốc mù mịt, cánh tiên phong của quân Mông Cổ đã kéo tới dưới thành.

Hoàng Dung lấy một ngọn thương một con ngựa trong quân theo sát Quách Tĩnh. Quách Tĩnh cao giọng ra lệnh:

– Mở toang bốn cổng thành! Quân dân trong thành đều phải núp cả trong nhà, ai dám ra ngoài đi lại sẽ chém lập tức!

Thật ra y không ra lệnh như thế thì quân dân trong thành cũng đã sớm ẩn núp không thấy bóng dáng đâu, những người can đảm đều đã ra mai phục ở hai bên đông tây sau núi, còn loại khiếp nhược như Lữ Văn Đức nếu không chui xuống gầm bàn niệm lớn Cứu khổ cứu nạn cao hoàng kinh thì núp trong chăn run lên cầm cập.

Mấy trăm thiết ky quân Mông Cổ sầm sập phóng tới như gió, chỉ thấy cửa thành Tương Dương mở toang, hai thiếu niên một nam một nữ cười ngựa cầm thương đứng trước điếu kiều chỗ hào thành. Viên Thiên phu trưởng tiên phong nhìn thấy rất kinh ngạc, không dám xông lên, phóng ngựa về báo cho viên Vạn phu trưởng ở hậu đội. Viên Vạn phu trưởng trận mạc đã nhiều, nghe báo cảm thấy kỳ lạ, nghĩ thầm trên đời làm gì có chuyện ấy, vội giục ngựa phóng tới trước thành, từ xa nhìn thấy Quách Tĩnh đã giật nảy mình. Lúc y tây chinh, mấy lần thấy Quách Tĩnh dùng kế lạ đánh thành phá giặc, đánh đâu thắng đó, đem quân trên không nhảy xuống phá thành Tán Ma Nhĩ Hãn lại càng khâm phục sát đất, trong quân Mông Cổ đến nay vẫn còn truyền tụng, lúc ấy thấy Quách Tĩnh đứng trước thành, trong thành lại vắng ngắt không có nửa bóng người, đoán ắt là y dùng diệu kế, đâu dám tấn công. Lúc ấy xuống ngựa ôm quyền làm lễ, kêu lên:

– Kim đao phò mã ở trên, tiểu nhân xin thi lễ.

Quách Tĩnh vái lại một vái chứ không nói gì. Viên Vạn phu trưởng kéo quân lùi lại phi báo với thống soái. Qua hơn một giờ, dưới ngọn cờ đại độc phất phơ có một đội quân mặc giáp sắt loảng xoảng phi tới, xúm xít quanh một tướng quân thiếu niên phóng tới trước thành, chính là Tứ vương tử Đà Lôi.

Đà Lôi phóng ngựa lên trước gọi lớn:

– Quách Tĩnh an đáp ngươi khỏe không?

Quách Tĩnh thúc ngựa phóng ra nói:

– Đà Lôi an đáp, té ra là ngươi à?

Hai người nếu lúc bình thường gặp nhau nhất định sẽ vui mừng ôm chằm lấy nhau, nhưng lúc này còn cách nhau ngoài năm trượng thì không hẹn mà cùng kìm ngựa lại.

Quách Tĩnh nói:

– An Ðáp, ngươi dẫn quân tới đánh Đại Tống ta phải không?

Đà Lôi đáp:

– Ta vâng lệnh phụ hoàng, không tự chủ được, xin ngươi thứ lỗi.

Quách Tĩnh đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy cờ xí như mây, ánh đao lóe tuyết, không biết có bao nhiêu người ngựa, nghĩ thầm: "Đội thiết ky này mà xông tới thì Quách Tĩnh ta hôm nay nhất định phải mất mạng ở đây". Lúc ấy lớn tiếng đáp:

– Được, vậy ngươi tới đây lấy mạng ta trước đi!

Đà Lôi hơi hoảng sợ, nghĩ thầm:

– Người này dùng binh như thần, mình quả thật không phải là địch thủ của y, huống chi mình với y tình còn hơn cốt nhục, há lại làm tổn thương tình anh em kết nghĩa.

Nhất thời ngần ngừ không quyết định được.

Hoàng Dung quay đầu lại vung tay phải một cái, quân sĩ trong thành bắn pháo hiệu, đùng một tiếng vang rền, phía đông sau núi quân sĩ ầm ầm reo hò, cờ xí phất cao. Đà Lôi biến sắc, chỉ nghe tiếng pháo nổ liên thanh, phía tây sau núi lại có quân địch hò reo, nghĩ thầm:

– Không xong, quân ta rơi vào ổ mai phục rồi.

Y theo Thành Cát Tự Hãn đánh đông dẹp bắc đâu chỉ thân trải trăm trận mà thôi, trận lớn nào cũng đã thấy qua, có coi mấy vạn quân sĩ mai phục ra gì? Nhưng lúc tây chinh Quách Tĩnh đã bộc lộ tài năng, Đà Lôi vốn vẫn sợ phục, lúc ấy thấy tình thế khác lạ, trong lòng đã e sợ, lập tức truyền lệnh đổi hậu quân làm tiền quân, lui về ba mươi dặm hạ trại.

Quách Tĩnh thấy quân Mông Cổ lui về, cùng Hoàng Dung nhìn nhau cười.

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca, chúc mừng ngươi dùng kế không thành lập công.

Quách Tĩnh vẻ tươi cười lập tức thu lại, lo lắng hiện ra mặt, lắc đầu nói:

– Đà Lôi là người kiên nhẫn quả cảm, tuy hôm nay lui quân nhưng ngày mai nhất định sẽ lại tới, lúc ấy làm sao mà ngăn chặn?

Hoàng Dung trầm ngâm hồi lâu, nói:

– Chỉ có một kế, chỉ sợ ngươi nghĩ tới tình kết nghĩa không chịu làm thôi.

Quách Tĩnh hoảng sợ nói:

– Cô muốn ta đi hành thích y à?

Hoàng Dung nói:

– Y là đứa con út rất được thương yêu của đại hãn, tôn quý vô cùng, không phải như các đại tướng cầm quân khác. Tứ hoàng tử mà chết, quân địch ắt lui.

Quách Tĩnh cúi đầu không nói gì, quay trở vào thành.

Quân dân trong thành tuy thấy quân địch đã lui, nhưng khắp nơi vẫn xôn xao nhốn nháo. Lữ Văn Đức nghe nói Quách Tĩnh nói một câu đã khiến đại quân Mông Cổ rút lui, mừng rỡ đích thân tới chỗ hai người bái phỏng, muốn mời hai người tới phủ uống rượu ăn mừng. Quách Tĩnh bàn kế sách giữ thành với y. Lữ Văn Đức vừa nghe y nói quân Mông Cổ ngày mai sẽ tới đánh thành, lập tức sợ nhũn cả người, hồi lâu không nói nên lời chỉ kêu lên:

– Sắp kiệu về phủ, sắp kiệu về phủ.

Y đã quyết ý đêm nay sẽ bỏ thành chạy về phía nam.

Quách Tĩnh buồn bã không vui, không thiết ăn uống, trời tối dần, nghe tiếng kêu khóc vang lên khắp thành, nghĩ thầm: "Giờ này ngày mai trong thành Tương Dương e không còn một thần dân Đại Tống nào còn sống". Quân Mông Cổ lấy máu rửa thành y đã chính mắt nhìn thấy không ít, tình trạng thảm sát ở thành Tán Ma Nhĩ Hãn ngày trước không ngừng hiện ra trong đầu, đập mạnh xuống bàn một cái kêu lên:

– Dung nhi, người xưa vì đại nghĩa diệt thân, hôm nay ta há còn nghĩ tới nghĩa bạn bè?

Hoàng Dung thở dài nói:

– Chuyện này vốn rất khó khăn.

Quách Tĩnh trong lòng đã quyết, lúc ấy lập tức thay đồ dạ hành, cùng Hoàng Dung cưỡi con tiểu hồng mã ra cửa bắc thành, tới gần khu vực quân Mông Cổ thì thả ngựa vào núi, đi bộ tìm tới trướng Đà Lôi. Hai người bắt được hai tên quân canh đêm, điểm huyệt lột hết quần áo mặc vào. Tiếng Mông Cổ thì Quách Tĩnh từ nhỏ đã nói quen, quy định trong quân cũng không điều gì không biết, lúc ấy không hề tốn chút sức lực đã tới cạnh trướng đại tướng. Lúc ấy sắc trời đã tối đen, hai người núp sau trướng, ghé mắt vào cửa trướng nhìn trộm.

Chỉ thấy Đà Lôi trong trướng đi qua đi lại, thần sắc không vui, miệng chỉ kêu lên:

– Quách Tĩnh, An Ðáp! An Ðáp, Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh không hiểu, chỉ cho rằng y đã phát hiện ra tông tích của mình, suýt nữa buột miệng lên tiếng. Hoàng Dung đã sớm đề phòng, vừa thấy y há miệng, lập tức đưa tay bịt miệng y. Quách Tĩnh thầm mắng mình ngu xuẩn, vừa thấy buồn cười, vừa thấy khó xử. Hoàng Dung nói khẽ vào tai y "Động thủ đi, đại trượng phu phải tùy cơ quyết đoán, chần chừ vô ích".

Đúng lúc ấy, chợt nghe xa xa có tiếng vó ngựa vang lên rất gấp, một kỵ mã phóng mau tới trước trướng. Quách Tĩnh biết có tin khẩn cấp, ghé vào tai Hoàng Dung nói:

– Để nghe quân tình xong sẽ giết y cũng không muộn.

Chỉ thấy một viên sứ giả áo vàng tung người nhảy xuống ngựa, bước thẳng vào trướng, dập đầu với Đà Lôi bẩm:

– Tứ vương tử, đại hãn có lệnh.

Đà Lôi nói:

– Đại hãn nói gì?

Viên sứ giả kia quỳ dưới tấm nệm, bắt đầu hát lên. Nguyên là người Mông Cổ khai hóa chưa lâu, tuy đã có văn tự, nhưng Thành Cát Tư Hãn đã không biết chữ, không biết viết, có chỉ ý gì chỉ sai sứ giả truyền miệng, chỉ sợ là có điều lầm sót truyền sai lệnh, thường biến chỉ lệnh thành bài hát, sai sứ giả học thuộc lòng, hát đi hát lại không sai mới được lên đường.

Viên sứ giả kia chỉ mới hát ba câu, Đà Lôi và Quách Tĩnh đã giật nảy mình, Đà Lôi thì ứa nước mắt. Nguyên là Thành Cát Tư Hãn sau khi tiêu diệt Tây Hạ bị mắc bệnh, gần đây ngày càng nặng, tự biết không khỏi, triệu Đà Lôi mau ban sư để về gặp. Đoạn cuối lệnh chỉ nói:

– Hàng ngày rất nhớ nhung Quách Tĩnh, nếu Đà Lôi ở phía nam biết được y ở đâu, thì phải gọi y lên bắc để vĩnh biệt đại hãn, những tội y phạm đều tha cho cả.

Quách Tĩnh nghe tới đó, đưa chuỷ thủ ra rạch vải lều chui vào trong kêu lên:

– Đà Lôi an đáp, ta đi với ngươi.

Đà Lôi giật nảy mình, thấy là Quách Tĩnh không kìm được vui mừng, hai người ôm chầm lấy nhau. Viên sứ giả nhận ra Quách Tĩnh bèn bước lên dập đầu nói:

– Kim đao phò mã, đại hãn có chỉ, mời người nhất định phải về kim trướng gặp mặt.

Quách Tĩnh nghe bốn chữ Kim đao phò mã, trong lòng hoảng sợ, chỉ sợ Hoàng Dung nghĩ ngợi vội nhảy ra ngoài, kéo tay Hoàng Dung nói:

– Dung nhi, ta và cô cùng đi cùng về.

Hoàng Dung trầm ngâm không đáp. Quách Tĩnh nói:

– Cô tin ta không?

Hoàng Dung duyên dáng mỉm cười, nói:

– Nếu ngươi còn muốn làm phò mã phò ngưu gì đó thì ta cũng sẽ đại nghĩa diệt thân, một đao chọc tiết ngươi.

Ngay đêm ấy Đà Lôi hạ lệnh rút quân, sáng hôm sau đại quân lên đường.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung trở lại tìm con tiểu hồng mã và đôi điêu. Rồi theo quân lên bắc. Đà Lôi chỉ sợ không kịp thấy mặt cha, lệnh phó tướng dẫn quân về sau, mình cùng Quách Hoàng hai người phóng ngựa đi mau trước, không đầy một tháng đã về tới kim trướng của Thành Cát Tư Hãn ở Tây Hạ. Đà Lôi từ xa nhìn thấy ngọn cờ đại độc chín chòm lông vẫn dựng trước Kim trướng không có gì lạ, biết cha vẫn còn khỏe, reo lớn một tiếng, thúc ngựa phóng tới trước trướng.

Quách Tĩnh kìm ngựa nhớ lại ơn Thành Cát Tư Hãn nuôi dưỡng, cái ơn tri ngộ, mối thù giết mẹ, việc tàn sát thê thảm, nhất thời thương giận lẫn lộn, cúi đầu không nói gì. Chợt nghe tiếng tù và thổi vang, hai hàng Tiễn đồng vệ sĩ bày ra hai hàng trước kim trướng. Thành Cát Tư Hãn mặc áo cừu lông điêu đen, vịn vai phải Đà Lôi từ trong trướng rảo chân bước ra. Y cước bộ tuy vẫn còn mau lẹ như xưa nhưng đặt xuống đất hơi run, thân hình cũng loạng choạng. Quách Tĩnh bước lên trước lạy rạp xuống đất.

Thành Cát Tư Hãn lệ nóng tràn lên mắt, run giọng nói:

– Đứng lên, đứng lên? Ta ngày nào cũng nhớ tới các ngươi.

Quách Tĩnh đứng lên, chỉ thấy đại hãn mặt đầy nếp nhăn, hai má hóp vào, xem ra không còn sống bao lâu, bất giác lòng thù hận tiêu giảm hết. Thành Cát Tư Hãn tay kia vịn vai trái Quách Tĩnh, nhìn nhìn Đà Lôi, lại nhìn nhìn Quách Tĩnh, thở dài một hơi, đưa mắt nhìn ra đại mạc xa xa, ngơ ngẩn xuất thần. Quách Tĩnh và Đà Lôi không biết y đang nghĩ ngợi gì, đều không dám lên tiếng.

Qua hồi lâu Thành Cát Tư Hãn thở dài nói:

– Lúc đầu ta cùng Trát Mộc Hợp an đáp kết nghĩa dấy quân, nào ngờ cuối cùng ta lại không giết y không được Ta làm đại hãn của thiên hạ rồi, y thì chết trong tay ta. Lại qua mấy hôm nữa thì sao? Ta lại chẳng cũng xuống đất vàng như y à? Ai thắng ai bại, rốt lại có gì khác nhau đâu?

Rồi vỗ vỗ vai hai người, nói:

– Các ngươi phải nên thủy chung hòa hảo, ngàn muôn lần đừng giết chóc lẫn nhau. Trát Mộc Hợp an đáp chết rồi, ta mỗi khi nhớ tới tình kết nghĩa, thì lại trọn đêm không sao chợp mắt.

Đà Lôi và Quách Tĩnh nhớ tới lúc dưới thành Tương Dương suýt nữa liều mạng sống chết với nhau, đều thầm xấu hổ.

Thành Cát Tư Hãn đứng một lúc, cảm thấy toàn thân rã rời, đang muốn quay về, chợt thấy một toán người ngựa phóng tới. Người đi đầu mặc áo trắng thắt đai vàng, mặc quần áo nước Kim. Thành Cát Tư Hãn thấy người tới là địch nhân, tinh thần đột nhiên phấn chấn.

Người ấy nhảy xuống ngựa từ xa, rảo bước tới gần, từ xa lạy rạp xuống đất không dám tới gần. Đám thị vệ tâu "Sứ giả nước Kim cầu kiến đại hãn".

Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:

– Nước Kim không chịu đầu hàng, còn sai người tới gặp ta làm gì?

Viên sứ giả kia nằm rạp dưới đất nói:

– Hạ bang tự biết mạo phạm thiên uy của đại hãn, tội đáng muôn chết, xin hiến một ngàn viên minh châu tổ truyền, xin đại hãn bớt giận tha tội. Một ngàn viên minh châu này là bảo vật của hạ bang, xin thỉnh cầu đại hãn ra ơn nhận cho

Sứ giả bẩm xong, cởi bao phục trên lưng lấy ra một cái mâm ngọc, lại lấy trong bọc ra vô số minh châu, quỳ xuống dưới đất, hai tay bưng mâm ngọc đưa lên. Thành Cát Tư Hãn liếc qua chỉ thấy trong mâm có hàng ngàn viên minh châu, đều to xấp xỉ bằng đầu ngón tay út, xoay vòng quanh một viên minh châu lớn. Viên minh châu ấy quả thật là bảo vật hiếm có trên đời, huống chi hàng ngàn viên? Huống chi ngoài viên minh châu lớn, số minh châu còn lại đều to xấp xỉ nhau. Chỉ thấy ánh trân châu sáng rực lóng lánh soi sáng lẫn nhau, trên mâm ngọc như có một cái cầu vồng phủ lên. Nếu là lúc bình thời thì tự nhiên Thành Cát Tư Hãn rất vui vẻ, nhưng lúc ấy y cau mày mấy cái nói với đám thị vệ:

– Nhận lấy.

Đám thị vệ đón lấy mâm ngọc. Viên sứ giả thấy đại hãn thu nhận lễ vật vô cùng mừng rỡ, nói:

– Đại hãn cho giảng hòa, hạ bang từ vua tới dân đều cảm ơn đức.

Thành Cát Tư Hãn tức giận nói:

– Ai nói cho giảng hòa? Ta trở về sẽ phát binh tiêu diệt bọn chó Kim. Tả hữu đâu, bắt lấy nó!

Đám thị vệ đổ tới bắt lấy viên sứ giả.

Thành Cát Tư Hãn thở dài nói:

– Cho dù có ngàn viên minh châu cũng khó có thể cho ta sống thêm được một ngày!

Rồi đón lấy cái mâm ngọc trong tay thị vệ, ném mạnh xuống đất, cả mâm lẫn ngọc lăn tròn, cái mâm ngọc rơi xuống bậc đá, lập tức vỡ nát. Mọi người đều hoảng sợ ngạc nhiên.

Số châu ngọc ấy về sau tướng sĩ Mông Cổ nhặt được rất nhiều nhưng vẫn còn rất nhiều vương vãi trong bãi cỏ, đến mấy trăm năm sau trên thảo nguyên thỉnh thoảng vẫn có mục dân nhặt được.

Thành cát Tư Hãn chán nản quay về kim trướng. Đến xế chiều y gọi một mình Quách Tĩnh theo đi dạo trên thảo nguyên. Hai người giục ngựa cùng đi, được hơn mười dặm chợt nghe trên đầu có mấy tiếng chim điêu kêu, ngẩng nhìn thấy đôi bạch điêu đang lượn vòng trên không. Thành Cát Tư Hãn giương cung lắp tên nhắm thẳng vào con điêu mái. Quách Tĩnh hoảng sợ kêu lên:

– Đại hãn, đừng bắn!

Thành Cát Tư Hãn tuy đã già yếu nhưng ra tay vẫn rất mau lẹ, Quách Tĩnh vừa bật tiếng kêu, mũi tên đã bắn ra.

Quách Tĩnh thầm kêu khổ, y vốn biết Thành Cát Tư Hãn tý lực hơn người, tên bắn không mũi nào sai, phát tên ấy bắn ra, con chim điêu yêu quý ắt phải mất mạng, nào ngờ con điêu mái ngoắt qua tránh khỏi, cánh trái vỗ một cái đập mũi tên rơi xuống đất. Con điêu trống cả giận rít lớn một tiếng lao xuống mổ vào đầu Thành cát Tư Hãn. Quách Tĩnh quát:

– Súc sinh, muốn chết à?

Rồi vung roi đánh con điêu trống. Con điêu trống thấy chủ nhân ra tay bèn vòng lên không, kêu lên mấy tiếng, cùng con điêu mái song song bay đi.

Thành Cát Tư Hãn thần sắc buồn thảm, ném cung tên xuống đất, nói:

– Mấy mươi năm nay đây là lần đầu tiên ta bắn điêu không trúng, chắc là đúng tới lúc chết rồi.

Quách Tĩnh định an ủi nhưng không biết nói thế nào. Thành Cát Tư Hãn đột nhiên kẹp hai chân một cái thúc ngựa phi mau lên phía bắc. Quách Tĩnh sợ y bị sơ xuất phóng ngựa vượt lên, con tiểu hồng mã lướt đi như gió trong chớp mắt đã vượt qua ngựa y.

Thành Cát Tư Hãn kìm cương nhìn quanh, chợt nói:

– Tĩnh nhi, đất nước to lớn mà ta dựng nên, xưa nay chưa từng có ai bằng được, từ giữa đất nước đi tới những nơi xa xôi nhất, đông nam tây bắc đều phải đi đường mất một năm. Ngươi nói các anh hùng cổ kim có ai hơn ta không?

Quách Tĩnh trầm ngâm một lúc rồi nói:

– Đại hãn võ công hơn đời, xưa nay không ai bằng. Chỉ là đại hãn một mình oai phong hiển hách, nhưng thiên hạ lại không biết có bao nhiêu đống xương trắng chồng chất, làm chảy không biết bao nhiêu nước mắt của cô nhi quả phụ.

Thành Cát Tư Hãn trợn mắt lên, giơ roi ngựa muốn đánh lên đầu Quách Tĩnh, nhưng thấy y ngang nhiên không sợ đưa mắt nhìn mình, chiếc roi ngựa vung lên nửa chừng lại buông xuống, quát:

– Ngươi nói gì?

Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Từ nay trở đi chưa chắc đã có dịp gặp lại đại hãn, cho dù khiến y tức giận thì ý nghĩ trong lòng cũng phải nói rõ", lúc ấy ngang nhiên nói:

– Đại hãn, người nuôi con dạy con, bức tử mẹ con, đó là chuyện ân oán riêng tư, lúc này không cần nói nữa. Con chỉ muốn hỏi người một câu. Sau khi người ta chết, chôn xuống đất rồi thì chiếm hết bao nhiêu đất?

Thành Cát Tư Hãn sửng sốt, ngọn roi khua lên mấy vòng, nói:

– Cái đó thì chẳng đáng bao nhiêu.

Quách Tĩnh nói:

– Đúng thế, vậy người giết chết bấy nhiêu người, làm đổ bấy nhiêu máu, chiếm được bấy nhiêu nước, rốt lại dùng để làm gì?

Thành Cát Tư Hãn im lặng không đáp.

Quách tĩnh lại nói:

– Xưa nay bậc anh hùng khiến cho đương thời kính ngưỡng, đời sau nhớ tiếc ắt là kẻ tạo phúc cho dân, thương yêu bách tính. Theo con thấy thì giết nhiều người cũng chưa chắc đã đáng gọi là anh hùng.

Thành Cát Tư Hãn nói:

– Chẳng lẽ suốt đời ta chưa từng làm chuyện gì tốt à?

Quách Tĩnh nói:

– Chuyện tốt thì tự nhiên là có, nhưng chuyện lớn hơn là người nam chinh tây phạt, xác chết chất thành núi, đâu là công đâu là tội cũng rất khó nói.

Y tính tình thẳng thắn, nghĩ gì nói nấy.

Thành Cát Tư Hãn nhất sinh tự phụ, lần này lại bị y dồn cho một chặp như thế, đã khó biện bác, nghĩ lại chuyện trước, giục ngựa quay đầu, không kìm được chán nản, lát sau ọe một tiếng, phun ra một búng máu tươi.

Quách Tĩnh giật nảy mình, mới biết mình ăn nói nặng lời, vội đưa tay đỡ y, nói:

– Đại hãn, người về nghỉ ngơi thôi. Con ăn nói có điều mạo phạm, xin người tha tội.

Thành Cát Tư Hãn cười nhạt một tiếng, khuôn mặt trắng bệch như sáp, thở dài nói:

– Tả hữu của ta không ai to gan bằng ngươi, dám nói mấy câu thật lòng với ta.

Rồi lập tức nhướng mày, trên mặt hiện vẻ ngạo nghễ, cao giọng nói:

– Ta nhất sinh tung hoành thiên hạ, diệt quốc vô số mà ngươi lại nói không phải là anh hùng à? Hà, đúng là lời trẻ con!

Vung roi đánh mạnh con ngựa một cái, phi mau trở về.

Đêm ấy Thành Cát Tư Hãn băng trong kim trướng, lúc lâm tử vẫn lẩm bẩm:

– Anh hùng, anh hùng..

Chắc trong lòng vẫn suy nghĩ về lần trò chuyện ấy của Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung hướng về di thể đại hãn làm lễ xong, từ biệt Đà Lôi, ngay hôm ấy lên đường về nam. Suốt đường về thấy xương khô rải rác khắp nơi trong bụi cỏ, không kìm được bùi ngùi, nghĩ thầm hai người tuy được vẹn tình đôi lứa, có thể nói là không có gì phải ân hận, nhưng người đời khổ nạn càng sâu, không biết ngày nào mới được thái bình.

Đúng là:

Sau loạn tro còn ấm, Thôn nghèo mấy nóc nhà.

Qua đò không khách sớm, Cát lạnh ánh trăng tà!

Comments

0 comments

TrướcTiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Thần điêu hiệp lữ

upload_2021-11-30_11-26-9.png

Một trong những tiểu thuyết võ hiệp hay nhất viết về tình yêu. Một mối tình khiến giang hồ dấy động can qua, quý khốc thần sầu, trở thành bất hủ.

Những tấm chân tình trong sáng, cao đẹp.. dù chỉ đơn phương, nhưng ngàn lần đáng phục, đáng trọng.

Không ít mối tình si hóa nỗi hận thù khiến con người bi phẫn trở nên tàn nhẫn và đáng thương.

Những cuộc chiến tang thương khốc liệt, máu chảy đầu rơi, khi cả dân tộc Trung Hoa phải đối mặt với gót sắt xâm lược của đội quân Mông Cổ..

Tất cả những cung bậc của tình yêu đôi lứa, tình yêu dân tộc đều hiện diện đủ đầy trong Thần Điêu Hiệp Lữ dưới ngòi bút sắc sảo tinh tế của đại tác gia Kim Dung. Tất cả đã tạo nên sức quyến rũ độc đáo cho Thần Điêu Hiệp Lữ trong lòng độc giả Việt Nam suốt mấy thập niên qua và đó vẫn sẽ là một trong những kiệt tác võ hiệp hấp dẫn nhất, luôn sẵn sàng chinh phục nhiều thế hệ độc giả trong tương lai.​
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 01: Phong nguyệt vô tình

Ẩn ẩn ca thanh quy trạo viễn

Ly sầu dẫn trước Giang Nam ngạn

Bờ thu Việt nữ hái sen,

Vờn tay áo lụa ẩn khoen xuyến vàng.

Hái hoa hoa ánh mặt nàng,

Lòng đây chỉ khốn nỗi quàng tơ vương.

Hỏi dòng Kê Xích phong sương,

Mù thâm khói nhẹ chung đường bạn đâu?

Chèo về ca vẳng bến đầu,

Bờ lan một dải mây sầu Giang Nam.

Tiếng hát nhẹ nhàng uyển chuyển vang vang trên mặt hồ. Tiếng hát phát ra từ một chiếc thuyền nhỏ, có năm thiếu nữ đang vui vẻ vừa cười nói, ca hát, vừa hái sen. Bài ca các nàng đang hát là bài từ "Điệp luyến hoa" của đại từ nhân Âu Dương Tu thời Bắc Tống sáng tác, miêu tả đúng cảnh thiếu nữ người Việt hái sen, tuy chỉ vỏn vẹn có năm mươi chữ, nhưng thời gian giờ giấc, mùa trong năm, địa điểm, cảnh vật, cùng dung mạo, đồ trang sức, y phục, tâm tình của các thiếu nữ Việt, mọi thứ đều được miêu tả hết sức sinh động, nhất là hai câu sau, trong tả cảnh có kể chuyện, trong chuyện kể có ẩn tình, từ gần đến xa ý tứ vô cùng. Âu Dương Tu làm quan ở miền Giang Nam lâu năm, du sơn ngoạn thủy nhiều nơi, thơ ông rất giàu tình ý. Người đời Tống bất luận quan chức quí nhân hay thường dân xóm nhỏ, khi lấy nước bên bờ giếng, khi bẻ liễu trên bờ sông, khi hái sen trong hồ, đều thường thích thú ngâm ngợi các bài từ của ông.

Bấy giờ vào thời Nam Tống Lý Tông, ở vùng hồ Gia Hưng. Gần tiết Trung thu, lá sen tàn dần, hạt sen chắc mẩy. Tiếng hát vọng tới chỗ một đạo cô đang ngồi bên hồ. Đạo cô lặng lẽ ngồi dưới hàng liễu đã lâu, làn gió lay động tà áo bào màu vàng nhạt của bà ta, thổi tung mái tóc lòa xòa phủ gáy, bao ý nghĩ ngổn ngang trong đầu, thật đúng là trong lòng trăm mối tơ vò. Chỉ nghe tiếng hát xa dần, vẫn là ca từ của Âu Dương Tu, nhưng đã là bài khác, nghe văng vẳng trong gió câu "Trăng gió vô tình người đổi dạ, dấu xưa như mộng nát tan lòng.." (°)((°) 風月無情人暗換, 舊游如夢空腸斷–Phong nguyệt vô tình nhân ám hoán, cựu du như mộng không trường đoạn, Điệp luyến hoa – Âu Dương Tu)

Lời ca chưa dứt, đã nghe tiếng cười khúc khích từng chặp. Vị đạo cô thở dài, giơ tay trái, nhìn lòng bàn tay nhuốm đầy máu tươi, lẩm bẩm một mình: "Có gì đáng cười kia chứ? Lũ trẻ hát mà chẳng hiểu nỗi tương tư sầu khổ, cái ý thương cảm trong bài từ". Cách phía sau đạo cô hơn mười trượng, có một lão nhân râu dài, áo bào xanh, cũng ngồi bất động, chỉ khi nghe câu "Trăng gió vô tình người đổi dạ, dấu xưa như mộng nát tan lòng.." thì mới khe khẽ thở dài. Con thuyền nhỏ lướt trên mặt nước phẳng như gương. Năm thiếu nữ trên thuyền, có ba nàng mười lăm mười sáu tuổi, hai nàng kia đều lên chín. Hai thiếu nữ ít tuổi nhất là chị em họ, cô chị họ Trình tên Anh; cô em họ Lục tên Vô Song, hơn kém nhau nửa tuổi.

Ba thiếu nữ lớn vừa hát vừa chèo thuyền ra khỏi đám lá sen, Trình Anh nói:

– Biểu muội nhìn kìa, vị lão bá kia vẫn còn ngồi ở đó.

Cô bé vừa nói vừa chỉ về phía lão nhân ngồi dưới gốc liễu. Lão nhân đầu tóc rối bù, râu tua tủa như lông nhím, râu tóc còn đen mướt, chứng tỏ tuổi còn trẻ, vậy mà mặt đầy các nếp nhăn sâu như một ông cụ bảy tám mươi, mình bận chiếc áo dài màu lam, trước ngực quàng lên cổ một chiếc yếm dãi của trẻ sơ sinh, trên yếm thêu cảnh con mèo hoa đuổi bướm, chiếc yếm dãi đã sờn rách từ lâu.

Lục Vô Song nói:

– Ông già quái dị ấy ngồi đó đã nửa ngày, sao chẳng thấy động đậy gì hết?

Trình Anh nói:

– Đừng gọi là ông già quái dị, hãy gọi là "lão bá bá". Biểu muội mà gọi là ông già quái dị, thì người ta sẽ giận đấy.

Lục Vô Song cười nói:

– Như thế mà còn không phải là ông già quái dị nữa sao? Già thế kia mà còn đeo yếm dãi. Lão ta mà giận, râu tóc dựng ngược lên, trông càng vui mắt.

Nói đoạn cô bé nhặt một cái gương sen trong thuyền ném về phía quái khách.

Chiếc thuyền cách vị quái khách mấy trượng, Lục Vô Song tuy ít tuổi, nhưng sức ném đã không yếu, lại rất chuẩn. Trình Anh vội gọi:

– Biểu muội!

Định ngăn lại, nhưng đã không kịp, chỉ thấy cái gương sen bay thẳng tới mặt vị quái khách. Quái khách hất hàm một cái, đã ngậm được cái gương sen, chẳng buồn giơ tay cầm, dùng lưỡi điều khiển mà nhai cả cái gương sen rau ráu. Năm thiếu nữ thấy quái khách nhai tuốt cả vỏ lẫn hạt sen, chẳng sợ đắng, thì nhìn nhau kinh ngạc rồi cùng cười khúc khích, chèo thuyền vào bờ rồi bước lên bờ hồ.

Trình Anh tới bên cạnh quái khách, giật giật vạt áo của lão ta, nói:

– Lão bá bá, ăn như thế không ngon đâu.

Cô bé lấy trong giỏ ra một cái gương sen, bẻ lấy mười mấy hạt sen, rồi lại bóc vỏ xanh, tách vứt cái tâm đắng, mới đưa cho quái khách. Quái khách nhai vài miếng, cảm thấy thơm ngon hơn hẳn thứ vừa ăn ban nãy, thì nhoẻn miệng cười với Trình Anh, gật gật gù gù.

Trình Anh lại đưa cho quái khách mấy hạt sen nữa, quái khách bỏ tất vào mồm nhai nghiến ngấu, rồi ngửa mặt lên trời, nói:

– Có theo ta chăng?

Đoạn lão sải bước đi về hướng tây.

Lục Vô Song kéo tay Trình Anh, nói:

– Biểu tỷ chúng mình đi theo xem sao đi.

Ba thiếu nữ lớn hơn nhưng nhát gan, vội can:

– Mau về nhà thôi, đừng đi xa mà bị mẹ mắng cho đấy.

Lục Vô Song dẩu môi làm trò quỷ, thấy quái khách đã đi một quãng xa, bèn nói:

– Biểu tỷ không đi thì thôi.

Đoạn buông tay Trình Anh mà đuổi theo quái khách. Trình Anh trước giờ luôn luôn chơi đùa với biểu muội, nay không bảo được nó về thì đành đi theo nó vậy. Ba thiếu nữ lớn hơn mấy tuổi nhưng non gan, chỉ gọi với theo vài tiếng thì quái khách và hai chị em Trình, Lục đã trước sau khuất vào bãi dâu xanh.

Quái khách đi rất nhanh, thấy hai cô bé chân ngắn theo không kịp, đã mấy lần dừng lại chờ, cuối cùng sốt ruột, bèn dang hai cánh tay dài, mỗi tay kẹp một cô bé vào nách mà đi như bay. Hai cô bé chỉ nghe gió ù ù bên tai, cỏ cây đất đá hai bên đường cứ vùn vụt trôi qua trước mắt. Lục Vô Song cảm thấy sợ, vội kêu:

– Đặt điệt nhi xuống, đặt điệt nhi xuống thôi!

Quái khách chẳng buồn lý đến, lại còn lướt đi nhanh hơn.

Lục Vô Song bèn ngẩng lên, há mồm cắn thật mạnh vào cạnh bàn tay lão ta một cái. Cạnh bàn tay của quái khách dai cứng, khiến mấy cái răng non của Lục Vô Song đau tê đi, cô bé đành nhả ra, không cắn nữa, nhưng chẳng chịu yên, cứ la hét ầm lên. Trình Anh thì lẳng lặng không nói gì.

Quái khách chạy một chặng nữa rồi mới đặt hai cô bé xuống đất. Chỗ này là một bãi tha ma, Trình Anh sợ tái mặt, riêng Lục Vô Song thì mặt mày đỏ gay. Trình Anh nói:

– Lão bá bá chúng điệt nhi muốn về nhà thôi, chúng điệt nhi không chơi với lão bá bá nữa đâu!

Quái khách đưa mắt nhìn cô bé một cái, không nói gì. Trình Anh thấy ánh mắt của quái khách chứa đựng một nỗi buồn ảm đạm hết sức đáng thương, thì không khỏi động lòng trắc ẩn, bèn nhẹ nhàng nói:

– Nếu không có ai chơi với lão bá bá thì ngày mai lão bá bá hãy tới bên hồ, chúng điệt nhi sẽ lại bóc hạt sen mời lão bá bá ăn.

Quái khách thở dài, nói:

– Đúng thế, mười năm rồi không có ai chơi đùa với ta.

Đột nhiên lão ta quắc mắt, giận dữ quát to:

– Hà Nguyên Quân đâu? Hà Nguyên Quân đâu rồi?

Trình Anh thấy lão ta bỗng dưng trở mặt, thì sợ hãi, ấp úng nói:

– Điệt nhi.. điệt nhi.. điệt nhi không biết.

Quái khách túm lấy tay cô bé, lắc lắc thân hình cô bé mấy cái, gằn giọng, hỏi:

– Hà Nguyên Quân đâu?

Trình Anh sợ quá, nước mắt lưng tròng, nhưng cố không để nước mắt trào ra. Quái khách nghiến răng nói:

– Khóc đi, khóc đi! Sao ngươi không khóc hả? Mười năm trước, ngươi bằng ngần này đây. Ta không bằng lòng gả ngươi cho hắn. Ngươi bảo ngươi không nỡ xa ta, nhưng không thể không đi theo hắn. Ngươi bảo ngươi rất cảm kích ân tình của ta, rất đau lòng khi phải xa ta. Hừ, toàn những lời dối trá. Nếu ngươi thật sự đau lòng, tại sao ngươi không khóc hả?

Lão ta hầm hầm nhìn Trình Anh. Trình Anh sợ mất mật rồi, nhưng nước mắt vẫn chưa trào ra. Khi quái khách nắm cánh tay lắc người cô bé, cô bé cắn môi, nghiến răng chịu đau, nghĩ thầm: "Ta không khóc, quyết không khóc!". Quái khách nói:

– Hừ ngươi nhất định không chịu rơi một giọt nước mắt vì ta, ta còn sống làm gì kia chứ?

Đột nhiên lão ta buông tay Trình Anh, cúi người xuống, đập đầu vào một tấm bia nghe "Bịch" một tiếng, quái khách lập tức ngã lăn bất tỉnh. Lục Vô Song gọi:

– Biểu tỷ, chạy mau.

Rồi kéo Trình Anh quay người chạy đi. Trình Anh chạy được vài bước, thấy quái khách đầu bê bết máu, thì trong lòng không nỡ, nói:

– Hình như lão bá bá đập đầu chết rồi, mình lại coi xem sao.

Lục Vô Song nói:

– Người chết biến thành ma thì phải?

Trình Anh giật mình, vừa sợ lão ta biến thành ma, vừa sợ lỡ lão ta đột nhiên hồi tỉnh, lại tóm lấy tay mình mà nói nhưng lời điên khùng kỳ quái, nhưng thấy lão ta mặt mũi chan hòa máu tươi, trông thật đáng thương, thì tự nhủ: "Lão bá bá không hóa thành ma đâu mà phải sợ, lão bá bá sẽ không túm lấy mình nữa đâu!", cô bé đánh bạo từ từ lại gần, gọi:

– Lão bá bá, đau lắm phải không?

Quái khách rên một tiếng, không trả lời. Trình Anh bạo hơn, lấy khăn tay chặn chỗ vết thương lại cho lão ta. Nhưng lão ta đập đầu quá mạnh, vết thương quá nặng trong giây lát máu xối ra làm ướt sũng cả cái khăn. Trình Anh bèn dùng tay trái ấn chặt vết thương, một lát sau thì máu ngừng chảy. Quái khách mở mắt he hé, nhìn thấy Trình Anh ngồi bên cạnh, thì thở dài:

– Ngươi lại đi cứu ta làm gì thế? Sao không để ta chết quách cho xong.

Trình Anh thấy lão ta hồi tỉnh, cả mừng, hỏi nhẹ:

– Lão bá bá đầu có đau lắm không?

Quái khách lắc đầu, buồn rầu nói:

– Đầu không đau, nhưng lòng đau.

Trình Anh nghe vậy, lấy làm lạ, nghĩ thầm: "Đầu thủng một miếng lớn lại bảo đầu không đau, nhưng lòng đau là sao nhỉ?". Rồi chẳng cần hỏi thêm, cô bé bèn cởi dây lưng băng vết thương cho lão ta.

Quái khách thở dài, đứng dậy, nói:

– Ngươi quyết không chịu gặp lại ta, thế thì chúng ta chia tay ở đây hay sao? Ngươi không chiu rơi một giọt nước mắt vì ta hay sao?

Trình Anh nghe giọng lão ta hết sức thương tâm, lại thấy khuôn mặt xấu xí của lão tuy bê bết máu, nhưng đầy vẻ cầu khẩn, thì bất giác mủi lòng, hai dòng nước mắt trào ra. Quái khách thấy nước mắt của cô bé, thì sắc mặt nửa vui sướng, nửa đau buồn òa lên khóc.

Trình Anh thấy ông lão khóc một cách đau khổ, thì nước mắt cô bé cứ ứa ra ròng ròng, cô bé đưa hai tay bíu lấy cổ ông lão. Lục Vô Song nhìn cảnh hai người chẳng hiểu sao đứng ôm nhau mà khóc, thì thấy buồn cười quá, nhịn không được, liền cười phá lên.

Quái khách nghe tiếng cười, ngửa mặt thở dài:

– Phải rồi, miệng bảo vĩnh viễn không xa rời ta, nhưng vừa mới lớn đã quên hết những lời đã nói, chỉ còn nhớ mỗi cái gã mặt trắng mới quen thôi. Ngươi cười sung sướng lắm hả!

Quái khách cúi đầu, chăm chú nhìn Trình Anh, nói:

– Đúng, đúng, ngươi đúng là bé Nguyên Quân của ta. Ta không cho ngươi đi, ta không cho phép ngươi đi theo tên súc sinh mặt trắng ấy đâu.

Nói rồi lão ta túm chặt lấy Trình Anh.

Lục Vô Song thấy lão già nổi cơn kích động, thì không dám cười nữa.

Quái khách nói:

– Nguyên Quân, ta đã tìm được ngươi rồi. Hai cha con ta về nhà thôi. Từ nay trở đi con sẽ mãi mãi ở bên cha.

Trình Anh nói:

– Lão bá bá ơi, cha của điệt nhi chết từ lâu rồi.

Quái khách nói:

– Ta biết, ta biết mà. Ta là nghĩa phụ của con, con không muốn thế hay sao?

Trình Anh khẽ lắc đầu:

– Điệt nhi làm gì có nghĩa phụ.

Quái khách tức giận đẩy cô bé ra, quát to:

– Nguyên Quân, đến nghĩa phụ mà mi cũng không chịu nhận hả?

Trình Anh đáp:

– Lão bá bá ơi, điệt nhi là Trình Anh, chứ không phải là Nguyên Quân của lão bá bá.

Quái khách lẩm bẩm:

– Mi không phải là Nguyên Quân ư? Không phải là Nguyên Quân của ta ư?

Lão ngẩn người một lát, rồi nói:

– Ờ, hai mươi năm trước, Nguyên Quân mới lớn bằng ngươi bây giờ. Nguyên Quân bây giờ lớn quá rồi, đâu cần đến cha nữa. Trong lòng nó chỉ có mỗi mình tên súc sinh Lục Triển Nguyên mà thôi.

Lục Vô Song ồ lên một tiếng, hỏi:

– Lục Triển Nguyên ư?

Quái khách chăm chú nhìn Lục Vô Song, hỏi:

– Ngươi quen biết Lục Triển Nguyên phải không?

Lục Vô Song mỉm cười, nói:

– Dĩ nhiên điệt nhi quen biết vì người ấy là bác ruột của điệt nhi.

Quái khách đột nhiên hầm hầm tức giận, chộp lấy hai vai Lục Vô Song, hỏi:

– Hắn.. hắn.. tên.. súc sinh ấy hiện giờ ở đâu? Mau dẫn ta đến gặp hắn.

Lục Vô Song tuy hoảng sợ, nhưng lại tức cười, nói:

– Bá bá của điệt nhi ở gần đây thôi, lão bá bá muốn gặp bá bá của điệt nhi thật à? Hì hì!

Quái khách nói:

– Phải, phải, ta tìm bên hồ Gia Hưng suốt ba ngày qua chính là để tính sổ với tên súc sinh ấy. Này bé con, ngươi dẫn ta đi, ta sẽ không làm gì ngươi đâu.

Giọng lão ta đã dịu lại, lão ta buông tay ra. Lục Vô Song dùng tay phải xoa xoa vai trái, nói:

– Lão bá bá bóp vai điệt nhi đau quá. Bá bá của điệt nhi ở chỗ nào, điệt nhi quên mất rồi.

Quái khách trợn ngược đôi lông mày, định nổi giận, nhưng nghĩ chẳng nên bắt nạt một đứa bé con, nên đổi giận làm lành, mỉm cười, thò tay vào túi, nói:

– Ồ, là công công không tốt, công công sẽ đền cho điệt nhi. Công công có kẹo cho điệt nhi đây.

Nhưng tay lão ta không rút ra khỏi túi, chắc là không tìm được cái kẹo nào.

Lục Vô Song vỗ tay cười, nói:

– Lão bá bá không có kẹo, nói dối không biết ngượng. Thôi được điệt nhi sẽ cho lão bá biết bá bá của điệt nhi đang ở đâu.

Rồi cô bé chỉ tay về phía có hai cây hòe cao cao ở đằng xa, nói:

– Bá bá của điệt nhi ở chỗ ấy đấy.

Quái khách vươn hai cánh tay dài, lại kẹp hai cô bé vào nách mà đi như bay về phía hai cây hòe. Lão ta đi vội, gặp dòng mương rộng cản đường, lão nhảy phốc qua dễ dàng. Loáng một cái, ba người đã tới bên hai cây hòe. Quái khách đặt hai cô bé xuống, thấy dưới gốc hòe có hai ngôi mộ, một ngôi có tấm bia đề sáu chữ "Lục công Triển Nguyên chi mộ" tấm bia thứ hai có bảy chữ "Lục môn Hà phu nhân chi mộ".

Cỏ trên hai ngôi mộ rất dày và xanh, rõ ràng an táng đã lâu.

Quái khách ngây người nhìn tấm bia, lẩm bẩm:

– Tên súc sinh Lục Triển Nguyên chết rồi ư? Chết khi nào vậy?

Lục Vô Song cười hì hì, đáp:

– Đã ba năm rồi.

Quái khách cười nhạt, nói:

– Chết khéo lắm, chết khéo lắm, chỉ tiếc là ta không thể tự tay lấy đi cái mạng chó của hắn.

Nói đoạn lão ngửa mặt lên trời cười ha hả, tiếng cười vọng đi rất xa, nghe đầy vẻ sầu khổ bi thương, chứ không có chút gì gọi là vui mừng.

Lúc này trời đã sắp tối, một màn sương mờ mờ phủ lên cỏ cây. Lục Vô Song kéo áo Trình Anh, nói nhỏ:

– Chúng mình về thôi.

Quái khách nói:

– Tên súc sinh chết rồi, Nguyên Quân còn ở lại làm gì? Ta phải đón nó về nước Đại Lý. Này bé con, ngươi mau đưa ta đi tìm bà cô.. của ngươi, thê tử của bá bá ngươi ấy mà.

Lục Vô Song chỉ tấm bia thứ hai, nói:

– Lão bá chưa đọc à? Bà ấy cũng chết rồi.

Quái khách đứng bật dậy, quát to như sấm:

– Ngươi vừa nói là thật hay giả? Nó cũng chết rồi ư?

Lục Vô Song mặt trắng bệch, run run nói:

– Cha điệt nhi bảo rằng sau khi bá bá của điệt nhi mất, thì cô của điệt nhi cũng chết theo. Điệt nhi không biết đâu, điệt nhi không biết rõ đâu. Lão bá đừng dọa điệt nhi sợ lắm!

Quái khách đấm ngực, kêu to:

– Nó chết rồi, nó chết rồi ư? Đâu có thể như thế, ngươi còn chưa gặp lại ta, quyết không thể chết được. Ta đã hẹn ngươi mười năm sau nhất định ta sẽ tới thăm ngươi kia mà. Tại sao ngươi không.. không chịu chờ ta kia chứ?

Quái khách vừa hét vừa nhảy như một con hổ điên, bỗng dưng đá một cái vào gốc hòe, khiến cây hòe lớn lung lay mạnh, cành lá rào rào. Trình Anh và Lục Vô Song nắm tay nhau lùi ra xa, đâu dám tới gần.

Chỉ thấy quái khách đột nhiên ôm vòng thân cây hòe mà lay như định nhổ nó lên. Nhưng cây hòe to chắc thế kia, ai mà nhổ nổi? Quái khách rống lên:

– Ngươi, chính miệng ngươi tự nói mà, chẳng lẽ đã quên rồi sao?

Giọng lão nhỏ dần. Lão ngồi phệt xuống, hai tay vận kình, một luồng khí nóng từ đỉnh đầu từ từ bốc lên như hơi nước sôi, các bắp cơ trên hai cánh tay cuồn cuộn, lão nhổm dậy, tì lưng bốc cây hòe lên, miệng thét "Lên này". Nhưng gốc hòe trước sau không hề suy suyển, chỉ nghe "rắc" một tiếng lớn, nửa thân cây phía trên bị gãy rời. Quái khách ôm nửa thân cây gãy đó, ngây ra, nói:

– Chết rồi, chết rồi.

Đoạn hất nó ra xa, nó bay đi chẳng khác gì một cây dù. Quái khách đứng trước mộ, lẩm bẩm:

– Không sai Lục môn Hà phu nhân chính là Nguyên Quân rồi.

Mắt lão hoa lên, hai tấm bia hóa thành hai bóng người, một là thiếu nữ trắng trẻo tươi như hoa, một là thiếu niên cao lớn, tuấn tú. Hai người sánh vai bên nhau.

Quái khách trừng mắt mắng:

– Mi quyến rũ đứa con gái ngoan của ta, ta phải giết mi.

Lão giơ ngón trỏ tay phải chúi người thẳng tới, chọc mạnh vào giữa ngực gã thiếu niên, chợt cảm thấy đau buốt như gãy ngón tay; thì ra lão chọc đúng vào tấm bia đá, hình bóng gã thiếu niên đã không còn nữa. Quái khách cả giận, quát:

– Mi chạy đi đâu nào?

Rồi song chưởng đánh ra, bộp bộp hai tiếng, trúng vào tấm bia. Lão càng đánh càng giận, càng giận thì chưởng lực càng mạnh, sau hơn mười chưởng, hai bàn tay đã bê bết máu tươi. Trình Anh lòng không nỡ, lên tiếng can:

– Lão bá bá, đừng đánh nữa, càng đánh càng đau tay mình mà thôi.

Quái khách cưới ha hả, nói:

– Ta không đau, ta phải đánh chết tên súc sinh Lục Triển Nguyên mới được.

Lão đang cười, chợt ngừng bặt, ngẩn ra một lát, nói:

– Ta phải nhìn mặt ngươi, ta không thể không nhìn mặt ngươi.

Hai tay lão giơ ra, mười ngón tay như mười cái dùi cắm xuống ngôi mộ có tấm bia "Lục môn Hà phu nhân chi mộ". Cánh tay lão gồng lên, móc luôn hai tảng đất khỏi mộ. Rồi chỉ thấy hai bàn tay lão như hai cái lưỡi xẻng cứ liên tiếp hất từng vốc đất của ngôi mộ lên.

Trình Anh và Lục Vô Song sợ mặt cắt không còn hột máu, không hẹn mà cùng quay người bỏ chạy.

Quái khách mải đào mộ, không để ý. Hai cô bé chạy một hồi, qua mấy khúc quành, không thấy lão ta đuổi theo, mới đỡ lo. Hai đứa không biết đường, vừa đi vừa hỏi thăm thôn dân, mãi khi trời tối hẳn mới về tới cổng lớn của Lục gia trang.

Lục Vô Song há miệng gọi to:

– Không hay rồi, không hay rồi! Cha ơi, mẹ ơi, mau ra đi, có lão già điên khùng đang đào mộ vợ chồng đại bá bá đó.

Cô bé chạy vội vào đại sảnh, thấy phụ thân là Lục Lập Đỉnh đang ngẩng đầu, ngẩn ngơ nhìn lên tường.

Trình Anh cùng theo vào đại sảnh, hai cô bé đưa mắt nhìn lên tường, thấy trên đó in rõ ba hàng bàn tay máu, hàng trên hai bàn tay, hàng giữa hai bàn tay, hàng dưới năm bàn tay, tổng cộng chín bàn tay đỏ như máu.

Lục Lập Đỉnh nghe tiếng gọi của con gái, vội hỏi:

– Con bảo sao?

Lục Vô Song nói:

– Thưa cha, có lão già điên khùng đang đào mộ vợ chồng đại bá.

Lục Lập Đỉnh kinh ngạc, đứng dậy quát:

– Nói nhảm!

Trình Anh nói:

– Thưa di trượng, là thật đấy ạ.

Lục Lập Đỉnh biết con mình nghịch ngợm tinh quái, còn Trình Anh thì trước giờ không khi nào bịa chuyện, bèn hỏi:

– Sự việc thế nào?

Lục Vô Song bèn liến thoắng kể lại câu chuyện vừa xảy ra.

Lục Lập Đỉnh thầm biết không ổn, chẳng chờ con kể hết, vội giật lấy cây đơn đao treo trên tường, chạy tới khu mộ phần của huynh tẩu. Đến nơi, Lục Lập Đỉnh thấy chẳng những hai ngôi mộ của huynh tẩu đã bị đào bới, mà ngay hai cỗ quan tài cũng bị bật nắp. Lúc nghe con bảo có kẻ đào mộ, chàng có nghĩ đến chuyện này, nhưng khi tận mắt nhìn thấy, thì bất giác trống ngực đập thình thình. Hai cái xác trong quan tài đều biến mất, các thứ vôi, giấy, bông lót trong quan tài bị bới tung tóe. Lục Lập Đỉnh định thần thấy trên nắp hai quan tài có rất nhiều vết cạy của dụng cụ bằng sắt, không khỏi vừa bi phẫn, vừa kinh nghi, không biết tên ác tặc cướp xác có mối thâm cừu đại oán thế nào với huynh tẩu, mà sau khi họ chết, hắn còn trút giận vào xác họ như vậy. Chàng bèn cầm đao đuổi theo. Toàn bộ võ công của chàng đều do huynh trưởng Lục Triển Nguyên truyền thụ, tính chàng giản dị, gia đạo lại đầm ấm, cả đời an nhàn no đủ, chưa từng hành tẩu giang hồ, có thể nói là chưa hề từng trải, kém tháo vát, chạy tìm tung tích kẻ ăn trộm xác cũng chẳng biết cách, chạy loanh quanh một hồi lại trở về bên mộ đứng ngẩn một hồi, đành trở về nhà.

Chàng vào đại sảnh, ngồi xuống ghế tiện tay đặt cây đơn đao cạnh ghế chăm chú nhìn vết chín bàn tay máu in trên tường, nghĩ thầm: "Lúc lâm chung, ca ca từng nói ca ca có kẻ thù là một đạo cô, tên Lý Mạc Sầu, ngoại hiệu" Xích Luyện tiên tử ", võ công đã cao, hành sự lại tàn bạo như lang sói, dự tính rằng mười năm sau khi ca ca kết hôn Lý Mạc Sầu sẽ đến tìm vợ chồng ca ca báo thù. Lúc lâm chung, ca ca nói: Huynh bị bệnh hiểm nghèo bất trị, mối oán cừu này với Lý Mạc Sầu thế là không báo được. Ba năm nữa khi nàng ta đến báo thù, dẫu thế nào đệ cũng phải khuyên tẩu tẩu tránh đi thật xa. Mình đã nuốt lệ nhận lời, nào ngờ ngay tối hôm ca ca qua đời, tẩu tẩu đã tự vẫn theo chồng. Ca ca mất đã ba năm, xem chừng đã đến lúc đạo cô tới báo thù. Nhưng vợ chồng huynh tẩu cùng chết cả rồi, oán thù coi như xóa sạch, đạo cô còn tới làm gì kia chứ. Ca ca còn bảo, đạo cô trước khi giết người, thường in vết bàn tay máu trên tường hoặc cánh cổng nhà nạn nhân, mỗi bàn tay tức là đạo cô sẽ giết một người. Nhà mình kể cả đầy tớ nam nữ cũng chưa quá bảy người, sao mụ nữ ma đầu ấy lại in những chín bàn tay máu? À, phải rồi, mụ ta in vết bàn tay xong, mới biết huynh tẩu đã chết, bèn sai người đi đào mộ lấy xác chăng? Mụ nữ ma đầu này độc ác quá chừng.. Hôm nay mình ở nhà suốt ngày, không hiểu mụ ta in các bàn tay máu lúc nào nhỉ? Mụ ta ra tay bí ẩn như thế, người này.. người này..".

Nghĩ đến đây, Lục Lập Đỉnh không khỏi lạnh sống lưng. Có tiếng chân rón rén phía sau, rồi hai bàn tay mềm nhỏ bịt hai mắt Lục Lập Đỉnh, tiếng con trẻ hỏi "Phụ thân ơi phụ thân đoán xem hài nhi là ai nào?". Đấy là trò chơi mà Lục Vô Song từ nhỏ thích đùa với phụ thân. Năm lên ba, một lần Lục Vô Song dùng tay bịt mắt phụ thân, hỏi: "Phụ thân ơi, phụ thân đoán xem hài nhi là ai nào?" khiến phụ mẫu được một phen cười thỏa thích, từ đó, mỗi lần thấy phụ thân buồn rầu cô bé lại chơi trò đó để phụ thân vui. Có khi Lục Lập Đỉnh đang rất tức giận, được đứa con gái yêu bày trò đó, chàng cũng nguôi giận liền. Nhưng tối nay chàng không còn bụng dạ nào đùa với con, chàng gỡ tay nó ra, nói:

– Ta không rỗi, hài nhi ra chỗ khác mà chơi!

Lục Vô Song ngẩn người, từ nhỏ cô bé luôn được phụ mẫu cưng chiều, chưa bao giờ nó bị phụ thân hắt hủi như thế, nó dẩu môi, định mè nheo với phụ thân, nhưng chợt thấy người đầy tớ già A Căn hớt hải chạy vào bẩm báo:

– Thiếu gia, ngoài kia có khách ạ.

Lục Lập Đỉnh phẩy phẩy tay, nói:

– Ngươi ra bảo ta đi vắng.

A Căn nói:

– Bẩm thiếu gia, vị đại nương ấy không phải muốn gặp thiếu gia, mà là người qua đường xin nghỉ nhờ một đêm.

Lục Lập Đỉnh kinh ngạc hỏi:

– Sao, là nữ khách ư?

A Căn đáp.

– Vâng, vị đại nương ấy còn mang theo hai cậu bé rất kháu khỉnh.

Lục Lập Đỉnh nghe nói nữ khách có mang theo hai đứa bé, thì hơi yên tâm, hỏi:

– Bà ta không phải là đạo cô chứ?

A Căn lắc đầu:

– Thưa không ạ. Bà ta ăn vận sạch sẽ, xem chừng là một vị quý phái đấy ạ.

Lục Lập Đỉnh nói:

– Được, người mời bà ta vào phòng khách nghỉ ngơi, hãy mời họ ăn uống tử tế.

A Căn vâng lệnh lui ra. Lục Vô Song nói:

– Hài nhi cũng ra xem sao đây.

Liền chạy theo.

Lục Lập Đỉnh đứng dậy, đang định vào nội thất bàn với nương tử cách ứng phó với kẻ địch, thì Lục nhị nương đã bước ra sảnh. Lục Lập Đỉnh chỉ cho nương tử thấy các vết bàn tay máu, rồi lại kể việc hai ngôi mộ bị đào bới mất xác. Lục nhị nương cau mày hỏi:

– Biết đưa hai đứa nhỏ đi tránh ở đâu bây giờ?

Lục Lập Đỉnh chỉ tay lên tường, nói:

– Hai đứa nhỏ cũng đã bị mụ ma đầu kia liệt vào số bàn tay máu, chỉ e muốn tránh cũng chẳng xong. Ôi, vợ chồng ta luyện võ mấy năm chỉ uổng công, kẻ địch lọt vào nhà mà chúng ta chẳng hay biết, thế.. thế..

Lục nhị nương nhìn bức tường trắng, tay nắm lưng ghế nói:

– Sao những chín bàn tay máu? Cả nhà ta hiện chỉ có bảy người.

Vừa nói, chân tay nàng bủn rủn, nhìn phu quân mà nước mắt lưng tròng. Lục Lập Đỉnh giơ tay dìu vợ, nói:

– Nương tử, việc đã thế này, cũng đừng nên lo sợ. Hai bàn tay hàng trên là vợ chồng huynh tẩu, hai bàn tay hàng dưới tất nhiên là ngụ ý hai ta. Hàng dưới, hai bàn tay đầu là Vô Song với Trình Anh, ba bàn tay cuối cùng là A Căn và hai tỳ nữ. Thế là hết sạch cả nhà.

Lục nhị nương run giọng:

– Vợ chồng huynh tẩu ư?

Lục Lập Đỉnh nói:

– Không biết mụ ma đầu ấy với huynh tẩu có oán thù gì lớn, mà huynh tẩu chết rồi, mụ ta còn sai người đào mồ lên làm nhục di thể họ.

Lục nhị nương hỏi:

– Chàng bảo lão già điên khùng là do mụ ta phái tới ư?

Lục Lập Đỉnh nói:

– Dĩ nhiên.

Lục nhị nương thấy mặt phu quân lấm lem bụi đất và mồ hôi, thì dịu dàng nói:

– Chàng về phòng rửa mặt thay áo, nghỉ một lát đi, rồi hãy hay.

Lục Lập Đỉnh cùng nương tử sánh vai đi vào phòng trong, nói:

– Nương tử, cả nhà họ Lục hôm nay dẫu có chết, cũng phải chết sao cho xứng với uy danh của huynh tẩu mới được.

Lục nhị nương lòng chua xót, đáp:

– Chàng nói rất phải.

Hai người đều nghĩ, Lục Lập Đỉnh tuy hoàn toàn vô danh, nhưng vợ chồng huynh trưởng Lục Triển Nguyên và Hà Nguyên Quân nổi tiếng giang hồ hiệp nghĩa, danh tiếng của Lục gia trang ở Gia Hưng được hết thảy mọi người trong võ lâm trước nay kính nể.

Hai vợ chồng đi vào hậu viện, bỗng nghe có tiếng động trên đầu tường bao phía đông. Lục Lập Đỉnh bèn chạy lên che cho nương tử, ngẩng đầu nhìn, thấy trên bờ tường có một cậu bé đang hái hoa lăng tiêu, lại nghe có người ở dưới chân tường nói: "Cẩn thận, kẻo ngã". Thì ra là Trình Anh và Lục Vô Song đang cùng một cậu bé khác đứng dưới chân tường. Lục Lập Đỉnh nghĩ thầm: "Hai cậu bé kia chắc là con của người đến ngủ nhờ, sao lại biết ra đây chơi đùa nhỉ?".

Cậu bé trên bờ tường hái được một bông hoa, Lục Vô Song gọi:

– Cho tớ, cho tớ nào!

Cậu bé trên bờ tường mỉm cười, ném bông hoa xuống chỗ Trình Anh. Trình Anh giơ tay đón bông hoa, rồi đưa cho biểu muội. Lục Vô Song dỗi, vứt luôn xuống đất, lấy chân giẫm lên mấy cái nói:

– Tưởng báu lắm đấy, ta không thèm.

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh thấy mấy đứa nhỏ hồn nhiên chơi đùa, chẳng biết đại họa đẫm máu sắp ập xuống Lục gia trang, thì thở dài, cùng đi vào phòng. Trình Anh thấy Lục Vô Song giẫm nát bông hoa, nói:

– Biểu muội tức lắm phải không?

Lục Vô Song dẩu mỏ, nói:

– Muội không cần nó, muội tự hái được.

Đoạn nhún chân một cái, nhảy lên, túm được một cành đằng la có hoa chĩa thấp, lại đánh đu lấy đà bay lên cao mấy thước, túm lấy một cành ngân quế. Cậu bé trên bờ tường vỗ tay gọi:

– Lên đây với tớ đi!

Lục Vô Song hai tay nắm cành quế đánh đu vài lần, rồi buông tay cho người bay lên bờ tường.

Cô bé mới luyện qua một chút khinh công, động tác này quả vô cùng nguy hiểm. Chỉ vì bực cậu bé không tặng hoa cho nó, lại tặng cho Trình Anh, mà nó chạm lòng tự ái hiếu thắng, bất kể ba bảy hai mươi mốt gì hết, đu người phóng lên tường. Cậu bé kia ngạc nhiên, kêu to:

– Cẩn thận!

Rồi chìa tay ra đón. Nếu cậu ta không giơ tay đón, Lục Vô Song chắc có thể bíu lấy bờ tường, nhưng đang lơ lửng trên không, thấy cậu bé giơ tay đón đỡ, Lục Vô Song lại quát: "Tránh ra!" rồi xoay mình để tránh hai tay cậu bé. Động tác xoay mình trong không trung là một thứ khinh công tuyệt kỹ, cô bé từng thấy cha mình sử dụng, nhưng ngay cả mẹ nó còn chưa làm nổi, thì một cô bé như nó sao đủ khả năng? Nó vừa xoay mình, thì mấy ngón tay đập vào bờ tường, nó kêu lên một tiếng "Ôi chao!", rơi thẳng xuống.

Cậu bé ở dưới chân tường thấy Lục Vô Song rơi xuống, vội vọt tới, giơ tay đỡ. Tường cao hơn một trượng thân thể cô bé tuy nhẹ, nhưng lực rơi từ trên cao xuống rất mạnh, cậu bé ở dưới chân tường ôm được ngang người cô bé thì cả hai đứa cùng ngã oạch xuống, nghe rất nặng nề. Nghe cạch cạch hai tiếng, Lục Vô Song bị gãy chân trái, còn cậu bé thì thái dương đập vào một cục đá, lập tức máu chảy loang mặt.

Trình Anh và cậu bé thứ hai thấy chuyện chẳng lành, vội xúm lại giúp. Cậu bé từ từ ngồi dậy, lấy tay bịt vết thương trên trán. Lục Vô Song thì ngất lịm.

Trình Anh ôm biểu muội, gọi to:

– Di trượng ơi, a di ơi, mau ra đây!

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh nghe gọi, từ trong nhà chạy ra, thấy hai đứa trẻ bị thương, lại thấy một phụ nữ trung niên từ chái nhà phía tây chạy ra, chắc là ngươi xin ngủ nhờ. Chỉ thấy người ấy bế Lục Vô Song vào trong sảnh, không lo cầm máu trước cho cậu bé, mà lại nắn chỗ xương gãy cho Lục Vô Song. Lục nhị nương lấy chiếc khăn tay băng trán cho cậu bé, rồi lại bên xem vết thương của con gái.

Người thiếu phụ kia điểm huyệt Bạnh Hải ở phía trong cái chân bị gãy và huyệt Ủy Trung ở sau đầu gối để giảm đau cho Lục Vô Song, hai tay thiếu phụ nắn nắn hai bên chỗ xương gãy để chuẩn bị bó kẹp lại. Lục Lập Đỉnh thấy động tác của bà ta lanh lẹ, điểm huyệt thành thạo, thì lòng đầy nghi vấn, hỏi:

– Đại nương là ai, quang lâm tệ trang có gì chỉ giáo chăng?

Người thiếu phụ ấy chỉ chăm chú tiếp cốt cho Lục Vô Song, ậm ậm ừ ừ, không trả lời.

Đúng lúc đó, trên mái nhà bỗng có tiếng cười ha hả, rồi một giọng nữ nói:

– Chỉ tính mấy mạng chín người trong Lục gia trang, những kẻ còn lại hãy mau mau rời khỏi đây.

Ngươi thiếu phụ đang nắn xương nghe tiếng nói trên mái nhà, giật mình, bất giác bóp hai tay một cái, "cạch" một tiếng nhẹ, Lục Vô Song đau quá kêu tướng lên, lại ngất đi.

Mấy người cùng ngẩng đầu, chỉ thấy cạnh mái hiên có một đạo cô trẻ, ánh trăng chiếu vào khuôn mặt, trông nàng ta trạc mười lăm mười sáu tuổi, sau lưng giắt thanh trường kiếm, kiếm luyện huyết hồng, phát tiếng kêu u u trong gió. Lục Lập Đỉnh nói to:

– Tại hạ Lục Lập Đỉnh, người có phải là môn hạ của Lý tiên cô?

Tiểu đạo cô nhếch mép, nói:

– Ngươi biết thế thì tốt! Ngươi hãy mau giết hết vợ con, nô bộc, rồi tự vẫn, để ta đỡ phí thêm chút sức lực.

Lời này nói ra nhơn nhơn thong thả, thật không còn coi đối phương ra gì.

Lục Lập Đỉnh nghe mấy câu đó thì sợ phát run, nói:

– Ngươi.. ngươi..

Nhất thời chưa biết ứng phó thế nào, cũng định nhảy lên mái nhà liều mạng một phen, nhưng nghĩ đối phương còn nhỏ tuổi, lại là nữ giới, thật không tiện động thủ; chàng đang trù trừ, bỗng thấy có người vút qua bên cạnh, chính là thiếu phụ qua đường xin ngủ nhờ, tay cầm trường kiếm, phi thân lên mái nhà tỉ thí với tiểu đạo cô.

Thiếu phụ mặc bộ quần áo màu tro, tiểu đạo cô mặc bộ đạo bào màu hoàng hạnh, dưới ánh trăng chỉ thấy hai vệt màu xám màu vàng bay lượn kèm theo ba đạo hàn quang, đôi lúc phát ra tiếng binh khí chạm nhau. Lục Lập Đỉnh được huynh trưởng truyền dạy võ công, tuy chưa từng giao đấu với kẻ địch, nhưng nhãn quang của chàng cũng khá, có thể nhận biết rõ ràng kiếm chiêu của hai người. Thấy thanh trường kiếm trong tay tiểu đạo cô chợt thủ chợt công, đang công trở về thủ, kiếm pháp vô cùng lợi hại. Thiếu phụ thì ngưng thần đối phó, nhằm chỗ sơ hở của đối thủ mà xuất chiêu. Bỗng nghe "keng" một tiếng, hai kiếm chạm nhau, thanh trường kiếm của tiểu đạo cô văng lên trời, nàng ta vội lùi ra sau, nói:

– Ta phụng mệnh tới giết cả nhà họ Lục, ngươi là ai mà lại đến đây lo chuyện bao đồng?

Thiếu phụ cười khẩy nói:

– Sư phụ ngươi có giỏi thì phải sớm tìm Lục Triển Nguyên mà tính sổ, nay thừa biết Lục Triển Nguyên đã chết, lại đến tìm người khác để trút giận mà không biết ngượng hay sao?

Tiểu đạo cô vung tay phải, ba chiếc ngân châm bay đi, hai chiếc nhắm vào thiếu phụ, chiếc thứ ba phóng xuống Lục Lập Đỉnh đang đứng dưới sân. Không ai ngờ việc đó, thiếu phụ vung kiếm gạt, Lục Lập Đỉnh thì giơ hai ngón tay kẹp được chiếc ngân châm.

Tiểu đạo cô cười nhạt, nhảy xuống đất, chỉ nghe tiếng chân chạy như bay như biến. Thiếu phụ trở xuống thấy Lục Lập Đỉnh tay cầm chiếc ngân châm, vội nói:

– Mau ném đi!

Lục Lập Đỉnh y lời làm theo. Thiếu phụ dùng kiếm cắt một phần vạt áo của mình, buộc chặt cổ tay phải của Lục Lập Đỉnh.

Lục Lập Đỉnh giật mình, hỏi:

– Ngân châm tẩm độc ư?

Thiếu phụ đáp:

– Là chất cực độc đó!

Rồi lấy một viên thuốc đưa cho Lục Lập Đỉnh bảo nuốt ngay. Lục Lập Đỉnh cảm thấy hai ngón trỏ và giữa tê dại, sưng phù lên. Thiếu phụ bèn dùng mũi kiếm nhể vào đầu hai ngón tay ấy, máu đen nhỏ ra từng giọt từng giọt. Lục Lập Đỉnh cả sợ nghĩ thầm: "Ngón tay ta chưa bị sây sát, ta chỉ kẹp chiếc ngân châm mà còn nhiễm độc như thế, nếu để chiếc ngân châm đâm vào người thử hỏi còn gì mạng sống?". Bèn thi lễ với người thiếu phụ, nói:

– Tại hạ có mắt không thấy Thái Sơn, xin mạo muội thỉnh vấn quý tính đại danh.

Thiếu phụ nói:

– Quan nhân nhà tiểu phụ nhân họ Võ, là Võ Tam Thông.

Lục Lập Đỉnh giật mình, nói:

– Thì ra là Võ tam nương. Nghe kể Võ tiền bối là môn hạ của Nhất Đăng đại sư ở Vân Nam Đại Lý, có phải vậy chăng?

Võ tam nương đáp:

– Chính thế, Nhất Đăng đại sư là sư phụ của quan nhân nhà tiểu phụ nhân. Tiểu phụ nhân học được chút võ nghệ thô thiển, thật là múa rìu qua mắt thợ, làm trò cười cho Lục gia.

Lục Lập Đỉnh rối rít đa tạ ân đức. Chàng từng nghe huynh trưởng kể rằng bình sinh các cao thủ võ học phải kể trước hết môn đệ của Nhất Đăng đại sư. Nhất Đăng đại sư vốn là quốc quân của nước Đại Lý, sau khi rời ngôi đi tu, có bốn đại đệ tử "Ngư Tiều Canh Độc" theo hầu, trong đó nông phu (Canh) chính là Võ Tam Thông, là người có hiềm khích với huynh trưởng, nhưng còn việc kết oán thế nào, thì huynh trưởng không nói rõ. Nay Võ tam nương đã không coi chàng như kẻ địch, lại còn ra tay đánh đuổi đệ tử của "Xích Luyện tiên tử", duyên do vì sao thật là khó hiểu. Mấy người trở vào sảnh đường. Lục Lập Đỉnh ôm nữ nhi vào lòng, thấy nó đã tỉnh lại, sắc mặt nhợt nhạt, nhưng cố nhịn đau không khóc, thì chàng bất giác thấy thương nó quá. Võ tam nương thở dài, nói:

– Đệ tử của nữ ma đầu kia chạy đi rồi, thì mụ ta sẽ thân chinh đến ngay. Lục gia, không phải là tiểu phụ nhân này coi thường Lục gia, nhưng hai vị dẫu có tiểu phụ nhân trợ giúp, cũng không tài nào địch nổi mụ ta. Song tiểu phụ nhân nghĩ rằng có bỏ chạy cũng vô ích, chi bằng đành phó mặc ý trời, chúng ta cứ chờ mụ ta đến vậy!

Lục nhị nương hỏi:

– Mụ ma đầu ấy rốt cuộc có thâm cừu đại oán gì với nhà chúng tôi vậy?

Võ tam nương nhìn Lục Lập Đỉnh một cái, nói:

– Không lẽ Lục gia chưa kể cho phu nhân biết hay sao?

Lục nhị nương đáp:

– Phu quân bảo chỉ biết việc này có liên quan đến huynh tẩu của chàng, còn chuyện mắc mứu tình ái thế nào, chàng cũng không rõ lắm!

Võ tam nương lại thở dài, nói:

– Thế cũng phải! Tiểu phụ nhân là người ngoài, có nói cũng không sao. Lệnh huynh Lục Triển Nguyên mười năm trước từng qua Đại Lý. Thời ấy "Xích Luyện tiên tử" Lý Mạc Sầu, người mà ngày nay võ lâm nghe nhắc tới đã kinh hồn táng đởm, còn là một thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng, chưa hề xuất gia. Cũng là oan nghiệt từ kiếp trước, sau khi Lý Mạc Sầu gặp lệnh huynh, đôi bên nảy nở ái tình. Sau đó trải qua nhiều biến cố tranh chấp, lệnh huynh lại thành hôn với lệnh tẩu Hà Nguyên Quân. Nói đến lệnh tẩu không thể không nhắc tới chuyết phu (chuyết phu: Lời nói khiêm nhường, chỉ người chồng của mình). Chuyện này kể ra thật ngượng, nhưng hôm nay tình thế quẫn bách, tiểu phụ nhân này đành nói ra vậy. Lệnh tẩu Hà Nguyên Quản vốn là nghĩa nữ của phu phụ tiểu phụ nhân.

Hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh cùng ồ lên. Võ tam nương xoa nhẹ vai cậu bé bị thương nhìn ngọn nến, nói:

– Lệnh tẩu Hà Nguyên Quân cô khổ từ nhỏ, phu phụ tiểu phụ nhân đem về nhà nuôi dưỡng, nhận làm nghĩa nữ, vô cùng yêu thương. Sau Hà Nguyên Quân quen biết lệnh huynh, đôi bên tình đầu ý hợp, muốn kết thành phu phụ. Chuyết phu một là không muốn gả chồng xa, hai là tính tình cố chấp, bảo người Giang Nam gian trá giảo hoạt, hoàn toàn không đáng tin cậy, bởi vậy nhất quyết không cho phép. Hà Nguyên Quân bèn trốn nhà đi theo lệnh huynh. Đúng ngày thành hôn, chuyết phu và Lý Mạc Sầu cùng tới gây chuyện với cặp vợ chồng tân hôn. Tại tiệc cưới có một vị cao tăng chùa Thiên Long ở Đại Lý đã ra tay ngăn chặn, buộc hai người phải nể mặt, để cho đôi vợ chồng tân hôn được sống bình yên trong mười năm. Chuyết phu và Lý Mạc Sầu bấy giờ đành phải hứa nội trong mười năm không gây khó dễ với hai vợ chồng họ. Chuyết phu sau đó phẫn uất quá, hóa thành người điên điên khùng khùng, bất kể bạn hữu và tiểu phụ nhân này khuyên can thế nào, cũng không nguôi ngoai, cứ tính từng ngày. Hôm nay chính là hết hạn mười năm, ai ngờ lệnh huynh và lệnh tẩu đã.. Ôi hạnh phúc mười năm cũng chưa được hưởng trọn. Nói đoạn cúi đầu, vẻ buồn bã.

Lục Lập Đỉnh nói:

– Như thế, kẻ đào mồ lấy di thể của huynh tẩu ta chính là tôn phu.

Võ tam nương cả thẹn, nói:

– Vừa rồi nghe hai tiểu thư trong phủ kể, thì đúng là chuyết phu rồi.

Lục Lập Đỉnh cao giọng:

– Hành động của tôn phu thật quá ư sai trái. Thù oán đâu có gì ghê gớm, huống hồ huynh tẩu của ta đã chết, dẫu có thâm cừu đại oán, kể như cũng xóa sạch, đằng này lại đi đào bới mộ phần, lấy mất di thể, như vậy đâu phải là anh hùng hảo hán?

Luận về vai vế, vợ chồng họ Võ là bề trên, nhưng Lục Lập Đỉnh trong lúc tức giận, nói năng bất chấp tôn ti. Võ tam nương thở dài:

– Lục gia trách cứ cũng phải, chuyết phu tâm trí thất thường, lời lẽ cử chỉ thường không có tình có lý gì cả. Hôm nay tiểu phụ nhân mang hai con nhỏ tới đây là để phòng chuyết phu ở đây quậy phá. Trên đời này, e rằng chuyết phu chỉ còn nể đôi chút một mình tiểu phụ nhân nữa thôi.

Đoạn quay sang bảo hai đứa con.

– Các ngươi hãy khấu đầu thay phụ thân các ngươi tạ tội với Lục gia và Lục nhị nương đi.

Hai cậu bé sụp xuống lạy.

Lục nhị nương vội đưa tay đỡ dậy, hỏi tên. Cậu bé bị thương vào trán tên là Võ Đôn Nhu, là anh, còn cậu em tên là Võ Tu Văn. Hai anh em hơn kém nhau một tuổi, đứa mười hai, đứa mười một. Hai người con của danh gia võ học lại đều mang cái tên văn chương nho nhã. Võ Tam nương nói, hai vợ chồng bà đứng tuổi mới có con, thấm thía sự hiểm ác trong võ lâm, cho nên chỉ mong các con bỏ võ theo văn, song hai đứa con trai của họ vẫn cứ thích võ, chẳng hợp với cái tên của chúng chút nào.

Võ tam nương kể xong, lại buồn bã thở dài, nghĩ thầm chuyện này chỉ nên dừng ở đây, phần tiếp theo chẳng nên kể cho người ngoài biết. Vốn khi Hà Nguyên Quân mười bảy mười tám tuổi, thì đẹp như tiên nữ, kiều mị khả ái, Võ Tam Thông đối với nàng tựa hồ không đơn thuần chỉ có tình nghĩa phụ nghĩa nữ. Do thân phận hào hiệp trong võ lâm, Võ Tam Thông không thể cho phép mình có cử chỉ lời lẽ vượt quá giới hạn, tâm sự cứ uất kết lại, đột nhiên thấy nàng phải lòng một chàng trai Giang Nam, thì không kìm được cơn cuồng nộ. Còn về câu nói "Dân Giang Nam gian trá giảo hoạt, hoàn toàn không đáng tin cậy" thì ngoài cái ý chê bai ý trung nhân của Hà Nguyên Quân ra, Võ Tam Thông còn từng bị Hoàng Dung đánh lừa, tuy sau đấy hòa giải với Hoàng Dung, Quách Tĩnh song cái ý nghĩ "Dân Giang Nam gian trá giảo hoạt" đã hằn sâu trong tâm trí Võ Tam Thông.

Võ tam nương nói:

– Nào ngờ chuyết phu không đến, "Xích Luyện tiên tử" đã tới phủ này tìm cách báo thù.

Vừa nói đến đây, bỗng nghe trên mái nhà có tiếng gọi:

– Nhu nhi, Văn nhi, ra đây ta bảo!

Tiếng gọi đột nhiên vang lên, trước đó không hề nghe thấy tiếng chân giẫm trên mái ngói, hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh cùng giật mình, biết là Võ Tam Thông tới. Trình Anh và Lục Vô Song cũng nhận ra giọng nói của lão quái khách nhai gương sen.

Chỉ thấy một bóng người lướt qua. Võ Tam Thông từ trên mái nhà bay xuống, mỗi tay kẹp một đứa con lại phi thân lên mái nhà. Võ Tam nương kêu to:

– Này, này, tướng công hãy nói qua với Lục gia và Lục nhị nương, tướng công đã mang hai bộ di thể đi đâu thế? Hãy mau mang trả lại.

Võ Tam Thông chẳng buồn ngoái đầu, đã mất hút đằng xa.

Lão chạy loạn một hồi, chạy vào một cánh rừng, đột nhiên bỏ Võ Tu Văn xuống, chỉ cắp Đôn Nhu mà chạy đi mất tăm. Rốt cuộc lão bỏ một đứa con ở giữa rừng.

Võ Tu Văn gọi to:

– Cha ơi, cha ơi!

Cậu bé thấy phụ thân cắp ca ca chạy xa đã mấy chục trượng, chỉ nghe tiếng lão từ xa văng vẳng:

– Ngươi cứ đợi đó, ta sẽ trở lại ẵm ngươi.

Võ Tu Văn biết cha mình hành sự khi mê khi tỉnh, điên điên khùng khùng, nên cũng chẳng lấy làm lạ. Đêm tối một mình ở trong rừng kể cũng sợ, nhưng nghĩ cha sắp trở lại đón mình, nó bèn ngồi xuống một gốc cây chờ. Chờ lâu lắm rồi, vẫn không thấy cha quay lại, nó tự nhủ "Mình đi tìm mẹ thôi". Thế là nó lần ngược lại đường tới đây.

Nhưng đường sá ở miền Giang Nam dọc ngang chằng chịt giữa ban ngày còn khó nhận biết, nữa là trong đêm tối. Cậu bé càng đi đường càng hẹp, đã mấy lần bước cả xuống ruộng, hai chân dính đầy bùn, cuối cùng lại tiến vào một cánh rừng, bước cao bước thấp, nhìn bốn phía toàn một màu đen mịt mùng. Nó lo sợ phát khóc, miệng gọi to:

– Cha ơi, cha! Mẹ ơi, mẹ!..

Đêm thanh vắng, nào có ai đáp lời? Chợt nghe có mấy tiếng kêu, ấy là tiếng cú rúc. Cậu bé từng nghe kể rằng loài cú rất thích đếm số lông mày của con người, ai mà bị nó đếm đúng lông mày có bao nhiêu sợi, người ấy sẽ chết liền. Nó bèn đưa đầu ngón tay vào miệng nhúng nước bọt, bôi lên lông mày cho dính vào nhau, để con cú không đếm được. Nhưng tiếng cú cứ kêu mãi, cậu bé bèn tựa vào thân cây, dùng các ngón tay bịt chặt hai hàng lông mày, không dám động đậy, trống ngực cứ đập dồn. Một lát sau thì nó díp mắt lại, ngủ thiếp đi. Ngủ đến sáng hôm sau đang mơ màng thì nghe có mấy tiếng kêu lanh lảnh. Võ Tu Văn mở mắt ra, ngẩng mặt nhìn lên, thấy có hai con chim ưng cực lớn dang rộng cánh bay lượn trên bầu trời. Sải cánh của chim phải tới mấy trượng. Từ nhỏ nó chưa từng thấy có con chim ưng nào lớn ngần này, nó chăm chú ngắm, vừa lạ vừa thích quên rằng nó chỉ có một mình, tưởng ca ca nó vẫn ở bên cạnh buột miệng gọi:

– Ca ca, mau đến xem chim ưng này!

Bỗng nghe phía sau lưng có hai tiếng hú rất trong, là tiếng của một cô bé. Hai con chim ưng lớn lượn vòng rồi từ từ sà xuống. Võ Tu Văn ngoảnh đầu nhìn lại, thấy một cô bé từ sau thân cây bước ra, giơ tay lên trời vẫy vẫy. Hai con chim ưng cụp cánh đậu xuống ngay bên cạnh. Cô bé nhìn Võ Tu Văn, hai tay vuốt lưng hai con chim ưng, nói:

– Điêu nhi giỏi, điêu nhi ngoan lắm!

Võ Tu Văn nghĩ thầm: "Thì ra hai con chim ưng này là Điêu nhi đây", chỉ thấy hai con chim ưng nghển cổ, đậu dưới đất mà còn cao hơn cô bé, trông rất hùng dũng.

Võ Tu Văn bước tới gần, nói:

– Hai con điêu nhi này nhà bé nuôi phải không?

Cô bé nhếch mép có vẻ xem thường nói:

– Đây không biết đằng ấy, không chơi với đằng ấy.

Võ Tu Văn cũng chẳng giận, giơ tay vuốt lưng con điêu nhi. Cô bé bỗng huýt một tiếng sáo, cánh bên trái của con điêu nhi đột nhiên hất mạnh ra, Võ Tu Văn không đề phòng, bị ngã sóng xoài.

Cậu lồm cồm bò dậy, nhìn cặp điêu nhi nói:

– Hai con chim này cừ thật, biết nghe lệnh của bé. Ta về nhà cũng phải bảo phụ thân ta bắt một cặp điêu nhi về nuôi chơi mới được.

Cô bé nói:

– Phụ thân đằng ấy mà đòi bắt được điêu nhi?

Võ Tu Văn bị giội liền ba gáo nước lạnh thì hơi ngượng, bây giờ mới nhìn kỹ thấy cô bé mặc áo lụa xanh nhạt, cổ đeo một chuỗi ngọc, mặt trắng mịn như sữa, đôi mắt sinh động, lông mày dài thanh tú. Võ Tu Văn tuy còn nhỏ song cũng cảm nhận được sắc đẹp tuyệt vời của cô bé, bất giác muốn gần gũi, nhưng thấy thái độ lạnh nhạt của cô bé, nó cảm thấy sờ sợ.

Cô bé dùng tay phải vuốt ve lưng điêu nhi, đưa mắt nhìn Võ Tu Văn một lượt từ đầu xuống chân, hỏi:

– Tên đằng ấy là gì? Sao lại đi chơi một mình?

Võ Tu Văn đáp:

– Ta à? Ta tên là Võ Tu Văn, ta đang chờ phụ thân ta. Còn bé tên gì?

Cô bé dẩu môi hừ một tiếng, nói:

– Đây không chơi với trẻ đi hoang.

Đoạn quay người bỏ đi. Võ Tu Văn sững người, nói:

– Ta không phải là trẻ đi hoang.

Vừa nói cậu vừa đi theo cô bé.

Võ Tu Văn thấy cô bé kém mình hai, ba tuổi, người thấp chân ngắn, cậu chỉ cần rảo bước sẽ đuổi kịp; nào ngờ cậu vừa thi triển khinh công, thì cô bé bước nhanh hẳn lên, trong giây lát đã bỏ cậu rớt lại phía sau, xa đến mấy trượng. Cô bé chạy vài bước nữa, đứng lại, ngoảnh đầu hỏi:

– Này, đằng ấy có thể đuổi kịp đây không?

Võ Tu Văn nói:

– Dĩ nhiên là kịp.

Lập tức đuổi theo.

Cô bé vừa chạy vừa ngoái đầu lại, đột nhiên nấp vào sau thân một cây tùng. Võ Tu Văn đuổi tới gần, cô bé liền giơ chân trái ngáng chân Võ Tu Văn một cái. Võ Tu Văn đang chạy, không đề phòng, lập tức người ngã chúi về phía trước. Cậu vội sử chiêu "Thiết thụ trang" để giữ thăng bằng. Cô bé lại tung chân phải đá vào mông cậu thật mạnh. Võ Tu Văn tức thì ngã sấp mặt xuống, mũi đập vào một hòn đá nhọn máu cháy ròng ròng, loang lổ cả vạt áo.

Cô bé thấy máu thì hoảng sợ, vội bỏ chạy, bỗng đằng sau có tiếng quát:

– Phù nhi, điệt nhi lại bày trò khi dễ người khác phải không?

Cô bé không ngoảnh đầu, chối cãi:

– Ai bảo thế? Hắn ta tự vấp ngã đấy chứ, đâu liên quan gì tới cháu? Công công đừng có mách cha cháu đấy.

Võ Tu Văn xoa xoa mũi, kỳ thực cũng không đau mấy, chỉ là thấy máu tươi dính tay thì hơi hoảng. Cậu nghe cô bé nói, ngoảnh đầu nhìn thấy ông già thọt chống gậy sắt, râu tóc như sương, người gầy, hai mắt toàn lòng trắng, thì ra đã mù.

Chỉ nghe lão nhân lạnh lùng nói:

– Ngươi đừng tưởng ta không nhìn thấy. Ta đã nghe thấy hết. Ngươi còn nhỏ đã xấu tính thế này, lớn lên sẽ hỏng đấy.

Cô bé liền chạy tới đỡ một cánh tay lão nhân, giọng van vỉ:

– Đại công công ơi, đừng mách cha cháu nhé, được không nào? Cậu ta ngã chảy máu mũi, công công chữa cho cậu ta đi!

Lão nhân bước tới, tay trái nắm cánh tay phải của Võ Tu Văn, giơ ngón tay phải day day mấy cái cạnh huyệt Văn Hương. Máu mũi vốn đã sắp ngừng chảy, sau vài cái day liền ngưng hẳn. Võ Tu Văn cảm thấy năm ngón tay của lão nhân nắm cánh tay mình cứ như một cây kìm bằng sắt, vừa dài vừa cứng thì hơi sợ, thử giằng ra, nhưng không cựa quậy được. Cậu bèn sử chiêu tiểu cầm nã thủ mà mẹ cậu đã dạy để thoát ra. Lão nhân không ngờ cậu bé lại có thủ pháp khôn khéo như vậy, tuy bị tuột tay ra song lại chộp ngay được cổ tay cậu bé. Võ Tu Văn vận sức cố giằng ra, nhưng không được.

Lão nhân nói:

– Tiểu huynh đệ đừng sợ, cháu họ gì vậy?

Võ Tu Văn đáp:

– Điệt nhi họ Võ.

Lão nhân nói:

– Giọng nói của cháu không phải của người vùng này. Cháu từ đâu tới đây? Cha mẹ cháu đâu?

Nói rồi vị lão nhân buông cổ tay cậu bé ra. Võ Tu Văn nhớ lại từ đêm qua tới giờ chưa gặp cha mẹ không biết họ đang ở đâu, nước mắt lưng tròng, chỉ muốn khóc òa. Cô bé nhăn mặt trêu cậu:

– Ê xấu quá, mắt đỏ hoe sắp khóc nhè rồi kìa!

Võ Tu Văn hiên ngang nói:

– Không đời nào ta khóc!

Rồi cậu kể qua việc mẹ cậu ở Lục gia trang chờ địch, cha cậu xốc nách anh trai cậu chạy đi, còn cậu bị lạc trong rừng cả đêm qua. Cậu kể khá lộn xộn nhưng lão nhân cũng hiểu được bảy, tám phần. Lão nhân lại hỏi thêm, biết gia đình cậu bé từ nước Đại Lý tới, cha cậu tên là Võ Tam Thông, có môn võ công giỏi nhất là "Nhất dương chỉ".

Lão nhân nói:

– Phụ thân cháu là môn đệ của Nhất Đăng đại sư phải không?

Võ Tu Văn mừng nói:

– Vâng, thế ra công công cũng quen biết hoàng tộc chúng cháu ư?

Nguyên trước kia ở nước Đại Lý, Võ Tam Thông làm Tổng quản Ngự lâm quân dưới quyền Quốc công cựu đế Đoàn Trí Hưng. Về sau Đoàn Trí Hưng xuất gia, lấy pháp danh Nhất Đăng. Nhưng mỗi lần kể chuyện cũ với hai đứa con, Võ Tam Thông vẫn cứ dùng câu "Hoàng tộc chúng ta thế này thế nọ", nên Võ Tu Văn cũng quen miệng gọi cha là "hoàng tộc".

Lão nhân nói:

– Ta chưa có cơ duyên bái kiến lão nhân gia, nhưng có nghe đại danh "Nam đế" từ lâu, nên rất khâm phục. Cha mẹ cô bé này từng chịu ân huệ rất lớn của lão nhân gia. Như thế, chúng ta không phải là người ngoài. Cháu có biết kẻ địch mà mẹ cháu đang chờ là ai không?

Võ Tu Văn nói:

– Cháu nghe mẹ cháu nói với Lục gia, thì kẻ địch tên là Xích Luyện Xà hay Xích Luyện Sầu gì ấy.

Lão nhân ngẩng đầu, lẩm bẩm:

– Xích Luyện Xà ư?

Đột nhiên dộng mạnh cây gậy sắt, nói to:

– Là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu phải không?

Võ Tu Văn mừng đáp:

– Đúng, đúng rồi! Chính là Xích Luyện tiên tử!

Lão nhân lập tức tỏ vẻ nghiêm trang, nói:

– Hai cháu hãy ở đây chơi, chớ rời khỏi chỗ này nửa bước. Để ta đi xem sao.

Cô bé nói:

– Đại công công, cháu cũng đi.

Võ Tu Văn cũng nói:

– Cháu cũng đi.

Lão nhân vội ngăn:

– Ấy chớ, ấy chớ! Hai cháu không đi được! Mụ nữ ma đầu ấy hung ác lắm, ta không địch nổi mụ. Chẳng qua biết bằng hữu gặp nạn, không thể không đi. Hai cháu phải nghe lời ta.

Đoạn chống nạng, cầm gậy đi rất nhanh.

Võ Tu Văn thán phục nói:

– Lão công công vừa mù vừa thọt mà đi nhanh thật!

Cô bé dẩu môi, nói:

– Thế có gì lạ? Khinh công của cha mẹ ta đây, đằng ấy mà thấy mới giật mình kia.

Võ Tu Văn hỏi:

– Cha mẹ của bé cũng vừa mù vừa thọt à?

Cô bé cả giận, đốp lại:

– Hừ, có cha mẹ đằng ấy vừa mù vừa thọt thì có!

Lúc này trời đã sáng bạch, nông phu đã ra nương rẫy làm việc, nam nữ vừa làm vừa hát sơn ca. Lão nhân là người vùng này, tuy mù hai mắt, nhưng thuộc đường, cứ vừa đi vừa hỏi, không lâu đã tới cổng Lục gia trang. Từ xa đã nghe tiếng binh khí va nhau chan chát. Nhà Lục Triển Nguyên là quan thân thế gia trong vùng, lão nhân chỉ là thường dân, tuy cũng là người có tiếng am hiểu võ học ở Gia Hưng, nhưng không hề qua lại. Lão nhân thừa biết võ công mình thua xa Xích Luyện tiên tử, tới đây chẳng qua chỉ nộp thêm cái mạng già, nhưng nghĩ chuyện này liên quan đến đệ tử của Nhất Đăng đại sư, là người có ân tình lớn với gia đình lão nhân, nên không thể khoanh tay, bèn rảo bước xông tới. Chỉ nghe trên mái nhà có bốn người đang giao đấu. Lão nhân dỏng tai, qua tiếng binh khí chạm nhau, biết một bên có ba người, bên kia có một người nhưng ba không địch nổi một, đã hoàn toàn rơi vào thế hạ phong.

Đêm qua, khi Võ Tam Thông ôm hai đứa con chạy đi, vợ chồng Lục Lập Đỉnh quá đỗi kinh ngạc, không hiểu dụng ý của Võ Tam Thông. Võ tam nương thì có vẻ mừng, nói:

– Chuyết phu thường ngày điên điên khùng khùng, ít khi thông đạt sự lý như lần này.

Lục nhị nương hỏi lý do, Võ tam nương cười không giải thích, chỉ nói:

– Tiểu phụ nhân cũng không biết mình đoán có đúng hay không, nhưng chờ một lúc nữa sẽ rõ.

Đêm đã về khuya, Lục Vô Song nằm ngủ trong lòng người cha; Trình Anh cũng mơ màng díp mắt lại. Lục nhị nương định bế hai đứa trẻ vào buồng ngủ, thì Võ tam nương nói:

– Hãy chờ chút nữa.

Bỗng nghe trên mái có tiếng gọi:

– Tung lên đây.

Chính là giọng nói của Võ Tam Thông. Khinh công của lão ta thật cao siêu, lão đi tới trên mái ngói mà hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh chẳng hay biết tí gì.

Võ tam nương đón bé Trình Anh, ẵm ra cửa sảnh mà tung lên. Võ Tam Thông ở trên đón lấy. Vợ chồng Lục Lập Đỉnh còn đang kinh dị thì Võ tam nương lại ẵm Lục Vô Song tung lên.

Lục Lập Đỉnh cả kinh hỏi giật giọng:

– Làm gì thế?

Chàng vọt lên mái nhưng tứ phía tối om, không còn thấy Võ Tam Thông và hai đứa trẻ đâu nữa. Chàng định co giò đuổi theo, thì Võ tam nương gọi:

– Lục gia đừng đuổi theo. Chuyết phu có hảo ý đó.

Lục Lập Đỉnh bán tín bán nghi, nhảy trở xuống, run giọng hỏi:

– Hảo ý thế nào?

Lúc này Lục nhị nương đã hiểu ra, nói:

– Võ Tam gia sợ nữ ma đầu sát hại bọn trẻ, cho nên mới mang chúng tới giấu một chỗ an toàn đó.

Lục Lập Đỉnh là người trong cuộc bị lú lẫn, nghe vợ nói thì tỉnh ngộ, nói:

– Phải rồi, phải rồi!

Nhưng nghĩ đến chuyện Võ Tam Thông mang di thể của huynh tẩu đi mất, thì chàng lại không yên tâm.

Võ tam nương nói:

– Chuyết phu từ ngày Hà Nguyên Quân thành hôn với lệnh huynh, hễ gặp con gái lại nổi giận, không hiểu vì sao, cuối cùng gặp hai vị tiểu thư quý phủ lại không giận nữa, thật là ngoài sở liệu. Lúc chuyết phu đến mang Nhu nhi, Văn nhi đi, tiểu phụ nhân thấy chuyết phu nhìn hai tiểu thư mấy lần, đầy vẻ quan hoài và ưu ái, hệt như đối với Hà Nguyên Quân ngày xưa! Quả nhiên chuyết phu trở lại mang hai tiểu thư đi. Ôi, ước gì từ nay chuyết phu đổi tính, không còn hồ đồ nữa!

Nói đoạn thở dài hai tiếng liền rồi tiếp:

– Hai vị cứ nghỉ một chút đi, mụ ma đầu kia không biết lúc nào đến, cứ ngồi canh cánh chờ mụ thì chỉ tổ mệt mà thôi.

Vợ chồng Lục lập Đỉnh ban đầu lo lắng cho tính mạng của nữ nhi và điệt nhi, nên trong lòng thảng thốt, cử chỉ lời lẽ đều thất thố; bây giờ đã an tâm hơn về chúng, nên chỉ tập trung vào việc chống địch, ý chí đại tăng. Họ mang sẵn binh khí, ám khí bên người; ngồi trong sảnh, nhắm mắt dưỡng thần. Hai vợ chồng sống với nhau mười mấy năm, thường ngày vì chuyện gia đình lắm khi cự nự cằn nhằn lẫn nhau; bây giờ nghĩ rằng cường địch có thể xộc tới bất cứ lúc nào, theo lời Lục Triển Nguyên và Võ tam nương, thì mụ ma đầu võ công cao cường, hành sự tàn bạo, chắc bảy phần là mình khó lòng thoát chết, vợ chồng còn được ở bên nhau không nhiều, bất giác họ tựa sát vào nhau, tay trong tay.

Rất lâu sau, giữa cảnh đêm khuya tịch mịch, bỗng nghe từ xa vẳng lại tiếng hát nhẹ nhàng êm dịu, khoảng cách rất xa, mà nghe rõ từng lời: "Vấn thế gian, tình thị hà vật. Trực giáo sinh tử tương hứa?". Mỗi tiếng lại đến gần hơn, người hát đi quá nhanh, nghe thấy chữ "hứa", thì người hát đã tới ngoài cổng.

Ba người kinh hãi nhìn nhau, bỗng "rầm rầm", "rắc rắc", các then gỗ cài cổng ngoài cửa trong cùng gãy rời, hai cánh cổng mở toang ra, một đạo cô vô cùng xinh đẹp mỉm cười thong thả bước vào, mình mặc đạo bào màu hoàng hạnh, chính là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu đã tới.

A Căn lúc ấy đang quét sân, bước ra quát hỏi:

– Ai đó?

Lục Lập Đỉnh vội gọi:

– A Căn lui vào ngay!

Nhưng không kịp nữa. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần một cái, A Căn đã vỡ đầu, chết không kịp ngáp.

Lục Lập Đỉnh cầm đao xông ra, Lý Mạc Sầu hơi lách mình vọt qua chỗ chàng, vung cây phất trần đánh chết liền hai tì nữ, rồi cười hỏi:

– Hai đứa bé gái kia đâu?

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh thấy mụ ta trong chớp mắt đã giết chết ba người, thừa biết đại họa lâm đầu, cùng nghiến răng vung đao kiếm từ hai bên đánh vào. Lý Mạc Sầu định vung cây phất trần đánh trả, thấy Võ tam nương cầm kiếm đứng một bên, bèn cười, nói:

– Có người ngoài nhúng tay vào, thì ta không tiện giết người ở trong nhà!

Giọng nói của đạo cô nhẹ nhàng uyển chuyển, thần thái kiều mị, cộng với đôi mắt sáng, hàm răng trắng, da dẻ nõn nà, quả là một mỹ nhân tuyệt sắc.

Cũng chẳng thấy đạo cô nhún chân thế nào, mà mụ ta đã nhẹ nhàng bay lên mái nhà. Vợ chồng Lục Lập Đỉnh và Võ tam nương cùng phi lên theo.

Lý Mạc Sầu vung cây phất trần gạt vũ khí của cả ba người ra, nhẹ nhàng nói:

– Lục nhị gia, ca ca của các hạ nếu còn sống, chỉ cần chàng ta lên tiếng cầu xin và đoạn tuyệt với con tiểu tặc Hà Nguyên Quân, thì ta sẽ tha chết cho cả gia đình các hạ. Nay thì ôi thôi, vận số của các người không may, các người có trách thì trách ca ca nhà các người, đừng có trách ta!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Ai cần ngươi tha?

Chàng vung đao chém. Võ tam nương và Lục nhị nương xông vào giáp công. Lý Mạc Sầu thấy Lục Lập Đỉnh võ công vào loại trung bình, nhưng tư thế bước chân xuất đao, xoay mình phách chưởng thì hệt như ý trung nhân Lục Triển Nguyên ngày nào, trong lòng dịu lại muốn được xem lâu hơn một chút, chứ nếu ra đòn hạ sát ngay, thì trên đời chẳng bao giờ còn được ngắm "đao pháp Lục gia Giang Nam" nữa. Thế là đạo cô chỉ đánh đỡ lấy lệ, cứ mặc cho ba đối thủ xoay vòng xung quanh, trong lòng còn ngổn ngang bao tình ý.

Đột nhiên Lý Mạc Sầu hú lên một tiếng nhẹ, nhảy khỏi mái nhà, lao xuống chỗ một lão nhân thọt cầm cây thiết trượng đang đứng bên dòng mương. Chân chưa chạm đất, cây phất trần đã nhắm ngay chỗ yếu hại của đối phương mà đánh tới, hoàn toàn không thèm phòng bị, chỉ muốn sát hại đối phương ngay tức thì.

Lão nhân nghe rõ lai chiêu của kẻ địch, cây thiết trượng quét ngang thật lẹ, rồi chọc ngay vào cổ tay đạo cô. Cây thiết trượng là thứ vũ khí thô nặng, vốn chỉ dùng để quét ngang, nay lão nhân lại sử dụng khẩu quyết chữ "thích", coi cây thiết trượng như thanh kiếm, xuất chiêu khinh linh phiêu dật. Lý Mạc Sầu khẽ rung cây phất trần, các sợi ngân ti quấn ngay lấy đầu cây thiết trượng, miệng quát:

– Rời tay!

Hàng ngàn sợi ngân ti mượn hết lực đâm của cây thiết trượng để giằng nó đi. Lão nhân thấy hai cánh tay bị chấn động mạnh, suýt nữa để văng mất cây thiết trượng; trong lúc nguy cấp thừa thế vọt lên, thân hình bay chéo trên không, mới hóa giải được xảo kình của cây phất trần, trong bụng nghĩ thầm: "Mụ ma đầu này quả nhiên danh bất hư truyền". Chiêu "Thái công điếu ngư" vừa rồi của Lý Mạc Sầu, mượn ý của tích "Tự cắn câu, lấy sức của chính kẻ địch mà đoạt vũ khí của địch", bao lâu nay hễ sử đều được, lần này không ngờ thất bại, mụ nghĩ thầm: "Lão già thọt này là ai vậy? Rốt cuộc có công phu gì đây?" Mụ nhảy sang bên, thấy hai mắt lão nhân đảo lên toàn lòng trắng, thì ra là người mù, chợt hiểu, nói:

– Các hạ là Kha Trấn Ác!

Lão nhân vừa mù vừa thọt chính là người đứng đầu "Giang Nam thất quái", Phi Thiên Biển Bức Kha Trấn Ác.

Năm xưa Quách Tĩnh, Hoàng Dung sau khi tham gia cuộc luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn, được Hoàng Dược Sư chủ trì lễ thành hôn, tới Đào Hoa đảo qui ẩn.

Hoàng Dược Sư tính nết quái dị, không thích náo nhiệt, ở cùng con gái và con rể vài tháng đã chán, bèn để lại một bức thư, nói rằng muốn tìm một nơi thanh tịnh nhàn cư, rồi lẳng lặng bỏ đi. Hoàng Dung biết tính phụ thân, tuy không muốn xa phụ thân, nhưng cũng chẳng nghĩ ra được cách gì. Lúc đầu còn bảo chỉ vài tháng phụ thân sẽ có tin về, nào ngờ biền biệt cả năm trời vẫn không có tin tức gì. Hoàng Dung nhớ phụ thân và sư phụ Hồng Thất Công, bèn cùng Quách Tĩnh đi tìm. Hai vợ chồng hành tẩu giang hồ mấy tháng liền, chưa kết quả gì đành phải trở về Đào Hoa đảo, bởi lẽ Hoàng Dung đã có thai.

Hoàng Dung tính nết điêu ngoa tai quái, không lúc nào chịu yên, khi có thai làm gì cũng bất tiện, nên càng hay bực dọc, gắt gỏng với chồng. Người phải chịu đựng dĩ nhiên là Quách Tĩnh. Chàng biết tính ái thê, mỗi khi nàng cáu bẳn vô lý, chàng chỉ cười cười không chấp, nếu Hoàng Dung tức quá, thì chàng lựa lời an ủi hoặc trêu chọc cho nàng phì cười mới thôi.

Thấm thoắt mười tháng trôi qua, Hoàng Dung sinh một đứa con gái, đặt tên là Quách Phù. Khi có thai, nàng không thích có con; nhưng sau khi sinh con ra rồi, nàng lại hết mực cưng nựng nó. Thành thử con bé chưa đầy tuổi mà đã bướng bỉnh quá thể. Quách Tĩnh lắm khi thấy chướng mắt, quở trách con thì Hoàng Dung lại bênh nó chằm chặp; thành thử nó càng lớn càng ngang ngạnh khó bảo.

Khi Quách Phù lên năm, Hoàng Dung bắt đầu dạy võ cho con. Từ đây các thứ chim muông, thú vật, côn trùng trên đảo đều gặp tai ương, hoặc bị vặt trụi lông, hoặc bị cắt đuôi. Từ chỗ là nơi thanh tịnh để ẩn sĩ tu tâm dưỡng tính, Đào Hoa đảo cuối cùng hóa thành nơi gà bay chó chạy xáo xác. Quách Tĩnh một là quen chiều vợ, hai là cũng rất yêu đứa con gái ngang ngạnh, mỗi khi nó phạm lỗi, chàng định quở mắng, đánh đòn nó, thấy nó giả bộ nhăn nhó xin tha, chàng lại mềm lòng thở dài, cánh tay đã giơ lên lại từ từ buông xuống.

Mấy năm nay Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công biệt vô âm tín, vợ chồng Quách Tĩnh Hoàng Dung luôn nhớ hai vị lão niên. Quách Tĩnh mấy phen đi đón đại sư phụ Kha Trấn Ác, mời sư phụ tới Đào Hoa đảo an hưởng tuổi già. Nhưng Kha Trấn Ác thích bầu bạn với những người ở phố chợ, lấy trò uống rượu đánh bạc làm vui, không muốn cuộc sống thanh tịnh ở Đào Hoa đảo, lần nào cũng khước từ. Một lần Kha Trấn Ác không chờ Quách Tĩnh tới đón, tự mình đến đảo. Nguyên vì gần đây lão gặp vận xui, càng đánh bạc càng thua, mắc nợ quá nhiều, không có gì trả, đành lánh đến nhà đồ đệ để trốn nợ. Quách Tĩnh Hoàng Dung thấy sư phụ đến thì cả mừng, giữ rịt sư phụ ở đảo, nhất định không để đi đâu nữa. Hoàng Dung dần dần biết rõ nguyên do, ngầm sai người đi trả hết các món nợ bài bạc cho sư phụ. Kha Trấn Ác không hay biết, không dám trở về Gia Hưng, nhàn rỗi chẳng có việc gì, đành chơi đùa với Quách Phù vậy.

Thấm thoắt đã mấy năm, Quách Phù lên chín. Hoàng Dung nhớ phụ thân, muốn cùng Quách Tĩnh rời Đào Hoa đảo đi tìm kiếm. Kha Trấn Ác bảo cũng muốn đi. Quách Phù cũng đòi đi theo bằng được. Sau khi bốn người rời đảo, bàn đến hành trình, Kha Trấn Ác nói:

– Đi đâu cũng được, trừ vùng Gia Hưng.

Hoàng Dung cười, nói:

– Đại sư phụ, các món nợ của sư phụ con đã trả giùm sư phụ xong cả rồi.

Kha Trấn Ác cả mừng, nói:

– Thế thì hãy tới vùng Gia Hưng trước.

Đến Gia Hưng, bốn người trú ở khách điếm. Kha Trấn Ác dò la tin tức qua những người quen cũ, có người kể mấy hôm trước có thấy một lão nhân mặc áo bào xanh ngồi một mình uống rượu ở lầu Ân Vũ, hỏi diện mạo, thì rất giống Hoàng Dược Sư. Quách Tĩnh, Hoàng Dung cả mừng, bèn đi khắp vùng Gia Hưng tìm kiếm. Sáng nay Kha Trấn Ác dẫn Quách Phù mang theo đôi chim điêu vào rừng chơi, bất ngờ gặp Võ Tu Văn ở đó.

Kha Trấn Ác đấu với Lý Mạc Sầu vài hiệp, thì biết mình không phải là đối thủ của đạo cô, nghĩ thầm: "Nữ ma đầu này võ công cao thật, chẳng kém gì Mai Siêu Phong hồi trước". Lão vội bảo vệ môn hộ thật kín. Lý Mạc Sầu thầm tán thưởng: "Mình từng nghe chàng Lục Triển Nguyên vô lương tâm kể rằng trong các nhân vật tiền bối của chàng ở Gia Hưng, có Giang Nam Thất Quái, võ công cao cường, thu nhận một đệ tử lừng danh là đại hiệp Quách Tĩnh. Lão già này đứng đầu Giang Nam Thất Quái, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão già yếu, lại vừa mù vừa thọt, mà vẫn còn tiếp nổi hơn mười chiêu của ta". Chỉ nghe vợ chồng họ Lục cùng Võ tam nương vừa quát tháo vừa đánh tới sau lưng, Lý Mạc Sầu chủ ý đã định: "Muốn hạ Kha Trấn Ác không khó, nhưng để vợ chồng Quách Tĩnh hỏi đến thì không ổn. Thôi hôm nay phải tha cho lão già vậy". Bèn giơ cây phất trần chọc thẳng vào giữa ngực Kha Trấn Ác như một mũi thương. Các sợi ngân ti của phất trần tuy mềm, nhưng đã mượn xảo kình, lại nhắm vào đại huyệt yếu hại, thành thử cú đâm này rất lợi hại.

Kha Trấn Ác dộng cây thiết trượng xuống đất, mượn thế nhảy ra sau. Lý Mạc Sầu sấn tới một bước, tưởng là tiến chiêu truy kích, ai ngờ đột nhiên ngửa người cực nhanh ra phía sau, ưỡn lưng rất dẻo. Vai Lý Mạc Sầu còn cách Võ tam nương chưa đầy hai thước. Võ tam nương giật mình, vội vung tả chưởng vỗ xuống mặt Lý Mạc Sầu. Eo lưng của Lý Mạc Sầu nhẹ như một bông hoa cúc khẽ đung đưa trước gió, đã tránh từ sớm, nghe bộp một tiếng, Lục nhị nương liền bị trúng một chưởng vào bụng dưới.

Lục nhị nương trúng chưởng ngã ngửa ra. Lục Lập Đỉnh thấy vợ bị thương, bèn vung tay phải ném cây đơn đao về phía Lý Mạc Sầu rồi giang hai tay lao tới, định ôm chặt lấy mụ ta để cùng chết. Lý Mạc Sầu còn là xử nữ trinh bạch, vốn bị thất tình, rất ghét trò đụng chạm nam nữ, lúc này thấy Lục Lập Đỉnh nhào tới ôm thì nổi cơn lôi đình, dùng cán phất trần gạt rơi đơn đao, rồi thuận thế vung lên đánh chặn; nghe cộp một tiếng, trúng đỉnh đầu Lục Lập Đỉnh.

Việc hạ gục vợ chồng Lục Lập Đỉnh xảy ra trong chớp mắt, Kha Trấn Ác và Võ tam nương muốn cứu cũng chẳng kịp. Lý Mạc Sầu cười hỏi:

– Hai đứa bé gái đâu?

Không đợi Võ tam nương trả lời, Lý Mạc Sầu đã xộc vào gia trang, lục soát khắp nơi, nhưng không tìm thấy Trình Anh và Lục Vô Song. Lý Mạc Sầu lấy cây đuốc trong bếp, mang vào kho củi phóng hỏa, rồi nhảy ra ngoài, cười nói:

– Ta không có gì sai quấy với Đào Hoa đảo và Nhất Đăng đại sư, mong hai vị lui về cho.

Kha Trấn Ác và Võ tam nương thấy Lý Mạc Sầu quá ư hung tàn, thì cả giận, thiết trượng và kiếm thép cùng đánh tới. Lý Mạc Sầu nghiêng mình tránh thiết trượng, vung phất trần quấn lấy thanh kiếm của Võ tam nương. Hai luồng kình lực từ phất trần truyền ra, một kéo vào, một đẩy ra, nghe "cách" một tiếng; thanh kiếm gãy đôi, phần mũi kiếm đâm về phía Võ tam nương, phần chuôi kiếm thì văng về phía Kha Trấn Ác.

Võ tam nương bị mất kiếm, cả kinh, càng không ngờ mụ ma đầu có thể dùng phất trần làm gãy kiếm, lại dùng ngay hai đoạn kiếm gãy tấn công hai người. Phần mũi kiếm bay nhanh tới, Võ tam nương vội cúi đầu né tránh, chỉ cảm thấy lạnh cả đỉnh đầu, nửa thanh kiếm bay qua, hớt ngọt một mảng tóc. Kha Trấn Ác nghe tiếng rít của kim khí trong không trung, liền giơ trượng gạt văng được đoạn chuôi kiếm đi. Nghe tiếng gọi của Võ tam nương, vị lão nhân xoay tít cây trượng tiến công. Tay trái của lão tuy nắm ba mũi ám khí "Độc tật lê", nhưng lão nghĩ, nghe đâu Lý Mạc Sầu có loại "Băng phách ngân châm" âm độc dị thường, mình mù lòa không nhìn thấy, chớ nên khích mụ ta sử dụng ám khí lợi hại làm gì; vì vậy tuy tình thế nguy ngập, lão vẫn không dám phóng "Độc tật lê". Lý Mạc Sầu trước sau đối với lão vẫn hạ thủ lưu tình, nghĩ thầm: "Nếu ta không giở thủ đoạn, chỉ e lão già mù này không biết là ta nhường nhịn", liền vặn người dùng các sợi ngân ti phất trần cuốn lấy đầu cây trượng. Kha Trấn Ác chỉ cảm thấy có một sức mạnh ghê gớm tính đoạt lấy cây thiết trượng của lão; lão vội vận sức giằng lại. Nào ngờ sức vận ra tới đầu mút cây trượng, thì lực đoạt đột nhiên biến mất; trong chớp mắt, lão cảm thấy tứ chi bủn rủn không còn chút sức lực nào cả. Lý Mạc Sầu dùng tay trái hất cây trượng sang một bên, bàn tay đã áp nhẹ vào ngực Kha Trấn Ác, cười nói:

– Kha lão gia tử, "Xích Luyện Thần chưởng" đánh vào ngực lão rồi nè!

Kha Trấn Ác lúc này đã hết bề chống đỡ, giận dữ nói:

– Nữ ác tặc, ngươi cứ việc ra đòn, chớ lắm lời!

Võ tam nương thấy vậy, vội lao tới cứu. Lý Mạc Sầu nhún mình nhảy lên, giơ tay vuốt qua mặt Võ tam nương một cái, cười nói:

– Ngươi dám đánh đuổi đồ đệ của ta, lá gan cũng không nhỏ.

Rồi cười khanh khách, nhún nhẩy vài cái, đã mất hút đằng xa.

Võ tam nương chỉ cảm thấy bàn tay mềm mại của mụ ta vuốt qua mặt rất dễ chịu, rồi cái lưng của mụ ta đã khuất vào phía sau một cây liễu. Võ tam nương vừa rồi tiếp chiêu mụ ta tuy chỉ vài hiệp, nhưng chiêu nào cũng hiểm tử hoàn sinh, phải dốc toàn lực, nên bây giờ chân tay rã rời, không muốn động đậy nữa. Kha Trấn Ác thì vừa rồi tưởng như có tảng đá đè ngực, khó thở vô cùng, phải từ từ hít mấy hơi, mới điều hòa được hô hấp.

Lát sau, Võ tam nương gắng gượng đứng dậy, chỉ thấy khói đen bốc mù mịt, Lục gia trang đã chìm trong biển lửa. Lửa táp hơi nóng mỗi lúc một gần.

Kha Trấn Ác vội đỡ vợ chồng Lục Lập Đỉnh lên, nhưng thấy cả hai chỉ còn thở thoi thóp, thì nghĩ thầm: "Nếu di chuyển hai người này, chỉ e họ chóng tắt thở hơn, song cũng không thể bỏ mặc họ ở đây, phải làm sao bây giờ?"

Đang lưỡng lự, chợt nghe từ xa có tiếng gọi:

– Nương tử, nàng có sao không?

Chính là tiếng gọi của Võ Tam Thông.

Comments

1 comments

Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 02: Con của địch nhân

Võ tam nương đang bối rối chưa biết làm sao, bỗng nghe tiếng gọi của phu quân thì vừa mừng vừa bực nghĩ bụng lão già điên khùng chẳng hiểu làm trò gì ở đâu mà mãi giờ này mới tới. Chỉ thấy Võ Tam Thông áo quần rách rưới, ngực đeo cái yếm dãi hồi nhỏ Hà Nguyên Quân từng mang, chạy tới hỏi:

– Nương tử, nàng có sao không?

Ngót mười năm nay, Võ tam nương chưa bao giờ thấy phu quân quan tâm đến mình như vậy, thì trong lòng cả mừng, nói:

– Thiếp ở đây này.

Võ Tam Thông ào tới, hai tay cắp hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh lên, nói:

– Mau đi theo ta.

Lời chưa dứt, đã phóng đi liền. Võ tam nương và Kha Trấn Ác chạy theo sau.

Võ Tam Thông chạy vòng vèo mấy dặm, dẫn hai người đến một cái hầm nấu rượu rất lớn. Cái nhà hầm này bỏ hoang đã lâu. Võ tam nương bước vào nhà hầm thấy Đôn Nhu, Tu Văn hai đứa con bình an, thì lập tức yên tâm, thở phào nhẹ nhõm.

Huynh đệ Võ Tu Văn đang chơi trò xếp sỏi với Trình Anh và Lục Vô Song. Trình Anh và Lục Vô Song thấy hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh như thế thì ôm lấy họ, vừa khóc vừa gọi.

Kha Trấn Ác nghe Lục Vô Song khóc gọi cha gọi mẹ, thì sực nhớ đến lời lẽ của Lý Mạc Sầu, vội kêu lên:

– Chao ôi, hỏng rồi, chúng ta đã dẫn quỷ vào nhà, mụ nữ ma đầu kia sẽ đến đây mất!

Võ tam nương nghe vậy thì hoảng sợ, hỏi:

– Tại sao?

Kha Trấn Ác nói:

– Mụ nữ ma đầu ấy muốn giết hại hai bé gái nhà họ Lục, nhưng mụ chưa biết chúng ta nấp ở đâu đó thôi..

Võ tam nương lập tức tỉnh ngộ, nói:

– Phải rồi, mụ ta cố ý không giết hai chúng ta, rồi bí mật bám theo.

Võ Tam Thông cả giận, nói:

– Con nữ quỷ Xích Luyện Xà này âm hồn không tan, để ta đấu với nó.

Rồi lão đứng chắn ngay cửa nhà hầm

Lục Lập Đỉnh bị vỡ đầu, nhưng còn chút việc riêng cần trăn trối, nên cố nhịn đau lấy sức, nói với Trình Anh:

– A Anh, hãy.. lấy tấm khăn ở túi.. túi ngực ra cho ta.

Trình Anh quệt nước mắt thò tay vào túi áo ngực của Lục Lập Đỉnh lấy ra một tấm khăn. Đó là tấm khăn tay bằng lụa trắng, bốn góc thêu bốn bông hoa hồng đỏ thắm, cạnh mỗi bông hoa thêu một chiếc lá xanh; lụa trắng đã ngả màu vàng nhưng màu hoa và lá thì vẫn tươi nguyên, trông y như hoa lá thật. Lục Lập Đỉnh nói:

– A Anh, điệt nhi hãy quàng tấm khăn này lên cổ, nhất thiết không được cởi ra, nghe chưa?

Trình Anh không rõ dụng ý, nhưng di phụ đã dặn thế, thì cô bé phải gật đầu vâng lời.

Lục nhị nương vốn đau tới mức thần trí mơ hồ, nghe thấy giọng nói của phu quân, bèn mở mắt ra, nói:

– Sao không cho Song nhi? Chàng hãy trao cho Song nhi đi!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Không, làm sao ta có thể phụ lời ủy thác của cha mẹ nó?

Lục nhị nương nói:

- Chàng.. chàng nỡ nào coi con mình không bằng người ngoài?

Nói đoạn hai mắt lộn lên toàn lòng trắng, tiếng nói tắt lịm.

Lục Vô Song không biết cha mẹ giằn vặt nhau điều gì, chỉ khóc gọi:

– Mẹ ơi! Cha ơi!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Nương tử, nàng thương Song nhi, thì để con nó đi theo chúng ta có hơn không?

Nguyên tấm khăn thêu hoa hồng này là vật hứa hôn của Lý Mạc Sầu tặng Lục Triển Nguyên ngày trước. Hoa hồng là thứ hoa cà độc dược lừng danh ở nước Đại Lý. Còn lá xanh Lý Mạc Sầu coi là tượng trưng cho chàng trai họ Lục mà nàng ta yêu thương. Lúc lâm chung, Lục Triển Nguyên biết rằng hết thời hạn mười năm, Võ Tam Thông và Lý Mạc Sầu thể nào cũng tìm đến gây sự, người em trai thì võ nghệ tầm thường, không thể địch nổi, chẳng biết làm sao, bèn đưa tấm khăn cho người em, dặn kỹ rằng, nếu Võ Tam Thông tìm đến trước đòi báo thù, có thể tránh được thì tránh, không tránh được mà động thủ ắt thua, nhưng cũng không lo mất mạng. Riêng Lý Mạc Sầu thì mấy năm gần đây khắp giang hồ lừng tiếng bạo tàn, mụ ta đến tất là đại họa, lúc nguy cấp hãy quàng tấm khăn này vào cổ có thể nữ ma đầu sẽ niệm tình cũ mà nương tay cho.

Lục Lập Đỉnh cao ngạo, trước sau không chịu dùng tấm khăn ấy để xin mụ nữ ma đầu tha mạng.

Trình Anh là con gái người anh đồng hao của Lục Lập Đỉnh. Cha mẹ cô bé khi còn sống đã nhờ Lục Lập Đỉnh nuôi dưỡng nó. Lục Lập Đỉnh nhận trọng thác, trách nhiệm chưa tròn, bây giờ đại nạn lâm đầu, bèn đem tấm khăn cứu mạng trao cho đứa cháu. Lục nhị nương mẫu tử tình thâm, thấy chồng chẳng nghĩ đến con gái thì bàng hoàng, cộng với cơn đau có sẵn, ngất lịm đi. Trình Anh thấy di mẫu vì chuyện tấm khăn mà phiền não, vội đưa chiếc khăn cho Lục Vô Song nói:

– Biểu muội, di mẫu bảo đưa cho muội, muội cầm lấy đi!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Song nhi, đó là của biểu tỷ, con đừng nhận.

Võ tam nương nhìn cảnh đó, nói:

– Để ta cắt tấm khăn làm hai, mỗi tiểu thư cầm một mảnh, được chăng?

Lục Lập Đỉnh muốn nói, nhưng đã hết hơi, chỉ gật đầu. Võ tam nương liền xé tấm khăn làm hai đưa cho mỗi cô bé một mảnh. Võ Tam Thông đứng ở cửa nhà hầm, nghe sau lưng có tiếng khóc, tiếng gọi, không hiểu chuyện gì, ngoảnh nhìn vào trong, chợt thấy má bên trái của Võ tam nương đen như than, má bên phải vẫn bình thường, thì không khỏi kinh hãi, chỉ mặt vợ, hỏi:

– Vì lẽ gì.. lại như thế?

Võ tam nương đưa tay sờ má, hỏi:

– Làm sao kia?

Chỉ thấy má bên trái tê dại bì bì, không có cảm giác gì, thì giật mình, nhớ Lý Mạc Sầu trước khi bỏ đi có đưa tay vuốt má mình một cái; không lẽ cái vuốt nhẹ của một bàn tay mềm ấm lại là hạ độc thủ hay sao?

Võ Tam Thông đang định hỏi thêm, bỗng nghe bên ngoài cửa nhà hầm có tiếng người cười, nói:

– Hai con nhãi ở đây phải không? Bất kể chúng nó sống hay chết, cũng ném ra đây cho ta coi. Nếu trái lời, ta sẽ cho một mồi lửa để tất cả các người biến thành than.

Giọng nói trong trẻo, ngân vang, dịu dàng.

Võ Tam Thông vội nhảy ra ngoài cửa nhà hầm, thấy Lý Mạc Sầu đứng sừng sững trước mặt, thì vô cùng kinh ngạc "Mười năm không gặp, lẽ nào nàng ta vẫn trẻ trung xinh đẹp hệt như xưa?" Hồi gặp tại tiệc cưới của Lục Triển Nguyên, Lý Mạc Sầu khoảng hai mươi tuổi, bây giờ ba mươi; song trừ tấm áo đạo bào, còn nước da vẫn trắng trẻo nõn nà như xưa. Cây phất trần trong tay nàng khẽ rung động, thần thái thật là nhàn nhã, đôi mắt nhung huyền, chẳng có vẻ gì là một nữ ma đầu giết người không chớp mắt. Võ Tam Thông thấy cây phất trần rung rung, chợt nhớ mình để vũ khí trong nhà hầm, nếu trở vào lấy, e rằng Lý Mạc Sầu sẽ thừa cơ xông vào sát hại bọn trẻ, thấy cạnh cửa hầm có một cây dẻ thân to bằng bắp chân, bèn dùng hai tay bẻ gãy luôn, lấy làm binh khí.

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Sức vóc ghê thật!

Võ Tam Thông xoay ngang thân cây, nói:

– Lý cô nương, mười năm không gặp, cô nương khoẻ chứ?

Trước kia Võ Tam Thông gọi Lý Mạc Sầu là cô nương; ngày nay Lý Mạc Sầu đã xuất gia tu đạo, Võ Tam Thông vẫn không thay đổi cách xưng hô. Mười năm rồi Lý Mạc Sầu không còn nghe ba tiếng "Lý cô nương", giờ đột nhiên nghe thấy, lòng bỗng xúc động, tình ý hồi thiếu nữ chợt trỗi dậy; nhưng lại nghĩ, lẽ ra mình đã có thể chung sống với ý trung nhân, nào ngờ thế gian lại có một thiếu nữ khác là Hà Nguyên Quân, làm cho nàng mất hết thể diện, cô đơn thê thảm suốt đời thế này. Thế là trong giây lát bao nhiêu nhu tình mật ý đều hóa thành oán độc chất chồng. Võ Tam Thông cũng bị mất người mình yêu, tuy tình cảm có khác so với Lý Mạc Sầu, nhưng cũng coi như đồng bệnh tương lân, thế nhưng hôm ở tiệc cưới của Lục Triển Nguyên ra về, Võ Tam Thông lại chính mắt nhìn thấy Lý Mạc Sầu ra tay sát hại hơn hai mươi người già trẻ trai gái nhà Hà lão quyền sư; bây giờ nhớ lại vẫn còn rợn gáy. Hà lão quyền sư không hề quen biết Lý Mạc Sầu, đôi bên vô oán vô cừu, cũng không dính dáng gì với Hà Nguyên Quân; chỉ vì gia đình Hà lão quyền sư mang họ Hà, mà Lý Mạc Sầu trong lúc đau khổ đã đang tay giết sạch cả nhà người ta. Già trẻ nhà ấy đến lúc chết vẫn không một ai biết vì lẽ gì họ bị giết. Bấy giờ Võ Tam Thông không hiểu duyên do, nên không can thiệp, sau mới biết là Lý Mạc Sầu chẳng qua giận cá chém thớt, thất tình mà làm vậy thôi; thì đối với Lý Mạc Sầu từ đó lão vừa hận vừa sợ. Lúc này nhìn thấy vẻ dịu dàng vừa thoáng hiện trên mặt nàng ta đã lập tức chuyển thành cái nhếch mép cười khẩy, thì lão không khỏi lo cho tính mạng hai đứa bé gái trong nhà hầm.

Lý Mạc Sầu nói:

– Ta đã in dấu chín bàn tay trên tường nhà họ Lục, hai bé gái kia không thể không giết. Võ tam gia, mong các hạ nhường lối cho.

Võ Tam Thông nói:

– Hai vợ chồng Lục Triển Nguyên đã chết rồi, hai vợ chồng người em trai của hắn cũng đã bị Lý cô nương hạ độc thủ; còn mỗi hai bé gái, cô nương hãy tha cho chúng nó.

Ly Mạc Sầu lắc đầu, dịu dàng nói:

– Võ tam gia, xin hãy nhường lối cho.

Võ Tam Thông nắm chặt cây dẻ, nói:

– Lý cô nương, cô nương độc ác quá. Nguyên Quân..

Hai tiếng "Nguyên Quân" vừa nói ra Lý Mạc Sầu sắc mặt biến đổi hẳn, nói:

– Ta từng thề độc, rằng kẻ nào trước mặt ta nhắc đến tên con tặc nhân ấy, thì kẻ đó và ta chỉ có một người được sống mà thôi. Trên sông Nguyên giang ta từng giết mười sáu nhà thuyền, chỉ vì chiêu bài hành nghề của họ mang cái tên xấu xa đó, việc ấy chắc các hạ biết rồi chứ? Võ tam gia, như thế là các hạ tự chuốc lấy họa, không thể oán trách ta.

Nói đoạn vung cây phất trần đánh xuống đầu Võ Tam Thông.

Tuy chỉ là một cây phất trần nhỏ bé, song Lý Mạc Sầu ra đòn vừa nhanh vừa mạnh, đòn mới tới gần mà mái tóc của Võ Tam Thông đã bay loạn lên. Lý Mạc Sầu biết Võ Tam Thông là cao đệ của Nhất Đăng đại sư, tuy điên điên khùng khùng, nhưng vô công quả vào loại phi phàm, cho nên mụ ra đòn là hạ sát thủ. Võ Tam Thông đưa tay trái lên, thân cây gạt mạnh qua. Lý Mạc Sầu thấy thế đến lợi hại, thân mình theo gió trôi ra, không đợi thân cây ngừng lại, mụ đã vọt tới tấn công trực diện. Võ Tam Thông thấy mụ ta tấn công vào vòng trong, tay phải liền giơ ngón trỏ điểm tới trán Lý Mạc Sầu. Phép điểm huyệt "Nhất dương chỉ" này tuy không thật lẹ, nhưng biến ảo khôn lường, khó bề chống đỡ. Lý Mạc Sầu dùng chiêu "Đảo đả kim chung", thân hình trong chớp mắt đã lùi ra xa hơn một trượng. Võ Tam Thông thấy Lý Mạc Sầu chợt vào chợt ra, trong chớp mắt đã tiến thoái mấy lần, thầm thán phục, bèn múa thân cây buộc Lý Mạc Sầu phải ở ngoài xa hơn trượng; nhưng chỉ cần lơi lỏng một chút, là nàng ta đã nhanh như chớp xông vào gần, nếu Võ Tam Thông không có môn "Nhất dương chỉ" lợi hại, thì lão đã thua lâu rồi. Nhưng cứ thế kéo dài, thân cây vốn nặng nề càng múa càng mất sức; Lý Mạc Sầu cứ mỗi lúc một tiến vào gần hơn. Đột nhiên cái bóng vàng rung động, Lý Mạc Sầu nhảy vọt lên ngọn cái cây dẻ mà Võ Tam Thông đang cầm, vung cây phất trần từ phía trên đánh xuống. Võ Tam Thông cả kinh, đảo ngọn thành gốc để hất Lý Mạc Sầu xuống đất. Lý Mạc Sầu cười khanh khách, đạp trên thân cây mà xông vào. Võ Tam Thông vươn tay sử "Nhất dương chỉ". Lý Mạc Sầu hơi uốn cái lưng ong, đã lùi về đằng ngọn. Mấy chục chiêu tiếp theo, dù Võ Tam Thông rung lắc quét đập cái thân cây dẻ thế nào, Lý Mạc Sầu trước sau vẫn cứ đứng đè lên nó, tìm chỗ sơ hở của đối thủ mà tấn công.

Võ Tam Thông cảm thấy quá tốn sức, thân hình Lý Mạc Sầu tuy không nặng, nhưng cũng thêm vài chục cân cộng với cái thân cây; huống hồ nàng ta đứng đè thân cây như thế, thân cây đâu có thể đánh được nàng ta, trong khi nàng ta có thể đánh người, tức là nàng ta ở vào thế bất bại. Võ Tam Thông thấy mình sa vào thế hạ phong, biết rằng chỉ cần lão sơ sảy một chút, lão dẫu có mất mạng cũng chẳng sao nhưng tất cả già trẻ trong nhà hầm sẽ chết hết dưới tay Lý Mạc Sầu, nên lão liền dồn sức vào hai cánh tay, múa thân cây dẻ thật gấp để hất văng nàng ta đi.

Đấu thêm một lúc nữa, bỗng nghe sau lưng có tiếng nói to của Kha Trấn Ác:

– Phù nhi, cháu cũng tới đó ư? Mau gọi điêu nhi tới mổ con nữ ác nhân kia đi!

Tiếp đó có tiếng một bé gái luôn miệng gọi chim, từ trên trời có đôi chim trắng sà xuống, chính là hai con chim điêu khổng lồ của Quách Phù. Đôi chim điêu chia hai phía tấn công Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu thấy thế công của hai con chim điêu rất nguy hiểm, bèn lộn người một vòng xuống bên dưới cây dẻ, dùng chân trái móc vào thân cây. Hai con chim điêu mổ xuống không trúng, dang cánh bay lên cao. Giọng bé gái lại gọi mấy tiếng. Đôi chim điêu lao xuống lần thứ hai, bốn chân chim như bốn cái móc sắt cùng chộp xuống bên dưới cây dẻ. Lý Mạc Sầu từng nghe đồn vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung ở Đảo Hoa đảo có nuôi một cặp chim điêu lớn hết sức tinh khôn; lúc này nàng ta thấy hai con chim điêu chia nhau tấn công, đối với hai con chim này, nàng ta chẳng ngán, nhưng chỉ lo vợ chồng Quách Tĩnh đang ở gần đâu đây thì nguy. Nàng ta tránh mấy lần, rồi vung cây phất trần một cái đánh vào cánh con chim cái, chỉ nghe nó kêu mấy tiếng đau đớn, vài cái lông trắng và dài bay lả tả trong không trung.

Quách Phù thấy chim bị thương, thì gọi to:

– Điêu nhi, đừng sợ! Mau cắn ác nhân!

Lý Mạc Sầu ngoảnh về phía tiếng nói, thấy một bé gái mặt trắng như ngọc, mi mục như họa, chợt nghĩ thầm: "Nghe đâu Quách phu nhân là mỹ nhân trong số anh hiệp thời nay, không biết so với ta thì sao? Bé gái này không lẽ là con của Hoàng Dung?"

Vừa nghĩ thế, tay nàng ta hơi chậm lại. Võ Tam Thông thấy có hai con chim điêu trợ lực, liền dồn sức vào hai cánh tay, hất mạnh cả cây lẫn Lý Mạc Sầu lên không trung. Lý Mạc Sầu không ngờ cuối cùng lão lại giở quái chiêu này, thân hình bị văng lên cao mấy trượng. Hai con chim điêu thấy nàng ta bay lên, bèn lao tới mổ.

Nếu là đang ở dưới đất, Lý Mạc Sầu chẳng ngán gì hai con chim điêu nhưng bây giờ nàng ta lơ lửng trên không, đâu có chỗ tựa để chống đỡ loài chim? Trong lúc gấp rút, Lý Mạc Sầu vung cây phất trần bảo vệ đầu và mặt, phóng từ tay áo ba mũi "Băng phách ngân châm", một mũi nhắm tới ngực Võ Tam Thông, hai mũi nhắm tới hai con chim điêu. Hai con chim điêu vội vọt bay lên cao, song ngân châm bay quá nhanh, sượt vào vuốt con chim đực.

Võ Tam Thông lúc ấy đang ngẩng đầu lên, chợt một tia ngân quang lóe sáng, lão vội lăn sang bên để tránh; mũi ngân châm đã trúng vào bắp chân bên trái của lão. Võ Tam Thông lăn xong định đứng lên ngay, nào ngờ chân trái không nghe theo ý muốn nữa. Lão cố lấy sức để đứng lên, nhưng cả chân phải cũng đã tê dại, lão ngã sấp ngay xuống, hai tay đỡ vội, thế rồi đành nằm bất động.

Quách Phù gọi to:

– Điêu nhi, điêu nhi, mau tới đây!

Hai con chim đã bay xa, không ngoái đầu lại. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Này bé, bé họ Quách phải không?

Quách Phù thấy nàng ta diện mạo xinh đẹp dịu dàng dễ gần, chẳng có vẻ gì là "nữ ác nhân" cả, thì đáp:

– Vâng, điệt nhi họ Quách. Còn cô cô họ gì?

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Lại đây, ta dẫn bé đi chơi nào.

Nàng ta thong thả bước tới, định cầm tay Quách Phù. Kha Trấn Ác vội từ trong nhà hầm lao ra, giơ thiết trượng chắn trước mặt Quách Phù, nói:

– Phù nhi! Cháu hãy vào trong ngay!

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Sợ ta ăn thịt nó chăng?

Vừa lúc ấy, có một thiếu niên ăn mặc rách rưới, tay trái ôm một con gà trống, miệng hát nghêu ngao, nhảy chân sáo tới, thấy trước cửa nhà hầm có người, bèn hỏi:

– Các vị đến nhà ta làm gì đấy?

Cậu ta đến trước mặt Lý Mạc Sầu và Quách Phù, ngắm nghía hai người, rồi cười, nói:

– Chà chà, đại mỹ nhân quá xinh đẹp, tiểu mỹ nhân quá thanh tú, hai cô nương cùng tới tìm ta đó chăng? Họ Dương ta mấy khi có nhiều bằng hữu xinh đẹp thế này.

Thiếu niên vẻ mặt tươi cười, nói năng vô cùng lưu loát.

Quách Phù dẩu môi, giận dữ nói:

– Tiểu khiếu hóa, ai bảo ta đến tìm ngươi?

Thiếu niên cười nói:

– Cô nương không tìm ta, sao lại đến nhà ta?

Nói đoạn chỉ tay vào nhà hầm, ngụ ý đó là nhà của cậu ta. Quách Phù nói:

– Hừ, cái xó hôi hám như thế, ai mà thèm đến?

Võ tam nương thấy phu quân ngã sấp xuống đất, chưa biết sống chết thế nào, lo quá, vội từ trong nhà hầm lao ra, cúi xuống gọi:

– Tam ca, có sao không?

Võ Tam Thông rên một tiếng lưng động đậy mấy cái, vẫn không nhổm dậy được. Quách Phù nhìn ra xa, không thấy đôi chim điêu, cất tiếng gọi to:

– Điêu nhi, điêu nhi, mau trở về đây!

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: "Dây dưa dễ lắm chuyện rắc rối, để vợ chồng Quách Tĩnh tới đây thì phiền to" liền mỉm cười, tiến thẳng vào trong nhà hầm. Võ tam nương vội bật dậy, xoay người vung kiếm cản đường, nói:

– Không được vào đó!

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Đây là dinh thự của tiểu huynh đệ kia, đâu phải là chỗ của ngươi?

Tả chưởng của nàng ta chộp thẳng lấy mũi kiếm, nhưng sắp chạm đến, thì lòng bàn tay hơi xoay nghiêng, ba ngón tay đẩy vào sống kiếm, mũi kiếm bị hất về phía trán của Võ tam nương, làm sượt một chút da. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Đắc tội!

Nói rồi cắm cây phất trần vào vạt áo, cúi đầu tiến vào trong nhà hầm, một tay túm lấy Trình Anh, tay kia túm lấy Lục Vô Song, nhấc bổng lên, không xoay mình, khẽ nhún chân trái, vọt ra khỏi hầm, tiện thể còn tung cước đá văng cây thiết trượng của Kha Trấn Ác.

Cậu thiếu niên lam lũ thấy nàng ta đả thương Võ tam nương, lại bắt hai thiếu nữ, nghe tiếng kêu cứu của Trình Anh và Lục Vô Song, cảm thấy quá bất bình, liền lao tới ôm chặt lấy Lý Mạc Sầu, nói:

– Này đại mỹ nhân, cô nương đến dinh của ta đánh người bắt người, cũng chẳng thèm chào hỏi gì chủ nhân của nó cả, thật quá vô lý, mau thả người ra!

Lý Mạc Sầu hai tay còn vướng hai cô bé, không đề phòng, chàng thiếu niên lại dang tay ôm chặt lấy mình, chỉ cảm thấy có vòng tay lạ ôm hai bên eo, chẳng hiểu sao đột nhiên toàn thân bửng lửng, bèn vận lực vào lòng bàn tay, hất nhẹ hai cô bé ra xa mấy thước, tiếp đó chộp lấy lưng cậu thiếu niên. Từ mười tuổi trở đi, Lý Mạc Sầu chưa hề đụng chạm da thịt với nam giới; sống đến ba mươi tuổi vẫn còn là xử nữ. Hồi nàng ta si mê Lục Triển Nguyên, trước sau hai người luôn giữ lễ với nhau; trên giang hồ có không ít nam tử thấy nàng ta xinh đẹp, khó tránh động tình khởi tâm, nhưng chỉ cần thần sắc để lộ tà tâm, lập tức kẻ đó sẽ bỏ mạng bởi "Xích luyện thần chưởng" của nàng ta. Ai ngờ hôm nay cuối cùng lại để cho một cậu thiếu niên ghì chặt. Lý Mạc Sầu túm lấy cậu ta, đã định dồn lực ra lòng bàn tay, đánh giập nát tim phổi của cậu ta; nhưng vừa rồi nghe cậu ta tán thuởng sắc đẹp của mình bằng lời lẽ chân thành, trong bụng không khỏi có phần thích thú; lời lẽ đó nếu là của một nam nhân lớn tuổi nói ra, chắc nàng ta đã chán ghét; đằng này lại là của một cậu thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi, cho nên nàng ta chợt mềm lòng, không ra tay nữa.

Bỗng nghe trên trời có tiếng chim điêu kêu gấp, cặp chim điêu từ xa bay trở lại, lại nhào xuống tấn công. Lý Mạc Sầu phất tay áo bên trái, hai mũi "Băng phách ngân châm" phóng ra. Đôi chim điêu lúc trước từng dính đòn thứ árn khí lợi hại này, vội vã bay vút lên cao; nhưng mũi ngân châm bắn ra nhanh lạ thường, đôi chim điêu bay lánh tuy nhanh, song ngân châm còn lẹ hơn. Cặp chim điêu hoảng hốt kêu to. Lý Mạc Sầu mắt thấy lần này hai con ác điểu khó thoát chết, nàng ta đang hoan hỉ, bỗng nghe hai tiếng "chíu chíu", có hai vật nhỏ bay vút lên trời với tốc độ dị thường, vừa nghe tiếng phát ra, trong nhớp mắt đã đánh rơi hai mũi ngân châm xuống đất.

Loại ám khí đi nhanh hơn tiếng động kia có uy lực thật ghê gớm, Lý Mạc Sầu cả kinh, vội buông cậu thiếu niên ra, nhảy tới nhặt lên xem, hóa ra chỉ là hai viên sỏi tầm thường, liền nghĩ thầm: "Người phóng hai viên sỏi này võ công cao thâm khôn lường, ta không phải là đối thủ, nên tránh trước đi là hơn". Nghĩ vậy, liền quay mình, giơ chưởng vỗ vào sau lưng Trình Anh. Lý Mạc Sầu muốn giết hai cô bé Trình, Lục trước, rồi sẽ tính sau.

Bàn tay sắp chạm tới lưng Trình Anh thì Lý Mạc Sầu nhìn thấy cổ cô bé quàng tấm khăn lụa thêu hoa hồng lá xanh, chính tấm khăn mà nàng ta dành bao tâm tình vào đường kim mũi chỉ thêu tặng ý trung nhân. Lý Mạc Sầu sững người, thu hồi chưởng lực; bao nhiêu nhu tình mật ý trong giây lát trỗi dậy trong lòng, nghĩ thầm: "Chàng tuy thành thân với con nữ tặc họ Hà, song thủy chung chàng vẫn không quên ta. Tấm khăn này đưa ra là có ý xin ta tha cho hậu nhân của chàng. Có nên tha hay không đây?" Nhất thời khó quyết định vậy hãy đập chết Lục Vô Song đi đã. Cây phất trần vung lên, nhắm lưng Lục Vô Song quật xuống, chợt nàng ta lại thấy cổ cô bé này cũng quàng tấm khăn y hệt. Lý Mạc Sầu ồ lên một tiếng, nghĩ thầm: "Sao lại có những hai tấm khăn? Tức thị có một tấm khăn là giả". Cây phất trần sắp đánh tới, liền được cuộn về.

Đúng lúc đó, tiếng "chíu" ban nãy lại xé gió, một viên sỏi bay thẳng tới sau lưng Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần ra sau lưng. Viên sỏi bắn trúng vào cán cây phất trần, nàng ta cảm thấy hổ khẩu đau nhói, lòng bàn tay phát nhiệt, toàn thân chấn động. Một viên sỏi nhỏ mà kình lực như thế, người phóng nó đi phải có võ công thế nào, khỏi nói cũng biết. Lý Mạc Sầu không dám chần chừ vội túm lấy Lục Vô Song, thi triển khinh công, lướt đi như một làn gió, thoáng một cái đã mất hút.

Trình Anh thấy biểu muội bị bắt đi, gọi to:

– Biểu muội, biểu muội!

Rồi chạy theo. Nhưng với cước lực của Lý Mạc Sầu, cô bé Trình Anh theo sao kịp? Đất Giang Nam sông hồ ngang dọc khắp nơi, Trình Anh chạy một hồi, thì bị một dòng sông nhỏ chắn trước mặt, bèn theo bờ sông mà chạy, vừa chạy vừa gọi. Bỗng thấy có một cái bóng vàng vút qua chiếc cầu phía bên trái, một người từ bờ bên kia lao sang. Trình Anh ngẩn người, Lý Mạc Sầu đã đứng ngay trước mặt nó, không thấy có Lục Vô Song kẹp dưới nách.

Trình Anh thấy Lý Mạc Sầu quay lại thì cả sợ, đánh bạo hỏi:

– Biểu muội của ta đâu?

Lý Mạc Sầu thấy cô bé da trắng ngần, diện mạo xinh xắn, thì lạnh lùng nói:

– Mi xinh xắn thế này, mai sau lớn lên, không làm cho kẻ khác đau khổ, thì tự mình sẽ đau khổ, chi bằng chết sớm đi là hơn. Thế gian bớt được một chút phiền não.

Cây phất trần đưa ra sau, rồi đánh về đằng trước, cú đòn này sẽ làm cho Trình Anh vỡ đầu nát ngực.

Nhưng cây phất trần đang đánh về phía trước thì bị một vật gì đó giữ chặt lấy. Lý Mạc Sầu cố kéo cũng vô ích. Nàng ta cả kinh, ngoảnh đầu định nhìn xem sao, thì thân hình bị nhấc bổng lên cao rồi hất ngược ra phía sau hơn một tượng mới rơi xuống. Lý Mạc Sầu kinh hoàng, tả chưởng che ngực, dồn lực vào cây phất trần mà quật mạnh ra phía sau, nhưng nào thấy chạm vật gì đâu. Nàng ta từng đánh lớn nhỏ mấy trăm trận, chưa lần nào gặp cảnh quái dị thế này, trong óc chợt lóe lên ý nghĩ "Yêu tinh chăng? Ma quỉ chăng?" Liền dùng chiêu "Hỗn nguyên thức" múa cây phất trần hộ thân trong vòng năm thước, rồi mới quay mình nhìn lại.

Chỉ thấy đứng cạnh Trình Anh là một quái nhân cao gầy mặc áo bào xanh, mặt không có chút thần sắc gì, nửa giống người sống, nửa giống tử thi, vừa nhìn thấy đã khó chịu bực bội khó nói nên lời. Lý Mạc Sầu bất giác lùi lại hai bước, nhất thời thật không ngờ trong võ lâm lại có một nhân vật lợi hại thế này, đang định mở miệng hỏi, thì người kia cúi đầu nói với Trình Anh:

– Này bé, nữ nhân này là kẻ hung ác, bé hãy đánh nó đi.

Trình Anh đâu dám động thủ, ngẩng lên nói:

– Điệt nhi không dám đâu.

Quái nhân hỏi:

– Bé sợ chi? Cứ đánh đi.

Trình Anh vẫn không dám. Quái nhân đặt tay vào lưng Trình Anh mà đẩy nó về phía Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu gặp tình huống bất thường, cũng không dám ứng phó theo lối thông thường, nghĩ rằng sử dụng cây phất trần không phải là cách hay, bèn giơ tay trái ra đón bắt, vừa chạm vào sườn của Trình Anh thì khuỷu tay tê dại đi, không tài nào nhấc nổi cánh tay ấy lên. Trình Anh húc đầu vào ngực Lý Mạc Sầu, một tay thuận thế vả đánh bộp một cái, trúng ngay mặt nàng ta.

Lý Mạc Sầu cả đời chưa lần nào bị nhục đến mức này, trong cơn cuồng nộ, chẳng còn e dè gì nữa, vung mạnh cây phất trần mà quật xuống, nhưng chỉ thấy hổ khẩu tê dại, cán cây phất trần văng đi, suýt nữa rời khỏi tay, hóa ra quái nhân vừa búng một hòn sỏi trúng cán cây phất trần. Trình Anh thì đã đứng thẳng người lại.

Lý Mạc Sầu biết rằng hôm nay xui xẻo, nếu không tìm cách thoát thân cho nhanh, e sẽ nguy đến tính mạng; bèn cười nhạt, quay mình đi liền, chạy được vài bước, hai ống tay áo phất về phía sau, nhiều tia ngân quang chớp chớp, hơn chục mũi "Băng phách ngân châm" cùng bắn về phía quái nhân áo xanh. Nàng ta phóng ám khí, không cần ngoảnh đầu, không cần xoay mình, song các mũi ngân châm toàn nhắm vào chỗ yếu hại của đối phương. Quái nhân không ngờ tài sử dụng ám khí của đối phương lợi hại như vậy, vội phi thân về phía sau. Các mũi ngân châm bay nhanh, song quái nhân phi thân còn nhanh hơn, chỉ thấy các mũi ngân châm rơi lả tả ở trước mặt quái nhân. Lý Mạc Sầu thừa biết mười mấy mũi ngân châm vừa rồi khó lòng bắn trúng quái nhân, chỉ cốt đẩy lão ta ra xa; vừa nghe tiếng gió do lão ta phi thân phát ra, Lý Mạc Sầu lại vung tay áo, một mũi ngân châm bay thẳng về phía Trình Anh. Nàng ta biết mũi ngân châm này thể nào cũng trúng đích, sợ quái nhân áo xanh xông tới động thủ, bèn chạy vội qua cầu, lẩn vào một bãi dâu.

Quái nhân kêu lên "Ôi chao!" chạy tới đỡ Trình Anh, thấy mũi ngân châm dài cắm vào vai cô bé thì mặt biến sắc, ngẫm nghĩ giây lát, rồi ẵm cô bé bước nhanh về phía Tây.

Ở chỗ Kha Trấn Ác, mọi người thấy Lý Mạc Sầu rốt cuộc vẫn bắt Lục Vô Song mang đi, thì đều kinh hãi. Cậu thiếu niên rách rưới nói:

– Ta phải đi xem sao.

Quách Phù nói:

– Có gì đáng xem? Nữ ác nhân sẽ đá chết đằng ấy cho coi.

Cậu thiếu niên cười, hỏi:

– Cô nương đá chết ta ấy ư? Thì không gặp nhau nữa là cùng.

Nói rồi chạy nhanh về phía Lý Mạc Sầu vừa bỏ đi. Quách Phù nói:

– Đồ ngu! Không phải ta bảo ta đá chết ngươi.

Cô bé không biết rằng cậu thiếu niên vừa bóng gió nhiếc cô là "nữ ác nhân".

Cậu thiếu niên chạy một hồi, bỗng nghe đằng xa có tiếng Trình Anh gọi "Biểu muội, biểu muội!" Cậu chạy vài chục trượng nữa về phía đó, song không thấy bóng cô bé đâu cả.

Cậu nhìn quanh, thấy dưới đất có mười mấy mũi ngân châm, thân ngân châm có khắc hoa văn hết sức tinh vi. Cậu cúi nhặt một mũi ngân châm, cầm bên tay trái, bỗng nhìn thấy có một con rết lớn cạnh mũi ngân châm khác lật ngửa bụng lên, giãy giụa mấy cái rồi chết. Cậu cảm thấy thú vị, cúi xem kỹ, thấy có nhiều chú kiến chết; một đàn kiến đang bò thành hàng dài; cậu dùng mũi ngân châm gí vào con kiến nào, con ấy liền xoay lòng vòng rồi chết cứng. Thử gí vào mấy con côn trùng cũng thấy y như vậy.

Cậu cả mừng, nghĩ bụng dùng mũi ngân châm này đi bắt chuồn chuồn thì tha hồ thích; đột nhiên tay trái tê đi không còn cảm giác, cậu giật mình nghĩ thầm: "Ngân châm có độc! Cầm nó trong tay quá ư nguy hiểm!" Cậu vội ném nó đi, thấy cả hai lòng bàn tay đã biến thành màu đen, lòng bàn tay trái thì đen như mực. Cậu sợ hãi, cọ cọ lòng bàn tay vào đùi, nhưng tay trái tê dần từ cẳng tay lên khuỷu. Hồi nhỏ cậu từng bị rắn độc cắn, may mà thoát chết; hồi ấy quanh chỗ bị rắn cắn, cũng tê dại bì bì không cảm giác như thế này, cậu biết là nguy ngập, lo không kìm nổi, khóc òa lên.

Cậu bé bỗng nghe sau lưng có tiếng nói:

– Này bé con, đã biết lợi hại rồi hả?

Giọng nói oang oang chói tai, nghe như từ lòng đất dội lên. Cậu vội quay mình, bất giác cả kinh, thấy có một người đang chống đầu xuống đất, hai chân khép lại chĩa thẳng lên trời Cậu lùi mấy bước, hỏi:

– Người.. người là ai?

Người kia hai tay đẩy xuống đất, thân vọt đi ba thước, đáp xuống trước mặt cậu, nói:

– Ta là ai ư? Ta mà biết ta là ai thì đã tốt.

Cậu bé hoảng sợ cuống cuồng bỏ chạy. Chỉ nghe sau lưng mấy tiếng "hịch, hịch"; ngoảnh lại, thì hồn xiêu phách lạc, hóa ra người kia dùng tay thay chân ; mỗi tay cầm một cục đá, hai chân chĩa lên trời, cứ thế mà di chuyển mau lẹ vô cùng, chỉ cách lưng cậu vài thước.

Cậu cố chạy nhanh hơn, cắm đầu cắm cổ mà chạy; bỗng nghe "hịch" một tiếng to, người kia đã vọt qua đầu cậu, đáp xuống trước mặt cậu. Cậu kêu lên: "Mẹ ơi!" rồi quay đầu chạy, nhưng bất kể chạy về hướng nào, quái nhân kia vẫn vọt tới chặn đằng trước. Cậu có hai chân mà không bằng một người đi bằng hai tay. Quái nhân đã tới gần hơn, cậu liền phát chưởng đẩy ra, nhưng tay đã tê dại từ lúc nào, mồ hôi túa ra đầm đìa, cậu không biết làm thế nào, hai chân bủn rủn, ngồi phệt xuống đất.

Quái nhân nói:

– Ngươi càng chạy lung tung, chất độc trong người phát tác càng nhanh đó.

Cậu bé khôn ngoan quì ngay xuống cầu xin:

– Xin lão công công cứu mạng cho điệt nhi với.

Quái nhân đáp:

– Khó cứu, khó cứu!

Cậu bé nói:

– Lão công công có bản lĩnh cao cường như thế, nhất định cứu được điệt nhi.

Lời này khiến quái nhân hết sức khoái chí, lão mỉm cười, nói:

– Làm sao ngươi biết ta có bản lĩnh cao cường?

Cậu bé nghe lão dịu giọng chắc có hi vọng, vội nói:

– Lão công công đi bằng tay còn nhanh hơn người ta chạy, thế gian này chẳng ai bằng được lão công công.

Lời này cậu tiện miệng nói ra, đâu ngờ câu "Thế gian này chẳng ai bằng được lão công công" lại đánh trúng vào chỗ yếu của quái nhân. Lão cười ha hả, nói:

– Lộn ngược đầu xuống, để ta coi thử.

Cậu bé nghĩ thầm, phải rồi, mình đứng thuận, lão đứng ngược thì nhìn không rõ; lão đã không thích đứng thuận, thì mình phải lộn ngược vậy. Bèn chống đầu xuống đất, tay phải của cậu vẫn còn cảm giác. Quái nhân nhìn kỹ cậu một chút, cau mày ngẫm nghĩ.

Cậu bé chống đầu thế này, nên nhìn rõ diện mạo của quái nhân: Mũi cao, mắt sâu, râu bạc trắng, ngắn và cứng; thấy quái nhân lẩm bẩm gì đó rất khó nghe. Cậu bé sợ quái nhân không chịu cứu, liền năn nỉ:

– Lão công công ơi, xin hay cứu điệt nhi với.

Quái nhân thấy cậu bé mày thanh mục tú, xem chừng cũng mến nó, nói:

– Được, cứu người không khó, nhưng ngươi phải đáp ứng ta một việc.

Cậu bé nói:

– Lão công công bảo gì, điệt nhi cũng xin vâng lời. Lão công công muốn điệt nhi đáp ứng việc gì?

Quái nhân mỉm cười, nói:

– Chính ta đang muốn ngươi đáp ứng như thế đó. Ta bảo gì, ngươi cũng phải vâng lời.

Cậu bé nghi ngại:

– Lão công công bảo gì cũng phải nghe ư? Chẳng lẽ bảo điệt nhi ăn cứt chó, điệt nhi cũng phải ăn hay sao?

Quái nhân thấy cậu bé do dự, thì tức giận nói:

– Được, thì cho ngươi chết!

Nói rồi đẩy tay một cái, thân vọt ra xa mấy thước. Cậu bé sợ lão bỏ đi, vội lao theo để cầu xin, nhưng cậu chưa học được cách đi bằng tay; phải đảo người lại, mới chạy theo van nài:

– Lão công công, điệt nhi đáp ứng. Lão công công bảo gì, điệt nhi cũng phải nghe.

Quái nhân xoay người lại, nói:

– Được người thề đi.

Cậu bé lúc này tay trái đã tê dại đến vai, càng nghĩ càng sợ, đành thề.

– Nếu lão công công cứu được mạng điệt nhi, trừ hết chất độc khỏi người điệt nhi, thì điệt nhi nhất định sẽ vâng lời lão công công. Nếu điệt nhi không vâng lời, thì chất độc cứ việc trở lại người điệt nhi.

Bụng nghĩ thầm. "Từ nay mình không bao giờ đụng tới ngân châm, thì chất độc làm sao có thể trở lại người mình được? Nhưng không hiểu mình thề như thế, lão ta đã chịu chưa đây?"

Cậu bé liếc mắt, thấy sắc mặt quái nhân có vẻ rất hài lòng, thì nghĩ thầm: "May quá, lão ta tin lời mình rồi". Quái nhân gật đầu, dùng tay bóp bóp cánh tay cậu bé mấy cái, nói:

– Ngoan, ngoan, ngươi là một đứa bé ngoan.

Cậu bé cảm thấy cánh tay đỡ hẳn tê dại, bèn nói:

– Lão công công hãy nắn thêm tay cho điệt nhi đi.

Quái nhân cau mày, nói:

– Ngươi đừng gọi ta là lão công công, hãy gọi ta là cha!

Cậu bé nói:

– Phụ thân điệt nhi mất sớm, điệt nhi không có cha!

Quái nhân quát:

– Câu thứ nhất ta nói, ngươi đã không chịu vâng lời, đứa con như ngươi phỏng còn ra gì!

Cậu bé nghĩ thầm: "Thì ra lão ta muốn mình gọi lão là cha". Từ nhỏ, cậu chưa hề biết mặt phụ thân; mẹ cậu bảo cậu chưa ra đời thì cha cậu đã chết, từ trước đến giờ nhìn cảnh cha con nhà người khác, cậu rất muốn có cha, nhưng thấy quái nhân cử chỉ quái dị, điên điên khùng khùng, thì cậu chẳng muốn gọi lão là cha chút nào.

Quái nhân quát:

– Ngươi không chịu gọi ta là cha, được lắm. Khối kẻ muốn gọi ta là cha, ta đâu chịu.

Cậu bé nghĩ cách đánh lừa quái nhân để lão ta chữa trị cho nó. Quái nhân đột nhiên lẩm bẩm gì đó như niệm thần chú, rồi bỏ đi. Cậu bé vội gọi:

– Cha ơi, cha đi đâu vậy?

Quái nhân cười ha hả, nói:

– Con ngoan của ta, nào lại đây, ta dạy cho con cách trừ khí độc khỏi thân thể nào.

Cậu bé lại gần. Quái nhân nói:

– Con bị trúng độc bởi "Băng phách ngân châm" của ả nữ quái Lý Mạc Sầu, giải độc thật không dễ.

Rồi lão truyền khẩu quyết và phép hành công, dặn đây là cách đảo ngược khí tức, phải thực hiện tư thế trồng cây chuối, đầu chống đất, chân lên trời, khí huyết nghịch hành, khí độc sẽ đi ra từ chỗ nó đi vào thân thể. Vì cậu mới tập lần đầu, nên mỗi ngày chỉ có thể đẩy ra một chút, chừng một tháng mới có thể giải hết độc.

Cậu bé rất thông minh, nghe một lần là nhớ, làm theo lời dặn, quả nhiên cảm giác tê dại giảm dần.

Vận khí xong, các đầu ngón tay chảy ra vài giọt máu đen. Quái nhân vui mừng, nói:

– Tốt lắm. Hôm nay luyện thế đủ rồi. Mai con lại theo cách đó mà luyện. Chúng ta đi thôi.

Cậu bé ngạc nhiên:

– Đi đâu ạ?

Quái nhân nói:

– Người là con của ta, cha đi đâu, ắt con phải theo tới đó.

Vừa nói tới đây, thì trên trời có mấy tiếng kêu của chim điêu, hai con chim điêu lớn bay ngang qua đầu. Quái nhân ngây người nhìn đôi chim điêu, lấy tay gõ trán, cau mày suy nghĩ vẻ khổ sở, đột nhiên tựa hồ nhớ ra điều gì, sắc mặt đại biến, thốt lên:

– Ta không nên gặp họ, không nên gặp họ.

Đoạn vọt đi, mỗi bước vọt khá dài, sau mười bước vọt, đã khuất hẳn vào trong bãi dâu.

Cậu bé gọi:

– Cha ơi, cha!

Rồi chạy theo. Vòng qua một cây liễu lớn, bỗng thấy sau gáy có luồng gió thổi mạnh, đấy là do đôi chim điêu kia bay lướt qua đầu, đáp xuống đằng trước. Ở phía rừng liễu có một nam một nữ, đôi chim điêu đậu xuống vai mỗi người một con.

Nam là một chàng trai mặt to mày rậm, ba mươi tuổi, mép lún phún ria; nữ chừng hai sáu hai bảy tuổi, diện mạo tú lệ, đôi mắt vô cùng sinh động, nhìn cậu bé, rồi nói với chàng trai:

– Chàng bảo cậu bé kia giống ai?

Chàng trai chăm chú nhìn cậu bé, rồi nói:

– Nàng bảo nó giống..

Chàng chỉ nói bốn tiếng ấy thì ngừng lời, không nói nữa

Hai người ấy chính là vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Hôm nay họ đang ngồi trong một quán trà thăm dò tin tức của Hoàng Dược Sư, thì thấy xa xa lửa bốc ngút trời, lát sau có người chạy đến báo tin: "Lục gia trang bị cháy!" Hoàng Dung chợt nhớ chủ nhân Lục Triển Nguyên của Lục gia trang ở Gia Hưng là một nhân vật có tiếng trong võ lâm, tuy nàng chưa kiến diện, nhưng nghe danh từ lâu, người trên giang hồ thường nhắc đến "Giang Nam lưỡng cá Lục gia trang" chính là muốn nói tới Thái hồ Lục gia trang và Gia Hưng Lục gia trang. Lục Triển Nguyên hoàn toàn có thể sánh ngang Lục Thừa Phong, chẳng phải loại thường. Hỏi thăm, biết nơi bị cháy là gia trang của Lục Triển Nguyên. Hai vợ chồng vội dời gót, khi đến nơi, lửa đã gần tàn, gia trang chỉ còn là đống tro nóng, có mấy tử thi cháy đen, không thể nhận ra mặt mũi được nữa. Hoàng Dung nói:

– Vụ này có điều kỳ quái.

Quách Tĩnh hỏi:

– Điều gì?

Hoàng Dung nói

– Lục Triển Nguyên khá nổi tiếng trong võ lâm, phu nhân là Hà Nguyên Quân cũng là một nữ hiệp thời nay. Nếu chỉ là một đám cháy bình thường, tại sao gia nhân lại có người bị chết cháy? Hắn là có kẻ thù tới phóng hỏa.

Quách Tĩnh nghĩ một chút, nói:

– Đúng thế, chúng ta dò xem kẻ nào phóng hỏa, vì sao lại hạ độc thủ như thế?

Hai người đi vòng gia trang một lượt, không thấy dấu vết gì. Hoàng Dung bỗng chỉ bức tường đã đổ một nửa, nói:

– Chàng xem, cái gì kia?

Quách Tĩnh ngẩng nhìn, thấy có mấy vết bàn tay máu đen kịt vì ám khói, trông rất đáng sợ; tường đổ nên có dấu bàn tay chỉ còn một nửa. Quách Tĩnh giật mình, thốt ra miệng:

– Xích Luyện Tiên Tử!

Hoàng Dung nói:

– Nhất định là nàng ta. Nghe đồn Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu võ công cao cường, âm độc vô tỉ, chẳng khác gì Tây Độc hồi nào. Nàng ta giá lâm Giang Nam, chúng ta phải đấu với nàng ta một phen mới được.

Quách Tĩnh gật đầu, nói:

– Bằng hữu võ lâm đều bảo nữ ma đầu Lý Mạc Sầu rất khó trị. Vợ chồng mình giá tìm được nhạc phụ thì đỡ quá.

Hoàng Dung cười nói:

– Càng nhiều tuổi, càng nhát gan.

Quách Tĩnh nói:

– Không sai chút nào. Càng luyện võ, càng biết là mình kém.

Hoàng Dung cười, nói:

– Quách đại gia khiêm nhường quá! Thiếp thì càng luyện võ càng thấy mình lợi hại hơn.

Hai người ngoài miệng cười nói, trong bụng vẫn ngầm để phòng, nhìn quanh tứ phía; bên một cái ao nhỏ, họ thấy có hai mũi "Băng phách ngân châm", một mũi ngân châm rơi ở bờ ao, một nửa ngập dưới nước, có mấy con cá vàng trong ao chết nổi bụng trắng trên mặt nước, đủ hiểu ngân châm độc đến mức nào. Hoàng Dung dùng hai cái que gắp mũi ngân châm, bọc thật kỹ trong một cái khăn, cất vào túi. Hai người lại đi ra xa tìm kiếm, thì gặp đôi chim điêu và cậu thiếu niên rách rưới.

Quách Tĩnh nhìn cậu thiếu niên có khuôn mặt quen quen, nhất thời chưa nhớ ra cậu bé giống ai. Mũi chàng ngửi có mùi lạ, hít hít vài cái, cảm thấy đầu óc váng vất. Hoàng Dung cũng ngửi thấy mùi lạ đó, hình như tỏa ra từ ngay bên cạnh, bèn ngoảnh lại quan sát, thấy chân trái con chim đực có vết thương, quả nhiên mùi hôi thối phát ra từ đây. Hai người kinh ngạc, xem kỹ vết thương, tuy chỉ xước da, vậy mà chỗ đó sưng to, thịt đã thối. Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Bị thương vì cái gì mà lợi hại thế nhỉ?" Bỗng thấy tay trái của cậu thiếu niên đen nhẻm, bèn nói:

– Cậu bé kia cũng bị trúng độc hay sao ấy?

Hoàng Dung bước tới, cầm bàn tay cậu thiếu niên xem sao, rồi vén tay áo nó, lấy mũi dao trích chỗ cổ tay để nặn máu độc; thấy máu chảy ra vẫn màu hồng tươi thì hơi lạ: Tại sao bàn tay cậu bé đen nhẻm thế này, mà máu lại không có độc? Nàng không biết rằng cậu thiếu niên được quái nhân dạy cách dồn chất độc ra đầu các ngón tay, nhất thời chất độc chưa lan lên cao. Nàng lấy trong bọc ra một viên "Cửu hoa ngọc lộ hoàn", nói:

– Hãy nhai nát, rồi nuốt xuống.

Cậu thiếu niên nhận viên thuốc, ngửi thấy mùi thơm dễ chịu, cho vào miệng nhai nát, thì cả miệng thơm lừng, vị mát ngọt lạ thường thấm xuống tận đan điền. Hoàng Dung lấy ra hai viên nữa, cho mỗi con chim điêu ăn một viên.

Quách Tĩnh trầm ngâm một lúc, rồi đột nhiên há miệng hú một tiếng dài. Cậu thiếu niên tai ong ong, bị bất ngờ giật nảy mình, nhưng nghe tiếng hú vọng đi xa dần, khiến chim muông tứ phía hoảng sợ bay nháo nhác, các cành liễu bên cạnh rung động không ngừng. Tiếng hú thứ nhất chưa dứt, Quách Tĩnh đã hú tiếp tiếng thứ hai, hai tiếng hú chồng lên nhau, nghe như thiên binh vạn mã lao đi.

Hoàng Dung biết chồng mình phát tín hiệu khiêu chiến với Lý Mạc Sầu, nghe chàng vừa phát ra tiếng hú thứ ba, thì nàng hít một hơi sâu vào đan điền, cũng hú một tiếng dài. Tiếng hú của Quách Tĩnh vang trầm hùng tráng, tiếng hú của Hoàng Dung thì trong trẻo lảnh lót. Tiếng hú của hai người hòa vào nhau, giống như một cánh chim bằng lớn và một cánh chim nhỏ sánh vai bay lên cao, càng lúc càng lên cao, cánh chim nhỏ vẫn không tụt hậu so với cánh chim bằng. Hai người ở Đào Hoa đảo dày công khổ luyện, nội lực đạt tới cảnh giới cao siêu, hai tiếng hú cùng phát ra, đúng là vang vọng chín tầng mây, cả mấy dặm quanh vùng đều nghe rõ.

Quái nhân nghe thấy tiếng hú đó thì càng lẩn tránh đi nhanh hơn.

Còn quái nhân áo xanh đang ẵm Trình Anh, nghe tiếng hú thì cười ha hả, nói:

– Các người cũng tới rồi ư, lão tử tránh xa một chút, để khỏi nhiều lời.

Lý Mạc Sầu đang cắp Lục Vô Song chạy gấp, nghe tiếng hú, liền dừng bước, vung cây phất trần, quay người lại, cười khẩy, nói:

– Quách đại hiệp danh chấn võ lâm, nhưng ta phải xem chàng ta có chân tài thực học hay không cái đã.

Bỗng sau hai tiếng hú ban đầu, lại nghe có tiếng hú theo trong trẻo lảnh lót, hai tiếng hú hòa quyện vào nhau, nửa cương nửa nhu, càng tăng uy lực. Lý Mạc Sầu giật mình, thầm biết không địch nổi, lại nghĩ vợ chồng người ta hành tẩu giang hồ có đôi, nương tựa lẫn nhau, mình thì cô đơn một thân, thế là chẳng thiết gì nữa, thở dài não nuột, túm lấy lưng Lục Vô Song mang đi.

Lúc này Võ tam nương đã dìu chồng, cùng hai đứa con từ biệt Kha Trấn Ác đi rồi. Kha Trấn Ác chỉ lo Lý Mạc Sầu quay trở lại hãm hại Quách Phù, đang tính dẫn cô bé đi tìm một chỗ lẩn trốn, chợt nghe thấy tiếng hú của vợ chồng Quách Tĩnh thì cả mừng. Quách Phù gọi:

– Cha ơi, mẹ ơi!

Rồi chạy ngay đi.

Một trẻ một già theo hướng tiếng hú chạy đến trước mặt vợ chồng Quách Tĩnh. Quách Phù sà vào lòng Hoàng Dung cười nói:

– Mẹ ơi, đại công công vừa đánh đuổi một nữ ác nhân phải vắt chân lên cổ mà chạy, bản lĩnh của lão nhân ghê thật.

Hoàng Dung thừa biết con bé bịa chuyện, chỉ cười cười. Quách Tĩnh chặn luôn:

– Con nít nói gì phải thật thà.

Quách Phù lè lưỡi, cười hỏi:

– Đại công công bản lĩnh không ghê, làm sao lại là sư phụ của cha?

Sợ phụ thân quở mắng thêm, cô bé lảng ra chỗ khác, rủ cậu thiếu niên:

– Đằng ấy hãy đi hái vài bông hoa tết làm mũ cho đây đội đi nào!

Cậu bé bèn cùng đi với Quách Phù. Quách Phù thấy lòng bàn tay cậu đen như nhọ nồi, thì nói:

– Tay đằng ấy dơ quá, đây không chơi với đằng ấy nữa. Đằng ấy cầm vào hoa, chỉ tổ làm cho hoa mất thơm.

Cậu bé đáp:

– Ai thích chơi với cô nương kia chứ?

Nói rồi rảo bước bỏ đi.

Quách Tĩnh gọi:

– Tiểu huynh đệ, chất độc trong người tiểu huynh đệ chưa trừ được, nó phát tác thì nguy đấy.

Cậu bé ghét nhất là bị kẻ khác coi thường, câu nói vừa rồi của Quách Phù khiến cậu đau lòng, cậu bèn ngẩng đầu bỏ đi, làm như không hề nghe thấy tiếng gọi của Quách Tĩnh. Quách Tĩnh chặn trước mặt, nói:

– Tiểu huynh đệ bị trúng độc, để ta chữa trị cho rồi hãy đi cũng chưa muộn.

Cậu bé nói:

– Đây không quen biết đấy, khỏi cần đấy lo hộ.

Cậu bé định lách qua bên cạnh mà đi. Quách Tĩnh thấy sắc diện, mặt mũi cậu bé giống hệt một người quen cũ, bèn nói:

– Tiểu huynh đệ họ gì vậy?

Cậu bé lườm Quách Tĩnh một cái, lách người định vọt qua, Quách Tĩnh liền chộp lấy cổ tay cậu. Cậu bé giằng mấy cái không được, liền đấm mạnh một quyền vào bụng dưới của Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh mỉm cười, không thèm chấp. Cậu bé định rút tay về đấm tiếp, nào ngờ tay bị dính ở bụng Quách Tĩnh, không tài nào co về được. Cậu đỏ bừng cả mặt, vận sức đẩy mạnh, chỉ thấy đau tay mình, vẫn không bứt tay ra nổi. Quách Tĩnh cười, nói:

– Tiểu huynh đệ chịu nói họ tên, ta sẽ buông ra.

Cậu bé nói:

– Đây họ Bồ tên Mi Đầy.

Quách Tĩnh nghe vậy thì thất vọng, thả lỏng cơ bụng. Chàng không biết rằng cậu bé kỳ thực định nói là "Bố của mi đây". Cậu bé rút được tay về, nghĩ thầm: "Mi bản lĩnh khá đấy, bố của mi không bằng mi".

Hoàng Dung thấy diện mạo của cậu bé quá giống một người nọ, không dằn lòng được, bèn thử cậu một lần nữa, cười nói:

– Tiểu huynh đệ, cậu muốn làm cha của chồng ta, thành bố chồng của ta ư?

Tay trái nàng ấn vào gáy của cậu bé. Cậu bé cảm thấy lực ấn rất mạnh, liền vận sức phản kháng.

Hoàng Dung lập tức thu lực về; cậu bé không làm chủ được mình, ngã ngửa ra sau. Quách Phù vỗ tay cười to. Cậu bé cả giận, lồm cồm bò dậy, lùi mấy bước, đang định mở miệng chửi, thì Hoàng Dung bước tới đặt tay lên vai cậu, chăm chú nhìn vào mắt cậu, thong thả nói:

– Điệt nhi họ Dương tên Quá, mẹ điệt nhi họ Mục, đúng chưa nào?

Cậu bé chính là Dương Quá, đột nhiên bị Hoàng Dung gọi đúng họ tên, thì sửng sốt, khí huyết nhộn nhạo, chất độc ở tay hồi xung, trí óc mơ hồ, ngất đi.

Hoàng Dung vội đỡ người cậu bé. Quách Tĩnh xoa bóp cho cậu mấy cái, thấy cậu bé hai mắt nhắm nghiền, răng cắn phải lưỡi, chảy cả máu, không tỉnh lại. Chàng vừa lo vừa mừng, nói:

– Nó.. nó là con của huynh đệ Dương Khang.

Hoàng Dung thấy Dương Quá trúng độc quá nặng, nói nhỏ:

– Chúng ta hãy mang ngay nó về khách điếm, vào thành cắt thuốc cho nó.

Nguyên Hoàng Dung thấy cậu bé có diện mạo rất giống Dương Khang, sực nhớ ngày trước ở khách điếm Trung Đô, Vương Xứ Nhất có thử xem võ công của Mục Niệm Từ là do ai truyền thụ, giơ tay ấn gáy Mục Niệm Từ, Mục Niệm Từ không chúi về phía trước, mà lại ngửa ra đằng sau, đó chính là phép luyện công vận khí độc môn của Hồng Thất Công; cậu bé này nếu là con của Mục Niệm Từ, thì võ công mà cậu ta luyện tất nhiên cùng một lộ, Hoàng Dung là đệ tử của Hồng Thất Công, dĩ nhiên nắm chắc yếu quyết luyện công của bản môn, nên nàng vừa thử là biết ngay chân tướng của cậu bé.

Quách Tĩnh liền ôm Dương Quá, cùng Kha Trấn Ác, Hoàng Dung, Quách Phù và đôi chim điêu trở về khách điếm. Hoàng Dung kê đơn, điếm tiểu nhị đến dược điếm cắt thuốc. Gia Hưng tuy là đại ấp thông thương với kinh đô, nhưng dược điếm nhất thời không có đủ các vị thuốc như trong đơn. Quách Tĩnh thấy Dương Quá trước sau vẫn hôn mê không tỉnh thì hết sức lo ngại. Hoàng Dung biết từ ngày Dương Khang mất đi, chàng thương nhớ khôn nguôi, hôm nay bất ngờ gặp đứa con nối dõi của Dương Khang, dĩ nhiên mừng không để đâu cho hết. Song Dương Quá lại bị trúng độc, chưa biết sống chết thế nào, bèn nói:

– Chúng ta phải tự đi hái thuốc thôi.

Quách Tĩnh thầm biết, chỉ cần có chút hi vọng, nàng sẽ an ủi chàng ngay, đằng này nhìn sắc diện lo lắng của nàng, chàng càng lo thêm, bèn dặn Quách Phù không được tùy tiện đi đâu, rồi hai vợ chồng chàng cùng đi tìm dược thảo.

Dương Quá ngủ mê mệt đến lúc trời tối vẫn chưa tỉnh lại. Kha Trấn Ác mấy lần ghé vào chỗ cậu bé, cũng đành bó tay, độc tính của ám khí "Độc tật lê" của lão và độc tính của "Băng phách ngân châm" hoàn toàn khác nhau, không thể lấy thuốc giải loại này dùng cho loài kia. Lão lại sợ Quách Phù lẻn đi đâu, nên cứ phải canh chừng việc nó ngủ.

Dương Quá hôn mê cũng không biết bao nhiêu lâu, tự dưng cảm thấy có ai xoa bóp ngực mình, thì tỉnh lại, mở mắt, thấy một bóng đen vọt ra ngoài qua lối cửa sổ. Cậu gượng dậy, lần theo mép bàn, ngó ra ngoài cửa số, thấy một người trồng cây chuối ở trên mái hiên, chính là quái nhân muốn cậu gọi là cha sáng nay. Thân hình lão ta cứ đung đưa như sắp ngã từ trên mái xuống đất

Dương Quá vừa ngạc nhiên vừa mừng, nói:

– Các hạ đấy à?

Quái nhân nói:

– Tại sao không gọi ta là cha?

Dương Quá gọi:

– Cha!

Nhưng trong bụng nghĩ thầm: "Ta là cha mi thì có". Quái nhân lấy làm thích chí, nói:

– Leo lên đây.

Dương Quá bám khung cửa để leo lên mái, nhưng sau khi bị trúng độc, người yếu ớt, không đủ sức, hai bàn tay nắm chỗ giọt tranh không chắc, người bị tuột xuống, bất giác kêu "Ối!"

Quái nhân giơ tay túm lưng cậu bé, nhẹ nhàng kéo lên mái nhà, đảo người đứng ở tư thế bình thường, định nói gì đó, bỗng nghe ở căn phòng phía Tây có tiếng người thổi tắt phụt ngọn nến, biết là đã bị phát hiện tung tích, liền ôm Dương Quá chạy đi. Lúc Kha Trấn Ác nhảy lên mái nhà, thì bốn phía đã im lặng như tờ.

Quái nhân cắp Dương Quá chạy tới một bãi hoang ngoài trấn, đặt cậu xuống, nói:

– Ngươi hãy theo cách ta đã dạy, đẩy khí độc ra khỏi cơ thể đi.

Dương Quá y lời làm theo. Bằng thời gian uống hết một ấm trà, cậu chích mấy giọt máu đen ra từ các đầu ngón tay, ngực cậu thấy nhẹ hẳn đi. Quái nhân nói:

– Ngươi quả rất thông minh, dạy một lần là biết cách làm, còn linh lợi hơn so với con trai ta ngày trước. Ôi, con trai ta!

Lão nhớ đến đứa con chết sớm, bất giác nước mắt lưng tròng, lão xoa đầu Dương Quá, thở dài nhè nhẹ.

Dương Quá từ nhỏ đã mất cha, khi cậu mười một tuổi mẹ cũng bị bệnh qua đời. Mục Niệm Từ lúc lâm chung, có dặn con rằng cha cậu chết ở miếu Thiết Thương tại Gia Hưng, cậu hãy hỏa táng mẹ, đem tro về chôn ở bên cạnh ngôi miếu đó. Dương Quá làm theo lời mẹ dặn, từ đó cậu lưu lạc ở Gia Hưng, trú ngụ trong cái hầm rượu bỏ hoang, ngày ngày đi ăn trộm vặt. Mục Niệm Từ có dạy cho cậu một chút võ công, nhưng một là bản thân người mẹ chưa mấy giỏi giang, lúc chết con còn nhỏ, nên cũng chưa dạy được nhiều. Vài năm qua, Dương Quá ở đâu cũng bị người ta khinh bỉ, chửi mắng; quái nhân này không biết gì về cậu, nên dĩ nhiên đối xử tốt với cậu. Dương Quá thấy quái nhân bộc lộ chân tình với cậu, thì rất cảm động, ôm lấy cổ lão, gọi:

– Cha, cha ơi!

Từ hồi lên ba, cậu những mong mình có một người cha thương yêu, bảo vệ cậu. Có lần cậu nằm mơ cậu có một người cha anh hùng hiền từ, nhưng tỉnh dậy thì cha bỏ đi đâu mất, thế là cậu khóc òa lên. Lúc này tâm nguyện bao năm của cậu được đền bù, hai tiếng "cha ơi" được cậu gọi lên với tất cả lòng trìu mến thân thiết.

Khi mới gặp quái nhân, Dương Quá bị lão buộc cậu phải gọi lão là cha, thực tình cậu không muốn chút nào. Giờ đây hai người tâm linh tương thông, quả thật thân thiết như cha con, giả sử người kia gặp nguy nan, thì người này sẵn lòng vì người kia, dầu chết cũng cam. Quái nhân cười sung sướng, nói:

– Con giỏi quá, con ngoan quá, hãy gọi cha lần nữa đi con.

Dương Quá y lời, lại gọi "Cha ơi" và ngả đầu vào ngực lão.

Quái nhân cười, nói:

– Con ngoan của ta, để ta truyền cho con thứ võ công đắc ý nhất của ta.

Nói đoạn lão rùn mình xuống, miệng lẩm bẩm ba tiếng, hai tay đẩy ra, chỉ nghe rầm một tiếng lớn, bức tường đất phía trước đổ xuống, đất bụi bay tung tóe.

Dương Quá ngẩn người há hốc mồm mà nhìn, lè lưỡi thán phục, hỏi:

– Là thứ võ gì thế, con học được không cha?

Quái nhân nói:

– Cái này gọi là "Cáp mô công", chỉ cần con khổ luyện, thì sẽ học được.

Dương Quá hỏi:

– Sau khi con học được rồi, sẽ không ai làm nhục con nữa phải không?

Quái nhân trợn mắt, nói:

– Kẻ nào dám làm nhục con trai ta, ta sẽ bóc gân lột da nó.

Quái nhân này chính là Tây Độc Âu Dương Phong.

Từ sau cuộc luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn, bị Hoàng Dung làm cho hóa điên, mười năm nay Âu Dương Phong đi khắp chân trời góc biển, lúc nào cũng tự hỏi: "Rốt cuộc ta là ai?" Phàm những nơi quen thuộc, lão đều tìm đến, ở lâu lâu vùng đó, chỉ mong tìm biết mình là ai. Mấy tháng nay lão quanh quẩn ở Gia Hưng, cũng là vì lẽ đó. Nhưng năm gần đây, lão nghịch luyện Cửu Âm chân kinh, nội lực tiến triển rất nhiều, đầu óc cung tỉnh táo hẳn lại, tuy vẫn còn điên điên khùng khùng, nhưng các chuyện cũ đang dần dần nhớ lại, riêng mình rốt cuộc là ai, thì đến giờ lão vẫn chưa nhớ ra.

Âu Dương Phong đem tâm pháp nhập môn "Cáp mô công" truyền thụ cho Dương Quá. "Cáp mô công" của lão là công phu tuyệt đỉnh của võ học trong thiên hạ, biến hóa tinh vi, ảo diệu vô cùng, việc tu tập nội công càng hết sức gian nan, luyện không đúng cách, sẽ bị trọng thương, thậm chí có thể thổ huyết mà chết; cho nên hồi trước ngay Âu Dương Khắc là con đẻ mà lão cũng chưa truyền thụ. Bây giờ lão quá cảm động, thần trí lại đang lúc mơ hồ, chẳng cân nhắc nặng nhẹ, lại đem dạy ngay cho đứa nghĩa tử mới nhận. Dương Quá chưa có căn cơ võ công, tuy thuộc làu khẩu quyết nhập môn, nhưng làm sao có thể lĩnh hội ý tứ bên trong? Bản tính thông minh lanh lợi, những chỗ chưa rõ cậu liền tự ý miễn cưỡng lý giải. Âu Dương Phong dạy chán chê rồi, nghe cậu lý giải lung tung, thì cả giận, đã định giáng cho vài cái tát, nhưng dưới ánh trăng, thấy cậu bé mặt mũi tuấn mỹ, quá ư khả ái, hơn cả đứa con ruột Âu Dương Khắc ngày trước, thì không nỡ đánh, hạ tay xuống, nói:

– Con mệt rồi, đi về nghỉ đi, ngày mai ta sẽ dạy tiếp

Dương Quá từ lúc bị Quách Phù chê tay cậu nhơ bẩn, cậu đâm ghét lây cả nhà cô bé, bèn nói:

– Con đi với cha, không về kia đâu.

Âu Dương Phong chỉ chưa nhớ chuyện của mình, chứ chuyện thế sự thì lão chẳng chút hồ đồ, lão nói:

– Đầu óc ta có một vài điều còn lú lẫn, chỉ sợ làm cho con vất vả. Giờ con cứ về đi, chờ ta nghĩ ra một việc cha con ta sẽ ở với nhau, mãi mãi không phân ly, được chứ con?

Dương Quá từ ngày mẹ mất, chưa bao giờ được nghe ai nói với cậu những lời thân thiết như thế, bèn nắm tay lão, dịu dàng nói:

– Cha sớm đến đón con, cha nhé.

Âu Dương Phong gật đầu:

– Ta vẫn ngầm theo con, bất kể con ở đâu, ta cũng biết hết. Kẻ nào bắt nạt con, ta sẽ đánh vỡ mặt hắn ra.

Rồi lão cắp Dương Quá đem trở lại khách điếm.

Kha Trấn Ác từng sang tìm Dương Quá, sờ soạng trên giường không thấy cậu, ra khắp xung quanh khách điếm tìm một lượt, cũng chẳng thấy đâu, thì lo lắm. Lần thứ hai sang tìm, thì Dương Quá đã trở về; lão đang định hỏi vừa rồi cậu đi đâu, bỗng nghe có tiếng gió lướt trên mái nhà. Lão biết có hai người võ công rất cao cường vừa lướt qua trên đó. Lão vội ôm Quách Phù sang đặt nằm cạnh Dương Quá, rồi cầm thiết trượng ngồi canh ở cửa sổ; chỉ lo hai kẻ kia là địch, đi xong sẽ quay lại. Quả nhiên tiếng gió từ xa lại lướt tới trên mái nhà, tiếng một người hỏi:

– Nàng bảo người ấy là ai?

Người kia đáp:

– Lạ thật, lạ thật, chẳng lẽ là lão ta?

Thì ra là hai vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Kha Trấn Ác lúc này mới yên tâm, mở cửa cho họ vào, Hoàng Dung hỏi:

– Đại sư phụ ở đây có chuyện gì không?

Kha Trấn Ác đáp:

– Không.

Hoàng Dung nói với Quách Tĩnh:

– Chẳng lẽ chúng mình nhìn nhầm người?

Quách Tĩnh lắc đầu:

– Không đâu, chín phần là người ấy.

Kha Trấn Ác hỏi:

– Ai thế?

Hoàng Dung kéo dải áo Quách Tĩnh, ý bảo đừng nói. Nhưng Quách Tĩnh không dám giấu ân sư, nói:

– Là Âu Dương Phong.

Kha Trấn Ác bình sinh căm ghét Âu Dương Phong, vừa nghe tên thì bất giác mặt biến sắc, thấp giọng hỏi:

– Âu Dương Phong ư? Hắn vẫn chưa chết ư?

Quách Tĩnh nói:

– Vừa rồi chúng con đi hái thuốc về, thấy trên mái nhà có bóng người, thân pháp vừa nhanh vừa lạ, vội đuổi theo thì đã mất hút. Trông rất giống Âu Dương Phong.

Kha Trấn Ác biết Quách Tĩnh xưa nay nói năng ổn trọng, chắc chắn. Chàng đã bảo là Âu Dương Phong, thì quyết không thể là kẻ khác.

Quách Tĩnh nhớ lo cho Dương Quá, chàng cầm nến tới bên giường, thấy sắc mặt cậu bé hồng nhuận, hơi thở đều đều, chính đang ngủ say, thì không khỏi vui mừng, nói với vợ:

– Nàng nhìn này, cậu bé khỏe.

Kỳ thực Dương Quá giả vờ ngủ, cậu nhắm mắt nghe ba người nói chuyện. Cậu loáng thoáng nghe biết nghĩa phụ tên là Âu Dương Phong, ba người này rõ ràng không ưa Âu Dương Phong, thì bất giác mừng thầm.

Hoàng Dung lại gần, lấy làm lạ; trước khi đi, rõ ràng khí độc lan lên cánh tay cậu bé, sau mấy canh giờ ắt phải sưng phù tím đen, đằng này khí độc lại tiêu đi, thật quái lạ. Vợ chồng nàng đi cả ngày vẫn chưa kiếm đủ các vị thuốc thiếu, thôi tạm giã nát mấy thứ thảo dược kiếm được cho cậu bé uống vậy.

Hôm sau vợ chồng Quách Tĩnh cùng Kha Trấn Ác mang hai đứa trẻ rời Gia Hưng đi về hướng đông nam; quyết định trước hết trở về Đào Hoa đảo, chữa trị xong cho Dương Quá, rồi tính sau. Tối hôm ấy, họ nghỉ ở khách điếm, Kha Trấn Ác và Dương Quá ở một buồng, vợ chồng Quách Tĩnh và Quách Phù ở một buồng.

Vợ chồng Quách Tĩnh ngủ đến nửa đêm, chợt nghe trên mái nhà có tiếng "cạch" rồi tiếng kêu lớn của Kha Trấn Ác ở buồng bên. Quách Tĩnh, Hoàng Dung vội bật dậy lao ra cửa sổ, thấy Kha Trấn Ác đang tay không ác đấu với người trên mái nhà; đối thủ thân cao, tay dài, chính là Âu Dương Phong. Quách Tĩnh cả sợ, chỉ lo Âu Dương Phong lấy mạng ân sư của chàng, đang định nhảy lên trợ giúp, thì thấy Kha Trấn Ác kêu to và ngã từ trên mái xuống. Quách Tỉnh phi thân ra, đúng lúc đầu của Kha Trấn Ác sắp đập xuống đất, chàng nhẹ nhàng đỡ gáy lão nhấc lên, rồi mới nhẹ nhàng đặt lão xuống, hỏi:

– Đại sư phụ, có thụ thương không ạ?

Kha Trấn Ác nói:

– Chưa chết được đâu, mau chặn Âu Dương Phong lại!

Quách Tĩnh đáp:

– Vâng.

Rồi chàng nhảy lên mái nhà.

Lúc đó ở trên mái nhà Hoàng Dung múa song chưởng đang giao đấu dữ dội với đối thủ mười năm chưa gặp. Thời gian qua, võ công của nàng đại tiến, nội lực cường kình, xuất chưởng càng biến hóa ảo diệu; Âu Dương Phong đấu hơn mười chiêu rồi mà chưa chiếm được chút lợi thế nào.

Quách Tĩnh nói:

– Âu Dương tiên sinh, chớ có đến phá đám.

Âu Dương Phong nói:

– Người bảo sao, người vừa gọi ta là gì thế?

Vẻ mặt lão ngơ ngác, trong giây lát đối với Hoàng Dung, lão chỉ thủ, không tiến công, trong óc hai chữ Âu Dương tựa hồ gợi lại một cái gì rất mật thiết. Quách Tĩnh định nói tiếp, thì Hoàng Dung đã nhận ra bệnh mất trí nhớ của Âu Dương Phong chưa đỡ, vội nói:

– Tiên sinh tên là Việt Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trần Vương!

Âu Dương Phong sững sờ, hỏi lại:

– Ta là Việt Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trần Vương ư?

Hoàng Dung lại nói:

– Tiên sinh là Phùng Trịnh Chử Vệ, Tưởng Thẩm Hàn Dương.

Nàng kể ra đủ các họ, khiến đầu óc Âu Dương Phong vốn đã mơ hồ, nghe gọi liền một mạch ngót hai chục cái họ, lại càng hồ đồ thêm, hỏi:

– Ngươi là ai? Ta là ai?

Chợt nghe sau lưng có tiếng quát:

– Ngươi đã giết hại năm huynh đệ tốt của ta, lão độc vật kia!

Tiếng quát chưa dứt, thiết trượng đã đánh tới, chính là Kha Trấn Ác. Vừa nãy Kha Trấn Ác bị chưởng lực của Âu Dương Phong đẩy ngã từ trên mái xuống đất, nhờ Quách Tĩnh đỡ kịp, chưa bị thương, bèn chạy vào buồng lấy cây thiết trượng ra đấu. Quách Tĩnh kêu to:

– Sư phụ hãy cẩn thận!

Cây thiết trượng cách lưng Âu Dương Phong chưa đầy một thước, nghe keng một tiếng, cây thiết trượng bị đánh bật lại, Kha Trấn Ác không cầm được, để nó văng xuống sân, lão cũng phải nhảy xuống theo.

Quách Tĩnh biết sư phụ không việc gì, nhưng nếu để Âu Dương Phong thừa thế nhảy xuống truy kích thì nguy, bèn quát:

– Tiếp chiêu!

Chân trái hơi khuỵu, hữu chưởng vẽ một vòng tròn rồi đẩy ngang ra, chính là chiêu "Kháng long hữu hối" trong "Hàng long thập bát chưởng". Một chiêu này đêm ngày khổ luyện, hồi mới học đã lợi hại, sau mười năm khổ công, đã đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh; lúc vừa đẩy ra, trông rất đơn giản, nhưng một khi gặp trở lực, trong giây lát sẽ có mười ba đạo hậu kình hùng mạnh dồn dập tràn tới, rắn chắc mấy cũng sẽ bị đập tan. Đấy là diệu cảnh chàng ngộ ra được từ "Cửu Âm chân kinh", tính từ thời trai trẻ của Hồng Thất Công đến giờ, chưa một ai luyện được chiêu số ảo diệu này.

Âu Dương Phong vừa đánh bật Kha Trấn Ác khỏi mái nhà, chỉ cảm thấy một làn gió nhẹ thổi tới mặt, thế gió tuy không mạnh, nhưng đã khiến lão khó thở, thì biết là lợi hại, vội rùn người xuống, song chưởng cùng đẩy ngang ra, chính là "Cáp mô công" đắc ý nhất đời của lão. Ba chưởng giao nhau, thân thể hai người cùng chấn động. Quách Tĩnh gia tăng chưởng lực, đạo này tiếp đạo khác, ào ào như sóng dồn; Âu Dương Phong thân mình lao đao như sắp ngã, song chưởng lực của Quách Tĩnh càng gia tăng, thì lực phản kích của lão cũng tăng theo.

Hai người không đấu với nhau đã hơn mười năm, lần này trùng phùng ở Giang Nam, đều muốn thử xem đối phương tiến bộ tới mức nào. Hồi Hoa Sơn luận kiếm, Quách Tĩnh chưa phải là đối thủ của Âu Dương Phong, nhưng giờ đã khác, võ công của chàng đại tiến, Âu Dương Phong tuy nghịch luyện "Cửu Âm chân kinh" cũng có điều tâm đắc, song một thuận một nghịch, rốt cuộc thuận phải thắng nghịch. Lần này giao đấu, Quách Tĩnh đã hoàn toàn ngang hàng với lão, khó phân cao thấp. Hoàng Dung muốn phu quân một mình thủ thắng, nên chỉ đứng bên quan sát, không nhảy vào hợp kích.

Ở miền Nam, mái nhà khác hẳn ở miền Bắc. Ở miền Bắc, mái nhà phải chịu đựng băng tuyết mùa Đông chất đống, nên được làm thật vững chắc; còn từ sông Hoài trở xuống miền Nam, mái nhà lợp ngói hai lớp, lấy gọn nhẹ làm chính. Quách Tĩnh và Âu Dương Phong đang đấu chưởng lực với nhau, lực thông hai chân; sau thời gian uống hết một ấm trà, bỗng nghe dưới chân răng rắc, rồi sầm một tiếng lớn, rui mè, mấy cái tay đòn bị gãy cùng lúc, mái nhà sụp xuống để hổng một lỗ lớn, cả hai người cùng rơi xuống.

Hoàng Dung giật mình, cũng nhảy xuống dưới qua lỗ hổng, chỉ thấy hai người vẫn tiếp tục đấu chưởng lực với nhau, mấy cái tay đòn gãy đè lên một người khách trọ. Người ấy đang ngủ sực tỉnh, đâu ngờ họa giáng từ trên trời xuống, thấy hai chân đã bị gãy nát, đau đớn kêu như bị chọc tiết. Quách Tĩnh không nỡ dùng lực dưới chân để đỡ làm khổ người vô tội; Âu Dương Phong thì chẳng thèm lý đến sự sống chết của người khác. Lực của đôi bên vốn ngang nhau, nhưng do Quách Tĩnh dưới chân không dùng lực trụ, chưởng bên trên không có nguồn, dần dần sa vào thế hạ phong. Chàng dùng đơn chưởng đấu với song chưởng của đối phương, lực toàn thân dồn vào hữu chưởng, tay trái tuy không làm gì, song cũng không thể dùng lực gì được. Hoàng Dung thấy chồng thân hơi ngả ra sau, tuy chỉ vài tấc, nhưng rõ ràng đã là bại thế, nàng bèn kêu lên:

– Này Trương Tam Lý Tứ, Hồ Đồ Vương Bát, hãy tiếp chiêu!

Một chưởng nhẹ nhàng vỗ tới vai Âu Dương Phong.

Chưởng này xuất chiêu tuy nhẹ nhưng là công phu thượng thừa của "Lạc Anh thần kiếm chưởng pháp", khi trúng vào thân thể kẻ địch, kình lực sẽ thấu vào nội tạng, dẫu là danh gia hạng nhất như Âu Dương Phong cũng không tránh khỏi nội thương. Âu Dương Phong thấy nàng lại gọi mình bằng một thứ họ tên kỳ quái, hơi ngẩn ngơ, thấy đòn đã đánh tới, bèn đẩy mạnh song chưởng, đẩy chưởng lực của Quách Tĩnh bật ra nửa thước, rồi trong sát-na ấy phóng một trảo vào đầu vai Hoàng Dung, năm ngón tay như năm cái móc sắt quặp vào da thịt nàng.

Một trảo này phát ra, cả ba người cùng kinh ngạc. Âu Dương Phong chỉ cảm thấy các đầu ngón tay buốt nhói, thì ra lão đã chộp trúng cái túi lông nhím trên người nàng, vội buông tay ra. Đúng lúc ấy, chưởng lực của Quách Tĩnh lại dồn tới, Âu Dương Phong hồi chưởng chống đỡ, trong lúc nguy cấp, ai nấy xuất toàn lực, nghe "bình" một tiếng, hai người cùng bật ra, bụi bặm bay tứ tung, tường nhà rung rinh. Thì ra hai người vừa dùng cương chưởng, trong bóng tối không nhìn rõ thân hình đối phương, bao nhiêu sức mạnh của "Hàng long thập bát chưởng" và "Cáp mô công" rốt cuộc giáng vào vai của đối phương. Hai người phá thủng tường văng ra ngoài, nửa mái nhà phía bên này sụp xuống. Hoàng Dung tuy không bị thương vì trảo vừa rồi, nhưng mặt hoa cũng tái đi vì sợ, nàng cũng vội phi thân ra ngoài. Chỉ thấy Âu Dương Phong và Quách Tĩnh đứng bất động cách nhau nửa trượng, hiển nhiên đều đã bị nội thương nghiêm trọng.

Hoàng Dung không kịp tấn công địch, tới đứng bên cạnh bảo vệ phu quân. Nàng thấy hai người nhắm mắt vận khí, rồi không hẹn mà cùng hộc ra một ngụm máu tươi. Âu Dương Phong nói:

– "Hàng long thập bát chưởng", hừ, gớm thật, gớm thật!

Lão cười như điên rồi chạy đi, loáng một cái đã biến mất tăm.

Lúc này trong khách điếm đã nhốn nháo cả lên, tiếng gọi nhau í ới loạn xạ. Hoàng Dung biết không thể ở đây thêm nữa, bèn ôm lấy con gái từ tay Kha Trấn Ác, nói:

– Sư phụ hãy vác Tĩnh ca ca, chúng ta rời khỏi đây thôi!

Kha Trấn Ác vác Quách Tĩnh đi về hướng Bắc. Đi một đoạn, Hoàng Dung chợt nhớ đến Dương Quá không biết lúc này cậu bé chạy đâu, nhưng nghĩ phu quân nàng đang bị trọng thương, mọi chuyện khác hãy gác lại tính sau.

Quách Tĩnh đầu óc vẫn tỉnh táo, chỉ bị chưởng lực của Âu Dương Phong làm cho tức thở, trong lúc được Kha Trấn Ác vác đi, chàng điều hòa hô hấp, vận khí thông mạch, đi chừng bảy, tám dặm thì các mạch đã thông, bèn nói:

– Đại sư phụ, đỡ lắm rồi.

Kha Trấn Ác đặt chàng xuống, hỏi:

– Khỏe rồi cơ à?

Quách Tĩnh lắc đầu, nói:

– "Cáp mô công" lợi hại thật!

Thấy Quách Phù ngả đầu vào vai mẹ ngủ ngon lành, chàng hỏi:

– Còn Quá nhi đâu?

Kha Trấn Ác nhất thời chưa nghĩ ra Quá nhi là ai, chẳng biết trả lời thế nào. Hoàng Dung nói:

– Chàng cứ yên tâm, ta tìm một chỗ nghỉ đã, rồi thiếp sẽ trở lại tìm nó.

Lúc này trời đã sắp sáng, đã có thể lờ mờ nhận biết cây cối, nhà cửa ven đường. Quách Tĩnh nói:

– Thương thế của ta không đáng ngại, ta cùng đi tìm với nàng.

Hoàng Dung cau mày, nói:

– Thằng bé ấy tinh nhanh lắm, chàng khỏi cần lo cho nó.

Vừa nói tới đó, bỗng sau bức tường trắng bên đường có một cái đầu nhỏ nhô lên rồi thụp xuống ngay. Hoàng Dung vụt tới tóm được, chính là Dương Quá. Cậu bé cười hì hì, nói:

– A di, các vị vừa mới tới phải không? Điệt nhi chờ ở đây khá lâu rồi.

Hoàng Dung lòng đầy ngờ vực, nhưng chỉ nói:

– Thế thì hãy đi theo chúng ta!

Dương Quá cười cười theo sau. Quách Phù mở mắt ra, hỏi:

– Đằng ấy đi đâu vậy?

Dương Quá nói:

– Ta đi bắt dế, xem chúng chọi nhau mới khoái.

Quách Phù hỏi:

– Có gì mà khoái?

Dương Quá nói:

– Ai bảo không khoái? Một con dế to đánh nhau với một con dế già. Con dế già thua, có hai con dế con đến giúp. Ba con dế đánh một. Con dế to nhảy qua nhảy lại, đá con này, cắn con kia, hì hì, lợi hại thật..

Quách Phù lắng nghe, hỏi:

– Sau đó thế nào?

Dương Quá nói:

– Ngươi bảo không khoái, còn hỏi làm gì?

Quách Phù ớ họng, tức lắm, ngoảnh mặt đi.

Hoàng Dung nghe cậu bé nói, rõ ràng nó ám chỉ chê bai Kha Trấn Ác cùng vợ chồng nàng, khen Âu Dương Phong, bèn hỏi:

– Điệt nhi thử nói cho a di biết, cuối cùng thì bên nào thắng?

Dương Quá cười cười, thản nhiên đáp:

– Điệt nhi đang thích thú xem trận đấu của mấy con dế, thì các vị tới; lũ dế thấy động, bỏ chạy hết cả.

Hoàng Dung nghĩ thầm: "Đúng là cha nào con ấy", nàng không khỏi cảm thấy hơi khó chịu.

Trong lúc nói chuyện, họ tới một thôn. Hoàng Dung vào gặp chủ nhân một tòa nhà lớn. Người này rất hiếu khách, nghe nói có người bị thương sinh bệnh, vội sai quét dọn sương phòng tiếp đãi.

Quách Tĩnh ăn hết ba tô cơm, ngồi trên giường nhắm mắt dưỡng thần. Hoàng Dung thấy phu quân khí định thần nhàn, biết là đã qua cơn nguy hiểm, chỉ ngồi bên cạnh bảo vệ. Nàng nghĩ đến việc từ khi gặp Dương Quá đến giờ, cậu bé này còn nhỏ tuổi song lại có nhiều điểm lạ lùng khó hiểu; dẫu có tra vấn, nó cũng sẽ không nói thật. Nàng nghĩ bụng phải cẩn thận để ý các hành động của nó mới được. Ăn bữa tối xong, ai nấy đi ngủ.

Dương Quá ở chung một buồng với Kha Trấn Ác. Nửa đêm, cậu len lén ngồi dậy, nghe tiếng thở của Kha Trấn Ác, biết là lão đang ngủ say, bèn mở cửa buồng, lẻn ra ngoài, đến bên tường, bám lấy một cành quế, đu người lên bờ tường, nhảy xuống. Bên ngoài có hai con chó ngửi thấy hơi người liền sủa lên. Dương Quá đã chuẩn bị sẵn từ ban ngày hai mẩu xương, bây giờ cậu lấy trong túi ra ném cho chó. Hai con chó ngoạm lấy mẩu xương, lập tức thôi sủa.

Dương Quá đi về hướng tây nam, chừng bảy, tám dặm, thì đến trước miếu Thiết Thương. Cậu đẩy cửa miếu, gọi:

– Cha ơi, con đến đây!

Chỉ nghe bên trong có tiếng ừm, chính là tiếng Âu Dương Phong. Dương Quá cả mừng, lần tới bàn thờ, tìm được cái giá cắm nến, đốt mẩu nến cháy dở, thấy Âu Dương Phong nằm trên mấy tấm bồ đoàn ở trước bức tượng thần, sắc diện uể oải, hơi thở yếu ớt. Tình trạng thụ thương của lão cũng giống như Quách Tĩnh, có điều là Quách Tĩnh đang tuổi tráng niên, phục hồi mau chóng, còn lão thì đã bước sang tuổi già, tinh lực kém sút hẳn.

Nguyên đêm hôm trước ở khách điếm, Dương Quá ngủ cùng buồng với Kha Trấn Ác, lúc nửa đêm Âu Dương Phong lại tới gặp cậu. Kha Trấn Ác tỉnh giấc, động thủ với Âu Dương Phong. Sau đó Quách Tĩnh, Hoàng Dung lần lượt tham chiến. Dương Quá ở bên nhìn thấy cả. Cuối cùng Âu Dương Phong và Quách Tĩnh cùng bị thương, Âu Dương Phong bỏ đi. Dương Quá nhân lúc hỗn loạn, không ai chú ý đến cậu, bèn lẳng lặng chạy theo Âu Dương Phong. Thoạt đầu Âu Dương Phong chạy quá nhanh, Dương Quá theo không kịp; nhưng rồi thương thế phát tác, Âu Dương Phong đi chậm dần. Dương Quá đuổi kịp, dìu lão nghỉ lại bên đường. Dương Quá tự biết, nếu cậu không quay trở lại, Hoàng Dung, Kha Trấn Ác sẽ đi tìm, e nguy lây đến tính mạng của nghĩa phụ, bèn hẹn với Âu Dương Phong sẽ gặp nhau ở miếu Thiết Thương. Miếu Thiết Thương có can hệ đến cả hai người, nên vừa nhắc tới là biết ngay. Sau đó Dương Quá một mình chờ ở bên đường cho đến lúc gặp gia đình Quách Tĩnh. Nửa đêm hôm nay cậu mới tìm tới đây.

Dương Quá lấy trong bọc ra bảy, tám cái bánh bao, đặt vào tay Âu Dương Phong, nói:

– Cha ơi, cha ăn đi.

Âu Dương Phong cả ngày hôm nay nhịn đói, sợ đi ra ngoài gặp kẻ thù, chỉ nằm lỳ trong miếu. Ăn hết mấy cái bánh, tinh thần phấn chấn hẳn lên, lão hỏi:

– Bọn chúng ở đâu?

Dương Quá kể lại mọi chuyện.

Âu Dương Phong nói:

– Gã họ Quách bị một chưởng của ta, trong vòng bảy ngày khó mà phục hồi, con vợ hắn phải săn sóc chồng, không dám đi đâu; hiện giờ chúng ta chỉ ngại mỗi lão già mù Kha Trấn Ác. Đêm nay lão ta chưa tới, ngày mai sẽ tới. Chỉ tiếc là ta không có sức. Ô, hình như là ta đã giết các huynh đệ của lão ta, chẳng nhớ là bốn hay năm đứa gì đó..

Nói đến đây tự dưng lão ho sặc sụa.

Dương Quá ngồi dưới đất, nghĩ thầm: "Mình phải bố trí vài vật nhọn ở dưới chân, lão già mù mà tới đây sẽ khiến cho lão bị thương một phen mới được".

Thế là cậu lấy bốn cái giá cắm nến trên bàn thờ xuống, vứt các mẩu nến thừa lưu cữu đi, đặt ở cửa ra vào, lại bưng một cái bát hương leo lên đặt trên bậu cửa miếu.

Cậu ngó quanh, muốn bố trí vài thứ có thể hại người, thấy hai phía đông tây trong điện treo hai quả chuông lớn, mỗi quả chuông phải ba người dang tay ôm mới xuể, chắc nặng ngàn cân. Đỉnh quả chuông có móc sắt, móc vào giá gỗ lớn. Miếu Thiết Thương nhiều năm không tu bổ, lắm chỗ hoang tàn, nhưng hai quả chuông và cái giá gỗ thì vô cùng vững chắc, không suy suyển gì hết. Dương Quá nghĩ thầm: "Lão mù mò đến đây, ta sẽ leo lên trên cái giá treo chuông, cho lão tha hồ mà tìm ta".

Dương Quá cầm cái giá cắm nến định vào hậu điện tìm mấy thứ phòng thân, bỗng nghe ngoài đường có tiếng cây thiết trượng chống xuống đất lộc cộc, thì biết là Kha Trấn Ác đã tới, vội thổi tắt nến, nhưng lại nghĩ thầm: "Lão mù đâu có nhìn thấy gì mà ta phải tắt nến đi". Nghe tiếng lộc cộc càng lúc càng gần, Âu Dương Phong vội ngồi dậy, muốn dồn chút sức tàn vào hữu chưởng, định ra đòn trước, một chưởng đánh chết ngay đối phương. Dương Quá thì chìa cái cọc nến ra phía ngoài, rồi đứng bên cạnh Âu Dương Phong, nghĩ bụng mình dẫu võ nghệ thấp kém, cũng phải trợ giúp nghỉa phụ, liều mạng một phen với lão mù.

Kha Trấn Ác cho rằng Âu Dương Phong bị trọng thương, không thể đi xa, gần đây có miếu Thiết Thương, chính là nơi thời trước Âu Dương Phong hay ghé tới, lão ta cũng chẳng dám trú nhờ nhà dân, chắc chỉ còn trốn ở miếu Thiết Thương; lại nghĩ đến năm huynh đệ phải chết thảm dưới tay Âu Dương Phong, nay có cơ hội báo thù, lẽ nào bỏ qua? Lão ngủ đến nửa đêm, thức dậy gọi khẽ hai tiếng "Quá nhi, Quá nhi!" không thấy trả lời, đoán là cậu bé ngủ say, chẳng lại gần kiểm tra, mà vượt tường đi ra. Hai con chó đang gặm xương, thấy lão già chỉ gầm gừ vài tiếng, không sủa.

Kha Trấn Ác thong thả đi đến trước miếu Thiết Thương, dỏng tai nghe, quả nhiên trong miếu có tiếng thở. Lão bèn gọi to:

– Lão độc vật kia, kẻ mù lòa này đến tìm ngươi, có giỏi thì mau ra đây.

Nói đoạn dộng mạnh cây thiết trượng xuống đất. Âu Dương Phong chỉ sợ hao tổn nguyên khí ở đan điền, không dám lên tiếng.

Kha Trấn Ác gọi mấy lần, không nghe tiếng trả lời, bèn dùng cây thiết trượng đẩy cửa miếu, bước vào, chỉ nghe "kịch" một tiếng, một vật nặng rơi trúng đầu, đồng thời chân trái đạp phải cái cọc nến, mũi cọc chọc thủng giày, đâm vào gan bàn chân đau nhói. Nhất thời chưa rõ nguyên do vì sao, lão vung cây thiết trượng đánh văng cái bát hương lớn trên đầu, ngả người ngồi phệt xuống đất, lăn một cái, để gan bàn chân khỏi bị đâm sâu; nào ngờ cạnh mình còn có mấy cái giá cắm nến nữa, có cái đâm vào vai, có cái đâm vào sườn đau điếng. Lão rút ra quẳng đi, máu chảy ra liền. Lúc này lão không dám coi thường, nghe tiếng thở của Âu Dương Phong, lão quơ bàn chân đi trước dò đường mà tiến từng bước một, khi còn cách Âu Dương Phong ba thước, thì lão vung cao cây thiết trượng, quát:

– Lão độc vật, hôm nay ngươi có gì để nói nữa không?

Âu Dương Phong đã dồn sức lực toàn thân vào cánh tay phải, chờ cây thiết trượng của đối phương đánh xuống, sẽ đẩy tay ra để đôi bên cùng chết. Kha Trấn Ác tuy biết kẻ thù bị trọng thương, song chưa biết rốt cuộc thương thế ra sao, cây thiết trượng chưa đánh xuống vội, chờ đối thủ phát chiêu trước sẽ biết đối thủ còn được bao nhiêu sức lực. Hai người cùng căng thẳng, cùng bất động.

Kha Trấn Ác nghe tiếng thở nặng nề của đối thủ; bỗng thấy hiện ra hình ảnh và giọng nói của năm huynh đệ kết nghĩa như Chu Thông, Hàn Bảo Câu, Nam Hi Nhân.. tựa hồ họ thúc giục lão mau hạ thủ, thì lão không chờ thêm nữa, quát lớn một tiếng, sử chiêu "Tần vương tiên thạch", vung cây thiết trượng bổ xuống. Âu Dương Phong khẽ né mình, đang định phát chưởng, cánh tay giơ lên nửa chừng thì hết sức, buông thõng ngay xuống. Chỉ nghe "cạch" một tiếng lớn, các tia lửa bắn tung tóe, đầu cây thiết trượng đập xuống nền gạch của miếu. Kha Trấn Ác đánh hụt, ra tiếp đòn thứ hai, cây thiết trượng quét ngang người đối phương; nếu là ngày thường, Âu Dương Phong chỉ khẽ hất tay cũng làm cho cây thiết trượng văng đi; nhưng hiện tại lão không còn chút hơi sức nào, đành ngã lăn xuống nền để tránh. Kha Trấn Ác sử dụng "Hàng ma trượng pháp", ra chiêu liên tiếp. Âu Dương Phong càng tránh càng chậm, cuối cùng bị một đòn trúng vào vai trái.

Dương Quá ở bên cạnh thấy vậy rất muốn trợ giúp nghĩa phụ, nhưng tự biết võ nghệ thấp kém, xông vào chỉ tổ mất mạng.

Kha Trấn Ác giáng liền ba đòn trúng người Âu Dương Phong. Âu Dương Phong có nội lực phải nói là vô cùng thâm hậu, tuy không còn sức đánh trả, nhưng có thể tránh né hóa giải, làm cho mỗi đòn của đối phương đều trượt sang bên; cho nên tuy da thịt trầy xước, song gân cốt nội tạng không bị tổn thương. Kha Trấn Ác lấy làm lạ, nghĩ bụng lão độc vật kia bản lĩnh quả phi thường, mỗi đòn đánh tới, rõ ràng đều trúng, mà sao mười thành kình lực thì bị lão ta hóa giải đến chín thành; lần này phải liên tiếp giáng cây thiết trượng vào đầu lão ta, xem lão ta còn tránh nổi nữa chăng.

Âu Dương Phong né đầu mấy lần, thân mình đã bị trùm bởi trượng phong, thầm kêu khổ, nếu bị cây thiết trượng đập trúng đầu, thì còn gì là tính mạng. Trong lúc tuyệt vọng, bèn nhào tới, túm lấy ngực đối phương. Kha Trấn Ác giật mìmh, cây thiết trượng đã ở ngoài, khó lòng đánh địch, đành giơ tay đẩy ra. Hai người cùng ngã lăn.

Âu Dương Phong không dám buông tay, tay trái sờ eo lưng đối phương, đột nhiên chạm phải một vật cứng, bèn chộp lấy thì ra là một con dao nhọn. Con dao này Trương A Sinh thường gọi là Đồ ngưu đao. Là gọi thế thôi, chứ đâu có dùng để chọc tiết bò bao giờ. Con dao nhọn này sắc như nước. Từ khi Trương A Sinh bị chết bởi tay Trần Huyền Phong ở vùng sa mạc Mông Cổ, Kha Trấn Ác luôn nhớ đến nghĩa đệ, nên đeo Đồ ngưu đao ở bên mình, không lúc nào rời. Âu Dương Phong rút được con dao, xoay cổ tay đâm vào sườn đối phương. Lúc ấy, Kha Trấn Ác buông cây thiết trượng, hữu quyền vung ra, đấm cho Âu Dương Phong một quả lộn vòng tròn. Âu Dương Phong mặt mũi tối sầm, mơ hồ ném con dao về phía Kha Trấn Ác. Nghe tiếng gió, Kha Trấn Ác vội né tránh, bỗng "boong" một tiếng ngân nga, thì ra con dao ném trúng quả chuông trong điện. Lực ném tuy yếu, nhưng lưỡi dao quá bén, nên cắm vào chuông, thân dao vẫn rung rung.

Dương Quá đứng bên, lưỡi dao bay qua, suýt nữa chạm vào má cậu, cậu hoảng hồn vội leo lên cái giá treo chuông.

Âu Dương Phong chợt hiểu, liền bò ra sau quả chuông. Lúc này tiếng chuông còn ngân, Kha Trấn Ác không thể nghe thấy hơi thở của Âu Dương Phong, phải dỏng tai lên. Ánh trăng trong đại điện chiếu chếch, thấy lão đầu tóc rối bù, tay chống thiết trượng, nghênh nghênh mặt, trông rất đáng sợ. Dương Quá đã phát hiện điều quan trọng, cậu liền rút con dao khỏi quả chuông, dùng cán dao gõ liên hồi vào quả chuông để át tiếng thở của cậu và của Âu Dương Phong.

Kha Trấn Ác nghe tiếng chuông, nhào nhanh tới, thì Âu Dương Phong đã lánh ra sau quả chuông. Kha Trấn Ác phang thiết trượng một cái, trúng quả chuông, tiếng chuông vang lên lần này đúng là đinh tai nhức óc. Dương Quá cảm thấy màng nhĩ buôn buốt. Kha Trấn Ác thì cứ dùng thiết trượng gõ vào quả chuông, tiếng này chưa dứt, tiếng sau lại vang lên, càng lúc càng to. Âu Dương Phong nghĩ bụng nguy mất, nghe tiếng chuông thế này, Hoàng Dung sẽ đến tiếp viện. Bèn thừa cơ tiếng chuông len lén chuồn khỏi hậu điện. Ai ngờ Kha Trấn Ác thính tai kỳ lạ, giữa tiếng chuông lớn vẫn phân biệt được âm thanh nhỏ nhẹ; nghe thấy tiếng bước chân của Âu Dương Phong di chuyển, lão vờ như không biết, tiếp tục gõ chuông, chờ lúc Âu Dương Phong đi cách quả chuông dăm bước, lão mới bất ngờ nhảy ra chặn trước, vung thiết trượng đánh xuống đầu Âu Dương Phong.

Âu Dương Phong tuy mất hết sức, nhưng đời lão từng trải bao phen sóng gió, những trò hư hư thực thực lúc tiếp chiến, làm gì che nổi mắt lão? Thấy vai phải của Kha Trấn Ác hơi nhấc lên, lão đã biết ý định của đối phương; chờ khi thiết trượng vung lên, lão lại nấp vào phía sau quả chuông. Sau khi bị trọng thương, lão khó bề đi lại, nhưng lúc này chuyện sống chết chỉ trong gang tấc, tự dưng nội lực thâm hậu từ mấy chục năm bỗng phát ra, ngay lão cũng không ngờ.

Kha Trấn Ác cả giận, quát:

– Ta không đánh chết ngươi, thì cũng phải làm cho ngươi chết mệt mới được!

Liền đuổi quanh quả chuông.

Dương Quá thấy hai người chạy quanh quả chuông mấy vòng, nếu kéo dài, nghĩa phụ sẽ không còn sức, giữa lúc nguy cấp bèn nghĩ ra một kế, nằm trên giá treo chuông cứ múa tay liên tục. Âu Dương Phong đang chăm chú tránh né sự truy đuổi của kẻ địch, nên không nhìn thấy cậu; lại chạy thêm hai vòng nữa quanh quả chuông, mới thấy bóng Dương Quá hắt xuống đất, cậu bé đang cố ra hiệu bảo lão tránh đi. Lão chưa hiểu ý, nhưng nghĩ bụng nó đã bảo mình tránh đi, ắt có dụng ý; thế là lão bèn mạo hiểm chạy ra ngoài.

Kha Trấn Ác dừng bước bất động, muốn nhận biết hướng chạy của kẻ địch. Dương Quá liền tụt hai chiếc giày khỏi chân, ném ra phía hậu điện, "bạch bạch" hai tiếng, hai chiếc giày rơi xuống đất. Kha Trấn Ác lấy làm lạ, rõ ràng nghe Âu Dương Phong chạy ra phía cửa miếu, tại sao lại có tiếng động ở hậu điện? Trong lúc lão đang phân vân, thì Dương Quá dùng con dao nhọn chặt cái giá gỗ treo chuông. Cái giá thì to, sức chặt của Dương Quá thì yếu, con dao tuy sắc, nhưng chặt mấy nhát làm sao đã gãy được giá? Nhưng quả chuông quá nặng, cái giá treo bị chém lõm mấy nhát liền, cuối cùng chịu hết nổi sức nặng của quả chuông. Nghe "rắc rắc" mấy tiếng, cáí giá treo chuông gãy hản, quả chuông khổng lồ ụp xuống đúng chỗ Kha Trấn Ác đang đứng.

Kha Trấn Ác sớm nghe thấy tiếng động lạ phía trên, đang lấy làm lạ lắm, thì quả chuông đã rơi xuống, vội giơ thẳng cây thiết trượng lên; nghe "kịch" một tiếng lớn, mép quả chuông đè trúng cây thiết trượng; Kha Trấn Ác thừa dịp lăn ra khỏi đáy chuông; chỉ nghe "sầm sầm" mấy tiếng cực mạnh, cây thiết trượng gãy đôi, quả chuông lăn nghiêng, hích mạnh vào vai Kha Trấn Ác, đẩy lão bắn ra ngoài cửa miếu, lão lộn mấy vòng liền, mũi chảy máu, trán bị rách một mảng to. Kha Trấn Ác không nhìn thấy gì, chẳng hiểu sự cố từ đâu mà ra, chỉ sợ trong miếu có quái vật linh thiêng gì chăng, đành bò dậy bỏ đi.

Âu Dương Phong ở bên nhìn thấy cũng không khỏi kinh ngạc, bất giác thốt lên:

– Ghê thật! Con ta giỏi thật, thông minh thật!

Dương Quá từ trên bò xuống, mừng rỡ nói:

– Lão mù sẽ không dám tới nữa.

Âu Dương Phong nói:

– Lão mù thù ta sâu hơn bể, lão còn hơi sức, thể nào cũng tìm đến.

Dương Quá nói:

– Thế thì chúng ta mau đi thôi.

Âu Dương Phong lắc đầu, nói:

– Ta bị thương rất nặng, không chạy xa được.

Cơn nguy cấp qua rồi, lão chợt cảm thấy chân tay rã rời, một bước cũng không lê nổi. Dương Quá vội hỏi:

– Thế thì phải làm sao?

Âu Dương Phong ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Có cách này, con hãy chặt rơi nốt quả chuông kia xuống, để ta nấp bên trong quả chuông.

Dương Quá hỏi:

– Làm sao cha chui ra được?

Âu Dương Phong nói:

– Bảy ngày sau, khi ta phục hồi nguyên khí, ta sẽ tự có cách thoát ra. Trong bảy ngày đó, lão mù có tìm đến báo thù, cũng chẳng làm gì được ta. Chỉ cần cái con Hoàng Dung ấy không tới, thì chẳng có gì đáng ngại.

Dương Quá nghĩ thầm ngoài cách đó, chẳng còn cách nào khác, hỏi lại cho rõ, biết rằng nghĩa phụ hoàn toàn có thể ra khỏi quả chuông không cần ai giúp sức, lại hỏi:

– Suốt bảy ngày cha không ăn uống gì mà chịu nổi ư?

Âu Dương Phong nói.

– Con hãy kiếm cho ta một chậu nước trong, còn có vài cái bánh bao đây, thế là đủ sống bảy ngày.

Dương Quá vào bếp tìm được cái chậu nhỏ, đổ đầy nước, bưng lại, rồi dìu Âu Dương Phong leo lên ngồi lọt bên trong quả chuông thứ hai. Âu Dương Phong dặn:

– Con cứ đi theo Quách Tĩnh, ngày sau cha sẽ tự đến tìm con.

Dương Quá vâng lời, chém gãy cái giá treo chuông. Quả chuông rơi xuống, chụp kín Âu Dương Phong ở bên trong.

Dương Quá gọi "cha ơi" liền mấy lần, không thấy trả lời, nghĩ thầm nghĩa phụ ở trong quả chuông không thể nghe thấy, cậu đang tính bỏ đi, chợt nghĩ một kế. Cậu xuống bếp, tìm một cái chậu nhỏ đổ nước vào, đặt dưới đất, rồi trồng cây chuối, tay trái chống trong chậu nước, làm theo cách nghịch hành kinh mạch mà Âu Dương Phong đã dạy, dồn máu độc ra. Cách này rất mệt người, cậu chỉ đẩy được mười mấy giọt máu đen ra mà mồ hôi ướt đầm cả đầu tóc. Cậu ngồi nghỉ một lát, rồi xé mảnh vải buộc vào đầu cái ống thẻ, nhúng vào chậu nước hòa lẫn máu độc mà quét lên khắp quả chuông, để nếu lão mù Kha Trấn Ác có tới định lật ngửa quả chuông, sẽ bị trúng độc.

Lại nghĩ thầm nghĩa phụ ở trong quả chuông bảy ngày sẽ bị ngạt thở, bèn dùng con dao nhọn khoét một khe hổng rộng gần bằng nắm tay ở dưới nền gạch xanh, chỗ mép quả chuông. Dưới gạch là đá cứng, lưỡi dao bị gãy. Cậu không biết đây là con dao quý, nó chẳng phải của mình, gãy rồi thì vứt đi; rồi cậu phục xuống, nói vào cái khe hở:

– Cha ơi, con đi đây. Cha mau tới đón con nhé. Mặt ngoài quả chuông có chất độc, khi chui ra, cha nhớ cẩn thận đấy.

Rồi cậu ghé tai xuống khe hở, chỉ nghe thấy giọng nói yếu ớt của Âu Dương Phong:

– Con giỏi lắm, ta không sợ chất độc, chất độc phải sợ ta. Con cứ yên chí, ta nhất định sẽ tới đón con.

Dương Quá đứng một lúc, tần ngần lưu luyến, rồi mới chạy về khách điếm. Lúe leo tường vào, cậu rón rén, sợ Kha Trấn Ác phát hiện, nhưng lúc vào buồng cậu mới biết Kha Trấn Ác vẫn chưa về

Sáng hôm sau, bỗng nghe có tiếng gậy gõ cồng cộc vào cánh cửa buồng. Dương Quá thức dậy, chạy ra mở cửa, thấy Kha Trấn Ác tay chống một cây gậy gỗ, mặt tái mét, vừa bước qua cửa thì ngã sấp xuống. Dương Quá thấy hai tay lão đen sì, quả nhiên lão lại tìm tới chỗ Âu Dương Phong, rốt cuộc đã trúng phải chất độc do cậu bố trí. Cậu mừng thầm, nhưng giả bộ kinh ngạc, gọi to:

– Đại công công, sao vậy?

Quách Tĩnh, Hoàng Dung nghe tiếng, chạy sang, thấy Kha Trấn Ác nằm dưới đất, thì cả kinh. Hiện thời Quách Tĩnh có thể đi lại được, nhưng không có sức; Hoàng Dung vội ôm Kha Trấn Ác đặt lên giường, hỏi:

– Đại sư phụ, sư phụ làm sao vậy?

Kha Trấn Ác lắc đầu, không nói. Hoàng Dung thấy lòng bàn tay sư phụ ám đen, thì tức giận nói:

– Lại là nữ tặc họ Lý. Quách Tĩnh ca ca, chờ thiếp đi gặp nó.

Nói đoạn xiết dây thắt lưng, bước ra.

Kha Trấn Ác nói nhỏ:

– Không phải tại nữ nhân ấy.

Hoàng Dung dừng bước, quay lại hỏi:

– Vậy thì là ai?

Kha Trấn Ác cảm thấy đối với một kẻ không còn sức trói gà mà lão cũng không đối phó nổi, lại để bị thương thế này, thì quả là đồ vô tích sự. Lão cứ ngậm tăm, không chịu nói ra nguyên do tại sao lão bị thương. Hai vợ chồng Quách Tĩnh biết tính sư phụ, lão đã không muốn nói mà còn hỏi sẽ khiến cho lão tức giận. Vả lại, tình trạng trúng độc của lão cũng không nguy hiểm lắm, uống một viên "Cửu hoa ngọc lộ hoàn" sẽ đỡ liền.

Hoàng Dung nghĩ thầm, hiện thời Quách Tĩnh và Kha Trấn Ác bị thương, Lý Mạc Sầu thì hiểm độc khôn lường; trước tiên cần đưa hai người bị thương và hai đứa trẻ về Đào Hoa đảo, sau đó sẽ trở lại tính sổ. Buổi sáng nghỉ ở khách điếm, buổi chiều nàng thuê thuyền đi về hướng đông.

Dương Quá thấy Hoàng Dung không đi tìm Âu Dương Phong, thì mừng thầm, lại nghĩ: "Cha ta chỉ sợ Quách bá mẫu đến tìm, chẳng lẽ một đại mỹ nhân yêu kiều như Quách bá mẫu mà lại còn lợi hại hơn cả lão Kha Trấn Ác hay sao?"

Thuyền đi nửa ngày, gần tối thì đậu lại bên bờ sông, nhà thuyền nổi lửa nấu cơm. Quách Phù thấy Dương Quá chẳng thèm để ý đến nó, nó vừa tức vừa buồn, đứng tựa mạn thuyền nhìn ra ngoài, bỗng thấy dưới một gốc liễu có hai đứa bé đang khóc sướt mướt, nhìn kỹ thì chính là hai anh em Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn. Quách Phù gọi to:

– Này, các cậu làm gì ở đó?

Võ Tu Văn ngoảnh đầu, trông thấy Quách Phù, thì đáp:

– Hai ta đang khóc, tiểu cô nương không thấy hay sao?

Quách Phù hỏi:

– Tại sao khóc? Bị mẹ đánh đòn à?

Võ Tu Văn trả lời:

– Mẹ ta vừa chết rồi!

Hoàng Dung nghe vậy, giật mình nhảy lên bờ, thấy hai cậu bé đặt tay lên thi thể người mẹ mà khóc một cách đau đớn. Võ tam nương mặt mày đen sạm, chết đã nhiều giờ. Hoàng Dung hỏi Võ Tam Thông đâu rồi, Võ Đôn Nhu nói:

– Phụ thân của điệt nhi không biết đi đâu ấy.

Võ Tu Văn nói:

– Mẫu thân điệt nhi hút chất độc ra cho phụ thân điệt nhi, hút ra bao nhiêu là chất độc. Phụ thân điệt nhi khỏi độc, thì mẫu thân điệt nhi lại bị chết. Phụ thân điệt nhi thấy mẫu thân điệt nhi chết, thì lại phát điên phát khùng. Chúng điệt nhi gọi mà phụ thân điệt nhi mặc kệ, cứ bỏ đi.

Nói rồi cậu bé lại khóc. Hoàng Dung nghĩ thầm: "Võ tam nương xả thân cứu phu quân, thật là một nữ nhân nghĩa liệt", bèn hỏi:

– Hai điệt nhi có đói không?

Huynh đệ Võ Tu Văn gật đầu.

Hoàng Dung thở dài, bảo nhà thuyền đưa hai cậu bé xuống thuyền ăn cơm, vào trấn mua một cỗ quan tài, tối hôm ấy chưa kịp chôn cất Võ tam nương; sáng hôm sau mới mua một mảnh đất để mai táng. Huynh đệ Võ Tu Văn quỳ bên mộ khóc to.

Quách Tĩnh nói với vợ:

– Hai đứa trẻ này không còn cha mẹ, chúng ta đem về Đào Hoa đảo, từ nay nàng sẽ tốn thêm sức lo liệu cho chúng đó.

Hoàng Dung gật đầu, khuyên hai đứa trẻ, dẫn xuống thuyền, đi ra đến biển, thuê chiếc thuyền lớn mà ra Đào Hoa đảo ở biển Đông.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 03: Cầu sư Chung Nam

Quách Tĩnh ở dưới thuyền tiềm vận thần công, mấy ngày sau thương thế đã giảm quá nửa. Hai vợ chồng nhắc đến việc mười năm gặp lại Âu Dương Phong, thấy lão ta chẳng hề suy yếu, võ công cao cường hơn xưa; nếu một chưởng vừa rồi mà đánh trúng ngực Quách Tĩnh, có lẽ chàng phải dưỡng thương mươi bữa nửa tháng mới đỡ. Hai người nhắc đến Hồng Thất Công, không biết hiện giờ lão nhân ở đâu, thật là nhớ quá chừng. Hoàng Dung tuy ẩn cư ở Đào Hoa đảo, song vẫn còn giữ địa vị bang chủ Cái Bang; mọi việc trong bang tạm ủy quyền cho Lỗ Hữu Cước thay mặt nàng phân xử. Chuyến đi Giang Nam vừa rồi, nàng định hội kiến các vị trưởng lão trong bang bàn một số việc, tiện thể dò la tin tức Hồng Thất Công, nhưng Quách Tĩnh bị thương, đành phải trở về đảo. Sau đó hai người nói đến Dương Quá, Hoàng Dung bèn gọi cậu bé vào hỏi chuyện trước đây. Dương Quá kể chuyện mẹ cậu lâm bệnh qua đời, cậu thì lưu lạc ở Gia Hưng; vợ chồng Quách Tĩnh nghĩ đến giao tình với Mục Niệm Từ, đều không khỏi thương cảm.

Đợi Dương Quá ra ngoài khoang thuyền, Quách Tĩnh nói:

– Ta có một tâm nguyện, nàng chắc cũng biết đó. Lần này may mắn gặp Quá nhi, thế là tâm nguyện của ta có thể đạt được.

Ngày trước phụ thân của Quách Tĩnh là Quách Khiếu Thiên kết nghĩa huynh đệ với ông nội của Dương Quá là Dương Thiết Tâm, khi đó hai người vợ của họ đang có thai. Hai vị ước định với nhau, nếu cùng sinh con trai, sẽ cho kết nghĩa huynh đệ; nếu cùng sinh con gái, cho kết nghĩa kim lan tỷ muội, nếu một bên sinh con trai, bên kia sinh con gái, sẽ kết thành phu phụ. Sau hai nhà cùng sinh con trai, nên Quách Tĩnh kết nghĩa huynh đệ với cha của Dương Quá là Dương Khang. Tiếc rằng Dương Khang nhận giặc làm cha, làm nhiều việc bất nghĩa, cuối cùng chết thảm ở miếu Thiết Thương, Gia Hưng. Quách Tĩnh vẫn còn nhớ hẹn ước cũ, nên vừa rồi chàng nói vậy. Hoàng Dung sớm biết tâm ý của chàng, lắc đầu nói:

– Thiếp không bằng lòng.

Quách Tĩnh ngạc nhiên hỏi:

– Vì sao?

Hoàng Dung đáp:

– Phù nhi làm sao có thể lấy tên tiểu tử ấy.

Quách Tĩnh nói:

– Cha nó tuy sai trái, nhưng Quách, Dương hai nhà mấy đời giao hảo, ta thấy nó tướng mạo thanh tú, thông minh lanh lợi, từ nay ở với chúng ta, lo gì sau này không nên người.

Hoàng Dung nói:

– Thiếp sợ nó quá thông minh đấy.

Quách Tĩnh nói:

– Nàng không phải là quá thông minh đó sao? Thông minh thì có gì là không tốt?

Hoàng Dung cười, nói:

– Thiếp lại thích một ca ca ngốc nghếch như chàng cơ.

Quách Tĩnh cười, nói:

– Phù nhi sau này lớn lên, chắc gì đã giống nàng, thích một gã ngốc nghếch. Hơn nữa, ngốc nghếch như ta đây, chỉ e thiên hạ không có người thứ hai nữa đâu.

Hoàng Dung làm mặt giận, nói:

– Hiếm quá nhỉ! Đừng tưởng nhé!

Hai vợ chồng cười nói mấy câu, Quách Tĩnh lại trở lại chủ đề cũ:

– Cha ta có di mệnh, Dương Thiết Tâm thúc phụ lúc lâm chung cũng có ủy thác cho ta. Đối với Dương Khang huynh đệ và Mục Niệm Từ, ta chưa thật tận tâm. Nếu ta không lấy Quá nhi làm thân nhân, thì hóa ra có lỗi với cha ta và Dương thúc phụ hay sao?

Nói rồi thở dài, đầy vẻ buồn bã. Hoàng Dung dịu dàng nói:

– May mà hai đứa đều còn nhỏ, việc ấy chưa có gì phải vội. Sau này nếu Quá nhi quả không tệ lắm, thì chàng muốn sao sẽ được vậy thôi.

Quách Tĩnh đứng dậy, vái một cái thật dài, nghiêm trang nói:

– Đa tạ nàng đã bằng lòng, ta thật vô cùng cảm kích.

Hoàng Dung cũng nghiêm trang nói:

– Thiếp chưa bằng lòng đâu. Thiếp chỉ nói rằng để xem sau này Quá nhi thế nào đã.

Quách Tĩnh vái xong, vừa đứng thẳng người lên, nghe nàng nói vậy, không khỏi thất vọng, nói:

– Dương Khang huynh đệ từ nhỏ ở trong vương phủ nước Kim nên mới nhiễm nhiều cái xấu. Quá nhi ở trên đảo với chúng ta, quyết không thể hư hỏng được. Huống hồ tên của nó hồi trước do chính ta đặt. "Quá" nghĩa là có lỗi. Nay đổi tên đi thì được

Hoàng Dung cười, nói:

– Tên gọi đâu có gì quyết định. Chàng là Quách Tĩnh, có yên tĩnh chút nào không? Từ nhỏ chàng đã chạy nhảy y hệt một con khỉ đó thôi.

Quách Tĩnh trố mắt cứng họng. Hoàng Dung mỉm cười, nói sang chuyện khác.

Thuyền đã tới Đào Hoa đảo. Quách Phù tự dưng có thêm ba người bạn cùng trang lứa, hết sức vui thích.

Dương Quá sau khi uống thuốc giải của Hoàng Dung, đã giải hết chất độc còn lại trong cơ thể. Hiềm khích giữa cậu với Quách Phù lúc mới gặp nhau, sau ít hôm là hai đứa trẻ cùng quên ngay. Hồi này bốn đứa bé bắt dế cho chọi nhau làm trò vui.

Hôm nay Dương Quá từ trong nhà ra, lại đi bắt dế. Đi qua Đạn Chỉ các, Lưỡng Vong phong, vừa vòng qua Thanh Tiếu đình, cậu bỗng nghe thấy sau núi có tiếng cười nói, bèn chạy về phía đó, thấy Quách Phù và huynh đệ họ Võ đang vạch cỏ lật đá, cũng đang tìmbắt dế. Võ Đôn Nhu cầm một cái ống trúc, Quách Phù thì bưng một cái chậu sành.

Võ Tu Văn lật một hòn đá lên, vù một cái, một con dế to tướng nhảy ra. Võ Tu Văn nhào tới, chụp cả hai tay, reo lên vui mừng. Quách Phù nói:

– Cho tớ, cho tớ!

Võ Tu Văn bắt con dế, nói:

– Ừ, cho cậu này.

Con dế này đầu vuông, càng to, lưng mập, trông rất oai phong. Võ Tu Văn nói:

– Con dế này là đại tướng quân vô địch đây; mấy con dế của Dương ca ca chọi không lại nó đâu.

Dương Quá chưa chịu, rút mấy cái ống trúc ra, chọn một con dế hung mãnh nhất cho chọi với con dế to kia. Chơi được vài hiệp, con dế lớn há to miệng, cắn một cái vào bụng con dế của Dương Quá, hất con kia ra khỏi chậu sành, rồi giương cánh mà kêu đầy vẻ đắc ý. Quách Phù vỗ tay reo:

– Con của ta thắng rồi!

Dương Quá nói:

– Đừng vội mừng, còn con dế nữa.

Nhưng ba con dế cậu chọn đều bại trận, con thứ ba thậm chí bị cắn đứt đôi.

Dương Quá vẻ mặt buồn thiu, nói:

– Chả chơi nữa!

Cậu quay mình bỏ đi. Bỗng nghe từ một đám cỏ phía sau có ba tiếng "ri ri ri", chính là tiếng dế kêu, nhưng khá lạ. Võ Đôn Nhu nói:

– Lại một chú dế nữa.

Cậu bé gạt cỏ ra, đột nhiên nhảy lùi lại, kêu lên hốt hoảng:

– Rắn, có rắn!

Dương Quá ngoảnh lại, thấy một con rắn cạp nia cuộn mình trong cỏ, nghển đầu thè tia lưỡi. Dương Quá nhặt một hòn đá, nhắm kỹ ném tới, trúng ngay đầu con rắn. Nó quằn quại vài cái rồi chết. Chỉ thấy cạnh chỗ con rắn nằm có một con dế nhỏ đen trùi trũi, tướng mạo rất xấu xí, giương cánh phát ra tiếng ri ri.

Quách Phù cười, nói:

– Dương ca ca, ca ca bắt con quỉ đen ấy chứ?

Dương Quá nghe giọng cô bé có ý châm biếm, bèn tức khí nói:

– Bắt thì bắt!

Liền tóm luôn con dế đó. Quách Phù cười, nói:

– Ca ca bắt con quỉ đen ấy làm gì, đòi chọi với con đại tướng quân của muội chăng?

Dương Quá nói:

– Chọi thì chọi, con quỉ đen cũng đâu để cho người ta khinh thường nó.

Liền bỏ con dế đen ấy vào chậu của Quách Phù.

Lạ thay, con dế lớn thấy con dế nhỏ lại có vẻ sợ hãi, cứ nem nép một chỗ. Quách Phù và huynh đệ họ Võ ra sức hò la trợ uy cho nó. Con dế đen nghển đầu nhảy tới, con dế lớn không dám nghênh chiến, chỉ chực nhảy ra khỏi chậu. Con dế nhỏ liền nhảy lên theo, cắn một cái trúng đuôi con dế lớn, hai con dế cùng rơi xuống; con dế lớn xoay xoay vài cái, rồi lật ngửa bụng lên mà chết. Thì ra trong loài dế có một giống thích sống chung với độc trùng; sống chung với rết thì gọi là "Ngô công suất" (dế rết) ; sống chung với rắn độc thì gọi là "Xà suất" (dế rắn). Giống "Xà suất" có nhiễm khí độc, nên mọi con dế khác đều kinh sợ. Con dế mà Dương Quá bắt được chính là một con "Xà suất". Quách Phù thấy con đại tướng quân bị chết thì buồn bã, nghĩ thế nào, lại nói:

– Dương ca ca, cho muội con dế đen của ca ca đi.

Dương Quá nói:

– Cho thì không tiếc, có điều là ban nãy muội chửi nó là con quỉ đen kia mà?

Quách Phù dẩu môi, nói dỗi:

– Không cho thì thôi, tưởng báu lắm!

Rồi đổ con dế ra khỏi chậu, lấy chân giẫm chết nó. Dương Quá cả giận, máu nóng bốc lên đỏ cả mặt, liền vung tay tát Quách Phù một cái thật mạnh.

Quách Phù ớ ra, chưa biết có nên khóc hay không. Võ Tu Văn liền nói:

– Ơ, tên tiểu tử đánh người hả!

Rồi đấm một quả vào ngực Dương Quá. Võ Tu Văn gia học uyên nguyên, từ nhỏ đã được cha mẹ dạy võ, võ công có căn cơ hẳn hoi, cú đấm này có lực đạo không nhẹ. Dương Quá cả giận, cũng giáng trả một quyền, Võ Tu Văn vội né tránh, Dương Quá đuổi theo; Võ Đôn Nhu bèn ngáng chân một cái, Dương Quá ngã sấp xuống. Võ Tu Văn quay lại, cưỡi lên lưng Dương Quá. Võ Đôn Nhu cũng làm theo bốn quả đấm cứ thế đấm túi bụi xuống người Dương Quá.

Dương Quá lớn hơn hai cậu kia một, hai tuổi; nhưng hai tay không địch nổi bốn tay. Huynh đệ họ Võ lại từng luyện võ công thượng thừa, còn Dương Quá mới chỉ học qua chút võ công thô thiển do mẹ truyền cho, nên không thể đối phó, đành nghiến răng chịu đựng, không kêu một tiếng. Võ Đôn Nhu nói:

– Mi xin tha, huynh đệ ta sẽ tha cho mi.

Dương Quá nhiếc:

– Nói thối như cứt!

Võ Tu Văn thấy vậy lại đấm cho hai quả. Quách Phù đứng bên cạnh thấy huynh đệ họ Võ trả thù giúp mình thì trong bụng thích thú.

Huynh đệ họ Võ biết rằng nếu đánh vào đầu vào mặt Dương Quá sẽ gây thương tích, Quách Tĩnh, Hoàng Dung nhìn thấy sẽ trách mắng, nên hai đứa chỉ đấm đá vào thân mình Dương Quá. Quách Phù thấy hai đứa đánh dữ, cũng hơi sợ, nhưng sờ lên mặt thấy nóng rát vì cái tát vừa nãy, thì bất giác kêu lên:

– Đấm mạnh vào, đánh đi!

Huynh đệ họ Võ nghe Quách Phù khích lệ, càng đánh mạnh hơn.

Dương Quá nằm dưới đất, nghe Quách Phù nói thế thì nghĩ thầm: "Con a đầu kia độc ác như vậy, sau này ta quyết trả thù". Nó cảm thấy lưng, mông, hai cánh tay đau như giần, càng lúc càng khó chịu đựng. Huynh đệ họ Võ luyện công từ bé, quyền cước có lực, người lớn bình thường cũng khó chịu nổi, Dương Quá từng luyện chút nội công, nếu không thì đã chết ngất từ lâu. Nó cắn răng chịu đựng, hai tay quờ quạng loạn xạ dưới đất, chợt tay trái vớ được một vật vừa lạnh vừa trơn, chính là con rắn cạp nia nó đập chết ban nãy, bèn vung tay quất mạnh con rắn về phía sau.

Huynh đệ họ Võ thấy vậy kêu lên hoảng hốt. Dương Quá thừa cơ lật người lại, quai tay thật mạnh một quyền, trúng mũi Võ Đôn Nhu, rồi cắm đầu chạy. Huynh đệ họ Võ tức giận đuổi theo. Võ Đôn Nhu trúng đòn vào mũi, tuy không đau lắm, nhưng máu chảy be bét ra mặt. Quách Phù thích xem cảnh náo nhiệt, cứ luôn miệng giục:

– Bắt lấy nó, bắt lấy nó!

Dương Quá chạy một hồi, ngoảnh lại, thấy Võ Đôn Nhu mặt nhoe nhoét máu, biết rằng nếu để huynh đệ họ Võ tóm được, thì sẽ bị đánh tệ hại hơn, thế là nó cắm cổ mà chạy, đến chân ngọn núi Thí Kiếm phong, thì cứ thế lao lên trên, càng lúc càng lên cao.

Huynh đệ họ Võ không chịu buông tha, vẫn mải miết đuổi theo. Quách Phù lên tới lưng chừng núi thì dừng lại, ngẩng đầu quan sát. Dương Quá chạy một hồi, thấy trước mặt là một cái khe rộng, không còn đường chạy tiếp. Hồi trước Hoàng Dược Sư mỗi khi nghĩ ra một chiêu thức mới, đều nhảy vọt qua cái khe này để lên đỉnh núi hiểm trở thử chiêu. Dương Quá thì làm sao có thể nhảy qua? Nó nghĩ thầm: "Ta nhảy qua cái khe này dẫu có chết, còn hơn để cho hai tên tiểu tử thối tha kia tóm được". Nó bèn quay mình lại, quát to:

– Các ngươi còn tiến lên một bước, ta sẽ nhảy qua khe vực đấy!

Võ Đôn Nhu sững lại, Võ Tu Văn nói:

– Ngươi nhảy thì nhảy, ai sợ ngươi kia chứ? Ngươi có dám nhảy không?

Nói rồi cậu tiếp tục leo lên.

Dương Quá cả giận, đang định nhảy qua khe, bỗng thấy bên cạnh có một tảng đá to gác lên mấy hòn đá khác nhỏ hơn, trông hơi chênh vênh. Trong cơn cuồng nộ, nó đâu còn nghĩ gì đến hậu quả, bèn giơ tay vần một hòn đá nhỏ bên dưới; tảng đá to bên trên quả nhiên hơi lay động. Nó liền ra phía sau tảng đá, dùng hai tay đẩy thật mạnh, tảng đá lăn ngay xuống sườn núi.

Huynh đệ họ Võ thấy Dương Quá đẩy tảng đá, biết là nguy hiểm, vội co mình, sẵn sàng né tránh. Tảng đá kéo theo vô số bụi đất lăn ầm ầm qua bên cạnh huynh đệ họ Võ, đè nát các bụi cây nó gặp trên đường, cuối cùng lăn ùm xuống biển. Võ Đôn Nhu hoảng quá, trượt chân một cái, lăn xuống. Võ Tu Văn vội túm lấy người ca ca; hai đứa đứng không vững, cùng lăn xuống đến sáu, bảy trượng, may gặp một thân cây lớn chắn lại, mới không lăn tiếp.

Hoàng Dung ở trong nhà, nghe tiếng động xa xa, vội chạy ra, đến chân ngọn Thí Kiếm phong, chỉ thấy bụi đất mù mịt, Quách Phù đang nấp cạnh một bụi cỏ ở lưng chừng núi, sợ không khóc nổi, huynh đệ họ Võ thì mặt mũi bê bết máu. Nàng chạy lên ôm con gái vào lòng, Quách Phù khóc òa lên một hồi, rồi mới mếu máo kể việc Dương Quá vô cớ tát nó ra sao, huynh đệ họ Võ bênh nó đánh Dương Quá thế nào, Dương Quá lăn tảng đá định đè chết huynh đệ họ Võ ra sao. Bao nhiêu lỗi nó dồn vào Dương Quá tất cả, còn việc nó giẫm chết con dế của Dương Quá và huynh đệ họ Võ đấm đá Dương Quá thì nó lờ đi không kể. Hoàng Dung nghe xong, ngẩn người một lát, thấy một bên má con gái đỏ hằn vết các ngón tay, cái tát quả không nhẹ, thì rất thương con, vội an ủi nó.

Lúc này Quách Tĩnh cũng đã chạy tới, thấy huynh đệ họ Võ sây sát cả mặt mày, hỏi nguyên do, nghe xong rất buồn. Lại lo Dương Quá gặp chuyện bất trắc, vội chạy lên đỉnh núi tìm kiếm. Nhưng tìm trước kiếm sau đều không thấy tung tích cậu bé đâu cả. Chàng cất tiếng gọi to:

– Quá nhi, Quá nhi!

Tiếng gọi vang xa mấy dặm, song thủy chung vẫn không thấy Dương Quá ló mặt ra hoặc lên tiếng trả lời. Quách Tĩnh chờ một lúc, càng thêm lo lắng, bèn về nhà chèo một chiếc thuyền đi quanh đảo tìm kiếm, đến khi trời tối cũng chẳng biết Dương Quá ở đâu.

Nguyên Dương Quá sau khi lăn tảng đá xuống, thấy huynh đệ họ Võ cũng lăn xuống dốc núi, xa xa Hoàng Dung đang chạy tới, biết phen này nó sẽ bị trách phạt, bèn nép mình trong một kẽ đá. Nó nghe rõ tiếng Quách Tĩnh gọi, nhưng không dám trả lời. Nó cứ nép trong kẽ đá, không dám động đậy, ráng chịu đói, nhìn trời và biển cùng sẫm dần, tứ phía không một tiếng người; một hồi sau trên trời có ánh sao, gió lạnh thổi. Nó ra khỏi kẽ đá, nhìn xuống bên dưới, thấy các cửa sổ nhà đều sáng đèn, thiết tưởng cảnh vợ chồng Quách Tĩnh, Kha Trấn Ác, Quách Phù cùng huynh đệ họ Võ cả thảy sáu người đang quây quần quanh bàn ăn đầy các món cá thịt, bất giác nó nuốt nước miếng mấy lần. Nó lại nghĩ, chắc mọi người đang chê trách nó, thì trong lòng ấm ức vô cùng. Nó cứ đứng đó, giữa đêm tối, trước gió biển, nghĩ cảnh cả đời mình cứ bị người ta khinh rẻ, quả là đáng oán giận.

Thực ra Quách Tĩnh tìm không thấy nó, chẳng thiết ăn uống gì. Hoàng Dung thấy phu quân buồn phiền, biết có khuyên chàng cũng chả nghe, nên nàng cũng không ăn, imlặng ngồi bên cạnh chàng. Sáng hôm sau hai người lại đi tìm.

Dương Quá bị đói nửa ngày và một đêm, sáng sớm hôm sau, nó lẻn xuống chân núi, bắt mấy con ếch bên bờ suối, lột da, vun lá khô nướng ếch mà ăn. Mấy năm lưu lạc, nó vẫn làm như thế để qua ngày. Bây giờ nó sợ Quách Tĩnh, Hoàng Dung nhìn thấy khói, nó liền chui vào nướng trong một cái hang. Nướng xong, nó dập lửa ngay, mới ăn. Nó nghe tiếng Quách Tĩnh gọi "Quá nhi", thì nghĩ thầm: "Định gọi ta về để đánh đòn, thì ta chả về đâu".

Tối hôm ấy nó ngủ trong hang. Đang mơ mơ màng màng, bỗng thấy Âu Dương Phong tiến vào, nói:

– Này con, ta đến dạy con võ công, để con khỏi bị hai thằng lỏi nhà họ Võ bắt nạt.

Dương Quá cả mừng, đi theo ra khỏi hang, thấy Âu Dương Phong ngồi xổm, miệng lẩm bẩm mấy tiếng, song chưởng đẩy ra. Dương Quá bắt chước làm theo, bỗng Âu Dương Phong vung quyền đánh tới, nó không tránh kịp, bộp một cái trúng ngay đỉnh đầu, đau quá, nó kêu tướng lên và bật dậy.

Lại cộp một cái, đầu va vào đá, nó giơ tay xoa đầu, thấy nổi cục u rất đau. Thì ra vừa nãy nó nằm mơ. Bất giác nó thở dài, nghĩ thầm: "Cha mình lúc này chắc đã khỏi, đã chui ra khỏi cái chuông. Không biết bao giờ cha mới tới đón mình, dạy võ công thật sự cho mình, để mình khỏi bị người ta ở đây bắt nạt." Nó ra khỏi hang, nhìn đường chân trời, chỉ thấy lác đác vài ngôi sao trên các ngọn cây, nhớ lại giấc mơ ban nãy, nhớ lại khẩu quyết Cáp mô công dùng cho quyền cước mà Âu Dương Phong truyền cho nó khi còn ở Gia Hưng. Nó rùn mình ngồi xuống, song chưởng đẩy ra, làm động tác giống như trong mơ, nhưng không đạt.

Nó đứng trên sườn núi, nhìn biển rộng mênh mang, vắng lặng, thấy lòng vô cùng trống trải, cô đơn; bỗng nghe văng vẳng từ biển đưa tới tiếng gọi "Quá nhi, Quá nhi". Nó liền chạy xuống chân núi, kêu lên:

– Con ở đây, con ở đây.

Nó đã tới chân núi, chạy ra bãi cát. Quách Tĩnh từ xa nhìn thấy, cả mừng, vội chèo thuyền lại gần, nhảy lên bãi cát. Dưới ánh sao, hai người chạy về phía nhau.

Quách Tĩnh ôm Dương Quá vào lòng, chỉ nói:

– Mau về ăn cơm thôi.

Chàng xúc động, lời nói có phần nghẹn ngào. Về đến nhà, Hoàng Dung dọn cơm cho Quách Tĩnh và Dương Quá ăn, mọi người không ai nhắc đến chuyện hôm kia cả.

Sáng hôm sau, Quách Tĩnh gọi Dương Quá, huynh đệ họ Võ, Quách Phù tới đại sảnh, lại mời Kha Trấn Ác đến, bảo bốn đứa trẻ khấu đầu trước linh vị Giang Nam lục quái, rồi chàng thưa với Kha Trấn Ác:

– Đại sư phụ, đệ tử xin sư phụ ân chuẩn, cùng sư phụ thu nhận bốn đồ tôn.

Kha Trấn Ác vui vẻ nói:

– Hay lắm, ta chúc mừng con.

Quách Tĩnh bảo Dương Quá, huynh đệ họ Võ khấu đầu trước Kha Trấn Ác, rồi hành lễ bái sư với vợ chồng chàng. Quách Phù cười, hỏi:

– Mẹ, con có vái không?

Hoàng Dung nói:

– Tất nhiên là có.

Quách Phù cười hì hì khấu đầu với ba người.

Quách Tĩnh nghiêm trang nói:

– Từ hôm nay trở đi, bốn các ngươi là sư huynh đệ.

Quách Phù cười, nói xen vào:

– Không, còn là sư huynh muội nữa.

Quách Tĩnh lườm con, nói:

– Ta chưa nói xong, không được nói leo.

Chàng ngừng một chút, rời tiếp:

– Từ nay trở đi các ngươi phải tương thân tương ái, có phúc cùng hưởng, gặp nạn cùng chịu. Nếu còn tranh giành đánh lộn với nhau, ta sẽ không tha.

Nói đoạn chàng nhìn Dương Quá một cái. Dương Quá nghĩ thầm: "Bá bá tất nhiên sẽ bênh con gái, từ giờ mình lờ nó đi là xong".

Kha Trấn Ác nói một vài môn qui của Giang Nam thất quái cho bốn đứa trẻ biết, đại để là không được cậy mạnh khinh người, không được lạm sát người vô tội.

Quách Tĩnh nói:

– Sở học võ công của ta rất tạp, ngoài căn cơ do Giang Nam thất hiệp truyền thụ, ta còn luyện nội công của giáo phái Toàn Chân, võ công của hai đại tông đông nam là Đào Hoa đảo và Cái Bang. Làm người không được quên gốc, hôm nay ta trước hết dạy cho các ngươi công phu độc môn của Kha đại sư tổ của các ngươi.

Chàng đang định nói khẩu quyết, Hoàng Dung thấy Dương Quá cúi đầu xuất thần, sắc mặt có vẻ gì rất lạ, trông y hệt dáng dấp Dương Khang ngày trước, thì bất giác thấy ghét, nghĩ thầm: "Phụ thân nó tuy không phải do chính tay ta giết, nhưng cũng có thể nói đã chết trong tay ta, không thể nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà để sau này nó gây đại họa". Nghĩ vậy, nàng đã có chủ định, bèn nói:

– Chàng một mình dạy cả bốn đứa, sẽ rất vất vả; Quá nhi cứ để thiếp dạy cho.

Quách Tĩnh chưa trả lời, Kha Trấn Ác đã vỗ tay cười, nói:

– Thế thì hay lắm! Như vậy sẽ có thể so sánh xem đệ tử của ai giỏi hơn.

Quách Tĩnh trong bụng cũng mừng, chàng biết nàng thông minh gấp trăm lần chàng, cách dạy chắc sẽ hay hơn, nên cũng vui vẻ bằng lòng.

Quách Phù sợ cha nghiêm khắc, nói:

– Mẹ, con cũng muốn mẹ dạy cơ.

Hoàng Dung cười, nói:

– Con quen làm nũng mẹ, như thế luyện võ không xong, phải để cha con dạy mới được.

Quách Phù nhìn trộm phụ thân, thấy phụ thân đang nhìn nó chằm chằm, nó vội ngoảnh đi, không dám nài nỉ thêm.

Hoàng Dung nói với phu quân:

– Hai ta định qui củ, chàng không được dạy Quá nhi, thiếp cũng không được dạy ba đứa kia. Bốn đứa cũng không được truyền thụ cho nhau, nếu không sẽ rối loạn hết cả, chỉ có hại mà thôi.

Quách Tính nói:

– Điều đó tất nhiên.

Hoàng Dung nói:

– Quá nhi, ngươi đi theo ta.

Dương Quá ghét Quách Phù và huynh đệ họ Võ, nghe Hoàng Dung bảo không cùng học võ với ba đứa kia, thì rất hợp tâm ý, bèn theo Hoàng Dung đi vào nội đường.

Hoàng Dung dẫn nó vào thư phòng, lấy trên giá sách xuống một quyển, nói:

– Sư phụ của người có bảy vị sư phụ, người ta gọi các vị đó là Giang Nam thất quái. Đại sư phụ chính là Kha công công, nhị sư phụ là Diệu thủ thư sinh Chu Thông, hiện tại ta trước hết dạy cho ngươi công phu của nhị tổ sư.

Đoạn giở quyển sách kia ra, đọc rõ: "Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?" (°)((°) Học thì theo đó mà tập, há chẳng vui sao? Có bạn từ phương xa đến, há chẳng vui sao).

Thì ra đấy là bộ Luận ngữ. Dương Quá lấy làm lạ, không dám hỏi, chỉ đọc theo và nhận mặt chữ.

Mấy ngày liền Hoàng Dung chỉ dạy nó đọc sách, trước sau hoàn toàn không nhắc gì đến võ công. Một hôm học xong, Dương Quá một mình đi ra núi dạo chơi, nghĩ đến Âu Dương Phong lúc này không biết đang ở đâu, nhớ quá bèn làm động tác trồng cây chuối. Tập động tác ấy một hồi, theo khẩu quyết Âu Dương Phong truyền thụ mà nghịch hành kinh mạch, trồng cây chuối rồi, tung người bật dậy, hét một tiếng, song chưởng đẩy ra, cảm thấy toàn thân khoan khoái dễ chịu vô cùng, mồ hôi vã ra như tắm. Nó không biết rằng chỉ một lần luyện công như thế, nội lực đã có phần tiến triển. Võ công do Âu Dương Phong sáng tạo là một môn công phu thượng thừa cực kỳ lợi hại, Dương Quá ngộ tính rất cao, tuy mới học được chút ít, nhưng cứ thế luyện tập thì nội lực cũng khá dần.

Từ đó trở đi, ngày ngày sau khi nghe Hoàng Dung dạy kinh thư, mỗi lúc nhàn rỗi, Dương Quá lại ra chỗ núi vắng luyện công. Nó vốn không định luyện thành một môn võ nghệ kinh nhân, mà chỉ vì mỗi lần luyện như thế nó đều cảm thấy toàn thân khoan khoái dễ chịu, không luyện thì nhớ.

Dương Quá lẳng lặng luyện tập, Quách Tĩnh và Hoàng Dung không hề hay biết. Hoàng Dung dạy cậu bé học chữ, chưa đầy ba tháng đã học hết quyển Luận ngữ. Dương Quá có trí nhớ lạ thường, đối với kinh nghĩa trong sách, nó không thắc mắc gì cả. Thực ra Hoàng Dung cũng không muốn dạy chữ cho nó, nàng thường nghĩ thầm: "Thằng bé này thông minh tài trí không kém gì mình, nếu nó thành một kẻ giống như cha nó, lại học võ công, thì sẽ là mối họa không nhỏ, chi bằng cho nó học văn, làm theo lời dạy của thánh hiền, may ra còn chút ích lợi". Thế là nàng cố kiên nhẫn dạy chữ, dạy hết "Luận ngữ", thì chuyển sang "Mạnh Tử".

Mấy tháng rồi mà Hoàng Dung không nhắc gì đến võ công, Dương Quá cũng không hỏi. Từ sau ngày đánh nhau với Quách Phù và huynh đệ họ Võ, nó cũng chưa lần nào cùng chơi với ba đứa kia; một mình càng ngày càng cảm thấy cô đơn, nghĩ Quách Tĩnh tuy nhận nó làm đệ tử, song không hề truyền thụ võ công cho nó. Nó vốn đã không phải là đối thủ của huynh đệ họ Võ, chờ Quách Tĩnh dạy cho hai đứa kia nửa năm, nếu có tái đấu, chắc nó sẽ bị hai đứa kia đánh chết. Nó định bụng, hễ có dịp là nó sẽ lập tức rời bỏ hòn đảo này.

Chiều hôm ấy, sau khi học mấy dòng trong sách "Mạnh Tử", Dương Quá rời thư phòng, ra bờ biển dạo chơi. Nhìn các lớp sóng bạc đầu ngoài khơi, nó thầm nghĩ không biết đến bao giờ mới thoát khỏi chốn này.

Ngắm cánh chim hải âu trắng bay lượn, nó thèm muốn được tự do như chim trời. Đang mải ngắm cảnh, nó bỗng nghe từ phía rừng đào vọng lại tiếng hô. Lòng hiếu kỳ trỗi dậy, nó lẻn tới, nấp sau một thân cây xem sao, thì ra Quách Tĩnh đang dạy quyền cước cho huynh đệ họ Võ ở một bãi trống giữa rừng. Chiêu đang dạy có tên là "Thác lương hoán trụ", một chiêu thuộc cầm nã thủ. Quách Tĩnh miệng nói, chân tay làm động tác mẫu, bảo huynh đệ họ Võ làm theo. Dương Quá chỉ nhìn một lần là nắm ngay được cái cốt lõi của chiêu thức, trong khi huynh đệ họ Võ học đi học lại vẫn không nắm được yếu lĩnh. Quách Tĩnh bản tính chất phác, biết rằng dạy và học võ có cái cam khổ của nó, không ngần ngại dạy đi dạy lại.

Dương Quá thở dài, nghĩ thầm: "Quách bá bá nếu chịu dạy ta, ta đâu có ngu xuẩn như hai đứa kia." Nó buồn bã trở về phòng nằm ngủ. Bữa tối ăn xong, đọc vài trang sách, nhưng cảm thấy chán, nó lại ra bờ biển, tập thử quyền cước do Quách Tĩnh dạy, sử chiêu kia mấy lần, cảm thấy đã thành thạo, nghĩ thầm: "Nếu ta cứ học lỏm võ công, bảo đảm huynh đệ họ Võ dẫu học được nhiều đến đâu cũng chẳng làm gì nổi ta".

Nhưng rồi nó lại nghĩ: "Quách bá bá đã không chịu dạy, hà tất ta học lỏm làm gì? Hừ, bây giờ Quách bá bá có cầu ta đi học, ta cũng chẳng thèm học. Giỏi lắm thì đánh chết người ta là cùng chứ gì?". Nghĩ tới đây, nó vừa kiêu ngạo, vừa cảm thấy chán ngán, tựa lưng vào vách đá, nghe tiếng sóng vỗ rì rào mà ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau, Dương Quá không ăn cơm, cũng không vào thư phòng đọc sách. Nó mò được mấy con hào to dưới biển, đốt lửa nướng ăn, nghĩ bụng: "Ta không ăn cơm nhà họ Quách, cũng chẳng đến nỗi chết đói". Nhìn những chiếc thuyền lớn thuyền nhỏ neo cạnh bờ, nó nghĩ thầm: "Thuyền lớn ta chèo không nổi, thuyền nhỏ thì không đi được xa, làm cách nào thoát khỏi chốn này kia chứ?". Chán ngán nửa ngày, chẳng biết làm gì, nó liền ra sau một tảng đá thực hiện động tác trồng cây chuối, luyện nội công theo cách Âu Dương Phong đã dạy.

Đang luyện tới lúc khí huyết lưu thông nhanh, toàn thân khoan khoái, đột nhiên phía sau lưng có người gọi to, Dương Quá giật mình, lập tức đảo người đứng lên, nhưng chân tay tê dại, không đứng ngay lên được. Thì ra Quách Phù và huynh đệ họ Võ đi tới. Phía sau tảng đá vốn hoàn toàn yên tĩnh, không ai bén mảng; nhưng cây cối đường đi lối lại trên Đảo Hoa đảo đều được bố trí theo sự biến đổi của Ngũ hành sinh khắc, Quách Phù và huynh đệ họ Võ không dám đi lại lung tung, chỉ quanh quẩn chơi đùa ở những chỗ quen thuộc. Vừa rồi chúng bắt gặp Dương Quá đang trong trạng thái luyện công. May mà lúc này công lực của Dương Quá rất nông cạn, nếu không, khi bị ba người cùng gọi như thế, kinh mạch sẽ tán loạn, bị tê liệt ngay tại chỗ.

Quách Phù vỗ tay cười, nói:

– Dương ca ca làm trò quỉ gì ở đây thế?

Dương Quá dựa vào vách đá, từ từ đảo người dậy, lườm cô bé một cái rồi quay người đi. Võ Tu Văn nói:

– Này, Quách sư muội hỏi ngươi, tại sao ngươi lại vô lễ lờ đi như thế?

Dương Quá lạnh lùng hỏi:

– Mi làm gì được nào?

Võ Đôn Nhu tức giận, nói:

– Chúng mình đi chơi đi, đừng trêu chọc con chó điên.

Dương Quá nói:

– Đúng đấy, chó điên thấy người là cắn; người ta đang yên lành ở đây, ba con chó điên tự dưng kéo đến sủa loạn cả lên.

Võ Đôn Nhu tức giận hỏi:

– Ngươi bảo ba con chó điên hả? Ngươi chửi bọn ta hả?

Dương Quá cười khẩy:

– Ta chỉ chửi chó, không chửi người.

Võ Đôn Nhu tức quá, nhào tới đấm một quyền, Dương Quá tránh được. Võ Tu Văn nhớ lời sư phụ từng răn, sư huynh sư muội không được đánh nhau; vội kéo tay huynh trưởng lại, nói với Dương Quá:

– Dương đại ca, đại ca học võ công của sư nương, ba chúng tôi học võ công của sư phụ; mấy tháng nay chưa biết ai tiến nhanh. Bọn ta hãy thử vài chiêu, đại ca có dám hay không?

Dương Quá định nói "Ta không may mắn như các người, sư nương không hề dạy võ cho ta". Nhưng vừa nghe câu "đại ca có dám hay không?" bằng một giọng đầy vẻ khinh miệt, thì không nói câu kia nữa, hừ một tiếng, lạnh lùng liếc xéo Võ Tu Văn. Võ Tu Văn nói:

– Chúng mình đấu thử vài chiêu, bất kể ai thắng ai thua, cũng không được mách với sư phụ, sư nương; nếu có bị vỡ đầu, cũng phải nói là do mình bị ngã. Ai thua thì phải cúi đầu tự nhận mình là đồ chó; đồ ngu. Dương đại ca, đại ca có dám hay không?

Câu "đại ca có dám hay không?" vừa dứt, trước mắt tối sầm, Võ Tu Văn đã bị Dương Quá đấm một quả rất mạnh vào mắt trái, lảo đảo suýt ngã. Võ Đôn Nhu cả giận, nói:

– Ngươi tự dưng đánh vào mặt người khác như thế à?

Rồi lập tức thi triển quyền pháp do Quách Tĩnh dạy, đấm một quyền vào vùng thắt lưng Dương Quá.

Dương Quá không biết cách tránh, bị trúng đòn. Nó thấy Võ Đôn Nhu lại tung cước đá tới, thì chợt nhớ đến chiêu thức hôm qua Quách Tĩnh truyền thụ cho huynh đệ họ Võ, liền rùn chân phải, tay trái đẩy vào bắp chân phải của đối phương đang đá tới, chính là chiêu "Thác lương hoán trụ" trong cầm nã thủ pháp, tuy không phải là thứ võ công tinh thâm gì, nhưng khi lâm địch rất có tác dụng. Hôm qua Quách Tĩnh đã dạy cho huynh đệ họ Võ, chúng học rồi, nhưng khi vận dụng thì không linh hoạt khôn khéo bằng Dương Quá học lỏm. Võ Đôn Nhu bị cú đẩy ấy mà ngã bắn ra xa.

Võ Tu Văn bị trúng quyền vào mắt, vốn giận lắm, lại thấy huynh trưởng bị ngã, liền xông lại, quyền trái vung lên, Dương Quá tránh sang trái, không biết rằng trong quyền thuật cận chiến, chiêu số tiên hư hậu thực, quyền phải của Võ Tu Văn mới là đòn thực, chỉ nghe hự một tiếng, gò má bên phải của Dương Quá trúng một quả đấm mạnh. Võ Đôn Nhu bò dậy, cũng xông tới. Huynh đệ họ Võ ra đòn có bài bản, mấy tháng qua đã được Quách Tĩnh chỉ bảo, Dương Quá làm sao địch nổi? Thoáng chốc nó đã bị trúng bảy, tám đòn quyền cước vào đầu, vào mặt, vào lưng. Nó nổi khùng, nghĩ thầm: "Cho các ngươi đánh chết ta, ta cũng không bỏ chạy". Hai tay nó đấm ra loạn xạ, không theo bài bản nào hết.

Võ Tu Văn thấy Dương Quá nghiến răng liều mạng, thì hơi hoảng, nhưng đang chiếm thượng phong, không muốn đấu thêm, bèn nói:

– Ca ca thua rồi, chúng tôi tha cho ca ca, không đấu nữa.

Dương Quá nói:

– Ai cần ngươi tha?

Rồi sấn tới đấm vào mặt Võ Tu Văn. Võ Tu Văn tay trái gạt ra, tay phải túm lấy ngực áo kéo mạnh một cái, đúng lúc ấy Võ Đôn Nhu đấm mạnh vào phía sau lưng Dương Quá, Dương Quá lập tức ngã sấp xuống. Võ Đôn Nhu hai tay túm tóc, đè đầu Dương Quá, hỏi:

– Ngươi chịu thua hay chưa?

Dương Quá tức giận nói:

– Ai chịu thua con chó điên là mi?

Võ Đôn Nhu giúi mặt Dương Quá xuống cát, nói:

– Ngươi không chịu thua, thì cho ngươi chết ngạt này.

Dương Quá mắt mũi miệng toàn cát là cát, không thở được, trong giây lát toàn thân như muốn nổ tung.

Võ Đôn Nhu hai tay đè đầu nó, Võ Tu Văn thì cưỡi sau gáy nó, Dương Quá vùng vẫy không thoát, đúng lúc tức thở hết chịu nổi, bỗng nội lực mà thời gian vừa qua nó luyện theo kiểu của Âu Dương Phong trỗi dậy, nó cảm thấy một luống khí ấm từ đan điền dâng lên, toàn thân đột nhiên tràn trề tinh lực, nó bật ngay dậy, mở mắt ra, song chưởng cùng đánh tới.

Đòn này trúng ngay vào bụng dưới của Võ Tu Văn. Võ Tu Văn kêu ối, ngã ngửa ra, ngất đi liền. Chưởng lực này là tuyệt kỹ Cáp mô công của Âu Dương Phong, uy lực dĩ nhiên không sánh được với thần công của Âu Dương Phong, Dương Quá vận dụng cũng chưa thạo, nhưng nó tự phát đánh ra trong lúc nguy khốn, Võ Tu Văn không tài gì chịu nổi.

Võ Đôn Nhu chạy lại, thấy huynh đệ nằm thẳng cẳng bất động, hai mắt trắng dã, tưởng là Võ Tu Văn đã bị Dương Quá đánh chết, thì cả kinh vừa khóc vừa kêu to:

– Sư phụ, sư phụ, đệ đệ của con chết rồi, đệ đệ của con chết rồi!

Nó chạy về gọi Quách Tĩnh. Quách Phù sợ quá, cũng chạy theo.

Dương Quá nhổ cát ra khỏi miệng, chùi cát trên mặt, cảm thấy toàn thân rã rời, cử động khó khăn vô cùng. Nó nhìn Võ Tu Văn nằm thẳng cẳng bất động, lại nghe Võ Đôn Nhu kêu to đệ đệ của con chết rồi, thì nó hoảng hốt, chẳng hiểu xảy ra chuyện gì, chỉ biết là rắc rối to, nhưng không còn sức để chạy trốn.

Chẳng mấy chốc đã thấy Quách Tĩnh, Hoàng Dung chạy như bay tới. Quách Tĩnh ôm Võ Tu Văn lên, xoa bóp vùng ngực bụng cho nó. Hoàng Dung tới bên cạnh Dương Quá, hỏi:

– Âu Dương Phong ở đâu, hắn đang ở đâu?

Dương Quá lẳng lặng không trả lời.

Hoàng Dung hỏi:

– Môn "Cáp mô công" ấy, hắn dạy cho ngươi khi nào?

Dương Quá nửa như nghe thấy, nửa như không; ánh mắt thất thần nhìn phía trước, miệng mím chặt, sợ nói ra. Hoàng Dung thấy nó như thế, thì túm hai cánh tay nó, giục giã:

– Nói mau! Âu Dương Phong ở đâu?

Dương Quá trước sau vẫn im lặng.

Lát sau, Võ Tu Văn được Quách Tĩnh xoa bóp đã tỉnh lại, tiếp đó Kha Trấn Ác cùng với Quách Phù cũng chạy đến. Kha Trấn Ác nghe Quách Phù kể Dương Quá trồng cây chuối, lại đánh chết Võ Tu Văn, nghĩ bụng tên tiểu tử ấy là truyền nhân của Âu Dương Phong, thì oán hận trào sôi trong lòng, nghe Hoàng Dung hỏi dồn Âu Dương Phong ở đâu mà Dương Quá không thèm nói, lão liền bước tới, giơ cao cây thiết trượng, gằn giọng quát hỏi:

– Tên gian tặc Âu Dương Phong đang ở đâu? Ngươi không nói, ta đập chết ngươi!

Dương Quá lúc này đã bất cần, nó nói to:

– Người ấy không phải là gian tặc, người ấy rất tốt. Lão muốn đập chết thì cứ việc, đây chẳng nói đâu.

Kha Trấn Ác cả giận, vụt cây trượng xuống. Quách Tĩnh kêu to:

– Đại sư phụ, đừng..

Chỉ nghe "Bộp" một tiếng, thiết trượng sượt qua đầu Dương Quá, cắm xuống cát. Nguyên Kha Trấn Ác nghĩ đánh chết thằng bé không ổn, nên đập chệch đi.

– Ngươi nhất định không chịu nói hả?

Dương Quá nói to:

– Lão có giỏi thì cứ việc đánh chết ta, ta sợ gì lão mù kia chứ.

Quách Tĩnh xông tới, giáng cho nó một cái tát:

– Ngươi dám hỗn xược với sư tổ gia gia hả?

Dương Quá cũng chẳng buồn khóc, chỉ lạnh lùng nói:

– Các người cũng khỏi cần động thủ, muốn lấy mạng ta, thì ta chết cho xong.

Nói xong nó chạy xuống biển.

Quách Tĩnh quát:

– Quá nhi quay lại!

Dương Quá chạy nhanh hơn. Quách Tĩnh định vọt tới kéo lại, Hoàng Dung nói nhỏ:

– Hãy khoan?

Quách Tĩnh dừng bước, thấy Dương Quá đã lội xuống biển, sắp chìm trong sóng nước, thì hoảng hốt nói:

– Nó không biết bơi, Dung nhi, chúng ta hãy xuống cứu nó lên!

Hoàng Dung nói:

– Không chết được, đừng có vội.

Một lát vẫn không thấy Dương Quá trồi lên, nàng thầm thán phục ngạo khí của thằng bé, liền lao xuống biển. Nàng giỏi bơi lội, đối với nàng, việc cứu một người sắp chết đuối gần bờ dễ như trở bàn tay. Nàng đưa Dương Quá lên bờ, dốc nước biển ra khỏi bụng nó. Thằng bé từ từ tỉnh lại.

Quách Tĩnh nhìn sư phụ, nhìn nàng, hỏi:

– Làm thế nào bây giờ?

Hoàng Dung nói:

– Món này nó học từ trước khi ra đảo. Nếu Âu Dương Phong ra đây, chúng ta nhất định phải biết chứ.

Quách Tĩnh gật đầu. Hoàng Dung hỏi:

– Tu Văn thế nào rồi?

Quách Tĩnh nói:

– Chỉ e phải tĩnh dưỡng một, hai tháng.

Kha Trấn Ác nói:

– Ngày mai ta trở lại Gia Hưng.

Hai vợ chồng Quách Tĩnh nhìn nhau, tự hiểu ý định của sư phụ nhất quyết không sống cùng một chỗ với truyền nhân của Âu Dương Phong. Hoàng Dung nói:

– Đại sư phụ, nơi đây là nhà của sư phụ, sư phụ hà tất phải nhường cho tên tiểu tử này?

Tối hôm ấy, Quách Tĩnh gọi Dương Quá vào buồng, nói:

– Quá nhi, chuyện qua rồi, mọi ngươi không nhắc đến nữa. Ngươi vô lễ với sư tổ gia gia, không thể làm môn hạ của ta được nữa, từ nay ngươi chỉ được gọi ta là Quách bá bá. Quách bá bá của ngươi không biết cách dạy, chỉ sợ làm cho ngươi hư hỏng. Vài hôm nữa ta sẽ đưa ngươi đến cung Trùng Dương ở núi Chung Nam, xin Trường Xuân Tử Khưu Chân Nhân của giáo phái Toàn Chân thu nhận ngươi làm môn hạ. Võ công phái Toàn Chân là võ học chính tông, ngươi sẽ ở cung Trùng Dương tu tâm dưỡng tính, mong sao sau này trở thành một chính nhân quân tử.

Dương Quá đáp:

– Vâng, Quách bá bá!

Vậy là nó đã đổi cách xưng hô, không còn nhận Quách Tĩnh làm sư phụ nữa.

Hôm nay Quách Tĩnh dậy sớm, từ biệt đại sư phụ, ái thê, nữ nhi, huynh đệ họ Võ, dẫn Dương Quá đáp thuyền đến Chiết Giang, lên bờ. Chàng mua hai con ngựa, cùng Dương Quá ngày đi đêm nghỉ, thẳng lên hướng bắc. Dương Quá chưa cưỡi ngựa bao giờ, nhưng nó có chút nội công, tập vài bữa là quen. Nó trẻ người nên hiếu kỳ, thường thường phóng ngựa chạy trước Quách Tĩnh.

Ít ngày sau, hai người qua Hoàng Hà, đến Thiểm Tây. Bấy giờ nước Đại Kim đã bị Mông Cổ tiêu diệt, từ sông Hoàng Hà trở lên hoàn toàn là thiên hạ của ngươi Mông Cổ. Thời niên thiếu, Quách Tĩnh từng là đại tướng trong quân đội Mông Cổ chàng chỉ sợ gặp lại thuộc hạ cũ của quân đội Mông Cổ sẽ rất rắc rối, bèn đổi hai con ngựa lấy hai con lừa gầy xấu xí, mặc bộ quần áo rách rưới, giả làm một Hán tử thường dân. Dương Quá cũng mặc áo vải thô, đầu quấn một cái khăn xanh, cưỡi con lừa gầy, vừa xấu xí vừa đi chậm, nên suốt ngày cậu bé cứ càu nhàu với con vật.

Hôm nay tới Phàn Châu, đã là địa hạt núi Chung Nam. Vị đại tướng khai quốc Phàn Khoái thời Hán sơ từng lập ấp ở đây, nên gọi là Phàn Châu. Dọc đường đồi núi trập trùng, tùng bách tươi tốt, xen lẫn ruộng nước, rất giống cảnh sắc ở Giang Nam.

Dương Quá từ hôm rời Đào Hoa đảo, lòng buồn rười rượi, không lần nào nhắc đến chuyện trên đảo, lúc này đột nhiên nó nói:

– Quách bá bá, vùng này rất giống phong cảnh Đào Hoa đảo của chúng ta.

Quách Tĩnh nghe nó nói "Đào Hoa đảo của chúng ta" thì cảm động, nói:

– Quá nhi, từ đây tới núi Chung Nam không bao xa. Ngươi chịu khó học nghệ vài năm, ta sẽ tới đón ngươi về Đào Hoa đảo.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Suốt đời điệt nhi sẽ không bao giờ trở lại đó nữa.

Quách Tĩnh không ngờ thằng bé còn ít tuổi mà lại nói những lời quyết tuyệt như thế, thì ngẩn ra, nhất thời chưa biết nói sao, một lát mới hỏi:

– Ngươi giận Quách bá mẫu lắm ư?

Dương Quá đáp:

– Điệt nhi đâu dám? Quách bá mẫu giận điệt nhi thì có.

Quách Tĩnh thấy nó nói đúng, cũng không tiện nói thêm.

Hai người đi lên một cao nguyên. Giữa trưa thì tới một tòa miếu ở trên đỉnh. Quách Tĩnh thấy cổng miếu đề ngang ba chữ lớn "Phổ Quang tự", bèn xuống lừa, buộc vào một gốc thông ở bên ngoài, vào trong miếu xin cơm chay. Trong miếu có bảy, tám tăng nhân, thấy Quách Tĩnh ăn mặc lam lũ, thì họ tỏ ra hết sức lạnh nhạt, lấy bảy, tám cái bánh bao đưa cho hai người ăn.

Quách Tĩnh và Dương Quá ngồi trên ghế đá dưới gốc thông ăn bánh, ngoảnh đầu, bỗng thấy sau gốc thông có một tấm bia đá, bị cỏ cao che khuất, lộ ra hai chữ "Trường Xuân". Quách Tĩnh chợt động tâm, bước tới vạch cỏ xem, thấy tấm bia có khắc một bài thơ của Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ. Thơ viết:

Trời xanh hỡi mau nhìn cõi thế

Cớ sao không cứu tế muôn người

Ngày đêm máu chảy đầu rơi

Nín hơi nuốt tiếng chết đời vô danh

Ngửa mặt khóc trời xanh chẳng biết

Tạo nhân gian kể xiết công lao

Bình yên bỗng dậy ba đào

Nhìn dân chém giết làm sao cho đành?

Quách Tĩnh thấy bài thơ này, nhớ lại bao chuyện cũ trên đại sa mạc Mông Cổ hơn mười năm trước, cứ sờ tấm bia mà ngây người im lặng, nghĩ sắp được gặp lại Khưu Xứ Cơ thì thầm vui trong lòng.

Dương Quá hỏi:

– Quách bá bá, tấm bia viết cái gì vậy?

Quách Tĩnh nói:

– Đây là một bài thơ của Khưu tổ sư. Lão nhân gia thấy người đời đa tai đa nạn, thì vô cùng đau lòng.

Chàng giải thích hàm nghĩa các câu thơ, rồi nói:

– Khưu Chân Nhân võ công dĩ nhiên trác tuyệt, song tấm lòng thương dân của Người càng làm cho người ta khâm phục. Phụ thân ngươi hồi trước từng là đệ tử đắc ý của Khưu tổ sư. Khưu tổ sư nghĩ đến phụ thân ngươi, nhất định sẽ đối tốt với ngươi. Ngươi hãy chịu khó học nghệ, tương lai tất có đại thành.

Dương Quá nói:

– Quách bá bá, điệt nhi muốn thỉnh vấn Quách bá bá một chuyện.

Quách Tĩnh nói:

– Ngươi muốn hỏi chuyện gì?

Dương Quá nói:

– Phụ thân của điệt nhi chết như thế nào?

Quách Tĩnh mặt biến sắc, nhớ đến sự việc ở miếu Thiết Thương, vùng Gia Hưng, người hơi run, rầu rĩ không nói.

Dương Quá hỏi:

– Kẻ nào giết phụ thân của điệt nhi vậy?

Quách Tĩnh không trả lời.

Dương Quá nhớ mỗi lần nó hỏi mẹ nó vì sao cha chết, sắc mặt mẹ nó đều rất lạ, cứ né tránh không trả lời. Nó cảm thấy Quách Tĩnh tuy đối với nó rất thân ái, nhưng Hoàng Dung thì lại tỏ ý khó chịu; nó còn ít tuổi thật, song cũng cảm thấy bên trong tất có ẩn tình, bây giờ không nín được, bèn nói to:

– Phụ thân của điệt nhi là do Quách bá bá và Quách bá mẫu giết hại phải không?

Quách Tĩnh cả giận, vỗ tay xuống tấm bia đá, gằn giọng:

– Ai dạy ngươi nói năng hồ đồ như vậy?

Trong cơn thịnh nộ, cái vỗ tay của chàng khiến tấm bia đá lung lay chao đảo. Dương Quá thấy chàng quá giận, vội cúi đầu, nói:

– Điệt nhi biết lỗi rồi, từ nay không dám nói năng hồ đồ nữa, xin Quách bá bá đừng giận.

Quách Tĩnh vốn yêu thương nó, nghe nó nhận lỗi thì nguôi giận ngay, đang định an ủi nó vài câu, bỗng nghe phía sau có tiếng "ôi" đầy vẻ kinh ngạc. Chàng ngoảnh đầu lại, thấy hai trung niên đạo sĩ đứng ở cửa miếu, nhìn chàng chằm chằm rất khó chịu. Cái vỗ của chàng vào tấm bia đá hẳn đã làm cho hai đạo sĩ chú ý.

Hai đạo sĩ nhìn nhau, rồi đi ra khỏi miếu. Quách Tĩnh thấy bước đi của họ lất nhẹ, rõ ràng là họ có võ công, nghĩ bụng chỗ này cách núi Chung Nam không xa, hai đạo sĩ kia chắc là người của cung Trùng Dương. Hai vị đó trạc tứ tuần, rất có thể là đệ tử của Toàn Chân Thất Tử. Từ khi về ẩn cư tại Đào Hoa đảo, chàng không có liên lạc tin tức gì với nhóm Mã Ngọc, nên không quen biết các đệ tử môn hạ của phái Toàn Chân, chỉ biết mấy năm gần đây, các vị như Hưng Vượng, Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất của phái Toàn Chân đều thu nhận không ít đệ tử, danh tiếng trong giới võ lâm ngày càng lẫy lừng; họ thường hành hiệp trượng nghĩa, cứu nguy giải khốn, làm biết bao điều tốt, bất luận là ai hễ nghe nhắc đến phái Toàn Chân đều hết sức kính nể. Chàng nghĩ mình lên núi bái kiến Khưu Xứ Cơ chính là đồng hành với hai vị đạo sĩ kia.

Chàng bèn rảo bước ra cổng miếu, thấy hai đạo sĩ đã cách xa hơn mười trượng, chốc chốc lại ngoái đầu lại. Quách Tĩnh gọi:

– Xin nhị vị đạo huynh dừng chân, tại hạ có lời thỉnh vấn.

Tiếng chàng vang như sấm, xa gần đều nghe rõ; hai đạo sĩ đã không dừng chân, lại còn rảo bước thêm. Quách Tĩnh ngạc nhiên nghĩ thầm: "Không lẽ họ điếc?". Chàng hơi sử kình xuống chân, vài lần khởi lạc đã vọt tới ngang tầm, rồi vượt qua họ, xoay người lại, nói:

– Xin chào nhị vị đạo huynh.

Hai đạo sĩ thấy thân pháp của chàng thần tốc như thế thì lộ vẻ kinh hoàng, thấy chàng cúi mình hành lễ, lại ngỡ chàng vận nội công để ám toán, vội tránh ra hai bên, cùng hỏi:

– Các hạ muốn gì?

Quách Tĩnh nói:

– Nhị vị có phải là đạo huynh của cung Trùng Dương núi Chung Nam hay chăng?

Đạo sĩ gầy gò cau mặt, nói:

– Vậy thì sao?

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ là người quen cũ của Trường Xuân Chân Nhân Khưu đạo trưởng, muốn lên núi bái kiến Khưu đạo trưởng, phiền hai vị chỉ đường.

Đạo sĩ tướng ngũ đoản cười khẩy, nói:

– Có giỏi thì tự đi lấy!

Đột nhiên xuất chưởng cực nhanh. Quách Tĩnh đành tránh sang bên phải. Nào ngờ vị đạo sĩ gầy gò đã quen luyện võ hợp kích đạo sĩ ngũ đoản, lập tức xuất chưởng từ mé phải đánh sang bên trái, dồn Quách Tĩnh vào giữa. Hai chiêu này gọi là "Đại quan môn thức", là chiêu số cao minh của phái Toàn Chân, Quách Tĩnh lẽ nào không biết? Chàng thấy hai đạo sĩ chẳng hỏi nguyên do, tự dưng xuất chiêu rất nặng tay đả thương người khác, thì không khỏi ngạc nhiên, chưa hiểu vì sao họ lại nhầm lẫn như vậy, bèn không hóa giải, cũng chẳng né tránh, chỉ nghe "bình bình" hai tiếng, song chưởng của hai đạo sĩ đều đánh vào mạng mỡ chàng.

Quách Tĩnh trúng hai chưởng đó, đã biết võ công của họ như thế nào; chàng nghĩ, luận về công lực, hai người này quả là đệ tử của Toàn Chân thất tử, coi như cùng vai vế với chàng. Khi chịu đòn của hai đạo sĩ, chàng đã vận nội lực chống đỡ, vừa vặn để mình không bị tổn thương, mà đối phương cũng không bị đau đớn bởi lực phản kích.

Hai đạo sĩ khổ luyện mười năm tuyệt chiêu vừa rồi, vậy mà đánh vào người đối thủ lại như đấm bị bông, thì kinh ngạc quá đỗi, liền cùng hét to, cùng nhảy lên, tung cước đá mạnh vào ngực Quách Tĩnh. Quách Tĩnh lấy làm lạ, nghĩ thầm: "Đệ tử phái Toàn Chân đều là người có đạo, đối xử thân thiện với người khác, tại sao tự dưng chẳng hỏi duyên cớ gì lại đánh người thế này?" Thấy hai đạo sĩ sử dụng cước pháp "Uyên ương liên hoàn thoái", chàng cũng chẳng đếm xỉa gì, chỉ nghe mấy tiếng bình bịch, bồm bộp, ngực chàng liên tiếp trúng các cú đá.

Hai đạo sĩ mỗi vị đá liền mấy cái, các đầu ngón chân như đá vào bao cát, mềm mềm dễ chịu; thấy kẻ bị đòn thần định khí nhàn, nhơn nhơn như không, thì càng sửng sốt hơn lần trước, nghĩ thầm: "Tên tặc tử này sao lại giỏi đến thế? Các sư phụ, sư bá của ta cũng không có được công phu như hắn. Họ nhìn kỹ, thấy chàng mày rậm mắt to, thần tình chất phác, y phục vải thô, chẳng khác gì một nông phu, không chút dị dạng, thì bất giác cả hai đứng ngẩn ra, không nói nên lời.

Dương Quá thấy hai đạo sĩ hết đấm lại đá Quách Tĩnh, Quách Tĩnh không hề trả đòn, thì nó tức giận bước tới quát:

– Hai lão đạo sĩ thối tha, tại sao lại đánh bá bá của ta?

Quách Tĩnh vội ngăn lại, nói:

– Quá nhi, không được thế, mau lại bái kiến hai vị đạo trưởng.

Dương Quá ngạc nhiên, nghĩ thầm:" Quách bá bá sao lại phải sợ họ thế nhỉ? ".

Hai đạo sĩ nhìn nhau, soạt soạt hai tiếng, cùng rút kiếm ra. Đạo sĩ lùn sử chiêu" Thám hải đồ long "đâm tới hạ bàn Quách Tĩnh, đạo sĩ gầy thì sử chiêu" Canh phong tảo diệp "chém vào đùi phải của Dương Quá.

Với nhát kiếm của lão lùn đâm mình, Quách Tĩnh hoàn toàn không chú ý, nhưng thấy đòn của đạo sĩ gầy hiểm ác, thì chàng bực bội nghĩ bụng:" Thằng bé này vô oán vô cừu với các người, tại sao lại nỡ dùng độc thủ, định chém đứt chân nó ư? ". Chàng bèn hơi nghiêng người, dùng cạnh bàn tay trái đánh nhẹ vào cán kiếm đạo sĩ lùn," Thuận thủy thôi chu "hẩy khẽ sang bên trái. Lưỡi kiếm của đạo sĩ lùn tự dưng đưa sang đụng vào kiếm của đạo sĩ gầy, nghe keng một tiếng. Tuyệt kỹ lấy địch đánh địch của Quách Tĩnh vốn biến hóa từ công phu tay không đấu với đao kiếm mà ra, đừng nói địch thủ có hai người, dẫu có đến chín mười người cùng tán công, chàng cũng thừa sức lấy đao kẻ này đánh kiếm kẻ kia, lấy giáo kẻ này đánh roi kẻ kia, lấy địch đánh địch, lấy ít thắng nhiều.

Hai đạo sĩ cảm thấy cổ tay tê tê, hổ khẩu đau nhức, liền nhảy ra hai bên, tức giận nhìn chàng, vừa kinh hãi vừa thán phục, lại hè nhau vung kiếm đánh tới.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:" Công phu căn cơ "Thiên Cang Bắc Đẩu trận" sơ luyện của hai người tuy là kiếm pháp thượng thừa, nhưng chỉ có hai người, kiếm thuật lại chưa luyện đến nơi đến chốn, phỏng có ích gì? ". Chàng sợ Dương Quá bị mũi kiếm của hai đạo sĩ đụng tới, bèn né tránh song kiếm, giơ tay phải ôm lấy Dương Quá, nói:

– Tại hạ là người quen của Khưu Chân Nhân, hai vị hà tất đùa dai.

Đạo sĩ gầy nói:

– Ngươi có mạo nhận là người quen của Mã Chân Nhân cũng vô ích.

Quách Tĩnh nói:

– Mã Chân Nhân quả thực cũng từng truyền thụ võ công cho tại hạ.

Đạo sĩ lùn tức giận nói:

– Tên tặc tử nói nhăng nói cuội, không chừng Trùng Dương tổ sư của bọn ta cũng từng dạy võ công cho ngươi.

Đoạn đâm kiếm tới giữa ngực chàng.

Quách Tĩnh thấy hai đạo sĩ hiển nhiên là môn hạ của phái Toàn Chân, song lại coi chàng như kẻ thù, thật là không hiểu gì hết. Tình nghĩa giữa chàng với Toàn Chân Thất Tử chẳng phải tầm thường, lại nghĩ Dương Quá phải đến cung Trùng Dương học nghệ, không thể đắc tội với đạo sĩ trong cung, nên chỉ né tránh chứ không đánh lại.

Hai đạo sĩ vừa ngạc nhiên vừa lo sợ, sớm biết đối phương võ công cao hơn hẳn họ, khó lòng chế ngự; hai người ra hiệu cho nhau, bỗng nhiên kiếm pháp biến ảo, cứ nhắm trước ngực, sau lưng Dương Quá mà đánh tới, toàn là các chiêu số hiểm độc trí mạng. Quách Tĩnh thấy các chiêu kiếm hiểm độc, không lưu chút dư địa, toàn nhắm tới thằng bé, thì không thể không tức giận, thấy đường kiếm của đạo sĩ lùn đâm mạnh tới, liền giơ hai ngón trỏ và giữa của tay phải kẹp lấy lưỡi kiếm, cổ tay hơi xoay vào trong một chút, cùi chỏ thúc tới sống mũi đối phương. Đạo sĩ lùn cố giằng kiếm lại không được, thấy cùi chỏ của chàng thúc tới, nếu trúng mặt thì không chết cũng bị thương, đành buông kiếm nhảy lùi.

Lúc này võ công của Quách Tĩnh đúng là muốn sao được vậy, bất kể giơ tay vung chân thế nào cũng đạt. Hai ngón tay phải của chàng hơi trầm, thanh kiếm kia đã chúi mũi xuống, hất cán lên trên; đúng lục đạo sĩ gầy chém xuống gáy Dương Quá," keng "một tiếng, trúng vào cán kiếm hất lên. Đạo sĩ gầy bị chấn động toàn thân, cánh tay phải tê dại, cũng đành buông kiếm, nhảy sang bên cạnh. Cả hai cùng kêu:

– Dâm tặc lợi hại, đi thôi?

Rồi quay người bỏ chạy.

Quách Tĩnh trong đời từng bị chửi không ít, nào là đồ ngu, thằng ngốc; cũng có khi là xú tặc, tên tiểu tử thối tha; nhưng hai chữ dâm tặc thì đây là lần đầu tiên bị người ta chửi vào mặt. Chàng vẫn ôm Dương Quá, đuổi tới sau lưng hai đạo sĩ thì nhún chân phải một cái, vọt qua đầu họ, chân vừa chạm đất liền quay mình quát:

– Các người chửi ta là gì?

Đạo sĩ lùn kinh hãi, nhưng vẫn nói cứng:

– Ngươi không vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long, thì lên núi Chung Nam làm gì?

Y nói xong, sợ Quách Tĩnh động thủ, vội lùi lại ba bước.

Quách Tĩnh ngẩn người, nghĩ thầm:" Ta mà vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long ư? Thiếu nữ họ Long là ai? Vì sao ta phải vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long? Ta đã có Dung nhi, cần gì phải lấy ai khác? ". Nhất thời chàng chưa nghĩ ra. Hai gã đạo sĩ thấy chàng đứng sững ra đó, vội lách qua một bên, chạy lên núi.

Dương Quá thấy Quách Tĩnh xuất thần, khẽ níu:

– Quách bá bá, hai đạo sĩ đi rồi.

Quách Tĩnh như kẻ tỉnh mộng, nói:

– Ừ, họ bảo ta vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long, người ấy là ai thế?

Dương Quá nói:

– Điệt nhi cũng không biết, hai đạo sĩ kia không phân biệt phải trái trắng đen, chưa chi đã động thủ, hẳn là họ nhận lầm người.

Quách Tĩnh muốn cười chẳng xong, nói:

– Chắc thế, sao ta nghĩ không ra nhỉ? Ta đi thôi!

Dương Quá nhặt hai thanh kiếm hai đạo sĩ bỏ lại.

Quách Tĩnh nhìn cán kiếm, thấy khắc rõ ba chữ" Cung Trùng Dương ". Hai người đi lên núi, đi hơn một canh giờ, đã qua Kim Liên các, đường từ đây lên hiểm trở, khuất khúc hơn, nhiều mỏm đá cheo leo. Qua Nhật Nguyệt nham thì trời sẩm tối, đến Bão tử nham thì trăng non xuất hiện ở chân trời. Mái đá này trông thật kỳ dị, hình thù giống như một người mẹ ôm con. Hai người nghỉ một lát, Quách Tĩnh hỏi:

– Quá nhi, mệt chưa?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Thưa chưa.

Quách Tĩnh nói:

– Tốt, thế thì ta đi tiếp.

Lại đi một hồi, thấy đằng trước có một khối đá lớn chắn đường, hình thù âm u đáng sợ, từ trên cao chĩa xuống như một bà lão còng nghiêng ngó. Dương Quá hơi sợ; bỗng nghe sau tảng đá có tiếng động, rồi bốn đạo sĩ nhảy ra, tay người nào cũng lăm lăm trường kiếm, lẳng lặng chặn đường.

Quách Tĩnh bước lên hành lễ, nói:

– Tại hạ là Quách Tĩnh ở Đào Hoa đảo, lên núi bái kiến Khưu Chân Nhân.

Một đạo sĩ dáng cao bước tới, cười nhạt, nói:

– Quách đại hiệp lừng danh thiên hạ, là lệnh tế (con rể) của Hoàng lão tiền bối ở Đào Hoa đảo, há trơ tráo như ngươi? Mau mau xuống núi cho rồi.

Quách Tĩnh nghĩ thầm:" Ta làm gì mà bảo ta trơ tráo? "Nhưng cố nén bực, nói:

– Tại hạ quả là Quách Tĩnh, xin các vị dẫn kiến Khưu Chân Nhân sẽ rõ.

Đạo sĩ cao quát to:

– Ngươi lên núi Chung Nam định trổ tài, đúng là chán sống mất rồi. Không để cho ngươi thấy đôi chút lợi hại, ngươi lại ngỡ cung Trùng Dương toàn là những kẻ vô dụng.

Câu này rõ ràng ngụ ý chê trách hai đạo sĩ lùn và gầy. Lời chưa dứt, đã xông tới sử chiêu" Phân hoa phất liễu "đâm kiếm vào sườn Quách Tĩnh. Quách Tĩnh lấy làm lạ, nghĩ thầm:" Mười năm ta không hành tẩu giang hồ, mọi qui củ trên đời đã thay đổi cả rồi sao? "Bèn né mình tránh, định nói, thì ba đạo sĩ còn lại cùng vung kiếm dồn chàng và Dương Quá vào giữa. Quách Tĩnh nói:

– Bốn vị muốn tại hạ phải làm thế nào mới tin tại hạ đúng là Quách Tĩnh?

Đạo sĩ cao quát:

– Trừ phi ngươi đoạt được kiếm của ta.

Nói đoạn lại đâm một kiếm thẳng tới ngực chàng, đường kiếm khinh linh, không mạnh không cứng như đơn đao, mà vô cùng linh hoạt.

Quách Tĩnh hơi bực, nghĩ thầm:" Đoạt được kiếm của ngươi thì khó gì? ", thấy mũi kiếm đâm tới, bèn bật ngón trỏ vào ngón cái mà búng ra," coong "một tiếng, đạo sĩ cao không giữ nổi thanh kiếm, để nó bay lên trời; ba tiếng" coong "liên tiếp, ba thanh kiếm của ba đạo sĩ kia cũng bị chàng búng văng đi cả, trông loang loáng dưới ánh trăng. Dương Quá hỏi to:

– Các vị đã chịu tin hay chưa?

Quách Tĩnh lúc bình thường xuất thủ luôn có ý chừa dư địa cho đối phương, lúc này chàng giận vị đạo sĩ cao xuất chiêu vô lễ, mới sử dụng đến diệu kỹ" Đạn chỉ thần thông ". Công phu ấy là tuyệt học của Hoàng Dược Sư truyền cho chàng. Mấy năm ở trên đảo chàng đã luyện thành thạo; với nội lực thâm hậu, khi sử dụng thật lợi hại vô cùng.

Bốn đạo sĩ cùng bị văng mất kiếm mà vẫn chưa hiểu đối phương sử dụng thủ pháp gì. Vị đạo sĩ cao nói:

– Tên dâm tặc biết tà pháp, ta rút thôi.

Nói đoạn nhảy ra phía sau tảng đá hình bà lão; ba đạo sĩ kia cũng chạy theo, loáng một cái đã lẫn vào bóng đêm.

Quách Tĩnh lần thứ hai bị gọi là" Tên dâm tặc ", rồi còn biết" tà pháp ", thì vừa bực vừa buồn cười, nói:

– Quá nhi, hãy nhặt mấy thanh kiếm kia đặt lên tảng đá bên đường.

Dương Quá y lời, đặt cả sáu thanh kiếm lên một tảng đá; nó vô cùng thán phục võ công của Quách Tĩnh, môi cứ mấp máy định nói:" Quách bá bá, điệt nhi không muốn theo học mấy gã đạo sĩ thối tha đâu. Điệt nhi muốn học võ nghệ của Quách bá bá cơ ". Nhưng nghĩ đến nhiều chuyện trên Đào Hoa đảo, nó lại đành nuốt câu ấy xuống bụng.

Hai người đi qua hai khúc quành, thấy phía trước đường rộng ra, chợt nghe tiếng binh khí leng keng, từ trong lừng tùng nhảy ra bảy đạo sĩ, người nào người nấy cầm trường kiếm.

Quách Tĩnh thấy bảy người sắp thành thế trận, bên trái bốn người, bên phải ba người, chính là" Thiên Cang Bắc Đẩu trận ", thì giật mình, nghĩ thầm:" Dính vào thế trận thì hơi rắc rối đây ". Chàng không dám coi thường, hạ giọng nói nhỏ với Dương Quá:

– Ngươi ra sau tảng đá đằng kia chờ ta, xa xa một chút để ta khỏi bị phân tâm vì ngươi.

Dương Quá gật đầu, nó không muốn tỏ ra non kém trước các đạo sĩ, bèn tụt quần, nói to:

– Quách bá bá, điệu nhi đi ị đây.

Rồi nó chạy ra phía sau một tảng đá lớn. Quách Tĩnh thầm vui:" Thằng bé này thông minh linh lợi gần bằng Dung nhi, chỉ mong nó đi theo chính đạo, học lấy điều tốt ".

Khi chàng ngoảnh lại nhìn bảy đạo sĩ, thấy họ đứng quay lưng về phía ánh trăng, không thấy rõ mặt, song có sáu vị râu dài, đều đã đứng tuổi, người thứ bảy thân hình nhỏ bé, hình như trẻ hơn. Chàng nghĩ thầm:" Phải sớm lên núi bái kiến Khưu Chân Nhân nói rõ sự nhầm lẫn, kẻo cứ bị vướng chân mãi thế này ", liền lao tới chiếm vị trí sao Bắc Cực ở bên trái.

Bảy đạo sĩ thấy chàng không nói gì, đột nhiên phóng nhanh sang bên trái, họ chưa hiểu dụng ý của chàng, đạo sĩ đang ở vị trí sao Thiên Quyền liền hú nhỏ một tiếng, khiến sáu đạo sĩ kia cùng chạy sang bên trái, định vây Quách Tĩnh vào giữa. Ai ngờ bảy người vừa di chuyển, thì Quách Tĩnh đã chiếm tiên cơ, vọt sang bên phải hai bước, vẫn chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực. Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền vốn định để ba người ở cán gáo (sao Bắc Đẩu) phát động tấn công, nhưng thấy phương vị mà Quách Tĩnh chiếm giữ quái dị, trường kiếm của ba người không sao đánh tới được, trong khi môn hộ của cả bảy người đều để hở, không phòng vệ được cho nhau, cả bảy người đều có thể bị chàng tấn công; bèn vung tay trái, làm hiệu cho trận thế chuyển ra sau. Nào ngờ đạo sĩ sắm vai sao Dao Quang vừa di chuyển, Quách Tĩnh đã lại vọt lên hai bước, vẫn chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, làm cho thế trận của bảy đạo sĩ lại lâm vào tình trạng khó công khó thủ.

" Thiên Cang Bắc Đẩu trận "là công phu cực thượng thừa của phái Toàn Chân, luyện tới mức lô hỏa thuần thanh, do bảy cao thủ phối hợp sử dụng, thì có thể nói là vô địch thiên hạ. Tiếc rằng Quách Tĩnh thừa biết chỗ bí ảo của trận pháp này, chỉ cần chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, thì sẽ là chủ sai khiến tôi tớ, bảy đạo sĩ sẽ như bị trói chân trói tay, không thể thi thố gì được. Hơn nữa, bảy đạo sĩ này luyện chưa thành thục, chứ nếu là trận pháp do các vị như Khưu Xứ Cơ, Mã Ngọc chủ trì, thì đâu có để kẻ khác dễ dàng chiếm lĩnh vị trí sao Bắc Cực. Tám người liên tục thay đổi phương vị, song Quách Tĩnh luôn luôn nắm quyền chủ động, lẳng lặng chiếm giữ vị trí cốt yếu.

Đạo sĩ sắm vai sao Thiên Khu nhiều tuổi khôn ngoan, đã nhận ra sự không ổn, bèn quát:

– Biến trận!

Bảy đạo sĩ liền tản khai, tả xung hữu đột, chạy đông chạy tây cuồng loạn, những tưởng làm rối trận pháp để mê hoặc mục quang kẻ địch, rồi bất ngờ bảy đạo sĩ lại đã sắp thành thế trận. Thế trận đã từ chính tây chuyển sang đông nam. Thế trận vừa hình thành, đạo sĩ sắm vai sao Thiên Toàn và đạo sĩ sắm vai sao Thiên Hoàng liền vung kiếm xông lên, bỗng thấy đối thủ đứng ở cán sao Bắc Đẩu, vị trí chính bắc, hai chân không ra hình chữ Đinh, chữ Bát, song chưởng giao nhau, vẻ mặt mỉm cười, thì hai vị này nghĩ thầm:" Nếu mình xông lên, hai vị trí Khai Dương, Thiên Toàn sẽ bị trọng thương mất, đành đứng lại, ngẩn ngơ. Đạo sĩ sắm vai sao Thiên Khu quát to:

– Công không được thì mau lui về!

Đạo sĩ sắm vai sao Thiên Quyền vừa ngạc nhiên vừa tức giận, lớn tiếng điều khiển sáu đạo sĩ liên tục biến đổi thế trận. Dương Quá không hiểu sự lý, chỉ thấy bảy đạo sĩ cứ chạy vòng quanh như điên; trong khi Quách Tĩnh cứ hoặc đông hoặc tây, hoặc nam hoặc bắc, chỉ di chuyển vài bước, vậy mà bảy đạo sĩ trước sau vẫn chưa dám công kích chàng một chiêu. Nó càng quan sát càng thú vị, bỗng nó thấy Quách Tĩnh song chưởng cùng đánh ra, miệng kêu:

– Đắc tội!

Chàng bất ngờ nhảy hai bước sang bên trái. Lúc này Bắc Đẩu trận đã hoàn toàn bị chàng khống chế, khi chàng lao sang bên trái, nếu bảy đạo sĩ không theo sang, tất cả bọn họ sẽ bị hở lưng, không thể phòng ngự, mà đó là điều vạn phần hung hiểm trong võ học; thế là họ đành lao theo sang bên trái. Quách Tĩnh lao nhanh thì họ cũng phải lao nhanh, Quách Tĩnh bước chậm thì họ cũng phải bước chậm. Gã đạo sĩ ít tuổi nội lực kém nhất, sau khi bị Quách Tĩnh điều chuyển gấp gáp mười mấy vòng, đã cảm thấy mắt hoa, khó thở, chỉ chực ngã, nhưng thầm biết Bắc Đẩu trận chỉ cần thiếu một người, sẽ vỡ trận, nên y đành nghiến răng, cố giữ cho vững.

Quách Tính tuy không còn ít tuổi, nhưng từ khi cùng Hoàng Dung về Đào Hoa đảo ẩn cư, ít giao thiệp với thế giới bên ngoài, vẫn còn phần nào tính trẻ con, thấy bảy đạo sĩ cứ chạy nháo nhào cũng thích thú, nghĩ thầm: "Hôm nay bỗng dưng vô cớ ta bị các người nhiếc là tên dâm tặc, bảo ta sử dụng yêu pháp, thế thì ta phải sử dụng yêu pháp thật cho các người coi", bèn gọi to:

– Quá nhi, xem ta sử yêu pháp này!

Đột nhiên chàng nhảy lên một khối đá cao. Bảy đạo sĩ kia đã hoàn toàn bị chàng khống chế; chàng nhảy lên chỗ cao, nếu bọn họ không nhảy lên theo, thì nhược điểm của trận thế sẽ bộc lộ ra hết, có vài người còn chần chừ, thì đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền vội quát lớn, lệnh cho tất cả cùng nhảy lên trên khối đá kia.

Bảy đạo sĩ chân chưa đứng vững, Quách Tĩnh đã phi thân sang một cây tùng, chàng giữ cự ly không xa, cũng không gần so với bảy đạo sĩ, vẫn chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, có điều là ở trên cao nhìn xuống, muốn tấn công rất tiện. Bảy đạo sĩ thầm kêu khổ: "Không hiểu tên đại ma đầu này từ đâu tới, phái Toàn Chân ta hôm nay chẳng còn chút thể diện nào", ai nấy vội tìm các cây thích hợp làm chỗ đặt chân để nhảy sang.

Quách Tĩnh cười, nói:

– Xuống cả này.

Chàng nhảy khỏi cây tùng, giơ tay tóm lấy chân vị đạo sĩ đứng ở vị trí sao Khai Dương. Cái lợi hại nhất của Bắc Đẩu trận pháp là tả hữu hô ứng, hỗ trợ cho nhau, khi Quách Tĩnh tấn công Khai Dương, thì Dao Quang và Ngọc Hoành không thể không nhảy xuống giúp sức; và nếu hai đạo sĩ ấy làm như thế, thì Thiên Quyền, Thiên Khu cũng phái nhảy xuống theo; trong giây lát toàn trận đều chuyển động.

Dương Quá ở bên đứng xem, càng xem càng ngạc nhiên và thích thú, nghĩ thầm: "Giá có ngày ta học được tài nghệ của Quách bá bá, thì dẫu sau đó suốt đời khổ sở, ta cũng cam lòng. Nhưng làm sao ta có thể học được tài nghệ của Quách bá bá? Chỉ có con a đầu Quách Phù và huynh đệ họ Võ có cái diễm phúc đó thôi. Quách bá bá thừa biết võ công phái Toàn Chân thua xa mình, sao còn đưa ta đến học nghệ mấy lão đạo sĩ thối tha này kia chứ?". Nó càng nghĩ càng buồn, buồn phát khóc lên được. Nó ngoảnh đi, không thèm xem nữa, nhưng chỉ một lát, nó lại quay lại xem vậy.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Bây giờ chắc các người tin ta là Quách Tĩnh rồi. Mình cũng không nên làm quá, để còn giữ thể diện cho Khưu Chân Nhân. Thấy bảy đạo sĩ đang chuyển gấp, chàng bèn đứng lại, ôm quyền, nói:

– Bảy vị đạo huynh, tại hạ đã đắc tội nhiều, xin được các vị dẫn đường cho.

Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền tính nóng nảy, thấy đối phương võ công cao cường, tinh thông Bắc Đẩu trận pháp, càng cho rằng chàng không có thiện ý với bổn giáo, bèn quát:

– Dâm tặc, ngươi dốc lòng điều nghiên trận pháp của bổn giáo, mưu đồ thật là thâm độc. Hai ngươi định lên núi Chung Nam giở trò vô liêm sỉ, phái Toàn Chân ta ghét ác như kẻ thù, quyết không khoanh tay đứng nhìn.

Quách Tĩnh ngạc nhiên hỏi:

– Thế nào là giở trò vô liêm sỉ?

Thiên Khu nói:

– Xét võ công của ngươi, hẳn ngươi không phải hạng hạ lưu, bần đạo khuyên ngươi hãy mau xuống núi là hơn.

Giọng nói của lão rõ ràng thể hiện sự khâm phục đối với võ công của Quách Tĩnh. Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ từ phương nam xa xôi ngàn dặm đến đây, có việc bái kiến Khưu Chân Nhân, làm sao có thể chưa gặp lão nhân gia một lần đã xuống núi kia chứ?

Thiên Quyền hỏi:

– Ngươi nhất định đòi gặp Khưu Chân Nhân, rốt cuộc là có dụng ý gì?

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ từ nhỏ đã nhận đại ân của Mã Chân Nhân và Khưu Chân Nhân, hơn mười năm rồi chưa gặp lại, hết lòng thương nhớ. Lần này tại hạ đến còn có một việc cầu xin.

Thiên Quyền nghe vậy thì càng ghét hơn. Nguyên trong giang hồ, người ta coi trọng nhất hai chữ ân cừu. Có khi thù oán sâu xa, lai nói là đến đền ơn, kỳ thực cốt để báo thù. Khi đó họ nói đại loại thế này:

– Hai mươi năm trước, tại hạ được các hạ chặt mất một cánh tay, ân đức ấy, há dám quên sao? Hôm nay tại hạ tới để đền đáp cái đại ân đó.

Còn câu có việc cầu xin, thường thường cũng không phải là thiện chí; chẳng hạn kẻ cướp thường nói:

– Huynh đệ bọn ta đói rách, cầu xin lão huynh một việc, hãy cho bọn ta vay vài vạn lượng bạc.

Hiện tại phái Toàn Chân có đại địch, đạo sĩ Thiên Quyền mang sẵn thành kiến, nghe những lời nói tử tế của Quách Tĩnh lại cứ nghĩ ngược đi, bèn nói:

– Chỉ e tệ sư phụ Ngọc Dương Chân Nhân cũng có ơn với nhà ngươi.

Quách Tĩnh nghe vậy, liền nhớ hồi nhỏ ở phủ Triệu Vương, Ngọc Dương Tử Vương Xứ Nhất không quản nguy hiểm, gắng sức chống đám tà ma, xả thân cứu giúp, quả thực ân tình không nhỏ, liền nói:

– Thì ra đạo huynh là môn hạ của Ngọc Dương Chân Nhân. Ngọc Dương Chân Nhân quả có ân huệ lớn đối với tại hạ, nếu người cũng đang ở trên núi, thì không gì may mắn bằng.

Bảy đạo sĩ đều là đệ tử của Vương Xứ Nhất, họ cùng nổi giận quát to, vung kiếm đánh nhanh tới bảy chỗ trên người Quách Tĩnh. Quách Tĩnh cau mày, nghĩ bụng mình càng khiêm nhường, đối phương càng hung hãn, thật chẳng hiểu tại sao; giá có Hoàng Dung bên cạnh, nàng sẽ biết ngay nguyên nhân, chàng bèn tiến xéo đi, chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, cao giọng hỏi:

– Tại hạ là Quách Tĩnh ở Giang Nam, tới đây quả thật không có ý xấu, các vị bảo tại hạ phải làm gì thì mới chịu tin.

Thiên Quyền nói:

– Ngươi đã đoạt sáu thanh kiếm của đệ tử phái Toàn Chân, sao không đoạt nốt bảy thanh kiếm của bọn ta?

Đạo sĩ sắm vai Thiên Toàn từ đầu im lặng, đột nhiên lên tiếng:

– Tên dâm tặc chó má, ngươi định trổ tài lấy lòng trước nữ tử nhà họ Long, chẳng lẽ có thiện ý với phái Toàn Chân bọn ta thực sao?

Quách Tĩnh tức giận, nói:

– Cô nương họ Long là ai, Quách Tĩnh này không hề quen biết.

Thiên Toàn cười ha ha, nói:

– Ngươi dĩ nhiên không quen biết nàng ta, trên đời há có nam nhân nào quen biết nàng ta? Ngươi có giỏi thì hãy chửi nàng ta một câu thật to xem nào?

Quách Tĩnh ngẩn người, nghĩ thầm:" Nữ tử nhà họ Long chẳng biết là người như thế nào, làm sao tự dưng vô cớ ta lại đi chửi bới người ta? ", bèn nói:

– Tại sao tại hạ lại chửi nàng ta kia chứ?

Ba bốn đạo sĩ cùng tranh nhau nói:

– Ngươi đã không khảo tự xưng rồi đó.

Quách Tĩnh càng nghe họ buộc tội cho chàng thì càng hồ đồ, nghĩ bụng chỉ có cách xông lên cung Trùng Dương, gặp Mã Ngọc, Vương Xứ Nhất, Khưu Xứ Cơ, thì tất cả sẽ rõ, bèn lạnh lùng nói:

– Tại hạ phải lên núi, các vị còn ngăn cản thì đừng trách tại hạ vô lễ.

Bảy đạo sĩ cầm kiếm tiến lên hai bước. Đạo sĩ sắm vai Thiên Toàn nói lớn:

– Các hạ đừng dùng tà pháp, chúng ta hãy chỉ dùng võ công để phân cao thấp.

Quách Tĩnh cười, trong lòng đã có chủ ý, nói:

– Tại hạ cứ thích một chút yêu pháp; các vị nghe đây, hai tay của tại hạ không chạm tới vũ khí của các vị, mà vẫn có thể đoạt cả bảy thanh kiếm cho coi.

Bảy đạo sĩ đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt đều tỏ vẻ không tin, trong bụng nghĩ thầm:" Ngươi tuy võ công cao cường, nhưng lẽ nào không dùng hai tay mà lại có thể đoạt được kiếm của bọn ta? Dẫu ngươi có luyện công phu tay không đoạt gươm giáo đến mức tối cao, thì cũng vẫn cứ phải sử dụng đôi tay ". Đạo sĩ sắm vai Thiên Khu bèn nói:

– Được, bọn ta xin lĩnh giáo tứ cước thần công của các hạ.

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ cũng không cần dùng chân; tóm lại là chân tay, vũ khí của các vị, tại hạ sẽ hoàn toàn không chạm tới; nếu tại hạ chạm tới, coi như tại hạ bị thua, sẽ phải tự quay xuống núi.

Bảy đạo sĩ nghe chàng nói thế đều ngán ngẩm. Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền vung kiếm, lập tức khởi động trận pháp vây chàng lại.

Quách Tĩnh nghiêng người lao đi chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, rồi bước nhanh sang bên trái Bắc Đẩu trận. Thiên Quyền biết sự lơi hại, vội điều động Bắc Đẩu trận chuyển sang bên phải. Hai người đấu với nhau, tất phải quay mặt về phía kẻ địch, nếu kẻ địch vòng ra sau lưng mình, mình không thể không quay người lại để nghênh địch. Lúc này phía mà Quách Tĩnh hướng tới chính là phía sau lưng cốt tử của Bắc Đẩu trận, không cần xuất thủ tấn công, bảy đạo sĩ cũng phải di chuyển trận pháp để đối mặt với chàng. Quách Tĩnh cứ một mạch chạy hướng sang bên trái, không hề xoay người, chỉ hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc thẳng hoặc xéo, chỉ một mực chạy sang mé trái. Chàng đã chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, bảy đạo sĩ không thể không theo chàng chạy sang mé trái.

Quách Tĩnh càng lúc càng chạy nhanh, cứ như ngựa phi, thân hình lắc một cái, người đã vọt xa mấy trượng. Công phu của bảy đạo sĩ cũng chẳng tầm thường, tuy ở tình thế bị động, song trận pháp của họ không hề rối loạn; bảy vị trí Thiên Khu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang đều được giữ vững và chuẩn, chỉ có điều là phải bị động chạy theo mà thôi. Quách Tĩnh cũng phải thầm thán phục:" Môn hạ phái Toàn Chân quả nhiên bất phàm ". Chàng đề khí chạy nhanh gần như chân không chấm đất.

Bảy đạo sĩ thoạt đầu còn cố chạy theo, nhưng càng lâu, thì khinh công cao thấp càng lộ rõ. Ba vị trí Thiên Khu, Thiên Quyền, Ngọc Hoành công phu cao hơn, chạy nhanh hơn; bốn đạo sĩ còn lại dần dần tụt lại sau, Bắc Đẩu trận thế lộ ra chỗ sơ hở, khuyết trống. Họ không khỏi giật mình, nghĩ thầm:" Nếu lúc này kẻ địch xuất thủ công trận, e rằng bên ta đã hết bề chống đỡ "; nhưng tình thế lúc này cũng không thể lo cho người bên cạnh, ai cũng chỉ đem nội lực bình sinh mà chạy như bay xung quanh Quách Tĩnh.

Trẻ con chơi đùa, lấy dây buộc cục đá mà xoay vòng tròn, xoay đến lúc thật nhanh thì đột nhiên buông sợi dây ra, cục đá sẽ mang theo sợi dây bay đi rất xa. Lúc này vòng quay của" Thiên Cang Bắc Đẩu trận "xoay gấp, cũng gần giống như thế; bảy đạo sĩ chạy như điên quanh Quách Tĩnh, trường kiếm giơ cao trên đầu, chạy càng nhanh thì tay giữ kiếm càng không chắc, tựa hồ có một sức mạnh kéo văng nó đi vậy.

Đột nhiên Quách Tĩnh quát to:

– Buông tay!

Rồi chàng phi thân vút qua. Bảy đạo sĩ xuất kỳ bất ý, đành nhào theo gấp, cũng chẳng biết tại sao bảy thanh kiếm cùng tuột tay họ, trông như bảy con ngân xà, bay thẳng vào cánh rừng tùng cách xa hơn mười trượng. Quách Tĩnh đột nhiên dừng bước, ngoảnh đầu lại cười hi hi.

Bảy đạo sĩ tái mặt, đứng ngây bất động, song mỗi người vẫn giữ đúng phương vị của mình, trận thế vẫn nghiêm chỉnh. Quách Tĩnh thấy sau một hồi chạy cuồng loạn vừa rồi mà trận pháp không rối loạn, đủ biết công phu luyện tập thường ngày của họ quả không nhỏ. Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền hô nhỏ một tiếng, bảy đạo sĩ rút vào phía sau vách núi.

Quách Tĩnh gọi:

– Quá nhi, ta lên núi thôi.

Nào ngờ chàng gọi liền mấy tiếng, không nghe Dương Quá trả lời. Chàng vội tìm xung quanh một hồi, không thấy bóng thằng bé đâu cả, chỉ thấy dưới gốc cây vứt lại một chiếc giày nhỏ. Quách Tĩnh giật mình, nghĩ thầm:" Thì ra ngoài bảy đạo sĩ, còn một đạo sĩ khác đứng ngoài xem trộm, đã bắt Dương Quá mang đi ". Nhưng nghĩ chẳng qua các đạo sĩ nhận lầm người, chứ phái Toàn Chân hành hiệp trượng nghĩa, quyết không gây khó dễ với một cậu bé, chẳng cần quá lo; bèn đề khí chạy lên đỉnh núi. Chàng ẩn cư hơn mười năm ở Đào Hoa đảo, tuy ngày ngày luyện võ công, nhưng đã lâu không giao đấu với ai, lắm lúc cũng buồn tẻ, hôm nay được giao đấu một trận kịch liệt với các đạo sĩ; chiêu nào chiêu nấy đắc tâm ứng thủ, thì trong lòng không khỏi cảm thấy mãn ý.

Lúc này sơn đạo càng chênh vênh, có lúc phải dán sát người vào vách núi mà đi lên; đi chừng nửa canh giờ, bỗng mây đen che lấp mặt trăng, núi rừng tối tăm. Quách Tĩnh nghĩ thầm:" Nơi này mình không thông thuộc địa thế, các đạo sĩ có thể bày nguỵ kế, mình phải đề phòng mới được ". Bèn thong thả tiến từng bước một.

Lại đi một hồi, mây hết che lấp mặt trăng, núi rừng lại sáng, Quách Tĩnh cảm thấy dễ chịu, chợt nghe từ phía sau núi vọng lại tiếng thở của nhiều người. Tiếng thở của con người tuy không to, nhưng nhiều người thì Quách Tĩnh nghe rất rõ. Chàng vội siết lại dây lưng, rẽ ra sau núi.

Trước mặt là một bãi đất hình tròn cực rộng, núi non bao quanh, dưới chân núi có một hồ nước lớn sóng lấp lánh dưới ánh trăng. Cạnh hồ nước có hơn một trăm đạo sĩ, ai cũng mũ vàng áo xám, tay cầm trường kiếm, kiếm quang loang loáng.

Quách Tĩnh định thần nhìn kỹ, thấy các đạo sĩ cứ bảy người một nhóm, sắp thành mười bốn" Thiên Cang Bắc Đẩu trận ". Cứ bảy" Thiên Cang Bắc Đẩu trận "nhỏ lại sắp thành một" Thiên Cang Bắc Đẩu trận "lớn. Từ Thiên Khu đến Dao Quang, thanh thế thực là ghê gớm. Hai đại" Thiên Cang Bắc Đẩu trận ", một chính một kỳ, tương sinh tương khắc, dựa dẫm vào nhau. Quách Tĩnh kinh ngạc nghĩ thầm: Bắc Đẩu trận pháp kiểu này, mình chưa từng nghe Khưu Chân Nhân nói tới, chắc là mới được phát minh mấy năm nay, cao thâm hơn so với Bắc Đẩu trận pháp do Trùng Dương tổ sư sở truyền. Chàng bèn chậm rãi bước tới.

Chỉ nghe một người trong trận hô nhỏ, chín mươi tám đạo sĩ liền tản ra, người trước kẻ sau, trận thế biến ảo, vây luôn Quách Tĩnh vào giữa. Người nào người nấy trường kiếm chỉ xuống đất, chăm chú nhìn Quách Tĩnh, không nói một lời.

Quách Tĩnh ôm quyền, cúi mình xoay vòng, nói:

– Tại hạ thành tâm lên bảo sơn bái kiến các vị đạo trưởng Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, Vương Chân Nhân, mong các vị đạo huynh đừng ngăn cản.

Một đạo sĩ râu dài trong trận nói:

– Các hạ võ công cao cường, sao không tự trọng, lại kết bạn với yêu nhân? Bần đạo thành thật khuyên các hạ điều này, xưa nay nữ sắc làm hại người, các hạ chớ để công phu tu luyện mấy chục năm bị phế bỏ trong một ngày. Phái Toàn Chân chúng ta không quen biết các hạ, hoàn toàn không có sai sót gì với các hạ, tại sao các hạ lại theo bọn yêu nhân lên núi làm loạn? Mong các hạ hãy lập tức xuống núi, sau này còn có dịp gặp lại.

Giọng nói của lão rất trầm, từng lời đều rành rọt, chứng tỏ nội lực thâm hậu, ngữ ý khẩn thiết, thành thật khuyến cáo.

Quách Tĩnh lại vừa bực mình vừa tức cười, nghĩ thầm:" Các đạo sĩ này chắc là nhận lầm mình với kẻ nào đó, giá có Dung nhi đi cùng, thì sẽ không có sự hiểu lầm này ", bèn nói:

– Yêu nhân nữ sắc gì gì, tại hạ đều không biết, hãy để tại hạ gặp các vị đạo trưởng Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, thì tất cả sẽ rõ.

Đạo sĩ râu dài lạnh lùng nói:

– Các hạ chấp mê không ngộ, cứ đòi lĩnh giáo Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, thì trước hết hãy phá Bắc Đẩu đại trận của bọn ta đã.

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ có một mình, võ công thấp kém, làm sao dám đương đầu với tuyệt nghệ của quí giáo? Xin các vị trả lại cho đứa bé mà tại hạ mang theo, và dẫn kiến Giáo chưởng Chân Nhân cùng Khưu Chân Nhân.

Đạo sĩ râu dài quát to:

– Ngươi chớ phách lối, bỡn cợt thêm nữa, trước cửa cung Trùng Dương núi Chung Nam há có thể cho phép tên dâm tặc như ngươi nói nhăng nói cuội?

Nói đoạn giơ kiếm chém lên không trung, tiếng ong ong ngân dài hồi lâu. Các đạo sĩ khác cũng làm như vậy, chín mươi tám thanh kiếm tua tủa, kiếm quang đan thành tấm lưới ánh sáng, tiếng ngân ù ù như gió.

Quách Tĩnh chán ngán nghĩ thầm:" Đại trận của họ kỳ chính tương phản, một mình ta làm sao chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực thứ hai kia chứ? Chuyện hôm nay thật là quá nan giải ". Chàng chưa quyết định thế nào, thì đại trận của chín mươi tám đạo sĩ đã từ hai phía tả hữu hợp vây, kiếm quang đan vào nhau, quả là một con ruồi cũng khó lọt qua. Đạo sĩ râu dài nói:

– Mau rút binh khí ra. Phái Toàn Chân không đánh kẻ tay không!

Quách Tĩnh nghĩ thầm:" Bắc Đẩu đại trận dĩ nhiên khó phá, nhưng muốn đả thương ta đâu có dễ. Các người tuy đông, uy lực tuy lớn, nhưng công lực mỗi người một khác, tất có sơ hở; cứ xem trận pháp của họ một lát hãy hay. "Đột nhiên chàng lẳng lặng xoay mình, chạy sang phương vị tây bắc, sử chiêu" Tiềm Long vật dụng "trong" Hàng long thập bát chưởng ", đẩy chéo ra thật mạnh. Bảy đạo sĩ trẻ tuổi chuyển kiếm sang tay trái, cùng giơ hữu chưởng, dùng lực liên hợp của bảy người mà chống lại chiêu này của chàng. Chiêu này của Quách Tĩnh đã được luyện tới cảnh giới xuất thần nhập hóa, lực đẩy ban đầu cố nhiên rất mạnh, nhưng lực thu lại sau đó mới càng lơi hại. Bảy đạo sĩ dồn sức đẩy lại mãnh lực của chàng, không ngờ đột nhiên có một lực kéo mạnh về phía trước; bảy người đứng không vững, cùng ngã sấp mặt xuống; tuy bật dậy được ngay, nhưng mặt mũi ai nấy dính đất cát, thật là hổ thẹn.

Đạo sĩ râu dài thấy chàng xuất thủ lợi hại, một chiêu đã làm cho bảy sư điệt bị ngã, không khỏi giật mình, liền hú một tiếng dài, dẫn động mười bốn Bắc Đẩu trận liên hợp trùng trùng với nhau, thiết tưởng chưởng lực của kẻ địch dẫu mạnh gấp mười lần, cũng chẳng thể dùng hai tay đẩy nổi chín mươi tám người.

Quách Tĩnh nhớ lại trận đại chiến năm xưa chàng cùng Hoàng Dung giao đấu với Cái Bang, đối thủ võ công tuy không mạnh, nhưng khi họ hợp lực, thì mình khó bề chống đỡ, cho nên chàng không dám cường công ngạnh chiến với các đạo sĩ, mà chỉ thi triển khinh công lướt qua lướt lại tìm chỗ sơ hở trong trận thế.

Chàng lướt sang đông, vọt sang tây, dẫn động trận pháp biến đổi, sau thời gian uống cạn một ấm trà, đã hiểu rằng chỉ dựa vào sức của mình thì không thể phá nổi trận thế này. Một là chàng không muốn đả thương đối phương. Hai là trận pháp quá ư chặt chẽ, không có chỗ nào sơ hở. Ba là chàng suy tính chậm chạp; trong khi trận pháp biến ảo nhanh chóng, dẫu có sơ hở chàng cũng chẳng nhận ra ngay. Dưới ánh trăng, chỉ thấy kiếm quang như nước, bóng người như sóng, tới lui dồn dập không ngừng.

Đấu thêm một lát, thấy trận thế dần dần thu hẹp, khoảng trống để né tránh mỗi lúc ít dần, khó thêm, Quách Tĩnh nghĩ thầm:" Ta phải rút ra khỏi trận, xông thẳng lên cung Trùng Dương mà gặp Mã đạo trưởng, Khưu đạo trưởng thôi ". Chàng ngẩng nhìn tứ phía, thấy trên sườn núi phía tây có vài chục gian nhà, vài tòa kiến trúc lớn, đoán cung Trùng Dương chắc ở đó, bèn lướt nhanh sang phía đông, nhảy vọt mấy lần, rồi ngoặt sang phía tây.

Các đạo sĩ thấy thân pháp của chàng đột nhiên tăng nhanh, lướt đi vùn vụt như một tia chớp, khiến họ hoa cả mắt, thế công liền sững lai. Đạo sĩ râu dài nói:

– Tất cả cẩn thận, đừng trúng ngụy kế của tên dâm tặc.

Quách Tĩnh cả giận, nghĩ thầm:" Quanh đi quẩn lại họ cứ gọi ta là tên dâm tặc. Cách gọi này mà truyền ra giang hồ, thì ta còn mặt mũi nào kia chứ? ". Lại nghĩ bụng:" Trận pháp là do lão đạo sĩ râu dài chủ trì, chỉ cần hạ gục lão ta là có thể phá vỡ thế trận. Bèn lao thẳng về phía đạo sĩ râu dài. Nào ngờ một trong những điều huyền diệu của trận pháp này là dụ địch tấn công chủ soái, các tiểu trận sẽ thừa cơ bao vây, tấn công, dồn kẻ địch vào tử địa. Quách Tĩnh chỉ chạy được bảy, tám bước thì cảm thấy không ổn, áp lực phía sau gia tăng, hai bên sườn cũng cũng đều bị dồn ép lại, chàng định chuyển sang mé phải, thì mười bốn thanh trường kiếm của hai tiểu trận cùng đâm thẳng tới trước mặt. Phương vị của mười bốn thanh kiếm này được bố trí thật khôn khéo, khiến cho chàng muốn né tránh phía nào cũng chẳng xong.

Quách Tĩnh thân lâm hiểm cảnh, trong lòng không chút run sợ, chỉ là nỗi tức giận càng lúc càng tăng, nghĩ thầm: "Các người nhận lầm ta với tên dâm tặc yêu nhân nào đó, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, sao chiêu thức nào cũng đều là sát thủ cả thế? Chẳng lẽ các người định lấy mạng ta sao? Vậy mà còn bảo là phái Toàn Chân không đả thương người tay không vũ khí". Bèn nhảy xéo vài bước, tung cước phải đá lộn nhào một tiểu đạo sĩ, đồng thời tay trái đoạt luôn thanh kiếm của y, thấy bảy thanh kiếm mé phải cùng đâm tới, thì chàng vung kiếm tay trái một cái, tám thanh kiếm chạm nhau, cách một tiếng, cả bảy thanh kiếm đều gãy, riêng thanh kiếm trong tay chàng nguyên vẹn. Thanh kiếm chàng đoạt được cũng như mọi thanh kiếm khác, không sắc bén quí giá gì hơn, chẳng qua chàng vận lực ra đầu mũi kiếm, nên đánh gãy đồng loạt cả bảy thanh kiếm kia mà thôi.

Bảy đạo sĩ tái mặt, đứng ngẩn cả ra, hai tiểu Bắc Đẩu trận bên cạnh vội chuyển sang hỗ trợ. Quách Tĩnh thấy mười bốn người đó đều đặt tay trái lên vai người bên cạnh, sức lực của cả mười bốn người đã hợp thành một, thì chàng nghĩ thầm: "Phải thử xem công lực của mình tới đâu nào?", liền giơ kiếm kiềm chế thanh kiếm của người đạo sĩ thứ mười bốn.

Đạo sĩ đó vội kéo vào phía trong, nào ngờ thanh kiếm trong tay y như bị giữ chặt tại chỗ, không tài gì lay động nổi. Mười ba người kia ai nấy vận sức, định dùng hợp lực của mười bốn người để kéo kiếm về.

Quách Tĩnh chính muốn dẫn dụ họ hợp lực, vừa cảm thấy lực kéo tăng mạnh, bèn quát to "Hãy cẩn thận!", cánh tay phải của chàng hất mạnh, giống như đẩy vào một vật cực lớn, nghe một loạt tiếng cách cách, mười hai thanh kiếm bị gãy, hai thanh kiếm cuối cùng thì bay lên trời. Mười bốn đạo sĩ kinh hãi vội vàng nhảy tránh. Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Công lực của mình chưa thật tinh thuần, còn hai thanh kiếm chưa bị đánh gãy". Thế là các đạo sĩ càng thận trọng hơn. Hai mươi mốt đạo sĩ tuy bị mất kiếm, nhưng họ vận chưởng thành gió, uy lực chẳng hề giảm sút. Quách Tĩnh vừa rồi đánh gãy kiếm của đối phương, vẫn chưa vừa ý lắm, cảm thấy trận thế của họ càng siết chặt thêm, không hiểu Mã đạo trưởng, Khưu đạo trưởng mấy năm qua có sáng tạo gì mới cho Bắc Đẩu trận, nếu họ biến hóa cao minh, mình không hóa giải được, e rằng khó thoát bị họ bắt sống, thôi thì đành ra tay trước, bèn quát to:

– Các vị đạo huynh còn không nhường lối thì chớ trách tại hạ không lưu tình.

Đạo sĩ râu dài thấy quân mình đã chiếm thượng phong, cho rằng tài nghệ của Quách Tĩnh cũng chỉ đến thế là cùng, dẫu có đánh gãy cả chín mươi tám thanh kiếm, cũng không thể thoát khỏi Bắc Đẩu đại trận, nghe chàng nói vậy, lão chỉ mỉm cười, không thèm trả lời, chỉ siết chặt thêm trận pháp.

Quách Tĩnh rùn mình xuyên sang góc đông bắc, chỉ thấy hai tiểu Bắc Đẩu trận theo sang như hình với bóng, thì ngón tay chuyển động, thanh kiếm trong khoảnh khắc nhấp nhấp liền mười bốn lần, mười bốn hàn tinh dường như đồng thời chọc tới, mỗi cái chọc đều trúng vào huyệt Dương Cốc ở mé ngoài cổ tay phải của các đạo sĩ. Đây là công phu tối thượng thừa trong kiếm pháp, sử kiếm như gió như chớp, điểm đánh tới không sai một li, tưởng chừng đồng thời bắn ra mười bốn cái ám khí vậy.

Quách Tĩnh xuất thủ nhẹ nhàng, các đạo sĩ chỉ cảm thấy cổ tay hơi tê, các ngón tay vô lực, mười bốn thanh kiếm cùng rơi cả xuống đất. Ai nấy kinh hãi nhảy vội về phía sau, nhìn xem vết thương ở cổ tay thế nào, chỉ thấy chỗ huyệt Dương Cốc hơi đỏ, không bị chảy máu, mới biết tài nghệ điểm huyệt của đối phương quá tài tình. Họ kinh hãi, nghĩ bụng: "Tên dâm tặc này tuy vô liêm sỉ, nhưng không độc ác; chứ nếu hắn thẳng tay, thì tất cả đã mất bàn tay rồi".

Như thế là đã có ba mươi lăm thanh kiếm văng khỏi tay. Đại sĩ râu dài bực lắm, thừa biết đối phương chưa hạ tuyệt thủ, mà phái Toàn Chân đã mất cả thể diện, nếu để cho một cường địch như chàng xông vào bổn cung, thì hậu họa không nhỏ, bèn liên tiếp phát lệnh, siết chặt trận thế, cho rằng chín mươi tám đạo sĩ hợp vây tứ phía, đối phương chỉ có một đường chết mà thôi.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Các đạo huynh thật không biết xấu tốt, nói nhẹ không xong, đành dằn mặt họ vậy". Tả chưởng đưa xéo, hữu chưởng đẩy sang trái. Bảy đạo sĩ của một Bắc Đẩu trận liền chuyển sang tiếp chiêu. Quách Tĩnh vội vọt tới vị trí sao Bắc Cực. Bắc Đẩu trận thứ hai lập tức tấn công chàng. Lúc này có cả thảy mười bốn Bắc Đẩu trận, cũng tức là có mười bốn vị trí sao Bắc Cực. Quách Tĩnh không có thuật phân thân, nên không thể cùng lúc chiếm giữ mười bốn vị trí trọng yếu. Chàng thi triển thuật khinh công, vừa chiếm vị trí sao Bắc Cực của Bắc Đẩu trận thứ nhất, lại lập tức chạy sang chiếm vị trí sao Bắc Cực của Bắc Đẩu trận thứ hai; cứ thế xoay chuyển mấy lần, trận pháp bắt đầu có vẻ rối loạn.

Đạo sĩ râu dài thấy tình thế bất lợi, vội hạ lệnh cho các đạo sĩ tản xa ra, giữ vững trận thế, lấy tĩnh chế động; biết rằng nếu mọi người cứ xoay chuyển theo Quách Tĩnh, chàng ta chạy nhanh như thế, tất sẽ làm loạn thế trận; còn nếu cố thủ bất động, mười bốn vị trí sao Bắc Cực cách xa nhau, thì dù Quách Tĩnh có thân pháp nhanh đến mấy, cũng chẳng thể cùng lúc chiếm lĩnh.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Vị đạo huynh này tinh thông yếu quyết trận pháp, quả nhiên tùy cơ ứng biến rất linh hoạt. Họ đã đứng bất động một chỗ, thì ta thừa cơ xông vào cung Trùng Dương vậy". Nhưng chàng lại nghĩ bụng: "Ồ, không được rồi, có lẽ Mã đạo trưởng, Khưu đạo trưởng đều không ở trong cung Trùng Dương, nếu không, mình đấu với các đạo sĩ lâu như thế, lẽ nào hai vị đó không hay biết?". Chàng ngẩng đầu nhìn về phía cung Trùng Dương, chỉ thấy ở một góc đạo quán loang loáng ánh binh khí, tựa hồ có người đang giao đấu; nhưng vì xa đây nên khó nhìn rõ và cũng không thể nghe tiếng binh khí va chạm.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Kẻ nào cả gan đến cung Trùng Dương động thủ? Sự việc tối nay quả là khó hiểu!". Chàng rất muốn tới đằng kia xem cho rõ, thì mười bốn Thiên Cang Bắc Đẩu trận đã lại xáp tới gần hơn. Chàng nóng lòng sốt ruột, tả chưởng sử chiêu "Kiến long tại điền", hữu chưởng sử chiêu "Cang long hữu hối" cùng đánh ra hai phía tả hữu, thấy bốn mươi chín người của Bắc Đẩu đại trận bên trái tiếp chiêu bên trái của chàng; còn bốn mươi chín người của Bắc Đẩu đại trận bên phải thì tiếp chiêu bên phải. Chàng lập tức biến chiêu, chiêu "Kiến long tại điền" biến thành chiêu "Cang long hữu hối", còn chiêu "Cang long hữu hối" thì biến thành chiêu "Kiến long tại điền".

Tài nghệ hai tay sử dụng cùng lúc hai chiêu số khác nhau đã hiếm, giữa chừng lại biến chiêu cho nhau, thì các đạo sĩ càng chưa từng thấy, từng nghe. Bắc Đẩu đại trận bên trái vốn định tiếp chiêu "Kiến long tại điền", còn Bắc Đẩu đại trận bên phải định tiếp chiêu "Cang long hữu hối", thế đánh của hai chiêu này tương phản, các đạo sĩ mỗi bên đều dồn sức đánh trả; nào ngờ giữa chừng chàng lai hoán đổi chiêu số; chỉ thấy thân hình chàng xuyên qua khe hẹp giữa hai trận; bốn mươi chín đạo sĩ bên trái và bốn mươi chín đạo sĩ bên phải cùng phát lực đánh tới phía trước, đâu còn kịp dừng tay? Chỉ nghe rầm một tiếng lớn, hai Bắc Đẩu đại trận đâm sầm vào nhau, kiếm gãy tay đau, trán sưng mắt bầm, hơn ba chục người ngã chổng kềnh.

Đạo sĩ râu dài chủ trì Bắc Đẩu trận pháp tuy lanh lẹ né tránh, không bị đồng đạo đả thương, nhưng cũng lao đao một phen, cả giận quát tháo, gấp gáp chấn chỉnh trận thế, chỉ thấy Quách Tĩnh chạy như bay xuống phía hồ Ngọc Thanh dưới chân núi, bèn đem mười bốn tiểu trận đuổi theo. Võ công của phái Toàn Chân vốn thanh tịnh vô vi, lấy nhu khắc cương, nay chủ soái động nộ, chính là phạm điều đại kỵ trong võ công phái Toàn Chân, không còn tỉnh táo, nói gì đến việc quan sát địch tình, tùy cơ ứng biến.

Quách Tĩnh chạy tới bên hồ Ngọc Thanh, thấy trước mặt ánh nước loang loáng, tay phải cầm kiếm liền chặt một cành liễu to trên bờ hồ, quăng kiếm đi, rồi dùng hai tay lẳng cành liễu ra tận giữa hồ. Đoạn chàng nhún chân, thân hình bay đi, đầu chân phải chạm xuống cành liễu, cành liễu hơi chìm xuống, thì chàng đã mượn sức vượt sang bờ hồ bên kia.

Các đạo sĩ ào ào đuổi theo không kịp dừng chân, chỉ nghe nhiều tiếng ùm ùm liên tiếp, bốn năm chục người nhảy tõm cả xuống hồ. Mấy chục người khác vấp vào lưng người đằng trước mới dừng lai được trên bờ hồ. Một số đạo sĩ không biết bơi, sau khi ngã xuống hồ, vùng vẫy chới với, các đạo sĩ biết bơi phải vội vã tiếp cứu. Các đạo sĩ bên hồ Ngọc Thanh ướt lướt thướt, hò hét ầm ĩ, thành một đám hỗn loạn.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 04: Môn hạ Toàn Chân

Quách Tĩnh thoát được sự níu chân của các đạo sĩ, đề khí chạy tới cung Trùng Dương, bỗng nghe tiếng chuông boong boong chính từ trong cung Trùng Dương vọng ra. Tiếng chuông gấp gấp, như truyền đi tiếng xin cấp cứu. Quách Tĩnh ngẩng nhìn, thấy tòa hậu viện của đạo quán có lửa bốc cao, chàng không khỏi kinh ngạc, nghĩ thầm: "Thì ra hôm nay phái Toàn Chân quả nhiên bị kẻ địch đại công kích, ta phải mau đến tiếp cứu". Nghe tiếng các đạo sĩ ở phía sau hô hoán ầm ĩ đuổi theo, bây giờ chàng mới hiểu rằng họ cứ tưởng lầm chàng là kẻ địch, hiện thời trong kia nguy cấp, họ sẽ quyết liều mạng với chàng, chàng bèn bỏ mặc họ đó lao lên núi.

Chàng thi triển thân pháp, vọt đi vài trượng một lần, lát sau đã tới trước cung Trùng Dương, chỉ thấy lửa cháy đùng đùng, khói dày cuộn cuộn, nhưng lạ thay, trong cung Trùng Dương vô số đạo sĩ mà chẳng thấy một ai ra cứu hỏa.

Quách Tĩnh thầm kinh ngạc, thấy mười mấy dãy đạo quán nằm rải rác trên núi, hậu viện đang cháy mạnh, nhưng tòa nhà chính thì chưa bén lửa, trong đó đầy tiếng huyên náo, tiếng binh khí va nhau. Quách Tĩnh nhún chân nhảy lên bức tường cao, thấy một cái sân rộng lố nhố đầy người, chính ở đấy người ta đang đánh nhau chí tử. Định thần nhìn kỹ, thấy bốn mươi chín đạo sĩ áo vàng dàn thành bảy Bắc Đẩu trận, đánh trả hơn một trăm tên địch. Bọn địch cao thấp lố nhố, đứa mập đứa gầy, y phục không giống nhau, võ công khác phái, kẻ dùng binh khí, kẻ thì tay không, từ bốn phương tám hướng ào ạt tấn công bảy Bắc Đẩu trận. Xem chừng một số tên địch võ công không kém, quân số lại đông, cho nên phái Toàn Chân đã lâm thế hạ phong. Có điều là bọn địch đánh riêng lẻ, bảy Bắc Đẩu trận thì tiếp ứng cho nhau, trận thế chặt chẽ, cho nên kẻ địch tuy mạnh, vẫn chưa làm gì nổi họ.

Quách Tĩnh định lên tiếng hỏi, chợt nghe trong đại điện ù ù tiếng gió, ở đó đang có người giao chiến, căn cứ âm thanh, thì võ công của những người trong đại điện cao hơn hẳn phía ngoài này. Quách Tĩnh bèn nhảy xuống sân, lách mình qua khe hở của ba Bắc Đẩu trận để lướt vào đại điện. Các đạo sĩ kinh hãi, sử kiếm định ngăn chàng lại, nhưng kẻ địch đang tấn công mạnh, họ không thể phân thân đuối theo chàng.

Trong đại điện vốn có mười mấy cây đuốc lớn sáng rực, nhưng lúc này ánh lửa từ phía hậu điện đã lấn hết ánh sáng của chúng; chỉ thấy có một dãy bảy cái bồ đoàn, bảy đạo sĩ ngồi xếp bằng trên đó, tả chưởng nối nhau, ai nấy giơ hữu chưởng chống đỡ sự vây công của hơn mười địch thủ.

Quách Tĩnh không nhìn bọn địch, mà nhìn bảy vị đạo sĩ trước. Thấy ba vị lão niên, bốn người trẻ tuổi. Ba vị lão niên chính là Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất. Bốn người trẻ tuổi, chàng chỉ biết một người là Doãn Chí Bình. Bảy người, từ vị trí Thiên Khu đến Dao Quang, dàn thành Bắc Đẩu trận, ngồi bất động. Phía trước bảy người có một đạo sĩ phủ phục dưới đất, không rõ sống chết, chỉ thấy mái tóc bạc phơ, không nhìn thấy mặt. Quách Tĩnh thấy các đạo sĩ đã nguy cấp, thì nhiệt huyết trào lên, bất kể kẻ địch là ai, chàng liền quát to như sấm:

– Tặc tử to gan, dám tới cung Trùng Dương làm loạn!

Hai tay chàng giơ ra túm lấy lưng hai tên địch, định hất ngã chúng, nào ngờ cả hai tên đều là hảo thủ, hai chân bám chắc xuống đất, không hề chao đảo. Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Bọn này cũng không đến nỗi tầm thường, chẳng trách hôm nay phái Toàn Chân bị núng thế". Chàng đột nhiên buông tay, quét chân một cái. Hai tên kia đang sử dụng công phu "Thiên cân trụy" chống đỡ lực tay của chàng, không ngờ chàng lại biến chiêu, thân hình cả hai liền bị bay ra cửa.

Bọn địch thấy đối phương có cao thủ tới tiếp tay, đều ngạc nhiên, nhưng cho rằng mình đã cầm chắc phần thắng, nên chủ quan, chỉ có hai tên tiến lại gần, quát:

– Ngươi là ai?

Quách Tĩnh chẳng buồn nói, song chưởng cùng đẩy ra. Hai tên kia chưa đến gần đã bị chưởng lực của chàng đẩy văng đi, đập lưng vào tường, hộc cả máu mồm. Bọn còn lại thấy chàng vừa ra tay đã đả thương liền bốn người, thì cả kinh, nhất thời chưa có tên nào dám xông lại.

Các vị Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất nhận ra chàng, vui mừng khôn xiết, nghĩ thầm: "Người này đã tới, thì phái Toàn Chân thoát nạn!"

Quách Tĩnh không để ý tới bọn địch, chàng quì xuống khấu đầu với các vị đạo trưởng, nói:

– Đệ tử Quách Tĩnh bái kiến.

Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất mỉm cười, gật đầu, giơ tay hoàn lễ. Doãn Chí Bình bỗng nói:

– Quách huynh chú ý.

Quách Tĩnh nghe sau gáy có tiếng gió, biết có kẻ ám toán, không đứng dậy, chống nhẹ hai tay xuống đất, tung hai chân lên đánh trúng huyệt "Hồn Môn" ở lưng hai kẻ đánh lén phía sau, hai tên đó tức thời khuỵu xuống; Quách Tĩnh thả hai chân xuống thì đè ngay lên hai cái bị thịt đó.

Mã Ngọc mỉm cười, nói:

– Tĩnh nhi đứng lên đi, hơn mười năm không gặp, võ công của con đại tiến rồi?

Quách Tĩnh đứng lên, nói:

– Mấy tên kia cần xử thế nào, xin đạo trưởng cứ phân phó.

Mã Ngọc chưa kịp trả lời, Quách Tĩnh nghe sau lưng có hai người cùng cất tiếng cười ha ha rất quái dị.

Chàng bèn quay lại, thấy hai người; một khoác hồng bào, đầu đội mũ vàng, thân hình khô gầy, là một Tạng tăng trung niên. Người thứ hai mặc cẩm bào màu vàng nhạt, tay cầm cây quạt gấp, trang điểm như một công tử quí phái, tuổi ngót ba mươi, vẻ mặt cao ngạo. Quách Tĩnh thấy hai người này phong độ trầm ổn, khác hẳn bọn địch còn lại, thì chàng không dám coi thường, bèn ôm quyền, nói:

– Hai vị là ai? Tới đây có việc gì chăng?

Công tứ quí phái nói:

– Thế các hạ là ai? Ở đây làm gì?

Khẩu âm của y lơ lớ, rõ ràng không phải là người Trung Thổ.

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ là đệ tử của mấy vị sư trưởng đây.

Công tử quí phái cười khẩy, nói:

– Không ngờ phái Toàn Chân lại còn có nhân vật cỡ này.

Tuổi y còn kém Quách Tĩnh vài năm, nhưng giọng điệu lời lẽ ra vẻ ta đây già dặn, kẻ cả. Quách Tĩnh đã định nói rõ rằng mình không phải là đệ tử của phái Toàn Chân, nhưng nghe giọng điệu của y, thì chàng hơi khó chịu, vốn không thạo nói năng, chàng cũng chẳng cần nhiều lời, chỉ nói:

– Hai vị có thù oán gì với phái Toàn Chân, tại sao lại hưng sư động chúng, phóng hỏa gây rối?

Công tử quí phái cười nhạt, nói:

– Ngươi là hậu bối của phái Toàn Chân, chỗ này không phải là chỗ để ngươi nói năng.

Quách Tĩnh nói:

– Các người tới đây thế này không khỏi quá ư ngang ngược.

Lúc này đám cháy lan đến gần, xem chừng chẳng mấy chốc sẽ cháy lan tới tòa nhà chính của cung Trùng Dương. Công tử quí phái xoè ra cụp vào cây quạt, tiến lên một bước, cười, nói:

– Mấy vị bằng hữu này đều do ta đưa đến, ngươi chỉ cần tiếp nổi ba mươi chiêu của ta, thì ta sẽ tha chết cho đám đạo sĩ thối tha này.

Quách Tĩnh thấy tình thế gấp gáp, không cần nhiều lời, tay phải chộp luôn lấy cây quạt kéo về phía mình; nếu gã công tứ quí phái không chịu buông cây quạt thì thân hình gã sẽ bị kéo sang. Công tử quí phái bị kéo, cố nhiên không buông cây quạt, thân hình chỉ lắc lư mấy cái. Quách Tĩnh thầm ngạc nhiên: "Người này còn ít tuổi mà chịu nổi cái kéo của ta, cách vận nội lực của y rất giống môn hộ của Tạng tăng Linh Trí Thượng Nhân, song khôn ngoan linh hoạt hơn Linh Trí Thượng Nhân nhiều chắc là một phái ở Tây Tạng. Cái khung của cây quạt đúc bằng sắt, chính là một thứ vũ khí". Chàng bèn tăng lực ở tay, quát:

– Buông này!

Sắc mặt của gã công tử quí phái đột nhiên xuất hiện màu tím, nhưng tan đi ngay. Quách Tĩnh biết gã vận gấp nội công chống đỡ, nếu chàng lúc này gia tăng kình lực, chỉ cần trên mặt gã xuất hiện ba lần sắc tím, thì nội tạng của gã sẽ bị trọng thương, thiết nghĩ người này luyện được công phu ấy hoàn toàn không dễ, nên chàng không nỡ nặng tay đả thương gã; chỉ mỉm cười, đột nhiên buông tay ra. Công tử quí phái thầm biết đối phương võ công cao hơn hẳn gã, chẳng qua muốn giữ thể diện cho gã, nên mới không đoạt lấy cây quạt mà thôi, bèn nhảy lùi lại, mặt đỏ bừng, nói:

– Thỉnh vấn quý tính đại danh của các hạ?

Giọng nói đã rất lễ độ. Quách Tĩnh nói:

– Tiện danh của tại hạ không đáng nhớ, các vị Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, Vương Chân Nhân ở đây đều là ân sư của tại hạ.

Công tử quí phái bán tín bán nghi, nghĩ bụng vừa rồi đấu chán chê với các lão đạo sĩ, thấy họ chỉ có "Thiên Cang Bắc Đẩu trận" là lợi hại, nếu đánh riêng từng người, thì không một ai địch nổi gã, ai ngờ họ lại có một đệ tử lợi hại nhường này; bèn ngắm kỹ Quách Tĩnh từ đầu xuống chân, thấy chàng diện mạo chất phác, hết sức bình thường, quần áo vải thô, chẳng khác gì một nông phu, vậy mà võ công thì cao thâm khôn lường, bèn nói:

– Các hạ võ công kinh nhân, tại hạ vô cùng thán phục, mười năm nữa xin trở lại lãnh giáo. Ở đây tại hạ còn một tục vụ chưa làm xong, bây giờ xin cáo từ.

Nói đoạn gã chắp tay chào. Quách Tĩnh ôm quyền đáp lễ nói:

– Mười năm nữa, tại hạ xin chờ sẵn ở đây.

Công tử quí phái quay mình đi ra khỏi đại điện, đến cửa, nói:

– Cuộc giao đấu giữa tại hạ với phái Toàn Chân hôm nay tại hạ tự nhận mình thua. Chỉ mong các vị phái Toàn Chân hãy lo chuyện của mình, đừng ngăn cản việc riêng tư của tại hạ.

Theo qui củ giang hồ, một người đã tự nhận mình thua trong cuộc giao đấu, rồi đã ước hẹn thời gian tái đấu, thì từ nay đến lúc hẹn đó, đôi bên dẫu có gặp nhau ở chỗ đường hẹp, cũng không được động thủ.

Quách Tĩnh nghe gã nói vậy, liền đồng ý ngay, nói:

– Điều đó dĩ nhiên.

Công tử quí phái mỉm cười, dùng Tạng ngữ nói vài câu với Tạng tăng, đang định bước ra, thì Khưu Xứ Cơ đột nhiên đề khí quát:

– Khỏi cần đợi mười năm, Khưu Xứ Cơ ta sẽ đến tìm ngươi.

Tiếng quát của Khưu Xứ Cớ làm rung mái ngói, chứng tỏ nội lực của lão đạo sĩ vô cùng thâm hậu.

Công tử quí phái thấy ong ong trong tai, giật mình nghĩ thầm: "Lão đạo sĩ này nội lực chẳng kém chút nào, thì ra ban nãy họ chưa dốc toàn lực". Gã không dám dừng lại thêm, rảo bước đi ra. Gã hồng bào Tạng tăng hậm hực nhìn Quách Tĩnh một cái, rồi cùng bọn kia lũ lượt kéo ra.

Quách Tĩnh thấy bọn kia có không ít kẻ diện mạo đặc biệt, hoặc mũi cao râu rậm, hoặc tóc vàng mắt sâu, hoàn toàn không phải người Trung Thổ, thì lòng đầy nghi vấn, chỉ nghe tiếng binh khí va chạm và tiếng giao đấu huyên náo ngoài sân lắng dần, biết kẻ địch đang rút lui.

Bảy vị đạo sĩ trong điện đứng dậy, vị đạo sĩ nằm phủ phục vẫn bất động. Quách Tĩnh bước lại cúi nhìn, thì ra Quảng Ninh Tử Hách Đại Thông, mới biết là các vị đạo trưởng tuy bị nguy song vẫn ngồi ngay bất động, là để bảo vệ sư đệ đồng môn. Chàng thấy Hách Đại Thông mặt vàng như nghệ, hô hấp thoi thóp, hai mắt nhắm nghiền, rõ ràng bị trọng thương. Quách Tĩnh cởi đạo bào cho lão, bất giác giật mình, thấy trên ngực có một dấu bàn tay xòe năm ngón, màu tím sẫm, thấm sâu vào trong da thịt, thì nghĩ thầm: "Võ công của kẻ địch đúng là một phái ở Tây Tạng, đây là công phu Đại thủ ấn". Chưởng không có độc, song công lực không thua gì Linh Trí Thượng Nhân năm nào. Chàng lại bắt mạch, may là mạch hồng, có lực, biết Hách Đại Thông là Huyền môn chính tông, tu luyện nhiều năm, nội lực thâm hậu, sẽ không nguy đến tính mạng.

Lúc này hỏa thế từ phía hậu viện đang lan tới gần. Khưu Xứ Cơ ôm Hách Đại Thông, nói:

– Chúng ta ra ngoài thôi.

Quách Tĩnh hỏi:

– Đệ tử có mang theo một đứa bé, không biết ai đang giữ nó? Liệu nó có bị nguy hiểm vì lửa chăng?

Các vị đạo trưởng toàn tâm chống địch, chưa biết chuyện đó, nghe chàng nói, đều hỏi:

– Là con của ai vậy? Nó đâu rồi?

Quách Tĩnh chưa kịp trả lời, bỗng nhoáng trong ánh lửa có một bóng đen, rồi một cậu bé từ trên xà nhà nhảy xuống, cười nói:

– Điệt nhi đây ạ.

Chính là Dương Quá. Quách Tĩnh cả mừng, hỏi:

– Sao Quá nhi lại trốn trên xà nhà?

Dương Quá cười đáp:

– Quách bá bá đấu với bảy đạo sĩ thối tha..

Quách Tĩnh quát:

– Nói bậy, mau bái kiến tổ sư gia!

Dương Quá lè lưỡi, khấu đầu với Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất; tới trước mắt Doãn Chí Bình, nó thấy người này còn trẻ, bèn quay sang hỏi Quách Tĩnh:

– Vị này không phải là tổ sư gia phải không ạ? Điệt nhi nghĩ không cần lạy tạ.

Quách Tĩnh nói:

– Vị này là Doãn sư bá, mau khấu đầu.

Dương Quá trong lòng không chịu, nhưng đành phải khấu đầu. Quách Tĩnh thấy nó không khấu đầu với ba vị đạo sĩ trung niên, thì quát:

– Quá nhi, sao vô lễ như vậy?

Dương Quá cười đáp:

– Điệt nhi đã khấu đầu xong rồi, các vị mau kẻo không kịp, Quách bá bá đừng trách điệt nhi.

Quách Tĩnh hỏi:

– Cái gì không kịp?

Dương Quá nói:

– Có một đạo sĩ bị trói ở nhà bên kia, nếu không sang cứu, chỉ e chết cháy.

Quách Tĩnh vội hỏi:

– Ở nhà nào? Nói mau!

Dương Quá chỉ tay về phía đông, nói:

– Hình như ở bên đó, cũng không biết ai trói nữa.

Nói rồi nó cười hì hì.

Doãn Chí Bình nhìn nó một cái, chạy vội sang sương phòng phía đông, thấy không có ai, liền chạy sang tịnh thất, nơi các đệ tử đời thứ ba tu luyện nội công, vừa đạp cửa ra, thì thấy bên trong mù mịt khói, một đạo sĩ bị trói vào chân giường, miệng kêu ú ớ, tình thế đã nguy kịch. Doãn Chí Bình liền rút kiếm, cắt dây trói, cứu đạo sĩ đó ra.

Lúc này Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Quách Tĩnh, Dương Quá đều đã ra khỏi đại điện, đứng trên dốc núi nhìn hỏa thế. Phía hậu viện, lưỡi lửa lem lém, ánh lửa ửng đỏ cả một khoảng không, nguồn nước trên núi vốn không đáng kể, chỉ có dòng suối nhỏ thường ngày lấy nước uống, dùng để cứu hỏa thật không thấm tháp gì. Mọi người đành trơ mắt nhìn tòa hậu viện sừng sững dần dần sụp đổ hóa thành đống tro tàn. Chúng đệ tử phái Toàn Chân hợp lực chia cắt đường lửa, không cho lan rộng sang các dãy nhà khác. Mã Ngọc tính rất bao dung, bình thản; Khưu Xứ Cơ thì nóng nảy, càng già càng nôn nóng hơn, nhìn lửa cháy đùng đùng cứ nghiến răng chửi rủa.

Quách Tĩnh chính đang định hỏi kẻ địch là bọn nào, vì sao lại hạ độc thủ, thì Doãn Chí Bình cắp một đạo sĩ béo mập từ trong khói chạy ra. Đạo sĩ kia cứ ho sặc sụa vì khói, nước mắt nước mũi ròng ròng, vừa nhìn thấy Dương Quá thì y cả giận, nhảy xổ tới. Dương Quá cười hi hi, nấp ngay vào sau lưng Quách Tĩnh. Gã đạo sĩ mập chẳng biết Quách Tĩnh là ai, túm ngực chàng đẩy sang một bên để tóm lấy Dương Quá, nào ngờ như chạm vào một bức tường, không xê dịch được chút nào. Gã đạo sĩ mập sững lại, giơ tay chỉ Dương Quá mà mắng:

– Thằng lỏi con, mi định hại chết cha mi.

Vương Xứ Nhất quát:

– Tịnh Quang, ngươi nói gì vậy?

Gã đạo sĩ mập tên Lộc Thanh Đốc, là một đồ tôn của Vương Xứ Nhất, vừa thoát hiểm cảnh chết cháy, trông thấy Dương Quá liền nhào tới bắt nó, chẳng để ý có Chưởng giáo Chân Nhân, sư tổ gia và Khưu sư tổ đều đang ở bên cạnh, nghe tiếng quát của Vương Xứ Nhất mới biết là mình vô lễ, toát mồ hôi lạnh, cúi đầu xuôi tay, nói:

– Đệ tử đáng chết!

Vương Xứ Nhất hỏi:

– Rốt cuộc là có chuyện gì?

Lộc Thanh Đốc nói:

– Là do đệ tử vô dụng, xin sư tổ gia cứ trách phạt.

Vương Xứ Nhất hơi cau mày, nói:

– Thì có ai bảo ngươi hữu dụng đâu? Ta hỏi ngươi có chuyện gì?

Lộc Thanh Đốc thưa:

– Thưa, thưa, đệ tử phụng mệnh Triệu Chí Kính Triệu sư thúc, đứng canh ở hậu viện, sau đó Triệu sư thúc dẫn thằng lỏi.. thằng.. thằng..

Gã định nói "thằng lỏi con", nhưng nghĩ trước mặt các vị sư tổ không được vô lễ, bèn sửa lại:

–.. Thằng bé này đến, giao cho đệ tử, bảo nó là do đại địch của bổn giáo đưa tới, bị Triệu sư thúc tóm được, sai đệ tử canh giữ nó cẩn thận, không cho nó chạy thoát. Đệ tử bèn dẫn thằng bé này vào tịnh thất kia; ngồi một lát, thằng.. thằng bé này bày quỉ kế, nói là muốn đại tiện, xin đệ tử cởi dây trói tay cho nó. Đệ tử tưởng nó là một đứa bé, cũng không sợ nó chạy mất, mới cởi trói cho nó, ai ngờ nó ngồi vào cái bô giả vờ đại tiện, lát sau đột nhiên đứng dậy, hắt cái bô phân và nước tiểu vào người đệ tử..

Lộc Thanh Đốc kể tới đây, Dương Quá phì cười, Lộc Thanh Đốc giận dữ nói:

– Thằng.. thằng bé này, mi cười cái gì?

Dương Quá ngẩng mặt lên trời, vừa cười vừa nói:

– Đây cười mình, đấy quản được chăng?

Lộc Thanh Đốc định đấu khẩu với Dương Quá, thì Vương Xứ Nhất nói:

– Đừng có hơn thua với một đứa bé, hãy kể tiếp xem.

Lộc Thanh Đốc nói:

– Vâng, vâng, sư tổ gia chưa biết đấy, thằng bé này giảo hoạt vô cùng. Đệ tử thấy nó hắt phân về phía mình, vội né tránh, thì nó cười cười bảo, ấy chết, đây lỡ tay làm bẩn quần áo của đằng ấy..

Mọi người thấy Lộc Thanh Đốc bắt chước giọng nói của Dương Quá nhắc lại lời nó, thì đều cười thầm.

Vương Xứ Nhất cau mày, định đuổi gã đồ tôn cho khuất mắt.

Lộc Thanh Đốc kể tiếp:

– Đệ tử bực quá, xông tới định đánh nó, nào ngờ nó lại ném cả cái bô phân vào người đệ tử, đệ tử quát to, mi giở trò gì thế, vội sử chiêu "Cấp lưu dũng thoái", tung cước đá trúng cái bô văng đi, không ngờ trượt chân bị ngã.. cái thằng.. thằng bé này lại thừa lúc đệ tử hoảng hốt, rút thanh bội kiếm của đệ tử, chĩa kiếm vào đầu đệ tử, bắt đệ tử phải ngồi im, nếu cựa quậy nó sẽ cho biết tay. Đệ tử đành phải ngồi im. Nó tay trái cầm kiếm, tay phải lấy dây thừng trói đệ tử vào chân giường, lại cắt một vạt áo nhét vào miệng đệ tử. Sau đó hậu viện bị cháy đệ tử đi không được, kêu chẳng xong, may có Doãn sư thúc, chứ không thì sẽ bị thằng bé này làm cho chết cháy.

Nói đoạn gã hậm hực nhìn Dương Quá.

Mọi người nghe gã kể xong, nhìn Dương Quá, lại nhìn gã, thấy một đằng gầy gò bé nhỏ, một đằng cao to mập mạp, không khỏi cười ồ lên.

Lộc Thanh Đốc không hiểu vì sao bị mọi người cười, đưa tay gãi gáy, chân tay bối rối.

Mã Ngọc cười, nói:

– Tĩnh nhi, đứa bé này là con của ngươi đó ư? Chắc nó học được bản lĩnh của mẫu thân nó, nên cơ linh phải biết.

Quách Tĩnh nói:

– Thưa không, nó là con của nghĩa đệ Dương Khang, khi phụ thân nó mất, nó còn trong bụng mẹ đấy ạ.

Khưu Xứ Cơ nghe hai tiếng Dương Khang thì nhìn kỹ Dương Quá, quả nhiên thằng bé mặt mũi có nhiều nét hao hao Dương Khang. Dương Khang là tục gia đệ tử duy nhất của lão nhân, tuy tham đồ phú quí, nhận giặc làm cha, nhưng Khưu Xứ Cơ mỗi khi nhớ đến, đều cho là mình không biết giáo huấn, để cho hắn sa vào con đường lầm lạc; nay nghe hắn có kẻ nối dõi, thì vừa thương cảm, vừa vui mừng, vội hỏi thật kỹ.

Quách Tĩnh kể vắn tắt thân thế của Dương Quá, rồi bảo rằng chàng mang nó đến đây để bái nhập môn hạ phái Toàn Chân. Khưu Xứ Cơ nói:

– Tĩnh nhi, võ công của ngươi từ lâu đã cao hơn bọn ta, sao không tự truyền thụ cho nó?

Quách Tĩnh nói:

– Chuyện này đệ tử xin bẩm cáo sau. Hôm nay đệ tử lên đây, đắc tội với quá nhiều đạo huynh, thật là áy náy, xin tạ tội với các vị đạo trưởng, xin được lượng thứ cho.

Rồi chàng kể lại việc bị các đạo sĩ cho là kẻ địch, phải liên tiếp động thủ. Mã Ngọc nói:

– Nếu Tĩnh nhi không kịp tới cứu viện, e rằng phái Toàn Chân khó tránh đại bại. Tất cả đều là người một nhà, không cần nói đến chuyện đắc tội gì nữa.

Khưu Xứ Cơ lông mày lưỡi mác đã dựng lên từ nãy, chờ sư huynh chưởng giáo nói xong, liền nói:

– Chí Kính chủ trì chiến trận bên ngoài, bất phân địch ta, thật là vô dụng. Ta đang lấy làm lạ, chuyện này kể ra thì dài, để ta dẫn ngươi đi xem cái này.

Nói đoạn quay sang gật gật đầu với Mã Ngọc và Vương Xứ Nhất, rồi quay mình đi ra sau núi. Quách Tĩnh nói với Dương Quá:

– Quá nhi, hãy ở đây chờ ta, đừng đi đâu cả.

Rồi chàng đi theo Khưu Xứ Cơ, thấy lão đạo sĩ đi nhanh ra sau núi, vẻ hăng hái y hệt thời trẻ.

Hai người tới một đỉnh núi. Khưu Xứ Cơ bước lại phía sau một tảng đá lớn, nói:

– Ở đây có khắc chữ.

Lúc này sắc trời mờ tối, phía sau tảng đá lớn càng tối hơn, Quách Tĩnh đưa tay sờ, quả nhiên thấy trên mặt đá có chữ, bèn sờ tay theo hàng chữ mà đọc nhẩm, hóa ra là một bài thơ như sau:

Tử Phòng ôm mộng phản Tần

Nhặt hài ba lượt dưới chân thạch kiều

Một tay phò tá Hán triều

Chống trời trụ đất cao siêu không cùng

Công thành rũ áo ung dung

Lui về theo gót Xích Tùng ngao du

Kỳ nhân cùng với kỳ thư

Có đâu tìm kẻ thiên tư tầm thường

Toàn Chân khởi tự Trùng Dương

Thanh cao khoát đạt một phương anh hùng

Dựng cờ đánh đuổi Khuyển Nhung

Vận trời khó cưỡng thu lòng mộ sâu

Ban sơ truyền đạo nhiệm màu

Hai tiên kim cổ gặp nhau chốn này

Chung Nam núi ấy hôm nay

Điện thờ cao vút tầng mây trập trùng

Quách Tĩnh dùng ngón tay ấn theo các nét bút viết trên đá, bỗng kinh ngạc thấy các nét bút hoàn toàn phù hợp với ngón tay, nghĩa là người ta đã dùng ngón tay viết trên đá, thì chàng buột miệng thốt lên:

– Dùng ngón tay viết trên đá!

Khưu Xứ Cơ nói:

– Việc này mà kể ra thì người nghe phải kinh hoàng, nhưng đúng là dùng ngón tay viết trên đá!

Quách Tĩnh lấy làm lạ, nói:

– Chẳng lẽ thế gian có người thần tình như vậy thật sao?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Bài thơ trên do hai người viết, cả hai người ấy đều là nhân vật kiệt xuất trong võ lâm. Người viết tám câu đầu có thân thế vô cùng đặc biệt, văn võ toàn tài, phiêu dật tuyệt luân, tuy không phải là thần tiên, song cũng là nhân kiệt trăm năm mới có.

Quách Tĩnh hết sức ngưỡng mộ, vội hỏi:

– Vị tiền bối đó là ai vậy? Đạo trưởng có thể dẫn kiến cho đệ tử được bái hội hay chăng?

Khưu Xứ Cơ đáp:

– Ta cũng chưa được gặp vị đó. Ngươi hãy ngồi xuống đây, nghe ta kể cho biết duyên do sự việc hôm nay.

Quách Tĩnh vâng lời ngồi xuống một táng đá, nhìn lửa lụi dần ở lưng núi, nghĩ thầm: "Tiếc rằng lần này Dung nhi không cùng đi với ta, nếu không có phải đã được nghe Khưu đạo trưởng kể cho nghe kỳ tích rồi?".

Khưu Xứ Cơ nói:

– Ý tứ bài thơ thế nào, ngươi có hiểu được không?

Quách Tĩnh hiện đã là trung niên, nhưng Khưu Xứ Cơ nói với chàng cứ như thể chàng còn là một thiếu niên hơn mười năm trước; Quách Tĩnh cũng cảm thấy nên như vậy, bèn đáp:

– Tám câu đầu là nói về Trương Lương. Câu chuyện ấy đệ tử từng nghe Dung nhi kể, nên cũng hiểu được, rằng Trương Lương có nhặt giày cho một lão nhân ở dưới cầu; lão nhân bảo trẻ nhỏ dễ dạy, truyền cho Trương Lương một quyển sách lạ. Về sau Trương Lương phò tá Hán Cao Tổ khai quốc, được tôn là một trong ba "Hán hưng tam kiệt", cuối cùng thành công liền xin lui về ẩn cư, làm bạn với những cây tùng đỏ. Còn tám câu sau nói về sự tích tổ sư Trùng Dương, đệ tử không hiểu cho lắm.

Khưu Xứ Cơ hỏi:

– Ngươi có biết tổ sư Trùng Dương là ai không?

Quách Tĩnh sững người, đáp:

– Tổ sư Trùng Dương là sư phụ của đạo trưởng, là tổ sư khai sáng phái Toàn Chân, tại cuộc luận kiếm ở Hoa Sơn, là đệ nhất võ công thiên hạ.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng thế, nhưng còn thời trẻ thì sao?

Quách Tĩnh lắc đầu, nói:

– Đệ tử không biết.

Khưu Xứ Cơ nói:

– "Kiêu kiêu anh hùng tư, Thừa thời hoặc cát cứ".

Ân sư của ta không phải ngay từ đầu đã làm đạo sĩ. Thời niên thiếu, người học văn, sau mới luyện võ, là một vị anh hùng hảo hán tung hoành giang hồ, vì căm ghét quân Kim xâm lược, cướp đất của chúng ta, giết hại dân ta, mà người đã giương cờ khởi nghĩa, đánh lại quân Kim, chiếm thành giữ đất, xây dựng ở Trung Nguyên một sự nghiệp oanh liệt. Nhưng về sau quân Kim quá mạnh, ân sư liên tục đánh thua nhiều trận, tướng sĩ thương vong gần hết, người mới phẫn chí xuất gia. Bấy giờ ân sư xưng là "Hoạt tử nhân", ở trong một ngôi mộ cổ trên núi Chung Nam này mấy năm liền, không ra khỏi mộ một bước, ngụ ý là tuy sống đấy, nhưng coi như đã chết, không muốn đội trời chung với quân Kim. Ba chữ "Hoạt tử nhân" là hàm ý như vậy.

Quách Tĩnh nói:

– Thì ra thế.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Mấy năm sau, cố nhân hảo hữu, đồng bào cựu bộ của ân sư liên tiếp đến thăm, khuyên người rời mộ dựng lại sự nghiệp. Ân sư đã không còn chí hướng như xưa, lại cảm thấy không còn mặt mũi nào nhìn bằng hữu cũ chốn giang hồ, nên thủy chung vẫn không rời mộ. Tám năm sau, có một kình địch ngày trước của ân sư tới bên mộ nhục mạ ân sư suốt bảy ngày bảy đêm, ân sư hết bề nhịn nổi, liền ra khỏi mộ để giao đấu. Ai ngờ người kia phá lên cười ha hả, nói:

– Đã ra khỏi mộ, tức là sống lại rồi, thì không được vào mộ nữa.

Ân sư bỗng ngộ ra, mới biết kình địch nhục mạ mình là vì thiện ý, không muốn mình chôn vùi tài nghệ trong mộ. Thế là hai người hóa thành bằng hữu, cùng hành tẩu giang hồ.

Quách Tĩnh nghĩ đến phong cách hiệp nghĩa của tiền bối, bất giác chăm chú, hỏi:

– Vị tiền bối đó là ai vậy? Chắc là một trong bốn đại tông sư, không phải Đông Tà, Tây Độc, thì là Nam Đế, Bắc Cái?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Không phải. Luận về võ công, người ấy còn cao hơn cả bốn đại tông sư, nhưng vì là nữ, không xuất đầu lộ diện, nên ít ai bên ngoài hay biết.

Quách Tĩnh nói:

– Ồ, thì ra là nữ.

Khưu Xứ Cơ thở dài, nói:

– Vị tiền bối đó đối với ân sư rất có tình ý, chỉ mong kết thành phu phụ với ân sư. Bấy giờ hai người cứ không ngừng gây sự với nhau, chẳng qua cũng vì vị tiền bối đó cố ý gần gũi với ân sư; có điều là nàng quá kiêu hãnh, nên nhất quyết không muốn thổ lộ tình ý trước. Lâu ngày tất nhiên ân sư cũng hiểu thôi, nhưng mối thù của đất nước chưa nguôi, ân sư thường nói, chưa diệt Hung nô, không tính chuyện gia thất. Trước thâm tình hậu ý của vị tiền bối kia, ân sư giả ngây không biết. Vị tiền bối thì lại cho rằng ân sư coi thường nàng ta, nên oán hận vô cùng. Hai người vốn đã từ thù hóa thành bạn, bây giờ lại vì ái tình mà hóa thành thù địch, hẹn nhau tỷ võ quyết thắng một phen trên núi Chưng Nam.

Quách Tĩnh nói:

– Đâu cần phải thế.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng vậy! Ân sư biết rõ thiện ý của nàng, nên nhất mực nhường nhịn. Ai ngờ nàng ta tính nết ngang ngạnh, nói:

– Huynh càng nhường nhịn, tức là càng coi muội chẳng ra gì.

Ân sư hết cách, đành phải động thủ với nàng ta. Bấy giờ hai vị tiền bối tỷ võ với nhau ở chính chỗ này đây; đấu mấy nghìn chiêu, ân sư không nặng tay, nên mãi vẫn khó phân thắng bại. Nàng ta tức giận, nói:

– Huynh hoàn toàn không có ý giao đấu với muội, vậy định coi muội là hạng người như thế nào?

Ân sư nói:

– Tỷ võ khó phân thắng bại, thì ta tỷ văn vậy.

Nàng ta nói:

– Cũng được, nếu muội thua, suốt đời muội sẽ không nhìn mặt huynh, để cho huynh khỏi chướng mắt bẩn tai.

Ân sư hỏi:

– Nếu muội thắng thì sao?

Nàng ta đỏ mặt, chẳng biết trả lời thế nào, cuối cùng nghiến răng, nói:

– Thì huynh phải cho muội trú trong "Hoạt tử nhân mộ".

Câu này của nàng thật là văn vẻ, ngụ ý là nếu nàng thắng, thì sẽ cùng ân sư chung sống trong ngôi mộ. Ân sư thấy quá khó, tự liệu võ công cao hơn nàng một bậc, bị buộc thế này thì đành phải thắng nàng, để tránh mọi sự rắc rối về sau, bèn hỏi nàng cách thi đấu.

Nàng nói:

– Hôm nay chúng ta mệt rồi, tối mai hãy phân thắng bại.

Hoàng hôn hôm sau, hai người lại gặp nhau ở đây. Nàng nói:

– Trước khi thi đấu, hãy định qui củ đã.

Ân sư hỏi:

– Còn định qui củ gì nữa?

Nàng ta nói:

– Nếu huynh đắc thắng, muội sẽ tự vẫn tại chỗ, thế là không bao giờ còn thấy mặt nhau. Nếu muội thắng, thì huynh phải cho muội trú trong "hoạt tử nhân mộ", suốt đời nghe muội sai bảo, không được làm trái bất cứ việc gì. Nếu không, huynh sẽ phải xuất gia, hoặc làm đạo sĩ, hoặc làm hòa thượng. Dù làm đạo sĩ hay hòa thượng, thì cũng phải xây dựng tự quán trên núi, ở bên muội mười năm.

Ân sư đã hiểu thầm: "Suốt đời nghe muội sai bảo, tức là ta phải lấy nàng làm vợ. Nếu không, phải làm hòa thượng hoặc đạo sĩ, thì sẽ khỏi phải lấy nàng. Ta nỡ nào thắng nàng, buộc nàng tự sát kia chứ? Nhưng ở trên núi với nàng mười năm thì cũng khó đây!". Ân sư cứ lưỡng lự mãi. Thực ra, về diện mạo cũng như võ công, nàng ta đều vào hàng đệ nhất, mối thâm tình của nàng cũng không phải không khiến cho ân sư động tâm; nhưng chẳng hiểu sao, nói đến chuyện kết thành phu phụ, thì dường như hai người không có duyên phận. Ân sư trầm ngâm hồi lâu, đã quyết định, người này nói sao làm vậy nàng ta mà thua ắt sẽ tự sát; thôi thì ta quên mình theo người, bất kể thi kiểu gì, ta cũng thua nàng cho rồi, bèn nói:

– Được, cứ thế.

Nàng nói:

– Cách thi văn của chúng ta cực dễ. Hai bên dùng ngón tay khắc trên tảng đá này vài chữ, ai viết đẹp hơn thì thắng.

Ân sư nói:

– Dùng ngón tay làm sao có thể khắc chữ trên đá?

Nàng nói:

– Cái đó gọi là thi công phu sử dụng đầu ngón tay, xem ai khắc được sâu hơn.

Ân sư lắc đầu, nói:

– Huynh không phải là thần tiên, làm sao có thể dùng ngón tay khắc chữ trên đá kia chứ?

Nàng ta nói:

– Nếu muội làm được, thì huynh chịu thua chứ?

Ân sư lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, nghĩ bụng thế gian quyết không thể có chuyện đó, đây chính là dịp chấm dứt trò thi đấu, thành cục diện bất phân thắng bại, bèn nói:

– Nếu muội có tài như vậy, dĩ nhiên là huynh chịu thua. Nếu muội không làm được, thì hai ta bất phân cao thấp, khỏi cần tỷ thí gì nữa.

Nàng ta cười, nói:

– Được rồi, huynh chuẩn bị làm đạo sĩ đi thì vừa.

Nói xong tay trái nàng xoa xoa trên mặt đá một hồi lâu, ngẫm nghĩ, nói:

– Muội nên khắc chữ gì cho hay nhỉ? Ồ, xưa nay người xuất gia, thì vị anh hùng hào kiệt số một là Trương Tử Phòng. Trương Tử Phòng chống quân Tần tàn bạo, không ham danh lợi, chính là tiền bối của huynh.

Thế là nàng dùng ngón trỏ tay phải viết chữ trên đá, ân sư thấy ngón tay nàng đưa tới đâu, vụn đá rơi lả tả tới đó, quả nhiên thành từng hàng chữ một, thì sửng sốt quá đỗi. Những chữ nàng viết trên đá chính là tám câu đầu của bài thơ này. Ân sư quá thán phục, không còn gì để nói, ngay tối hôm đó, dọn ra khỏi "hoạt tử nhân mộ", để cho nàng vào ở trong đó. Hôm sau thì ân sư xuất gia làm đạo sĩ, cạnh "hoạt tử nhân mộ" xây dựng một đạo quán nho nhỏ, là tiền thân của cung Trùng Dương bây giờ.

Quách Tĩnh vô cùng ngạc nhiên, đưa ngón tay sờ sờ lần nữa, quả nhiên không phải là tạc hay khắc, mà là dùng ngón tay ấn mạnh để viết trên đá, bèn nói:

– Công phu dùng ngón tay của vị tiền bối ấy quả thật kinh hồn.

Khưu Xứ Cơ ngửa mặt lên trời cười ha hả, nói:

– Tĩnh nhi, việc đó đã lừa được ân sư, lừa được ta, lừa được cả ngươi nữa. Nhưng nếu nội tướng (vợ) của ngươi bấy giờ có mặt ở đó, thì chắc chắn sẽ không bị lừa.

Quách Tĩnh tròn mắt hỏi:

– Không lẽ có sự dối trá trong đó?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Dối trá thì không. Ngươi thử nghĩ xem, thời nay luận về chỉ lực thì ai đứng số một?

Quách Tĩnh nói:

– Tất nhiên là "Nhất dương chỉ" của Nhất Đăng đại sư.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng thế. Nếu sử dụng "chỉ thượng công phu" xuất thần nhập hóa của Nhất Đăng đại sư, dẫu khắc chữ trên gỗ cũng vị tất đã được, huống hồ viết chữ trên đá? Mà nàng ta thì không phải là Nhất Đăng đại sư. Ân sư làm đạo sĩ rồi, nghĩ mãi vẫn không hiểu nổi chuyện này. Sau đó nhạc phụ ngươi là Hoàng Dược Sư tiền bối có lên núi Chung Nam, ân sư biết Hoàng Dược Sư tiền bối là bậc túc trí đa mưu, mới kể lại chuyện và thỉnh giáo. Hoàng đảo chủ nghĩ hồi lâu, rồi cười ha hả, nói:

– Ta cũng có thể làm được, nhưng công phu như thế hiện chưa luyện xong. Một tháng sau ta sẽ trở lại.

Nói rồi Hoàng đảo chủ cười cười xuống núi. Một tháng sau Hoàng đảo chủ trở lại thật, cùng ân sư tới bên tảng đá này. Vị nữ tiền bối nọ viết cả thảy tám câu, đến "Dị nhân dữ dị thư, Tạo vật bất khinh phó" thì dừng, ngụ ý muốn ân sư làm theo Trương Lương, lánh đời xuất gia. Hoàng đảo chủ tay trái xoa xoa trên mặt đá hồi lâu, đột nhiên giơ tay phải, dùng ngón tay viết trên đá từ câu "Trùng Dương khởi Toàn Chân" đến câu "Điện các lăng vân vụ" thì dừng, toàn là những lời ca tụng ân sư cả.

Ân sư thấy các chữ cũng hằn sâu vào đá không khác gì lần trước, thì càng kinh ngạc hơn, nghĩ thầm: "Tài nghệ của Hoàng Dược Sư hiển nhiên hơn ta một bậc, làm cách nào mà luyện được chỉ lực lợi hại đến thế không biết?". Trong bụng đầy nghi vấn, đột nhiên giơ ngón tay ấn vào mặt đá một cái, thì lạ thay, mặt đá lõm vào thành một cái lỗ như thế này đây.

Nói xong Khưu Xứ Cơ kéo ngón tay Quách Tĩnh tới một chỗ trên mặt đá. Quách Tĩnh dùng ngón tay trỏ ấn vào thấy lọt một đốt, thì nghĩ thầm: "Không lẽ mặt đá chỗ này đặc biệt mềm, không như chỗ khác", bèn vận kình ra đầu ngón tay trỏ, ấn thử, thì đau ngón tay mà đá thì chẳng suy suyển gì.

Khưu Xứ Cơ cười nói:

– Ngốc nghếch như ngươi thì chẳng nghĩ ra được bí quyết đâu. Vị nữ tiền bối kia trước khi dùng ngón tay viết chữ, đã dùng bàn tay trái xoa xoa hồi lâu trên mặt đá, nguyên trong lòng bàn tay có giấu một loại "hóa thạch đan" làm cho mặt đá mềm đi, bằng thời gian cháy hết một que nhang mới cứng trở lại. Hoàng đảo chủ đoán biết như thế, mới xuống núi tìm thảo dược, chế hóa thạch đan, viết được y như vị nữ tiền bối kia.

Quách Tĩnh im lặng hồi lâu, nghĩ thầm: "Nhạc phụ của ta tài trí chả kém gì vị nữ tiền bối kia, nhưng không biết hiện giờ nhạc phụ đang ở đâu".

Khưu Xứ Cơ không rõ tâm sự của Quách Tĩnh, kể tiếp:

– Ân sư hồi mới làm đạo sĩ, trong tâm hết sức bất bình, nhưng đọc nhiều sách đạo rồi, cuối cùng đại triệt đại ngộ, hiểu rằng tất cả đều là duyên pháp; lại nghiền ngẫm diệu chỉ thanh tịnh hư vô, khổ tâm tiềm tu, làm sáng danh giáo phái. Nếu không có sự kích động của vị nữ tiền bối kia, hẳn trên thế gian đã chẳng có giáo phái Toàn Chân, Khưu mỗ cũng không có ngày hôm nay, Quách Tĩnh ngươi cũng không biết giờ này ở đâu.

Quách Tĩnh gật đầu, hỏi:

– Không biết vị nữ tiền bối húy danh là gì, hiện còn sống hay chăng?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Vị nữ tiền bối đó hồi ấy hành hiệp giang hồ, hành tích bí ẩn lạ thường, rất ít người biết được mặt nàng. Trừ Ân sư ra, e rằng trên thế gian không còn ai biết họ tên thật của nàng ta. Ân sư cũng không nói cho ai biết. Nàng ta đã từ trần từ trước khi diễn ra cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ nhất, nếu không với võ công và tính nết như thế, lẽ nào nàng ta lại không tham gia?

Quách Tĩnh gật đầu, nói:

– Đúng thế. Không biết có để lại truyền nhân hay chăng?

Khưu Xứ Cơ thở dài, nói:

– Rắc rối chính là ở chỗ này. Vị nữ tiền bối ấy bình sinh không thu nhận đệ tử, chỉ có một a hoàn hầu cận, hai người khổ thủ ở trong nhà mộ, hơn mười năm không ra ngoài. Bao nhiêu võ công kinh nhân, vị nữ tiền bối đều truyền thụ cả cho a hoàn. Nữ a hoàn ấy không đặt chân vào chốn giang hồ, dĩ nhiên không ai hay biết. Nữ a hoàn đó có thu nhận hai đệ tử. Một người họ Lý, chắc ngươi có biết, trên giang hồ người ta vẫn gọi nàng ta là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu.

Quách Tĩnh ồ lên một tiếng, nói:

– Nàng Lý Mạc Sầu tính nết tàn độc thì ra xuất thân từ đấy.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Ngươi đã gặp Lý Mạc Sầu rồi ư?

Quách Tĩnh lắc đầu, nói:

– Dạ chưa. Đệ tử chưa gặp mặt, chỉ thấy mấy nạn nhân bị nàng ta hạ sát vô cùng tàn bạo, xem ra còn ác độc hơn cả Thiết Thi Mai Siêu Phong ngày trước.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Ngươi không đả thương nàng ta cũng là cái hay, nếu không sẽ hết sức phiền toái. Sư muội của Lý Mạc Sầu họ Long..

Quách Tĩnh chột dạ, hỏi:

– Có phải là thiếu nữ họ Long hay không?

Khưu Xứ Cơ mặt hơi biến sắc, hỏi:

– Sao, ngươi cũng gặp nàng ta rồi ư? Vì chuyện gì thế?

Quách Tĩnh đáp:

– Đệ tử chưa hề gặp người đó, chỉ là khi lên núi, mấy lần đệ tử cứ bị các vị đạo huynh chửi là yêu nhân dâm tặc, bảo rằng đệ tử vì thiếu nữ họ Long mà đến, khiến đệ tử chẳng hiểu đầu cua tai nheo sao cả.

Khưu Xứ Cơ cười to, rồi thở dài, nói:

– Cung Trùng Dương gặp kiếp nạn cũng đáng. Nếu không có sự ngộ nhận ấy, thì "Thiên Cang Bắc Đẩu đại trận" đã chặn đứng được bọn tà ma kia, ngươi đã nhanh chóng lên trên núi, Hách sư đệ cũng chẳng đến nỗi bị trọng thương.

Thấy vẻ mặt ngơ ngác của Quách Tĩnh, Khưu Xứ Cơ nói tiếp:

– Hôm nay là ngày thiếu nữ họ Long tròn mười tám tuổi.

Quách Tĩnh tiếp lời:

– Thì ra là nàng ta tròn mười tám tuổi.

Nhưng một thiếu nữ tròn mười tám tuổi, tại sao lại liên quan đến đại họa, thì chàng không hiểu gì cả.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Thiếu nữ họ Long tên là gì, người ngoài chẳng ai hay biết. Bọn tà ma ngoại đạo gọi nàng ta là Tiểu Long Nữ. Chúng ta cũng cứ tạm gọi nàng ta như vậy. Mười tám năm về trước, một đêm nọ, bên ngoài cung Trùng Dương bỗng dưng có tiếng khóc trẻ thơ, đệ tử trong cung vội ra xem, thấy một đứa bé sơ sinh quấn tã đặt dưới đất. Cung Trùng Dương nhận nuôi dưỡng một đứa bé sơ sinh dĩ nhiên là không tiện chút nào, song người tu hành lấy từ bi làm gốc, không thể bỏ mặc một đứa bé sơ sinh.

Hôm ấy sư huynh chưởng giáo và ta không có trên núi, các đệ tử chưa biết làm thế nào, đột nhiên có một phụ nữ trung niên từ sau núi tới nói:

– Đứa bé này thật đáng thương, để ta mang nó về nuôi!

Các đệ tử chẳng mong gì hơn, bèn giao đứa bé cho người phụ nữ ấy. Khi Mã sư huynh và ta về cung, mọi người kể chuyện đó, miêu tả diện mạo của người phụ nữ kia, bọn ta mới biết người đó chính là a hoàn sống trong "hoạt tử nhân mộ". Người ấy và Toàn Chân Thất Tử bọn ta từng gặp nhau mấy lần, nhưng không hề trò chuyện với nhau. Hai bên cách nhau tuy rất gần, nhưng vì bề trên đôi bên có chuyện bất hòa, cho nên đôi bên không quan hệ gì với nhau. Bọn ta nghe kể chuyện kia, cũng không để tâm.

Sau này nữ đệ tử Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu xuống núi, hành sự tàn ác, võ nghệ cực cao, gây một phen sóng gió ngả nghiêng trong giang hồ. Phái Toàn Chân mấy lần thương nghị định trừng trị nàng ta, nhưng cuối cùng vẫn không ra tay vì nể mặt vị đạo hữu ở trong mộ. Bọn ta viết một bức thư gửi sang ngôi mộ, lời lẽ vô cùng khách khí. Nhưng sau khi đưa thư sang đó, mãi vẫn không thấy hồi âm, người phụ nữ kia cứ dung túng cho Lý Mạc Sầu như cũ, không quản thúc gì hết.

Mấy năm sau, một hôm trên nhà mộ treo lên một cây phướn trắng. Bọn ta biết là vị đạo hữu kia đã từ trần, thế nên sáu huynh đệ bọn ta sang đó thăm viếng. Lễ viếng ở bên ngoài nhà mộ vừa xong, thì từ trong nhà mộ có một thiếu nữ mười ba mười bốn tuổi bước ra đáp lễ, cảm tạ, nói:

– Lúc sư phụ lâm chung, có bảo đệ tử thưa với các vị đạo trưởng, là người kia hoành hành tác ác, sư phụ tự có cách chế ngự, xin các vị đừng lo ngại.

Nói xong quay người đi vào. Bọn ta định hỏi cho rõ, thì nàng ta đã đi vào trong mộ. Ân sư từng có di huấn, bất cứ ai là môn hạ của phái Toàn Chân đều không được bước vào trong nhà mộ. Nàng ta đã đi vào rồi thì thôi, có điều ai nấy lấy làm lạ, vị đạo hữu kia đã chết, thì làm sao còn có cách chế ngự đệ tử kia chứ? Thấy thiếu nữ cô đơn đáng thương, bọn ta thường đưa sang tặng một số lương thực vật dụng, nhưng lần nào thiếu nữ cũng để nguyên, sai một người tỳ nữ mang trả lại. Bọn ta thấy thiếu nữ này cũng muốn lánh đời như tổ sư và sư phụ của nàng ta, nhưng nàng ta đã có một tỳ nữ hầu hạ, nên bọn ta cũng chẳng hơi đâu lo thay cho người khác. Sau đó bọn ta bận rộn công việc ở khắp nơi, ít ở trong cung. Tin tức về cô nương ấy bọn ta cũng hiếm khi nghe nói, chả biết thế nào. Lý Mạc Sầu thì tự dưng không nghe nói gây sự gì trên giang hồ cả. Bọn ta cho rằng vị đạo hữu kia quả có diệu sách để lại, nên rất khâm phục.

Mùa xuân năm ngoái, ta cùng Vương sư đệ đến vùng Tây Bắc có công việc, tại nhà một vị đại hiệp ở Cam Châu, có nghe được một cái tin đáng sợ, rằng một năm sau, bọn tà ma ngoại đạo từ bốn phương sẽ tụ tập ở núi Chung Nam để hành sự. Núi Chung Nam là căn cứ địa chủ yếu của phái Toàn Chân, bọn chúng tới tất nhiên là để gây sự với bổn giáo, há có thể không đề phòng? Ta cùng Vương sư đệ còn e tin này không đích xác phái người đi các nơi dò la, quả nhiên không phải là tin bịa đặt. Có điều là bọn chúng tới núi Chung Nam không phải để tấn công bổn giáo, mà là có mưu đồ đối với nàng Tiểu Long Nữ trong "Hoạt tử nhân mộ".

Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Đối với một thiếu nữ nhỏ tuổi, lại không hề ra bên ngoài, sao lại có chuyện sinh oán kết cừu với bọn tà ma ngoại đạo?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Rốt cuộc nội tình ra sao, cũng chẳng liên quan gì tới chúng ta, kể ra cũng không cần can thiệp. Nhưng một khi bọn tà ma ngoại đạo đến núi Chung Nam, chúng ta không thể khoanh tay đứng ngoài, thế là mới tìm cách thám thính, thì biết việc này là do sư tỷ của Tiểu Long Nữ gây nên.

Quách Tĩnh hỏi:

– Do Lý Mạc Sầu ư?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng thế. Nguyên sư phụ của hai nàng dạy võ cho Lý Mạc Sầu được mấy năm, thấy bản tính của nàng ta độc ác, bèn bảo rằng nàng ta học nghệ đã thành, có thể hạ sơn. Hồi sư phụ còn sống, Lý Mạc Sầu tuy hành ác, song vẫn có vài phần nghi ngại. Khi sư phụ qua đời rồi, nàng ta mượn có viếng tang, xông vào lục lọi trong tòa cổ mộ, định đuổi sư muội ra ngoài. Nàng ta tự biết chưa được học hết võ công của sư tổ và sư phụ, muốn lục lọi trong mộ xem có bí kíp võ công nào để lại hay chăng. Nào ngờ trong nhà mộ bố trí rất nhiều cơ quan xảo diệu, Lý Mạc Sầu phí bao tâm cơ mới qua được hai cửa, ở cửa thứ ba nàng ta nhìn thấy một bức di thư của sư phụ. Sư phụ của nàng ta sớm đã dự liệu việc nàng ta sẽ tới đây, bức thư này chờ nàng ta từ lâu, trong đó viết, vào ngày mỗ tháng mỗ năm mỗ, sư muội của nàng sẽ tròn mười tám tuổi, từ lúc ấy sẽ bắt đầu đảm nhận cương vị chưởng môn phái. Di thư còn dặn nàng ta phái sửa chữa lỗi lầm đã phạm, nếu không ắt khó có được kết cục tử tế; cũng nói rõ, nếu nàng ta còn làm điều ác, sư muội của nàng ta sẽ lấy tư cách chưởng môn mà thanh lý môn hộ.

Lý Mạc Sầu tức giận, cứ xông vào cửa thứ ba, song bị trúng độc kế mà sư phụ của nàng ta sắp đặt từ trước; nếu không có Tiểu Long Nữ chữa trị cho, thì có lẽ đã mất mạng tại chỗ. Lý Mạc Sầu biết lợi hại, đành rút lui, nhưng đâu dễ cam tâm bó tay? Sau đó nàng ta còn mấy phen lọt vào, nhưng đều thất bại chua cay. Lần cuối cùng nàng ta động thủ với sư muội. Bấy giờ Tiểu Long Nữ còn chưa đầy mười lăm tuổi, song võ công đã hơn hẳn sư tỷ, chẳng qua hạ thủ lưu tình, chứ không thì việc lấy mạng Lý Mạc Sầu chẳng có gì khó..

Quách Tĩnh nói xen vào:

– Chuyện đó chỉ e giang hồ đồn đại không đích xác.

Khưu Xứ Cơ hỏi:

– Tại sao?

Quách Tĩnh nói:

– Ân sư của đệ tử là Kha đại hiệp từng đấu hai trận với Lý Mạc Sầu, bảo rằng võ công của nàng ta quả rất độc đáo. Ngay một cao đồ của Nhất Đăng đại sư là Võ Tam Thông Võ đại ca mà cũng bại dưới tay nàng ta, thì Tiểu Long Nữ chưa đầy hai mươi tuổi, dù bản lĩnh đến mấy, cũng khó lòng thắng nổi.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đấy là Vương sư đệ nghe một vị bằng hữu trên giang hồ kể thế, còn Tiểu Long Nữ có giỏi hơn Lý Mạc Sầu hay không, không có người thứ ba chứng kiến, thì ai mà biết được, chỉ là giang hồ đồn đại như vậy. Tức thị Lý Mạc Sầu đem lòng oán hận, biết rằng sư phụ thiên vị, dành công phu tối thượng thừa truyền cho sư muội, bèn loan tin đi, rằng vào ngày mỗ tháng mỗ năm mỗ Tiểu Long Nữ ở "Hoạt tử nhân mộ" sẽ tỷ võ chiêu thân (đấu võ kén chồng).

Quách Tĩnh vừa nghe bốn chữ "tỷ võ chiêu thân" liền nhớ đến chuyện của Dương Khang, Mục Niệm Từ ở Bắc Kinh, bất giác ồ khẽ một tiếng.

Khưu Xứ Cơ biết tâm ý của chàng, cũng thở dài, nói:

– Lý Mạc Sầu loan tin, rằng nếu có ai thắng được Tiểu Long Nữ, chẳng những Tiểu Long Nữ sẽ lấy người đó làm chồng, mà bao nhiêu thứ kỳ trân dị bảo, bí kíp võ công có trong mộ sẽ đem tặng hết.

Bọn tà ma ngoại đạo vốn không biết Tiểu Long Nữ là người như thế nào, nhưng nghe Lý Mạc Sầu loan tin khắp nơi, rằng sư muội của nàng ta có diện mạo xinh đẹp hơn nàng ta rất nhiều. Mà Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu thì vô cùng xinh đẹp, là một mỹ nhân hiếm có trong võ lâm, sư muội còn đẹp hơn, thì quả là hấp dẫn.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Như thế có gì là lạ? Dung nhi của ta còn đẹp hơn nàng ta trăm lần ấy chứ".

Khưu Xứ Cơ nói tiếp:

– Trong số nhân vật yêu tà chốn giang hồ, số kẻ say mê Lý Mạc Sầu không ít. Nhưng nàng ta không ưng ai hết; kẻ nào hơi tỏ ra vô lễ với nàng ta, nàng ta liền hạ độc thủ; giờ nghe nói sư muội của nàng ta diện mạo xinh đẹp bội phần, lại công khai tỷ võ chiêu thân, thì ai mà chẳng muốn tới thử một phen?

Quách Tĩnh chợt hiểu ra, nói:

– Thì ra bọn người kia đều tới cầu thân. Chẳng trách các vị đạo huynh cứ nhiếc đệ tử là yêu nhân dâm tặc.

Khưu Xứ Cơ cười ha hả, lại nói:

– Bọn ta thám thính được rằng một số kẻ yêu tà chẳng coi phái Toàn Chân ra gì. Chúng tụ tập rất đông người kéo đến núi Chung Nam, nếu bọn ta ra tay can thiệp, chúng sẽ vin cớ đó mà thừa cơ nhổ luôn cái gai trong mắt chúng là phái Toàn Chân. Ta cùng Vương sư đệ biết được tin đó, bèn quyết ý đối đầu với bọn yêu tà một phen, liền gửi thiếp mời, tập hợp các đời đạo lữ bổn giáo, tới cung Trùng Dương trước mười ngày. Chỉ có Lưu sư ca và Tôn sư muội ở Sơn Tây chưa về kịp. Bọn ta một mặt thao diễn "Thiên Cang Bắc Đẩu trận pháp", một mặt gửi thư sang nhắc Tiểu Long Nữ đề phòng. Nào ngờ thư chuyển sang rồi, chẳng thấy hồi âm gì hết.

Quách Tĩnh nói:

– Hay là Tiểu Long Nữ đã không còn ở trong tòa cổ mộ?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Không phải, từ đỉnh núi nhìn sang, hàng ngày vẫn thấy khói bếp nơi đó bốc lên. Ngươi xem, ở chỗ kia kìa.

Nói rồi giơ tay chỉ sang phía Tây. Quách Tĩnh nhìn theo, thấy hơn mười dặm phía đó xanh xanh, toàn là rừng cây, chẳng biết "Hoạt tử nhân mộ" ở chỗ nào; tưởng tượng một thiếu nữ mười tám tuổi suốt ngày đêm ở trong nhà mộ, nếu là Hoàng Dung, chắc nàng sẽ buồn chết đi được.

Khưu Xứ Cơ lại kể:

– Sư huynh sư đệ bọn ta bố trí chống địch. Năm ngày trước, các lộ thám thính báo về, rằng trong đám yêu tà, lợi hại nhất có hai tên đại ma đầu. Chúng hẹn nhau tụ tập trước ở chùa Phổ Quang dưới chân núi, dùng tay vỗ bia đá làm hiệu lệnh. Ngươi vô ý vỗ vào tấm bia, lại hiển thị công lực ghê gớm, hèn chi bọn đồ tôn vô dụng của ta kinh hoảng là phải.

Hai tên đại ma đầu danh tiếng thực không vừa, năm nay chúng vừa mới tới Trung Nguyên, mà đã chấn động cả võ lâm. Ngươi ẩn cư ở Đào Hoa đảo, cách biệt hẳn nên không biết đó thôi. Gã công tử quí phái là vương tử của Mông Cổ, nghe đâu là con cháu cận hệ của Thành Cát Tư Hãn. Kẻ đi bên cạnh gọi y là vương tử Hoắc Đô. Ngươi ở bên Mông Cổ nhiều năm, biết rõ vương tộc Mông Cổ, chắc phải biết lai lịch hai kẻ đó?

Quách Tĩnh lẩm bẩm nhắc lại mấy lần bốn tiếng "Vương tử Hoắc Đô", nhớ lại diện mạo cử chỉ, xem y giống ai, cảm thấy y dung mạo tuấn nhã, cao ngạo song có phần giảo hoạt. Thành Cát Tư Hãn có cả thảy bốn người con trai, trưởng tử Thuật Xích mau lẹ dũng mãnh, thứ tử Sát Hợp Đài tính nết nóng nẩy mà thực khôn ngoan, con trai thứ ba Oa Khoát Đài hiện làm hoàng đế Mông Cổ, tính cách khoan hòa, con thứ tư Thi Lôi cương cường hơn người, tướng mạo cả bốn người đó đều khác hẳn vương tử Hoắc Đô.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Cũng có thể hắn tự đề cao thân phận, khoe khoang thế chăng. Võ công của hắn thuộc phái Tây Tạng. Đầu năm nay tới Trung Nguyên, hắn xuất thủ đả thương Hà Nam Tam Hùng, sau tại Cam Lương lại một mình giết chết Lan Châu Thất Bá, tiếng tăm lừng lẫy cả một góc trời. Bọn ta không ngờ hắn lại tới dính vào vụ này. Gã Tạng tăng đi cùng tên là Đạt Nhĩ Ba, trời ban thần lực, võ công cùng một lộ với Hoắc Đô, hình như là sư huynh hoặc sư thúc của Hoắc Đô thì phải. Gã là hòa thượng, dĩ nhiên tới đây không phải để mong lấy Tiểu Long Nữ, chắc là chỉ để trợ giúp Hoắc Đô.

Những tên dâm tặc khác thấy hai tên đại ma đầu này xuất hiện, thì đều từ bỏ ý định cầu thân; nhưng Lý Mạc Sầu từng loan tin khắp nơi, rằng trong ngôi mộ cổ có vô số vật quí hiếm, rồi các thứ bí kíp võ công, như chưởng phổ "Hàng long thập bát chưởng", chỉ pháp "Nhất Dương chỉ" đều đủ cả. Bọn gian tặc tuy bán tín bán nghi, nhưng thiết nghĩ chỉ cần lên núi, mở toang tòa cổ mộ, thì ít nhiều cũng được chia phần, thế là cuối cùng có đến hơn trăm tên kéo lên núi Chung Nam. Bắc Đẩu trận của bọn ta vốn có thể quét sạch bọn hạ lưu ấy ngay dưới chân núi, dẫu không tóm cổ bọn chúng, thì cũng không để cho chúng tới gần cung Trùng Dương. Nào ngờ có chuyện nhận lầm ngươi, để bọn gian tặc đốt phá hậu viện.. Thôi không nhắc việc đó nữa.

Quách Tĩnh rất áy náy, định nói vài lời tạ tội. Khưu Xứ Cơ phẩy tay, cười nói:

– "Ung dung cất một tiếng cười, Tây hồ mây đó trên trời vẫn trăng" [1] . Cung điện cũng chỉ là vật ngoại thân, cả tấm thân còn chẳng tiếc, tiếc gì mấy thứ vật ngoại thân? Ngươi tu luyện nội công hơn mười năm nay, chẳng lẽ còn chưa hiểu thấu điều đó sao?

Quách Tĩnh cũng cười, đáp:

– Vâng!

Khưu Xứ Cơ cười, nói:

– Thực tình khi nhìn thấy tòa hậu viện của cung Trùng Dương bốc cháy, lòng ta cũng như lửa đốt; bây giờ mới bình tĩnh lại đấy. So với sự bình thản của Mã sư ca, sự tu luyện của ta quả là còn thua xa.

Quách Tĩnh nói:

– Bọn gian tặc tự dưng xông lên đốt phá, đạo trưởng tức giận là phải.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Trong lúc Bắc Đẩu đại trận dốc toàn lực ngăn chặn ngươi, thì hai tên đại ma đầu dẫn bọn gian tặc thừa cơ xông tới trước cung Trùng Dương. Vừa xông tới, chúng liền phóng hỏa đốt đạo quán, Hách sư đệ xuất trận đấu với vương tử Hoắc Đô. Hách sư đệ quá khinh địch, còn Hoắc Đô lại có võ công hết sức quái dị. Hách sư đệ lúc xuất thủ hơi nóng vội, ngực bị trúng một chưởng. Bọn ta vội dàn trận hộ vệ. Nhưng Bắc Đẩu trận thiếu mất một người là Hách sư đệ, đệ tử thay thế công lực chênh lệch quá xa, thành thử uy lực của trận pháp chỉ có hạn. Ngươi mà không đến kịp, thì hôm nay phái Toàn Chân đại bại rồi. Bây giờ nghĩ lại, nếu các đệ tử canh giữ dưới chân núi không nhận lầm địch ta, thì cố nhiên bọn hạ lưu kia không thể xông lên núi, Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô phải liên thủ đấu với Bắc Đẩu trận; bọn ta thua thì không thua, nhưng sẽ không thắng được hai tên ấy một cách sảng khoái như ngươi..

Vừa nói đến đây, bỗng nghe phía Tây vang lên tiếng tù và rền rĩ. Quách Tĩnh nghe tiếng tù và, bất giác nhớ đến sa mạc cát vàng mênh mông ở Mông Cổ.

Nghe một hồi, thấy tiếng tù và ẩn ý giết chóc, tựa hồ khiêu chiến với người. Khưu Xứ Cơ tức giận, nhìn cánh rừng phía Tây, nói:

– Nghiệt chướng, nghiệt chướng! Tĩnh nhi, tên gian tặc kia hẹn với ngươi mười năm, vọng tưởng trong thời gian đó hắn tha hồ hoành hành, còn ngươi thì không tiện can thiệp. Hừ, thiên hạ làm gì có chuyện để cho hắn xứng tâm toại ý như thế? Chúng ta đi thôi!

Quách Tĩnh nói:

– Là vương tử Hoắc Đô ư?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Dĩ nhiên là hắn. Hắn đang thách thức Tiểu Long Nữ đó.

Vừa nói, Khưu Xứ Cơ vừa đi như bay xuống núi. Quách Tĩnh vội theo sau.

Hai người đi xuống hơn một dặm, nghe tiếng tù và thổi càng gấp hơn, lẫn trong tiếng tù và còn có tiếng binh khí va nhau, hẳn là Đạt Nhĩ Ba cũng đã xuất thủ. Khưu Xứ Cơ tức giận nói:

– Hai danh gia võ học, thế mà lại hợp sức bắt nạt một thiếu nữ, thật không còn ra thể thống gì.

Rồi chạy nhanh hơn. Phút chốc hai người đã tới lưng núi, vòng qua một vách đá dài. Quách Tĩnh chỉ thấy trước mặt là một cánh rừng lớn. Ngoài bìa rừng đứng lố nhố hơn một trăm người, chính là bọn yêu tà ban nãy vây đánh cung Trùng Dương. Hai người bèn nấp sau một vách đá quan sát động tĩnh.

Chỉ thấy vương tử Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba ngồi bên nhau. Hoắc Đô thổi tù và. Đạt Nhĩ Ba tay trái cầm một cái chày màu vàng gõ vào chiếc xuyến vàng đeo bên cổ tay phải, phát ra tiếng canh canh hòa với tiếng tù và, hai tên đó đang đòi Tiểu Long Nữ phải ra gặp chúng. Chúng gây náo loạn một hồi, trong rừng vẫn tĩnh lặng, không có âm thanh gì trả lời.

Hoắc Đô đặt chiếc tù và xuống, nói to:

– Tiểu vương Mông Cổ Hoắc Đô kính mừng sinh nhật Tiểu Long Nữ.

Lời vừa dứt, trong rừng có ba tiếng đàn tình tính tang, tựa hồ Tiểu Long Nữ gảy đàn trả lời. Hoắc Đô cả mừng, lại nói:

– Nghe Long cô nương dương ngôn thiên hạ, hôm nay tỷ võ chiêu thân, tiểu vương bất tài, cũng đến cầu giáo, thỉnh Long cô nương ban tiếp vài chiêu.

Bỗng nghe tiếng đàn bật mạnh, có ý giận dữ. Bọn yêu tà không hiểu âm luật, song cũng đoán biết tiếng đàn có ý đuổi khách.

Hoắc Đô cười nói:

– Tiểu vương gia thế tôn quí, tư mạo chẳng phải tầm thường đôi bên xứng đôi vừa lứa, cô nương là hiệp nữ thời nay, khỏi cần thẹn thùng.

Lời vừa dứt, tiếng đàn càng bật ra cao hơn, tựa hồ có ý chỉ trích.

Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba đưa mắt cho nhau. Đạt Nhĩ Ba gật đầu. Hoắc Đô nói:

– Cô nương đã không chịu đi ra, thì tiểu vương đành vào vậy.

Nói đoạn giắt chiếc tù và, vung tay phải, sải bước đi vào rừng. Quần hào ào theo sau như bầy ong vỡ tổ, tên nào tên ấy nghĩ bụng: "Ngay danh tiếng lừng lẫy như phái Toàn Chân mà còn không cản nổi bọn ta, thì một thiếu nữ cô thân như Tiểu Long Nữ chống chọi sao được?". Chỉ sợ kẻ khác vào được trong nhà mộ trước, lấy mất báu vật mang đi trước mình, nên tên nào tên nấy tranh nhau xông tới.

Khưu Xứ Cơ quát lớn:

– Đây là chốn cựu cư của tổ sư phái Toàn Chân, Trùng Dương Chân Nhân, các ngươi mau xéo đi.

Bọn kia nghe tiếng quát hơi sững sờ, nhưng chân chúng không hề dừng bước. Khưu Xứ Cơ giận dữ nói:

– Tĩnh nhi, động thủ!

Hai người rời vách đá, đang định xông tới, bỗng nghe quần hào kêu la chạy thục mạng ra khỏi cánh rừng.

Hai người ngẩn ra, chỉ thấy mấy chục tên vắt chân lên cổ mà chạy, rồi Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba cũng cắm đầu chạy ra, dáng điệu thảm hại bằng mấy lần lúc rút khỏi cung Trùng Dương. Hai người cảm thấy lạ lùng, nghĩ thầm: "Không biết Tiểu Long Nữ dùng cách gì mà đuổi được quần tà?". Thoáng nghĩ như vậy, đã thấy tiếng vo vo từ xa đến gần, dưới ánh trăng có vô số vật nhỏ màu trắng từ trong rừng bay ra, lao thẳng vào đầu vào mặt quần tà. Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Cái gì thế nhỉ?

Khưu Xứ Cơ lắc đầu không đáp, chăm chú nhìn; chỉ thấy một số kẻ chạy chậm bị các vật nhỏ kia lao vào đầu liền ngã xuống, ôm đầu mà kêu la như bị chọc tiết. Quách Tĩnh kinh ngạc nói:

– Thì ra là đàn ong, nhưng sao lại màu trắng?

Trong lúc chàng nói, thì lại thêm dăm người nữa bị ong đốt. Mười mấy người lăn lộn trong rừng, kêu rú thảm thiết. Quách Tĩnh nghĩ thầm: "Bị ong đốt thì buốt thật, nhưng không lẽ bầy ong này có độc tính dị thường hay sao?". Chợt có một bầy ong như khói đặc tràn tới trước mặt chàng và Khưu Xứ Cơ. Nhìn thế tấn công hung mãnh của bầy ong, khó bề chống đỡ, Quách Tĩnh định quay đầu chạy, thì thấy Khưu Xứ Cơ hít hơi vào đan điền rồi há miệng thổi mạnh về phía bầy ong. Bầy ong đang tràn tới, đột nhiên phát hiện có luồng gió mạnh thổi đón đầu thì dạt ra. Khưu Xứ Cơ thổi xong hơi thứ nhất, liền thổi tiếp hơi thứ hai. Quách Tĩnh cũng bắt chước làm theo, hai người tạo ra một luồng gió khá mạnh, bầy ong chịu không nổi, mấy trăm con phải tránh sang hai bên, bay đi đuổi theo bọn Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba.

Mười mấy kẻ lăn lộn dưới đất kêu như cha chết mẹ chết, có kẻ nói:

– Tiểu nhân biết lỗi rồi, xin Tiểu Long Nữ tiên cô cứu mạng cho!

Quách Tĩnh kinh ngạc, nghĩ thầm: "Mấy tên kia toàn là phường tham sống sợ chết, nhưng có bị chặt chân tay, chúng cũng không kêu la khiếp đến thế. Bầy ong này quả nhiên lợi hại thật!".

Chỉ nghe trong rừng cây vọng ra mấy tiếng đàn, rồi trên các ngọn cây có một làn hơi trắng nhạt lan tỏa. Hai người ngửi trước mùi hương hoa thơm ngọt. Lát sau thì tiếng vo vo từ xa lại gần, bầy ong ngửi thấy mùi thơm bay trở lại, thì ra là Tiểu Long Nữ đốt hương gọi ong về.

Khưu Xứ Cơ là láng giềng của Tiểu Long Nữ mười tám năm, mà không hề biết nàng ta có bản sự đó, vừa thán phục, vừa thích thú, nói:

– Sớm biết vị phương lân (láng giềng quí hóa) thần thông quảng đại như thế, phái Toàn Chân đã khỏi cần đa sự.

Câu này tuy nói với Quách Tĩnh, nhưng lão đạo trưởng đề khí phát ra, có ý để Tiểu Long Nữ nghe thấy. Quả nhiên tiếng đàn trong rừng cây chậm lại, dìu dặt khoan hòa, như thể cảm tạ cao nghĩa. Khưu Xứ Cơ cười to cao giọng nói:

– Cô nương bất tất đa lễ. Bần đạo Khưu Xứ Cơ dẫn đệ tử Quách Tĩnh đến kính chúc sinh nhật của cô nương.

Tiếng đàn vang lên hai tiếng tình tang, rồi im hẳn.

Quách Tĩnh nghe mấy người kia kêu la thảm thiết, bèn nói:

– Đạo trưởng, mấy người này ta nên cứu như thế nào đây?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Long cô nương ắt có cách xử trí, chúng ta đi thôi!

Hai người quay mình đi trở về hướng đông. Dọc đường Quách Tĩnh lại xin Khưu Xứ Cơ thu nhận Dương Quá làm môn hạ. Khưu Xứ Cơ thở dài, nói:

– Thúc phụ Dương Thiết Tâm của ngươi là bậc hào kiệt, há để tuyệt tự? Dương Khang bị kết cục xấu xa như thế, ta cũng có lỗi một phần. Ngươi cứ yên tâm, ta sẽ tận tâm kiệt lực dạy dỗ thằng bé ấy nên người.

Quách Tĩnh cả mừng, đang đi quì ngay xuống bái tạ.

Hai người vừa đi vừa trò chuyện, đã về tới trước cung Trùng Dương. Trời cũng đã sáng. Chúng đạo sĩ đang thu dọn tàn tích đám cháy hậu viện.

Khưu Xứ Cơ tập hợp chúng đạo sĩ, giới thiệu với Quách Tĩnh. Chỉ vị đạo sĩ râu dài chỉ huy Bắc Đẩu trận, đạo trưởng nói:

– Đây là Triệu Chí Kính, đại đệ tử của Vương sư đệ. Trong số các đệ tử đời thứ ba, y luyện được võ công vững vàng hơn cả, giao cho y dạy dỗ Dương Quá là được.

Quách Tĩnh đã giao đấu với Triệu Chí Kính, biết võ công của vị đạo sĩ này quả là cao cường, thì cả mừng, liền bảo Dương Quá hành lễ bái sư với Triệu Chí Kính, bản thân chàng cũng trịnh trọng cảm tạ.

Chàng lưu lại ở núi Chung Nam vài ngày, dặn dò Dương Quá thật tỉ mỉ, rồi mới cáo biệt mọi người, trở về Đào Hoa đảo.

Khưu Xứ Cơ nhớ lại hồi trước dạy võ công cho Dương Khang, để cho y sống trong nhung lụa ở vương phủ, cuối cùng y phạm phải sai lầm lớn, nghĩ thầm: "Xưa nay nghiêm sư xuất cao đồ, bổng đầu xuất hiếu tử (Thầy nghiêm trò mới giỏi, roi vọt con mới có hiếu). Lần này đối với Dương Quá phải quản giáo chặt chẽ, để thằng bé khỏi lặp lại sai lầm của cha nó"; bèn gọi Dương Quá tới, nghiêm nghị giáo huấn một hồi, dặn nó khắc khổ luyện tập, vâng theo mọi giáo huấn của sư phụ, nhất thiết không được lười nhác.

Dương Quá phải ở lại trên núi Chung Nam, vốn đã không muốn chút nào, bây giờ tự dưng lại bị giáo huấn nghiêm khắc, trong lòng vô cùng chán ngán, đành nuốt lệ vâng dạ, chờ lúc Khưu Xứ Cơ đi rồi, nó mới khóc òa lên. Bỗng nghe có tiếng nói lạnh lùng sau lưng:

– Sao, tổ sư gia nói điều gì không phải với ngươi hả?

Dương Quá giật mình nín khóc, ngoảnh đầu lại, thấy chính là sư phụ Triệu Chí Kính, thì nó vội buông xuôi tay, nói:

– Không ạ.

Triệu Chí Kính nói:

– Vậy tại sao ngươi lại khóc?

Dương Quá đáp:

– Đệ tử nhớ Quách bá bá quá ạ.

Triệu Chí Kính vừa rồi rõ ràng nghe Khưu sư bá nghiêm nghị giáo huấn thằng bé, thế mà nó lại nói thác đi là nó nhớ Quách Tĩnh, thì trong bụng rất khó chịu, nghĩ thầm: "Thằng bé này mới một tí tuổi đầu mà đã giảo hoạt như thế, nếu không nghiêm trị, lớn lên làm sao uốn nắn?" Bèn nghiêm mặt quát:

– Ngươi dám nói dối sư phụ hả?

Dương Quá chính mắt thấy các đạo sĩ phái Toàn Chân bị Quách Tĩnh đánh cho tơi tả, lại thấy các vị đạo trưởng như Khưu Xứ Cơ bị bọn yêu tà Hoắc Đô dồn vào thế thua to, may nhờ có Quách Tĩnh kịp đến cứu viện, thì nó cho rằng các đạo sĩ này võ công toàn thuộc hạng bình thường. Đối với Khưu Xứ Cơ nó còn không phục chút nào, huống hồ đối với Triệu Chí Kính? Cũng tại Quách Tĩnh nhất thời sơ ý, không nói rõ cho nó biết, rằng võ công của phái Toàn Chân là võ học chính tông, hồi trước võ công của Vương Trùng Dương là đệ nhất thiên hạ, cao thủ các gia các phái không một ai địch nổi. Quách Tĩnh sở dĩ thắng các đạo sĩ là bởi họ chưa luyện đến tuyệt đỉnh, chứ không phải do võ công phái Toàn Chân non kém. Dương Quá cho rằng vợ chồng Quách Tĩnh không muốn thu nhận nó làm đồ đệ, nên mới giao bừa cho người khác dạy võ cho nó, hơn nữa, chính mắt nó chứng kiến cảnh các đạo sĩ gãy kiếm, thua tơi bời, dẫu Quách Tĩnh có giải thích thế nào, nó cũng chẳng tin. Lúc này nó thấy sư phụ mặt mày khó coi, thì nghĩ thầm: "Ta bái người làm sư phụ, chẳng qua là chuyện bất đắc dĩ, giả dụ ta có luyện được võ công bằng người, thử hỏi có tác dụng quái gì? Chỉ là một cái bị thịt chứ gì? Đừng có hầm hầm với ta như vậy!" Nó bèn ngoảnh mặt đi, không trả lời.

Triệu Chí Kính cả giận, quát to hơn:

– Ta hỏi ngươi, ngươi dám không thưa hả?

Dương Quá nói:

– Sư phụ muốn đệ tử thưa sao thì đệ tử thưa vậy.

Triệu Chí Kính nghe nó nói hỗn, thì không nén được giận, vẩy ngược bàn tay một cái, "bốp" một tiếng, Dương Quá bị một cái tát mạnh đỏ rát cả má; nó liền khóc tướng lên và bỏ chạy. Triệu Chí Kính đuổi theo túm lại, hỏi:

– Ngươi chạy đi đâu?

Dương Quá nói:

– Mau buông ta ra, ta không thèm học võ của lão đâu!

Triệu Chí Kính càng tức, quát:

– Ngươi nói gì hả, thằng lỏi con?

Dương Quá nổi khùng, đốp lại:

– Xú đạo sĩ, cẩu đạo sĩ, mi có giỏi cứ đánh chết ta đi!

Thời bấy giờ, phận sự sư đồ rất được coi trọng; trong võ lâm, sư đồ y như cha con, sư phụ dẫu có muốn giết chết đệ tử, đệ tử cũng không dám chống lại. Đằng này Dương Quá dám mở miệng chửi lại sư tôn, quả là chuyện đại nghịch chưa từng thấy. Triệu Chí Kính giận tím mặt, vung chưởng đánh vào mặt nó. Dương Quá bỗng nhiên nhảy lên, ôm lấy cánh tay sư phụ, há mồm cắn chặt lấy ngón trỏ tay phải của Triệu Chí Kính.

Dương Quá từ khi được Âu Dương Phong truyền cho bí quyết nội công, ngấm ngầm tu luyện, cũng có được chút căn cơ. Triệu Chí Kính trong cơn giận dữ, lại nghĩ nó còn là đứa bé, nên không hề đề phòng, bị thằng bé ôm chặt cánh tay mà cắn ngón tay, giằng chưa ra. Ngạn ngữ có câu, mười ngón tay liền với tim, ngón tay bị đau là khổ sở nhất. Triệu Chí Kính đấm mạnh một quả vào vai Dương Quá, quát:

– Ngươi muốn chết hả? Mau buông ra!

Dương Quá nổi điên, lúc này dù kề dao vào cổ nó, nó cũng không buông không nhả, lúc vai nó bị đau nhói, nó liền nghiến răng cắn mạnh, "cắc" một tiếng, Triệu Chí Kính kêu lên "Ối chao!" ngón tay đã gãy xương. Quyền trái của Triệu Chí Kính giơ lên, đập xuống đỉnh đầu Dương Quá, khiến nó ngất đi, lão mới cậy hàm nó, rút được ngón tay ra, chỉ thấy cả ngón tay máu đầm đìa, xương ngón tay bị gãy, tuy có thể nối lại, nhưng từ nay cái ngón tay ấy sẽ kém hẳn, có phần tổn hại đến võ công. Triệu Chí Kính cả giận, đá vào người thằng bé mấy cái.

Triệu Chí Kính xé tay áo Dương Quá lấy một mảnh vải buộc vết thương lại, nhìn tứ phía, may không có ai cả; nghĩ bụng chuyện này mà để người ngoài biết, giang hồ loan tin đi, bảo Triệu Chí Kính phái Toàn Chân bị tên đệ tử trẻ con cắn gãy xương ngón tay, thì thực là mất hết thể diện; bèn bưng một chậu nước lạnh tới vẩy vào mặt cho Dương Quá tỉnh lại.

Dương Quá vừa tỉnh, nó lại vùng vẫy đánh lại. Triệu Chí Kính túm lấy ngực nó, quát:

– Đồ súc sinh, ngươi quả thật không thiết sống nữa hả?

Dương Quá chửi lại:

– Cẩu tặc, tên đạo sĩ thối tha, đồ râu dê, để cho Quách bá bá ta đánh cho bò lê bò càng dưới đất mà xực cứt chó, mi là tên súc sinh thì có!

Triệu Chí Kính vung chưởng lên, lần này có phòng bị, Dương Quá làm sao có thể đánh lại và xông tới gần? Trong giây lát nó bị liền mấy cú đá lộn nhào. Triệu Chí Kính muốn đánh nó thế nào chẳng được, nhưng nghĩ nó rốt cuộc là đồ đệ của mình, nếu nặng tay quá, sư phụ sư bá hỏi tới biết ăn nói ra sao. Song Dương Quá cứ liều chết đánh lại, tựa hồ có mối thù không đội trời chung, tuy liên tiếp bị đòn đau, nó vẫn cứ lăn xả vào mà đấm đá.

Triệu Chí Kính đánh thằng bé rồi, trong lòng hối hận, thấy nó tuy bị thương, song càng đánh càng hăng, cuối cùng không còn cách nào khác, đành điểm huyệt ở sườn nó. Dương Quá nằm bất động dưới đất, ánh mắt đầy vẻ hằn học. Triệu Chí Kính nói:

– Ngươi là một tên nghịch đồ, đã chịu hay chưa?

Dương Quá giương mắt nhìn, không hề có ý khuất phục. Triệu Chí Kính ngồi xuống một tảng đá, thở hổn hển. Tỷ võ quá chiêu với cao thủ, hồi lâu Triệu Chí Kính cũng chưa bao giờ thở hổn hển thế này; lần này chân tay thì không mệt, nhưng trong lòng thì chán ngán, giận dữ khó trấn tĩnh.

Một thầy một trò hằn học nhìn nhau, Triệu Chí Kính vẫn chưa nghĩ ra cách trị thằng bé ngỗ nghịch hỗn xược, đang chán ngán, bỗng có tiếng chuông gióng giả vang lên, triệu tập đệ tử toàn giáo. Triệu Chí Kính giật mình, nói với Dương Quá:

– Ngươi không ngỗ nghịch nữa, thì ta tha cho ngươi.

Nói rồi đưa tay giải huyệt cho nó.

Nào ngờ Dương Quá bật dậy, lại xông vào. Triệu Chí Kính lùi hai bước, giận quát:

– Ta không đánh ngươi, ngươi còn muốn gì?

Dương Quá hỏi:

– Từ nay lão còn đánh ta nữa hay thôi?

Triệu Chí Kính nghe tiếng chuông giục giã, không dám chậm trễ, đành nói:

– Nếu ngươi ngoan ngoãn, ta đánh ngươi làm gì?

Dương Quá nói:

– Thế thì được. Sư phụ, lão không đánh ta, ta sẽ gọi lão là sư phụ. Lão còn đánh ta một lần nữa, ta sẽ vĩnh viễn không chấp nhận lão.

Triệu Chí Kính đành cười khổ, gật đầu, nói:

– Chưởng giáo chiêu tập môn nhân, mau đi theo ta.

Thấy Dương Quá quần áo xộc xệch, mặt mày chỗ sưng chỗ tím, sợ người ngoài tra hỏi, Triệu Chí Kính sửa sang qua loa cho nó, rồi dắt tay nó chạy đến tập trung trước cung.

Lúc Triệu Chí Kính dẫn Dương Quá tới nơi, thì chúng đạo sĩ đã tề tựu. Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất ba vị ngồi quay mặt về phía mọi người. Mã Ngọc vỗ tay ba cái, nói to:

– Trường Sinh Chân Nhân và Thanh Tịnh Tản Nhân từ Sơn Tây có báo tin về, rằng ở đó tình thế nguy ngập. Bổn tòa cùng hai vị sư đệ thương nghị, quyết định rằng Trường Xuân Chân Nhân và Ngọc Dương Chân Nhân dẫn theo mười đệ tử sáng mai sẽ đi cứu viện.

Các đạo sĩ nhìn nhau, người thì có vẻ kinh hãi, người thì hăng hái. Khưu Xứ Cơ liền gọi tên mười đệ tử nói:

– Các ngươi lập tức thu xếp hành lý, sáng sớm mai cùng Ngọc Dương Chân Nhân và ta đi Sơn Tây. Thôi, giải tán.

Các đạo sĩ tản đi, bây giờ mới bàn tán, nói:

– Lý Mạc Sầu chẳng qua là một nữ nhân, thế mà Trường Sinh Tử Lưu sư thúc cũng không làm gì nổi mụ ta ư?

Có người nói:

– Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn sư thúc chẳng phải cũng là nữ nhân đó sao? Đủ thấy nữ nhân lắm người tài giỏi, chớ nên coi thường.

Có người nói:

– Khưu sư bá với Vương sư thúc đi chuyến này, chắc Lý Mạc Sầu sẽ phải thúc thủ chịu trói thôi.

Khưu Xứ Cơ tới bên Triệu Chí Kính, nói:

– Ta cũng định đem ngươi đi, nhưng sợ chậm việc học hành của Quá nhi, nên không lấy ngươi đi theo nữa.

Thấy mặt mày Dương Quá có nhiều vết sây sát, bèn hỏi nó:

– Ngươi đánh nhau với ai vậy?

Triệu Chí Kính sợ sư bá biết sự tình, tất quở trách nặng, vội liên tiếp đưa mắt ra hiệu cho Dương Quá.

Dương Quá vốn đã có chủ ý, thấy Triệu Chí Kính lo cuống lên, thì vờ như không biết, cứ ậm ậm ừ ừ. Khưu Xứ Cơ giận hỏi:

– Kẻ nào đánh ngươi đến mức này? Rốt cuộc là ai có lỗi? Nói mau!

Triệu Chí Kính nghe giọng nói nghiêm khắc của sư bá, thì càng cuống lên.

Dương Quá nói:

– Không phải đánh nhau, mà là đệ tử bị ngã chỗ dốc núi.

Khưu Xứ Cơ không tin, bực hỏi:

– Ngươi nói dối. Đang dưng sao lại bị ngã? Vết thương trên mặt ngươi cũng không phải do bị ngã.

Dương Quá nói:

– Ban nãy sư tổ gia giáo huấn đệ tử phải chịu khó học nghệ..

Khưu Xứ Cơ nói:

– Phải, rồi sao?

Dương Quá nói:

– Sau khi sư tổ gia đi rồi, đệ tử nghĩ giáo huấn của sư tổ gia rất đúng, từ nay đệ tử phải cố gắng hết sức để khỏi phụ kỳ vọng của sư tổ gia.

Nghe mấy câu hoa ngôn xảo ngữ ấy, sắc mặt của Khưu Xứ Cơ dịu lại, ừ một tiếng. Dương Quá nói tiếp:

– Nào ngờ bỗng nhiên có một con chó điên ở đâu chạy đến, chẳng nói chẳng rằng xông vào cắn, đệ tử đá đuổi nó đi, con chó điên càng lúc càng hung hăng. Đệ tử đành quay người bỏ chạy, vì không cẩn thận, bị trượt chân ngã xuống dốc núi. May có sư phụ của đệ tử tới, cứu được đệ tử.

Khưu Xứ Cơ bán tín bán nghi, đưa mắt nhìn Triệu Chí Kính, ngụ ý hỏi những lời vừa rồi của thằng bé là thật hay không. Triệu Chí Kính cả giận, nghĩ thầm: "Thằng khốn, tên tiểu tử thối tha, ngươi dám chửi ta là con chó điên", nhưng trong tình thế này đành cho qua chuyện, nên gật đầu nói:

– Là đệ tử cứu nó lên ạ.

Khưu Xứ Cơ bấy giờ mới tin, nói:

– Sau khi ta đi, ngươi hãy truyền thụ huyền công bản môn cho nó, cứ mười ngày sẽ do sư bá chưởng giáo phúc tra một lần, chỉ điểm yếu quyết.

Triệu Chí Kính chẳng muốn chút nào, nhưng lời sư bá sao dám cãi, đành cúi mình đáp ứng. Dương Quá lúc này vừa buộc được sư phụ tự nhận là con chó điên thì quá thích thú, không để ý nghe lời nói của Khưu sư tổ.

Chờ Khưu Xứ Cơ đi xa mười mấy bước rồi, Triệu Chí Kính lửa giận bốc lên, không kìm nổi, lại giơ tay định đánh xuống đầu Dương Quá. Dương Quá gọi to:

– Khưu sư tổ!

Khưu Xứ Cơ ngạc nhiên ngoảnh lại, hỏi:

– Gì vậy?

Bàn tay của Triệu Chí Kính giơ lên lưng chừng, không dám đánh xuống, y đành miễn cưỡng đưa lại gãi gãi đầu tóc của mình. Dương Quá chạy về phía Khưu Xứ Cơ, nói:

– Sư tổ gia đi rồi, đệ tử không có ai bênh vực, ở đây có nhiều vị sư bá sư thúc muốn đánh chửi đệ tử.

Khưu Xứ Cơ nghiêm mặt, quát:

– Nói bậy. Làm gì có chuyện đó?

Bề ngoài nghiêm nghị, nhưng nội tâm thì Khưu Xứ Cơ rất hiền từ, nghĩ thằng bé mồ côi đáng thương, bèn nói:

– Chí Kính, ngươi hãy săn sóc tử tế thằng bé này, nếu có xảy ra chuyện gì, ta về sẽ hỏi tội ngươi đó.

Triệu Chí Kính lại đành đáp ứng.

Tối hôm đó sau bữa ăn, Dương Quá thong thả đi tới tịnh thất của sư phụ, gọi:

– Sư phụ?

Giờ là lúc truyền thụ võ công. Triệu Chí Kính đã ngồi xếp chân bằng tròn từ lâu trên giường, nghĩ thầm: "Thằng nhỏ này quá ư ương ngạnh, đã thành con ngựa bất kham; sau này võ công cao cường, thì ai có thể chế ngự được nó? Nhưng Khưu sư bá và sư phụ dặn ta dạy võ công cho nó, ta đâu có thể trái lời". Nghĩ mãi vẫn chưa biết nên làm thế nào, thấy Dương Quá thong thả bước tới, ánh mắt láo liên, dáng điệu nửa như cười cợt, thì Triệu Chí Kính càng tức giận, bỗng nhiên nghĩ ra: "Có cách rồi, nó chưa biết tí gì về công phu bản môn, ta chỉ truyền thụ khẩu quyết huyền công cho nó, chứ không dạy nó phép tu luyện. Dẫu nó thuộc lòng mấy trăm câu ca quyết, cũng chẳng ích gì. Nếu sư bá, sư phụ hỏi đến, ta sẽ bảo nó không chịu dụng công". Chủ ý đã định, Triệu Chí Kính bèn dịu dàng nói:

– Quá nhi, lại đây nào.

Dương Quá hỏi:

– Sư phụ có đánh hay không đấy?

Triệu Chí Kính nói:

– Ta truyền công phu cho ngươi, chứ đánh ngươi làm gì?

Dương Quá thấy thần tình của Triệu Chí Kính thật ngoài dự liệu, bèn từ từ lại gần, trong bụng sẵn sàng đề phòng, sợ sư phụ có ngụy kế gì chăng. Triệu Chí Kính thấy hết, nhưng giả như không biết, nói:

– Công phu của phái Toàn Chân là luyện từ trong ra ngoài, không như công phu ngoại gia luyện từ ngoài vào trong. Bây giờ ta truyền cho ngươi tâm pháp bản môn, ngươi phải nhớ cho kỹ.

Rồi đọc khẩu quyết nội công nhập môn của phái Toàn Chân một lượt. Dương Quá chỉ nghe một lần là thuộc. Nó nghĩ thầm: "Con dê già râu dài này căm ghét ta, lẽ nào lão chịu truyền công phu thật sự cho ta kia chứ? Chắc lão sẽ dạy ta mấy câu khẩu quyết giả vô dụng đấy thôi". Lát sau, nó giả bộ quên, hỏi lại Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính đọc lại đúng như lần trước. Hôm sau, Dương Quá lại tái vấn sư phụ, nghe sư phụ đọc đúng như hôm qua, nó mới tin là không phải khẩu quyết giả.

Cứ thế mười ngày, Triệu Chí Kính chỉ truyền thụ khẩu quyết, còn cách tu luyện thực tế ra sao, thì y không nói một lời. Ngày thứ mười, Triệu Chí Kính dẫn Dương Quá lên gặp Mã Ngọc, bẩm rằng đã truyền thụ tâm pháp bổn môn, rồi bảo Dương Quá đọc cho sư tổ chưởng giáo nghe.

Dương Quá đọc một mạch từ đầu chí cuối, không sai một chữ. Mã Ngọc cả mừng, luôn miệng khen thằng nhỏ thông minh. Mã Ngọc là đạo sĩ đôn hậu khiêm xung, lòng dạ quân tử, đâu nghĩ đến việc Triệu Chí Kính có ngụy kế.

Hết hạ sang thu, hết thu sang đông, thấm thoắt đã mấy tháng, Dương Quá nhớ nằm lòng bao nhiêu là khẩu quyết, nhưng công phu thực tế thì chẳng học được tí gì, nói về nội công võ nghệ, nó chẳng khác gì khi mới lên núi. Hồi đầu chỉ học khẩu quyết, Dương Quá biết là sư phụ không chịu dạy võ tử tế cho nó, nó cũng chẳng nghĩ ra cách gì. Thấy sư tổ chưởng giáo Mã Ngọc hiền lành, có mách với Mã Ngọc, Mã Ngọc cũng chỉ trách cứ Triệu Chí Kính vài câu là cùng; e rằng lão dê già râu dài tìm cách hành hạ nó, đành chờ Khưu sư tổ về sẽ hay. Nhưng dăm tháng rồi vẫn không thấy Khưu sư tổ trở về. Hơn nữa, đối với võ công của phái Toàn Chân, Dương Quá vốn coi thường, học cũng được mà không học cũng chẳng sao, có điều là bị Triệu Chí Kính lừa dối như thế, trong bụng nó ngày càng căm hận, ngoài mặt vẫn giả bộ vâng lời. Triệu Chí Kính thầm đắc ý, nghĩ bụng: "Mi hỗn hào với sư phụ, để xem ai bị thiệt?"

Chẳng mấy chốc tới tháng Chạp. Theo môn qui của phái Toàn Chân truyền từ thời Vương Trùng Dương, mỗi năm ba ngày cuối tháng Chạp các đệ tử môn hạ đều so tài với nhau, kiểm tra sự tiến bộ của từng người sau một năm luyện tập. Các đệ tử thấy ngày so tài sắp đến, đều miệt mài luyện tập.

Hôm ấy môn hạ đệ tử của Toàn Chân Thất Tử chia nhau thành bảy nhóm so tài. Các đồ tử đồ tôn của Mã Ngọc thành một nhóm. Các đồ tử đồ tôn của Khưu Xứ Cơ của Vương Xứ Nhất, đều thành một nhóm. Đàm Xứ Đoan tuy đã chết, song các đồ tử đồ tôn của họ Đàm vẫn rất mạnh. Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ nghĩ họ Đàm mất sớm, dành ưu ái nhiều hơn cho các đệ tử của họ Đàm, nên các dịp so tài cuối năm, các đệ tử đó cũng không thua kém gì đệ tử của sáu vị còn lại. Năm nay cung Trùng Dương gặp họa, trên dưới phái Toàn Chân đều nghĩ, phái Toàn Chân tuy được tôn là võ học chính tông trong thiên hạ, nhưng các môn phái khác trong võ lâm ngày càng có nhiều cao thủ xuất hiện, uy danh của phái Toàn Chân bị lung lay, nên ai nấy chịu khó tu luyện hơn hẳn mọi năm.

Giáo phái Toàn Chân do Vương Trùng Dương khai sáng. Vương Trùng Dương là tổ sư sáng lập. Toàn Chân Thất Tử (Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ) là đệ tử thân truyền của Vương Trùng Dương, thuộc đời thứ hai. Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình, Trình Dao Ca là môn đồ của Thất Tử, thuộc đời thứ ba. Dương Quá là đệ tử thuộc đời thứ tư. Chiều nay, các đệ tử của Ngọc Dương Tử như Triệu Chí Kính, Thôi Chí Phương.. tề tựu ở một sân bãi góc đông nam để so tài. Vương Xứ Nhất đi vắng, việc so tài do đại đệ tử Triệu Chí Kính chủ trì. Các đệ tử đời thứ tư hoặc diễn quyền cước, hoặc sử đao thương, hoặc phóng ám khí, hoặc hiển nội công, đều do Triệu Chí Kính phân định thứ tự.

Dương Quá nhập môn muộn nhất, xếp sau cùng, thấy không ít tiểu đạo sĩ hoặc thiếu niên tục gia võ nghệ thành thạo, ai nấy có sở trường của mình, thì nó đã chẳng ngưỡng mộ, lại còn ôm lòng căm giận. Triệu Chí Kính thấy nó luôn tỏ vẻ bất bình, bèn có ý để nó lộ cái xấu ra, chờ hai tiểu đạo sĩ đấu khí giới với nhau xong, liền gọi to:

– Dương Quá bước ra!

Dương Quá ngẩn người, nghĩ thầm: "Lão chưa truyền cho ta chút võ nghệ gì, gọi ta ra làm chi?" Triệu Chí Kính lại gọi:

– Dương Quá, ngươi có nghe thấy hay không vậy? Mau bước ra!

Dương Quá đành tiến ra, cúi mình, nói:

– Đệ tử Dương Quá, tham kiến sư phụ!

Môn hạ phái Toàn Chân phần lớn là đạo sĩ, song cũng có không ít đệ tử tục gia như Dương Quá, vẫn hành lễ theo lối tục gia.

Triệu Chí Kính chỉ một tiểu đạo sĩ vừa thắng trong cuộc tỷ võ, nói:

– Nó cũng suýt soát tuổi ngươi, ngươi hãy tỷ thí với nó.

Dương Quá nói:

– Đệ tử không biết tí võ nghệ nào, làm sao có thể tỷ thí với sư huynh?

Triệu Chí Kính giận nói:

– Ta đã truyền thụ công phu cho ngươi cả nửa năm trời, sao lại bảo rằng không biết tí võ nghệ nào? Trong nửa năm ấy ngươi làm trò gì?

Dương Quá không biết trả lời ra sao, cúi đầu im lặng. Triệu Chí Kính nói:

– Ngươi lười nhác, ham chơi, không chịu dụng công, quyền cước tự nhiên lúng túng. Ta hỏi ngươi, sau hai câu "Tu chân hoạt kế hữu hà bằng? Tâm tử quần tình niệm bất sinh" (Tu luyện cuộc sống thật dựa vào cái gì? Để lòng chết đi, mọi ý nghĩ hết sinh ra) tiếp đến câu gì?

Dương Quá nói:

– "Tinh khí sung dựng công hành cụ, Linh quang chiếu diệu mãn thần kinh" (Tinh khí đầy đủ thì thành công, ánh sáng linh thiêng soi rọi tâm thần).

Triệu Chí Kính nói:

– Đúng lắm, ta lại hỏi ngươi, sau hai câu "Bí ngữ sư truyền ngộ bản sơ, Lai thời vô khiếm khứ vô dư (Lời dạy bí truyền của sư phụ nới hiểu ra, đến khi sử dụng đến không thiếu không thừa) là câu gì?

Dương Quá đáp:

– Lịch niên trần cấu khi ma tận, Thiên thể linh minh diệu thái hư (Lau sạch bụi trần bao năm, cả tinh thần trong cơ thể tỏa sáng đến vô cùng).

Triệu Chí Kính mỉm cười, nói:

– Hay lắm, không sai một chữ. Ngươi cứ việc dùng mấy câu pháp môn ấy mà tỷ thí với sư huynh.

Dương Quá lại ngẩn ra, nói:

– Đệ tử không biết mà.

Triệu Chí Kính trong bụng đắc ý, ngoài mặt lại giả bộ cả giận, quát:

– Ngươi chỉ học thuộc khẩu quyết, chẳng chịu luyện công, bây giờ một mực chối từ, mau tỷ thí đi.

Mấy câu khẩu quyết kia tuy là yếu chỉ tu luyện nội công, dạy người thu tâm tức niệm, luyện tinh dưỡng khí; nhưng mỗi câu đều phối hợp với vài chiêu quyền cước, gộp lại sẽ thành một môn quyền pháp nhập môn đơn giản của phái Toàn Chân. Các đạo sĩ chính tai nghe Dương Quá đọc thuộc làu làu, không sai một chữ, nhưng thấy thằng bé lâm chiến lại run sợ, người tốt bụng thì nói lời khích lệ, kẻ xấu bụng thì buông lời châm biếm. Các đệ tử phái Toàn Chân phần đông đều là người lương thiện, nhưng vì Quách Tĩnh hôm lên núi Chung Nam đã đánh cho họ một trận đại bại, đắc tội với nhiều người, nên có một số đạo sĩ giận cá chém thớt, giận lây Dương Quá, chỉ mong nó gặp chuyện này chuyện nọ, tuy chưa hẳn là ác ý, nhưng bớt được chút ấm ức trong lòng thì cũng là chuyện thường tình.

Dương Quá thấy mọi người thúc giục, vài người còn lạnh lùng châm biếm, thì nổi giận, nghĩ thầm:" Thì hôm nay ta liều mạng với các ngươi một phen ", bèn nhảy vào vòng, múa hai tay, tấn công tới tấp gã tiểu đạo sĩ kia. Gã tiểu đạo sĩ kia thấy nó vừa nhảy vào chẳng hề hành lễ, cũng không khiêm tốn cầu giáo theo đúng môn qui, đã đấm đá như một kẻ điên, thì rất đỗi kinh ngạc, cứ liên tiếp thoái lui. Dương Quá sớm đã bất cần sống chết, cứ xông tới tấn công. Gã tiểu đạo sĩ kia đã lùi mấy bước, thấy hạ bàn của Dương Quá sơ hở, bèn nghiêng người gạt chân một cái sử chiêu" Phong tảo diệp lạc ", gạt vào chân Dương Quá. Dương Quá không biết cách tránh, đứng không vững, ngã sấp mặt xuống, chảy cả máu mũi.

Các đạo sĩ đứng ngoài thấy Dương Quá ngã đau, có kẻ cười ồ. Dương Quá bò dậy, cũng chẳng buồn lau máu mũi, chúi đầu xông tới phía tiểu đạo sĩ kia. Tiểu đạo sĩ kia thấy nó hung hăng quá, vội né sang bên. Dương Quá xuất chiêu chẳng theo pháp độ gì hết, nó giơ cả hai tay ôm lấy chân trái đối phương. Tiểu đạo sĩ hữu chưởng giáng ngay xuống vai nó; chiêu" Khi ma trần cấu "này vốn dùng để hóa giải khi hạ bàn bị tập kích, nhưng Dương Quá ở Đào Hoa đảo chưa học võ nghệ, ở cung Trùng Dương cũng không được truyền thụ công phu thực dụng, nên không hiểu gì về chiêu số của đối phương, chỉ nghe" bộp "một cái, vai đã trúng đòn khá nặng, đau thấu xương. Nó càng thua càng hung hăng, dùng đầu húc luôn vào đùi phải của đối phương, tiểu đạo sĩ kia đứng không vững, ngã ngửa xuống đất. Dương Quá vung nắm đấm đánh thẳng xuống đầu tiểu đạo sĩ.

Tiểu đạo sĩ kia đang bại nhưng cầu thắng, thúc cùi chỏ lên ngực Dương Quá, thừa lúc nó đau đớn, đã bật ngay dậy, thừa thế đẩy một cái khiến Dương Quá ngã liền, chính là chiêu" Vô khiếm vô dư ", rồi cúi đầu, nói:

– Dương sư đệ khiêm nhượng!

Đồng môn so tài, một khi đã phân rõ thắng bại thì phải dừng tay; nào ngờ Dương Quá cứ như con hổ điên cuồng lao tới; vài ba chiêu đã lại bị đánh ngã, nhưng nó càng đánh càng hung dữ, quyền cước cũng càng lúc càng nhanh hơn.

Triệu Chí Kính gọi:

– Dương Quá, ngươi thua từ lâu rồi, còn tỷ thí gì nữa?

Dương Quá không thèm đếm xỉa, cứ thế xông tới. Các đạo sĩ lúc đầu còn thấy tức cười, nghĩ thầm:" Sao phái Toàn Chân ta lại có đứa đánh đấm ngu xuẩn như thế? "Sau thấy nó nhắm mắt liều mạng, chỉ sợ tai họa, vội can:

– Thôi, thôi, dừng lại đi, sư huynh sư đệ đấu thử, đừng có đánh thật.

Đấu thêm một hồi, tiểu đạo sĩ kia đã có ý khiếp hãi, chỉ né tránh, không dám để nó tới gần. Tục ngữ có câu" Một người liều mạng, vạn người khó đương ". Dương Quá ở núi Chung Nam đã tích oán khí hơn nửa năm trời, lúc này có dịp phát tiết ra hết. Gã tiểu đạo sĩ kia tuy võ công hơn hẳn Dương Quá, nhưng không hề có ý chí quyết đấu hăng say như nó; thấy không địch nổi, đành cứ thế chạy quanh. Dương Quá đuổi theo sau, nhiếc:

– Tên đạo sĩ thối tha, mi đánh được ta rồi, định bỏ chạy hả?

Lúc này mười người đứng ngoài thì tám chín là đạo sĩ nghe nó chửi loạn hết" đạo sĩ thối tha ", lại" đạo sĩ khốn kiếp ", thì vừa giận vừa tức cười, ai ai cũng nói:

– Tên tiểu tử này phải quản giáo ra trò mới được.

Gã tiểu đạo sĩ kia bị đuổi gấp, hốt hoảng gọi to:

– Sư phụ, sư phụ!..

Mong Triệu Chí Kính lên tiếng bảo ngừng. Triệu Chí Kính quát liền mấy lần, Dương Quá vẫn bất chấp.

Giữa lúc ấy, trong số người đứng ngoài có một đạo sĩ béo mập quát to, bước ra, thộp gáy Dương Quá, nhấc bổng lên, rồi bốp bốp bốp ba tiếng, giáng liền ba cái tát mạnh, khiến một bên má của nó lập tức sưng đỏ lên. Dương Quá bị người kia tát cho tối tăm mặt mày, nhìn lại, thì ra dó chính là Lộc Thanh Đốc, đạo sĩ có oán thù tới nó. Hôm Dương Quá lên núi, Lộc Thanh Đốc bị nó đẩy vào cảnh suýt chết cháy, sau đó bị sư huynh sư đệ châm chọc, bảo y bản lĩnh còn thua cả một thằng nhóc con. Gã ôm hận trong lòng, hôm nay thấy Dương Quá làm loạn thế này thì hết nhịn nổi, bèn bước ra động thủ.

Dương Quá vốn quyết đấu, thấy Lộc Thanh Đốc, càng không sợ gì; có điều là đang bị gã tóm gáy nhấc lên, không làm gì được. Lộc Thanh Đốc cười gằn, lại bốp bốp bốp tát thêm ba cái, nói:

– Mi không vâng lệnh sư phụ, là tên phản đồ của bản môn, ai cũng có quyền đánh mi.

Nói rồi lại giơ tay định đánh tiếp.

Sư đệ của Triệu Chí Kính là Thôi Chí Phương thấy Dương Quá khi xuất thủ hình như không biết chút công phu gì của bản môn, vốn biết Triệu Chí Kính tâm địa hẹp hòi, e rằng bên trong có ý gì khác, giờ thấy Lộc Thanh Đốc ra tay quá mạnh, sợ sẽ đả thương Dương Quá, bèn quát:

– Thanh Đốc, dừng tay!

Lộc Thanh Đốc nghe tiếng quát của sư thúc, tuy không muốn, vẫn phải thả Dương Quá xuống, nói:

– Sư thúc có điều chưa biết, tên tiểu tử này vô cùng giảo hoạt, nếu không nghiêm khắc giáo huấn, e rằng bản giáo không còn qui củ gì nữa.

Thôi Chí Phương không thèm để ý đến Lộc Thanh Đốc, bước tới trước mặt Dương Quá, thấy hai má nó sưng lên, mũi miệng dính máu, thần tình rất đáng thương, bèn dịu giọng nói:

– Dương Quá, sư phụ ngươi đã dạy ngươi võ nghệ, sao ngươi không dụng công luyện tập, lại đấm đá sư huynh loạn xạ lên như thế?

Dương Quá hậm hực nói:

– Sư phụ cái gì lão ta? Lão ta chẳng dạy chút võ công nào cả.

Thôi Chí Phương nói:

– Ta nghe ngươi đọc khẩu quyết thuộc làu làu, không sai một chữ kia mà.

Dương Quá nghĩ đến Hoàng Dung ở Đào Hoa đảo dạy nó đọc thuộc lòng tứ thư ngũ kinh; những kinh thư mà Triệu Chí Kính dạy nó ớ đây cũng chẳng dính dáng gì tới võ công, bèn nói:

– Ta chẳng muốn thi đỗ trạng nguyên, học thuộc mấy thứ ấy có ích lợi gì?

Thôi Chí Phương giả bộ nổi giận, muốn thử xem có đúng là nó không biết chút võ công nào của bản môn hay chăng, bèn nghiêm mặt nói:

– Sao ngươi có thể nói năng vô lễ với tôn trưởng như vậy?

Rồi giơ tay đẩy vào vai nó một cái.

Thôi Chí Phương là một cao thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, võ công tuy chưa bằng Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình, song nội ngoại kiêm tu, công lực khá tinh thâm. Cú đẩy vừa rồi, Thôi Chí Phương dùng lực có tính toán, tay vừa chạm vai, cảm thấy vai Dương Quá hơi nghiêng, nội lực tự sinh, đẩy lực của Thôi Chí Phương lại non nửa, tuy nó lảo đảo vài bước, nhưng không bị ngã. Thôi Chí Phương kinh ngạc, lòng đầy nghi vấn, nghĩ thầm:" Nó còn nhỏ tuổi, nhập môn chỉ mới nửa năm, làm sao lại có công lực như thế? Nó đã có nội lực như vậy, trong cuộc tỷ thí vừa rồi không thể nào lại đấm đá lung tung vậy được, không lẽ quả thật có sự giả trá? "Thôi Chí Phương đâu biết rằng Dương Quá đã tu tập nội công theo cách Âu Dương Phong truyền thụ, có tiến bộ rõ rệt. Tu luyện nội công theo phái Bạch Đà sơn rất dễ dàng, tiến triển cực nhanh, không như nội công phái Toàn Chân cầu căn cơ thực tế. Luyện tập trong mười năm đầu, công lực của đệ tử phái Bạch Đà sơn tiến triển nhanh hơn hẳn đệ tử phái Toàn Chân. Nội công của hai phái vốn khác hẳn nhau, Thôi Chí Phương tùy thủ đẩy một cái như thế, dĩ nhiên khó lòng phân biệt sự khác nhau đó.

Dương Quá bị đẩy, cảm thấy ngực khó thở, chỉ biết là Thôi Chí Phương ra tay đánh nó. Lúc này nó chẳng còn sợ trời sợ đất gì hết, dù là chính Khưu Xứ Cơ tới đây nó cũng xông tới động thủ, thử hỏi nó sợ gì Thôi Chí Phương với chả Thôi Chí Viên? (phương viên: Vuông tròn). Nó bèn cúi đầu húc thẳng vào bụng dưới của Thôi Chí Phương. Thôi Chí Phương chẳng buồn bẩn tay với một đứa bé, y mỉm cười, né tránh một cái, nhất định muốn biết công phu thật của Dương Quá, nên nói:

– Thanh Đốc, ngươi hãy quá chiêu với Dương sư đệ, chú ý có chừng mực thôi, đừng quá nặng tay!

Lộc Thanh Đốc chỉ chờ có thế, lập tức sấn tới trước mặt Dương Quá, tả chưởng đánh dứ, Dương Quá né người sang bên phải, Lộc Thanh Đốc hữu chưởng tung ra, chiêu" Hổ môn thủ "này kình lực không nhỏ," bộp "một cái, trúng ngực Dương Quá. Nếu Dương Quá không từng luyện qua nội công theo phái Bạch Đà sơn, thì phải hộc máu mồm ra rồi. Tuy không bị thế, nhưng ngực nó cũng đau ghê gớm, mặt trắng bệch đi. Lộc Thanh Đốc thấy một chưởng chưa đánh ngã Dương Quá, cũng thầm lấy làm lạ, hữu quyền lại đánh vào mặt. Dương Quá giơ cánh tay ra đỡ, khổ nỗi nó không hiểu gì quyền lý, không biết cách hóa giải đơn giản nhất, hữu quyền của Lộc Thanh Đốc dẫn xéo đi, tả quyền phóng nhanh ra," hự "một tiếng, trúng vào bụng dưới của Dương Quá, khiến nó đau oằn cả người lại. Lộc Thanh Đốc hạ thủ không dung tình, cạnh bàn tay phải lại chém ngay xuống gáy, tựa hồ y muốn đánh cho đối phương phải ngất đi luôn để trả mối thù ngày nào. Ai ngờ thân hình Dương Quá chỉ lảo đảo vài cái, rồi lại đứng vững, chỉ thấy mặt mũi tối tăm, không còn khả năng đánh lại.

Thôi Chí Phương lúc này đã biết đích xác là Dương Quá không hề biết võ công, bèn gọi:

– Thanh Đốc, dừng tay!

Lộc Thanh Đốc nói với Dương Quá:

– Tên tiểu tử thối tha, mi đã phục ta hay chưa?

Dương Quá chửi:

– Tên đạo sĩ khốn kiếp, sẽ có ngày ta giết ngươi?

Lộc Thanh Đốc cả giận, hai quyền liên tiếp đánh vào sống mũi Dương Quá. Dương Quá thấy trời đất tối sầm, lảo đảo sắp ngã, không biết tại sao đột nhiên có một luồng khí nóng bốc thẳng lên từ đan điền, mắt thấy quyền thứ ba của Lộc Thanh Đốc lại đánh tới mặt, chẳng còn cách gì né tránh, thì tự dưng hai gối khép lại, miệng quát một tiếng, một chưởng đẩy ra, trúng vào bụng dưới của Lộc Thanh Đốc. Chỉ thấy thân hình béo mập của Lộc Thanh Đốc bỗng bay ngang, kéo theo một lớp bụi đất, bắn ra xa hơn một trượng, nằm thẳng cẳng bất động.

Các đạo sĩ đứng ngoài thấy Lộc Thanh Đốc cậy lớn hiếp bé, đánh Dương Quá hơi ác, đều tỏ ý bất bình. Bậc trưởng bối, trừ Triệu Chí Kính, đều lên tiếng ngăn cản, nào ngờ sự việc biến đổi kỳ lạ, Lộc Thanh Đốc rốt cuộc lại bị chưởng lực của Dương Quá đánh ngã, nằm thẳng cẳng bất động, thì ai nấy kinh ngạc, cùng chạy lại xem sao.

Thứ nội lực" Cáp mô công "này Dương Quá vốn chưa biết cách sử dụng, chỉ là trong lúc nguy cấp liều mạng, tự nhiên nó lại phát ra, lần thứ nhất ở Đào Hoa đảo, nó đánh cho Võ Tu Văn ngất lịm; mấy tháng sau, nội lực đã tăng tiến, sự căm hận của nó đối với Lộc Thanh Đốc càng sâu xa hơn so với huynh đệ họ Võ, kình lực do tâm sinh, cuối cùng đánh cho đối phương bắn văng ra xa. Chỉ nghe các đạo sĩ kêu loạn lên:

– Ôi chao, hỏng rồi, chết rồi!

– Tắt thở rồi, chắc là vỡ nội tạng!

– Mau bẩm báo tổ sư chưởng giáo!

Dương Quá biết là mình đã gây đại họa, nhân lúc hỗn loạn, cũng chẳng kịp nghĩ ngợi gì, nó cắm đầu chạy.

Các đạo sĩ mải xem Lộc Thanh Đốc sống chết ra sao, nên không ai lưu tâm đến việc Dương Quá bỏ chạy.

Triệu Chí Kính thấy Lộc Thanh Đốc hai mắt trợn ngược, chưa rõ sống chết thế nào, vừa kinh hãi vừa tức giận, gọi to:

– Dương Quá, Dương Quá, ngươi học thứ yêu pháp gì vậy hả?

Y võ công tuy cao, nhưng trưởng thành ở trong cung Trùng Dương, kiến văn hạn hẹp, không biết đó là thủ pháp" Cáp mô công ". Y gọi mấy lần, không thấy Dương Quá trả lời. Các đạo sĩ ngoảnh cả lại, thì đã không thấy bóng dáng Dương Quá đâu nữa. Triệu Chí Kính liền truyền lệnh cho mọi người chia nhau truy nã, thiết tưởng một thằng bé trong giây lát làm sao có thể trốn đi đâu được?

Dương Quá cắm đầu chạy, cứ chọn những chỗ nhiều bụi cây mà lao đến; chạy một hồi, nó nghe thoạt tiên ở sau lưng, rồi ở bốn phía, vang lên tiếng gọi:

– Dương Quá, Dương Quá, mau ra đây?

Nó càng hoảng, càng chạy loạn lên, đột nhiên trước mặt có bóng một dạo sĩ, người ấy đã trông thấy nó, đang chạy lại. Dương Quá vội quay mình, thì phía tây cũng có một đạo sĩ khác, nói:

– Đây rồi, nó đây rồi!

Dương Quá vội thụp người xuống, chui đại qua một bụi cây. Đạo sĩ kia thân hình cao to, chui qua không lọt, đành đi vòng bụi cây để tìm, thì Dương Quá đã chạy mất rồi.

Dương Quá chui qua bụi cây, cứ thế chạy thẳng một hồi, nghe tiếng người xa dần, nó vẫn chưa dám dừng chân. Nó tránh mọi đường đi, toàn đạp cỏ mà chạy, đến khi toàn thân mỏi nhừ, cơ hồ không còn sức cựa quậy, nó mới ngồi bệt xuống một hòn đá mà nghỉ. Nghỉ một lúc, nó tự nhủ:" Phải trốn thôi, trốn mau thôi! ". Nhưng hai chân nó tường như nặng ngàn cân, cố đứng lên vẫn không được. Bỗng nó nghe sau lưng có tiếng cười hi hi, nó giật mình, ngoảnh lại, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhìn thấy một đạo sĩ đang trợn mắt nhìn nó, người kia có bộ râu dài, chính là Triệu Chí Kính.

Đôi bên gườm gườm nhìn nhau, trong giây lát cả hai cùng bất động. Dương Quá đột nhiên kêu to, quay người bỏ chạy. Triệu Chí Kính đuổi theo, giơ tay chộp sau lưng. Dương Quá cúi gấp về phía trước, cách được vài tấc, suýt nữa thì bị tóm. Nó tiện thể nhặt một hòn đá, ném về phía sau. Triệu Chí Kính né người tránh, đuổi nhanh hơn, khoảng cách đôi bên ngắn dần. Dương Quá chạy như điên mươi bước nữa, bỗng thấy trước mặt là một cái khe sâu; chẳng còn đường nào khác, cũng không biết dưới kia là thâm cốc hay sơn khê, không kịp nghĩ ngợi gì hết, nó lăn đại xuống.

Triệu Chí Kính tới bên mép khe, nhìn xuống bên dưới, thấy Dương Quá lăn xuống theo vách cỏ xanh, bên dưới là một cánh rừng. Từ chỗ này xuống dưới đó khoảng cách phải bảy, tám trượng, Triệu Chí Kính không dám lăn theo, mà chạy đường vòng để xuống dưới đó, dần theo vết cỏ rạp mà Dương Quá để lại, tiến vào cánh rừng, một quãng sau thì không còn dấu vết gì nữa; rừng cây càng lúc càng dày, che hết cả ánh sáng mặt trời. Triệu Chí Kính đi thêm hơn chục trượng, sực nhớ đây là khu vực" Hoạt tử nhân mộ "chốn cựu cư của Trùng Dương tổ sư năm xưa, bổn phái đã có nghiêm qui, bất cứ ai cũng không được xâm nhập. Nhưng để cho Dương Quá trốn thoát vào đấy, thì Triệu Chí Kính không cam lòng, bèn lớn tiếng gọi:

– Dương Quá, Dương Quá, mau ra đi?

Gọi mấy lần, cánh rừng vẫn tĩnh lặng như tờ. Triệu Chí Kính đánh bạo tiến thêm vài bước, trong bóng tranh tối tranh sáng, thấy có một tấm bia đá, cúi nhìn, tấm bia khắc bốn chữ" Người ngoài dừng bước ". Triệu Chí Kính do dự, cất tiếng gọi to:

– Tên tiểu tặc Dương Quá, nếu không chịu ra, ta mà bắt được sẽ đập chết ngươi!

Tiếng quát vừa dứt, từ trong rừng bỗng nghe có tiếng vo vo lạ tai, rồi một bầy ong trắng từ các kẽ lá bay ào ào tới.

Triệu Chí Kính cả kinh, vung tay áo đuổi bầy ong. Y nội lực thâm hậu, luồng kình lực tạo ra từ ống tay áo vốn không nhỏ, nhưng vung vẩy được mấy cái, thì bầy ong tản làm hai bọn, một bọn tấn công phía trước mặt, một bọn thì ào tới từ phía sau gáy. Triệu Chí Kính càng kinh hãi không dám chậm trễ, hai tay áo cứ phất như bay, bảo vệ toàn thân. Bầy ong tản ra bu vào trên dưới, tứ diện bát phương dồn dập tấn công. Triệu Chí Kính không dám chống đỡ nữa, dùng tay áo che đầu che mặt, chạy ra khỏi cánh rừng.

Bầy ong vù vù đuổi theo, chúng bay cực nhanh, cứ bám riết không tha. Triệu Chí Kính chạy sang phía đông, bầy ong đuổi theo sang đông; Triệu Chí Kính chạy sang phía tây, bầy ong đuổi sang tây, y vung tay áo hơi chậm một chút, có hai con ong lợi dụng khe hở bay ngay vào, mỗi con đốt một cái vào má phải của Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính lập tức cảm thấy ngứa ngáy kinh khủng tựa hồ lục phủ ngũ tạng đều phát ngứa. Y nghĩ thầm:" Hôm nay ta bỏ mạng ở đây mất thôi!"Rồi y không đứng vững được nữa, ngã lăn mấy vòng xuống cái dốc cỏ ở bìa rừng, miệng la ôi ối. Bầy ong bay quanh thân hình y một lúc rồi bay trở vào rừng.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 05: Hoạt tử nhân mộ

Dương Quá lăn xuống khe, rơi vào đám cỏ dày trong rừng, rồi ngất lịm đi. Không biết bao lâu sau, bỗng cảm thấy thân thể đau buốt, mở mắt ra, thấy vô số những con ong trắng bay quanh nó, trong tai chỉ toàn nghe tiếng vo vo vù vù, toàn thân phát ngứa lạ lùng, trước mắt mờ mờ ảo ảo, rồi lại ngất đi.

Khi tỉnh lại, chỉ thấy có một thứ nước ngọt, thơm và mát lạnh, từ từ chảy vào cổ họng; nó mơ mơ màng màng nuốt xuống bụng, thấy dễ chịu vô cùng, bèn he hé mắt, thì thấy cách hai thước có một bộ mặt xấu xí, mọc đầy mụn cơm, đang chăm chú nhìn nó. Dương Quá sợ quá, suýt nữa lại ngất đi. Người kia dùng tay trái cậy hàm dưới của nó, tay phải cầm một cái chén, rót nước ngọt vào miệng nó.

Dương Quá cảm thấy cái ngứa dị thường trong người đã bớt, lại phát hiện mình đang nằm trên giường, biết là người kia cứu chữa cho nó, bèn mỉm cười, tỏ ý cảm tạ. Người kia cũng cười, rót nước ngọt vào miệng nó xong, đặt cái chén xuống bàn. Dương Quá thấy nụ cười của người phụ nữ ấy vô cùng xấu xí, nhưng lại hàm chứa một sự hiền từ ôn nhu, thì nó cảm thấy ấm lòng, nói:

– Bà bà ơi, đừng để sư phụ đến bắt điệt nhi.

Xú kiểm lão phụ (Bà già mặt mũi xấu xí) dịu dàng hỏi:

– Hài tử ngoan, sư phụ của con là ai thế?

Dương Quá đã lâu lắm không được nghe giọng nói dịu dàng quan thiết như thế, ngực nó bỗng bồi hồi ấm áp, bất giác nó khóc òa lên. Lão phụ tay trái cầm tay nó, không khuyên nhủ gì, chỉ hơi mỉm cười, nghiêng đầu nhìn nó, ánh mắt đầy vẻ âu yếm, tay phải vỗ vỗ nhẹ lưng nó; chờ nó khóc một hồi, mới nói:

– Con đã dễ chịu hơn chưa?

Dương Quá nghe giọng nói hiền hòa, bất giác lại khóc òa lên. Lão phụ lấy khăn lau nước mắt cho nó, an ủi:

– Hài tử ngoan, đừng khóc, đừng khóc; chỉ lát nữa sẽ hết đau thôi.

Lão phụ càng dỗ, Dương Quá càng khóc nức nở.

Bỗng bên ngoài tấm màn cửa có một giọng trong trẻo vang lên:

– Tôn bà bà, hài tử đó cứ khóc mãi không nín, thì làm thế nào?

Dương Quá ngẩng đầu nhìn, chỉ thấv một bàn tay trắng như ngọc vén tấm màn che, rồi một thiếu nữ bước vào. Thiếu nữ ấy mặc bộ đồ lụa trắng, tưởng như thân hình ở trong lớp sương mù, trạc mười bảy, mười tám tuổi, trừ mái tóc đen, toàn thân trắng như tuyết, khuôn mặt tú mỹ tuyệt vời, có điều là da dẻ trắng xanh, thiếu màu hồng. Dương Quá đỏ mặt, vội nín bặt, cúi đầu xấu hổ, nhưng vẫn đưa mắt nhìn trộm thiếu nữ một cái, thấy nàng đang nhìn mình, nó vội cúi mặt xuống.

Tôn bà bà cười, nói:

– Ta hết cách rồi, nàng lại dỗ nó vậy.

Thiếu nữ tới bên giường, xem vết ong đốt trên đầu Dương Quá, đưa tay sờ sờ góc trán, xem nó có bị sốt hay không. Bàn tay nàng vừa chạm vào trán, Dương Quá lập tức cảm thấy lạnh giá lạ thường, bất giác nó run cầm cập. Thiếu nữ nói:

– Không sao, ngươi đã uống mật ong, nửa ngày thì khỏi. Ngươi chạy vào rừng làm gì vậy?

Dương Quá ngẩng mặt lên, gặp ánh mắt của nàng, cảm thấy thiếu nữ thanh lệ tú nhã, càng nhìn càng ưa, song thần sắc lạnh lùng, đúng là thanh khiết như băng tuyết, cũng giá lạnh như băng tuyết, thật chẳng biết nàng mừng hay giận, buồn hay vui, tự dưng nó cảm thấy sờ sợ, nghĩ thầm: "Cô nương này là pha lê, hay là người tuyết? Rốt cuộc là người hay ma? Hay là thần đạo tiên nữ?" Nghe lời nói kiều nhu uyển chuyển, nhưng giọng nói tựa hồ không một chút ấm áp, thì nó ngẩn ngơ, không trả lời.

Tôn bà bà cười, nói:

– Vị Long tỷ tỷ là chủ nhân ở đây, Long tỷ tỷ vừa hỏi gì, sao ngươi không đáp?

Bạch y thiếu nữ tú mỹ này hóa ra là Tiểu Long Nữ, chủ nhân của "Hoạt tử nhân mộ". Nàng đã mười tám tuổi, có điều sống lâu trong nhà mộ, không có ánh nắng, nội công tu luyện lại theo con đường khắc chế tâm ý, nên trông trẻ hơn các thiếu nữ cùng trang lứa tới mấy tuổi. Tôn bà bà là a hoàn của sư phụ nàng, từ ngày sư phụ qua đời, hai người cùng ở trong nhà mộ với nhau. Hôm nay nghe tiếng ong, biết có kẻ xông vào cánh rừng bên ngoài nhà mộ, Tôn bà bà đi ra xem sao, thấy Dương Quá đã trúng độc ngất lịm, bèn cứu nó. Lẽ ra, theo qui củ ở đây bất cứ người ngoài là ai, cũng không được vào trong nhà mộ nửa bước, nam giới bước vào càng phạm đại kỵ; nhưng Dương Quá còn nhỏ, hơn nữa người đầy thương tích, Tôn bà bà không nỡ, nên phá lệ cứu nó.

Dương Quá ngồi dậy, từ trên giường đá nhảy xuống đất khấu đầu với Tôn bà bà và Tiểu Long Nữ, nói:

– Đệ tử Dương Quá, bái kiến bà bà, bái kiến Long cô cô.

Tôn bà bà tươi cười vội đỡ nó dậy, nói:

– À, vậy là Dương Quá, khỏi cần đa lễ.

Tôn bà bà sống trong nhà mồ đã mấy chục năm, không giao thiệp với người ngoài, lúc này thấy Dương Quá diện mạo tuấn tú, cứ chỉ lễ độ, thì trong bụng rất vui thích. Còn Tiểu Long Nữ chỉ hơi gật đầu, ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh giường. Tôn bà bà nói:

– Sao ngươi lại tới đây? Tại sao lại bị thương? Kẻ nào đánh ngươi đến mức tệ hại thế này?

Tôn bà bà hỏi dồn dập, không đợi Dương Quá trả lời, bước ra, mang vào mấy cái bánh, luôn miệng giục nó ăn.

Dương Quá ăn hết mấy cái bánh, rồi đem thân thế của mình ra kể một mạch từ đầu chí cuối. Nó vốn khéo mồm khéo miệng, kể về cảnh ngộ của mình khiến người nghe phải mủi lòng. Tôn bà bà không ngớt thở dài, chốc chốc xen vào vài lời, toàn là bênh Dương Quá, nào bảo Hoàng Dung thiên vị con gái, hành sự bất công; nào chê Triệu Chí Kính lòng dạ hẹp hòi, hiếp đáp con trẻ. Tiểu Long Nữ không biểu lộ thanh sắc, chỉ thản nhiên ngồi nghe, khi Dương Quá nhắc đến Lý Mạc Sầu, nàng đưa mắt nhìn Tôn bà bà.

Tôn bà bà nghe Dương Quá kể xong, kéo nó vào lòng, nói:

– Tội nghiệp cho con!

Tiểu Long Nữ thong thả đứng dậy, nói:

– Thương thế của ngươi không sao cả, Tôn bà bà hãy đưa nó sang bên đó!

Tôn bà bà và Dương Quá cùng sững sờ. Dương Quá kêu to:

– Đệ tử không về, chết cũng không trở về bên đó.

Tôn bà bà nói:

– Cô nương, đứa bé này nếu trở về cung Trùng Dương, sư phụ của nó sẽ gây khó dễ với nó.

Tiểu Long Nữ nói:

– Bà bà đưa nó sang, bảo sư phụ của nó đừng gây khó dễ cho nó.

Tôn bà bà nói:

– Ôi, chuyện của môn phái bên đó, chúng ta chẳng quản được đâu.

Tiểu Long Nữ nói:

– Bà bà mang theo một bình mật ong sang, rồi nói thế, lão đạo sĩ sẽ không thể trái lời.

Giọng nói của nàng rất uy nghiêm, khiến người ta khó bề phản kháng. Tôn bà bà thở dài, đã biết tính nàng, có nói thêm cũng vô ích, chỉ nhìn Dương Quá, ánh mắt đầy vẻ thương hại.

Dương Quá đứng phắt dậy, vái hai người một vái nói:

– Đa tạ bà bà và cô cô trị thương, đệ tử đi đây!

Tôn bà bà nói:

– Ngươi đi đâu thế?

Dương Quá ngẩn người giây lát, rồi nói:

– Thiên hạ rộng lớn, đi đâu mà chẳng được.

Trong bụng quả thật nó chưa biết nên đi đâu, nên sắc mặt bất giác lộ vẻ bối rối. Tôn bà bà nói:

– Hài tử, không phải cô nương của chúng ta không cho ngươi ở lại, mà là nơi này có nghiêm qui, không cho người ngoài bước vào, ngươi đừng buồn.

Dương Quá hiên ngang nói:

– Bà bà nói gì vậy? Chúng ta sau này sẽ còn gặp nhau mà.

Thằng bé bắt chước lối nói năng của người lớn, nhưng giọng nói thì còn của trẻ con, Tôn bà bà nghe vừa tức cười vừa thương hại. Thấy nó nước mắt lưng tròng, đang cố không khóc, thì Tôn bà bà quay sang nói với Tiểu Long Nữ:

– Cô nương, giữa đêm hôm thế này, hay là để sáng mai nó đi?

Tiểu Long Nữ khẽ lắc đầu, nói:

– Bà bà không lẽ đã quên qui củ của sư phụ rồi sao?

Tôn bà bà thở dài, đứng dậy, nói nhỏ với Dương Quá:

– Lại đây, hài tử, ta cho con một thứ đồ chơi.

Dương Quá đưa mu bàn tay chùi mắt, cúi đầu đi ra cửa, nói:

– Đệ tửkhông cần, đệ tử có chết cũng không về chỗ bọn đạo sĩ thối tha.

Tôn bà bà lắc đầu, nói:

– Ngươi không biết đường, để ta dẫn đi cho.

Tôn bà bà đi ra, cầm tay nó. Vừa ra tới cửa buồng, Dương Quá thấy trước mắt tối mò mò, nó phải để Tôn bà bà dắt đi, chỉ biết là vòng hai chỗ quành, không hiểu Tôn bà bà trong bóng tối làm cách nào nhận biết các chỗ rẽ.

Nguyên "Hoạt tử nhân mộ" tuy gọi là mộ phần, nhưng thực ra là một cái nhà kho rất lớn ngầm dưới lòng đất. Trước khi nổi dậy chống Kim, Vương Trùng Dương đã điều động mấy ngàn nhân lực xây dựng mấy năm mới xong, cất giấu ở đây khí giới, lương thực, làm căn bản cho một dải Sơn – Thiểm, bên ngoài có hình dạng một ngôi mộ, để che tai mắt của quân Kim. Lại sợ quân Kim tấn công vào, nên bên trong bố trí vô số cơ quan xảo diệu để chống ngoại địch. Sau khi nghĩa binh thất bại, Vương Trùng Dương lui về đây ẩn cư. Vì bên trong mộ có rất nhiều phòng, lối đi lắt léo, người ngoài vào trong, dẫu bốn phía đèn đuốc sáng rực, cũng dễ bị lạc lối, nói chi trong bóng tối bưng lấy mắt như thế này.

Hai người ra khỏi tòa cổ mộ, đang đi trong cánh rừng, bỗng nghe bên ngoài có tiếng nói to:

– Môn hạ đệ tử phái Toàn Chân Doãn Chí Bình phụng mệnh sư phụ bái kiến Long cô nương.

Âm thanh ở xa, rõ ràng là từ bên ngoài cấm địa truyền vào. Tôn bà bà nói:

– Ngoài kia có người tìm ngươi đó, hượm hãy ra.

Dương Quá vừa sợ vừa tức, người run lên, nói:

– Bà bà khỏi cần lo cho đệ tử, dám làm thì dám chịu, đệ tử đã lỡ tay đánh chết người thì cứ để người ta giết đệ tử đền mạng.

Nói đoạn nó sải bước mà đi. Tôn bà bà nói:

– Ta cùng đi với ngươi.

Tôn bà bà cầm tay Dương Quá dắt đi qua cánh rừng, tới chỗ bìa rừng trống trải. Dưới ánh trăng đã thấy sáu, bảy đạo sĩ đứng thành một hàng, lại có bốn đạo sĩ hỏa công khiêng hai người bị thương là Triệu Chí Kính và Lộc Thanh Đốc. Các đạo sĩ thấy Dương Quá thì không hẹn mà cùng tiến lên mấy bước.

Dương Quá gỡ tay Tôn bà bà ra, bước lên, nói to:

– Ta đây, các người muốn băm muốn vằm thế nào thì cứ việc.

Các đạo sĩ không ngờ một đứa bé lại cương ngạnh như thế. Một đạo sĩ tiến lại túm cổ Dương Quá lôi đi.

Dương Quá cười khẩy, nói:

– Ta có chạy đâu mà ngươi phải cuống lên thế?

Đạo sĩ đó là đại đệ tử của Triệu Chí Kính, sư phụ của y vì Dương Quá mà bị ong đốt, đau đớn chết đi sống lại, chưa biết có giữ được tính mạng hay không. Y vốn thập phần ngưỡng mộ sư phụ, nghĩ rằng là đồ đệ mà ngỗ nghịch với sư phụ như Dương Quá, thật là cực kỳ vô pháp vô thiên, nghe Dương Quá nói cứng, y đấm luôn một quyền vào đầu nó.

Tôn bà bà vốn định nói chuyện tử tế với các đạo sĩ, thấy Dương Quá bị người ta lôi đi xềnh xệch, đã rất khó chịu, đột nhiên lại thấy nó bị đánh, thì cả giận, nén sao nổi? Tôn bà bà bèn sấn tới, phất tay áo một cái, gã đạo sĩ kia chỉ thấy cổ tay đau nhói, đành buông Dương Quá ra, định hỏi vì sao, thì Tôn bà bà đã ôm Dương Quá quay lưng bước đi.

Cứ tưởng Tôn bà bà là một lão phụ yếu ớt, nào ngờ xuất thủ đoạt người quá mau lẹ, các đạo sĩ còn đang ngẩn ra, thì Tôn bà bà đã mang Dương Quá đi ra xa hơn một trượng. Ba đạo sĩ chạy theo, quát:

– Để người lại!

Tôn bà bà dừng chân, ngoảnh đầu, cười khẩy:

– Các ngươi muốn gì?

Doãn Chí Bình biết các nhân vật của "Hoạt tử nhân mộ" có mối quan hệ sâu xa với sư môn, không dám đắc tội, vội quát các đạo sĩ:

– Các ngươi lui lại, không được vô lễ trước mặt tiền bối.

Rồi y bước tới, cúi đầu hành lễ, nói:

– Đệ tử Doãn Chí Bình bái kiến tiền bối.

Tôn bà bà nói:

– Để làm gì?

Doãn Chí Bình nói:

– Hài tử này là đệ tử của phái Toàn Chân, thỉnh tiền bối giao lại cho.

Tôn bà bà cau mày, gằn giọng:

– Trước mặt ta, các ngươi còn đánh đập nó như thế, thử hỏi về đến đạo quán, các ngươi sẽ còn hành hạ nó như thế nào? Muốn ta giao lại, đừng hòng!

Doãn Chí Bình nén giận, nói:

– Đứa bé này ngang bướng hết sức, khi sư diệt tổ, đại hoại môn qui, người trong võ lâm lấy việc kính trọng sư trưởng làm đầu, tệ giáo có trách phạt nó cũng là việc cần làm.

Tôn bà bà tức giận, nói:

– Cái gì mà khi sư diệt tổ, chỉ mới nghe một phía.

Rồi chỉ Lộc Thanh Đốc đang nằm trên cáng, nói:

– Thằng nhỏ tỷ thí với tên đạo sĩ mập kia, là qui củ của riêng phái Toàn Chân các người. Nó vốn không muốn tỷ thí, các người bắt nó phải tỷ thí. Đã tỷ thí, tất nhiên có người thắng kẻ thua, tên đạo sĩ mập vô dụng như thế, còn trách ai kia chứ?

Tôn bà bà tướng mạo vốn xấu xí, lúc giận dữ mặt mày trông càng đáng sợ hơn.

Trong lúc đang nói, lại có thêm hơn mười đạo sĩ nữa tới, đều đứng sau Doãn Chí Bình, họ to nhỏ với nhau, không biết bà bà lớn tiếng kia là ai.

Doãn Chí Bình nghĩ thầm việc đả thương Lộc Thanh Đốc vốn không thể trách Dương Quá, nhưng trước mặt người ngoài không thể để mất uy phong, bèn nói:

– Chuyện này đúng sai thế nào, chúng đệ tử tất sẽ bẩm cáo rõ với sư phụ chưởng giáo, tùy lão nhân gia công bằng xử trí. Thỉnh tiền bối hãy giao lại hài tử kia cho đệ tử.

Tôn bà bà cười khẩy:

– Chưởng giáo của các người mà lại xử công bằng ư? Phái Toàn Chân từ Vương Trùng Dương trở đi, chẳng có lấy một người tử tế. Nếu không, tại sao đôi bên ở sát bên nhau, mà không hề lai vãng?

Doãn Chí Bình nghĩ thầm: "Đấy là các người không chịu lai vãng với bọn ta, sao lại trách cứ phái Toàn Chân? Lời mụ vừa nói dám nhục mạ cả Chân Nhân sáng lập phái Toàn Chân, thật quá ư vô lễ". Nhưng không muốn vì chuyện này mà tranh cãi làm tổn thương hòa khí đôi bên, chỉ nói:

– Thỉnh tiền bối thành toàn, tệ giáo nếu có chỗ nào đắc tội, chưởng giáo bên chúng đệ tử sẽ sang tạ tội với tiền bối.

Dương Quá ghé tai nói nhỏ với Tôn bà bà:

– Gã đạo sĩ ấy có rất nhiều quỉ kế, bà bà đừng để gã đánh lừa.

Tôn bà bà mười tám năm qua nuôi dưỡng Tiểu Long Nữ trưởng thành, trong thâm tâm chỉ mong được nuôi dưỡng một nam hài nhi, lúc này thấy Dương Quá thân thiết với mình, thì hết sức cao hứng, thế là tâm ý đã quyết: "Gì thì gì cũng không để bọn chúng đem tháng bé đi", bèn cao giọng nói:

– Ngươi định mang đứa bé về là để hành hạ nó chứ gì?

Doãn Chí Bình ngẩn người, nói:

– Đệ tử có tình đồng môn với vong phụ của đứa bé này, không khi nào gây khó dễ với cô nhi của vong hữu, mong lão tiền bối cứ yên tâm.

Tôn bà bà lắc đầu, nói:

– Lão bà tử không quen nghe những lời hứa suông của người ngoài. Ta đi thôi.

Nói đoạn đi vào rừng.

Triệu Chí Kính đang nằm trên cáng, vết ong đốt ngứa ngáy hết sức khó chịu, nghe Doãn Chí Bình đấu khẩu với Tôn bà bà hồi lâu không xong, càng nghe càng tức, đột nhiên từ trong cáng nhỏm dậy, lao đến trước mặt Tôn bà bà, quát:

– Đứa bé này là đệ tử của ta, muốn đánh chửi gì là quyền của ta. Không để sư phụ quản đệ tử, võ lâm lại có thứ qui củ như thế sao?

Tôn bà bà thấy một bên má Triệu Chí Kính sưng như đầu heo, nghe y nói, biết y là sư phụ của Dương Quá, nhất thời chưa biết đối đáp ra sao, đành cưỡng từ đoạt lý, nói:

– Ta không cho phép ngươi quản nó đấy, thì đã sao?

Triệu Chí Kính quát:

– Đứa bé này là thế nào với mụ? Mụ dựa vào cái gì mà thọc tay can thiệp?

Tôn bà bà sững người, quát to:

– Nó đã không còn là môn hạ của phái Toàn Chân các người. Đứa bé này đã cải bái Tiểu Long Nữ cô nương của nhà ta làm sư phụ, nó tốt hay xấu, trong thiên hạ chỉ có một mình Tiểu Long Nữ cô nương được quản nó mà thôi. Các người chớ có làm cái chuyện bao đồng.

Lời này vừa dứt, các đạo sĩ nhao nhao cả lên. Nên biết, theo qui củ võ lâm, nếu chưa được sư phụ cho phép, quyết không được bái người khác làm sư phụ, dù có gặp minh sư có bản lĩnh cao hơn sư phụ mình hàng chục lần, cũng không được thay lòng đổi dạ, đi theo người kia; nếu không sẽ là tên đại nghịch đồ, bị đồng đạo võ lâm khinh bỉ. Năm xưa, sau khi Quách Tĩnh bái Giang Nam Thất Quái làm sư phụ, lại học võ nghệ của Hồng Thất Công, song trước sau vẫn không gọi Hồng Thất Công là sư phụ, mãi sau này được các vị như Kha Trấn Ác chính thức cho phép, mới định danh phận sư đồ với Hồng Thất Công. Vừa rồi, Tôn bà bà bị Triệu Chí Kính dồn cho cứng lưỡi không thể đối đáp, Tôn bà bà lại không giao thiệp với các nhân sĩ võ lâm nên không biết qui củ, bạ đâu nói đó, không ngờ phạm điều đại kỵ. Các đạo sĩ phái Toàn Chân phần đông vốn thương hại Dương Quá, cảm thấy Triệu Chí Kính xử sự không hay, nhưng nghe Dương Quá dám công nhiên phản xuất sư môn, là điều chưa từng có từ ngày sáng lập tới giờ, nên ai nấy đều phẫn nộ.

Triệu Chí Kính thấy chỗ vết ong đốt lại đau buốt nhức nhối, vốn đã rất khó chịu, chỉ cảm thấy nếu liều chết một phen có khi lại sảng khoái, bèn nghiến răng hỏi Dương Quá:

– Dương Quá, việc đó có thật hay không?

Dương Quá vốn không biết trời cao đất dày gì hết, thấy Tôn bà bà bênh vực nó mà tranh cãi với Triệu Chí Kính, từ giờ dẫu Tôn bà bà có bảo nó làm ngàn vạn việc đại ác, nó cũng nhất nhất vâng lời, huống hồ chỉ là việc cải đổi sư môn, chính là ý nguyện của nó; đừng nói là bái Tiểu Long Nữ làm sư phụ, dù có bái con heo con chó làm sư phụ, nó cũng nhận luôn không chút do dự, thế là nó liền cao giọng đáp:

– Này tên xú đạo sĩ, lão dê già râu dài tặc đầu cẩu não kia, lão đánh ta, ta còn nhận lão làm sư phụ nữa sao? Phải đấy, ta đã bái Tôn bà bà làm sư phụ, lại còn bái Long cô cô làm sư phụ đấy.

Triệu Chí Kính tức giận, ngực như muốn nổ tung; bèn phi thân tới, hai tay chộp vai Dương Quá. Tôn bà bà chửi:

– Xú tạp mao, ngươi muốn chết hả?

Tay phải đánh vào cổ tay Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính là đệ nhất cao thủ trong đám đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, nói về võ công, còn cao hơn Doãn Chí Bình, tuy thân thụ trọng thương, nhưng xuất thủ còn cực kỳ dũng mãnh. Hai người đụng tay vào nhau, cả hai cùng bật lùi hai bước, Tôn bà bà hừ một tiếng nói:

– Hảo tạp mao, cũng không phải hạng bất tài.

Triệu Chí Kính một trảo chưa trúng, trảo thứ hai liền chộp tới. Lần này Tôn bà bà không còn dám coi thường y, vội né tránh, một cước từ trong váy vô ảnh vô tông phóng ra. Triệu Chí Kính nghe tiếng gió, đang định tránh, thì đột nhiên vết ong đốt ngứa ngáy kinh khủng, bất giác rú lên, ôm đầu thụp xuống, đòn cước của Tôn bà bà liền phóng tới sườn y, thân hình của y tung lên, miệng y vẫn la oai oái.

Doãn Chí Bình lướt tới hai bước, giơ tay đỡ Triệu Chí Kính, giao cho đệ tử phía sau. Y thấy xú bà bà có chiêu số võ công kỳ dị, biết là khó địch nổi, bèn huýt một tiếng sáo, sáu đạo sĩ từ hai bên ập lại, dàn thành "Thiên Cang Bắc Đẩu trận", vây Tôn bà bà và Dương Quá vào giữa.

Doãn Chí Bình quát:

– Đắc tội!

Hai đạo sĩ ở vị trí sao Thiên Khu, Dao Quang đã tấn công tới. Tôn bà bà không hiểu trận pháp, giao đấu vài chiêu đã biết lợi hại, lại chỉ có một mình đối phó với bảy người, sau hai ba chục chiêu đã hung hiểm bội phần; mọi đòn công kích của Tôn bà bà đều bị Doãn Chí Bình điều động Bắc Đẩu trận hóa giải dễ dàng, trong khi thế công của Bắc Đẩu trận thì cứ liên miên bất tận. Đấu thêm mươi chiêu nữa, hữu chưởng của Tôn bà bà bị hai đạo sĩ giữ chặt lấy. Mé bên trái lại có hai đạo sĩ đánh tới, Tôn bà bà đành buông Dương Quá, dùng tay trái chống đỡ; chỉ nghe Bắc Đẩu trận phát ra một tiếng sáo, hai đạo sĩ tiến lại chộp lấy Dương Quá.

Tôn bà bà thầm kinh hãi: "Tên đạo sĩ này quả có chút bản lĩnh, lão bà tử đối phó không lại rồi". Vừa xuất cước đẩy lùi hai đạo sĩ, Tôn bà bà vừa khẽ phát từ miệng ra tiếng u u. Tiếng u u đó thoạt tiên rất nhỏ, các đạo sĩ không để ý, nhưng nó cứ liên tiếp phát ra, dồn lên nhau, mỗi lúc một lớn dần.

Doãn Chí Bình từ lúc giao đấu với Tôn bà bà, đã toàn thần phòng bị. Y biết rằng vị nữ tiền bối hồi trước sống ở "Hoạt tử nhân mộ" có võ công hoàn toàn ngang ngửa với tổ sư khai sáng bổn giáo; hậu nhân của vị đó dĩ nhiên cũng không phải hạng tầm thường; nghe tiếng u u, y ngỡ là thuật truyền âm nhiếp tâm, vội trấn tĩnh tinh thần, đề phòng bị địch chế ngự; nhưng nghe một hồi, âm thanh đó không hề gia tăng, tâm thần của mình không hề có biểu hiện dao động, đang lấy làm lạ, thì bỗng nhiên đại kinh thất sắc, vì nghe từ xa có tiếng vo vo hưởng ứng tiếng u u của Tôn bà bà. Doãn Chí Bình vội nói to:

– Mọi người mau rút lui!

Các đạo sĩ ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Bên ta đang chiếm thượng phong, chẳng mấy chốc sẽ bắt sống một già một trẻ, lão bà bà kêu vớ vẩn thế kia thì có gì đáng sợ?" Đột nhiên từ trong rừng một đàn ong trắng ào ạt bay ra, đâm bổ xuống đầu mọi người. Các đạo sĩ đã thấy Triệu Chí Kính khổ sở vì bị ong đốt như thế nào, lập tức hồn xiêu phách lạc, cắm đầu bỏ chạy. Đàn ong bay riết đuổi theo.

Tôn bà bà thấy các đạo sĩ khó tránh mối nguy bị ong đối thì phá lên cười ha hả; bỗng một lão đạo sĩ từ trong rừng tiến ra, tay giơ cao hai cây đuốc, đầu cây đuốc khói đen đặc bốc lên ngùn ngụt, khua khua chắn đường đàn ong. Đàn ong tức thời đại loạn, nháo nhác bay đi xa. Tôn bà bà cả kinh, nhìn kỹ lão đạo sĩ, thấy người kia râu tóc bạc phơ, mặt rất dài, trông bộ dạng chắc là một cao thủ của phái Toàn Chân, bèn hỏi:

– Này, lão đạo kia là ai? Tại sao lại xua tan bầy ong của ta?

Lão đạo sĩ cười, nói:

– Bần đạo Hách Đại Thông, bái kiến bà bà.

Tôn bà bà tuy không giao thiệp với người trong võ lâm, nhưng vì ở ngay bên cạnh cung Trùng Dương, nên cũng biết Quảng Ninh Tử Hách Đại Thông là một trong bảy đại đệ tử của Vương Trùng Dương, nghĩ hai tiểu đạo sĩ Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình còn gây khó dễ được với mình, thì Hách Đại Thông tất nhiên lợi hại hơn nhiều. Ngửi mùi khói đặc bốc ra từ hai cây đuốc, Tôn bà bà lợm giọng, thiết tưởng đuốc kia làm bằng một loại thảo dược dùng để hun chống độc trùng, bầy ong không chịu nổi đã bỏ đi, đành gằn giọng, nói:

– Lão hun mất đàn ong của cô nương nhà ta, liệu mà bồi thường, sau này ta sẽ tính sổ với lão.

Rồi ôm Dương Quá mà chạy vào rừng.

Doãn Chí Bình hỏi:

– Hách sư thúc, có đuổi theo hay không ạ?

Hách Đại Thông lắc đầu, nói:

– Sáng giáo Chân Nhân đã định nghiêm qui, không được vào đó, hãy về bàn kỹ, tính sau.

Tôn bà bà dắt Dương Quá đi vào nhà mộ. Hai người trải qua hoạn nạn vừa rồi, càng trở nên thân thiết hơn. Dương Quá lo Tiểu Long Nữ vẫn không chịu thu nạp nó, Tôn bà bà nói:

– Ngươi yên tâm, ta sẽ nói đến lúc Long cô nương thu nạp ngươi mới thôi.

Đoạn bảo nó ngồi nghỉ trong một gian thạch thất, còn tự mình đi nói với Tiểu Long Nữ.

Dương Quá đợi hồi lâu, không thấy Tôn bà bà quay lại, càng chờ càng nóng ruột, nghĩ thầm: "Long cô nương chắc không chịu thu lưu, dẫu Tôn bà bà có nài nỉ cô nương đáp ứng, ta ở đây cũng vô vị". Nghĩ thế, lòng đã quyết, nó đứng lên bước ra.

Vừa ra tới cửa, thì Tôn bà bà hối hả trở lại, hỏi:

– Ngươi đi đâu vậy?

Dương Quá nói:

– Bà bà, đệ tử đi đây, khi nào lớn một chút, đệ tử sẽ tới thăm bà bà.

Tôn bà bà nói:

– Không, ta sẽ đưa ngươi tới một nơi không ai bắt nạt ngươi.

Dương Quá nghe vậy, biết Tiểu Long Nữ quả nhiên không chịu thu lưu nó, thì không khỏi buồn lòng, cúi đầu nói:

– Không cần thế đâu. Đệ tử là một kẻ ngang bướng, dù đến đâu, người ta cũng không ưa đệ tử. Bà bà đừng lo cho đệ tử mà phí sức.

Tôn bà bà thuyết phục Tiểu Long Nữ mãi mà nàng ta vẫn không chịu, trong lòng đã có phần tự ái, lại thấy Dương Quá đáng thương, nhiệt huyết liền dâng lên, nói:

– Hài tử, người khác không cần ngươi, song ta thích ngươi. Ngươi hãy đi theo ta, dù ở đâu, bà bà cũng sẽ ở bên ngươi.

Dương Quá cả mừng, nắm lấy tay Tôn bà bà. Hai người đi ra cửa nhà mộ. Tôn bà bà tự ái, cũng chẳng buồn quay lại lấy quần áo, đưa tay sờ túi, thấy cái lọ mật ong, nhớ rằng mình cần giao cho Triệu Chí Kính chữa độc, gã đạo sĩ thối tha ấy tuy tàn ác, nhưng chưa đáng tội chết, hắn mà không uống thứ mật này, thì khó tránh hậu hoạn vô cùng, bèn dắt Dương Quá đi về phía cung Trùng Dương.

Dương Quá thấy Tôn bà bà đi gần tới cung Trùng Dương, thì giật mình, hỏi nhỏ:

– Bà bà, mình còn đến đây làm gì?

Tôn bà bà nói:

– Đưa giải dược cho gã sư phụ thối tha của ngươi.

Chẳng mấy chốc đã tới trước đạo quán. Tôn bà bà nhảy lên bờ tường, đang định nhảy xuống sân, thì giữa đêm khuya tĩnh mịch đột nhiên các hồi chuông gióng giả cất lên dồn dập gấp gáp. Tôn bà bà biết là mình đã lọt vào trùng vây, không khỏi thầm kinh hãi.

Phái Toàn Chân là một đại tông phái trong võ lâm, bình thời việc bố trí canh phòng đã nghiêm mật dị thường, hôm nay liên tiếp xảy ra nhiều chuyện, bốn phương tám hướng đều có người canh giữ. Thấy có kẻ xâm nhập, tức thời có sự cảnh báo truyền tin, chúng đệ tử trong cung chia nhau nghênh địch. Có lớp bao vây kẻ địch đã xâm nhập, có lớp ra chặn hậu viện của kẻ địch từ ngoài xa.

Tôn bà bà chửi thầm: "Lão bà tử đến đây có phải để đánh nhau đâu mà lắm trò thế?" bèn cao giọng gọi to:

– Triệu Chí Kính, mau ra đây, ta có lời muốn nói với ngươi.

Từ trong đại điện, một trung niên đạo sĩ bước ra, nói:

– Đêm hôm khuya khoắt xông vào tệ giáo, có gì chỉ giáo?

Tôn bà bà nói:

– Đây là thuốc trị khi bị ong độc cắn, hãy nhận lấy!

Nói rồi ném cái lọ đựng mật ong vào. Đạo sĩ kia giơ tay đón bắt, bán tín bán nghi, nghĩ thầm: "Mụ ta sao lại có hảo tâm mang cho giải dược?" hỏi to:

– Là thuốc gì vậy?

Tôn bà bà nói:

– Khỏi cần hỏi nhiều, hãy cứ đưa cho Triệu Chí Kính uống hết cả đi, khắc thấy công hiệu.

Đạo sĩ kia nói:

– Bần đạo làm sao biết bà bà có hảo tâm hay là tịch ý, đây là giải dược hay là độc dược? Bà bà đã làm cho Triệu sư huynh khổ sở như thế, sao tự dưng lại nảy sinh cái tâm Bồ tát như vậy?

Tôn bà bà nghe đạo sĩ kia nói thế, chẳng hóa ra hảo tâm của mình lại biến thành ý xấu hạ độc hại người, thì không nén nổi giận dữ, đặt Dương Quá xuống đất, vọt tới cướp lại lọ mật ong, mở nút lọ, bảo Dương Quá:

– Há miệng ra!

Dương Quá không rõ dụng ý nhưng cũng vâng lời há miệng. Tôn bà bà dốc hết chỗ mật trong lọ vào miệng Dương Quá, nói:

– Được thế này thì chúng hết nghi là độc dược. Quá nhi, ta đi thôi!

Đoạn dắt Dương Quá đi lại bên tường.

Đạo sĩ kia tên Trương Chí Quang, là đệ tử thứ hai của Hách Đại Thông, lúc này mới hối hận rằng lẽ ra không nên nghi ngờ như vậy; xem chừng Tôn bà bà mang tới đúng là giải dược, Triệu Chí Kính nếu không có thuốc giải, e khó sống được, vội chạy chắn trước mặt, dang hai tay, cười nói:

– Lão tiền bối hà tất nóng nảy như thế? Bần đạo nói đùa một câu, lão tiền bối đã tưởng thật ư? Đôi bên là láng giềng nhiều năm, dẫu gì cũng có chút tình, hì hì, đã là giải dược, thì xin lão tiền bối ban cho.

Tôn bà bà ghét lời lẽ giảo hoạt, cử chỉ khiếm nhã của gã đạo sĩ, cười khẩy, nói:

– Giải dược chỉ có một lọ, muốn thêm cũng chẳng có. Thương thế của Triệu Chí Kính, ngươi hãy tự nghĩ cách chữa trị cho hắn!

Đoạn phẩy ngược bàn tay lại một cái, nói:

– Ngươi bất kính với tiền bối, cái này là để giáo huấn ngươi.

Một chưởng xuất thủ cực nhanh, Trương Chí Quang không kịp né tránh, "bốp" một tiếng, má y bị trúng đòn, chỉ thấy rát bỏng.

Hai đạo sĩ đứng bên cổng thấy vậy, mặt biến sắc, cùng nói:

– Dẫu là tiền bối, cũng đâu được phép gây sự trước cung Trùng Dương?

Một dùng tả chưởng, một dùng hữu chưởng, từ hai phía hợp kích đánh vào. Tôn bà bà đã lĩnh giáo qua công phu Bắc Đẩu trận lợi hại của phái Toàn Chân, lúc này thân nhập trọng địa, đâu dám ham chiến? Tôn bà bà vội luồn qua khe hở giữa hai chưởng, ôm Dương Quá vọt lên bờ tường.

Mắt thấy trên bờ tường không có ai, Tôn bà bà sắp đặt chân trên bờ tường, đột nhiên từ bên ngoài bờ tường có một người vọt lên, quát:

– Xuống này!

Rồi song chưởng đẩy thẳng vào mặt Tôn bà bà. Tôn bà bà còn đang lơ lửng trên không, không có chỗ mượn lực, đành giơ tay phải hoàn chiêu, đơn chưởng đụng phải song chưởng, hai người cùng bật lại sau, mỗi người đáp xuống một bên bờ tường. Sáu bảy đạo sĩ liền gọi nhau, dồn Tôn bà bà vào một góc tường.

Sáu, bảy người này đều là hảo thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, được lựa chọn chuyên để bảo vệ đại điện đạo cung. Trong giây lát, họ đã thay nhau lần lượt tấn công mấy lần. Tôn bà bà bị dồn vào một góc tường, muốn cắp Dương Quá thoát ra, nhưng bị sáu, bảy người ấy tạo nên bức tường người mấy phen đẩy trở lại.

Lại đấu hơn mười chiêu nữa, Trương Chí Quang chỉ huy việc phòng thủ đại điện thấy kẻ địch đã không còn khả năng làm gì được nữa, bèn ra lệnh đốt nến. Hơn chục cây nến lớn chiếu sáng tứ phía đại điện, thấy rõ Tôn bà bà mặt mày thảm đạm, bộ mặt xấu xí đáng sợ. Trương Chí Quang nói:

– Thủ trận dừng chiêu.

Bảy đạo sĩ giao đấu với Tôn bà bà cùng nhảy lùi lại, hai tay để trước ngực, ai giữ phương vị người nấy.

Tôn bà bà hít một hơi dài, cười khẩy, nói:

– Phái Toàn Chân uy chấn thiên hạ, quả nhiên danh bất hư truyền. Mười mấy tên trai tráng khốn kiếp lại hợp lực ăn hiếp một lão thái bà và một tiểu hài tử, hì hì, quả là lợi hại, lợi hại!

Trương Chí Quang đỏ mặt, nói:

– Chúng tại hạ chỉ tróc nã thích khách dám xông vào cung Trùng Dương, dù là lão thái bà hay nam tử hán thì cũng như nhau, thẳng lưng xông vào, thì phải cúi lưng đi ra.

Tôn bà bà cười nhạt, nói:

– Thế nào gọi là cúi lưng đi ra? Có phải bắt lão thái bà phải bò qua cổng chăng?

Trương Chí Quang ban nãy bị một chưởng rát bỏng, đau lạ thường, dễ gì bỏ qua, nói:

– Bà bà muốn ra khỏi đây, cũng không khó, chỉ cần làm theo ba điều kiện. Thứ nhất, bà bà đã thả ong đốt Triệu sư huynh, thì hãy để lại giải dược. Thứ hai, đứa bé này là đệ tử của phái Toàn Chân, chưa được Chân Nhân chưởng giáo cho phép, làm sao dám tùy ý phản xuất sư môn? Bà bà phải giao nó lại. Thứ ba, bà bà tự tiện xông vào cung Trùng Dương, thì phải khấu đầu tạ tội trước Trùng Dương tổ sư.

Tôn bà bà cười ha hả, nói:

– Ta đã sớm nói với cô nương nhà ta, rằng bọn đạo sĩ phái Toàn Chân toàn hạng người không ra gì, lời của lão thái bà nào có sai? Lại đây, lại đây đi, để ta khấu đầu tạ tội với ngươi nào!

Nói đoạn cúi đầu, quỳ xuống.

Điều này hoàn toàn bất ngờ đối với Trương Chí Quang. Y đang ngẩn người, thì thấy Tôn bà bà cúi mình, một tia hàn quang nhoáng lên, một thứ ám khí đã bắn tới. Trương Chí Quang kêu "Ối!" vội tránh, nhưng ám khí bay quá nhanh, "bộp" một cái, đã trúng góc mắt bên trái của y, thứ ám khí ấy vỡ nát, khiến trán của Trương Chí Quang be bét máu. Nguyên Tôn bà bà thò tay vào túi rút cái lọ đựng mật ong ban nãy đã cho Dương Quá uống hết mật, dùng thủ pháp ám khí độc môn ném đi. Võ công của Tôn bà bà là do nữ lưu sáng tạo, chiêu số thủ pháp toàn một loại âm nhu, biến ảo đa đoan; chiêu "Tiến cứ hậu cung" này càng khó lường, tuy chỉ là một cái lọ rỗng, nhưng ở gần ném tới bất ngờ, Trương Chí Quang không tránh kịp.

Các đạo sĩ thấy Trương Chí Quang mặt mũi be bét máu, cùng thét lên tức giận, rút binh khí soàn soạt. Các đạo sĩ phái Toàn Chân đều sử trường kiếm. Trong giây lát ở sân loang loáng kiếm quang. Tôn bà bà đứng đó cười khẩy, thầm biết hôm nay khó thoát; nhưng tính nết ngang ngạnh, gừng càng già càng cay, không chịu khuất phục, ngoảnh sang hỏi Dương Quá:

– Hài tử, ngươi có sợ không?

Dương Quá thấy các thanh kiếm, đã nghĩ thầm: "Nếu Quách bá bá ở đây, thì đám đạo sĩ đông mấy ta cũng chẳng sợ. Nhưng dựa vào tài nghệ của Tôn bà bà, thì không thoát khỏi đây được". Nghe Tôn bà bà hỏi, nó cao giọng nói:

– Bà bà, cứ để bọn họ giết đệ tử cho xong. Việc này không liên quan gì tới bà bà. Bà bà mau đi đi!

Tôn bà bà nghe cậu bé nói cứng cỏi như thế, lại thấy nó chỉ nghĩ đến lão bà, thì càng thương yêu nó, bèn cao giọng, nói:

– Bà bà sẽ cùng chết với ngươi ở đây, để cho bọn đạo sĩ thối tha kia được toại ý.

Đột nhiên Tôn bà bà quát một tiếng trợ oai, lao nhanh tới, hai tay chặt vào cổ tay của hai đạo sĩ, vừa chặt vừa đoạt kiếm của họ. Công phu tay không đoạt vũ khí của Tôn bà bà quá kỳ dị, xảo diệu phi phàm. Hai đạo sĩ không đề phòng, trong chớp mắt đã bị đoạt mất kiếm.

Tôn bà bà trao một thanh kiếm cho Dương Quá, nói:

– Hài tử, ngươi có dám động thủ với bọn đạo sĩ thối tha hay không?

Dương Quá nói:

– Đệ tử dĩ nhiên không sợ. Chỉ tiếc là không có người ngoài ở đây.

Tôn bà bà hỏi:

– Người ngoài ở đây làm gì?

Dương Quá nói:

– Phái Toàn Chân uy danh cái thế, cái hành động anh hùng bắt nạt cô nhi lão phụ này không có người ngoài đem kể rộng ra, chẳng phải đáng tiếc hay sao?

Dương Quá vừa nghe Tôn bà bà nói với Trương Chí Quang, đã hiểu ngụ ý bên trong. Lời nói của nó nghe trong trẻo, đúng là giọng trẻ con.

Các đạo sĩ nghe câu đó, quá nửa tự cảm thấy xấu hổ, nghĩ thầm, cậy đông giao đấu với một bà già và một đứa bé, dẫu có thắng cũng chẳng vẻ vang gì. Có người nói nhỏ:

– Ta đi bẩm cáo sư bá chưởng giáo, để người xử lý.

Lúc này Mã Ngọc tĩnh tu một mình ở một tịnh thất nhỏ sau núi, cách đây hơn mười dặm, mọi sự vụ trong giáo phái giao cho Hách Đại Thông xử lý. Người vừa nói là đệ tử của Đàm Xứ Đoan. Người ấy cảm thấy sự việc nghiêm trọng, liên quan tới danh dự của phái Toàn Chân, phải do chưởng giáo đích thân chủ trì mới được.

Trương Chí Quang bị chiếc lọ vỡ làm bị thương nhiều chỗ trên mặt, máu tươi che mắt trái, trong cơn thịnh nộ không kịp suy xét, nghĩ có thể con mắt trái đã bị ám khí làm hỏng, sư bá chưởng giáo thì tính nết hiền lành, ắt sẽ hạ lệnh thả người, thế thì mình mất không con mắt hay sao, bèn quát to:

– Trước hết hãy bắt mụ ác bà nương cho ta, rồi hãy đi thỉnh sư bá chưởng giáo phát lạc. Các vị sư đệ, bắt lấy mụ kia!

Thiên Canh Bắc Đẩu trận thu hẹp dần. Thấy Tôn bà bà chỉ còn cách bó tay chịu trói, nào ngờ bảy đạo sĩ tấn công chỉ còn cách Tôn bà bà ba bước, mà Tôn bà bà vẫn múa kiếm phòng thủ chặt chẽ dị thường, không ai có thể tiến lại gần. Trận pháp do Trương Chí Quang chủ trì, vốn có thể thay đổi cách tiến công, nhưng y chỉ sợ ám khí của đối phương có độc, nếu y xuất thủ giao đấu, máu lưu thông mạnh, chỉ e độc tính mau phát tác hơn, nên y chỉ đứng ngoài, bịt mắt trái, quan sát và ra lệnh, trận pháp thiếu y bị kém hẳn uy lực.

Các đạo sĩ đánh lâu không hạ được, càng nóng ruột thêm, Tôn bà bà bỗng quát một tiếng, quẳng kiếm trong tay đi, sấn lên ba bước, thộp ngực một đạo sĩ trẻ, giơ hắn ngang trên đầu, nói gằn giọng:

– Xú tạp mao, rốt cuộc các ngươi có nhường đường hay không thì bảo?

Các đạo sĩ còn đang sững sờ, thì từ phía sau họ bỗng có một người vọt ra, giơ tay chộp lấy cổ tay Tôn bà bà. Tôn bà bà còn chưa nhìn rõ mặt người ấy, đã cảm thấy cổ tay tê dại, gã đạo sĩ trẻ đã bị người kia đoạt mất, tiếp đó kình phong quạt tới mặt, người ấy đã lại tấn công. Tôn bà bà nghĩ thầm: "Người này xuất chưởng quá nhanh", vội hồi chưởng chống đỡ. Hai chưởng vỗ vào nhau nghe "bốp", Tôn bà bà lùi lại một bước.

Người kia cũng lùi lại, nhưng chỉ nửa bước, chưởng thứ hai lại đánh tới, không chút nể nang. Tôn bà bà đánh trả một chiêu, song chưởng giao nhau, Tôn bà bà lại lùi một bước. Người kia tiến lên nửa bước, chưởng thứ ba lại đánh tới. Chưởng này ra chiêu quá lẹ, buộc Tôn bà bà liên tiếp lùi lại ba bước. Tôn bà bà vẫn chưa kịp nhìn rõ mặt địch thủ, chưởng thứ tư đã đánh tới. Sau lưng Tôn bà bà đã chạm tường, không còn chỗ để lùi lại. Tôn bà bà giơ chưởng chống đỡ, người kia quát:

– Bà bà hãy để giải dược và đứa bé lại.

Tôn bà bà ngẩng nhìn, thấy người kia râu tóc bạc phơ, khí tím đầy mặt, chính là Hách Đại Thông, người đã dùng đuốc xua đuổi đàn ong trong rừng; sau khi trao đổi ba chưởng, Tôn bà bà đã biết Hách Đại Thông nội lực thâm hậu hơn hẳn bà ta, nếu đối phương dồn thêm công lực, bà ta không thể chịu nổi; nhưng tính cương ngạnh, Tôn bà bà thà chết không khuất phục, nói:

– Muốn bắt thằng bé, phải giết được lão thái bà trước đã.

Hách Đại Thông biết Tôn bà bà có quan hệ sâu xa với tiên sư, không muốn đả thương, ra đòn rất nể nang, nói:

– Hai bên lân cư mấy chục năm, hà tất vì một đứa bé mà tổn thương hòa khí?

Tôn bà bà cười nhạt, nói:

– Ta sang đây vốn có hảo ý tặng thuốc, lão cứ hỏi đệ tử của mình ắt biết ta nói thật hay không.

Hách Đại Thông ngoảnh đầu lại, đang định lên tiếng hỏi đệ tử, thì Tôn bà bà đột nhiên tung một cước đá vào hạ bàn của Hách Đại Thông.

Cú đá này vô ảnh vô tông, thân bất động, quần bất động, lúc Hách Đại Thông phát giác ra, thì mũi chân đối phương đã đá tới bụng dưới, muốn lùi lại cũng không kịp, trong lúc nguy cấp bèn dồn lực vào chưởng, hất mạnh Tôn bà bà văng đi.

Cú đẩy này hàm chứa nội lực huyền công thượng thừa của phái Toàn Chân mà Hách Đại Thông tu luyện mấy chục năm, chỉ nghe sầm một tiếng, một mảng tường gạch bị thủng, Tôn bà bà hộc ra một ngụm máu to, từ từ gục xuống.

Dương Quá cả kinh, phục xuống người Tôn bà bà, kêu to:

– Các ngươi muốn giết người, thì cứ giết ta là được, sao lại giết Tôn bà bà.

Tôn bà bà mở mắt ra, mỉm cười, nói:

– Hài tử, ta cùng chết với con là được rồi.

Dương Quá dang hai tay che cho Tôn bà bà, lưng hướng về phía các đạo sĩ, không lo gì cho sự an nguy của nó cả.

Hách Đại Thông hạ thủ nặng tay, thấy đối phương bị thương thì rất hối hận, đâu còn có ý định tấn công. Lão đạo sĩ muốn cúi xuống xem Tôn bà bà bị thương thế nào, để đưa thuốc trị thương cho lão bà, nhưng bị Dương Quá che lấp, không nhìn được, chỉ ôn tồn nói:

– Dương Quá, ngươi hãy dịch ra, để ta xem thương thế của bà bà.

Dương Quá không tin, cứ ôm chặt lấy Tôn bà bà. Hách Đại Thông giục mấy lần, nó vẫn không nghe, lão đạo sĩ sốt ruột gỡ tay nó ra. Dương Quá gào tướng lên:

– Xú đạo sĩ, tặc đạo sĩ. Các ngươi giết ta được rồi, ta không cho các ngươi giết bà bà của ta.

Đang ầm ĩ thế, bỗng nghe sau lưng có tiếng nói lạnh lùng:

– Hiếp đáp ấu nhi, lão phụ như vậy, gọi là anh hùng hay sao?

Hách Đại Thông nghe giọng nói trong trẻo, lạnh giá, thì giật mình, chỉ thấy một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp đứng ở cửa đại điện, y phục trắng như tuyết, ánh mắt lạnh lẽo đáng sợ. Một hồi chuông cất lên ở cung Trùng Dương, trong vòng mươi dặm các đạo sĩ đã được bố trí nhiều lớp, phòng thủ nghiêm mật dị thường, thế mà thiếu nữ kia lọt vào tận đây, không hề có ai cấp báo, chẳng hiểu nàng ta lọt vào bằng cách nào.

Hách Đại Thông hỏi:

– Cô nương là ai? Có gì kiến giáo?

Thiếu nữ quắc mắt nhìn lão đạo sĩ, không đáp, tới bên cạnh Tôn bà bà. Dương Quá ngẩng lên, buồn bã nói:

– Long cô cô, lão đạo sĩ tàn ác kia đánh.. đánh chết bà bà rồi!

Bạch y thiếu nữ chính là Tiểu Long Nữ. Tôn bà bà mang Dương Quá rời khỏi nhà mộ, sang đạo quán, xuất thủ, nàng bám theo phía sau đều nhìn thấy rõ cả, tưởng Hách Đại Thông không hạ sát thủ, nên thủy chung không lộ diện. Nào ngờ tình thế xoay chuyển bất ngờ, Tôn bà bà rốt cuộc bị trọng thương, nàng phải ra cứu, thì đã không kịp. Hình ảnh Dương Quá quên mình bảo vệ Tôn bà bà, nàng cũng thấy cả. Nhìn nó nước mắt lưng tròng, nàng gật đầu, nói:

– Ai rồi cũng chết cả, chuyện đó thường tình.

Tôn bà bà nuôi dưỡng nàng từ nhỏ, hai người không khác gì mẫu tử. Nhưng Tiểu Long Nữ mười tám năm nay chỉ sống những ngày bình lặng, cộng với từ nhỏ nàng tu luyện nội công, tu đến mức không còn chút tình hỉ nộ ai lạc, nhìn Tôn bà bà trọng thương hết cứu, không tránh khỏi đau lòng, nhưng cảm xúc đó chỉ thoáng qua giây lát, sắc mặt nàng vẫn không có gì thay đổi.

Hách Đại Thông nghe Dương Quá gọi "Long cô cô", biết thiếu nữ mỹ mạo kia là Tiểu Long Nữ, người đã đánh đuổi vương tử Hoắc Đô, thì càng kinh hãi. Nên biết việc vương tử Hoắc Đô thảm bại bỏ chạy, mấy tháng nay đã truyền khắp giang hồ; Tiểu Long Nữ chưa hề xuống núi Chung Nam một bước, song danh tiếng của nàng đã lừng lẫy võ lâm.

Tiểu Long Nữ thong thả ngoảnh lại nhìn các đạo sĩ một lượt. Trừ Hách Đại Thông nội công thâm hậu, tâm thần bình tĩnh ra, tất cả các đạo sĩ còn lại bất giác đều run rẩy trước nhãn quang lạnh như băng giá của nàng.

Tiểu Long Nữ cúi xuống, hỏi Tôn bà bà:

– Bà bà cảm thấy thế nào?

Tôn bà bà thở dài, nói:

– Cô nương, cả đời ta chưa cầu xin cô nương điều gì. Bây giờ ta chỉ cầu xin cô nương một điều, cô nương không bằng lòng thì thôi.

Tiểu Long Nữ hơi cau đôi mày thanh tú, hỏi:

– Bây giờ bà bà muốn gì?

Tôn bà bà chỉ Dương Quá, nhất thời chưa nói nên lời. Tiểu Long Nữ nói:

– Bà bà muốn ta chiếu liệu cho nó chứ gì?

Tôn bà bà cố hít một hơi, nói:

– Ta cầu xin cô nương chiếu liệu cho nó suốt cả đời, không để cho nó bị thiệt thòi với người khác, cô nương có đáp ứng hay không?

Tiểu Long Nữ lưỡng lự:

– Chiếu liệu cho nó suốt đời ư?

Tôn bà bà gằn giọng:

– Cô nương, nếu lão bà tử này không chết, cũng sẽ chiếu liệu cho cô nương suốt đời. Hồi cô nương còn nhỏ, mọi việc ăn uống, tắm rửa, cứt đái.. chẳng phải đều do một tay lão bà tử này lo liệu đó sao? Cô nương.. cô nương đã báo.. đáp gì chưa?

Tiểu Long Nữ cắn môi, nói:

– Được, ta đáp ứng bà bà.

Trên bộ mặt xấu xí của Tôn bà bà thoáng hiện nụ cười, lão bà nhìn Dương Quá, môi mấp máy, tựa hồ muốn nói.

Dương Quá biết ý, ghé tai lại gần, nói nhỏ:

– Bà bà có gì muốn dặn đệ tử phải không?

Tôn bà bà nói:

– Ngươi.. ngươi cúi thấp chút nữa.

Dương Quá y lời, ghé tai sát miệng Tôn bà bà. Tôn bà bà nói:

– Long cô cô của ngươi cũng không ai thân thích, ngươi.. ngươi.. cũng..

Nói tới đó, Tôn bà bà đột nhiên hộc máu ra, làm ướt cả một bên má và ngực áo của Dương Quá, rồi nhắm mắt mà chết. Dương Quá gọi to:

– Bà bà! Bà bà!

Nó quá đau lòng, không nhịn được, khóc òa lên.

Các đạo sĩ đều mủi lòng, Hách Đại Thông càng ân hận, tới trước thi thể Tôn bà bà cúi đầu hành lễ, nói:

– Bà bà, ta lỡ tay đả thương Tôn bà bà, thực không cố ý. Tội đó ta chịu, cũng là số Tôn bà bà không may. Bà bà cứ yên nghỉ!

Tiểu Long Nữ đứng bên không nói gì. Chờ Hách Đại Thông nói xong, hai bên gườm gườm nhìn nhau.

Tiểu Long Nữ cau mày, nói:

– Sao, lão không chịu tự sát để tạ lỗi, chờ ta động thủ hay sao?

Hách Đại Thông sững sờ, nói:

– Cái gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Giết người đền mạng, lão tự sát là xong, bổn cô nương sẽ tha mạng cho các đạo sĩ khác.

Hách Đại Thông chưa kịp trả lời, các đạo sĩ đứng gần đã nhao nhao la ó. Lúc này ở đại điện tập trung ba bốn chục đạo sĩ, họ tranh nhau chỉ trích:

– Tiểu cô nương, mau đi đi! Bọn ta sẽ không gây khó dễ với cô nương!

– Nói nhăng nói cuội! Cái gì mà tự sát thì xong, tha cho các đạo sĩ khác?

– Một thiếu nữ trẻ người non dạ, không biết trời cao đất dày là gì!

Hách Đại Thông nghe các đạo sĩ nhao nhao nói, thì xua tay ngăn lại.

Tiểu Long Nữ làm như không nghe thấy lời nói của các đạo sĩ, thong thả thò tay vào túi rút ra một vật màu trắng, là hai cái bao tay bằng lụa, nàng đi bao tay vào, rồi nhẹ nhàng nói:

– Lão đạo sĩ, đã tham sống sợ chết, không chịu tự sát thì hãy rút binh khí ra cùng ta động thủ!

Hách Đại Thông cười buồn bã, nói:

– Bần đạo đã lỡ tay đả thương Tôn bà bà, không muốn động thủ làm gì nữa. Cô nương mang Dương Quá rời khỏi đây cho yên chuyện.

Hách Đại Thông nghĩ rằng Tiểu Long Nữ đuổi được vương tử Hoắc Đô chẳng qua là nhờ sức của đàn ong, một thiếu nữ ít tuổi như nàng ta, dẫu võ công có chỗ bí hiểm, thì cũng chỉ như Tôn bà bà là cùng, thôi thì để cho nàng ta mang Dương Quá đi, một là nể tình sư môn đôi bên thời trước, hai là sau khi ngộ sát Tôn bà bà, Hách Đại Thông cảm thấy bất an, chỉ muốn nhường nhịn mà thôi.

Không ngờ Tiểu Long Nữ chẳng thèm lắng nghe lời nói của Hách Đại Thông, tay trái hất nhẹ, một dải lụa trắng bỗng bật ra, bổ thẳng tới mặt Hách Đại Thông. Sự việc vô thanh vô tức, trước đó không hề có dấu hiệu gì báo trước, dưới ánh nến chỉ thấy cuối dải lụa trắng buộc một hòn bi màu vàng. Hách Đại Thông thấy nàng xuất chiêu thần tốc, binh khí lại là thứ cực kỳ kinh dị, nhất thời chưa biết nên chống đỡ cách nào. Hách Đại Thông đã nhiều tuổi, hành sự ổn trọng, tuy tự cho rằng võ công mình cao hơn hẳn đối phương, song lão đạo sĩ cũng không dám tiếp chiêu, phải né thân tránh sang bên trái.

Nào ngờ dải lụa trắng của Tiểu Long Nữ lại có thể vẫy vùng trong không khí, Hách Đại Thông nhảy tránh sang bên trái, dải lụa trắng cũng bay sang bên trái, chỉ nghe "coong coong coong" ba tiếng liền, trái bi vàng phát ra ba tiếng chuông, mỗi tiếng kèm theo đòn điểm huyệt, nhắm tới ba huyệt Nghênh Hương, Thừa Khấp, Nhân Trung trên mặt. Phép điểm huyệt này quá lẹ, nhận huyệt quá chuẩn, thực là công phu hạng nhất trong võ lâm. Lại kèm theo tiếng chuông do trái bi vàng phát ra, tuy không to, nhưng nghe thập phần kinh dị, gõ vào tai muốn đứng tim hết hồn. Hách Đại Thông cả kinh, vội sử "Thiết bản kiều" thân ngả ra sau, dải lụa trắng vút qua cách mặt chỉ vài tấc. Lão đạo sĩ sợ dải lụa trắng lại đánh tới, và đây cũng là độ tinh thuần võ công của lão, trong lúc ngả người ra sau như thế, toàn thân bỗng xê dịch sang bên cạnh ba thước. Tài nghệ đó cũng rất bất ngờ đối với Tiểu Long Nữ, "coong" một tiếng, trái bi vàng đánh xuống chạm đất. Vừa rồi nàng dùng trái bi vàng điểm huyệt liên tiếp, Hách Đại Thông trong lúc nguy cấp đã sử dụng xảo chiêu tránh được.

Hách Đại Thông đứng thẳng dậy, mặt biến sắc. Các đạo sĩ không phải là đệ tử, thì cũng là sư điệt, bao lâu nay vốn thán phục võ công của lão, thấy lão tuy chưa bị thương, chiêu vừa rồi thoát hiểm thật là khéo léo, ai cũng kinh hãi. Bốn đạo sĩ nhất tề chĩa kiếm tấn công Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ nói:

– Được lắm! Lẽ ra phải sử dụng binh khí sớm hơn!

Hai tay cùng phất, hai dải lụa trắng như hai con rắn ngoằn ngoèo phóng ra, coong coong hai tiếng, rồi lại coong coong hai tiếng nữa, huyệt Linh Đạo ở cổ tay bốn đạo sĩ đều đã bị trái bi vàng điểm trúng, keng keng bốn tiếng, kiếm của họ đã rơi xuống đất. Các đạo sĩ thảy đều biến sắc, không còn ai dám tiến lên tấn công.

Hách Đại Thông thoạt đầu cứ tưởng Tiểu Long Nữ võ công tầm thường, nào ngờ vừa động thủ đã suýt thua nàng ta, không khỏi không lo sợ, liền cầm lấy một thanh kiếm của đệ tử, nói:

– Long cô nương công phu cao cường, bần đạo thất kính, hãy xuất cao chiêu để bần đạo lĩnh giáo.

Tiểu Long Nữ gật đầu, coong coong hai tiếng, dải lụa trắng quét ngang từ trái sang phải.

Xét về vai vế, Hách Đại Thông cao hơn một bậc, Tiểu Long Nữ trước khi động thủ lẽ ra phải kính trọng bậc trên, nhường trước ba chiêu; đằng này nàng vừa tiến tới đã hạ sát thủ, chẳng còn theo qui củ võ lâm gì hết. Hách Đại Thông nghĩ thầm: "Nữ hài nhi này võ công tuy cao, nhưng tựa hồ nó chẳng hiểu gì cả. Rõ ràng là chưa bao giờ lâm địch tiếp chiến, có mạnh mấy cũng không đáng sợ". Bèn tay trái để theo kiếm quyết, tay phải vung trường kiếm chiết giải dải lụa trắng của nàng ta.

Các đạo sĩ đứng quanh nhiều lớp, ngưng thần quan chiến. Dưới ánh nến lung linh, chỉ thấy một bạch y thiếu nữ, một lão đạo áo xám, dải lụa bay như cầu vồng, trường kiếm động như chớp, một bên má hồng, một bên tóc bạc, càng đấu càng kịch liệt.

Hách Đại Thông múa lấy chục đường kiếm nóng lạnh, chỉ luận riêng về kiếm pháp, thì trong phái Toàn Chân lão đứng thứ ba thứ tư; vậy mà đấu đã mấy chục chiêu với một cô nương, rốt cuộc vẫn chưa chiếm được chút nào lợi thế. Hai dải lụa của Tiểu Long Nữ cứ uốn lượn như linh xà, điều chuyển như ý, hai trái bi vàng không ngừng phát tiếng coong coong, càng khiến người ta kinh tâm động phách. Hách Đại Thông đánh lâu không thắng, tuy chưa sa vào thế hạ phong, nhưng thiết tưởng với thân phận thịnh danh đã lâu trong giang hồ, giả dụ sau trăm chiêu có đánh thắng được một thiếu nữ, thì cũng chẳng vẻ vang gì, thế là trở nên nôn nóng, kiếm pháp biến đổi từ nhanh sang chậm, chiêu thức tuy chậm hẳn lại so với lúc trước, song kình lực dồn cho thanh kiếm thì lớn gấp vài lần. Ban đầu lưỡi kiếm còn né tránh sự chuyển dẫn của dải lụa, bây giờ uy lực đã tăng, liền chuyển sang thế đuổi chém dải lụa trắng.

Đấu thêm vài chiêu, nghe coong một tiếng, trái bi vàng và lưỡi kiếm đụng nhau; Hách Đại Thông nội lực thâm hậu, hất trái bi vàng bắn ngược vào mặt Tiểu Long Nữ, rồi thừa thế truy kích, trong tiếng hoan hô của các đạo sĩ, mũi kiếm lướt theo dải lụa trắng, đâm thẳng tới cổ tay Tiểu Long Nữ, buộc nàng nếu không buông dải lụa trắng ra, ắt cổ tay sẽ bị trúng kiếm. Ai ngờ Tiểu Long Nữ tay phải lật nhanh một cái, đã chộp lấy lưỡi kiếm, rắc một cái, thanh kiếm bị gãy làm hai đoạn.

Các đạo sĩ cùng kêu lên kinh hãi, Hách Đại Thông nhảy vội ra phía sau, tay cầm đoạn kiếm gãy, ngẩn người sững sờ. Hách Đại Thông làm sao có thể ngờ nổi, một cái bao tay mỏng mảnh dệt bằng tơ lụa, lại là một thứ binh khí sắc bén do sư tổ nàng ta truyền lại, tuy nó mềm và mỏng, song đao kiếm chẳng những không làm gì nổi, mà còn bị nó bẻ gãy như chơi.

Hách Đại Thông sắc mặt trắng bệch, bị đại bại, nhất thời chưa biết cái bao tay của Tiểu Long Nữ có cơ quan xảo diệu gì, chỉ biết quả thật nàng ta đã luyện được công phu thượng thừa đao thương bất nhập, thì run run nói:

– Được được được, bần đạo chịu thua. Long cô nương, cô nương cứ việc mang thằng bé kia đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lão đánh chết Tôn bà bà, nói mỗi câu chịu thua là xong ư?

Hách Đại Thông ngửa mặt lên trời cười ha hả, buồn bã nói:

– Ta quả thật quá hồ đồ!

Rồi đưa thanh kiếm gãy miết ngang qua cổ họng. Bỗng keng một tiếng, tay bị chấn động, một đồng tiền từ ngoài tường bắn vào, đánh rơi đoạn kiếm gãy xuống đất. Hách Đại Thông nội lực thâm hậu, muốn đánh rơi thanh kiếm khỏi tay lão, hoàn toàn không phải chuyện dễ. Hách Đại Thông kinh ngạc, nhưng qua công phu dùng đồng tiền búng rơi kiếm, biết rằng sư huynh Khưu Xứ Cơ đã về tới, ngẩng đầu lên, nói:

– Khưu sư ca, tiểu đệ vô năng, làm nhục lây bản giáo, tùy sư ca xử lý.

Chỉ nghe từ bên ngoài tường vang lên tiếng cười hồn nhiên, rồi tiếng nói:

– Thắng bại là chuyện thường, nếu mỗi lần thua lại cắt cổ, thì sư ca của đệ có đến mười tám cái đầu cũng không đủ.

Lời chưa dứt, Khưu Xứ Cơ tay cầm trường kiếm đã từ bên ngoài tường nhảy vào.

Khưu Xứ Cơ tính tình hào sảng, khi phiền não hay đùa bỡn, chĩa kiếm đâm tới cánh tay Tiểu Long Nữ, nói:

– Môn hạ phái Toàn Chân Khưu Xứ Cơ xin thỉnh giáo láng giềng cao quý.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lão đạo sĩ này cũng vui tính đấy.

Tả chưởng giơ ra, lại đã nắm lấy trường kiếm của Khưu Xứ Cơ. Hách Đại Thông vội kêu to:

– Sư ca, cẩn thận!

Nhưng không kịp nữa, Tiểu Long Nữ dồn sức ra tay, Khưu Xứ Cơ dồn sức ra lưỡi kiếm, lực tay của người này đấu với lực tay của người kia, rắc một cái, trường kiếm lại gãy đôi. Nhưng Tiểu Long Nữ cánh tay bị tê dại, ngực đau tức. Chỉ một chiêu nàng đã biết Khưu Xứ Cơ võ công cao hơn hẳn Hách Đại Thông, "Ngọc nữ tâm kinh" của mình thì nàng chưa luyện thành, thực không thể thắng nổi lão đạo sĩ, bèn ném đoạn kiếm gãy xuống đất, tay trái kẹp thi thể Tôn bà bà, tay phải cắp Dương Quá, nhún hai chân, thân hình nhẹ nhàng bay lên, qua bờ tường mà ra ngoài.

Khưu Xứ Cơ, Hách Đại Thông và cái đạo sĩ thấy Tiểu Long Nữ tự nhiên biểu lộ tuyệt kỹ khinh công, thì nhìn nhau kinh ngạc. Khưu, Hách hai người đã giao đấu với nàng, biết nàng võ công tuy tinh, song rốt cuộc vẫn chưa bằng mình, riêng công phu khinh thân như thế kia thì quả là chưa từng thấy. Hách Đại Thông thở dài, nói:

– Thôi rồi, thôi rồi!

Khưu Xứ Cơ nói:

– Hách sư đệ, sư đệ tu tập đạo pháp bao nhiêu năm mà vẫn không chịu đựng nổi một thất bại cỏn con hay sao? Mấy sư huynh sư đệ bọn ta đi Sơn Tây chuyến vừa rồi cũng chả kết quả gì, nhưng có sao đâu?

Hách Đại Thông hỏi:

– Thế nào, không ai bị tổn thương chứ?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Chuyện hơi dài, chúng ta đi gặp Mã sư ca đi.

Nguyên Lý Mạc Sầu sau khi giết mấy người trong gia đình Lục Lập Đỉnh ở Gia Hưng, liền lên mãi vùng Sơn Tây, tại Phổ Bắc giết thêm mấy vị hào kiệt, cuối cùng kích động sự công phẫn; thủ lĩnh võ lâm đương địa bèn gửi thiếp mời anh hùng hảo hán khắp nơi tới vây công. Phái Toàn Chân cũng nhận được thiếp mời. Bấy giờ Mã Ngọc và Khưu Xứ Cơ bàn với nhau, cùng cho rằng Lý Mạc Sầu tuy tác ác đa đoan, nhưng sư tổ của nàng ta có mối quan hệ sâu xa với Trùng Dương tiên sư, tốt nhất là nên đứng ra hòa giải, dành cho nàng ta một con đường sống mới; thế là Lưu Xứ Huyền và Tôn Bất Nhị hai người lập tức đi Phổ Bắc. Nhưng Lý Mạc Sầu hành tung ngụy bí, chợt ẩn chợt hiện, Lưu, Tôn hai người không làm gì được nàng ta, nàng ta lại còn giết thêm mấy hảo hán ở Phổ Nam, Phổ Bắc.

Sau đó Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất dẫn mười đệ tử đi cứu viện. Lý Mạc Sầu tự biết một mình không thể địch nổi số đông hảo thủ, bèn thách đấu với người của Khưu, Vương. Ngày tỷ thí thứ nhất, Tôn Bất Nhị giao đấu, bị Lý Mạc Sầu ngầm hạ độc thủ, bị nàng ta dùng "Băng phách ngân châm" đả thương. Tiếp đó nàng ta thân chinh mang tặng giải dược, khiến huynh đệ Khưu Xứ Cơ không thể không nhận. Như thế, coi như các đạo sĩ phái Toàn Chân đã chịu ân tình của Lý Mạc Sầu, theo qui củ sẽ không được coi nàng ta là địch nữa. Mọi người đành nhìn nhau cười khổ, thu xếp ra về. May mà Khưu Xứ Cơ nóng lòng về trước, không cùng Vương Xứ Nhất du lãm Thái Hàng sơn, mới kịp cứu mạng Hách Đại Thông.

Tiểu Long Nữ ra khỏi cung Trùng Dương, đặt Dương Quá xuống đất, ôm thi thể Tôn bà bà cùng Dương Quá trở về "Hoạt tử nhân mộ". Nàng đặt thi thể Tôn bà bà xuống chiếc giường Tôn bà bà vẫn nằm, rồi nàng ngồi xuống chiếc ghế bên giường, chống tay lên cằm, ngẩn ngơ im lặng. Dương Quá phục xuống thi thể Tôn bà bà mà khóc tấm tức hồi lâu. Tiểu Long Nữ nói:

– Người chết rồi, còn khóc làm gì? Ngươi có khóc nữa, Tôn bà bà cũng chẳng nghe được đâu.

Dương Quá sững người, cảm thấy lời lẽ của nàng ta quá tàn nhẫn vô tình, nhưng nghĩ cho kỹ, thì cũng đúng thế thật, lại càng đau lòng hơn, bất giác lại khóc òa lên.

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nhìn nó, sắc mặt hoàn toàn thản nhiên, một hồi lâu sau, nàng mới nói:

– Ta mai táng bà bà thôi; hãy đi theo ta.

Nàng ôm thi thể Tôn bà bà đi ra khỏi phòng. Dương Quá chùi nước mắt, đi theo sau. Lối đi trong nhà mộ không có đèn đuốc gì, nó phải căng mắt ra cũng nhìn không rõ cái bóng trắng của Tiểu Long Nữ, nên bám sát theo, không dám chậm nửa bước. Tiểu Long Nữ quẹo qua quẹo lại mấy lần, đi một hồi, đẩy một cánh cửa đá rất nặng, lấy trong túi ra bùi nhùi đánh lửa, châm vào hai đĩa đèn dầu trên một cái bàn đá. Dương Quá nhìn tứ phía, không khỏi lạnh người run rẩy, thấy trong một tòa đại sảnh bày một dãy năm cỗ quan tài bằng đá; nhìn kỹ, thấy hai cỗ quan tài đậy nắp rất khít, ba cỗ quan tài kia để hở nắp một nửa, cũng không biết bên trong có thi thể hay không.

Tiểu Long Nữ chỉ cỗ quan tài thứ nhất bên phải, nói:

– Bà bà tổ sư ngủ ở đây.

Chỉ cỗ quan tài thứ hai ở bên phải, nói:

– Sư phụ ngủ ở đây.

Dương Quá thấy nàng chỉ cỗ quan tài thứ ba ở bên phải, tim đập dồn, hồi hộp không biết nàng sẽ nói ai ngủ ở đó. Nắp cỗ quan tài này không đậy kín, lỡ có xác người trong đó thì mục nát mất hay sao? Chỉ nghe Tiểu Long Nữ nói:

– Tôn bà bà ngủ ở đây.

Dương Quá mới biết cỗ quan tài này còn để trống, thì thở dài nhẹ nhõm; nó nhìn hai cỗ quan tài còn lại, lòng hiếu kỳ nổi dậy, nó hỏi:

– Còn hai cỗ quan tài kia?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ Lý Mạc Sầu của ta ngủ ở một cỗ, ta ngủ một cỗ.

Dương Quá ngẩn người, nói:

– Lý Mạc Sầu.. Lý cô nương cũng sẽ về đây ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ của ta đã an bài như vậy, sư tỷ sẽ phải trở về. Nơi đây còn thiếu một cỗ quan tài, bởi vì sư phụ ta không dự liệu có ngươi tới đây.

Dương Quá giật mình, vội nói:

– Đệ tử không, đệ tử không đâu!

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đã đáp ứng Tôn bà bà sẽ chiếu liệu cho ngươi suốt đời. Ta không rời khỏi chốn này, thì tất nhiên ngươi cũng sẽ ở đây.

Dương Quá nghe nàng nhơn nhơn nói đến đại sự sống chết, thì cũng chẳng kiêng dè, nói:

– Cứ coi như cô cô không cho đệ tử ra khỏi đây, khi nào cô cô chết, đệ tử sẽ rời chốn này.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đã nói sẽ chiếu liệu cho ngươi suốt đời, thì ta sẽ không chết trước ngươi.

Dương Quá nói:

– Vì sao? Cô cô lớn tuổi hơn đệ tử kia mà!

Tiểu Long Nữ nói:

– Trước khi chết, dĩ nhiên ta sẽ giết ngươi trước.

Dương Quá lại giật thót, nghĩ thầm: "Chưa chắc đâu. Ta có chân, ta không biết trốn đi hay sao?"

Tiểu Long Nữ đến bên cỗ quan tài thứ ba, đẩy nắp ra, ôm thi thể Tôn bà bà định đặt vào, Dương Quá cảm thấy không nỡ, nói:

– Hãy cho đệ tử nhìn bà bà một lúc nữa.

Tiểu Long Nữ thấy nó mới quen Tôn bà bà chưa được một ngày, mà đã nặng tình như thế, bất giác cảm thấy khó chịu, cau cau mày, cứ ôm thi thể đứng bất động. Dưới ánh đèn dầu leo lét, Dương Quá thấy Tôn bà bà mặt mũi sống động như còn sống, lại muốn khóc òa lên. Tiểu Long Nữ nhìn nó một cái, đặt thi thể Tôn bà bà vào trong quan tài, đẩy nắp lại, cạch một tiếng, cái nắp đậy rất khít với cỗ quan tài.

Tiểu Long Nữ sợ Dương Quá lại khóc, không nhìn nó nữa, nói:

– Ra thôi!

Phất tay áo trái một cái, hai đĩa đèn dầu cùng tắt, lập tức tối đen như mực. Dương Quá sợ nàng nhốt nó trong mộ thất, vội theo ra ngay.

Ở trong hầm mộ không phân biệt ngày đêm. Hai người đã gặp đủ chuyện suốt nửa ngày, bây giờ đều đã mệt. Tiểu Long Nữ bảo Dương Quá nằm ngủ ở buồng của Tôn bà bà. Dương Quá từ nhỏ một mình lưu lạc giang hồ, thường tá túc qua đêm ở các ngôi miếu hoang, lá gan vốn to, nhưng bây giờ bảo nó ngủ một mình trong mộ thất, nghĩ đến mấy người chết nằm trong quan tài đá, nó sợ hãi vô cùng. Tiểu Long Nữ nói mấy câu, vẫn không thấy nó thưa, bèn hỏi:

– Ngươi có nghe thấy không đó?

Dương Quá nói:

– Đệ tử sợ.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Sợ cái gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử không biết. Đệ tử không dám ngủ một mình.

Tiểu Long Nữ cau mày, nói:

– Thế thì ngủ cùng buồng với ta vậy.

Bèn dẫn nó sang buồng của mình.

Nàng đã quen với bóng tối. Bây giờ vì Dương Quá nàng mới thắp một cây nến. Dương Quá thấy nàng tú mỹ tuyệt luân, y phục trên người lại trắng bong như tuyết không lấm bụi trần, thì cứ ngỡ rằng khuê phòng của nàng hẳn phải được trần thiết cực kỳ trang nhã, ai ngờ bước vào buồng thì hết sức thất vọng, thấy bên trong trống trải, chẳng khác gì nơi để mấy cỗ quan tài. Một tấm đá xanh dài làm giường, trên giường có trải tấm đệm cỏ, một tấm vải màu trắng làm chăn, ngoài ra không còn vật gì khác.

Dương Quá nghĩ thầm: "Không biết mình nằm ở đâu? Chỉ sợ nàng bắt ta nằm dưới đất". Vừa nghĩ thế, thì Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi lên giường của ta mà nằm!

Dương Quá nói:

– Như thế không nên, đệ tử nằm dưới đất được rồi.

Tiểu Long Nữ cau mặt, nói:

– Ngươi muốn ở lại đây, ta bảo gì, ngươi đều phải vâng lời. Ngươi đã quen ẩu đả với bọn đạo sĩ, chuyện ấy quên đi. Nếu ngươi dám chống lệnh ta, ta sẽ lập tức giết ngươi.

Dương Quá nói:

– Cô cô khỏi cần dữ dằn như vậy, đệ tử vâng lời thì được chứ gì.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi còn dám cãi hả?

Dương Quá thấy nàng trẻ trung xinh đẹp mà làm bộ dữ tợn như thế, thì lè lưỡi không nói nữa. Tiểu Long Nữ nhìn thấy, nói:

– Ngươi thè lưỡi làm gì vậy? Không phục ta phải không?

Dương Quá không đáp, tụt giày, leo lên giường nằm.

Vừa nằm xuống giường, đã thấy lạnh thấu xương; nó sợ quá, nhảy luôn xuống đất. Tiểu Long Nữ thấy nó sợ cuống, tuy không hài lòng, nhưng suýt nữa phì cười hỏi:

– Làm sao vậy?

Dương Quá thấy ánh mắt nàng cười cười, thì cười nói:

– Cái giường này kỳ quái lắm, hóa ra cô cô trêu chọc đệ tử.

Tiểu Long Nữ nghiêm mặt nói:

– Ai trêu chọc ngươi làm gì, cái giường nó vốn như thế, mau lên giường nằm đi.

Nói đoạn lấy từ góc buồng một cây chổi, nói:

– Mồi lần ngươi tụt xuống đất, ta sẽ đánh ngươi mười cái cán chổi.

Dương Quá thấy nàng nghiêm mặt, đành leo lên giường nằm. Lần này có đề phòng, không sợ nữa, chỉ cảm thấy dường như dưới tấm đệm cỏ là các lớp băng dày, càng nằm lâu càng thấy lạnh, bất giác toàn thân run bần bật, hai hàm răng gõ vào nhau cầm cập. Nằm một lát nữa, khí lạnh thấu xương, thật không tài nào chịu nổi.

Nó nhìn về phía Tiểu Long Nữ, thấy mặt nàng nửa cười nửa không, có vẻ khoái trá trước sự đau khổ của kẻ khác, thì nó thầm bực tức, nghiến răng chống chọi với cái lạnh. Chỉ thấy Tiểu Long Nữ lấy một sợi dây chão, móc một đầu dây vào một chiếc đinh trên tường, dòng sợi dây ngang buồng, móc đầu dây bên kia vào một chiếc đinh trên bức tường đối diện, sợi dây cách mặt đất một khoảng cao bằng người, rồi nàng nhẹ nhàng nằm vắt ngang sợi dây, lấy sợi dây làm giường, tiếp đó tay trái phẩy một cái, chưởng phong quạt tắt luôn ngọn nến.

Dương Quá vô cùng thán phục, nói:

– Cô cô, ngày mai cô cô dạy cho đệ tử bản sự đó được chăng?

Tiểu Long Nữ nói:

– Bản sự này có đáng gì? Ngươi mà chịu khó học, ta có rất nhiều bản sự lợi hại dạy cho ngươi.

Dương Quá nghe Tiểu Long Nữ chịu thực tâm dạy võ cho nó, thì nó quên hết mọi sự oán trách ban đầu, cảm động quá, nước mắt tự nhiên ứa ra, nó nghẹn ngào nói:

– Cô cô, cô cô đối tốt với đệ tử, vậy mà lúc đầu đệ tử lại oán trách cô cô.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đuổi ngươi đi, ngươi có oán trách ta, cũng chả có gì là lạ.

Dương Quá nói:

– Đệ tử chỉ mong cô cô đừng giống như sư phụ hồi trước của đệ tử, dạy đệ tử toàn những thứ vô dụng.

Tiểu Long Nữ nghe giọng nó run run, thì hỏi:

– Ngươi rét lắm à?

Dương Quá nói:

– Vâng, cái giường này bên dưới kỳ quái thế nào ấy, nằm cứ lạnh thấu xương.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Ngươi không muốn nằm cái giường này hả?

Dương Quá nói:

– Đệ tử.. đệ tử không muốn.

Tiểu Long Nữ cười khẩy:

– Hừ, ngươi không muốn, trong khi biết bao nhiêu cao thủ võ lâm thiên hạ muốn nằm cái giường này mà không được đó.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Họ muốn chịu tội sống hay sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Hừ, ta nuông chiều ngươi, ngươi lại cho là phải chịu tội sống, thật không biết gì tốt xấu cả.

Dương Quá nghe vậy, xem chừng nàng bảo nó nằm cái giường này không phải do ác ý, thì dịu giọng cầu khẩn:

– Cô cô, cái giường lạnh này tốt ở điểm nào, cô cô có thể nói cho đệ tử biết được chăng?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi nằm cái giường này suốt đời, tự khắc sẽ biết nó tốt ở chỗ nào. Bây giờ thì nhắm mắt lại, không được nói nữa.

Trong bóng tối nghe tiếng quần áo của nàng khẽ sột soạt tựa hồ nàng trở mình. Đã nằm ngủ trên một sợi dây mà còn trở mình tùy ý, thật là ngoài sức tưởng tượng.

Hai câu cuối của nàng nghe nghiêm lạnh, Dương Quá không dám hỏi thêm, bèn nhắm mắt cố ngủ. Nhưng từng luồng hơi lạnh từ bên dưới thấm lên, nghĩ đến Tôn bà bà nó lại đau lòng, làm sao ngủ được?

Một hồi lâu, nó gọi khẽ:

– Cô cô, đệ tử chịu không nổi nữa.

Chỉ nghe tiếng thở đều đều của Tiểu Long Nữ, chắc nàng đã ngủ. Nó gọi nhỏ hai lần nữa, vẫn không có tiếng trả lời, thì nghĩ thầm: "Mình xuống đất nằm, chắc nàng ta chẳng biết đâu." Bèn rón rén tụt khỏi giường, đứng dưới đất, không dám thở mạnh.

Nào ngờ vừa định cất bước, thì Tiểu Long Nữ đã nhỏm dậy, chộp lấy tay trái của nó bẻ quặt ra sau lưng, ấn nó ngồi xuống đất. Dương Quá kêu lên, thì Tiểu Long Nữ đã cầm cây chổi quất vào mông nó.

Dương Quá biết rằng có xin tha cũng vô ích, nên cắn răng nhịn đau. Năm cái quất đầu tiên rất đau, từ cái thứ sáu, Tiểu Long Nữ đã nhẹ tay dần, đến hai cái quất cuối cùng thì chỉ còn đụng vào da mà thôi. Đánh xong mười cái, nàng nhấc nó ném lên giường, quát:

– Còn thế nữa, còn bị đánh.

Dương Quá nằm trên giường, không dám hó hé, chỉ nghe nàng ném cây chổi vào góc buồng, rồi lại nằm vắt ngang dây thừng mà ngủ. Tiểu Long Nữ ngỡ thằng bé sẽ khóc lóc ầm ĩ, không ngờ nó nằm im thin thít, bèn hỏi:

– Sao ngươi không kêu khóc?

Dương Quá nói:

– Kêu khóc mà làm gì? Cô cô muốn đánh thì sẽ đánh, có xin tha cũng vô ích.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hừ, ngươi trong bụng chửi thầm ta chứ gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử không chửi thầm cô cô đâu. Cô cô tốt hơn lão sư phụ trước của đệ tử rất nhiều.

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, hỏi:

– Vì sao?

Dương Quá nói:

– Cô cô tuy đánh đệ tử, nhưng trong bụng lại thương, càng đánh càng nhẹ tay, sợ đệ tử bị đau.

Tiểu Long Nữ thấy nó nói đúng tâm sự của mình, thì hơi đỏ mặt, may mà trong bóng tối Dương Quá không nhìn được, nàng làu bàu:

– Hừ, ai thương ngươi kia chứ, lần sau ngươi không vâng lời, ta sẽ nặng tay hơn đấy.

– Cô cô đánh đau hơn nữa, đệ tử cũng vẫn thích.

Tiểu Long Nữ nguýt nó:

– Tặc cốt đầu (đồ quỷ), ngươi một ngày không bị đòn, khéo ngủ không ngon.

Dương Quá nói:

– Nếu đánh đệ tử là người thương đệ tử, thì đệ tử chả buồn chút nào, còn vui là đằng khác, vì ngươi ấy mong cho đệ tử thành người tốt. Còn nếu là người ghét đệ tử, thì dù chỉ mắng đệ tử một câu, trừng mắt nhìn đệ tử một cái, sau này đệ tử lớn lên sẽ tìm kẻ đó tính sổ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi thử kể xem, những ai thương ngươi, những ai ghét ngươi.

Dương Quá nói:

– Việc đó thì đệ tử nhớ rất kỹ. Những kẻ ghét đệ tử thì khỏi cần nhắc tới, vì nhiều lắm. Còn thương đệ tử thì có người mẹ quá cố của đệ tử này, nghĩa phụ này, Quách Tĩnh bá bá, Tôn bà bà và cô cô.

Tiểu Long Nữ cười khảy:

– Ta đâu có thương ngươi. Tôn bà bà nhờ ta chiếu liệu cho ngươi, thì ta chiếu liệu cho ngươi. Kiếp này ngươi đừng hi vọng ta có hảo tâm với ngươi.

Dương Quá vốn đã rét run cầm cập, nghe nàng nói thế thì vã mồ hôi lạnh, nén giận, hỏi:

– Đệ tử có gì không tốt, mà cô cô ghét đệ tử đến thế?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi tốt hay xấu thì can hệ gì đến ta? Ta cũng không ghét ngươi. Cả đời ta ở trong phần mộ này, ai ta cũng không thương, ai ta cũng chẳng ghét.

Dương Quá nói:

– Thế thì chán lắm. Cô cô đã đi ra ngoài bao giờ chưa?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta chưa hề rời khỏi núi Chung Nam, bên ngoài bất quá cũng chỉ có núi có cây, có mặt trăng mặt trời, chứ có gì hay?

Dương Quá vỗ tay, nói:

– Ôi, đúng là cô cô sống uổng cả một đời. Dưới thành ấp có bao nhiêu thứ hay vô cùng.

Rồi nó kể lại đủ thứ lạ mà nó nhìn thấy trong quãng đời lưu lạc từ nhỏ của mình tới giờ. Nó vốn khéo mồm khéo miệng, lúc này lại thêm giấm thêm ớt, càng kể càng bịa thêm lắm điều ly kỳ cổ quái, biến ảo đa đoan. May mà Tiểu Long Nữ mười tám năm nay chưa hề rời khỏi núi Chung Nam, nó khoa trương bịa đặt gì, nàng cũng đều tin cả, cuối cùng bất giác thở dài.

Dương Quá nói:

– Cô cô, đệ tử dẫn cô cô đi chơi một chuyến nhé?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đừng nói bậy! Tổ sư bà bà đã có di huấn, người nào đã sống ở "Hoạt tử nhân mộ" sẽ không được rời khỏi núi Chung Nam một bước.

Dương Quá chột dạ, nói:

– Chả lẽ cả đệ tử cũng không được rời khỏi núi Chung Nam?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tất nhiên không được.

Dương Quá nghe vậy cũng không lo lắm, nghĩ thầm: "Đào Hoa đảo là hòn đảo chơ vơ giữa biển, ta đến đó cũng có thể rời khỏi đó, ngôi nhà mồ này làm sao nhốt nổi ta?" lại hỏi:

– Cô cô bảo Lý Mạc Sầu Lý cô nương là sư tỷ của cô cô, hẳn cũng đã sống ở "Hoạt tử nhân mộ", sao vẫn được rời khỏi núi Chung Nam đi các nơi?

Tiểu Long Nữ nói:

– Lý sư tỷ không vâng lời sư phụ ta, bị sư phụ ta đuổi đi đấy.

Dương Quá cả mừng, nghĩ thầm: "Có qui củ hay thế thì cứ vậy mà làm theo, bao giờ mình muốn bỏ đi, mình chỉ cần không vâng lệnh, để nàng ta đuổi đi là được". Nhưng nó nghĩ dự định đó phải giấu kín, không được lộ ra, kẻo mất linh.

Hai người trò chuyện, Dương Quá nhất thời quên cái lạnh; nhưng chỉ cần ngừng nói một lát, toàn thân lại run rẩy, nó liền mở miệng cầu khẩn:

– Cô cô tha cho đệ tử đi, đệ tử không muốn nằm cái giường này chút nào.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi đánh nhau với cả sư phụ của phái Toàn Chân, không chịu mở miệng xin tha, sao bây giờ lại thoái chí thế à?

Dương Quá cười, nói:

– Ai đối xử xấu với đệ tử, đánh đập đệ tử, đệ tử một câu cũng không chịu thua. Ai đối xử tốt với đệ tử, đệ tử có thể tình nguyện chết vì người đó, huống hồ mở miệng xin tha.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hừ, đừng tưởng là ta đối tốt với ngươi.

Tiểu Long Nữ từ nhỏ được sư phụ và Tôn bà bà dạy dỗ, nuôi dưỡng, mười tám năm chỉ bầu bạn với hai lão bà bà. Hai người ấy tuy đối với nàng cực tốt, chỉ do sư phụ muốn nàng luyện "Ngọc nữ tâm kinh", nên từ nhỏ đã bảo phải nàng gạt bỏ mọi cái tình hỉ nộ ai lạc, hễ thấy nàng khóc nàng cười, lập tức trách phạt rất nặng. Tôn bà bà dẫu là người nhiệt thành, cũng không dám cản trở sự tu luyện của nàng, sao cho nàng có được cái tính khí lạnh lùng, tàn nhẫn, đơn độc. Nay Dương Quá vừa tới, người này tâm nhiệt như hỏa, tuổi lại còn nhỏ, lời lẽ cử chỉ đương nhiên khác hẳn hai vị lão bà bà. Tiểu Long Nữ nghe Dương Quá nói, thừa biết là không nên, nhưng vẫn cứ trò chuyện với nó không biết mệt. Lúc đầu nàng thu nhận Dương Quá chỉ vì nể lời thỉnh cầu của Tôn bà bà, nhưng sau nghe Dương Quá bảo nàng là người đối tốt với nó, nàng tự dưng cũng cảm thấy đúng thế thật.

Dương Quá nghe giọng nàng không có vẻ gì là tức giận, bèn rên thật to:

– Trời ơi lạnh quá, rét quá, đệ tử chịu hết nổi mất thôi.

Kỳ thực, dù rất lạnh, song cũng chưa đến nỗi phải rên rỉ quá như thế.

Tiểu Long Nữ nói:

– Im đi, để ta kể cho ngươi biết lai lịch của cái thạch sàng (giường đá) này.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Hãy quá, đệ tử không rên nữa, cô cô kể mau đi.

Tiểu Long Nữ kể:

– Ta nói anh hùng khắp thiên hạ đều muốn nằm cái giường này chẳng phải là để đánh lừa ngươi đâu, cái giường này được chế từ một loại hàn ngọc cổ, giúp ích rất nhiều cho việc tu luyện nội công thượng thừa.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Không phải làm bằng đá ư?

Tiểu Long Nữ cười khẩy, nói:

– Ngươi bảo ngươi đã thấy không ít vật cổ quái, nhưng đã thấy có thứ đá nào lạnh như thế này chưa? Thứ này tổ sư bà bà phải tốn bảy năm tâm huyết, đến miền đất băng giá cực bắc, đào sâu qua lớp băng dày mấy trăm trượng, mới lấy lên được thứ hàn ngọc này. Nằm ngủ trên cái giường ngọc này mà luyện nội công, thì một năm bằng mười năm tu luyện bình thường đó.

Dương Quá vui mừng nói:

– Thì ra nó có cái hay như thế.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thoạt tiên ngươi nằm ngủ trên cái giường này, sẽ cảm thấy giá lạnh không chịu nổi, phải vận công lực toàn thân chống lạnh, lâu dần thành tự nhiên, lúc nằm ngủ cũng là lúc luyện công. Người ta luyện công, dù là người cần mẫn nhất, mỗi ngày cũng phải ngủ ba, bốn canh giờ. Nên biết, đạo luyện công là hành động nghịch thiên, khí huyết vận hành không giống lúc bình thường. Nhưng mỗi khi nằm ngủ, khí huyết tự nó lại vận hành theo kiểu cũ, thế là công phu luyện tập ban ngày mười phần bị hao mất chín. Nhưng nếu nằm ngủ trên cái giường này, thì trong lúc ngủ chẳng những không bị hao tốn công lực đã luyện ban ngày, mà còn gia tăng công lực.

Dương Quá tức thời lĩnh ngộ, nói:

– Thế thì ban đêm nằm ngủ trên tuyết cũng có cái tốt.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không đâu. Một là băng tuyết hút cái nóng của cơ thể, tan thành nước; hai là thứ hàn ngọc này lạnh gấp mấy lần băng tuyết. Cái giường bằng hàn ngọc này còn có cái hay khác nữa, phàm tu luyện nội công, tối kỵ là tẩu hỏa nhập ma, bình thường luyện nội công, phải dùng một nửa tinh thần đề kháng tâm hỏa. Thứ hàn ngọc này là vật chí âm chí hàn trong thiên hạ, người tu đạo nằm ngồi trên nó, tâm hỏa tự thanh, do vậy, lúc luyện nội công có thể tha hồ dũng mãnh tinh tiến, như thế chẳng phải sẽ luyện nhanh hơn hẳn người khác đó sao?

Dương Quá cả mừng, nói:

– Cô cô, cô cô đối với đệ tử tốt quá, cô cô cho đệ tử nằm ngủ trên cái giường này, đệ tử sẽ không sợ huynh đệ họ Võ và Quách Phù. Lão Triệu Chí Kính của phái Toàn Chân tuy luyện nội công lâu hơn đệ tử, nhưng đệ tử cũng sẽ đuổi kịp.

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Tổ sư bà bà đã có di huấn, đã sống ở nhà mồ này, thì phải tu tâm dưỡng tính, nhất thiết không được có ý cạnh tranh với người khác.

Dương Quá vội nói:

– Chẳng lẽ bọn chúng hiếp đáp đệ tử, lại còn hại chết Tôn bà bà, mình cũng tha cho ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Người ta ai cũng phải chết, Tôn bà bà không chết bởi tay Hách Đại Thông, thì vài năm nữa tự mình cũng sẽ chết. Sống thêm vài năm, chết sớm vài năm thì cũng thế mà thôi. Chuyện báo cừu rửa hận, từ rày không được nhắc với ta nữa.

Dương Quá cảm thấy lời nói trên tuy có lý, nhưng vẫn có chỗ chưa đúng, song nhất thời nó chưa nghĩ ra được cách bác bỏ. Vừa lúc ấy, khí lạnh lại thấm vào người từng đợt một, nó lại run rẩy toàn thân. Tiểu Long Nữ nói:

– Để ta dạy ngươi cách chống cái lạnh khi nằm trên chiếc giường này.

Thế rồi nàng truyền cho nó mấy câu khẩu quyết cùng pháp môn tu tập nội công, chính là công phu căn cơ nhập môn của phái nàng. Dương Quá y lời luyện theo, trong giây lát đã cảm thấy khí lạnh giảm hẳn, đến khi nội tức chuyển sang vòng thứ ba, thì nó cảm thấy toàn thân phát nhiệt, không còn sợ băng giá nữa, ngược lại còn cảm thấy thoải mái dễ chịu khi nằm trên cái giường đá kia, hai mắt vừa nhắm lại, đã lơ mơ thiếp đi. Ngủ chừng nửa canh giờ, hơi ấm tan hết, hơi lạnh của cái giường làm cho nó tỉnh giấc, nó lại theo cách đã học mà dụng công. Cứ thế ngủ rồi tỉnh, tỉnh rồi ngủ nhiều lần trong đêm, sáng hôm sau thức dậy không hề cảm thấy mệt mỏi, thì ra chỉ trong một đêm tu luyện, mà nội lực đã có tiến bộ.

Hai người ăn sáng xong, Dương Quá mang bát đĩa vào bếp rửa sạch, rồi trở ra đại sảnh. Tiểu Long Nữ nói:

– Có một việc ngươi cần biết rõ. Nếu ngươi thật sự bái ta làm sư phụ, thì suốt đời sẽ phải nghe lời ta. Nếu ngươi không bái ta làm sư phụ, ta cũng vẫn truyền võ nghệ cho ngươi, sau này khi nào ngươi thắng nổi ta, ngươi có thể dựa vào võ công mà ra khỏi "Hoạt tử nhân mộ".

Dương Quá không hề đắn đo, nói:

– Đệ tử tất nhiên bái cô cô làm sư phụ, dù cô cô không truyền võ nghệ cho đệ tử, thì đệ tử cũng vẫn vâng lời cô cô.

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, hỏi:

– Tại sao?

Dương Quá nói:

– Cô cô, cô cô trong lòng đối tốt với đệ tử, đệ tử không biết hay sao?

Tiểu Long Nữ nghiêm mặt, nói:

– Ta đối với ngươi tốt hay không, từ nay ngươi không được nhắc đến. Ngươi đã bái ta làm sư phụ, thì ra hậu sảnh làm lễ.

Dương Quá theo nàng ra hậu sảnh, thấy ở đó chẳng bày biện đồ đạc gì, chỉ có mấy bức vẽ chân dung treo trên hai bức tường đông tây. Trên bức tường bên tây treo bức vẽ chân dung hai cô nương. Cô nương thứ nhất hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, đang soi gương chải đầu. Cô nương thứ hai là a hoàn mười bốn mười lăm tuổi, tay bưng chậu rửa mặt, đứng hầu bên cạnh. Hiện lên trong gương là cô nương lớn tuổi hơn, với dung mạo cực đẹp, ánh mắt ẩn chứa sát khí. Dương Quá nhìn một chút, trong lòng bất giác nảy sinh sự kính phục.

Tiểu Long Nữ chỉ cô nương lớn tuổi, nói:

– Vị này là tổ sư bà bà, ngươi hãy khấu đầu.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Tổ sư bà bà sao lại trẻ như vậy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Khi vẽ thì còn trẻ, về sau sẽ không trẻ nữa.

Dương Quá cứ vấn vương mãi với câu "Khi vẽ thì còn trẻ, về sau sẽ không trẻ nữa", tự dưng thấy buồn, ngẩn ngơ nhìn bức chân dung, nước mắt bỗng ứa ra.

Tiểu Long Nữ không biết nó đang nghĩ gì, chỉ thiếu nữ trong vai a hoàn, nói:

– Đây là sư phụ của ta, ngươi hãy khấu đầu.

Dương Quá nghiêng đầu nhìn bức chân dung, thấy phong thái thiếu nữ ấy sinh động, vẻ mặt hết sức ngây thơ non nớt, thế mà về sau lại trở thành sư phụ của Tiểu Long Nữ, thì nó không dám đa tưởng nữa, vội quì xuống khấu đầu.

Tiểu Long Nữ đợi nó đứng dậy, mới chỉ bức chân dung treo trên bức tường bên đông, nói:

– Ngươi hãy nhổ nước bọt vào gã đạo sĩ đó.

Dương Quá nhìn, thấy bức chân dung vẽ một đạo sĩ thân hình cao lớn, lưng đeo trường kiếm, ngón trỏ tay phải chỉ về góc đông bắc, có điều là đạo sĩ quay lưng lại nên không thấy mặt. Dương Quá rất lạ, hỏi:

– Người này là ai? Sao lại phỉ nhổ y?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đây là giáo chủ giáo phái Toàn Chân Vương Trùng Dương, môn phái chúng ta có một qui củ, sau khi vái tổ sư bà bà, thì phải phỉ nhổ hắn.

Dương Quá cả mừng, nó vốn hết sức căm ghét phái Toàn Chân, nay bổn môn lại có qui củ như thế, bèn nhổ một bãi nước bọt thật to vào lưng Vương Trùng Dương trên bức vẽ, nhổ xong cho là chưa đủ, lại nhổ nữa, đang định nhổ lần thứ ba, thì Tiểu Long Nữ nói:

– Đủ rồi.

Dương Quá hỏi:

– Tổ sư bà bà của chúng ta hận Vương Trùng Dương lắm phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng vậy.

Dương Quá nói:

– Đệ tử cũng thế. Tại sao không hủy bức chân dung hắn đi, còn treo ở đây?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta cũng không biết, chỉ nghe sư phụ và Tôn bà bà bảo rằng nam tử trong thiên hạ không có lấy một người tốt.

Đột nhiên nàng nghiêm giọng, nói:

– Sau này ngươi lớn lên, liệu hồn đừng có làm việc xấu, ta sẽ không tha cho đâu.

Dương Quá nói:

– Dĩ nhiên là cô cô sẽ tha cho đệ tử.

Tiểu Long Nữ định dọa nó để ngăn chặn, nào ngờ nó lại trả lời như vậy, cũng chưa biết bắt bẻ nó thế nào, bèn quát:

– Mau vái sư phụ.

Dương Quá nói:

– Sư phụ dĩ nhiên phải vái, song cô cô trước tiên phải đáp ứng đệ tử một việc đã, nếu không thì đệ tử sẽ không vái.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm: "Nghe Tôn bà bà bảo, xưa nay trước khi thu nhận đồ đệ, chỉ có sư phụ yêu cầu đệ tử đáp ứng điều này điều nọ, há có chuyện đệ tử đòi sư phụ đáp ứng?" Có điều là tính nàng trầm tĩnh, hoàn toàn không tức giận, nói:

– Điều gì, ngươi nói ta nghe coi.

Dương Quá nói:

– Đệ tử trong lòng coi cô cô như sư phụ, kính trọng cô cô, cô cô bảo gì đệ tử cũng vâng lời, nhưng ngoài miệng đệ tử sẽ không gọi sư phụ, chỉ gọi cô cô.

Tiểu Long Nữ hơi lạ, hỏi:

– Vì lẽ gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử đã trót bái lão xú đạo sĩ phái Toàn Chân làm sư phụ, lão ta đối với đệ tử không tốt, đệ tử nằm mơ cũng chửi sư phụ. Cho nên gọi là cô cô thì hơn, để khi đệ tử chửi sư phụ, không liên lụy gì tới cô cô.

Tiểu Long Nữ không cười nổi, cảm thấy cách nghĩ của thằng bé này kể cũng thú vị, bèn nói:

– Được, ta đáp ứng.

Dương Quá liền cung kính quì xuống, khấu đầu trước Tiểu Long Nữ đủ tám cái nói:

– Đệ tử Dương Quá hôm nay bái Tiểu Long Nữ cô cô làm sư phụ. Từ nay trở đi, Dương Quá vĩnh viễn vâng lời cô cô. Cô cô có gặp nguy hiểm, Dương Quá sẵn sàng xả mệnh bảo vệ cô cô; nếu có kẻ xấu bắt nạt cô cô, Dương Quá nhất định sẽ giết hắn.

Kỳ thực hiện tại Tiểu Long Nữ võ công cao hơn Dương Quá không biết bao nhiêu lần mà kể, nhưng Dương Quá thấy nàng yếu đuối tú nhã, bất giác nảy sinh khí khái nam tử hán che chở nữ nhi yếu đuối, càng nói càng hăng hái. Tiểu Long Nữ nghe giọng thành khẩn của nó, tuy còn đầy tính khí trẻ con, song nàng cũng không khỏi cảm động.

– Ngươi có gì mà cao hứng thế? Bản sự của ta không thắng nổi lão Khưu Xứ Cơ phái Toàn Chân, càng không thể sánh với Quách bá bá nhà ngươi.

Dương Quá nói:

– Họ có giỏi mấy, cũng chẳng can hệ gì tới đệ tử. Chỉ có cô cô chịu thật lòng dạy võ công cho đệ tử mà thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thực ra học võ cũng vô dụng. Chẳng qua ở đây không biết làm việc gì, thì ta dạy võ cho ngươi.

Dương Quá nói:

– Cô cô, môn phái của chúng ta tên là gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Từ khi Tổ sư bà bà nhập cư "Hoạt tử nhân mộ" đến nay, không hề giao thiệp với các nhân vật võ lâm, môn phái của chúng ta cũng chẳng mang tên gọi nào. Sau Lý sư tỷ ra ngoài hành tẩu giang hồ, người ta gọi nàng là đệ tử "phái Cổ Mộ", vậy ta cứ gọi là "phái Cổ Mộ" thì được.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ba chữ "phái Cổ Mộ" nghe không hay!

Nó vừa bái sư nhập môn, đã chỉ trích tên gọi của bổn môn, Tiểu Long Nữ cũng chẳng bực, nói:

– Tên gọi nghe hay hay dở thì đã sao? Ngươi chờ ta ở đây, ta đi đằng này một chút.

Dương Quá nghĩ một mình nó ở trong nhà mộ thì cả sợ vội nói:

– Đệ tử cùng đi với cô cô.

Tiểu Long Nữ trừng mắt nhìn nó, nói:

– Ngươi bảo sẽ vĩnh viễn vâng lời ta, vậy mà câu thứ nhất của ta, ngươi đã không nghe rồi.

Dương Quá nói:

– Đệ tử sợ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nam tử hán đại trượng phu, sợ cái gì? Thế mà còn đòi bênh ta đánh kẻ xấu cơ đấy?

Dương Quá nghĩ một chút, nói:

– Thôi được, cô cô đi mau về nhé.

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Chưa thể nói trước, còn xem có chóng bắt được nó không đã.

Dương Quá ngạc nhiên hỏi:

– Bắt cái gì vậy?

Tiểu Long Nữ không trả lời, bước ra.

Tiểu Long Nữ đi rồi, trong nhà mồ hoàn toàn vắng lặng. Dương Quá không biết nàng đi đâu, bắt kẻ nào, nghĩ nàng sẽ không rời núi Chung Nam, chắc là bắt đạo sĩ phái Toàn Chân, chỉ chưa rõ nàng bắt ai, bắt về tất nhiên để hành hạ kẻ đó một phen, thật là lý thú, nhưng nàng trơ trọi một mình, mong rằng sẽ không việc gì. Nó nghĩ lung tung một hồi, bước ra đại sảnh, theo hành lang đi về phía tây, đi chưa đến mười bước, trước mắt tối đen. Nó sợ lạc đường, bèn men theo tường đi ngược trở lại, không ngờ đi hai chục bước vẫn không thấy ánh đèn trong đại sảnh. Nó hốt hoảng bước nhanh hơn về phía trước. Đã lạc lối, còn hoảng loạn, sẽ càng lạc đi xa hơn. Nó đi vội, cứ vấp hết chỗ này chỗ kia, trong bóng tối chỉ thấy toàn là các ngã ba, không tài gì trở lại đại sảnh. Nó cất tiếng gọi to:

– Cô cô, cô cô, mau cứu đệ tử!

Chỉ có tiếng vọng lại âm vang trong nhà mồ.

Nó chạy loạn một hồi, chỉ thấy đất dưới chân lầy lội, hóa ra nó đã ra khơi khu vực nhà mồ, vào một đoạn địa đạo nào đó. Nó càng hoảng thêm, nghĩ thầm: "Ta lạc lối trong khu vực nhà mồ, cô cô còn dễ tìm được. Bây giờ ta lạc ra đây, cô cô tìm chán không thấy, ngỡ ta bỏ trốn, chắc sẽ buồn lắm". Nó không dám đi tiếp, sờ soạng gặp một hòn đá, nó bèn ngồi xuống, định khóc to lên mà không khóc nổi.

Nó cứ ngồi thế hơn một canh giờ, bỗng nghe văng vẳng có tiếng gọi: "Quá nhi, Quá nhi!" Nó cả mừng, đứng bật dậy, kêu to:

– Cô cô, đệ tử ở đây!

Nhưng tiếng gọi "Quá nhi" nghe cứ xa dần. Dương Quá cuống quít, gào thật to:

– Đệ tử ở đây.

Dương Quá giật mình, nhưng lập tức mừng rơn, nói:

– Cô cô, cô cô đến mà sao đệ tử chả nghe thấy gì cả?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi mò tới đây làm gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử bị lạc lối.

Tiểu Long Nữ hừ một tiếng, cầm tay nó dắt đi, tuy trong bóng tối, song nàng đi như ngoài chỗ sáng, quẹo chỗ này rẽ chỗ kia, nhanh nhẹn lạ thường. Dương Quá hỏi:

– Cô cô, làm cách nào cô cô nhìn thấy vậy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta cả đời sống trong bóng tối, tự nhiên khỏi cần ánh sáng.

Chẳng mấy chốc Tiểu Long Nữ đã dắt nó về tới đại sảnh. Dương Quá thở dài nhẹ nhõm, nói:

– Cô cô, ban nãy đệ tử lo quá.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Lo cái gì? Đằng nào ta chẳng tìm thấy ngươi?

– Không phải Dương Quá lo chuyện ấy, mà là lo rằng cô cô tưởng đệ tử bỏ đi, sẽ buồn bã trong lòng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ngươi bỏ đi, ta khỏi cần giữ đúng cam kết với Tôn bà bà, làm gì phải buồn bã trong lòng?

Dương Quá nghe, cảm thấy vô vị, hỏi:

– Cô cô, cô cô bắt được chưa?

Tiểu Long Nữ nói:

– Bắt được rồi.

Dương Quá nói:

– Cô cô bắt về làm gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Bắt về cho ngươi luyện tập võ công. Nào, đi theo ta!

Dương Quá nghĩ thầm: "Thì ra cô cô bắt gã đạo sĩ thối tha để cho ta đấm đá tùy thích, tốt nhất là bắt được sư phụ Triệu Chí Kính, sau khi bị cô cô chế phục, hắn chỉ việc để cho ta đấm đá thỏa thích, không được chống đỡ", vừa khoái trá nghĩ thầm như thế, nó vừa đi theo sau.

Tiểu Long Nữ quẹo vài lần, đẩy một cánh cửa, bước vào một gian thạch thất có ánh đèn. Gian thạch thất này rất nhỏ, hai người đứng xoay chuyển hơi khó; trần lại thấp, Tiểu Long Nữ giơ tay lên gần chạm tới. Dương Quá không thấy đạo sĩ nào, ngạc nhiên hỏi:

– Gã đạo sĩ cô cô bắt về đâu rồi?

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Đạo sĩ nào?

Dương Quá nói:

– Cô cô chẳng bảo cô cô đi bắt người về cho đệ tử luyện công đó sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ai bảo là ta đi bắt người? Xem đây này.

Nàng cúi xuống một góc thạch thất, nhấc lên một cái túi vải, cởi nút buộc miệng túi, dốc nghiêng, từ trong túi bay ra ba con chim sẻ. Dương Quá kinh ngạc, nghĩ thầm: "Thì ra cô cô đi bắt chim sẻ".

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hãy bắt cả ba con chim sẻ lại cho ta, không được làm rụng lông hoặc đau chân chúng.

Dương Quá vui vẻ nói:

– Được ngay!

Nó chộp bắt con chim, nhưng chim sẻ nhanh nhẹn dị thường, bay chỗ này chỗ nọ, Dương Quá thở hổn hển, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đừng nói là bắt, ngay chỉ chạm vào thân con chim cũng chưa chạm nổi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi bắt thế sao được, để ta dạy cách cho.

Rồi nàng dạy nó cách với cao luồn thấp, cách chộp tóm. Dương Quá biết rằng nàng muốn thông qua việc bắt chim sẻ mà truyền thụ võ công, nên cố ghi nhớ quyết khiếu; có điều là hiểu và ghi nhớ thì dễ, nhưng nhất thời vận dụng thì chẳng dễ chút nào.

Tiểu Long Nữ để mặc nó một mình luyện tập trong gian thạch thất ấy.

Hôm ấy Dương Quá không bắt được một con chim sẻ nào; ăn tối xong, nó luyện công trên chiếc giường hàn ngọc. Ngày thứ hai bắt chim, lúc nhảy đã cao hơn vài tấc, xuất thủ cũng nhanh hơn một chút. Đến ngày thứ năm, cuối cùng nó bắt được một con chim sẻ. Nó mừng khôn xiết, vội chạy đi khoe với Tiểu Long Nữ. Không ngờ nàng lạnh lùng nói:

– Bắt được một con thì ra gì, phải tóm được cả ba con.

Dương Quá nghĩ thầm: "Đã bắt được một con, thì sẽ bắt được ba con thôi". Đâu ngờ việc đó không dễ, hai hôm liền, nó vẫn không bắt được con nào.

Tiểu Long Nữ thấy ba con chim sẻ đã quá mệt và gầy, nàng cho chúng ăn tấm, rồi thả ra ngoài trời.

Nàng lại bắt ba con chim sẻ khác về cho Dương Quá luyện tập. Đến ngày thứ tám, Dương Quá mới bắt liền một mạch được ba con chim sẻ. Tiểu Long Nữ nói:

– Hôm nay cần sang cung Trùng Dương.

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Sang làm gì?

Tiểu Long Nữ không đáp, dẫn nó ra khỏi nhà mồ. Bảy ngày qua Dương Quá không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, vừa ra ngoài nó liền bị chói mắt cơ hồ không mở ra nổi.

Hai người tới trước cung Trùng Dương, Dương Quá hồi hộp, chốc chốc lại liếc trộm Tiểu Long Nữ, thấy nàng thần sắc thản nhiên, không thể đoán tâm ý của nàng thế nào, chỉ nghe nàng cao giọng gọi:

– Triệu Chí Kính, mau ra đây!

Hai người đến trước cửa cung, đã có người phi báo vào bên trong, tiếng gọi của Tiểu Long Nữ chưa dứt, hai tiểu đạo sĩ đã dìu Triệu Chí Kính đi ra, chỉ thấy Triệu Chí Kính hình dung tiều tụy, hai mắt lõm sâu, đã không thể tự đi đứng được nữa. Các đạo sĩ thấy hai người tới, đều đặt tay ở cán kiếm, hầm hầm nhìn họ.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 06: Ngọc Nữ tâm kinh

Tiểu Long Nữ lấy ra một cái lọ nhỏ, đưa vào tay Dương Quá, nói to:

– Đây là loại mật trị ong độc, hãy trao cho Triệu Chí Kính.

Dương Quá vừa thấy mặt Triệu Chí Kính đã nghiến răng tức giận, nhưng không dám trái ý nàng, bèn bước nhanh tới, đặt cái lọ xuống đất, phía trước mặt Triệu Chí Kính.

Các đạo sĩ nghe nói Tiểu Long Nữ đến trước cung, tưởng nàng ta sang đây tìm cách báo thù cho Tôn bà bà, một mặt tăng cường phòng bị, một mặt phi báo các bậc sư tôn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ; ai ngờ cuối cùng nàng ta sang đây là để tặng thuốc giải độc, thì kinh ngạc, không biết nói sao.

Dương Quá đặt lọ xuống, nhìn Triệu Chí Kính một cái đầy vẻ khinh miệt, rồi ngoảnh đầu đi về.

Lộc Thanh Đốc nhìn thấy Dương Quá thì lửa giận bốc lên, gọi:

– Tên tiểu tử phản xuất sư môn kia, cứ thế mà bỏ đi được ư?

Lần trước y bị Dương Quá dùng "Cáp mô công" đánh ngất lịm, tuy nhất thời ngừng thở, nhưng Dương Quá công lực quá non yếu, nên y bị thương không nặng, được Khưu Xứ Cơ xoa bóp cho vài cái, nằm nghỉ vài ngày, là khỏi liền; lúc này y chạy như bay tới, định trả mối thù hôm trước.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, hôm nay tạm chưa đánh trả.

Dương Quá nghe tiếng bước chân sau lưng, rồi tiếng chưởng phong, biết là có kẻ chộp tới gáy mình. Tại "Hoạt tử nhân mộ", nó đã nằm ngủ tám ngày trên chiếc giường hàn ngọc, đã luyện tám ngày cách bắt chim sẻ; Tiểu Long Nữ đã dạy nó tuy chỉ là cách bắt chim sẻ, song đó cũng là cái tinh túy của khinh công phái "Cổ Mộ"; hiện giờ công phu của nó so với lần so tài cuối năm đã khác xa. Đúng lúc, không sớm không muộn, Lộc Thanh Đốc sắp chộp tới gáy thì nó liền thụp người xuống trườn đi, tiện tay giật cái mép vạt áo của Lộc Thanh Đốc. Lộc Thanh Đốc không thể ngờ chỉ trong ít ngày, khinh công của Dương Quá lại tiến nhanh như vậy, trong lúc cả giận không tránh khỏi khinh địch, cúi chộp không trúng, thân hình hơi chúi, lại bị kéo vạt áo, y đứng không vững, ngã sấp mặt xuống đất.

Lúc y lồm cồm bò dậy, thì Dương Quá đã chạy về bên cạnh Tiểu Long Nữ. Lộc Thanh Đốc quát to, định lao tới đánh nữa, bỗng có một người lướt ra, tựa hồ chân không chấm đất, nắm cánh tay kéo y trở vào chỗ mọi người. Lộc Thanh Đốc bị nắm cánh tay, nửa người lập tức tê dại, định mở miệng chửi, ngẩng nhìn thấy người kia là sư thúc Doãn Chí Bình, thì vội bậm môi lại.

Doãn Chí Bình nói to:

– Đa tạ Long cô nương tặng thuốc.

Đoạn cúi mình hành lễ. Tiểu Long Nữ chẳng thèm nhìn, cầm tay Dương Quá, nói:

– Đi về nào.

Doãn Chí Bình nói:

– Long cô nương, Dương Quá là đệ tử môn hạ phái Toàn Chân, cô nương cưỡng hành thu nạp hắn, việc ấy rốt cuộc xử lý sao đây?

Tiểu Long Nữ hơi sững, nói:

– Ta không thích nghe la lối.

Rồi nắm cánh tay Dương Quá lướt nhanh vào rừng.

Doãn Chí Bình, Triệu Chí Kính và các đạo sĩ nhìn nhau kinh ngạc.

Hai người về đến "Hoạt tử nhân mộ", Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, công phu của ngươi có tiến bộ, nhưng ngươi đánh gã đạo sĩ mập rất không đúng.

Dương Quá nói:

– Tên đạo sĩ ấy đã đánh đệ tử tàn tệ, tiếc rằng hôm nay đệ tử chưa đánh hắn. Tại sao cô cô bảo đệ tử không được đánh hắn?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Không phải ta bảo ngươi không được đánh, mà là bảo ngươi đánh không đúng cách. Ngươi khỏi cần kéo hắn ngã, mà để hắn tự mình ngã ngửa ra kia.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Thế thì hay quá, cô cô hãy dạy cho đệ tử đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta là ngươi, ngươi làm đạo sĩ mập, nào, ngươi hãy bắt lấy ta xem nào.

Dương Quá cười hi hi, giơ tay chộp lấy gáy nàng. Tiểu Long Nữ như có mắt ở sau lưng, Dương Quá chạy nhanh, nàng cũng chạy nhanh; Dương Quá chạy chậm, nàng cũng chạy chậm lại, luôn luôn giữ khoảng cách chừng ba thước. Dương Quá nói:

– Đệ tử bắt được cô cô này!

Nó nhào tới, Tiểu Long Nữ không tránh né.

Dương Quá thấy hai tay sắp chộp được gáy nàng, nào ngờ lúc hai bàn tay sắp hợp vào nhau, Tiểu Long Nữ chợt lùi chéo về phía sau, thoát khỏi vòng tay của nó. Nó vội thu tay về để bắt nàng, vì động tác thu gấp gáp ấy ngược với thế đứng, nên chân không vững, ngã ngửa luôn một cái, lưng đau như giần.

Tiểu Long Nữ đưa tay đỡ nó đứng thẳng dậy, Dương Quá vui mừng nói:

– Cô cô, cách này hay thật, thân pháp của cô cô làm sao nhanh đến thế?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi tập bắt chim sẻ một năm thì sẽ thành.

Dương Quá nói:

– Đệ tử đã bắt được rồi mà.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Hừ, như thế mà gọi là biết cách à? Võ công phái "Cổ Mộ" ta dễ thạo vậy ư?

Bèn dẫn Dương Quá tới một gian thạch thất mới, dài rộng gấp đôi gian thạch thất nó đã bắt chim sẻ. Ở đây có sáu con chim sẻ. Buồng rộng thế này, bắt được chim sẻ dĩ nhiên khó hơn nhiều. Tiểu Long Nữ lại dạy một vài thuật khinh công và phép cầm nã, mươi ngày sau, Dương Quá đã có thể bắt một mạch cả sáu con chim sẻ.

Sau đó gian thạch thất càng lúc càng rộng, số lượng chim sẻ cũng càng lúc càng nhiều, cuối cùng Dương Quá tập bắt tám mươi mốt con chim sẻ trong đại sảnh. Tâm pháp của phái "Cổ Mộ" quả nhiên thần diệu, cái giường hàn ngọc trợ giúp đặc biệt hữu hiệu cho việc tu luyện nội công, chỉ trong ba tháng, Dương Quá đã bắt được tám mươi mốt con chim sẻ trong đại sảnh. Tiểu Long Nữ thấy nó tiến bộ quá nhanh, cũng vui mừng, nói:

– Bây giờ chúng ta đã có thể ra ngoài nhà mồ bắt chim sẻ.

Dương Quá ở lỳ trong nhà mồ ba tháng, cảm thấy quá ư tù túng, nghe nói được ra ngoài luyện công, thì mừng lộ ra mặt. Tiểu Long Nữ nói:

– Đừng vội mừng, công phu này khó luyện lắm đó. Tám mươi mốt con chim sẻ, không được để cho một con nào bay đi cả.

Hai người đi ra ngoài nhà mồ, lúc này đang là tháng Ba mùa xuân, cây lá xanh non. Dương Quá hít sâu mấy hơi, cảm thấy hương hoa thơm mát tràn vào lồng ngực, dễ chịu vô cùng. Tiểu Long Nữ mở nghiêng miệng cái túi vải, chim sẻ từ trong túi lũ lượt bay ra; lúc này hai bàn tay với mười ngón búp măng của nàng dang rộng, tay vẫy, tay phẩy, buộc những con chim sẻ đang giương cánh bay đi phải quay trở lại. Bầy chim được sổ lồng, lẽ nào không bay đi tứ phía? Nhưng lạ thay, song chưởng của Tiểu Long Nữ chỉ làm như thế, mà toàn bộ tám mươi mốt con chim sẻ đều quần tụ ở trước mặt nàng trong phạm vi ba thước.

Chỉ thấy hai cánh tay nàng bay lượn, hai bàn tay uốn lượn tựa hồ hóa thành cả ngàn bàn tay, làm cho toàn bộ tám mươi mốt con chim sẻ bay cách nào cũng không thoát ra khỏi vòng vây của hai bàn tay nàng. Dương Quá cứ đứng há hốc mồm mà nhìn, vừa kinh ngạc, vừa thích thú, nó định thần, nghĩ thầm: "Cô cô đang dạy ta một bộ chưởng pháp kỳ diệu, hãy mau ghi nhớ". Bèn chăm chú quan sát thật kỹ, nàng giơ tay ngăn chặn thế nào, thu cánh tay, phát chưởng ra sao, từng chiêu từng thức thật rõ ràng đâu ra đấy. Dương Quá quan sát một hồi, tuy chưa hiểu chỗ tinh vi của chưởng pháp, nhưng đã không còn vạn phần ngơ ngác như lúc đầu.

Tiểu Long Nữ làm như thế một hồi lâu, rồi song chưởng tách rộng, xoay mu bàn tay vào trong, bầy chim sẻ không còn bị níu giữ, lập tức bay lên trời. Tiểu Long Nữ phất mạnh hai ống tay áo, hai luồng gió quạt ra, bầy chim sẻ rơi xuống lả tả, kêu chíp chíp loạn một hồi rồi mới vỗ cánh bay đi từng con.

Dương Quá cả mừng, níu tay áo Tiểu Long Nữ, nói:

– Cô cô, Quách bá bá của đệ tử cũng chẳng có được bản sự này.

Tiểu Long Nữ nói:

– Bộ chưởng pháp này của ta gọi là "Thiên la địa võng thế" là công phu nhập môn của võ công "phái Cổ Mộ", ngươi hãy chịu khó học.

Rồi truyền cho Dương Quá mười mấy chiêu chưởng pháp. Dương Quá học từng chiêu một. Trong vòng mười ngày, nó đã học xong tám mươi mốt chiêu "Thiên la địa võng thế", luyện tập thành thạo. Tiểu Long Nữ bắt một con chim sẻ, lệnh cho nó chặn giữ. Thoạt tiên nó chỉ chặn được một lát, con chim sẻ đã lọt qua khe hở hai tay nó bay đi. Tiểu Long Nữ đứng bên cạnh, giơ tay bắt con chim sẻ trở lại. Dương Quá tiếp tục thi triển chưởng pháp, nhưng xuất chiêu hoặc chưa đủ nhanh, chặn giữ không chuẩn xác, chỉ vài chiêu con chim sẻ lại sổng đi, Tiểu Long Nữ lại chặn giữ để nó tiếp tục luyện tập.

Cứ thế luyện tập không mệt mỏi, hết xuân qua hạ, ngày càng tiến bộ. Dương Quá thông minh dĩnh ngộ, cần mẫn dụng công, số chim sẻ chặn giữ được ngày càng tăng, đến sau Trung thu, nó đã luyện xong bộ chưởng pháp "Thiên la địa võng thế", khi thi triển, nó có thể ngăn giữ được tám mươi mốt con chim sẻ. Nếu có con nào bay thoát, thì chỉ là vì công lực của nó chưa thuần mà thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi đã luyện xong bộ chưởng pháp này, nếu gặp lại gã đạo sĩ mập, thì chẳng tốn sức cũng đã có thể làm cho hắn ngã lộn mấy vòng.

Dương Quá nói:

– Nếu đệ tử động thủ với Triệu Chí Kính thì sao?

Tiểu Long Nữ không đáp, nghĩ thầm: "Quan sát thân thủ của Triệu Chí Kính hôm giao đấu với Tôn bà bà, nếu y không bị ong đốt, thì Tôn bà bà chắc gì đã thắng. Công phu của ngươi hiện giờ còn thua xa Triệu Chí Kính". Dương Quá tự hiểu hàm ý sự im lặng của Tiểu Long Nữ, bèn nói:

– Hiện tại đệ tử đánh chưa nổi lão ta cũng không sao, vài năm nữa sẽ thắng lão. Cô cô, võ công của "phái Cổ Mộ" ta lợi hại hơn phái Toàn Chân đấy nhỉ?

Tiểu Long Nữ ngẩng đầu nhìn cái trần bằng đá của thạch thất, nói:

– Câu này trên đời chỉ có hai người là ta và ngươi tin mà thôi. Lần trước ta động thủ với Khưu Xứ Cơ phái Toàn Chân, võ công của ta không bằng lão, điều đó hoàn toàn không phải là phái Cổ Mộ không bằng phái Toàn Chân, mà chỉ là do ta chưa luyện xong công phu tinh diệu nhất của bổn phái đó thôi.

Dương Quá vốn vẫn lo về việc Tiểu Long Nữ khó thắng nổi Khưu Xứ Cơ, nghe nàng nói vậy, thì vui mừng, hỏi:

– Cô cô, là công phu gì thế? Luyện khó lắm ư? Cô cô hãy bắt tay luyện tập đi được không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta kể cho ngươi chuyện cũ, để ngươi biết lai lịch bổn phái. Trước lúc ngươi bái ta làm sư phụ, ta đã bảo ngươi bái lạy tổ sư bà bà. Tổ sư bà bà họ Lâm, tên Triệu Anh. Mấy chục năm trước, trong võ lâm, hai người võ công cao nhất là tổ sư bà bà và Vương Trùng Dương. Hai người vốn khó phân cao thấp, sau Vương Trùng Dương do tổ chức nghĩa binh chống quân Kim, ngày đêm bận rộn mọi việc; trong khi tổ sư bà bà chuyên chú luyện võ, cuối cùng tổ sư bà bà cao hơn Vương Trùng Dương một bậc. Nhưng tổ sư bà bà vốn không hỏi đến tục sự trong võ lâm, không ưa khoe khoang, nên hầu như chẳng ai biết danh tiếng của tổ sư bà bà trên chốn giang hồ. Sau Vương Trùng Dương khởi nghĩa thất bại, phẫn uất ẩn cư trong "Hoạt tử nhân mộ", suốt ngày không có việc gì, lấy việc nghiền ngẫm võ công làm thú; trong khi tổ sư bà bà tâm tình kém vui, lại bị hai đợt bệnh nặng, nên võ công của tổ sư bà bà lại thua Vương Trùng Dương một bậc. Cuối cùng hai người tỷ võ với nhau không rõ theo kiểu gì, Vương Trùng Dương phải để cho tổ sư bà bà được cư trú trong nhà mồ này. Nào, để ta dẫn ngươi đi xem cái di tích do hai vị tiền bối để lại.

Dương Quá vỗ tay, nói:

– Thì ra cái nhà mồ này là do tổ sư bà bà cướp được từ tay Vương Trùng Dương. Sớm biết như thế, đệ tử ở đây càng thấy khoái.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, dẫn nó sang một gian thạch thất. Dương Quá thấy gian thạch thất này có hình dạng rất lạ, phía trước hẹp, phía sau rộng, thành hình cái thang, bên đông hình bán nguyệt, bên tây hình tam giác, bèn hỏi:

– Cô cô, gian thạch thất này sao có hình dạng kỳ quặc thế?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đây là nơi Vương Trùng Dương nghiền ngẫm võ học, đằng trước hẹp luyện chưởng, đằng sau rộng sử quyền, mé đông tròn thử kiếm, mé tây tam giác phóng tiêu.

Dương Quá đi đi lại lại trong phòng, chỉ cảm thấy cao thâm khôn lường.

Tiểu Long Nữ chỉ tay lên trần, nói:

– Sự tinh diệu của võ công Vương Trùng Dương đều ở đó.

Dương Quá ngẩng nhìn, thấy trần nhà khắc đầy phù hiệu hoa văn, có lẽ là dùng vật nhọn khắc nên, chỗ sâu chỗ nông, không theo qui tắc nào cả, nhất thời không hiểu gì hết.

Tiểu Long Nữ bước tới mé đông, giơ tay đẩy vào chỗ hình bán nguyệt, một khối đá lớn từ từ xê dịch, mở sang một gian thạch thất khác. Nàng cầm nến, cùng Dương Quá bước sang đó, gian này hoàn toàn đối xứng và tương phản với gian bên kia, phía trước rộng, phía sau hẹp, bên tây tròn, bên đông hình tam giác. Dương Quá ngẩng nhìn, thấy trần nhà cũng khắc đầy phù hiệu hoa văn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Đây là nơi chứa đựng bí mật võ công của tổ sư bà bà. Tổ sư bà bà đoạt được tòa cổ mộ này là nhờ mưu trí, chứ luận về thực lực võ công, thì quả chưa bằng Vương Trùng Dương. Sau khi vào cư trú nơi này, tổ sư bà bà trước hết tìm hiểu một số môn võ công mà Vương Trùng Dương khắc họa ở đây, rồi nghiền ngẫm sáng chế cách khắc chế môn võ công đó, cái đó cũng khắc ở đây cả.

Dương Quá vui mừng, nói:

– Hay quá chừng! Bọn Khưu Xứ Cơ, Hách Đại Thông võ công dù cao mấy, cũng không thể hơn Vương Trùng Dương, cô cô chỉ cần học được võ công của tổ sư bà bà, là chắc chắn sẽ đánh thắng đám đạo sĩ thối tha kia.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi nói đúng, chỉ tiếc rằng không có người giúp ta.

Dương Quá hiên ngang nói:

– Đệ tử sẽ giúp cô cô.

Tiểu Long Nữ nhìn nó một cái, nói:

– Ngươi làm sao có đủ bản sự?

Dương Quá đỏ bừng cả mặt, xấu hổ vô cùng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Môn võ công này của tổ sư bà bà gọi là "Ngọc nữ tâm kinh", phải có hai người cùng luyện, trợ giúp lẫn nhau. Hồi trước tổ sư bà bà cùng luyện với sư phụ của ta. Tổ sư bà bà luyện xong không lâu thì qua đời, sư phụ của ta vẫn chưa luyện thành.

Dương Quá chuyển ngượng thành vui, nói:

– Đệ tử là thuộc hạ của cô cô, thì cũng có thể cùng luyện với cô cô.

Tiểu Long Nữ trầm ngâm, nói:

– Cũng được. Để xem. Bước thứ nhất, ngươi hãy luyện thành các môn võ công của bổn phái. Bước thứ hai là học võ công của phái Toàn Chân. Bước thứ ba sẽ luyện "Ngọc nữ tâm kinh" để khắc chế võ công phái Toàn Chân. Hồi sư phụ ta qua đời, ta mới mười bốn tuổi, đã học xong võ công bổn môn, còn võ công phái Toàn Chân thì chỉ mới bắt đầu học, nói gì đến "Ngọc nữ tâm kinh". Bước thứ nhất ta có thể dạy ngươi, bước thứ hai và bước thứ ba thì ta và ngươi sẽ cùng luyện tập.

Từ hôm ấy, Tiểu Long Nữ truyền thụ nội công, chưởng pháp, quyền pháp, binh khí, ám khí của phái Cổ Mộ cho Dương Quá; hai năm sau thì Dương Quá đã được truyền thụ đầy đủ; nhờ sự trợ giúp của cái giường hàn ngọc, tiến bộ cực nhanh, chỉ riêng công lực chưa thâm hậu mà thôi. Võ công phái Cổ Mộ do nữ nhân sáng tạo ra, ba đời sư đồ đều là nữ nhân, khó tránh tình trạng nhu linh có thừa mà trầm hậu còn thiếu. Dương Quá bản tính khinh động bộp chộp, các môn võ công phái này cũng hợp với nó.

Tiểu Long Nữ càng lớn càng mỹ lệ tuyệt luân. Năm nay Dương Quá đã mười sáu tuổi, thân hình cao lớn dần, giọng nói hơi ồm ồm, đã thành một trang thiếu niên tuấn tú, chứ không còn là một đứa bé như lúc tới nhà mồ. Nhưng Tiểu Long Nữ sống với nó đã quen, vẫn cứ coi nó như một đứa trẻ. Dương Quá đối với sư phụ ngày càng kính trọng, hai năm vừa qua không một lần nào làm trái nàng. Tiểu Long Nữ vừa định làm gì, nó không đợi sư phụ mở miệng, đã làm tốt việc đó. Song Tiểu Long Nữ tính nết vẫn lạnh lùng, thờ ơ như trước, không hề vui cười, thân ái chút nào với nó. Dương Quá cũng không vì thế mà phật lòng. Tiểu Long Nữ có khi gảy đàn, tiếng đàn của nàng cũng bình hòa lãnh đạm. Dương Quá đứng bên lẳng lặng nghe.

Một hôm Tiểu Long Nữ nói:

– Võ công phái Cổ Mộ ta ngươi đã học xong, từ ngày mai chúng ta sẽ luyện võ công phái Toàn Chân. Các môn võ công đó luyện được thực chẳng dễ; hồi trước sư phụ ta cũng không rõ lắm; ta lại càng không lĩnh hội được bao nhiêu. Chúng ta sẽ luyện từ đầu. Chỗ nào ta hiểu chưa đúng, ngươi cứ nói nghe chưa.

Hôm sau hai người tới gian thạch thất hình dạng kỳ quặc nọ, dựa theo các phù hiệu hoa văn do Vương Trùng Dương năm xưa khắc trên trần mà luyện tập.

Dương Quá luyện mấy ngày, bây giờ căn cơ võ công của chàng đã khá, rất nhiều chỗ vừa động tới đã hiểu thấu, mọi việc tiến triển cực nhanh. Nhưng mươi ngày sau, tự dưng mấy hôm liền càng luyện càng bế tắc, đã không tiến, lại còn thụt lùi.

Tiểu Long Nữ cùng chàng nghiền ngẫm lý giải, cũng cảm thấy nghi nan trùng trùng. Dương Quá nôn nóng, bực bội ra mặt. Tiểu Long Nữ nói:

– Hồi ta cùng luyện võ công phái Toàn Chân với sư phụ, luyện được ít ngày, thì rất khó tiến triển. Rồi tổ sư bà bà tạ thế, ta không còn biết hỏi ai được nữa. Ta hiểu rằng do không biết khẩu quyết, thì chẳng thể nghĩ ra cách gì. Ta từng bảo ta sẽ sang phái Toàn Chân lấy trộm khẩu quyết, bị sư phụ mắng cho một trận nên thân. Thế là môn công phu này đành gác lại, dẫu nó là võ công phái Toàn Chân, không luyện cũng chẳng sao cả. Ngươi cũng đừng bực tức mà làm gì. Việc này không khó, chúng ta chỉ cần lẻn sang bắt một tên đạo sĩ phái Toàn Chân mang về, buộc hắn truyền thụ khẩu quyết nhập môn thì được thôi. Nào, ngươi hãy đi theo ta.

Câu nói ấy chợt nhắc Dương Quá nhớ rằng Triệu Chí Kính từng truyền thụ cho nó "Toàn Chân đại đạo ca", trong đó có câu: "Đại đạo sơ tu thông cửu khiếu, Cửu khiếu nguyên tại Vĩ Lư huyệt, Tiên tòng Dũng Tuyền cước để xung, Dũng Tuyền xung khởi tiệm chí tất. Quá tất từ từ chí Vĩ Lư, Nê Hoàn đỉnh thượng hồi thi cấp, Kim tỏa quan xuyên hạ thước kiều, Trùng lâu thập nhị hàng cung thất (Đạo lớn mới tu thông chín lỗ, chín lỗ vốn khởi đầu từ huyệt Vĩ Lư. Thoạt tiên xung huyệt Dũng Tuyền dưới chân, từ huyệt Dũng Tuyền xung lên đầu gối, qua đầu gối chạy dọc lên Vĩ Lư, đến huyệt Nê Hoàn thì gấp rút quay lại, đi xuống bên dưới cầu Hỉ Thước, nhiều lần qua lại mười hai cung), thế là nó liền đem ra đọc thuộc lòng.

Tiểu Long Nữ suy nghĩ kỹ về ý nghĩa câu ca, nói:

– Xem chừng đấy chính là yếu quyết của võ công phái Toàn Chân, ngươi đã thuộc rồi thì còn gì bằng.

Bèn bảo Dương Quá đọc thuộc lòng khẩu quyết mà Triệu Chí Kính từng dạy. Thứ mà Triệu Chí Kính truyền cho dạo trước đúng là bí quyết căn bản của nội công thượng thừa phái Toàn Chân, chẳng qua y không truyền thụ cách sử dụng, các tên gọi như Dũng Tuyền, Trùng lâu thập nhị, Nê Hoàn, y cũng không hề giải thích, Dương Quá chỉ việc học thuộc, học thuộc rồi để đó cũng vô dụng. Bây giờ Tiểu Long Nữ vừa suy nghĩ đã có thể vạch ra điểm cốt yếu, Dương Quá tức thời hiểu rõ. Trong vòng mấy tháng, hai người đã tham cứu lĩnh ngộ hết tinh yếu võ công mà Vương Trùng Dương khắc họa trên trần phòng.

Một hôm hai người trong thạch thất vừa đối kiếm xong, Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Hồi đầu ta xem thường võ công phái Toàn Chân, cho rằng tuy họ xưng là võ học chính tông trong thiên hạ, song chẳng qua cũng chỉ đến mức này. Nhưng hôm nay ta mới biết nó quả là cao thâm khôn lường. Hai ta tuy biết hết bí quyết pháp môn của họ, nhưng muốn luyện đến mức đắc tâm ứng thủ, kình lực tự nhiên dồn ra, thực không biết bao nhiêu năm tháng mới luyện thành.

Dương Quá nói:

– Võ công phái Toàn Chân tuy tinh diệu, nhưng tổ sư bà bà đã lưu lại cách khắc chế, dĩ nhiên sẽ thắng được bản sự của họ. Cái đó gọi là núi này cao lại có núi khác cao hơn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Từ mai, chúng ta phải luyện" Ngọc nữ tâm kinh ".

Hôm sau, hai người tới gian thạch thất thứ hai, dựa vào các phù hiệu khắc họa trên trần phòng mà luyện công. Việc này dễ hơn hẳn so với việc luyện tập võ công của phái Toàn Chân. Pháp môn do Lâm Triệu Anh nghĩ ra để khắc chế võ công của Vương Trùng Dương vốn bắt nguồn từ võ học của bà ta.

Mấy tháng sau, hai người đã luyện xong ngoại công" Ngọc nữ tâm kinh ". Có lúc Dương Quá sử kiếm pháp phái Toàn Chân, Tiểu Long Nữ thì dùng Ngọc nữ kiếm pháp hóa giải; có lúc Tiểu Long Nữ sử Toàn Chân kiếm pháp, còn Dương Quá thì dùng Ngọc nữ kiếm pháp khắc chế. Ngọc nữ kiếm pháp quả nhiên là khắc tinh của Toàn Chân kiếm pháp, chiêu thức nào cũng áp đảo chiêu thức của phái Toàn Chân, bước nào cũng đối đầu và chiếm tiên cơ; Toàn Chân kiếm pháp bất kể biến hóa cách nào, cũng không thoát nổi sự chế ngự của Ngọc nữ kiếm pháp.

Ngoại công đã luyện xong, chuyển sang luyện nội công. Nội công phái Toàn Chân bác đại tinh thâm, muốn nghĩ ra cách thắng được nó, thật không phải chuyện dễ. Lâm Triệu Anh quả là thông minh vô cùng, lại không tìm lối đi riêng, mà từ bàng môn tả đạo chiếm thượng phong. Tiểu Long Nữ ngẩng nhìn đồ hình trên trần, trầm ngâm không nói, cứ thế mấy ngày im lặng, nhíu mày suy ngẫm.

Dương Quá nói:

– Cô cô, môn này luyện khó lắm ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Hồi trước ta nghe sư phụ bảo nội công của tâm kinh này phải có hai người cùng luyện, ta cứ ngỡ chỉ việc hợp tu với ngươi, nào ngờ như vậy chưa đủ.

Dương Quá vội hỏi:

– Vì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Cả hai cùng là nữ mới ổn.

Dương Quá nói:

– Một nam một nữ thì đã sao? Nam nữ thì có gì khác?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Khác chứ. Ngươi hãy nhìn xem trên trần khắc các hình gì nào?

Dương Quá nhìn lên chỗ nàng chỉ tay, thấy ở một góc trần nhà khắc vô số hình người, phải tới bảy, tám chục người, nhưng hình dạng tựa hồ toàn là nữ nhân, tư thế mỗi người một khác, từ toàn thân có nhiều tia nhỏ li ti tán xạ ra bên ngoài. Dương Quá chưa hiểu nguyên do, quay lại nhìn nàng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Tâm kinh nói rằng khi luyện công, hơi nóng toàn thân bốc lên ngùn ngụt, cần tập ở nơi thoáng mát và rộng rãi, không có người, cởi bỏ hết quần áo mà tập, để cho hơi nóng lập tức phát tán, không đọng lại chút nào trong cơ thể; nếu không nó sẽ tích uất bên trong, nhẹ thì gây trọng bệnh, nặng thì làm chết người.

Dương Quá nói:

– Thế thì chúng ta cứ việc cởi bỏ quần áo mà luyện tập.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lúc tập, hai người phải dùng nội lực đạo dẫn phòng hộ cho nhau, ta và ngươi một nam một nữ, cởi hết quần áo ra ngồi bên nhau thì còn ra thể thống gì?

Dương Quá hai năm nay chuyên tâm luyện công, chẳng hề nghĩ đến chuyện mình và sư phụ nam nữ hữu biệt; lúc này cảm thấy mình và sư phụ cùng trần truồng ngồi đối diện nhau mà luyện công thì quả thực không ổn; còn không ổn ở chỗ nào, thì cũng không thể nói thành lời. Tiểu Long Nữ hiện tại đã hai mươi tuổi, nhưng từ nhỏ sống trong nhà mồ, có thể nói là nàng chẳng biết gì về thế sự, yếu chỉ tu luyện bổn môn lại khắc chế thất tình lục dục; cho nên sư đồ hai người tuy là thiếu niên nam nữ, nhưng sớm tối bên nhau, một bên lạnh lùng, một bên cung kính, không có bất cứ điều gì vượt quá lễ giáo. Giờ đây nói đến việc cởi bỏ quần áo để luyện công, chỉ cảm thấy đó là một nan đề, chứ cũng không có ý niệm gì khác. Dương Quá bỗng nói:

– Có cách rồi! Hai ta có thể ngồi trên cái giường hàn ngọc mà luyện.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nhất thiết không được. Hơi nóng bị cái giường hàn ngọc bức hồi, luyện được vài hôm, ta và ngươi sẽ chết mất.

Dương Quá ngẫm nghĩ một lát, hỏi:

– Vì sao cứ nhất thiết phải hai người cùng luyện? Chúng ta mỗi người luyện một chỗ, đệ tử gặp điều gì chưa hiểu, sẽ thỉnh giáo cô cô sau cũng được.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Không được, môn nội công này hết sức gian nan, bất cứ lúc nào cũng sẽ nhập lối rẽ, nếu không có người bên cạnh trợ giúp, sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, phải có hai người giúp nhau mới có thể vượt qua nguy hiểm.

Dương Quá nói:

– Luyện môn nội công này quả nhiên phiền phức.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng ta hãy luyện ngoại công cho thành thục, cũng đủ đánh bại các đạo sĩ phái Toàn Chân rồi. Huống hồ cũng chẳng cần sang đánh nhau với họ, mà dẫu có thắng họ, cũng vô ích. Môn nội công này không luyện cũng chẳng sao.

Dương Quá nghe sư phụ nói vậy, liền đáp ứng; chàng cũng không lưu tâm đến việc đó nữa.

Một hôm sau khi luyện công, chàng ra khỏi nhà mồ, bắt hoẵng bắt thỏ về làm thức ăn. Đánh quỵ một con hoẵng rồi, chàng lại đuổi theo một con thỏ xám. Con thỏ chạy vụt bên này bên nọ nhanh nhẹn lạ thường; hiện thời khinh công của chàng đã rất cao, song nhất thời chàng chưa thể bắt được con thỏ. Tính trẻ con trỗi dậy, chàng không chịu phóng ám khí đả thương con thỏ, mà muốn thi khinh công với nó, dồn cho nó đến lúc kiệt sức không chạy nổi mới thôi. Một người một thỏ chạy mỗi lúc một xa, con thỏ chạy vào một thung lũng, đột nhiên chui qua một bụi hoa hồng lớn.

Bụi hồng này dài tới vài trượng, tầng tầng lớp lớp hương thơm ngan ngát. Dương Quá chạy vòng bụi hoa hồng, thì con thỏ đã biến mất. Chàng đuổi nó quá lâu cũng thấy thương nó, dù bắt được nó cũng sẽ thả ra; giờ không thấy thì thôi. Nhưng thấy bụi hoa hồng như có một tấm bình phong, hoa đỏ cành lá xanh, trông rất đẹp mắt, bốn phía có bóng cây bao phủ, tựa hồ một tòa phòng ốc bằng hoa lá cành do thiên nhiên kết thành. Chàng chợt nảy ra một ý, bèn chạy về kéo Tiểu Long Nữ ra xem.

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Ta không thích hoa, ngươi thích thì cứ ra đấy mà chơi.

Dương Quá nói:

– Không, cô cô, đây đúng là chỗ rất tốt cho hai ta luyện công, cô cô ở bên này bụi hoa, đệ tử ở bên kia bụi hoa, mỗi người cứ việc cởi y phục, không ai nhìn thấy ai cả, chẳng phải tuyệt diệu hay sao?

Tiểu Long Nữ nghe rất có lý. Nàng nhảy lên cây, nhìn tứ phía, thấy đông nam tây bắc đều một màu xanh cây lá tĩnh mịch, văng vẳng tiếng suối rì rào, tiếng chim líu lo, không một dấu chân người, quả là một nơi luyện công cực tốt, bèn nói:

– Ngươi chọn được chỗ tốt, tối nay ta ra đây luyện công.

Canh hai tối hôm ấy, hai người ra chỗ bụi hoa hồng. Ban đêm, mùi hoa càng đậm đà. Tiểu Long Nữ đem pháp môn khẩu quyết tu tập" Ngọc nữ tâm kinh "nói ra một hồi, Dương Quá hỏi những chỗ chưa rõ, rồi hai người sang hai bên bụi hoa hồng, cởi hết quần áo, bắt đầu luyện tập. Dương Quá chìa tay trái qua bụi hoa, chạm vào bàn tay phải của Tiểu Long Nữ, hễ trong lúc luyện tập ai gặp chỗ khó, thì người kia nhận cảm ứng sẽ lập tức vận công trợ giúp.

Hai người từ đó lấy đêm làm ngày. Buổi tối họ luyện công, ban ngày nghỉ ngơi trong cổ mộ. Hồi này đang là mùa hạ nóng bức, ban đêm dụng công càng mát mẻ; cứ thế hơn hai tháng bình an vô sự." Ngọc nữ tâm kinh "gồm chín đoạn hành công. Tối nay Tiểu Long Nữ đã luyện tới đoạn thứ bảy, Dương Quá cũng luyện tới đoạn thứ sáu. Hai người ở hai bên bụi hoa hồng tự luyện tập, toàn thân hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, hòa với mùi hoa thêm nồng. Trăng đã lên tới đỉnh đầu, luyện thêm nửa canh giờ nữa, thì họ đã luyện xong đoạn thứ bảy và thứ sáu. Đột nhiên phía sau núi vọng lại tiếng bước chân, giọng nói, có hai người vừa nói chuyện vừa đi tới chỗ họ.

Môn" Ngọc nữ tâm kinh "này, đơn số hành công là" Âm tiến ", còn song số là" Dương thoái ". Dương Quá đang luyện công phu" Dương thoái ", có thể dừng lúc nào tùy ý. Tiểu Long Nữ đang luyện công phu" Âm tiến ", phải liền một mạch, không được ngắt quãng giữa chừng, dù chỉ chút ít. Lúc này nàng đang dụng công đúng giây lát hệ trọng nhất, không hề nghe thấy tiếng bước chân và giọng nói. Dương Quá thì nghe rất rõ, chàng giật mình, vội đẩy khí đan điền ra khỏi cơ thể, thổ nạp ba lần, dừng việc luyện công. Chỉ nghe hai người kia đi tới gần, giọng nói rất quen, thì ra là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình. Hai người ấy càng nói càng lớn tiếng, họ đang cãi nhau.

Triệu Chí Kính nói:

– Doãn sư đệ, sư đệ có chối cũng vô ích. Ta sẽ bẩm cáo Khưu sư bá để người tra xét.

Doãn Chí Bình nói:

– Sư huynh cứ bức đệ làm gì vậy? Tưởng đệ không biết chăng? Chẳng qua sư huynh chỉ muốn đứng đầu các đệ tử đời thứ ba, để sau này ngoi lên chức vị chưởng giáo mà thôi.

Triệu Chí Kính cười khẩy, nói:

– Sư đệ không giữ thanh qui, đã phạm đại giới của bổn giáo; làm sao còn có thể làm đệ tử thủ tòa được nữa?

Doãn Chí Bình nói:

– Đệ phạm đại giới gì kia chứ?

Triệu Chí Kính quát to:

– Giới luật thứ tư của giáo phái Toàn Chân là dâm giới!

Dương Quá ẩn sau bụi hoa hồng, chỉ thấy hai đạo sĩ đứng đối diện với nhau. Doãn Chí Bình sắc diện xanh xao, dưới ánh trăng trông càng tái mét, gằn giọng nói:

– Dâm giới cái gì?

Vừa hỏi, vừa đặt tay lên đốc kiếm. Triệu Chí Kính nói:

– Từ bữa sư đệ gặp ả Tiểu Long Nữ, ngày ngày tâm thần ngơ ngẩn, hồ tư loạn tưởng, trong tâm trí sư đệ có đến ngàn vạn lần cứ mơ tưởng ôm ấp Tiểu Long Nữ. Bổn giáo yêu cầu tu tâm dưỡng tính. Sư đệ cứ mơ tưởng như thế chẳng phải phạm dâm giới là gì?

Dương Quá đối với sư phụ kính trọng hết mực, nghe Triệu Chí Kính nói vậy, thì bất giác nổi giận, càng căm ghét hai gã đạo sĩ kia hơn. Chỉ nghe Doãn Chí Bình nói:

– Nói nhăng nói cuội, trong bụng đệ nghĩ gì, sư huynh cũng biết được sao?

Triệu Chí Kính cười khẩy:

– Sư đệ nghĩ gì trong bụng, dĩ nhiên ta không biết; nhưng ban đêm sư đệ nói mơ, người bên cạnh nghe thấy được chứ? Sư đệ viết ra giấy bao nhiêu cái tên Tiểu Long Nữ, người ta không nhìn thấy hay sao?

Doãn Chí Bình rùng mình, không nói gì. Triệu Chí Kính dương dương đắc ý, từ trong túi lấy ra một tờ giấy, giơ giơ nhứ nhứ, nói:

– Đây có phải là bút tích của sư đệ hay không? Ta sẽ giao cho chưởng môn Mã sư bá và tọa sư Khưu sư bá để họ xử.

Doãn Chí Bình không nhịn nổi nữa, xoẹt một tiếng, kiếm đã rút khỏi bao, đâm vào ngực Triệu Chí Kính.

Triệu Chí Kính né người tránh, nhét tờ giấy vào túi, cười nhăn nhở, nói:

– Ngươi định giết người diệt khẩu hả? Đâu có dễ!

Doãn Chí Bình không nói gì, đâm nhanh ba kiếm, nhưng mỗi đòn Triệu Chí Kính đều tránh được. Đến nhát kiếm thứ tư, thì keng một cái, Triệu Chí Kính cũng đã rút kiếm ra, hai kiếm đụng nhau, tiếp đó hai người giao đấu kịch liệt gần chỗ bụi hoa hồng. Hai người cùng là cao thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, một người là đệ tử số một của Khưu Xứ Cơ, người kia là đệ tử số một của Vương Xứ Nhất, võ công kẻ tám lạng, người nửa cân. Doãn Chí Bình nghiến răng lăn xả tấn công, Triệu Chí Kính thì vừa đấu vừa châm chọc vài lời để kích nộ đối phương, làm cho đối phương rối trí.

Dương Quá đã học hết kiếm pháp của phái Toàn Chân, nhìn hai người kia giao đấu, tiến kích thoái thủ, chiêu số tuy biến hóa đa đoan, song phần lớn nằm trong liệu định, nghĩ thầm bản sự mà cô cô đã dạy quả nhiên không sai. Chỉ thấy hai người kia đấu mấy chục chiêu, Doãn Chí Bình toàn sử dụng chiêu số tiến công, Triệu Chí Kính thì không ngừng di chuyển cước bộ, cười khẩy, nói:

– Cái gì ta biết, ngươi hiểu cả; cái gì ngươi biết, ta đều đã luyện qua, muốn giết ta ư, đừng hòng!

Y phòng thủ rất chặt chẽ, Doãn Chí Bình đánh trối chết, nhưng chiêu số nào cũng đều bị đối phương hóa giải. Họ đấu một hồi nữa, Dương Quá thấy hai người không ngừng di chuyển về phía chỗ ngồi của Tiểu Long Nữ, thì cả kinh, nghĩ thầm:" Hai tên tặc đạo nếu tới sát chỗ cô cô thì nguy hiểm quá! "Bỗng Triệu Chí Kính đột nhiên phản kích, buộc Doãn Chí Bình phải lùi lại. Y tiến gấp ba chiêu, Doãn Chí Bình lùi liền ba bước. Dương Quá thấy hai người xa dần sư phụ, đã mừng thầm, nào ngờ Doãn Chí Bình bỗng dưng chuyển kiếm sang tay trái, tay phải tung một chưởng đánh tới ngực Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính cười, nói:

– Ngươi dẫu có ba đầu sáu tay, cũng khó làm gì nổi ta.

Đoạn dùng tả chưởng nghênh tiếp. Đôi bên kiếm đâm chưởng đánh, cuộc đấu càng thêm dữ dội.

Tiểu Long Nữ tiềm tâm nội dụng, trước sau vẫn không để ý gì tới ngoại giới. Dương Quá thấy hai đạo sĩ tới gần mấy bước, trong bụng lại lo lắng bội phần; khi thấy họ lùi xa vài bước, mới phần nào yên tâm.

Đang hồi kịch liệt, Doãn Chí Bình bỗng quát to giận dữ, liên tiếp tung hiểm chiêu, không buồn né tránh, cứ thế xông tới. Triệu Chí Kính thầm biết không ổn, biết sư đệ đang lâm vào tình cảnh khó ăn khó nói, thà bị đâm chết, còn hơn để người ngoài biết việc thầm yêu trộm nhớ của mình. Triệu Chí Kính tuy bất hòa với Doãn Chí Bình, song hoàn toàn không định hại chết y, thế là lập tức bị núng thế; đấu thêm vài chiêu, Doãn Chí Bình tả kiếm đâm ngang, hữu chưởng đánh thẳng, đồng thời chân trái gạt ngang một cái, chính là tuyệt chiêu" Tam liên hoàn "của phái Toàn Chân. Triệu Chí Kính vọt lên cao hơn một trượng, vung kiếm đánh xuống. Doãn Chí Bình trường kiếm rời khỏi tay, ném mạnh về phía đối phương, miệng quát một tiếng, song chưởng cùng đánh ra.

Dương Quá thấy mấy chiêu vừa rồi biến ảo lợi hại, đã ngoài tầm hiểu biết của chàng, bất giác lòng bàn tay vã mồ hôi lạnh, thấy Triệu Chí Kính lơ lửng trên không, thế nửa hư nửa thực, xem chừng hai chưởng kia sắp đánh cho y gãy rời xương cốt. Ai dè giữa lúc nguy cấp dị thường như vậy, Triệu Chí Kính bỗng lật người trên không, lùi gấp cả trượng, nhẹ nhàng đáp xuống đất.

Nhìn thế đáp xuống của Triệu Chí Kính đúng chỗ Tiểu Long Nữ ngồi bên khóm hoa, Dương Quá cả kinh, không kịp nghĩ ngợi, đứng bật dậy, song chưởng đẩy vào lưng của Triệu Chí Kính, sử chiêu" Thái lâu phao cầu ", dồn sức ra tay, đẩy tấm thân hộ pháp của Triệu Chí Kính bắn ra xa hơn một trượng. Nhưng hiện thời nội lực của chàng chưa đủ, sử kình quá mạnh, sức dồn vào cánh tay, hạ bàn thành hư, chân đứng không vững, thân chúi đi, chân trái giẫm lên một cành hoa; cành hoa ấy lập tức bật lại, chạm nhẹ vào mặt Tiểu Long Nữ.

Chỉ là một cái chạm nhẹ, nhưng Tiểu Long Nữ đã giật mình cả kinh, mồ hôi vã ra như tắm, vội vận gấp nội tức từ đan điền lên, nhưng không vận nổi, ngất lịm ngay đi.

Doãn Chí Bình bất ngờ thấy Dương Quá xuất hiện, lại bất ngờ nhìn thấy ý trung nhân trong mộng của mình đang ẩn thân cạnh một bụi hoa, thì ngây người, thực không biết là thật hay ảo. Lúc đó Triệu Chí Kính đã đứng trên mặt đất, dưới ánh trăng cũng đã nhìn rõ dung mạo của Tiểu Long Nữ, liền nói:

– Hay chưa, thì ra cô nàng dụ gã trai ra đây.

Dương Quá cả giận, quát:

– Hai tên đạo sĩ thối tha không mau xéo đi, ta sẽ tìm các ngươi tính sổ.

Chàng thấy Tiểu Long Nữ ngã ngửa nằm bất động, nhớ lời nàng dặn, lúc luyện công phải dành toàn lực phòng hộ cho nhau, dù chỉ một con nai con thỏ vô ý chạy tới, cũng có thể gây nên đại họa, vừa rồi nàng bị giật mình kinh hãi, mối nguy không nhỏ, thì chàng cả sợ đưa tay sờ trán nàng, thấy lạnh như băng, vội lấy áo đắp lên người nàng, rồi ôm nàng, gọi:

– Cô cô, cô cô không sao chứ?

Tiểu Long Nữ ừm một tiếng, không đáp. Dương Quá hơi yên tâm, nói:

– Cô cô, chúng ta về nhà đã, sau này sẽ giết hai tên tặc đạo kia.

Tiểu Long Nữ toàn thân vô lực, nằm gọn trong vòng tay chàng. Dương Quá rảo bước đi qua bên cạnh hai người kia. Doãn Chí Bình đứng ngây như phỗng. Triệu Chí Kính thì cười ha hả, nói:

– Doãn sư đệ, ý trung nhân của sư đệ đang được kẻ khác ôm ấp sờ mó kìa, sư đệ giết ta, sao bằng giết hắn!

Doãn Chí Bình như không nghe thấy, im như thóc.

Dương Quá nghe bốn chữ" ôm ấp sờ mó "thì cả giận, nhẹ nhàng đặt Tiểu Long Nữ xuống đất, để nàng tựa lưng vào một gốc cây, rồi bẻ một cành cây cầm tay, chỉ Triệu Chí Kính quát:

– Ngươi vừa nói nhăng nói cuội cái gì?

Hai năm trước Dương Quá còn là một cậu bé, nay đã trở thành một chàng trai cao lớn; Triệu Chí Kính thoạt tiên còn chưa nhận ra, nhưng nghe tiếng quát của chàng lần thứ hai, ánh trăng lại soi rõ khuôn mặt chàng, thì y đã nhận ra đệ tử cũ của mình, vừa rồi lại bị chàng đánh văng đi, thì cả giận, thấy nửa thân trần của chàng lõa lồ, y quát:

– Dương Quá, thì ra là nhà ngươi, tên súc sinh!

Dương Quá nói:

– Ngươi chửi ta còn được, nhưng ngươi vừa chửi cô cô của ta cái gì?

Triệu Chí Kính cười ha hả, nói:

– Người ta bảo phái Cổ Mộ là phái các cô nương, từ xưa chỉ truyền nữ, không truyền nam, toàn là các xử nữ băng thanh ngọc khiết; hóa ra lại ô uế thế kia, lén lút thu nhận thiếu niên để hưởng lạc thú giữa màn trời chiếu đất!

Tiểu Long Nữ lúc này tỉnh lại, nghe mấy câu ấy, tức quá vừa điều thuận khí tức, lại nghịch chuyển, hai khí dội nhau, ngực tức khôn tả, biết đã bị nội thương, chỉ thốt được một câu:

– Ngươi nói láo, bọn ta không hề..

Máu đã phun ra ồng ộc từ miệng.

Doãn Chí Bình và Dương Quá cùng cả kinh, cùng chạy tới bên. Doãn Chí Bình hỏi:

– Cô nương làm sao thế?

Rồi cúi xuống xem thương thế của nàng. Dương Quá tưởng y có ý gia hại, bèn dùng tay trái đẩy vào ngực y. Doãn Chí Bình thuận tay hất ra. Dương Quá đối với võ công của phái Toàn Chân đã biết hết mọi chiêu, lật bàn tay một cái, tóm được cổ tay Doãn Chí Bình, trước kéo sau đẩy, khiến Doãn Chí Bình ngã ngửa.

Hiện thời võ công của Dương Quá thực ra còn thua xa Doãn Chí Bình, nếu dùng võ công phái khác mà đấu với Doãn Chí Bình, thì nhất định chàng sẽ thua. Nhưng Lâm Triệu Anh hồi trước đã nghiền ngẫm cách khắc chế võ công của phái Toàn Chân, mỗi chiêu mỗi thức đều phối hợp đâu ra đấy, có điều là sau khi sáng tạo chưa từng đem ra sử dụng, cho nên đệ tử phái Toàn Chân không ngờ rằng trên đời lại có thứ võ công khắc chế môn phái của họ. Lúc này Dương Quá đem ra sử dụng, Doãn Chí Bình không kịp đề phòng, tâm thần lại đang bị kích động, không thể chống đỡ, tuy chưa bị đánh ngã, song cũng phải lùi ra xa hai trượng, tới bên cạnh Triệu Chí Kính.

Dương Quá nói:

– Cô cô mặc xác bọn chúng, đệ tử dìu cô cô về nhà đã.

Tiểu Long Nữ thở hổn hển, nói:

– Không, ngươi hãy giết hai tên kia, đừng.. đừng để chúng đem chuyện của.. ta ra kể bên ngoài..

Dương Quá nói:

– Vâng.

Chàng xông lên, cành cây trong tay chọc tới ngực Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính coi thường, dùng trường kiếm phạt nhẹ cành cây. Nào ngờ Dương Quá sử dụng chính là chiêu thức khắc chế kiếm pháp của phái Toàn Chân, đầu cành cây rung một cái, phẩy trúng huyệt đạo ở cổ tay Triệu Chí Kính. Y thấy cổ tay tê dại, biết là nguy rồi. Dương Quá tả chưởng phách ngang, đánh thẳng tới má bên trái, thế phách mạnh mẽ, không thể chống đỡ. Triệu Chí Kính muốn giữ trường kiếm, tất mặt sẽ trúng chưởng; còn muốn tránh đòn, ắt phải buông kiếm khỏi tay.

Triệu Chí Kính võ công cao cường, trong cơn nguy cấp không hề bấn loạn, vội buông kiếm khỏi tay, cúi đầu né tránh, tiếp đó tả chưởng đưa ra để chộp lại thanh kiếm. Đâu ngờ Lâm Triệu Anh mấy chục năm trước đã sớm liệu chiếm tiên cơ, nghĩ ra đối sách đối phó với sự biến chiêu lợi hại của cao thủ phái Toàn Chân. Triệu Chí Kính dùng chiêu này để cầu thắng trong lúc bại, nào dè Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã luyện thành thạo cách chiết giải chiêu này. Dương Quá đã đoạt kiếm của địch, thấy tả chưởng của y vụt ra, chàng bèn chém luôn vào bàn tay đó. Triệu Chí Kính cả kinh, vội rụt tay lại. Dương Quá đã chĩa mũi kiếm vào ngực y, miệng quát:

– Nằm này!

Chân trái của chàng móc một cái. Triệu Chí Kính bị mũi kiếm chĩa vào chỗ yếu hại, đứng im không nhúc nhích, bị cú móc đó tức thời ngã ngửa. Dương Quá giơ kiếm đâm xuống bụng dưới của y.

Bỗng sau lưng có tiếng gió, một mũi kiếm đâm tới kèm theo tiếng quát:

– Ngươi dám sát sư ư?

Dương Quá đang thế công, lại bị đánh phía sau, vừa ngạc nhiên vừa tức giận, không nghĩ ngợi gì, xoay kiếm chống trả, keng một tiếng, hai kiếm đụng nhau. Doãn Chí Bình thấy Dương Quá xoay kiếm đã nhanh lại chuẩn, bất giác thầm thán phục; tự dưng cảm thấy kiếm của mình bị kéo đi. Y kinh ngạc, vội vận nội lực đoạt lại. Nội lực của y dĩ nhiên thâm hậu, trường kiếm của Dương Quá cuối cùng lại bị hút đi. Dương Quá chính là dụ cho Doãn Chí Bình làm như thế, chỉ giữ kiếm một chút, rồi đột nhiên phóng kiếm, song chưởng đánh thẳng tới trước ngực Doãn Chí Bình; song chưởng nhất kiếm đồng thời đánh tới, Doãn Chí Bình võ công cao mấy cũng không đỡ nổi lối tập kích quái dị này.

Lúc này Doãn Chí Bình đành vứt kiếm, hồi chưởng, giơ tay ngang ngực chống đỡ, song y gập cánh tay quá sâu rất khó phát kình; cũng may công lực của Dương Quá còn non, chưa thể đánh gãy ngay hai cánh tay của y; nhưng y đã thấy chấn động mạnh, ngực đau nhói, hai cánh tay tê dại, vội thoái lui ba bước, vận khí bảo vệ yếu huyệt trước ngực. Triệu Chí Kính đã thừa cơ đứng dậy. Dương Quá song kiếm trong tay, tấn công cả hai người.

Hai đạo sĩ chỉ sau vài chiêu đã bị một thiếu niên vừa ra khỏi lều cỏ đánh cho tay chân rối loạn, thì vừa kinh ngạc vừa cả giận, cũng không dám coi thường nữa. Hai đạo sĩ kề vai bên nhau, sử dụng chưởng pháp, chỉ thủ không công, muốn thăm dò kiểu cách võ công của đối phương trước đã, rồi sẽ tính sau. Dương Quá tuy hai tay hai kiếm, mà đối phương chỉ tay không, song họ thủ rất nghiêm mật, chàng không thể ra tay bất ngờ như lúc đầu. Trong kiếm thuật của" Ngọc nữ tâm kinh "hoàn toàn không có chiêu số khắc chế quyền cước của phái Toàn Chân. Nên biết Lâm Triệu Anh cho rằng dùng kiếm đánh kẻ tay không, có thắng cũng không phải là con nhà võ, là tự hạ mình, nên bà ta không hề nghĩ đến chuyện đó; thứ nữa, Triệu, Doãn hai người công lực dĩ nhiên thâm hậu hơn nhiều, họ liên thủ phòng vệ để không bị bại; Dương Quá hai tay hai kiếm, đâm ngang chém dọc, vẫn không làm gì được, cuối cùng rơi vào thế hạ phong. Triệu Chí Kính chưởng lực trầm hậu, không ngừng áp chế đường kiếm của chàng.

Doãn Chí Bình đã định thần, nghĩ thầm hai người bề trên hợp lực đấu với một gã thiếu niên thì không ra gì, biết bên mình nắm chắc phần thắng, lại nghĩ đến sự an nguy của Tiểu Long Nữ, bèn quát:

– Dương Quá, ngươi mau dìu cô cô của ngươi về nhà, cứ ở đây quấn lấy bọn ta làm gì?

Dương Quá nói:

– Cô cô hận các ngươi nói nhăng nói cuội, bảo ta phải giết các ngươi trước đã.

Doãn Chí Bình đánh một chưởng làm thanh kiếm bên trái của Dương Quá lệch đi, đoạn nhảy sang trái ba bước, hô:

– Dừng tay!

Dương Quá nói:

– Ngươi muốn chạy ư?

Doãn Chí Bình nói:

– Dương Quá, ngươi muốn giết hai sư huynh đệ ta, có mà khó hơn lên trời. Chi bằng săn sóc cho cô cô của ngươi đi thì hơn. Chuyện hôm nay, Doãn mỗ ta nếu đem đi kể nửa câu, sẽ lập tức tự sát để tạ tội, nếu ta nuốt lời..

Nói đến đây, y đột nhiên đảo người chộp lấy thanh kiếm ở tay trái của Dương Quá, nói:

– Thì sẽ như cái ngón tay này!

Rồi y giơ đứng bàn tay trái ra, tay phải cầm kiếm vừa đoạt chém đứt luôn ngón út và ngón vô danh tay trái.

Hành động này nhanh như tia chớp, Dương Quá không đề phòng, ngẩn người ra, biết lời của Doãn Chí Bình quả là thật lòng, nghĩ thầm:" Mình đấu cùng lúc với cả hai lão, quả nhiên khó thắng, chi bằng hãy giết lão họ Triệu trước đã ", bèn quát:

– Doãn Chí Bình, lão chặt ngón tay ích gì? Trừ phi lão chặt đầu đi thì ta mới tin.

Doãn Chí Bình cười buồn, nói:

Dương Quá nói:

– Thế thì được!

Dương Quá tiến lên hai bước, đâm kiếm vào ngực Triệu Chí Kính đang ở phía sau lưng.

Chiêu" Mộc lan hồi xạ "này âm độc vô cùng. Triệu Chí Kính đang chăm chú nghe hai người nói với nhau, thình lình bị Dương Quá bất ngờ đánh trộm, khi phát hiện ra thì mũi kiếm đã đâm tới bụng dưới. Y cảm thấy hơi đau, liền vận khí đan điền, làm cho bụng dưới co về phía sau nửa thước, chân phải tung cú đá cực nhanh vào thanh kiếm trong tay Dương Quá. Dương Quá không chờ y co chân về, giơ tay điểm vào khoeo chân, trúng ngay huyệt đạo. Triệu Chí Kính tuy thoát chết, nhưng đứng không vững, ngã ngửa giơ chân phải lên trước mặt Dương Quá.

Dương Quá giơ tay đón bắt thanh kiếm từ trên rơi xuống, chĩa vào cổ họng Triệu Chí Kính, nói:

– Ta từng bái lão làm sư phụ, lạy lão tám cái; bây giờ lão đã không còn là sư phụ của ta nữa, mau trả lại ta tám cái lạy đó.

Triệu Chí Kính giận muốn ngất đi, tím mặt lại. Dương Quá hơi nhấn mũi kiếm vào da thịt ở cổ y. Triệu Chí Kính nói:

– Ngươi muốn giết thì cứ giết, khỏi cần lắm lời.

Dương Quá đang định ấn mạnh mũi kiếm xuống, bỗng nghe Tiểu Long Nữ nói sau lưng:

– Quá nhi, giết sư phụ không hay đâu, ngươi hãy bảo hắn thề.. không tiết lộ chuyện hôm nay, rồi tha cho hắn!

Dương Quá coi lời nói của Tiểu Long Nữ như thần minh, nghe nàng nói vậy, bèn nói:

– Lão thề đi.

Triệu Chí Kính tuy cả giận, nhưng giữ mạng cần hơn, bèn đáp:

– Ta không kể là được rồi, cần gì phải thề bồi?

Dương Quá nói:

– Không, lão phải thề độc mới được!

Triệu Chí Kính nói:

– Được, chuyện hôm nay, chỉ có bốn người ở đây biết. Nếu ta đem kể với người thứ năm, thì ta sẽ thân bại danh liệt, phải rời khỏi sư môn, bị đồng đạo võ lâm khinh miệt, chết không toàn thây!

Tiểu Long Nữ và Dương Quá đều không am hiểu thế sự, chỉ biết Triệu Chí Kính quả đang thề độc. Doãn Chí Bình nhận ra trong lời thề của Triệu Chí Kính có ý khác, định nhắc Dương Quá, song lại nghĩ không tiện giúp người ngoài; chỉ thấy Dương Quá ôm Tiểu Long Nữ chạy rất nhanh ra sau núi. Máu tươi từ chỗ hai ngón tay bị chém đứt vẫn chảy ròng ròng, y ngẩn ngơ đứng đó, không hề thấy đau.

Dương Quá ôm Tiểu Long Nữ về đến ngôi cổ mộ, đặt nàng xuống chiếc giường hàn ngọc. Tiểu Long Nữ nói:

– Ta bị trọng thương, làm sao còn có thể chống chọi khí lạnh?

Dương Quá ồ một tiếng, nghĩ thầm:" Thì ra cô cô bị thương rất nặng ", bèn bế nàng sang phòng bên cạnh. Sau khi nàng nhường chiếc giường hàn ngọc cho Dương Quá nằm, thời gian đầu nàng ở chung một phòng với chàng; hơn một năm sau mới dọn sang phòng bên cạnh. Tiểu Long Nữ vừa nằm xuống, lại ộc ra một ngụm máu tươi. Nửa thân trên để trần của Dương Quá vấy toàn những máu là máu. Tiểu Long Nữ thở hổn hển vài cái, lại phun ra một ngụm máu nữa. Dương Quá cả sợ, chân tay luống cuống, chỉ ứa nước mắt.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Ta thổ hết huyết ra thì thôi, có gì mà phải thương tâm như vậy?

Dương Quá nói:

– Cô cô đừng chết.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi sợ chết lắm à?

Dưng Quá kinh ngạc, hỏi:

– Đệ tử ấy ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta trước khi chết tất nhiên sẽ giết ngươi trước.

Câu này hai năm trước nàng từng nói một lần với Dương Quá, chàng đã quên đi rồi, ai dè bây giờ nàng nhắc lại. Thấy sắc mặt chàng đầy vẻ kinh dị, Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ta không giết ngươi, chết rồi ta còn mặt mũi nào gặp Tôn bà bà? Ngươi một thân một mình trên thế gian, lấy ai chiếu liệu cho ngươi?

Dương Quá trong óc hoảng loạn, không biết nói gì.

Tiểu Long Nữ vẫn cứ thổ huyết, song thần tình lại rất bình tĩnh, tựa hồ chẳng có chuyện gì. Dương Quá chợt nảy một ý, chạy đi rót một bát mật ong lại cho Tiểu Long Nữ uống. Thứ mật ong này quả có thần hiệu, chỉ lát sau nàng không còn thổ huyết nữa, nằm ngủ mê mệt trên giường. Dương Quá phần nào yên tâm, vừa sợ vừa mệt, không chịu thêm được nữa, bèn ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào tường mà ngủ thiếp đi.

Không biết bao lâu sau, đột nhiên chàng cảm thấy cổ họng lành lạnh, chợt choàng tỉnh. Sau hai năm sống trong nhà mồ, tuy chưa thể nhìn rõ mọi vật trong bóng tối rõ như Tiểu Long Nữ, song chàng cũng đã có thể đi lại không cần đèn nến. Chàng mở mắt ra, thấy Tiểu Long Nữ ngồi ở mép giường, tay cầm trường kiếm, mũi kiếm chĩa vào cổ chàng, thì chàng giật mình nói:

– Cô cô! Cô..

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Quá nhi, thương thế của ta không xong mất rồi, bây giờ ta giết ngươi, rồi hai ta cùng đi gặp Tôn bà bà nào!

Dương Quá chỉ thốt được hai tiếng:

– Cô cô!

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi thấy sợ lắm à? Đừng lo, nhanh lắm, chỉ đâm một nhát kiếm là xong thôi.

Dương Quá thấy nàng có ánh mắt lạ, biết nàng sẽ lập tức hạ sát thủ, bỗng ham sống vô cùng, chẳng nghĩ ngợi gì hết, vội lăn một vòng, tung chân đá thanh kiếm trong tay nàng.

Tiểu Long Nữ tuy bị nội thương rất nặng, song thân thủ vẫn nhanh nhẹn chẳng khác gì mọi khi, liền nghiêng người tránh cước của chàng, mũi kiếm lại chĩa ngay vào cổ chàng. Dương Quá sử dụng liên tiếp mấy chiêu thuật, nhưng chiêu thức nào cũng bị Tiểu Long Nữ hóa giải, trường kiếm của nàng cứ như ảnh tùy hình, trước sau vẫn cách cổ chàng không đầy ba tấc. Dương Quá sợ vã mồ hôi toàn thân, nghĩ thầm:" Hôm nay không giữ được mạng này, thể nào cũng bị cô cô giết mất thôi ". Trong lúc nguy cấp, song chưởng cùng đẩy ra, tưởng nàng bị thương vô lực, chiêu số dẫu tinh diệu, nhưng làm gì có sức để đối chưởng với mình.

Tiểu Long Nữ thừa biết dụng ý của chàng, chỉ né người để chưởng lực của chàng sượt qua bên vai nàng, miệng nói:

– Quá nhi, đấu làm chi?

Mũi kiếm rung vài cái, sử chiêu" Phân hoa phất liễu "cực kỳ xảo diệu, ngỡ đánh bên tả mà thực ra đánh bên hữu, lại đã chĩa thẳng cổ họng Dương Quá. Nàng vận lực, chính đang định đâm chàng, chợt nhìn thấy ánh mắt van lơn của chàng, thì lòng đau thắt lại, trước mắt tối sầm, toàn thân rã rời, keng một tiếng, thanh kiếm rơi xuống nền, nàng liền ngất đi.

Vừa rồi Dương Quá chỉ còn đợi chết, ai dè vào khoảnh khắc cuối cùng, nàng lại ngất đi. Chàng ngẩn ngơ, đúng là tử lý đào sinh, vội chạy ra khỏi nhà mồ. Chỉ thấy ánh nắng chói chang gió nhẹ hoa thơm, chim hót líu lo, khác hẳn quang cảnh âm u ảm đạm trong ngôi cổ mộ.

Dương Quá đã bớt sợ, liền thi triển khinh công, chạy nhanh xuống núi, đường núi càng xuống dưới càng dễ đi hơn, giữa trưa thì chàng đã xuống đến chân núi. Chàng không thấy Tiểu Long Nữ đuổi theo, thì phần nào yên tâm, mới đi chậm lại. Đi một hồi, bụng đói sôi lên từng chập. Chàng từ nhỏ bôn ba giang hồ, kiếm thức ăn là biệt tài của chàng, chàng nhìn tứ phía, thấy sườn núi phía tây có một nương ngô, bèn qua đó bẻ lấy năm bắp ngô. Chàng nhặt mấy que củi, đang định đốt lửa nướng ngô, bỗng nghe sau cây có tiếng bước chân nhè nhẹ, có người đi tới.

Chàng trước tiên giấu vội mấy bắp ngô, để tránh bị nông phu bắt quả tang mình lấy trộm, rồi liếc về phía kia, thấy một đạo cô trẻ trung, mặc đạo bào màu hoàng hạnh, thong thả nhẹ bước tiến lại. Sau lưng đạo cô giắt hai thanh kiếm, sợi dây màu đỏ trên đốc kiếm bay phần phật trước gió. Dương Quá nghĩ đạo cô hẳn là người của cung Trùng Dương trên núi, đa phần là đệ tử của Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị. Chàng đang sợ, không dám sinh sự, cúi đầu làm như đang nhặt củi.

Vị đạo cô kia tới trước mặt, hỏi:

– Này, lên núi đi đường nào?

Dương Quá nghĩ thầm:" Cô nàng là đệ tử phái Toàn Chân, tại sao lại không biết đường lên núi, hẳn là không có ý tốt ". Bèn không ngoảnh đầu, đưa tay chỉ lên núi, nói:

– Cứ theo con đường lớn kia mà đi thì được.

Đạo cô thấy chàng nửa thân trên ở trần, cái quần thì cũ quá thể, đang nhặt củi bên đường, đoán chàng là một gã nông phu tầm thường. Nàng tự phụ xinh đẹp, nam giới gặp nàng đều nhìn chằm chằm hồi lâu, gã thiếu niên này lại chẳng thèm nhìn nàng lấy một cái, không lẽ là kẻ mù, bất giác hơi bực, nhưng lại nghĩ thầm:" Bọn nông phu ngu xuẩn thì hiểu cái gì kia chứ? "Bèn nói:

– Ngươi đứng lên coi, ta có điều muốn hỏi.

Dương Quá đối với mọi kẻ thuộc phái Toàn Chân trên dưới đều ghét, nên giả bộ câm điếc, làm như không nghe thấy. Đạo cô nói:

– Này tiểu tử ngu ngốc, lời ta nói ngươi có nghe thấy hay không vậy?

Dương Quá đáp:

– Nghe rồi, nhưng ta không thích đứng lên.

Đạo cô thấy chàng nói vậy, thì mỉm cười, nói:

– Ngươi thử nhìn ta coi, ta bảo ngươi đứng lên đó!

Hai câu này thanh âm kiều mị, dịu dàng và ngọt ngào. Dương Quá nghĩ thầm:" Giọng nói này lạ thế? "Bèn ngẩng đầu nhìn, thấy nàng da trắng nhuận, má đỏ hồng, đôi mắt long lanh đang nghiêng nghiêng nhìn mình, tựa hồ không hề có ác ý, chàng nhìn một cái rồi lại cúi xuống nhặt củi.

Đạo cô thấy vẻ mặt của chàng hoàn toàn trẻ con, tuy đã nhìn rõ nàng, mà không hề động lòng, thì cũng không giận, nghĩ bụng:" Thì ra là một đứa bé ngây thơ ". Nàng lấy trong bọc ra hai đĩnh bạc, gõ vào nhau nghe canh cách, nói:

– Tiểu huynh đệ, ngươi vâng lời ta, ta sẽ cho ngươi hai đĩnh bạc này.

Dương Quá không muốn rắc rối, nhưng nghe lời nói lạ lùng, muốn thử xem dụng ý của đạo cô là gì, bèn giả vờ ngây ngô, cứ trân trân nhìn đĩnh bạc, hỏi:

– Cái thứ sáng sáng ấy là gì vậy?

Đạo cô cười nói:

– Là bạc đấy. Ngươi muốn có quần áo mới, có gạo trắng nấu cơm, có gà mái tơ, đều có thể mang thứ này đi mua được cả.

Dương Quá giả bộ không hiểu, nói:

– Đạo cô lừa ta, ta không tin đâu.

Đạo cô cười nói:

– Ta lừa ngươi hồi nào chưa? Tiểu tử, tên ngươi là gì?

Dương Quá nói:

– Ai cũng gọi ta là Thằng Ngố mà đạo cô không biết à? Thế đạo cô tên là gì?

Đạo cô cười nói:

– Thằng Ngố, ngươi cứ gọi ta là Tiên cô thì được. Mẹ ngươi đâu?

Dương Quá nói:

– Mẹ ta vừa mới chửi ta một trận, đã lên núi kiếm củi rồi.

Đạo cô nói:

– Này, ta cần một cái rìu, ngươi hãy về nhà lấy mang cho ta mượn.

Dương Quá há hốc mồm trợn mắt kinh ngạc, trông càng giống một kẻ ngớ ngẩn, lắc đầu quầy quậy, nói:

– Không được đâu, rìu của nhà ta không cho ai mượn đâu. Cha ta mà biết ta đem cho mượn, sẽ lấy đòn gánh phang ta mất.

Đạo cô cười nói:

– Cha mẹ ngươi nhìn thấy bạc sẽ mừng rơn, không đánh chửi ngươi đâu.

Đoạn ném đĩnh bạc về phía Dương Quá.

Dương Quá giơ tay chộp, nhưng giả vờ chộp hụt, để đĩnh bạc rơi trúng vai, khi đĩnh bạc lăn xuống, chàng lại giơ chân phải chân trái lung tung, miệng kêu:

– Úi chao, úi chao, cô cô đánh ta! Ta đi mách mẹ ta đây!

Rồi chẳng buồn nhặt đĩnh bạc, miệng la ôi ối, chạy vội đi.

Đạo cô thấy chàng ngốc nghếch lại thích thú, mỉm cười cởi dây lưng, vung về phía chân phải của Dương Quá. Dương Quá nghe tiếng gió, ngoảnh đầu lại, thấy thế đến của dải thắt lưng thì kinh ngạc:" Đây là võ công của phái Cổ Mộ ta! Chẳng lẽ nàng không phải là đạo cô phái Toàn Chân? "Chàng không tránh, cứ để dải thắt lưng quấn vào chân phải, ngã xuống đất, toàn thân thả lỏng để cho đạo cô kéo tới bên cạnh, trong bụng lo sợ:" Nàng ta lên núi, không lẽ định tấn công cô cô? "

Chàng vừa nghĩ đến Tiếu Long Nữ, không biết lúc này nàng sống chết ra sao, tự nhiên nóng ruột vô cùng, tâm niệm đã quyết, dẫu có bị mất mạng trong tay Tiểu Long Nữ, cũng phải lên gặp nàng cho bằng được. Chàng đang nghĩ vậy, thì đạo cô đã kéo chàng tới trước, thấy chàng tuy mặt mày lấm bẩn, nhưng mi thanh mục tú, nghĩ thầm:" Tên tiểu tử tuy ngớ ngẩn, nhưng rất tuấn tú, đúng là một cái gối thêu hoa, trong nhồi toàn cỏ ", nghe chàng la lối ầm ĩ, thì mỉm cười, nói:

– Thằng Ngố, ngươi muốn sống hay muốn chết nào?

Nói rồi rút kiếm, chĩa vào ngực chàng.

Dương Quá thấy nàng sử chiêu" Cẩm bút sinh hoa ", chính là kiếm pháp đích truyền của phái Cổ Mộ, thì càng nghi vấn" Người này chắc là đệ tử của sư bá Lý Mạc Sầu, lên núi tìm cô cô của ta, hẳn là không có ý tốt; trông thủ pháp vung dây lưng, rút trường kiếm, thì võ công cao cường đây, mình phải giả bộ ngây ngô đến cùng, để nàng ta không đề phòng ". Bèn lộ vẻ hoảng hốt, cầu xin:

– Tiên cô, tiên cô đừng.. giết ta, ta vâng lời mà.

Đạo cô cười, nói:

Dương Quá lắp bắp:

– Ta vâng, ta vâng lời mà.

Đạo cô phất sợi dây lưng một cái, nó đã quấn quanh lưng mình, phong thái thật là phiêu dật, siêu thoát. Dương Quá thầm tán thưởng:" Hay thật "song ngoài mặt hết sức thản nhiên. Đạo cô nghĩ bụng:" Cái Thằng Ngố này làm sao hiểu nổi tài nghệ của ta, nó chả khác gì một kẻ mù ", bèn nói:

– Ngươi mau về nhà lấy rìu ra đây.

Dương Quá vâng lời chạy về phía một ngôi nhà tranh trong xóm, cố ý giẫm chân bành bạch vụng về, thân hình ngả ngả nghiêng nghiêng, đạo cô trông rất chướng mắt, dặn với theo:

– Đừng nói cho ai biết đấy, đi mau rồi trở lại ngay, nghe chưa?

Dương Quá ngó vào một ngôi nhà, thấy bên trong không có ai, chắc người ta đi làm ngoài đồng cả rồi. Chàng lấy một cái rìu chẻ củi treo trên vách, thuận tay vớ luôn cái áo cũ vắt trên thành ghế, trở lại chỗ cũ với vẻ ngớ ngớ ngẩn ngẩn.

Chàng tuy đánh lừa đạo cô, trong bụng vẫn nghĩ đến sự an nguy của Tiểu Long Nữ, sắc mặt không giấu được vẻ lo lắng. Đạo cô bực bội, nói:

– Tại sao ngươi cứ xị mặt ra thế? Mau cười lên ta coi!

Dương Quá nhe răng, cười hi hi vài tiếng. Đạo cô hơi cau mày, nói:

– Ngươi hãy đi theo ta lên núi!

Dương Quá vội nói:

– Không, không, mẹ ta dặn ta không được đi lung tung.

Đạo cô quát:

– Ngươi không vâng lời, ta chém chết ngươi bây giờ!

Nói đoạn tay trái véo tai nó, tay phải vung kiếm làm bộ sắp chém xuống. Dương Quá rống lên như heo bị chọc tiết:

– Ta đi, ta đi mà!

Đạo cô nghĩ thầm:" Thằng Ngố ngu như bò này chính là kẻ ta cần dùng ". Thế là nàng liền đi lên núi.

Khinh công của nàng không kém, dĩ nhiên nàng đi cực nhanh. Dương Quá thì bước thấp bước cao, lẽo đẽo theo mãi phía sau, đi một hồi lại ngồi bệt xuống, lau mồ hôi, thở hổn hển. Đạo cô luôn miệng giục chàng nhanh chân. Dương Quá nói:

– Đạo cô đi nhanh như thỏ ấy, ta làm sao theo kịp?

Đạo cô thấy mặt trời đã ngả chiều, nóng ruột, quay lại nắm cánh tay chàng mà chạy nhanh lên núi. Dương Quá giả bộ theo không kịp, chân nọ vấp chân kia, đột nhiên đá mạnh vào bắp chân đạo cô một cái.

Đạo cô kêu" ối chao! "Quát:

– Ngươi muốn chết hả?

Nhưng thấy chàng thở hồng hộc, đoán là chàng mệt lử thật, bèn đặt tay trái vào lưng chàng mà dìu, thi triển khinh công, đi nhanh lên núi; thấm thoắt đã đi được mấy dặm.

Dương Quá được nàng dìu đi, sau lưng cảm thấy làn da ấm mềm của cơ thể nàng, mũi ngửi thấy mùi hương nữ nhi, chàng không tốn chút hơi sức nào mà được nàng dìu lên núi. Đạo cô chạy một hồi, ngó thấy mặt chàng tươi cười, có vẻ khoái trá lắm, thì tức giận, đẩy chàng ngã phịch xuống đất, quát:

– Ngươi khoái chí lắm hả?

Dương Quá nói:

– Úi chao, đau quá, tiên cô làm cho ta đau mông quá chừng!

Đạo cô vừa bực vừa tức cười, nói:

– Ngươi ngốc nghếch từ khi nào vậy?

Dương Quá nói:

– Từ khi mới sinh ra đấy. Tiên cô này, mẹ ta bảo ta họ Trương, chứ không phải họ Thằng đâu. Còn Tiên cô họ Tiên chứ gì?

Đạo cô nói:

– Ngươi cứ việc gọi ta là Tiên cô, cần gì phải biết họ của ta.

Đạo cô chính là Hồng Lăng Ba, đại đệ tử của Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, là tiểu đạo cô từng bị Võ tam nương đánh đuổi trước khi Lý Mạc Sầu tới giết cả nhà Lục Lập Đỉnh.

Dương Quá muốn biết họ tên nàng ta, ai dè nàng ta không chịu tiết lộ.

Đạo cô ngồi xuống một tảng đá, vuốt vuốt mái tóc huyền bị gió thổi rối. Dương Quá liếc nhìn nàng ta, nghĩ thầm:" Đạo cô kể cũng xinh xắn, nhưng chưa bằng Quách bá mẫu, càng thua xa cô cô của ta. "Hồng Lăng Ba nhìn Dương Quá, cười nói:

– Thằng Ngố, ngươi ngắm ta để làm gì hả?

Dương Quá nói:

– Ngắm thì ngắm, sao lại hỏi để làm gì? Đạo cô không cho ta ngắm thì thôi, tưởng lạ lắm sao?

Hồng Lăng Ba cười:

– Ừ thì ngươi cứ ngắm đi! Thế nào, ngươi thấy ta có đẹp hay không?

Nàng lấy trong túi ra một chiếc lược bằng ngà voi, chải đầu.

Dương Quá nói:

– Đẹp thì có đẹp, nhưng chưa.. chưa được.

Hồng Lăng Ba hỏi:

– Chưa được làm sao?

Dương Quá nói:

– Chưa được.. trắng lắm.

Hồng Lăng Ba vốn tự phụ có nước da trắng hồng, nghe chàng nói thế thì không khỏi nổi giận, đứng dậy, nói:

– Thằng Ngố, ngươi muốn chết, ngươi bảo ta chưa đủ trắng trẻo hay sao?

Dương Quá lắc đầu, nói:

Hồng Lăng Ba quát:

– Ai có thể trắng trẻo hơn ta?

Dương Quá nói:

– Tối hôm qua nằm bên ta có cái trắng trẻo hơn.

Hồng Lăng Ba hỏi:

– Là ai? Tẩu tẩu của ngươi hay là mẫu thân ngươi?

Nàng ta định bụng sẽ giết chết nữ nhân nào trắng trẻo hơn mình.

Dương Quá nói:

– Đều không phải, là con cừu trắng của nhà ta.

Hồng Lăng Ba chuyển nộ thành tiếu, nói:

– Đúng là Thằng Ngố, sao lại so sánh người với súc sinh? Thôi đi nào!

Lại nắm cánh tay Dương Quá đi nhanh lên núi.

Khi tới con đường lớn dẫn tới cung Trùng Dương, Hồng Lăng Ba rẽ sang hướng Tây, đi về phía" Hoạt tử nhân mộ ". Dương Quá nghĩ thầm:" Quả nhiên nàng ta tìm cô cô của mình ". Đi một hồi, Hồng Lăng Ba lấy tấm địa đồ trong túi ra, tìm kiếm đường đi. Dương Quá nói:

– Tiên cô, đằng trước không đi được đâu. Trong rừng có ma đó.

Hồng Lăng Ba nói:

– Sao ngươi biết?

Dương Quá nói:

– Trong rừng có ngôi mộ lớn, trong mộ có ác quỉ, không ai dám tới gần.

Hồng Lăng Ba mừng thầm:" Hoạt tử nhân mộ quả nhiên ở đấy rồi ". Nguyên Hồng Lăng Ba mấy năm qua được sư phụ truyền thụ, võ công tiến nhanh, ở Sơn Tây đã giúp sư phụ đánh bại quần hào võ lâm, càng được Lý Mạc Sầu yêu mến. Khi nghe sư phụ đàm luận chuyện giao đấu với chư tử phái Toàn Chân, có nói nếu luyện thành" Ngọc nữ tâm kinh "thì sẽ chẳng sợ gì mấy lão đạo sĩ thối tha; tiếc rằng quyển sách ghi chép môn võ công ấy cất trong ngôi cổ mộ trên núi Chung Nam. Hồng Lăng Ba hỏi sư phụ tại sao không đến ngôi mộ nọ mà luyện" Ngọc nữ tâm kinh ", thì Lý Mạc Sầu ậm ừ, nói rằng đã giao ngôi mộ cho tiểu sư muội, sư tỷ sư muội bất hòa nặng nề, lâu nay không hề lai vãng. Lý Mạc Sầu cực kỳ hiếu thắng, việc mấy phen nàng ta xông vào" Hoạt tử nhân mộ "lùng sục, bị đánh đuổi ra, nàng ta không hề kể cho đệ tử biết, lại bảo Tiểu Long Nữ tiểu sư muội còn nhỏ tuổi, võ công bình thường; nàng là sư tỷ không tiện cậy lớn bắt nạt nhỏ. Hồng Lăng Ba ra sức khuyên sư phụ đi lấy tâm kinh. Thực tình thì Lý Mạc Sầu cũng không lúc nào quên, nhưng đối với các cơ quan trong ngôi cổ mộ, nàng ta trước sau vẫn không hiểu nổi, nên chưa dám hành động, nghe đệ tử giục thì chỉ mỉm cười không đáp.

Hồng Lăng Ba nhắc mấy lần, thấy sư phụ chẳng bảo không, cũng chẳng nói là có, bèn tự lưu tâm hỏi sư phụ tỉ mỉ về đường đi lối lại trên núi Chung Nam, lén vẽ một tấm địa đồ, không biết rằng Lý Mạc Sầu thực ra chưa hề kể hết cho đệ tử. Lần này sư phụ phái Hồng Lăng Ba đi Tràng An giết một cừu gia, làm xong việc, Hồng Lăng Ba bèn đến núi Chung Nam, vô tình gặp Dương Quá, bèn sai Dương Quá mang theo rìu để chặt gai góc, mở rộng lối vào ngôi cổ mộ.

Dương Quá nghĩ bụng mở đường mà đi kiểu này thì có cả năm cũng không đến được ngôi mộ, nhưng cứ giả vờ ngớ ngẩn làm theo lệnh nàng ta. Mở đường đến nửa canh giờ, trời sắp tối, chưa đi được một dặm, còn xa mới đến chỗ nhà mồ. Nghĩ tới Tiểu Long Nữ, lòng chàng nóng như lửa đốt, nghĩ thầm chi bằng dẫn đạo cô đến luôn đó, xem nàng ta có gì cổ quái; bèn vung rìu chém bừa mấy nhát, nhắm một hòn đá mà bổ thẳng xuống, lửa văng tung tóe, lưỡi rìu lập tức mẻ quằn đi. Chàng kêu to:

– Úi chao, úi chao, chỗ này có hòn đá, rìu bị mẻ rồi, về nhà cha ta sẽ đánh ta mất. Tiên cô, ta.. ta phải quay về thôi.

Hồng Lăng Ba vốn đang hết sức nóng ruột, thấy theo cách này thì tối nay không thể nào tới ngôi mộ nổi, chỉ mắng:

– Thằng Ngố, không về được!

Dương Quá nói:

– Tiên cô có sợ ma hay không?

Hồng Lăng Ba nói:

– Ma quỉ sợ ta thì có, gặp ác quỉ ta chém một nhát thì nó đứt làm hai mảnh ngay.

Dương Quá hỏi:

– Tiên cô không lừa ta chứ?

Hồng Lăng Ba đáp:

– Ta lừa ngươi để làm gì kia chứ?

Dương Quá mừng rỡ, nói:

– Ác quỉ đã sợ Tiên cô, thì để ta dẫn Tiên cô đến chỗ ngôi mộ lớn, ác quỉ hiện ra, Tiên cô phải ôm chặt nó đấy nhé!

Hồng Lăng Ba cả mừng, nói:

– Ngươi biết đường đến chỗ ngôi mộ lớn ư? Mau dẫn ta đi!

Dương Quá sợ nàng ta nghi ngờ, cứ đòi nàng ta phải hứa nhất định sẽ giết ác quỉ, Hồng Lăng Ba luôn miệng an ủi, bảo chàng cứ yên tâm, dẫu có mười con ác quỉ hiện ra, nàng cũng chém chết cả mười.

Dương Quá nói:

– Mấy năm trước, ta có tới chăn cừu gần chỗ ngôi mộ lớn. Một hôm ta đang ngủ chợt tỉnh dậy, lúc ấy đã nửa đêm, ta thấy từ trong nhà mồ bước ra một con ma mặc áo trắng, ta sợ quá cắm đầu chạy, bị vấp ngã một cái, đầu còn vết sẹo đây này.

Nói đoạn chúi đầu lại gần để Hồng Lăng Ba sờ. Dọc đường chàng được nàng ta dìu đi, lúc ấy cảm thấy người nàng tỏa ra mùi thơm mát như hoa lan, người chàng lâng lâng dễ chịu; bây giờ thừa dịp nói bịa ra thế để cúi đầu sát người nàng. Hồng Lăng Ba cười, nói:

– Thằng Ngố!

Nàng đưa tay sờ sờ, đâu có thấy vết sẹo nào, song cũng chẳng để bụng, chỉ giục:

– Mau dẫn ta đi nào!

Dương Quá cầm tay nàng dẫn sang con đường bí mật đi tới ngôi mộ cổ. Lúc này đã gần nửa đêm, trăng sao đều mờ tối, Dương Quá kéo tay Hồng Lăng Ba, cảm thấy ấm và mềm, lấy làm lạ, nghĩ thầm:" Cô cô và nàng ta đều là nữ, tại sao tay cô cô giá lạnh như băng, còn nàng lại mềm ấm? "Chàng bất giác bóp bóp, cọ cọ mấy cái. Nếu trong võ lâm có kể nào dám vô lễ với Hồng Lăng Ba, hẳn nàng đã rút kiếm lấy mạng y; nhưng nàng nghĩ đây chỉ là một thằng ngớ ngẩn, nàng lại đang cần đến nó, hơn nữa nàng thấy nó cũng tuấn mỹ, trong bụng cũng thinh thích, nên không giận, nghĩ thầm:" Thằng Ngố này kể ra cũng chưa đến nỗi quá ngu, nó còn biết là ta xinh đẹp ".

Đi một hồi nữa thì Dương Quá đã đưa Hồng Lăng Ba tới trước nhà mồ. Lúc rời khỏi đây, vì hoảng loạn, chàng đã quên đóng cửa mộ. Chàng thấy phiến đá lớn làm cửa mộ vẫn để lệch sang một bên, thì trống ngực đập dồn, nghĩ thầm:" Mong sao cô cô không chết, để ta còn được gặp cô cô một lần nữa ". Lúc này chàng cũng chẳng còn bụng dạ nào nghịch ngợm với Hồng Lăng Ba nữa, chỉ nói:

– Tiên cô, ta đưa Tiên cô vào, nếu ác quỉ ăn thịt ta, ta hóa thành ma, thì sẽ vĩnh viễn bám riết lấy Tiên cô đấy.

Hồng Lăng Ba nghĩ thầm:" Lạ nhỉ, sao tự dưng Thằng Ngố lại bạo dạn hẳn lên như thế? "Nàng cũng không còn thời gian suy nghĩ, trong bóng tối vội bám sát theo, nàng từng nghe sư phụ nói rằng trong ngôi mộ đường đi lối lại quanh co rắc rối, chỉ cần nhầm một bước, sẽ rơi ngay vào mê lộ; nàng thấy Dương Quá không chút do dự, cứ đi xăm xăm, rẽ chỗ này, quẹo chỗ kia, đẩy cửa đá chỗ này chỗ kia, tựa hồ thông thuộc lạ thường. Hồng Lăng Ba bắt đầu sinh nghi:" Lối đi trong ngôi mộ đâu có gì rắc rối, Không lẽ sư phụ đánh lừa ta, sợ ta tìm vào một mình chăng? "Chẳng mấy chốc Dương Quá đã dẫn Hồng Lăng Ba tới phòng ngủ của Tiểu Long Nữ ở giữa ngôi nhà mồ. Chàng đẩy nhẹ cánh cửa, dỏng tai nghe, không thấy động tĩnh gì, đang định gọi" cô cô! "Chợt nhớ Hồng Lăng Ba đang ở bên cạnh, bèn nói:

– Đến nơi rồi!

Hồng Lăng Ba lúc này vào sâu trong nhà mồ, tuy võ nghệ cao, gan lớn, cũng hồi hộp lo lắng, nghe Dương Quá nói thế, vội lấy bùi nhùi ra đánh lửa, thắp vào cây nến để trên bàn, chỉ thấy một bạch y thiếu nữ nằm trên giường. Nàng sớm liệu, rằng trong ngôi mộ sẽ gặp sư thúc Tiểu Long Nữ, không ngờ lúc này sư thúc nằm trên giường kia, không rõ đang ngủ say hay không thèm để ý tới nàng, bèn nói:

– Đệ tử Hồng Lăng Ba, bái kiến sư thúc!

Dương Quá há hốc mồm, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, toàn thần chăm chú theo dõi sự động tĩnh của Tiểu Long Nữ, thấy nàng không hề cử động, hồi lâu mới" ừ "khẽ một tiếng. Từ lúc Hồng Lăng Ba lên tiếng, đến lúc Tiểu Long Nữ trả lời, Dương Quá nôn nóng dị thường, hận không thể bước tới ôm sư phụ mà khóc òa lên. Nghe sư phụ trả lời, lòng chàng như trút được gánh nặng, chàng mừng quá, không kìm nổi nữa, khóc nấc lên. Hồng Lăng Ba hỏi:

– Thằng Ngố, ngươi làm sao vậy?

Dương Quá nghẹn ngào, nói:

– Ta.. ta sợ quá.

Tiểu Long Nữ từ từ xoay mình lại, nói nhỏ:

– Ngươi đừng sợ, ta vừa chết một lần rồi, thấy không có gì khó chịu cả.

Hồng Lăng Ba nhìn dung nhan tú lệ tuyệt tục của Tiểu Long Nữ, thì kinh ngạc, nghĩ thầm:" Thế gian lại có một mỹ nữ tuyệt sắc thế này ư? "Không khỏi tự thẹn rằng mình xấu xí, lại nói:

– Đệ tử Hồng Lăng Ba bái kiến sư thúc.

Tiểu Long Nữ nhẹ nhàng hỏi:

– Sư tỷ của ta đâu, cũng tới đây chứ?

Hồng Lăng Ba nói:

– Sư phụ của đệ tử sai đệ tử đến trước, thỉnh vấn sức khỏe của sư thúc.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hãy ra khỏi đây, nơi này đừng nói là ngươi, ngay cả sư phụ nhà ngươi cũng không được phép bước vào.

Hồng Lăng Ba thấy Tiểu Long Nữ mặt xanh mét, ngực loang lổ vết máu, nói năng như bị hụt hơi, rõ ràng đã bị trọng thương, thì không cần đề phòng nữa, hỏi:

– Tôn bà bà đâu ạ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tôn bà bà mất lâu rồi. Ngươi mau ra khỏi đây.

Hồng Lăng Ba càng yên tâm, nghĩ thầm:" Đúng là duyên trời xảo hợp, không ngờ Hồng Lăng Ba ta lại trở thành truyền nhân của "Hoạt tử nhân mộ". Thấy Tiểu Long Nữ chẳng sống được mấy chốc nữa, chỉ lo Tiểu Long Nữ đột nhiên chết đi, không ai biết "Ngọc nữ tâm kinh" cất giấu chỗ nào, vội hỏi:

– Sư thúc, sư phụ sai đệ tử đến lấy "Ngọc nữ tâm kinh". Sư thúc giao nó cho đệ tử, đệ tử sẽ lập tức trị thương cho sư thúc.

Tiểu Long Nữ trường kỳ tu luyện, thất tình lục dục đã bị nàng áp chế, có cũng như không, có thể nói là vạn sự chẳng để trong lòng, nhưng hiện giờ bị trọng thương, mất đi sự kiềm chế, nghe Hồng Lăng Ba nói thế thì vừa lo vừa giận, lại ngất lịm đi. Hồng Lăng Ba sấn tới, day day nhân trung của nàng mấy cái, Tiểu Long Nữ mới tỉnh lại, nói:

– Sư tỷ ta đâu? Ngươi thỉnh sư tỷ lại đây, ta có điều.. muốn nói.

Hồng Lăng Ba nghĩ rằng bí kíp thượng thừa của bổn môn cuối cùng sắp lọt vào tay mình, thì sốt ruột sốt gan, cười khẩy một tiếng, rút ra hai chiếc ngân châm dài, gằn giọng, nói:

– Sư thúc, sư thúc nhận biết loại ngân châm này chứ, mau đưa "Ngọc nữ tâm kinh" cho đệ tử, nếu không đừng trách đệ tử vô lễ.

Dương Quá từng bị khổ sở vì món "Băng phách ngân châm", chỉ vô ý nắm trong tay mà bị nhiễm chất kịch độc, nữa là bị nó đâm vào người? Thấy tình thế nguy cấp, chàng kêu to:

– Tiên cô, chỗ kia có ma, ta sợ!

Nói rồi nhào tới ôm sau lưng Hồng Lăng Ba, thuận tay điểm luôn hai huyệt Kiên Trinh và Kinh Môn. Hồng Lăng Ba nằm mơ cũng không ngờ Thằng Ngố lại có võ công thượng thừa, đang định mắng nó nói năng hồ đồ, thì toàn thân đã tê dại, ngồi tê liệt dưới đất. Dương Quá lo nàng ta biết cách tự thông kinh mạch, lại ấn mạnh tay vài cái vào huyệt Cự Cốt của Hồng Lăng Ba, rồi nói:

– Cô cô, nữ nhân này quá tệ, đệ tử dùng ngân châm đâm cho cô ả vài cái nên chăng?

Nói rồi dùng vạt áo quấn hai ngón tay, nhặt ngân châm lên.

– Quá nhi, hãy đóng cửalại, đề phòng sư tỷ của ta vào đây.

Dương Quá đáp:

– Vâng!

Vừa định quay ra, bỗng nghe sau lưng vang lên giọng nói kiều mị của nữ nhân:

– Sư muội, mạnh giỏi chứ? Ta vào từ nãy rồi.

Dương Quá cả kinh xoay mình, dưới ánh nến thấy sừng sững đứng choán cửaphòng là một đạo cô xinh đẹp, mắt hạnh má đào, khóe miệng nửa cười nửa không, chính là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu.

Khi Hồng Lăng Ba dò hỏi đường tới "Hoạt tử nhân mộ" Lý Mạc Sầu đã đoán chừng thể nào đệ tử cũng sẽ tự đến lấy trộm "Ngọc nữ tâm kinh", việc sai Hồng Lăng Ba đi Tràng An giết người, thực ra là cố ý sắp đặt. Lý Mạc Sầu kín đáo theo sau, thấy rõ Hồng Lăng Ba gặp Dương Quá như thế nào, vào trong nhà mộ, đòi Tiểu Long Nữ giao tâm kinh ra sao, bị trúng kế thất thủ thế nào. Thân pháp của Lý Mạc Sầu quá mau lẹ, cước bộ quá nhẹ nhàng, nên Hồng Lăng Ba và Dương Quá không hề phát giác được. Đến lúc này, Lý Mạc Sầu mới hiện thân.

Tiểu Long Nữ gượng ngồi dậy, nói:

– Sư tỷ!

Rồi ho sặc sụa. Lý Mạc Sầu lạnh lùng chỉ Dương Quá, hỏi:

– Kẻ này là ai? Tổ sư bà bà đã di huấn, không một gã nam tử thối tha nào được đặt chân vào "Hoạt tử nhân mộ", tại sao sư muội lại cho nó ở đây?

Tiểu Long Nữ ho dồn dập, không thể trả lời. Dương Quá đứng che phía trước nàng, cất giọng sang sảng, nói:

– Đây là cô cô của ta, mọi việc ở đây khỏi cần đạo cô đa quản!

Lý Mạc Sầu cười nhạt, nói:

– Người đóng vai Thằng Ngố khá lắm!

Cây phất trần vung vẩy, vù vù vù xuất liền ba chiêu. Ba chiêu này tuy phát xuất trước sau, nhưng tựa hồ tới cùng một lúc, chính là chiêu số lợi hại của võ công phái Cổ Mộ; cao thủ của phái khác nếu không hiểu sự huyền ảo của nó; sẽ lập tức bị Lý Mạc Sầu đánh cho gãy rời xương cốt. Môn võ công này Dương Quá luyện tập đã quen, tuy công lực không thâm hậu bằng Lý Mạc Sầu, song cũng dễ dàng né tránh chiêu số "Tam yến đầu lâm" của nàng ta.

Lý Mạc Sầu thu hồi cây phất trần, thầm ngạc nhiên, thấy thân pháp né tránh của Dương Quá chính là võ học bản môn, thì gằn giọng hỏi:

– Sư muội, tên tiểu tặc này là ai?

Tiểu Long Nữ sợ lại thổ huyết, không dám cao giọng, chỉ nói nho nhỏ:

– Quá nhi, hãy bái kiến đại sư bá đi.

Dương Quá nói:

– Hừ, như thế cũng đi làm sư bá ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi ghé tai lại đây, ta có điều cần dặn.

Dương Quá nghĩ sư phụ muốn khuyên chàng khấu đầu trước Lý Mạc Sầu, trong bụng không muốn, nhưng vẫn ghé tai. Tiểu Long Nữ nói khẽ, nghe như tiếng muỗi kêu:

– Cạnh chân giường trong góc, có một phiến đá trồi lên, ngươi hãy dùng lực đẩy phiến đá sang bên trái, rồi nhảy ngay lên giường với ta.

Lý Mạc Sầu tưởng rằng Tiểu Long Nữ đang dặn đệ tử cúi đầu cầu xin mình, trước mặt nàng ta là sư muội trọng thương và một tên tiểu tử hậu bối, chẳng có gì đáng ngại; nàng ta cần nghĩ cách hay để buộc sư muội trao "Ngọc nữ tâm kinh" ra.

Dương Quá gật đầu, nói to:

– Vâng, đệ tử bái kiến đại sư bá!

Chàng đưa tay sờ sờ cạnh chân giường trong góc, quả nhiên có một phiến đá trồi lên, bèn dùng lực đẩy mạnh sang bên trái, rồi nhảy ngay lên giường. Chỉ nghe ken két vài tiếng, chiếc giường đá đột nhiên hạ xuống. Lý Mạc Sầu kinh ngạc, biết trong nhà mồ chỗ nào cũng có cơ quan, sư phụ ngày trước thiên vị, giấu nàng ta, chỉ bày vẽ cho sư muội biết cách điều khiển các cơ quan đó. Nàng ta liền giơ tay chộp lấy Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ lúc này không có sức đề kháng, chiếc giường tuy hạ xuống, nhưng Lý Mạc Sầu hành sự cực nhanh, giơ tay kéo nàng ra khỏi chiếc giường. Dương Quá cả kinh, dồn sức đánh một chưởng vào tay Lý Mạc Sầu, chỉ cảm thấy mắt tối sầm, xình xình hai tiếng, chiếc giường đá đã tụt xuống tầng dưới của thạch thất, mảng trần phía trên tự động bật lên, ngăn cách sư đồ mỗi bên hai người, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba ở tầng trên, Tiểu Long Nữ và Dương Quá ở tầng dưới.

Dương Quá lờ mờ nhìn thấy hình như có bàn ghế, bèn lại bàn đốt bùi nhùi, thắp ngọn nến cháy dở ở trên bàn. Tiểu Long Nữ nói:

– Ta không đủ máu, khó vận công trị thương. Song dẫu ta không bị thương, thì ta và ngươi cũng không đấu nổi sư tỷ ta..

Dương Quá nghe ba chữ "không đủ máu", không đợi nàng nói xong, liền đưa tay trái lên, nhắm chỗ đường gân máu, cắn mạnh một cái, tức thì máu tươi chảy ra. Chàng kề vết thương vừa cắn vào bên miệng Tiểu Long Nữ, để máu tươi chảy ròng ròng vào trong miệng nàng.

Tiểu Long Nữ toàn thân vốn lạnh ngắt, giờ máu nóng chảy vào bụng, thân thể ấm dần, nhưng nàng biết cách này không ổn, định phản đối thì Dương Quá đã liệu trước, giơ tay điểm huyệt ở thắt lưng khiến nàng không cử động được. Một lúc sau, thấy máu tươi ngừng chảy, Dương Quá lại cắn cho nó chảy tiếp; sau đó cắn gân máu bên tay phải. Sau vài lần rót máu tươi như thế, chàng cảm thấy đầu váng mắt hoa, toàn thân vô lực mới ngồi xuống, giải huyệt cho nàng. Tiểu Long Nữ chằm chằm nhìn chàng hồi lâu, không nói gì, chỉ thở dài, tự hành luyện công. Dương Quá thấy cây nến sắp cháy hết, thì châm cây nến mới.

Hai người cùng ngồi luyện công. Dương Quá là để bổ dưỡng khỏi mệt mỏi sau khi mất máu. Tiểu Long Nữ sau khi được uống máu tươi của Dương Quá, thì tinh thần tươi tỉnh hẳn, hai canh giờ sau tự biết tính mạng không còn nguy hiểm, nàng mở mắt ra, mỉm cười với chàng. Dương Quá thấy hai má nàng trước trắng nhợt, lúc này đã phơn phớt hồng, thì cả mừng, nói:

– Cô cô, cô cô khỏe lại rồi.

Tiểu Long Nữ gật gật đầu. Dương Quá mừng không để đâu cho hết.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng ta tới buồng của Tôn bà bà, ta có điều muốn nói với ngươi.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô không mệt chứ?

Tiểu Long Nữ đáp:

– Không sao.

Nàng giơ tay đẩy vào một cơ quan mấy cái, khối đá chuyển dịch, để lộ ra một lối đi. Lối đi dẫn tới đâu, Dương Quá hoàn toàn không biết. Tiểu Long Nữ dẫn chàng đi trong bóng tối, vòng quá vòng lại một lát thì tới buồng của Tôn bà bà.

Nàng thắp nến, lấy quần áo của Dương Quá gói thành một bọc, đặt vào đó đôi vòng tay bằng vàng của mình. Dương Quá đứng ngây nhìn nàng, lấy làm lạ, hỏi:

– Cô cô làm gì vậy?

Tiểu Long Nữ không trả lời, lại đặt hai lọ mật ong vào trong bọc. Dương Quá mừng, nói:

– Cô cô, chúng ta ra khỏi nhà mồ phải không? Thế thì hay quá!

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hãy đi cho may mắn, ta biết ngươi là một người tốt, ngươi đối xử rất tốt với ta.

Dương Quá cả kinh, nói:

– Cô cô, sao lại?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đã thề với sư phụ, suốt đời không rời khỏi nơi này. Trừ phi.. trừ phi.. hừ, ta không đi đâu.

Nói rồi buồn bã lắc đầu.

Dương Quá thấy nàng sắc mặt trang nghiêm, giọng nói kiên định, rõ ràng quyết ý không cho chàng phản bác, thì không dám nói nữa, nhưng việc này quá hệ trọng, nên cuối cùng chàng đánh bạo nói:

– Cô cô, cô cô không đi, thì đệ tử cũng không đi. Đệ tử ở đây với cô cô.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lúc này sư tỷ của ta hẳn đang chặn ở lối ra khỏi mộ, muốn buộc ta giao "Ngọc nữ tâm kinh". Võ công của ta, thua xa sư tỷ, ta lại đang bị nội thương, dĩ nhiên đấu không nổi, phải vậy không?

Dương Quá đáp:

– Vâng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lương thực chúng ta để dành, ta nghĩ may lắm đủ cho hai mươi ngày, ăn thêm mật ong, lâu nhất cũng cố duy trì được một tháng. Sau một tháng sẽ ra sao?

Dương Quá nói:

– Chúng ta cứ xông ra, dẫu không đánh bại sư bá, cũng có thể trốn thoát.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Nếu ngươi biết võ công và tính khí của sư bá, thì sẽ hiểu là chúng ta không thể nào trốn thoát nổi. Bấy giờ sẽ không chỉ bị nhục nhã, mà sẽ khổ sở vô cùng trước khi chết.

Dương Quá nói:

– Đã thế thì một mình đệ tử càng khó lòng trốn thoát.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Không, ta sẽ khích sư tỷ đấu với ta, dụ sư tỷ đi sâu vào trong mộ, ngươi sẽ thừa cơ trốn thoát. Sau khi thoát ra, ngươi hãy đẩy tảng đá bên trái lấp cửa mộ, gạt cái chốt ở mặt trong, để hai khối đá vạn cân sập xuống, vĩnh viễn lấp kín cửa mộ.

Dương Quá càng nghe càng kinh hãi, nói:

– Cô cô, cô cô sẽ biết cách mở chốt để thoát ra chứ?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hồi Vương Trùng Dương khởi sự chống quân Kim, mưu đại sự, đã dùng tòa thạch mộ này làm kho cất giấu tiền lương binh khí. Bên trong có nhiều cơ quan, bố trí chặt chẽ, phía trên cửa mộ lại bố trí hai khối đá nặng vạn cân, gọi là "Đoạn long thạch", vạn nhất khởi nghĩa chưa nổ ra, mà quân Kim đã dò la, kéo tới đánh trước, quả bất địch chúng, thì Vương Trùng Dương sẽ cho hai khối đá ấy sập xuống, bít kín cửa mộ mà chết; những tên địch lọt vào trong mộ cũng chẳng thể sống sót mà trở về. Bởi "Đoạn long thạch" đã sập xuống, thì không tài gì mở ra được nữa. Ngươi biết đó, lối vào trong mộ rất hẹp, chỉ để cho một người đi, dẫu cả ngàn tên địch lọt vào trong mộ, cũng chỉ có thể sắp thành một hàng thật dài, một người đứng bên cửa mộ bị bít kín, dù khỏe đến mấy, cũng không tài gì lay chuyển nổi khối đá vạn cân. Lão đạo sĩ sắp đặt như vậy, là có ý thà chết cũng buộc quân địch phải chết theo. Sau khi cuộc kháng Kim thất bại, Vương Trùng Dương lui về sống một mình trong mộ, chúa nước Kim biết được chỗ ở của lão đạo sĩ, từng lần lượt phái mấy chục cao thủ đi giết lão đạo sĩ, song đều bị lão đạo sĩ hoặc bắt sống, hoặc giết chết, không một ai chạy thoát. Sau chúa nước Kim đột tử, hoàng đế kế vị không biết nguyên ủy, bèn bỏ qua cho Vương Trùng Dương, do vậy hai "Đoạn long thạch" không hề được sử dụng. Khi lão đạo sĩ rời khỏi ngôi mộ này, lão đạo sĩ đã nói cho tổ sư bà bà biết hết các cơ quan bố trí trong mộ.

Dương Quá càng nghe càng kinh ngạc, ứa nước mắt, nói:

– Cô cô, Dương Quá sống chết gì cũng sẽ ở bên cạnh cô cô.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi ở bên ta có gì hay đâu kia chứ? Ngươi từng bảo ở thế giới bên ngoài có đủ thứ thích thú, ngươi hãy rời nơi đây, ra sống ngoài đó cho sướng. Với võ công hiện thời của ngươi, bọn đạo sĩ sẽ không thể gây khó dễ gì với ngươi. Ngươi lừa được Hồng Lăng Ba, xem ra còn thông minh hơn ta nhiều, từ nay khỏi cần ta chiếu liệu cho ngươi nữa.

Dương Quá bước tới ôm lấy nàng, khóc, nói:

– Cô cô, nếu đệ tử không được ở bên cạnh cô cô, thì cả kiếp sống này sẽ chẳng còn gì là sung sướng.

Tiểu Long Nữ lâu nay tính nết vốn lạnh lẽo tuyệt tình, lời lẽ cứng rắn nghiêm nghị, không cho phép kẻ khác cãi lại; chẳng rõ vì sao nghe câu vừa rồi của Dương Quá, bất giác nhiệt huyết dâng lên, mắt cay cay, như sắp ứa lệ. Nàng kinh hãi, nhớ lại lúc sư phụ lâm chung cứ dặn đi dặn lại: "Công phu luyện tập của con là môn võ công thượng thừa dứt bỏ thất tình, lục dục. Mai sau nếu con lại ứa nước mắt vì người khác, xúc động chân tình, thì chẳng những tổn hại lớn cho võ công, mà còn nguy đến tính mạng, con phải nhớ kỹ đó." Bèn đẩy Dương Quá ra, lạnh lùng nói:

– Ta bảo gì, ngươi phải theo đó mà làm.

Dương Quá thấy nàng đột nhiên nghiêm nghị, thì không dám nói thêm. Tiểu Long Nữ khoác cái bọc lên vai chàng, gỡ thanh trường kiếm treo trên tường, đặt vừa tay chàng, giọng đanh lại:

– Chờ lúc ta bảo ngươi đi, thì ngươi lập tức đi ngay, ra khỏi cửa mộ rồi, hãy cho hai khối đá lớn sập xuống. Sư bá của ngươi cực kỳ lợi hại, thời cơ chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, ngươi có vâng lời ta hay không?

Dương Quá nghẹn ngào nói:

– Đệ tử xin vâng lời.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ngươi không vâng lời ta, ta chết xuống âm phủ sẽ vĩnh viễn hận ngươi. Thôi đi nào!

Nói đoạn dắt Dương Quá đi ra cửa.

Dương Quá trước đây chạm tay nàng, đều thấy lạnh như băng; bây giờ bị nàng cầm tay kéo đi, lại cảm thấy bàn tay nàng lúc nóng lúc lạnh, khác hẳn mọi khi; nhưng cũng không còn bụng dạ nào nghĩ xem vì sao, vội đi theo nàng. Đi một hồi, Tiểu Long Nữ sờ sờ lên tường đá, nói nhỏ:

– Họ ở bên trong, ta sẽ dụ sư tỷ ra, ngươi hãy chạy ra lối cửa ở góc tây bắc. Nếu Hồng Lăng Ba đuổi theo ngươi, ngươi hãy dùng "Ngọc phong châm" đả thương nó.

Dương Quá tâm loạn như tơ vò, gật đầu đáp ứng.

"Ngọc phong châm" là ám khí độc môn của phái Cổ Mộ, ngày trước Lâm Triệu Anh có sáng chế ra hai thứ ám khí cực kỳ lợi hại, là "Băng phách ngân châm" và "Ngọc phong châm". "Ngọc phong châm" là loại kim châm mỏng manh như sợi tóc, chế bằng sáu phần vàng, bốn phần thép, tẩm qua chất độc của loài ong bò vẽ, tuy mỏng manh, nhưng chất vàng rất nặng, nên khi phóng có thể bay xa. Có điều là thứ ám khí này cực độc, Lâm Triệu Anh chưa từng sử dụng; từ trung niên trở đi, võ công đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa, càng không cần dùng đến nó. Sư phụ của Tiểu Long Nữ nhân vì Lý Mạc Sầu không chịu thề chung thân sống trong cổ mộ để tiếp nhận y bát, sau khi truyền cho nàng ta "Băng phách ngân châm", không truyền cho "Ngọc phong châm" nữa.

Tiểu Long Nữ ngưng thần giây lát, ấn vào cơ quan trên vách, có tiếng ken két, tường đá từ từ xê dịch sang bên trái. Hai dải dây lưng của nàng lập tức vung ra, một tấn công Lý Mạc Sầu ở bên tả, một tấn công Hồng Lăng Ba ở bên hữu, thân hình sấn tới nhanh nhẹn vô cùng. Lúc này Lý Mạc Sầu đã giải huyệt cho Hồng Lăng Ba từ lâu, mắng đệ tử mấy câu, đang tính toán phương vị trong mộ, tìm lối ra khỏi thạch thất, thì đột nhiên bị Tiểu Long Nữ tấn công, cả hai sư đồ cùng giật mình. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần đánh bật dải thắt lưng của Tiểu Long Nữ. Cây phất trần và dải thắt lưng đều là vật cực mềm, lấy nhu địch phu, nhưng Lý Mạc Sầu công lực hơn hẳn, nên hai binh khí chạm nhau, dải thắt lưng của Tiểu Long Nữ liền bị bật lại.

Tiểu Long Nữ cuốn dải thắt lưng bên trái về, dải thắt lưng bên phải đánh tiếp, trong giây lát đã công liền mấy chiêu, hai dải thắt lưng yêu kiều sinh động. Lý Mạc Sầu vừa ngạc nhiên vừa tức giận: "Sư phụ quả nhiên thiên vị, chưa hề truyền thụ cho ta môn này". Lý Mạc Sầu thấy chẳng cần hạ sát thủ, một là chưa lấy được "Ngọc nữ tâm kinh", nếu giết Tiểu Long Nữ, thì khó lòng tìm được cái gì trong tòa nhà mồ này; hai là cũng muốn biết rốt cuộc thì sư phụ dạy cho sư muội những môn võ công lợi hại nào.

Hồng Lăng Ba lâu nay tự phụ khôn ngoan giỏi giang, không ngờ hôm nay bị mắc lừa một gã thiếu niên, suốt nửa ngày trời cứ tưởng gã là một kẻ ngớ ngẩn, lúc này cả giận, thấy sư phụ giao đấu với sư thúc, bèn quát:

– Thằng Ngố, mi quả là một tên tiểu tặc đáng ghét!

Hai tay hai kiếm, tiến lên nửa bước, nói:

– Ngươi hãy nhìn đây, xem ta cắt mũi xẻo tai ngươi.

Rồi song kiếm tiên tiếp đâm chém, tấn công liền mấy chiêu. Dương Quá thấy đối phương lợi hại, đành rút kiếm chống đỡ. Nếu là lúc khác, hẳn chàng đã nói vài lời châm chọc, đùa bỡn với nàng ta; nhưng lúc này nghĩ đến cảnh sắp phải biệt ly với Tiểu Long Nữ, mắt rưng rưng lệ, nhìn mọi vật mờ mờ, chỉ thuận tay chống đỡ chứ không có ý trả đòn. Hồng Lăng Ba thấy chàng xuất thủ vô lực, ngỡ chàng bản lĩnh tầm thường, càng tự trách mình lúc trước quá sơ ý để chàng điểm trúng huyệt đạo.

Lý Mạc Sầu đấu với sư muội hơn mười chiêu, cây phất trần lật một cái, cuốn lấy dải thắt lưng bên trái của Tiểu Long Nữ, cười, nói:

– Sư muội, hãy xem bản lĩnh của sư tỷ ngươi.

Rồi vận sức ra tay, dải thắt lưng lập tức bị đứt thành hai đoạn. Giao đấu bằng đao kiếm thông thường, dùng binh khí của mình đánh gãy binh khí của đối phương đã khó; cây phất trần và dải thắt lưng đều là vật cực mềm, vậy mà Lý Mạc Sầu có thể dùng cương kình làm đứt dải thắt lưng, thật còn khó gấp mười lần. Làm được việc đó, nàng ta lộ vẻ đắc chí.

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Bản lĩnh của sư tỷ thế nào đây?

Nửa dải thắt lưng đứt tung ra, quấn lấy phần sợi của cây phất trần, còn dải thắt lưng bên phải thì bay tới cuốn lấy cán gỗ cây phất trần, một bên kéo sang trái, một bên kéo sang phải, "rắc" một tiếng, cây phất trần gãy rời làm đôi. Việc này luận về công lực, so với việc Lý Mạc Sầu làm đứt dải thắt lưng, thì thua xa, song Tiểu Long Nữ xuất thủ cực lẹ, vận kình xảo diệu, làm cho Lý Mạc Sầu không kịp trở tay.

Nàng ta vứt cây phất trần, tay không sấn tới đoạt dải thắt lưng, dồn Tiểu Long Nữ liên tiếp thoái lui.

Lại đấu hơn mười chiêu nữa, Tiểu Long Nữ đã lùi tới trước bức tường bên đông, đằng sau đã hết chỗ lùi, nàng bỗng đẩy tay vào tường một cái, nói:

– Quá nhi, đi mau!

Có tiếng ken két, góc đông bắc chợt hé ra một cái khe. Lý Mạc Sầu kinh ngạc, vội xoay mình định cản Dương Quá. Tiểu Long Nữ quẳng dải thắt lưng, sấn tới, song chưởng cùng hạ sát thủ. Lý Mạc Sầu đành quay lại chống đỡ. Tiểu Long Nữ quát:

– Quá nhi, còn chưa đi mau!

Dương Quá nhìn Tiểu Long Nữ, biết không còn cách nào nữa, nói:

– Cô cô, đệ tử đi đây!

Vút vút vút chàng đột tiến ba kiếm vào trước mặt Hồng Lăng Ba; nàng ta cứ ngỡ kiếm chiêu của chàng tầm thường, nào ngờ đột nhiên kiếm thế quá lợi hại, trong lúc nguy cấp đành nhảy lùi lại. Dương Quá cúi mình lao qua khe cửa mở, ngoảnh đầu nhìn Tiểu Long Nữ lần cuối.

Tiểu Long Nữ đang tay không đối chưởng với sư tỷ, tuy trong tình trạng bị thương nặng, nhưng do luyện tập "Ngọc nữ tâm kinh", sau mấy chục chiêu vẫn có thể không bị núng thế; nhưng nhìn bóng Dương Quá vút qua khe cửa, nghĩ từ nay vĩnh viễn không còn gặp lại, bỗng ngực nóng ran, mắt cay cay, tựa hồ sắp ứa nước mắt. Bao năm nay nàng chẳng hề xúc động chân tình, hôm nay hai lần chực khóc, không khỏi cả kinh. Cao thủ đối chưởng, đâu được phép thiếu tập trung chú ý? Lý Mạc Sầu thấy sư muội hơi ngẩn ra, lập tức lợi dụng sơ hở, chộp ngay lấy huyệt Hội Tông ở cổ tay trái, đưa chân gạt một cái. Tiểu Long Nữ đứng không vững, ngã phệt xuống.

Dương Quá ngoảnh đầu lại, đúng lúc thấy Tiểu Long Nữ bị sư tỷ gạt ngã, Lý Mạc Sầu nhào tới sắp sát hại sư phụ, thì máu nóng bốc lên, chàng thét:

– Không được hại cô cô của ta.

Đoạn nhảy vọt trở vào, ôm chặt lấy ngang eo lưng Lý Mạc Sầu. Cái ôm này không trong chiêu số bất cứ môn phái nào cả; là hành động tự nhiên giữa lúc nguy cấp mà thôi. Lý Mạc Sầu chỉ định bắt sống sư muội, không ngờ Dương Quá nhảy trở vào, bị chàng ôm chặt lấy, nhất thời chưa gỡ ra được.

Lý Mạc Sầu tuy ra tay tàn bạo, hành động ngang ngược, bất chấp tập tục; song nàng ta giữ thân như ngọc, phiêu bạt giang hồ ngần ấy năm mà vẫn còn là xử nữ; tự dưng bị Dương Quá ôm chặt, cảm thấy một luồng hơi ấm của nam tử từ sau lưng truyền lan khắp cơ thể, người bửng lửng, bất giác toàn thân mềm nhũn, hai má nóng bừng, cánh tay vô lực. Tiểu Long Nữ thừa cơ điểm yếu huyệt ở cổ tay sư tỷ, nhưng mũi kiếm của Hồng Lăng Ba cũng đã đâm tới lưng Dương Quá.

Tiểu Long Nữ nằm ngửa dưới đất, thấy kiếm đánh tới vội lăn sang trái, kéo Dương Quá cùng Lý Mạc Sầu sang một bên, nhát kiếm của Hồng Lăng Ba lạc không. Tiểu Long Nữ bật dậy, quát:

– Quá nhi, đi mau!

Dương Quá đang ôm chặt Lý Mạc Sầu, nói:

– Cô cô, cô cô hãy đi đi! Đệ tử ôm cứng rồi, sư bá không đi đâu được.

Lý Mạc Sầu trong giây lát vụt nghĩ bao nhiêu điều biết tình thế nguy cấp, sống chết chỉ trên đầu sợi tóc nhưng bị Dương Quá ôm chặt, hồn vía đê mê, dễ chịu khôn tả, không muốn vùng vẫy gì hết. Tiểu Long Nữ lấy làm lạ: "Sư tỷ võ công cao siêu, sao lại bị Dương Quá chế ngự không cựa quậy được thế nhỉ?" Thấy tay kiếm bên trái của Hồng Lăng Ba lại đâm về phía Dương Quá, bèn giơ hai ngón tay búng vào thân kiếm trong tay phải của nàng ta, thanh kiếm này văng vào thanh kiếm bên trái, keng một tiếng, Hồng Lăng Ba cảm thấy hai hổ khẩu tê dại, hai thanh kiếm cùng rơi xuống đất, nàng ta giật mình nhảy lùi ra sau.

Hai kiếm va nhau, bắn ra mấy tia lửa, trong cái nhoáng lên của vài tia lửa ấy, Lý Mạc Sầu nhận thấy ánh mắt kỳ dị của sư muội, thì bất giác xấu hổ, nói:

– Tên tiểu tử thối tha, muốn chết hả?

Liền vận sức vào hai cánh tay, gỡ tay thoát khỏi vòng ôm của Dương Quá, bật dậy, phát chưởng tấn công Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ đang chăm chú nhìn Dương Quá, bỗng phát hiện chưởng phong của Lý Mạc Sầu, không kịp hóa giải, đành giơ chưởng chống đỡ, chỉ cảm thấy chưởng lực của sư tỷ khá nặng, khiến nàng đau tức cả ngực, thấy Dương Quá lao tới giúp mình, bèn quát:

– Quá nhi, ngươi không chịu vâng lời ta thật sao?

Dương Quá nói:

– Cô cô bảo gì, đệ tử cũng nghe, nhưng riêng câu này thì không. Cô cô, sống chết gì đệ tử cũng ở bên cô cô.

Tiểu Long Nữ nghe chàng nói chân thành, lại xúc động chân tình, thấy Lý Mạc Sầu lại vung chưởng đánh tới, tự biết lúc này công lực đại tổn, không thể chống đỡ, vội kéo Dương Quá, cúi đầu vọt qua khe cửa.

Lý Mạc Sầu như hình với bóng, giơ tay chộp sau lưng nàng, miệng nói:

– Chớ có đi!

Tiểu Long Nữ phẩy tay ra phía sau, hơn mười chiếc "Ngọc phong châm" phóng ra. Lý Mạc Sầu ngửi thấy mùi mật thơm ngọt, biết là ám khí lợi hại, vội ngả người bật ra đằng sau, húc ngay phải Hồng Lăng Ba, khiến cả hai cùng ngã ngửa.

Chỉ nghe mấy tiếng chíu chíu, nhiều chiếc "Ngọc phong châm" cắm lên bức tường đá, tiếp đó hai tiếng kèn kẹt, Tiểu Long Nữ sau khi kéo Dương Quá thoát ra khỏi thạch thất, đã khởi động chốt đóng chặt cửa lại.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 07: Trùng Dương di ngôn

Dương Quá cùng Tiểu Long Nữ chạy theo thông đạo ra khỏi nhà mồ, vui mừng không biết để đâu cho hết, dưới ánh sao hít mấy hơi dài, nói:

– Cô cô, đệ tử đi hạ hai phiến "Đoạn long thạch" để chôn vùi hai nữ nhân xấu xa kia ở trong mộ đây.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hãy khoan, chờ ta trở vào trong ấy đã.

Dương Quá kinh ngạc, vội hỏi:

– Vì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ đã dặn ta phải canh giữ tòa nhà mồ này thật tốt, không để kẻ khác chiếm giữ.

Dương Quá nói:

– Chúng ta lấp kín cửa nhà mồ, họ chết còn đâu mà chiếm giữ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Nhưng như vậy thì ta cũng không vào được nữa. Lời dặn của sư phụ, vĩnh viễn ta không dám làm trái, không thể giống như ngươi!

Nói rồi trừng mắt nhìn Dương Quá một cái. Dương Quá máu nóng trào lên ngực, giơ tay nắm lấy cánh tay nàng, nói:

– Cô cô, đệ tử vâng lời cô cô thì được mà.

Tiểu Long Nữ cố nén lòng, sợ xúc động, một câu cũng không nói nữa, gỡ tay chàng ra, bước qua cửa mộ vào trong, nói:

– Ngươi hạ phiến đá xuống đi!

Nàng quay lưng ra ngoài, chỉ sợ chính mình đổi ý, cũng không ngoảnh nhìn Dương Quá lần cuối cùng.

Dương Quá tâm ý đã quyết, hít một hơi thật sâu toàn là mùi hương hoa và cây cỏ tươi mát, ngẩng đầu nhìn trời, muôn ngàn ngôi sao nhấp nháy không thôi, nghĩ thầm: "Đây là lần cuối cùng ta được ngắm trời sao". Chàng đến mé trái tấm bia mộ, theo lời chỉ dẫn từ trước của Tiểu Long Nữ, vận sức đẩy một tảng đá lớn, quả nhiên bên dưới có một hòn đá tròn. Chàng kéo mạnh hòn đá ấy lên, thấy lộ ra một lỗ hổng, một dòng cát mịn từ trong lỗ chảy rất nhanh ra ngoài, hai khối đá lớn phía trên cửa mộ từ từ hạ xuống. Hai khối "Đoạn long thạch" này nặng cả vạn cân, hồi Vương Trùng Dương xây mộ, phải dùng sức cả trăm người mới lắp đặt chúng đúng vị trí. Bây giờ "Đoạn long thạch" đã lấp kín vĩnh viễn cửa mộ; Lý Mạc Sầu, Tiểu Long Nữ, Hồng Lăng Ba võ công cao mấy, cũng không tài gì ra khỏi nhà mồ.

Tiểu Long Nữ nghe tiếng hai khối đá nặng sập xuống, không nén được nữa, nước mắt trào ra, ngoảnh đầu nhìn lại. Dương Quá chờ lúc hai khối đá hạ xuống cách mặt đất chừng hai thước, đột nhiên sử chiêu "Ngọc nữ đầu thoa", thân hình như một mũi tên bay vèo qua khoảng trống vào trong. Tiểu Long Nữ kêu lên kinh ngạc, Dương Quá đã đứng thẳng người dậy, cười nói:

– Cô cô muốn đuổi đệ tử ra cũng không kịp nữa rồi.

Lời chưa dứt, sầm sầm hai tiếng mạnh; hai khối đá lớn đã sập tới đất.

Tiểu Long Nữ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, quá xúc động, suýt nữa ngất đi, phải tựa lưng vào tường đá thở hổn hển. Hồi lâu, nàng mới nói:

– Thôi được, hai ta cùng chết với nhau vậy.

Rồi nàng dắt tay Dương Quá đi vào nội thất.

Sư đồ Lý Mạc Sầu đang tìm kiếm cơ quan ở bốn phía, sờ chỗ này, nắn chỗ kia, không theo một trật tự nào cả, ruột nóng như lửa, bỗng thấy hai người trở lại, thì mừng hết chỗ nói. Lý Mạc Sầu vọt tới sau lưng Tiểu Long Nữ và Dương Quá để chặn đường rút của hai người. Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Sư tỷ, để muội dẫn sư tỷ tới một chỗ.

Lý Mạc Sầu không đáp, nghĩ thầm: "Trong cái nhà mồ này, chỗ nào cũng có các cơ quan, chỉ một mình sư muội biết, nếu sư muội muốn lừa ta, ta thật khó đề phòng".

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội đưa sư tỷ đi bái kiến linh cữu sư phụ, sư tỷ không muốn đi thì thôi.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội khỏi cần mượn danh sư phụ để lừa ta.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, không đáp, đi ra cửa. Lý Mạc Sầu thấy ngôn ngữ cử chỉ của Tiểu Long Nữ có một sự uy nghiêm tựa hồ buộc người ta không được phản kháng, sư đồ hai người bèn đi theo sau, có điều là từng bước sẵn sàng đề phòng bất trắc. Tiểu Long Nữ dắt tay Dương Quá đi trước, cũng chẳng sợ sư tỷ ở đằng sau ám toán, dẫn họ đi tới gian đặt các cỗ quan tài đá.

Lý Mạc Sầu chưa từng đến gian này, nghĩ đến ơn giáo dưỡng của sư phụ, thấy hơi thương cảm, nhưng lại nghĩ sư phụ thiên vị, thì từ thương chuyển thành giận, rốt cuộc không khấu đầu trước linh cữu sư phụ, nói:

– Sư đồ ta sớm đã đoạn tình tuyệt nghĩa, sư muội dẫn ta đến đây làm gì?

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Ở đây còn hai cỗ quan tài trống, một dành cho sư tỷ một dành cho muội. Sư tỷ thích cỗ nào, thì hãy chọn đi.

Nói rồi giơ tay chỉ hai cỗ quan tài.

Lý Mạc Sầu cả giận, nói:

– Sư muội dám đùa giỡn với ta hả?

Liền xuất chưởng đánh tới ngực Tiểu Long Nữ, ai dè Tiểu Long Nữ thấy đòn chẳng buồn tránh. Lý Mạc Sầu sững lại, nghĩ thầm: "Chưởng này đủ đánh chết ngươi", cạnh bàn tay còn cách ngực Tiểu Long Nữ vài tấc thì thu về, Tiểu Long Nữ tâm bình khí hòa, nói:

– Sư tỷ. "Đoạn long thạch" ở cửa mộ đã sập xuống rồi!

Sắc mặt Lý Mạc Sầu lập tức tái nhợt đi; các cơ quan trong mộ, nàng ta không biết nhiều, riêng cái cơ quan lợi hại nhất ở cửa nhà mồ là "Đoạn long thạch" dùng để lấp kín cửa thì biết rõ. Hồi trước sư phụ từng gặp đại địch, gần như khó địch nổi, chút nữa đã tính hạ "Đoạn long thạch" xuống để chặn địch ở bên ngoài; nhưng sau dùng "Băng phách ngân châm" và "Ngọc phong châm" đả thương được kẻ địch mới thôi. Nào ngờ cuối cùng sư muội lại nhốt chết nàng ta ở đây, thì kinh hoàng nói, giọng run run:

– Sư muội biết có lối khác thoát ra, phải không?

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– "Đoạn long thạch" đã sập xuống, cửa mộ làm sao còn mở ra được nữa, sư tỷ chẳng lẽ không biết hay sao?

Lý Mạc Sầu thộp ngực áo của Tiểu Long Nữ, gằn giọng nói:

– Sư muội đánh lừa ta?

Tiểu Long Nữ thản nhiên, nói:

– "Ngọc nữ tâm kinh" mà sư phụ lưu lại ở bên kia kìa, sư tỷ muốn xem thì lại đó mà xem. Muội và Quá nhi ở đây, sư tỷ muốn giết, cứ việc ra tay; nhưng sư tỷ muốn sống ra khỏi cái nhà mồ này thì muội thấy chẳng có đường nào đâu!

Bàn tay của Lý Mạc Sầu nắm ngực áo thả lỏng dần, nàng chăm chú nhìn sư muội, thấy sắc mặt của sư muội hoàn toàn hờ hững, biết là sư muội không nói dối, bèn đổi ý, nói:

– Cũng được, để ta giết chết hai sư đồ các ngươi trước vậy?

Rồi vung chưởng đánh vào mặt Tiểu Long Nữ.

Dương Quá sấn lại, chắn ngay phía trước Tiểu Long Nữ, nói:

– Sư bá hãy giết ta đã?

Lý Mạc Sầu hạ tay xuống, chưa dồn sức ra tay, hầm hầm nhìn Dương Quá, hỏi:

– Ngươi che chở cho nàng ta, tức là sẵn lòng vì nàng ta mà chết, phải vậy không?

Dương Quá đáp, giọng sang sảng:

– Đúng thế!

Lý Mạc Sầu dùng tay trái rút phắt thanh kiếm đeo ở lưng Dương Quá, chĩa vào cổ chàng, gằn giọng:

– Ta chỉ muốn giết một người. Ngươi hãy nói lại lần nữa, ngươi chịu chết hay nàng ta chết?

Dương Quá không đáp, chỉ nhìn Tiểu Long Nữ mỉm cười. Lúc này hai người đã không còn nghĩ gì đến chuyện sống chết, Lý Mạc Sầu bất kể giết ai thì cũng vậy mà thôi.

Lý Mạc Sầu thở dài, nói:

– Sư muội, lời thề của sư muội coi như không còn nữa; sư muội có thể xuống núi.

Tổ sư phái Cổ Mộ Lâm Triêu Anh năm xưa si mê Vương Trùng Dương, nhưng hai người không thành được phu thê. Lâm Triêu Anh đau khổ, định ra môn qui, phàm là người được truyền y bát, tất phải thề suốt đời sống trong nhà mồ, không được rời khỏi núi Chung Nam; song nếu có một nam tử cam tâm tình nguyện chết thay, thì lời thề coi như được xóa bỏ. Có điều là không được cho nam tử biết trước điều đó. Lâm Triêu Anh cho rằng mọi nam tử trên thế gian đều vô ân bạc tình, anh hùng hiệp nghĩa như Vương Trùng Dương còn thế, huống hồ kẻ khác? Chắc chắn không thể có một nam tử nào cam tâm tình nguyện chết thay cho người mình yêu; giả dụ có được một nam tử như thế, thì đệ tử đời sau của Lâm Triêu Anh có theo nam tử đó xuống núi cũng không uổng phí một đời.

Lý Mạc Sầu gia nhập sư môn sớm hơn Tiểu Long Nữ, lẽ ra được truyền y bát, nhưng không chịu thề suốt đời không xuống núi, nên sau đó Tiểu Long Nữ trở thành người được chân truyền.

Lúc này Lý Mạc Sầu thấy Dương Quá chân thành đối đãi với Tiểu Long Nữ, thì không khỏi vừa ngưỡng mộ, vừa đau buồn; nhớ lại sự phụ bạc của Lục Triển Nguyên đối với mình, bèn nói:

– Sư muội, ngươi thật có phúc.

Bèn đâm mạnh kiếm vào cổ Dương Quá.

Tiểu Long Nữ thấy sư tỷ hạ độc thủ thật sự, thì không thể không cứu, bèn hất tay trái, hơn mười chiếc "Ngọc phong châm" phóng ra.

Lý Mạc Sầu nhún hai chân, nhảy sang bên tránh những chiếc châm độc. Tiểu Long Nữ đã kéo Dương Quá chạy ra cửa, ngoảnh lại nói:

– Sư tỷ, lời thề của muội còn hay hết hiệu lực cũng thế cả. Bốn chúng ta sẽ cùng chết trong cái nhà mồ này. Muội không muốn nhìn mặt sư tỷ nữa, mỗi người hãy chết theo cách của mình.

Nàng giơ tay ấn vào góc tường, cửa đá sập xuống, lại ngăn cách bốn người ở hai nơi.

Tiểu Long Nữ tâm tình kích động, nhất thời khó cất bước. Dương Quá dìu nàng đi tới buồng của Tôn bà bà ngồi nghỉ. Chàng rót mật ong ra chén, mời nàng uống một chén, chàng cũng uống một chén. Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Quá nhi, ngươi sao lại cam nguyện chết thay ta?

Dương Quá nói:

– Thiên hạ chỉ có cô cô đối tốt với đệ tử, lẽ nào đệ tử không chết thay cho cô cô?

Tiểu Long Nữ im lặng, lát sau mới nói:

– Sớm biết thế này, hai ta cũng chả cần trở lại nhà mồ cùng chết với họ. Nhưng nếu không quay trở vào thì làm sao biết ngươi cam nguyện chết thay ta, lời thề của ta cũng chưa thể bỏ.

Dương Quá nói:

– Chúng ta nghĩ cách thoát ra khỏi mộ được chăng?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi không biết kiến trúc của cái nhà mồ này xảo diệu thế nào, chúng ta không thể thoát ra ngoài được đâu

Dương Quá thở dài não nuột.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hối hận rồi phải không?

Dương Quá nói:

– Không, đệ tử được ở bên cạnh cô cô, thế giới bên ngoài lại chẳng có ai yêu thương đệ tử.

Tiểu Long Nữ dạo trước không cho phép Dương Quá nhắc đến hai chữ "yêu thương" nên Dương Quá cũng không dám nhắc đến; lúc này tâm tình của nàng đã thay đổi, nghe hai tiếng ấy cảm thấy rất ấm lòng, bèn hỏi:

– Thế sao ngươi lại thở dài?

Dương Quá nói:

– Đệ tử nghĩ giá như hai ta cùng xuống núi, thiên hạ có nhiều trò chơi thú vị, hai ta ở bên nhau thì sung sướng vô cùng.

Tiểu Long Nữ từ lọt lòng lớn lên trong nhà mồ, bao năm nay lòng như nước ao tù, sư phụ và Tôn bà bà chưa bao giờ kể cho nàng biết sự việc ở thế giới bên ngoài, dĩ nhiên nàng không hề tưởng tượng, lúc này nghe Dương Quá nhắc đến, bất giác tâm sự như sóng trào, nhiệt huyết cứ từng đợt trào dâng trong ngực, định vận khí khắc chế, nhưng vẫn không sao trấn tĩnh được; thì không khỏi kinh dị, tự thấy bình sinh chưa bao giờ trải qua cảnh này, nghĩ chắc là do sau khi bị trọng thương, khó phục hồi công lực. Nàng không biết rằng dùng tĩnh công áp chế thất tình lục dục, vốn là hành sự trái tự nhiên, chỉ khắc chế bản thân mình, chứ hoàn toàn không thể nhờ đó mà tiêu trừ được tình dục. Bây giờ nàng đã hơn hai mươi tuổi bất ngờ gặp nạn, lại có một thiếu niên sẵn lòng chết thay cho nàng, thì khó tránh khỏi xúc động chân tình, đủ mọi cảm xúc ào ra như vỡ đê. Nàng ngồi trên giường vận công một hồi, thấy nóng lòng sốt ruột, bèn xuống đất đi đi lại lại, càng đi lại càng sầu muộn, bèn gia tăng cước bộ, chạy loanh quanh. Dương Quá thấy hai má nàng hồng lên, thần tình kích động, từkhi biết nàng đến nay chưa thấy cảnh này lần nào, thì không khỏi kinh hãi. Tiểu Long Nữ chạy một hồi, lại ngồi xuống giường nhìn Dương Quá, thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan thiết, trong lòng bỗng xúc động: "Nhưng ta với chàng đều sắp chết cả rồi, đôi bên còn phân biệt sư đồ cô điệt làm gì kia chứ? Giá chàng lại ôm ta, ta sẽ không đẩy chàng ra, mà để cho chàng ôm chặt lấy ta".

Dương Quá thấy mắt nàng long lanh, ngực nàng phập phồng, tưởng ra thương thế tái phát, vội hỏi:

– Cô cô, có sao không?

Tiểu Long Nữ dịu giọng, nói:

– Quá nhi, lại đây nào.

Dương Quá y lời tới bên giường. Tiểu Long Nữ cầm lấy bàn tay chàng, đưa lên xoa xoa nhẹ má mình, hỏi nhỏ:

– Quá nhi, có thích ta không?

Dương Quá chỉ thấy mặt nàng nóng bừng bừng, thì lo cuống lên, run run hỏi:

– Cô cô bị đau ngực hay sao?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Không, ta cảm thấy rất dễ chịu. Quá nhi, ta sắp chết rồi, ngươi hãy nói cho ta biết, có thật là ngươi thích ta hay không?

Dương Qua nói:

– Đương nhiên, trên thế gian chỉ có cô cô là thân nhân của đệ tử mà thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu có một nữ nhân khác đối với ngươi cũng tốt như ta, thì ngươi có tốt với người ấy hay không?

Dương Quá nói:

– Ai tốt với đệ tử, đệ tử cũng sẽ tốt với người ấy.

Chàng thấy bàn tay nàng đang cầm tay mình run run, rồi lạnh hẳn đi, sắc mặt nàng đang ửng hồng bỗng lại tái trắng như mọi khi.

Dương Quá lo lắng hỏi:

– Đệ tử nói saiư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ngươi còn thích nữ nhân khác trên thế gian, thì đừng thích ta là hơn.

Dương Quá cười, nói:

– Hai ta còn vài hôm nữa đã chết rồi, đệ tử còn thích nữ nhân nào khác sao được? Chẳng lẽ đệ tử đi thích Lý Mạc Sầu và nữ đồ đệ của sư bá hay sao?

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Ta hồ đồ thật. Nhưng ta vẫn muốn nghe chính miệng ngươi thề với ta một điều.

Dương Quá hỏi:

– Điều gì nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta muốn ngươi nói, từ nay trong lòng ngươi chỉ có một mình ta, nếu có nữ nhân khác, thì ta sẽ giết chết ngươi.

Dương Quá cười, nói:

– Đừng nói đệ tử vĩnh viễn không có nữ nhân khác, mà giả dụ đệ tử không tốt, không vâng lời cô cô thì cũng đáng bị cô cô giết.

Thế rồi chàng liền thề:

– Đệ tử Dương Quá suốt kiếp này trong lòng chỉ có một mình cô cô; nếu về sau thay lòng đổi dạ, thì khỏi cần cô cô đến giết, chỉ cần nhìn thấy mặt cô cô, là đệ tử sẽ tự sát.

Tiểu Long Nữ rất hài lòng, nói:

– Ngươi nói rất hay, vậy thì ta yên tâm rồi.

Nàng cứ nắm chặt tay chàng không buông. Dương Quá cảm thấy từng luồng hơi ấm từ tay nàng truyền sang.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ta thật không tốt.

Dương Quá vội nói:

– Không đâu, cô cô lúc nào cũng tốt.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hồi trước ta đối với ngươi quá dữ, thoạt đầu còn đuổi ngươi đi, may mà Tôn bà bà giữ ngươi lại. Nếu ta không đuổi ngươi đi, thì Tôn bà bà đã chẳng bị chết!

Nói đến đây, bất giác nước mắt muốn trào ra.

Nàng từ năm tuổi bắt đầu luyện công, từ đấy không khóc bao giờ; lúc này khóc trở lại, tâm thần chấn động mạnh, khớp xương toàn thân kêu tanh tách, tựa hồ nội lực đang rời bỏ thân thể. Dương Quá kinh hãi, gọi:

– Cô cô, cô cô làm sao.. thế?

Lời chưa dứt, bỗng có tiếng ken két, cánh cửa đá mở ra, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba đã tiến vào. Nguyên Lý Mạc Sầu nghĩ rằng "Đoạn long thạch" đã ập xuống, đằng nào cũng chết, chẳng cần e ngại các cơ quan mai phục nguy hiểm gì nữa, cứ xông xáo bừa đi, cuối cùng vượt qua liền mấy gian thạch thất, đến gian buồng của Tôn bà bà.

Nàng ta cứ tưởng là gặp vận may, không động chạm tới cơ quan vây khốn, không biết rằng các cơ quan trong mộ vốn được bố trí để chống đại đội quân Kim, toàn làm bằng đá lớn, vừa thô vừa nặng, phải có người vận hành thì mới hoạt động, Tiểu Long Nữ đã không định ám toán, thì các cơ quan ấy cũng không hoạt động.

Dương Quá lập tức đứng chắn cho Tiểu Long Nữ.

Lý Mạc Sầu nói:

– Ngươi tránh ra, để ta nói chuyện với sư muội.

Dương Quá sợ Lý Mạc Sầu gian trá, hãm hại sư phụ, đáp:

– Sư bá có gì cứ nói là được.

Lý Mạc Sầu trừng trừng nhìn chàng hồi lâu, thở dài, nói:

– Nam tử như ngươi, quả trong thiên hạ hiếm thấy.

Tiểu Long Nữ bỗng đứng dậy, hỏi:

– Sư tỷ, sư tỷ bảo y tốt hay không tốt?

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội chưa từng xuống núi, không biết lòng người trên thế gian hiểm ác, người nặng tình nặng nghĩa như y khắp thiên hạ không tìm được người thứ hai đâu.

Lý Mạc Sầu đã bị trúng thương trên tình trường, vô cùng bi phẫn, nên khó tránh khỏi nói quá, cho rằng trên thế gian không có lấy một nam tử chân tình.

Tiểu Long Nữ rất vui, nói nhỏ:

– Thế thì có y cùng chết theo muội, cũng không uổng phí một đời của muội.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội, rốt cuộc thì y là người thế nào với sư muội? Sư muội đã lấy y rồi à?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, y là đồ nhi của muội. Y bảo là muội đối tốt với y; nhưng rốt cuộc tốt hay không tốt, chính muội cũng không biết.

Lý Mạc Sầu lấy làm lạ, lắc đầu, nói:

– Sư muội, để ta coi cánh tay của sư muội xem nào.

Nói rồi tay trái khẽ nắm tay Tiểu Long Nữ, tay phải vén ống tay áo của sư muội, thấy trên làn da trắng như tuyết có một điểm hồng, chính là vết son trinh nữ mà sư phụ chấm ở đó, gọi là "Thủ cung sa".

Lý Mạc Sầu thầm thán phục: "Hai người này sống kề bên nhau trong nhà mộ, mà vẫn giữ lễ, sư muội vẫn là xử nữ trinh trắng". Bèn vén ống tay áo của mình, vết son trinh nữ đỏ hồng như máu; hai cánh tay ngọc giơ cạnh nhau, thật khiến người động lòng. Có điều là Lý Mạc Sầu chẳng thể làm gì khác, đành giữ thân nguyên vẹn, còn sư muội thì lại có người tình nguyện vì nàng mà chết, sướng khổ cùng ở bên nhau mãi mãi; nghĩ đến đây, Lý Mạc Sầu không khỏi thở dài não nuột, buông tay Tiểu Long Nữ ra.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Sư tỷ có điều gì muốn nói với muội?

Lý Mạc Sầu vốn định nhiếc móc sư muội một phen, rằng đã dụ dỗ nam tử, làm bại hoại sư môn, để sư muội trong lúc vừa thẹn vừa tức sẽ vô tình tiết lộ lối ra khỏi nhà mồ; nhưng lúc này không thể làm thế được nữa; nàng ta ngẫm nghĩ giây lát, lại có chủ ý, nói:

– Sư muội, ta tới đây để xin lỗi sư muội.

Tiểu Long Nữ hoàn toàn bất ngờ, nàng vốn biết vị sư tỷ tâm cao khí ngạo, không đời nào chịu cúi đầu trước người khác, câu nói vừa rồi không hiểu có dụng ý gì, bèn thản nhiên nói:

– Sư tỷ làm việc của sư tỷ, muội làm việc của muội, ai việc nấy làm, khỏi cần xin lỗi.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội, hãy nghe ta nói. Chúng ta là nữ nhân, cái phúc lớn nhất của cả một đời là có một đức lang quân chân tình. Cổ nhân có câu "Muốn tìm báu vật dễ không, tình lang được kẻ hết lòng khó thay" (°)((°) 易求無價寶, 難得有情郎-Dị cầu vô giá bảo, nan đắc hữu tình lang (Tặng lân nữ, Ngư Huyền Cơ – Đường). Số mệnh của ta hẩm hiu, thôi khỏi nói làm gì. Gã trai này đối với sư muội tốt quá, sư muội quả thật chẳng còn thiếu cái gì nữa.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Muội đúng là rất sung sướng. Quá nhi vĩnh viễn sẽ không phụ bạc muội, muội biết chứ.

Lý Mạc Sầu buồn bã nói:

– Thế thì sư muội hãy xuống núi mà sống cho sướng đời mới phải. Thế giới tươi đẹp, hai người như đôi uyên ương cùng đậu cùng bay, thưởng tâm lạc sự, thật sung sướng tận cùng.

Tiểu Long Nữ ngẩng lên, xuất thần giây lát, nhẹ nhàng nói:

– Đúng vậy, tiếc rằng đã muộn mất rồi.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Sao lại muộn?

Tiểu Long Nữ nói:

– "Đoạn long thạch" đã sập xuống, dẫu sư phụ tái sinh, chúng ta cũng chẳng tài gì thoát khỏi nơi đây.

Lý Mạc Sầu thất vọng, phí cả một phen thuyết phục, những mong gợi ý ham sống cho sư muội, để sư muội vốn thông thuộc địa hình tòa nhà mồ mà tìm một lối thoát, ai dè chẳng kết quả gì, chỉ là vô vọng, nàng ta đổi sang tức giận, sát ý nảy sinh, cổ tay lật nhẹ, giơ chưởng đánh xuống đỉnh đầu sư muội.

Dương Quá đứng bên nghe hai người đối đáp với nhau, chợt thấy Lý Mạc Sầu bỗng nhiên hạ sát thủ, trong lúc hoảng loạn tự nhiên rùn mình xuống, quát một tiếng, song chưởng đẩy ra, sử dụng "Cáp mô công" do Âu Dương Phong truyền thụ. Món này chàng học mấy năm trước, từ hồi vào sống trong nhà mồ thì không luyện nữa, nhưng nó khắc sâu trong trí não, vào lúc nguy cấp nhất tự dưng bật ra.

Một chưởng của Lý Mạc Sầu chưa vỗ xuống đầu Tiểu Long Nữ, thì đột nhiên phát giác có luồng chưởng phong cực kỳ lợi hại từ bên cạnh ào sang, vội hồi chưởng chém ngang xuống. Dương Quá tu tập hai năm trong nhà mồ, nội lực đã mạnh, lực đẩy đã mạnh hơn xưa rất nhiều, sầm một tiếng, Lý Mạc Sầu bị đẩy bay vào bức tường đá phía sau, chắc là đau điếng.

Lý Mạc Sầu cả giận, xoa xoa hai tay vào nhau, trong thạch thất mùi tanh lan rộng, ngửi phải chỉ muốn nôn oẹ. Tiểu Long Nữ biết vừa rồi một đòn của Dương Quá may mắn đắc thủ, chứ một khi sư tỷ thi triển công phu Xích Luyện thần chưởng lợi hại, thì nàng và Dương Quá hợp lực cũng không chống đỡ nổi, bèn kéo tay Dương Quá chạy ra cửa buồng.

Lý Mạc Sầu vung chưởng đánh tới, nào ngờ bàn tay đang ở giữa chừng, thì má bên trái bỗng bị một cái tát, tuy không đau, nhưng nghe tiếng "bốp" rất vang, rồi giọng nói của Tiểu Long Nữ:

– Sư tỷ muốn học "Ngọc nữ tâm kinh", thì đây!

Lý Mạc Sầu đang sững sờ, thì má phải lại trúng một chưởng nữa. Nàng ta biết công phu "Ngọc nữ tâm kinh" của sư phụ vô cùng lợi hại, vừa rồi Tiểu Long Nữ xuất thủ cực nhanh, thế chưởng biến ảo như thần, hiển nhiên là kiểu cách võ công bản môn, song nàng ta lại hoàn toàn không hiểu sự ảo diệu của nó, đây hẳn là công phu "Ngọc nữ tâm kinh", trong bụng khiếp vía, trơ mắt nhìn Tiểu Long Nữ dắt Dương Quá đi sang gian khác, đóng cửa buồng này lại. Nàng ta đưa tay sờ má, nghĩ thầm: "Đấy là sư muội thủ hạ lưu tình, chứ nếu dùng sức vào hai chưởng vừa rồi, thì mình đã mất mạng." Lý Mạc Sầu không biết rằng môn võ công ấy Tiểu Long Nữ vẫn chưa luyện thành, chưởng pháp tuy tinh diệu, song chưởng lực không thể đả thương người khác.

Dương Quá thấy sư phụ đường hoàng giáng cho Lý Mạc Sầu hai cái tát thì vô cùng cao hứng, nói:

– Cô cô, công phu "Ngọc nữ tâm kinh" của cô cô, Lý Mạc Sầu địch chẳng nổi..

Lời chưa dứt, bỗng thấy Tiểu Long Nữ cứ run rẩy như không kiềm chế được, hoảng sợ hỏi:

– Cô cô có sao.. sao không?

Tiểu Long Nữ run run đáp:

– Ta.. ta lạnh quá..

Vừa rồi nàng đánh hai chưởng, tuy dùng lực rất nhẹ, nhưng sau khi bị trọng thương nguyên khí chưa phục hồi, việc dùng sức gây tổn hại không nhỏ. Nàng cả đời luyện công trên giường hàn ngọc, vốn là vật chí hàn, lúc này không còn sức chế ngự, giống như người bị chìm xuống dòng sông băng, cái lạnh thấm vào tận xương, hai hàm răng cứ đánh vào nhau cầm cập. Dương Quá vội hỏi:

– Làm thế nào bây giờ?

Chàng cuống lên, ôm chặt Tiểu Long Nữ vào lòng, định dùng hơi ấm của mình giúp nàng đỡ lạnh; ôm một lát, chàng cảm thấy thân thể Tiểu Long Nữ càng lúc càng lạnh, dần dần chính mình cũng không chịu nổi.

Tiểu Long Nữ tự biết nội lực của mình đang mất đi từng chút, từng chút một, bèn nói:

– Quá nhi, ta không xong mất, ngươi.. ngươi bế ta đến chỗ đặt quan tài đi.

Dương Quá đau lòng vô cùng, không nói nên lời, nhưng chàng lại nghĩ, mấy người chỉ sống vài ngày nữa thôi, bây giờ chết cùng với nàng thì cũng vậy, thế là vui vẻ nói:

– Vâng.

Chàng bế nàng đến gian thạch thất đặt quan tài, đặt nàng ngồi trên nắp quan tài, đốt nến. Dưới ánh nến, cỗ quan tài to nặng càng tương phản với sự mảnh dẻ yếu đuối của Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi mở nắp cỗ quan tài.. kia ra, đặt ta vào trong đó.

Dương Quá nói:

– Vâng!

Tiểu Long Nữ cảm thấy giọng nói của chàng không lộ chút gì thương cảm, thì hơi lạ; Dương Quá mở nắp cỗ quan tài, bế nàng đặt nhẹ nằm vào trong, rồi chàng cũng chui vào nằm trở đầu đuôi với nàng. Hai người nằm chung, vừa vặn không còn chỗ dư.

Tiểu Long Nữ vừa hoan hỉ vừa lấy làm lạ, hỏi:

– Ngươi làm gì vậy?

Dương Quá nói:

– Đệ tử đương nhiên ở bên cạnh cô cô. Để cho hai nữ nhân xấu xa nằm chung cỗ quan tài bên kia.

Tiểu Long Nữ thở dài thật sâu, trong lòng thập phần bình an, cái lạnh của cơ thể không ghê gớm như trước nữa. Nàng đưa mắt nhìn Dương Quá, thấy chàng cũng đang chăm chú nhìn nàng. Thân hình hai người áp sát vào nhau, đầu nàng nóng bừng, chỉ mong chàng choàng tay ôm chặt lấy mình, song Dương Quá lại đặt hai cánh tay thẳng dọc hai bên đùi tựa hồ sợ chạm vào người nàng không bằng.

Tiểu Long Nữ cảm thấy hơi ngượng ngùng, má đỏ bừng, quay mặt đi không dám nhìn chàng nữa, đầu óc mê loạn một hồi. Bỗng nhiên nàng thấy ở nắp quan tài tựa hồ có viết chữ, căng mắt nhìn, quả đọc được mười sáu chữ to: "Ngọc nữ tâm kinh, kỹ áp Toàn Chân. Trùng Dương nhất sinh, bất nhược vu nhân" (Tuyệt kỹ "Ngọc nữ tâm kinh" lấn át phái Toàn Chân. Một đời Vương Trùng Dương chẳng hề thua kém người). Mười sáu chữ viết bằng mực đậm, bút lực cứng cát. Lúc này nắp quan tài mới đậy một nửa, nhìn nghiêng thấy rõ rành rành. Tiểu Long Nữ ngạc nhiên kêu lên:

– Câu ấy ngụ ý gì vậy?

Dương Quá nhìn theo ánh mắt nàng, thấy dòng chữ, ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Do Vương Trùng Dương viết phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chắc thế. Vương Trùng Dương muốn nói rằng "Ngọc nữ tâm kinh" của chúng ta tuy thắng được võ công phái Toàn Chân, nhưng bản thân lão đạo sĩ thì hoàn toàn không thua kém tổ sư bà bà của chúng ta, có phải vậy chăng?

Dương Quá cười:

– Lão đạo sĩ ấy khoác lác.

Tiểu Long Nữ nhìn kỹ lại mười sáu chữ kia, thấy sau đó còn viết tiếp nhiều chữ nữa, nhưng chữ nhỏ hơn, nằm đầu này khó đọc, bèn nói:

– Quá nhi, hãy ra khỏi quan tài đi?

Dương Quá lắc đầu:

– Đệ tử không ra đâu.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Ra một lát, rồi lại trở vào với ta.

Bấy giờ Dương Quá mới chịu bò ra.

Tiểu Long Nữ ngồi dậy, bảo Dương Quá đưa đĩa nến, nàng chuyển đầu về phía ngược lại để đọc các chữ nhỏ. Ở tư thế này, các chữ trở thành ngược, nàng đọc chầm chậm hai lần, bỗng cảm thấy tay rã rời, đĩa nến chao nghiêng, rơi xuống ngực, Dương Quá vội nhặt lên, đỡ nàng ra khỏi quan tài, hỏi:

– Sao, các chữ ấy viết gì vậy, cô cô?

Tiểu Long Nữ sắc mặt tái đi, định thần lại, thở dài, nói:

- Thì ra sau khi tổ sư bà bà qua đời, Vương Trùng Dương có trở lại nhà mồ.

Dương Quá hỏi:

– Lão trở lại làm gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương đến viếng tổ sư bà bà. Lão đạo sĩ thấy tổ sư bà bà khắc để lại trên trần nhà "Ngọc nữ tâm kinh", hóa giải toàn bộ võ công của phái Toàn Chân. Lão đạo sĩ bèn viết ở mặt trong nắp quan tài này, nói rằng những chiêu thức mà tổ sư bà bà của chúng ta hóa giải chẳng qua chỉ là thứ võ công thô thiển của phái Toàn Chân mà thôi, chứ "Ngọc nữ tâm kinh" làm sao địch nổi võ công thượng thừa của phái Toàn Chân?

Dương Quá nói:

– Hừ, tổ sư bà bà đã chết rồi, lão ta nói thế nào chả được.

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương viết rằng lão có lưu lại cách hóa giải "Ngọc nữ tâm kinh" trong một gian thạch thất khác, hậu nhân có duyên tới đó khắc biết.

Dương Quá nổi tính hiếu kỳ, nói:

– Cô cô chúng ta đi xem đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương viết rằng gian thạch thất đó ở dưới gian này. Ta sống cả đời ở đây mà không biết dưới chỗ này còn có một gian thạch thất khác.

Dương Quá nói, giọng cầu khẩn:

– Cô cô chúng ta nghĩ cách xuống đó xem đi.

Lúc này Tiểu Long Nữ đối với Dương Quá đã không còn nghiêm nghị như trước nữa, người lại đang mệt mỏi, nghĩ nên chiều chàng thì hơn, bèn mỉm cười nói:

– Được thôi.

Nàng nhìn quanh gian thạch thất, ngẫm nghĩ, cuối cùng chăm chú nhìn đáy cỗ quan tài mình vừa nằm một lát, nói:

– Thì ra cỗ quan tài này cũng là do Vương Trùng Dương để lại, dưới đáy có chỗ mở.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Ồ đệ tử biết rồi, đấy chính là lối xuống gian thạch thất bên dưới.

Bèn chui vào cỗ quan tài, sờ bốn phía, quả nhiên gặp một chỗ lõm bằng bàn tay, chàng bèn bẩy lên, nhưng không suy suyển chút nào. Tiểu Long Nữ nói:

– Hãy đẩy sang bên trái trước, rồi mới kéo lên.

Dương Quá làm theo lời, chỉ nghe cạch một tiếng, đáy cỗ quan tài bật lên. Chàng mừng rỡ nói:

– Được rồi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hãy khoan, để cho uế khí tản bớt đi đã.

Dương Quá đứng ngồi nhấp nhổm, mới được một lát đã giục:

– Cô cô, thế nào?

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Nôn nóng như ngươi, không biết sẽ theo ta được mấy năm đây.

Nàng thong thả đứng dậy, cầm đĩa nến, cùng Dương Quá theo lối đáy cỗ quan tài đi xuống, bên dưới có các bậc đá, hết mươi bậc đá quả nhiên tiến vào một gian thạch thất.

Nơi đây cũng không có gì lạ. Hai người không hẹn cùng ngước nhìn lên trần nhà, thấy trên đó chi chít chữ viết và phù hiệu, góc cuối cùng bên phải viết bốn chữ to "Cửu Âm chân kinh".

Hai người chưa biết rằng "Cửu Âm chân kinh" chứa đựng cảnh giới võ học tối cao, nhìn một hồi, chỉ thấy khó hiểu nổi chỗ ảo diệu của nó. Tiểu Long Nữ nói:

– Nghe bảo công phu này lợi hại vô cùng, nhưng đối với chúng ta lại hoàn toàn vô dụng.

Dương Quá thở dài, định cúi xuống không xem nữa, bỗng phát hiện ở góc tây nam trên trần nhà có vẽ địa đồ, hình như không liên quan gì đến võ công, bèn hỏi:

– Cái gì kia?

Tiểu Long Nữ nhìn theo tay chỉ của Dương Quá, chỉ nhìn thoáng qua, lập tức người cứng đơ ra, không cử động.

Nàng đứng như tượng đá một hồi, nhìn bức địa đồ xuất thần. Dương Quá sợ hãi, kéo kéo vạt áo của nàng, hỏi:

– Cô cô sao thế?

Tiểu Long Nữ kêu "ôi" một tiếng, rồi gục đầu vào ngực chàng khóc nấc lên. Dương Quá dịu dàng hỏi:

– Cô cô lại bị đau chỗ nào phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, không phải.

Lát sau, mới nói:

– Chúng ta có thể ra khỏi chốn này.

Dương Quá cả mừng, nhảy cẫng lên, hỏi:

– Thật ư?

Tiểu Long Nữ gật đầu, nói:

– Bức địa đồ kia vẽ lối đi bí mật ra khỏi mộ.

Nàng thông thạo địa hình trong nhà mồ, nên vừa nhìn là hiểu ngay hàm nghĩa của bức địa đồ đó.

Dương Quá mừng không để đâu cho hết, nói:

– Hay quá! Thế sao cô cô lại khóc?

Tiểu Long Nữ nuốt nước mắt, cười, nói:

– Ta từ trước vốn không sợ chết, vì suốt đời ở trong nhà mồ, chết sớm hay chết muộn thì có gì khác nhau? Hai hôm nay, ta lại nghĩ muốn ra bên ngoài xem sao. Quá nhi, cho nên ta vừa sợ vừa mừng.

Dương Quá kéo tay nàng, nói:

– Cô cô, cô cô cùng đệ tử đi với nhau, đệ tử sẽ hái hoa cho cô cô cài đầu, bắt dế cho cô cô chơi, thế nhé?

Chàng tuy đã lớn, nhưng vẫn nghĩ đến mấy trò chơi thích thú của trẻ con. Tiểu Long Nữ chưa chơi đùa với người khác bao giờ, nghe chàng nói với vẻ đầy cao hứng, thì cũng chăm chú nghe, tuy nghĩ thầm: "Phải mau ra khỏi đây thì hơn", nhưng thân thể rã rời vô lực, lại chưa muốn rời nhà mồ. Lát sau quá mệt, nàng không chịu nổi nữa, từ từ ngả đầu vào vai Dương Quá. Dương Quá nói một hồi, không thấy nàng trả lời, ngoảnh sang, thấy nàng hai mắt lim dim, hơi thở rất nhẹ, rõ là đang ngủ say. Chàng tự dưng cũng thấy mỏi mệt, nhắm mắt lại ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Không biết bao lâu sau, đột nhiên thắt lưng đau tức, huyệt Trung Khu ở lưng bị người điểm huyệt, chàng bừng tỉnh, định bật dậy kháng cự, gáy liền bị người khác tóm lấy, ấn xuống, không cựa quậy nổi; ngoảnh nhìn, thấy sư đồ Lý Mạc Sầu cười cười đứng bên cạnh, sư phụ cũng đã bị điểm huyệt. Thì ra Dương, Long hai người chưa từng trải cách phòng thân ứng địch trên giang hồ, trong lúc quá vui mừng đã không trở lên đậy đáy cỗ quan tài lại để cho Lý Mạc Sầu phát hiện, mò xuống đây đánh lén thành công.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Gớm nhỉ, không ngờ lại có một chốn thú vị như thế này để hai đứa ngươi chui xuống hưởng phúc. Sư muội, hãy cố nghĩ xem, không chừng lại có lối thoát ra khỏi mộ cũng nên.

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội dẫu có biết, cũng không nói với sư tỷ đâu.

Lý Mạc Sầu vốn tin lời nói lúc trước của Tiểu Long Nữ là thật, "Đoạn long thạnh" đã sập xuống, không còn hi vọng gì thoát ra khỏi mộ, nhưng câu nói vừa rồi của sư muội, với giọng điệu và sắc mặt, hiển nhiên là sư muội biết đường thoát ra. Lý Mạc Sầu nghe thế thì cả mừng, nói:

– Sư muội quý hóa, hãy dẫn ta ra khỏi nhà mồ, từ nay ta sẽ không gây khó dễ cho sư muội nữa.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ tự vào được thì hãy tự tìm cách mà thoát ra, vì sao phải nhờ muội dẫn dắt?

Lý Mạc Sầu vốn biết tính sư muội quật cường cố chấp, ngay sư phụ lúc sinh thời cũng phải nhường nàng ta vài phần, dùng cách cưỡng bức thì chẳng ăn thua gì, nhưng bây giờ là lúc sống chết, gì thì gì cũng phải cưỡng bức mới xong; thế là giơ tay điểm mạnh vào huyệt Thiên Đột trên gáy và huyệt Ngũ Khu ở mông của hai người. Huyệt Thiên Đột là nơi giao hội của Âm Duy và mạch Nhâm trên cơ thể người, huyệt Ngũ Khu là nơi giao hội của Túc Thiếu Dương đới mạch; Lý Mạc Sầu đã sử dụng thủ pháp điểm huyệt bí truyền của phái Cổ Mộ, biết rằng không lâu sau hai người sẽ bị ngứa ngáy toàn thân đến mức không chịu nổi, phải nói ra lối đi bí mật.

Tiểu Long Nữ nhắm mắt vào, không thèm nhìn nữa. Dương Quá nói:

– Nếu cô cô của ta biết lối thoát ra, thì hai ta còn ở lại đây làm gì kia chứ

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Câu nói của nàng ta vừa rồi đã tiết lộ, không giấu nổi ta đâu. Sư muội ta dĩ nhiên biết lối ra, chờ hai ngươi lấy lại sức thì mới đi đó thôi. Sư muội, rốt cuộc sư muội có chịu nói hay không thì bảo?

Tiểu Long Nữ nhẹ nhàng nói:

– Sư tỷ ra bên ngoài, chẳng qua chỉ nghĩ cách sát hại người khác, thế thì đừng ra là hơn.

Lý Mạc Sầu ngồi ôm gối bên cạnh, cười hi hi không nói. Lát sau, Dương Quá bắt đầu cảm thấy khó chịu, nói:

– Hừ, Lý Mạc Sầu, tổ sư bà bà truyền thụ thủ pháp điểm huyệt là để ngươi đối phó với kẻ địch, hay là để bắt nạt người đằng mình vậy? Ngươi sử dụng để hãm hại sư muội của ngươi, như thế có tội với tổ sư bà bà hay không?

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Ngươi gọi trống không ta là Lý Mạc Sầu, thế là đôi bên không phải người một nhà nữa rồi.

Dương Quá ghé tai nói nhỏ với Tiểu Long Nữ:

– Dù thế nào cô cô cũng chớ nói cho Lý Mạc Sầu biết lối ra bí mật, nàng ta không biết, thì sẽ chưa dám giết chúng ta; chỉ khi biết rồi, nàng ta mới lập tức hạ độc thủ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ừ, ngươi nói đúng lắm, ta chưa nghĩ ra đấy.

Lúc này nàng nằm ngửa dưới đất, mở mắt ra là nhìn thấy bức địa đồ vẽ trên trần nhà. Nàng nghĩ thầm: "Không thể để sư tỷ thấy bức địa đồ kia được; mình đừng nhìn lên chỗ ấy nữa". Năm xưa Vương Trùng Dương khi biết Lâm Triêu Anh qua đời trong nhà mồ, nghĩ đến mối tình si mà Lâm Triêu Anh cả đời dành cho mình, mối ân tình ấy quả không nhỏ, nay âm dương đôi ngả, lòng đau đớn muôn phần, bèn theo lối đi bí mật vào trong nhà mồ, không để cho đệ tử của Lâm Triêu Anh hay biết, đứng ngắm di dung của vị cựu lữ giang hồ hồi lâu, khóc lóc một hồi, mới đi xem lại một vòng tòa nhà mồ do mình xây dựng năm nào, thấy bức chân dung của mình do Lâm Triệu Anh vẽ quay lưng ra ngoài, lại thấy hai gian thạch thất trên trần khắc đầy phù hiệu. Thấy thuật rõ võ công "Ngọc nữ tâm kinh" hết sức tinh vi ảo diệu, mỗi chiêu đều là khắc tinh của võ công phái Toàn Chân, thì bất giác tái mặt, lập tức rời tòa nhà mồ.

Lão đạo sĩ một mình vào rừng sâu, dựng lều cỏ, ba năm liền không xuống núi, nghiền ngẫm cách hóa giải "Ngọc nữ tâm kinh", tuy một số chỗ có thành tựu, nhưng cuối cùng vẫn không tạo thành một bộ võ công hoàn chỉnh. Lão đạo sĩ chán nản, càng khâm phục tài trí của Lâm Triêu Anh, cam bái hạ phong, không nghiên cứu nữa.

Hơn mười năm sau, tại cuộc Hoa Sơn luận kiếm, lão đạo sĩ có được kỳ thư "Cửu Âm chân kinh". Lão quyết ý không luyện võ công ghi trong bộ kinh đó, nhưng bị tính hiếu kỳ thôi thúc, bèn mở ra xem một lượt. Thời đó võ công của Vương Trùng Dương đã là đệ nhất thiên hạ. Các tinh nghĩa bí ẩn hàm chứa trong "Cửu Âm chân kinh" đọc qua một lần, suy nghĩ mất hơn mười ngày thì hiểu tất thảy, VươngTrùng Dương ngẩng mặt lên trời cười vang, trở lại "Hoạt tử nhân mộ", tại gian thạch thất kín đáo nhất trong tòa nhà mồ, khắc lên trên trần tinh yếu của "Cửu Âm chân kinh" đồng thời chỉ rõ cách hóa giải "Ngọc nữ tâm kinh". Lão đạo sĩ đoán biết mấy cỗ quan tài trống sẽ được đệ tử của Lâm Triêu Anh sử dụng; chắc là lúc lâm chung họ sẽ tự chui vào quan tài nằm chờ chết, lúc đó họ sẽ đọc thấy rằng tổ sư của phái Toàn Chân một đời không chịu thua kém ai; thế là ở mặt trong tấm thạch thiên của mỗi cỗ quan tài trống, lão viết mười sáu chữ, để hậu nhân của Lâm Triệu Anh biết rằng võ học của tổ sư sáng phái Toàn Chân không phải là thứ mà "Ngọc nữ tâm kinh" có thể khắc chế.

Đấy chỉ là xuất phát từ tính hiếu thắng của Vương Trùng Dương, chứ lão đạo sĩ không hề có ý tiết lộ "Cửu Âm chân kinh", bởi vì khi đệ tử của Lâm Triêu Anh được thấy "Cửu Âm chân kinh", thì họ đã thoi thóp hấp hối, chỉ có thể mang theo bí mật xuống âm phủ mà thôi.

Vương Trùng Dương và Lâm Triêu Anh đều là bậc kỳ tài võ học, nguyên là một cặp tạo hóa sinh ra, hai người vốn không bị chia rẽ bởi sóng gió bể tình của kẻ thứ ba, cũng không hề bị chia rẽ bởi oán cừu của thân hữu sư đồ. Vương Trùng Dương thoạt tiên chỉ chuyên tâm đại sự kháng Kim, không lúc nào nghĩ đến tư tình nhi nữ; sau khi khởi nghĩa thất bại, lui vào sống một mình trong nhà mồ, Lâm Triêu Anh tới an ủi, nhu tình cao nghĩa, cảm động sâu xa, nhưng bấy giờ Vương Trùng Dương đã chán nản hết thảy, thế là thành mối tình thiên trường hận, chàng thì xuất gia làm đạo sĩ, nàng thì ôm hận lầm lũi sống trong tòa nhà mồ. Nguyên do bên trong, các đệ tử như Khưu Xứ Cơ không hay biết, ngay giữa hai người Vương, Lâm cũng khó nói với nhau, chỉ qui về hai chữ "vô duyên" mà thôi. Họ không biết rằng, "vô duyên" chỉ là "quả", còn "nhân" là hai người võ công đều cao, quá ư tự phụ, mỗi lần đôi bên đàm luận võ học, thì không ai chịu ai, cứ cạnh tranh với nhau cho đến lúc chết. Lâm Triêu Anh thì sáng tạo "Ngọc nữ tâm kinh" khắc chế võ công phái Toàn Chân, còn Vương Trùng Dương không chịu thua kém, đem "Cửu Âm chân kinh" khắc trong mộ. Có điều là Vương Trùng Dương cho rằng, "Ngọc nữ tâm kinh" là do Lâm Triệu Anh tự sáng tạo ra, còn mình thì phải dựa vào di thư của người khác, so ra kém một bậc, nên sau đó lão đạo sĩ tự khiêm nhường, thường dặn đệ tử phải theo cái đạo nghiêm khắc với mình, nhường nhịn người khác, nhận phần thiệt thòi.

Về bức địa đồ bí mật ở trên trần, thì đã khắc ngay từ hồi mới xây dựng tòa nhà mồ. Nguyên đề phòng nếu nhà mồ bị quân Kim trường kỳ vây khốn, thì sẽ theo lối đi bí mật thoát ra. Lâm Triệu Anh không biết điều này, chỉ biết một khi "Đoạn long thạch" sập xuống, ta với địch sẽ cùng chết; không ngờ Vương Trùng Dương khi xây dựng tòa nhà mồ, mưu đại sự khôi phục Trung Nguyên, tràn đầy hùng tâm tráng chí, há chịu để mình bị dồn vào tuyệt địa? Sau này, khi Vương Trùng Dương nhường lại tòa nhà mồ, sợ Lâm Triệu Anh chế giễu rằng mình dự phòng tẩu thoát, mất cái khí khái của nam nhi, nên không nói cho nàng ta biết lối đi bí mật thoát ra khỏi mộ, cũng là do tính hiếu thắng mà nên.

Tiểu Long Nữ không dám nhìn lên chỗ địa đồ, chỉ đưa mắt nhìn sang góc khác; đột nhiên thoáng thấy bốn chữ nhỏ "Bí quyết giải huyệt", vội nhìn kỹ chỗ đó, cả mừng, suýt nữa không kiềm lòng được, cơ hồ muốn reo lên. Bí quyết chỉ rõ cách tự thông huyệt đạo, nếu trong khi tu luyện nội công bị tẩu hỏa, bế tắc huyệt đạo, thì có thể dùng cách này tự đả thông. Ai luyện tới "Cửu Âm chân kinh", võ công ắt đã đạt tới cảnh giới hạng nhất, thì rất hiếm khi để cho kẻ khác điểm trúng huyệt đạo; bí quyết này vốn dùng để đối phó với ma đầu do nội tâm mình sinh ra. Nhưng đối với tình cảnh hiện thời của Tiểu Long Nữ, nó quả là diệu pháp cứu mạng.

Nàng nghĩ thầm: "Ta có đả thông được huyệt đạo, cũng không địch nổi sư tỷ, hóa ra vô dụng". Bèn nhìn kỹ kinh văn trên trần, xem có môn võ công nào có thể sử dụng ngay tức thời để chế ngự Lý Mạc Sầu hay chăng; nhưng xem qua một lượt, thấy rằng môn dễ nhất cũng phải vài chục ngày mới luyện thành, thì nàng thôi không nhìn thêm nữa, sợ Lý Mạc Sầu theo mình đưa mắt nhìn lên trần sẽ phát hiện bức địa đồ và "Cửu Âm chân kinh". Cũng may Dương Quá cứ luôn miệng đấu khẩu với Lý Mạc Sầu, nên vị sư tỷ rất khôn ngoan tinh ý kia mới không để ý đến ánh mắt của Tiểu Long Nữ. Nàng đột nhiên nảy ra một ý, mở mắt học thuộc "Bí quyết giải huyệt" và "Bí quyết nhịn thở" trong "Cửu âm chân kinh", rồi ghé tai truyền lại cho Dương Quá. Dương Quá lập tức lĩnh hội. Tiểu Long Nữ dặn nhỏ:

– Trước tiên hãy giải huyệt.

Dương Quá sợ sư đồ Lý Mạc Sầu phát giác, cứ luôn miệng nói loạn cả lên:

– Úi chao, Lý sư bá, sư bá hạ thủ quá ư tàn ác, đúng là có tội với tổ sư bà bà, lại càng có tội với bà bà của tổ sư bà bà, với thái bà của bà bà..

Hai người ngầm vận công dựa theo "Bí quyết giải huyệt" do Vương Trùng Dương khắc trên trần, nội công của họ vốn có căn bản, nên trong giây lát đã giải khai hai huyệt bị điểm. Hai người bề ngoài không để lộ động tĩnh, song Lý Mạc Sầu phát hiện không bình thường, liền đứng dậy, quát:

– Làm gì thế?

Tiểu Long Nữ bật dậy, lật tay xuất chưởng đánh nhẹ vào vai Lý Mạc Sầu, chính là võ công thượng thừa trong "Ngọc nữ tâm kinh". Lý Mạc Sầu hoàn toàn không ngờ sư muội lại có thể tự giải huyệt, cả kinh, vội nhảy lùi lại. Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ có muốn thoát ra hay không?

Lý Mạc Sầu nghe vậy cả mừng, nàng ta tự phụ võ công cao cường, tài trí càng ít ai sánh kịp, mới rồi lại bị tiểu sư muội, một kẻ chưa từng nếm mùi đời, cho hai cái tát, không khỏi tức giận dị thường, nhưng nghĩ lại tạm phải nín nhịn, cốt ra khỏi nhà mồ rồi trị sư muội cũng chưa muộn, sư muội tuy có vài chiêu quái dị, song đã mất sức; ban nãy tựa hồ không phải thủ hạ lưu tình, mà là không còn sức lực, chả có gì đáng ngại, bèn cười nói:

– Thế mới đúng là sư muội tốt bụng, ta xin lỗi sư muội nhé, sư muội dẫn ta đi nào.

Dương Quá nghĩ thầm đây là cơ hội tốt để ly gián sư đồ nàng ta, bèn nói:

– Cô cô của đệ tử bảo rằng chỉ có thể dẫn một trong hai vị ra khỏi chốn này, sư bá nói xem là dẫn sư bá, hay đồ đệ của sư bá?

Lý Mạc Sầu nói:

– Tên tiểu tử lắm lời này, mau câm miệng lại cho ta coi.

Tiểu Long Nữ chưa rõ dụng ý của Dương Quá, nhưng bênh vực chàng, nói:

– Đúng thế, muội chỉ có thể dẫn một người ra, nhiều hơn thì không được.

Dương Quá cười, nói:

– Sư bá, hay là để cho Hồng sư tỷ cùng chúng tôi thoát ra thì hơn, sư bá đã nhiều tuổi, sống ngần ấy đủ rồi. Hồng sư tỷ dung mạo lại xinh đẹp hơn hẳn sư bá.

Kỳ thực Lý Mạc Sầu tuy hơn cả chục tuổi, nhưng xinh đẹp hơn hẳn Hồng Lăng Ba, nghe vậy thì càng tức giận, nhưng không nói gì. Dương Quá nói:

– Thôi được, chúng ta đi thôi! Cô cô đi trước dẫn đường, đệ tử đi thứ hai. Người đi sau cùng sẽ không thể ra khỏi nhà mồ.

Tiểu Long Nữ lúc này đã hiểu ý, khẽ cười, cầm lấy tay Dương Quá. Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba không hẹn mà tranh nhau đi thứ ba, hai người cùng chen ra cửa, chỉ sợ Tiểu Long Nữ bấm chốt đóng cửa, bỏ người cuối cùng ở lại trong nhà mồ. Lý Mạc Sầu giận dữ nói:

– Ngươi dám chen trước ta.

Tay trái giơ ra, đặt ngay lên vai Hồng Lăng Ba. Hồng Lăng Ba biết sư phụ xuất thủ tàn bạo, nếu không dừng bước, sẽ lập tức bỏ mạng dưới tay sư phụ, đành nhường Lý Mạc Sầu đi trước, trong bụng vừa hận vừa sợ.

Lý Mạc Sầu bám sát theo Dương Quá từng bước, không dám cách xa, chỉ thấy Tiểu Long Nữ quẹo ngang rẽ dọc, càng đi càng xuống thấp. Đồng thời chân giẫm phải bùn, thì biết rằng đã rời khỏi khu vực nhà mồ. Nhưng nhìn trong bóng tối, thấy có quá nhiều chỗ rẽ. Đi thêm một hồi, đường quá dốc, nếu bốn người võ công non kém, thì đã ngã lăn xuống từ sớm. Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: "Núi Chung Nam vốn không cao lắm, đi lối này chắc không lâu nữa sẽ tới chân núi".

Đi xuống dốc chừng nửa canh giờ, đường bớt dốc dần, song khí ẩm càng lúc càng tăng, sau đó nghe tiếng chảy rì rào, rồi chân đã đặt xuống nước; càng đi nước càng cao dần, tới gối, tới bụng, rồi ngập tới ngực. Tiểu Long Nữ hỏi nhỏ Dương Quá:

– "Bí quyết nín thở" ngươi còn nhớ hay không?

Dương Quá hạ giọng đáp:

– Thưa còn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Khi nín thở rồi, cứ yên tâm mà lội dưới nước.

Dương Quá nói:

– Vâng, cô cô cũng hãy cẩn thận.

Tiểu Long Nữ gật đầu.

Lúc này nước đã ngập tới cổ họng. Lý Mạc Sầu cả kinh, hỏi:

– Sư muội, sư muội có biết bơi không đấy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội từ lúc sinh ra chỉ sống trong nhà mồ, làm sao biết bơi?

Lý Mạc Sầu hơi yên tâm, bước dài một bước, không ngờ dưới chân hụt hẫng, nước xộc ngay vào miệng, nàng cả kinh, vội lùi lại, nhưng Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã hụp xuống nước, đến bước này, phía trước dẫu là rừng đao biển kiếm, nàng ta cũng phải lao tới, chợt sau lưng bị Hồng Lăng Ba túm chặt lấy áo; vội hất tay lại đằng sau một cái khá mạnh, song áo vẫn bị túm chặt. Lúc này tiếng nước réo ào ào, nước chảy rất mạnh, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba đều không biết bơi, bị cuốn trôi đi.

Lý Mạc Sầu võ công tuy cao thâm, lúc này cũng hết hồn, hai tay chới với túm loạn cả lên, bỗng chạm vào một vật, vội túm chặt lấy, hóa ra là cánh tay trái của Dương Quá. Dương Quá đang nín thở, được Tiểu Long Nữ dắt tay đi dưới nước, từng bước tiến lên phía trước, không ngờ bị Lý Mạc Sầu túm tay, bèn vận cầm nã thủ pháp gỡ ra, song Lý Mạc Sầu đã túm được, đời nào chịu buông? Dương Quá cố thoát ra mấy lần không xong, sợ dùng sức quá độ, sẽ uống nước vào bụng, đành để im cho nàng ta túm vậy.

Bốn người lôi kéo nhau đi dưới nước bằng thời gian ăn xong một bữa cơm, Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã tức thở hết chịu nổi, hai người đã uống no một bụng nước, thì may sao nước chảy chậm lại và địa thế lên cao dần, chẳng bao lâu đã nhô đầu lên khỏi mặt nước. Lại đi chừng tàn một nén nhang, càng đi phía trước càng sáng, cuối cùng ra tới một cái hang đá. Hai người kiệt sức, trước tiên vận khí nôn hết nước trong bụng ra, rồi mới nằm nghỉ.

Lúc này Lý Mạc Sầu vẫn nắm chặt cánh tay của Dương Quá. Chàng phải gỡ mãi mới xong. Tiểu Long Nữ điểm huyệt trên vai hai thầy trò sư tỷ, rồi mới đặt họ nằm xuống một tảng đá tròn, dốc cho nước trong bụng họ chảy ra đằng miệng.

Một hồi lâu sau, Lý Mạc Sầu kêu mấy tiếng, tỉnh lại trước, thấy ánh nắng chói chang, quả nhiên được thấy lại ánh sáng ban ngày, nhớ lại cảnh nguy khốn vừa trải qua trong nhà mồ và dòng suối ngầm, thì không lạnh mà run, tuy nửa thân trên tê dại, nhưng trong lòng dễ chịu hơn hẳn khi trước. Một hồi lâu nữa thì Hồng Lăng Ba cũng tỉnh lại.

Tiểu Long Nữ nói với Lý Mạc Sầu:

– Sư tỷ, hai người đi đâu thì đi?

Sư đồ Lý Mạc Sầu hai tay tê dại, nửa thân dưới hành động như thường, liền đứng dậy, lẳng lặng nhìn nhau một cái, rồi người trước kẻ sau bước đi.

Dương Quá đưa mắt nhìn tứ phía, chỉ thấy cây xanh bạt ngàn, ánh nắng chan hòa phía trên, lòng dạt dào vui sướng, nói:

– Cô cô, cô cô thấy có đẹp không?

Tiểu Long Nữ gật đầu, mỉm cười. Hai người nhớ lại tình cảnh mấy hôm rồi, tưởng như ở kiếp khác.

Xung quanh tĩnh mịch không một tiếng người, nguyên cái hang này ở dưới chân núi Chung Nam, một nơi vô cùng hoang vắng. Tối hôm ấy hai người nằm ngủ trên cỏ dưới một gốc cây.

Hôm sau tỉnh dậy, theo lời Dương Quá thì phải đi du ngoạn một chuyến, nhưng Tiểu Long Nữ chưa từng nhìn thấy thế giới phồn hoa, chưa biết thế nào, nên rất lo ngại, nói:

– Không, ta cần trước hết dưỡng thương cho khỏe, rồi hai ta luyện nết "Ngọc nữ tâm kinh" đã.

Dương Quá đánh vào đầu mình một cái, nói:

– Đáng chết? Tên tiểu tử hồ đồ này đáng ăn đòn. Đệ tử quên mất cả việc cô cô đang bị thương.

Chàng nghĩ sau khi xuống núi, lại cùng sư phụ cởi bỏ quần áo mà luyện công, thực là hết sức bất tiện, bèn giúp Tiểu Long Nữ vận công trị thương.

Không đầy nửa tháng, Tiểu Long Nữ đã khỏi nội thương. Dưới gốc một cây tùng lớn, hai người dựng hai gian nhà tranh nhỏ để tránh mưa gió. Dương Quá thích mùi hoa nồng đậm, nên trồng trước gian của mình các thứ như hoa hồng, hoa nhài. Tiểu Long Nữ thì thích đạm nhã, bảo lá tùng có mùi thơm mát, hơn hẳn các thứ kỳ hoa dị thảo, cho nên trước cửa gian của nàng cứ để tự nhiên, chỉ có dã thảo mà thôi.

Sư đồ hai người ban ngày thì ngủ, ban đêm luyện công. Mấy tháng sau, Tiểu Long Nữ luyện xong trước, thêm vài tháng nữa, Dương Quá cũng luyện thành.

Hai người diễn đi diễn lại hết sức thành thạo rồi, Dương Quá lại nhắc đến chuyện nhập thế.

Tiểu Long Nữ cảm thấy cứ sống yên ổn như thế này là được, khỏi phải vướng bận việc gì khác trên thế gian, song nghĩ Dương Quá lưu luyến hồng trần, khó lòng chịu giam mình ở chốn rừng núi hoang vu thế này, bèn nói:

- Quá nhi, võ công hai ta tuy đã tiến hơn hẳn trước nhưng nếu đem so với Quách bá phụ, Quách bá mẫu của ngươi thì sao?

Dương Quá nói:

– Dĩ nhiên là còn thua xa.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quách bá phụ của ngươi truyền võ công cho con gái và huynh đệ họ Võ, khi hai ta gặp bọn họ, sẽ bị bọn họ làm nhục.

Vừa nghe vậy, Dương Quá đứng bật dậy, tức giận nói:

– Bọn họ còn làm nhục đệ tử, đệ tử há để họ yên lành?

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Ngươi đánh không lại bọn họ, còn đòi này nọ.

Dương Quá nói:

– Thì cô cô giúp đệ tử.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta không địch nổi Quách bá mẫu của ngươi, thì cũng vô dụng.

Dương Quá cúi đầu không đáp, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

– Nể mặt Quách bá phụ, đệ tử sẽ không tranh chấp với họ nữa.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm: "Dương Quá ở trong nhà mồ hơn hai năm, đã luyện nội công phái Cổ Mộ cho nên tính nóng bớt hẳn, thật là tốt." Kỳ thực là do Dương Quá đã lớn, hiểu thêm sự lý, nghĩ Quách Tĩnh đối với chàng quả rất chân tình, chàng lấy làm cảm kích, cam nguyện nhường nhịn; huống hồ chàng cũng chẳng có thâm cừu đại oán gì với Quách Phù và huynh đệ họ Võ; chẳng qua đôi bên chỉ vì tranh nhau con dế mà đánh nhau, bây giờ nghĩ lại, đúng là chuyện trẻ con.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ngươi chịu nhường nhịn người khác thì không còn gì bằng. Nhưng nghe ngươi nói, ở bên ngoài, dù ngươi chịu nhường nhịn người khác, song người ta vẫn cứ bắt nạt ngươi, nếu hai ta không luyện võ công mà Vương Trùng Dương để lại, thì khi gặp người võ công cao cường, hai ta vẫn không địch nổi.

Dương Quá biết nàng vẫn chưa muốn rời bỏ chốn thanh tịnh này, nên không nỡ làm phật ý nàng, bèn nói:

- Cô cô, đệ tử vâng lời cô cô, từ ngày mai trở đi, chúng ta bắt đầu luyện "Cửu Âm chân kinh".

Thế là hai người lại sống trong sơn cốc hơn một năm nữa. Tiểu Long Nữ và Dương Quá theo lối đi bí mật quay lại "Hoạt tử nhăn mộ", bỏ ra mấy ngày học thuộc lòng di khắc của Vương Trùng Dương, mới trở ra bắt đầu luyện tập. Sau hơn một năm, nội công ngoại công của cả hai người đều tinh tiến.

Nhưng di khắc của Vương Trùng Dương ở trong mộ chỉ là pháp môn đối phó với "Ngọc nữ tâm kinh", chỉ là một phần nhỏ của "Cửu Âm chân kinh" mà thôi. Sở học của hai người nếu so với Quách Tĩnh, Hoàng Dung thì còn thua xa, song hai người không biết điều đó.

Một hôm luyện võ xong, hai người đều cảm thấy rất có tiến cảnh. Dương Quá thì hết sức vui sướng, Tiểu Long Nữ lại rầu rĩ không vui. Dương Quá luôn niệng nói cười để giải sầu cho nàng, Tiểu Long Nữ vẫn không nói năng gì. Dương Quá bây giờ đã học xong di khắc của Vương Trùng Dương, nếu nói phải hoàn toàn quán thông, thì chả biết đến ngày nào năm nào; chứ bí ẩn quyết khiếu của thứ võ công đó thì chàng đã hiểu hết cả; chỉ cần tiếp tục luyện tập công phu sẽ càng cao thâm, uy lực sẽ càng mạnh mẽ.

Đoán biết Tiểu Long Nữ không muốn xuống núi, chưa tìm ra lý do giữ chàng ở lại nên mới buồn rầu như thế, chàng bèn nói:

– Cô cô, cô cô không muốn xuống núi, thì hai ta vĩnh viễn ở đây cũng được.

Tiểu Long Nữ vui mừng, nói:

– Hay quá..

Hai chữ "hay quá" vừa buột ra, nàng ngừng luôn, biết rằng Dương Quá vì mình mà miễn cưỡng ở lại, thì mình cũng chẳng thể vui sướng thật sự, thế nên buồn bã nói tiếp:

– Để mai hãy hay.

Bữa tối nàng không ăn, đi vào gian của mình ngủ sớm.

Dương Quá ngồi ngẩn ngơ trên cỏ một lúc, mãi khi trăng sau núi mọc lên, chàng mới vào gian của mình nằm ngủ. Ngủ đến nửa đêm, nghe mơ màng có tiếng gió ù ù, âm thanh gấp gáp, đáng ngại. Dương Quá choàng tỉnh, dỏng tai nghe, đúng là có tiếng quyền, chưởng phong của hai người đang đánh nhau. Chàng vội chạy sang cửa gian nhà của sư phụ, gọi nhỏ:

– Cô cô, cô cô có nghe gì không?

Lúc này chưởng phong vù vù, nghe rõ hơn trước, lẽ ra Tiểu Long Nữ đã phải nghe thấy, song bên trong vẫn không có tiếng trả lời. Dương Quá gọi thêm hai lần, đẩy cánh cửa, thấy giường trống, sư phụ đã không nằm ở đó. Chàng vội vàng chạy về phía có tiếng động, chạy hơn mười trượng, chưa thấy người giao đấu, nhưng nghe chưởng phong đã biết một người chính là sư phụ, còn chưởng phong của đối thủ thì trầm hùng lợi hại, võ công dường như cao hơn sư phụ.

Dương Quá lao tới, dưới ánh trăng thấy Tiểu Long Nữ đang giao đấu kịch liệt với một người thân hình rất cao lớn. Tiểu Long Nữ tuy thân pháp khinh linh, nhưng đối phương võ công cao siêu, nàng bị chưởng lực của y chế ngự, chỉ miễn cưỡng chống đỡ mà thôi.

Dương Quá cả kinh, kêu lên:

– Sư phụ, có đệ tử đây!

Chàng vọt tới chỗ hai người, vừa đối diện với người kia, thì không khỏi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, thì ra cái người cao lớn, râu ria tua tủa như lông nhím kia chính là nghĩa phụ Âu Dương Phong xa cách đã lâu.

Chỉ thấy Âu Dương Phong đứng sừng sững như núi, đòn chưởng cứ thong thả tung ra liên tiếp, Tiểu Long Nữ chỉ tránh né chứ không dám đối chưởng.

Dương Quá kêu lên:

– Là người một nhà, xin đừng đấu nữa.

Tiểu Long Nữ hơi sững, nghĩ thầm gã hán tử điên khùng râu ria kia mà lại là người một nhà ư, thân pháp hơi chậm lại; một chưởng đánh xéo của Âu Dương Phong đã đánh thẳng tới mặt nàng, chưởng thế mạnh mẽ ghê gớm. Dương Quá kinh hãi, sấn tới, thấy tả chưởng của Tiểu Long Nữ đã đụng hữu chưởng của Âu Dương Phong, biết sư phụ công lực thua xa nghĩa phụ, thời khắc lâu một chút tất bị nội thương, liền giơ năm ngón tay đẩy nhẹ vào cùi chỏ bên phải của Âu Dương Phong, chính là công phu thượng thừa "Thủ huy ngũ huyền" trong "Cửu Âm chân kinh" mà chàng mới học được. Chàng luyện tuy chưa thành thạo, nhưng ra đòn đúng chỗ, Âu Dương Phong thấy cánh tay hơi tê, toàn thân mất lực.

Tiểu Long Nữ chớp ngay lấy thời cơ, thấy thế địch hơi yếu đi, thì lập tức tung đòn; trong chớp mắt này, Âu Dương Phong toàn thân vô lực, chỉ cần một ngón tay ra đòn cũng đủ khiến lão bị trọng thương. Dương Quá lật tay giữ lấy bàn tay của sư phụ, đứng xen giữa hai người, cười nói:

– Xin hai vị dừng tay, là người một nhà cả.

Âu Dương Phong chưa nhận ra Dương Quá, chỉ thấy gã thiếu niên này võ công rất cao, không thể xem thường, tức giận hỏi:

– Mi là ai? Cái gì mà người một nhà với chả hai nhà?

Dương Quá biết nghĩa phụ điên điên khùng khùng, chỉ sợ lão đã quên biến mình, bên kêu to:

– Cha ơi, con đây, nhi tử của cha đây mà.

Câu này tràn ngập tình cảm. Âu Dương Phong ngẩn ra, kéo tay chàng, xoay mặt chàng ra phía ánh trăng mà nhìn, đúng là nghĩa nhi mấy năm nay lão tìm kiếm khắp nơi, bây giờ một là thân hình đã cao lớn, hai là võ nghệ cao cường nên ban đầu khó bề nhận ra. Lão lập tức ôm chầm lấy Dương Quá, kêu to:

– Hài nhi, ta tìm con khổ sở biết bao?

Hai người ôm chặt nhau, cùng ứa nước mắt.

Tiểu Long Nữ vốn lãnh đạm, chỉ biết trên đời có một mình Dương Quá là người nhiệt tình như lửa, lúc này thấy Âu Dương Phong cũng như thế, thì đối với việc xuống núi càng lo ngại, ngồi lặng im một bên, lòng buồn bã.

Âu Dương Phong từ ngày chia tay với Dương Quá ở miếu Thiết Thương phủ Gia Hưng, trốn trong chiếc chuông lớn khiến Kha Trấn Ác không làm gì được. Lão tiềm vận thần công, trị liệu nội thương, sau bảy ngày đêm nội lực đã phục hồi, nhưng vết ngoại thương bởi thiết trượng của Kha Trấn Ác thì vẫn chưa đỡ. Lão chui ra khỏi chuông, tới khách điếm dưỡng thương hai mươi ngày nữa, nội thương ngoại thương đều khỏi cả, liền đi tìm Dương Quá.

Nhưng đã một tháng trôi qua, đất trời bao la, biết tìm đâu tung tích của đứa con nuôi? Lão nghĩ bụng: "Hài tử chín phần mười ra Đào Hoa đảo", bèn thuê một chiếc thuyền nhỏ, giong buồm tới Đào Hoa đảo, ban ngày không dám lại gần đảo, ban đêm mới lên bờ ở sau núi. Lão tự biết không địch nổi hai người Quách Tĩnh, Hoàng Dung; lại không biết Hoàng Dược Sư vắng mặt ở đảo, nghĩ mình có bản lĩnh gấp đôi, cũng chẳng địch nổi ba cha con họ; vì thế ban ngày phải trốn trong một cái hang cực kỳ hoang vu, ban đêm mới dám len lén tuần du. Trên đảo bố trí kỳ diệu, lão cũng chả dám đi lại tùy tiện.

Cứ thế hơn một năm, lão vẫn thận trọng vạn phần, ban ngày không dám rời hang nửa bước, không phát giác được tung tích Dương Quá, mãi một buổi tối nọ, tình cờ nghe huynh đệ Võ Tu Văn trò chuyện, mới biết Quách Tĩnh đã đưa Dương Quá đến giáo phái Toàn Chân học nghệ. Âu Dương Phong cả mừng, lập tức lấy trộm thuyền rời đảo, tìm đến cung Trùng Dương, núi Chung Nam.

Nào ngờ bấy giờ Dương Quá đã làm náo loạn cả phái Toàn Chân, vào sống trong "Hoạt tử nhân mộ". Việc đó quả là nỗi nhục lớn đối với phái Toàn Chân, nên mọi người trong giáo phái đều tuyệt nhiên không nhắc tới, Âu Dương Phong tìm thiên phương bách kế cũng không dò la được chút tin tức gì.

Lão lặn lội xung quanh núi Chung Nam hàng trăm dặm, đâu biết Dương Quá đang ở trong lòng đất, dĩ nhiên tìm chẳng ra.

Đêm nay tình cờ lão đang đi trong sơn cốc, bỗng thấy một bạch y thiếu nữ ngồi bó gối dưới ánh trăng mà thở dài. Âu Dương Phong điên điên khùng khùng hỏi:

– Này, hài nhi của ta ở đâu hả? Ngươi có trông thấy nó hay không?

Tiểu Long Nữ nhìn lão một cái, không thèm để ý.

Âu Dương Phong sấn tới, giơ tay chộp lấy cánh tay nàng, quát:

– Này, hài nhi của ta ở đâu hả?

Tiểu Long Nữ thấy lão ta xuất thủ mạnh mẽ, võ công cao cường, bình sinh chưa từng gặp, các cao thủ phái Toàn Chân không thể sánh bằng, thì nàng không khỏi kinh hãi, vội sử thủ pháp tiểu cầm nã để thoát ra.

Âu Dương Phong đã chộp phải trúng, ai dè đối phương lại nhẹ nhàng khôn khéo hóa giải được, thì cũng chẳng buồn hỏi nàng là ai, tay trái tung đòn liền. Hai người giao đấu với nhau không một chút nguyên do.

Nghĩa phụ nghĩa tử hàn huyên một hồi. Âu Dương Phong thần trí nửa tỉnh nửa mê, chuyện quá khứ đã kể không thật rõ, mà đối với những gì Dương Quá thuật lại cũng chẳng hiểu mấy, chỉ biết mấy năm rồi Dương Quá lúc nào cũng ở bên cạnh Tiểu Long Nữ luyện công, lão nói to:

– Nàng ta võ công không bằng ta, hà tất theo nàng luyện? Để ta dạy cho con.

Tiểu Long Nữ đâu có so bì với lão ta, nàng nghe vậy chỉ cười nhạt, tự lánh sang một bên.

Dương Quá cảm thấy khó xử, nói:

– Cha ơi, sư phụ đối với con rất tốt.

Âu Dương Phong thấy ghét, nói:

– Nàng ta rất tốt, còn ta thì không tốt hay sao?

Dương Quá cười, nói:

- Cha cũng rất tốt. Trên đời này chỉ có hai vị đối xử rất tốt với con.

Lời kể của Âu Dương Phong tuy không rõ ràng, nhưng Dương Quá cũng biết mấy năm nay nghĩa phụ lặn lội tìm kiếm mình khắp nơi, thật là thiên tân vạn khổ.

Âu Dương Phong nắm lấy bàn tay Dương Quá, cười hi hi ngớ ngẩn một hồi, rồi nói:

Dương Quá hỏi:

– Là kỳ công gì vậy?

Cặp lông mày rậm của Âu Dương Phong dựng ngược, lão quát:

– Ngươi là con nhà võ, mà có hai đại kỳ công cũng không biết, thử hỏi ngươi bái nàng ta làm sư phụ có được cái gì?

Dương Quá thấy Âu Dương Phong chợt vui chợt giận, không khỏi lo ngại, nghĩ thầm: "Bệnh của nghĩa phụ thế này, chẳng biết bao giờ mới khỏi?" Âu Dương Phong cười ha hả, nói:

– Hừ, để ta dạy cho con. Hai đại kỳ công, thứ nhất là "Cáp mô công", thứ hai là "Cửu Âm chân kinh". Trước tiên ta dạy cho con công phu nhập môn của "Cáp mô công".

Nói đoạn liền đọc khẩu quyết. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Cha đã dạy con rồi, cha quên rồi sao?

Âu Dương Phong gãi gãi đầu, nói:

– Thì ra con đã học qua, thế thì còn gì hay bằng, vậy con làm thử ta coi.

Dương Quá sau khi vào "Hoạt tử nhân mộ", không còn luyện công phu kinh dị mà Âu Dương Phong từng truyền thụ cho chàng lúc này nghe lão nói vậy, bèn làm theo. Tại Đào Hoa đảo chàng đã luyện, bây giờ vận dụng thêm nội công thượng thừa, lập tức diễn đâu ra đấy. Âu Dương Phong nói:

– Khá lắm, khá lắm! Nhưng như thế chưa đủ, chỉ nhìn đẹp mắt chứ vô dụng. Thôi để ta đem quyết khiếu truyền hết cho con mới được?

Rồi hoa chân múa tay, miệng thao thao bất tuyệt, cũng chẳng cần biết Dương Quá có nhớ nổi hay không, cứ nói liên tục một chập về "Cáp mô công", lại một chập về "Cửu Âm chân kinh". Dương Quá nghe một hồi, thấy mỗi câu đều có hàm nghĩa sâu xa, đã phồn tạp lại cổ quái, nhất thời làm sao có thể lĩnh hội nhiều chừng ấy?

Âu Dương Phong nói một hồi, bỗng liếc sang thấy Tiểu Long Nữ ngồi gần đó, bèn kêu lên:

– Úi chao, hỏng rồi, không được để cho ả sư phụ của con nghe lén.

Lão tới trước mặt Tiểu Long Nữ, nói:

– Này con tiểu a đầu, ta đang truyền võ công cho hài nhi của ta, ngươi đừng có mà nghe trộm.

Tiểu Long Nữ nói:

– Võ công của lão có gì quý hóa, ai thèm nghe trộm?

Âu Dương Phong nghiêng đầu nghĩ một chút, nói:

– Được thế thì ngươi đi ra chỗ khác đi.

Tiểu Long Nữ dựa vào gốc cây, lạnh lùng nói:

– Tại sao ta lại phải làm theo lời của lão? Ta thích đi thì đi, không thích đi thì thôi.

Âu Dương Phong cả giận, lông mày trợn ngược, giơ tay như sắp trảo vào mặt nàng, song Tiểu Long Nữ coi như không thấy. Dương Quá gọi to:

– Cha ơi, cha chớ nên đắc tội với sư phụ của con.

Âu Dương Phong thu tay về, nói:

– Thôi được, thế thì bọn ta đi ra chỗ khác vậy, nhưng ngươi không được bám theo nghe lén đấy.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm nghĩa phụ của Dương Quá là một kẻ vô lại, nàng chẳng buồn đếm xỉa đến nữa, ngoảnh đi không đáp; không ngờ sau lưng đột nhiên tê dại, thì ra Âu Dương Phong bất ngờ điểm huyệt sau lưng nàng. Lão xuất thủ cực lẹ, Tiểu Long Nữ lại không hề đề phòng, đến lúc muốn chống cự thì toàn thân đã khó bề cử động. Âu Dương Phong lại điểm thêm một huyệt ở thắt lưng nàng, cười nói:

– Này con tiểu a đầu, đừng lo, chờ ta dạy võ cho con ta xong, ta sẽ trở lại thả ngươi ra.

Nói xong cười lớn mà đi. Dương Quá chính đang mải ghi nhớ "Cáp mô công" và "Cửu Âm chân kinh" do nghĩa phụ truyền thụ, cảm thấy một số khẩu quyết luyện công có sự lẫn lộn không rõ, song diệu dụng cực nhiều, không có gì nghi ngờ, nên chú tâm suy nghĩ, không biết Tiểu Long Nữ bị đánh lén. Âu Dương Phong bước tới cầm tay chàng, nói:

– Chúng ta lại đằng kia, không cho tiểu sư phụ của con nghe trộm.

Dương Quá nghĩ thầm, Tiểu Long Nữ cần gì phải nghe trộm, nghĩa phụ dẫu có muốn truyền cho nàng, nàng cũng không chịu học; nhưng biết nghĩa phụ tâm tính thất thường, cũng chẳng nên tranh cãi với lão làm gì, bèn đi theo lão.

Tiểu Long Nữ ngồi phệt xuống đất, vừa bực tức vừa buồn cười, nghĩ bụng mình luyện võ cũng khá tinh thâm, song lại chưa có kinh nghiệm lâm địch, sau khi bị Lý Mạc Sầu ám toán, lại bị lão râu xồm điên khùng này đánh lén, bèn vận "Cửu Âm thần công" tự thông huyệt đạo, hít một hơi dài, xung hướng huyệt đạo mấy lần, ai dè hai chỗ huyệt đạo chẳng những không có dấu hiệu giải khai, mà còn ê ẩm hơn, thì không khỏi kinh hãi. Nguyên thủ pháp của Âu Dương Phong nghịch chuyển với "Cửu Âm chân kinh"; nàng dùng di pháp của Vương Trùng Dương xung giải mấy lần, chỉ thấy huyệt đạo đau đau, thì không dám thử thêm, nghĩ thầm lão khùng truyền dạy xong trở lại giải huyệt, nàng cũng chẳng có việc gì phải vội, thế nên cũng không lo lắng, ngẩng đầu nhìn bầu trời sao một lát rồi ngủ thiếp đi.

Rất lâu sau, cảm thấy trên mắt có sự đụng chạm, nàng có khả năng nhìn mọi vật trong bóng đêm rõ như ban ngày, song lần này không thấy gì, hóa ra hai mắt đều bị người ta dùng băng vải bịt lại. Tiếp đó có người vòng tay ôm lấy nàng. Người đó lúc mới ôm còn rụt rè, sau cứ bạo dạn dần lên. Tiểu Long Nữ vô cùng kinh hãi, há miệng để kêu to, song miệng lưỡi khó cử động, lại bị người kia dùng miệng mà hôn vào miệng nàng. Thoạt tiên nàng còn tưởng Âu Dương Phong giở trò cường bạo, nhưng khi người kia áp mặt vào má nàng, thì da dẻ nhẵn nhụi, không có râu. Nàng không sợ nữa, tình dục nảy sinh, đoán là Dương Quá lại đùa giỡn với nàng.

Chỉ cảm thấy hai tay chàng càng lúc càng lộn xộn, thong thả cởi quần áo nàng ra. Tiểu Long Nữ không thể cử động, đành để người kia muốn làm gì tùy ý, vừa thinh thích, vừa ngượng ngùng.

Âu Dương Phong thấy Dương Quá cực kỳ thông minh, lão truyền thụ khẩu quyết, chàng tuy không lĩnh hội hết, nhưng ghi nhớ cực nhanh. Lão thích chí, càng nói càng cao hứng, thao thao bất tuyệt mãi đến khi trời sáng mới nói xong yếu chỉ hai đại kỳ công, Dương Quá lẳng lặng ghi nhớ, rồi nói:

– Hài nhi cũng đã học "Cửu Âm chân kinh" nhưng lại khác hẳn với những gì cha nói là vì sao?

Âu Dương Phong nói:

– Nói bậy, ngoài thứ này ra, làm gì còn có thứ "Cửu Âm chân kinh" nào khác?

Dương Quá nói:

– Tỷ như luyện thuật "Dịch cân đoạn cốt", cha bảo bước thứ ba là khí huyết nghịch hành, xung huyệt Thiên Trụ. Sư phụ con lại bảo ý thủ đan điền, thông huyệt Chương Môn.

Âu Dương Phong lắc đầu, nói:

– Không đúng, không đúng, hừ, khoan đã..

Lão vận hành theo lời Dương Quá, bỗng thấy nội lực phát triển, ý cảnh khác hẳn. Lão tự nghĩ không thể ngờ rằng kinh văn mà Quách Tĩnh chép cho lão kỳ thực đã bị thay đổi, bất giác đầu óc rối loạn, lão lẩm bẩm một mình:

– Sao nhỉ, cuối cùng là ta sai, hay là ả sư phụ của ngươi sai? Sao lại có chuyện lung tung như thế?

Dương Quá thấy nghĩa phụ tròn mắt, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, gọi liền mấy tiếng lão cũng chẳng đáp, sợ lão lại nổi cơn điên, trong lòng rất lo, bỗng nghe có tiếng soạt, một bóng người lướt sau một gốc cây cách xa mấy trượng, thấp thoáng một góc áo đạo sĩ màu vàng. Nơi đây không dấu chân người, sao lại có kẻ lạ mò tới? Hơn nữa hắn lại lén lén lút lút, hiển nhiên không có thiện ý, bất giác chàng nghi ngờ, vội vã đuổi theo. Người kia cước bộ cực nhanh, chạy như bay, chỉ thấy sau lưng, thì ra là một đạo sĩ. Dương Quá gọi:

– Này người kia, là ai vậy? Đến đây làm gì?

Chàng thi triển khinh công, đuổi thật gấp. Đạo sĩ kia nghe tiếng gọi càng chạy nhanh hơn.

Dương Quá dấn lên, thân hình lao đi như một mũi tên, giơ tay túm được vai người kia, kéo lại, thì ra là Doãn Chí Bình phái Toàn Chân. Dương Quá thấy y áo mũ không tề chỉnh, mặt lúc đỏ lúc trắng, bèn quát hỏi:

– Ngươi làm trò gì thế?

Doãn Chí Bình là thủ tòa đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, võ công cao cường, thường ngày cử chỉ rất đường hoàng, nhưng không hiểu vì sao lúc này vẻ mặt lại hết sức bối rối, không nói nên lời. Dương Quá thấy y sợ hãi, nhớ lại ngày nào y tự chặt hai ngón tay để thề, kể ra không phải là kẻ xấu, bèn buông vai y, ôn tồn nói:

– Đã không có việc gì, thì hãy đi đi!

Doãn Chí Bình vừa vội vã bước đi, vừa mấy lần ngoảnh lại sợ sệt nhìn chàng.

Dương Quá cười thầm: "Gã đạo sĩ này hồn vía lên nây, trông thật tức cười". Chàng quay về chỗ hai gian nhà tranh, thấy từ sau gốc cây chìa ra hai chân của Tiểu Long Nữ, hoàn toàn bất động, tựa hồ nàng đang ngủ. Dương Quá gọi:

– Cô cô?

Chàng gọi liền hai tiếng, không thấy nàng thưa, bên vòng ra sau gốc cây, thấy Tiểu Long Nữ nằm đó, mắt bị một mảnh vải bịt kín.

Dương Quá hơi kinh ngạc, cởi mảnh vải ra, thấy ánh mắt nàng thần sắc lạ lùng, đầy vẻ thẹn thùng.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô, ai bịt mắt cô cô thế?

Tiểu Long Nữ không trả lời, ánh mắt thoáng lộ vẻ trách móc. Dương Quá thấy thân thể nàng bất động, hình như bị điểm huyệt, giơ tay lay lay nàng, quả nhiên nàng không cử động gì được, chàng chợt hiểu nguyên do: "Chắc là nghĩa phụ dùng phép điểm huyệt nghịch kình, điểm huyệt cô cô, nếu không thì cô cô đã tự giải huyệt được rồi". Thế là chàng bèn dựa theo cách Âu Dương Phong vừa dạy, đả thông huyệt đạo cho nàng.

Không ngờ sau khi Dương Quá đã giải huyệt cho nàng, người nàng vẫn cứ mềm nhũn ngả hẳn vào người chàng, tựa hồ xương cốt toàn thân nhũn đi vậy. Dương Quá đỡ vai nàng, nói:

– Cô cô, nghĩa phụ đệ tử hành sự thất thường, mong cô cô đừng giận.

Tiểu Long Nữ giấu mặt vào ngực chàng, nói:

– Ngươi hành sự thất thường thì có, không biết xấu còn chê người khác?

Dương Quá thấy cửchỉ của nàng khác hẳn mọi khi, thì đâm hoảng, ấp úng:

– Cô cô, đệ tử.. đệ tử..

Tiểu Long Nữ ngẩng mặt lên, có vẻ giận, nói:

– Chàng còn gọi ta là cô cô ư?

Dương Quá càng hoảng thêm, nói:

– Đệ tử không gọi là cô cô, chẳng lẽ lại gọi là sư phụ hay sao?

Tiểu Long Nữ mỉm cười ngượng nghịu, nói:

– Chàng đã làm thế đối với ta, ta còn có thể là sư phụ của chàng được sao?

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Đệ tử.. đệ tử làm gì kia?

Tiểu Long Nữ vén tay áo lên, để lộ cánh tay trắng ngần như ngọc, điểm son trinh nữ màu đỏ đã biến mất, nàng xấu hổ nói:

– Chàng nhìn xem.

Dương Quá không hiểu gì hết, vò đầu bứt tai, nói:

– Cô cô, đệ tử không hiểu gì cả.

Tiểu Long Nữ bực mình:

– Ta đã bảo chàng đừng gọi ta là cô cô nữa.

Tiểu Long Nữ thấy chàng lộ vẻ hoảng sợ, lòng bỗng nảy sinh muôn phần trìu mến, dịu dàng nói:

– Môn hạ phái Cổ Mộ chúng ta mấy đời toàn là xửnữ truyền xử nữ. Sư phụ của ta điểm một dấu son trinh nữ ở đây, đêm qua.. đêm qua chàng.. làm thế với ta, bây giờ dấu son trinh nữ có còn nữa không?

Dương Quá nói:

– Đêm qua đệ tử làm gì với cô cô kia chứ?

Tiểu Long Nữ đỏ mặt, nói:

– Đừng hỏi nữa. Dạo trước ta sợ xuống núi, bây giờ khác rồi, bất luận chàng đi đâu, ta cũng cam tâm tình nguyện đi theo chàng.

Dương Quá cả mừng, reo lên:

– Cô cô, hay lắm!

Tiểu Long Nữ nghiêm mặt, nói:

– Đấy, chàng lại gọi ta là cô cô rồi. Chẳng lẽ chàng không chân tình với ta hay sao?

Nàng thấy Dương Quá không trả lời, thì sốt ruột, run giọng, hỏi:

– Rốt cuộc chàng coi ta là người thế nào?

Dương Quá chân thành nói:

– Cô cô là sư phụ của đệ tử, cô cô thương đệ tử, dạy đệ tử, đệ tử xin thề suốt đời kính trọng cô cô, vâng lời cô cô.

Tiểu Long Nữ cao giọng:

– Chẳng lẽ chàng không coi ta là thê tử của chàng?

Dương Quá chưa bao giờ nghĩ đến việc đó, đột nhiên bị nàng hỏi đến thì ngớ ra, chưa biết trả lời thế nào cho phải, lẩm bẩm một mình: "Không, không, cô cô không thể làm thê tử của ta, ta làm sao xứng nổi? Cô cô là sư phụ của ta, là cô cô của ta".

Tiểu Long Nữ giận run cả người, bỗng ọe ra một ngụm máu tươi.

Dương Quá chân tay luống cuống, chỉ kêu lên:

– Cô cô, cô cô!

Tiểu Long Nữ thấy chàng vẫn cứ gọi như thế, thì hầm hầm nhìn chàng, liền giơ tả chưởng đánh xuống đỉnh đầu Dương Quá, song đòn ấy trước sau vẫn không đánh xuống; ánh mắt nàng từ não hận chuyển thành oán trách, từ oán trách lại chuyển thành thương yêu; nàng thở dài, nhẹ nhàng nói:

– Đã thế, từ rày chàng đừng gặp mặt ta nữa.

Rồi phất tay áo, quay người chạy xuống núi.

Dương Quá gọi to:

– Cô cô, cô cô đi đâu vậy? Đệ tử cùng đi với.

Tiểu Long Nữ quay mặt lại, nước mắt lưng tròng, thong thả nói:

– Chàng còn gặp mặt ta, chỉ e.. chỉ e ta.. ta không làm chủ được mình, khó bề tha chết cho chàng.

Dương Quá nói:

– Cô cô trách đệ tử không nên học võ công của nghĩa phụ phải không?

Tiểu Long Nữ buồn rầu nói:

– Chàng học võ công của người khác, ta đâu trách làm gì?

Đoạn quay mình đi thẳng.

Dương Quá sững sờ, không biết mình có lỗi gì, thấy bóng áo trắng của nàng xa dần, cuối cùng biến mất ở chỗ quành của sơn đạo, thì bất giác bi phẫn khóc tướng lên. Ngẫm đi nghĩ lại, thực không biết mình đắc tội gì với sư phụ, tại sao thần tình của nàng lại kỳ dị như thế, lúc thì nhu mì âu yếm, lúc lại oán hận quyết tuyệt? Vì sao nàng lại bảo muốn làm thê tử của ta, lại không cho phép ta gọi nàng là cô cô? Nghĩ chán chê, tự nhủ thầm: "Việc này chắc chắn liên quan đến nghĩa phụ, ắt là nghĩa phụ đã đắc tội với sư phụ".

Thế là chàng đi tới trước mặt Âu Dương Phong, chỉ thấy lão mắt mở trừng trừng, ngồi không động đậy. Dương Quá nói:

– Cha ơi, cha đắc tội thế nào với sư phụ của con vậy?

Âu Dương Phong nói:

– Cửu Âm chân kinh, Cửu Âm chân kinh.

Dương Quá hỏi:

– Tại sao cha lại điểm huyệt sư phụ con, để sư phụ con tức giận đến thế?

Âu Dương Phong nói:

– Rốt cuộc là nghịch xung huyệt Thiên Trụ, hay là thuận thông huyệt Chương Môn.

Dương Quá sốt ruột, hỏi:

– Cha ơi, vì sao sư phụ con lại bỏ đi? Cha nói đi, cha đã làm gì?

Âu Dương Phong nói:

– Sư phụ người là ai? Ta là ai? Ai là Âu Dương Phong?

Dương Quá thấy lão lại nổi cơn điên khùng, thì vừa sợ hãi, vừa đau lòng, ôn tồn nói:

– Cha ơi, cha mệt rồi, cha con mình vào trong nhà nghỉ thôi.

Âu Dương Phong đột nhiên lộn người trồng cây chuối, chống đầu xuống đất, nói to:

– Ta là ai? Ta là ai? Âu Dương Phong đi đâu rồi?

Hai chân lão múa loạn lên, thân hình di chuyển nhanh chóng, đi bằng hai tay, nhanh như gió xuống núi. Dương Quá gọi to:

– Cha ơi?

Chàng định kéo lão lại, bị lão phóng cước đá cho một cái trúng cằm, may mà lão không dùng lực mạnh. Dương Quá đứng không vững, ngã ngửa ra sau, lúc đứng thẳng dậy, thì Âu Dương Phong đã đi xa ngoài chục trượng.

Dương Quá đi mấy bước, bỗng dừng chân, ngẩn người giây lát, Âu Dương Phong đã biến mất dạng. Dương Quá nhìn tứ phía, chỉ là cảnh núi rừng tĩnh mịch, thoảng có tiếng chim hót. Chàng cuống lên, gọi to:

– Cha ơi, cô cô ơi! Cha ơi, cha ơi!

Lát sau tứ phía sơn cốc hồi âm vọng lại "Cha ơi, cô cô ơi?"

Mấy năm vừa qua chàng với Tiểu Long Nữ không rời nhau nửa bước, vừa như mẫu tử, lại như chị em, giờ đây bỗng dưng không hiểu vì sao nàng lại tuyệt tình bỏ đi, lẽ nào chẳng làm cho chàng ruột đứt từng đoạn? Chàng quá đau lòng, tưởng muốn đập đầu vào đá mà chết quách.

Nhưng trong lòng còn chút hi vọng; sư phụ đã bỗng dưng bỏ đi, chắc sẽ bỗng dưng trở lại. Nghĩa phụ tuy có đắc tội với nàng, song nàng nghĩ ta hoàn toàn không phạm lỗi gì tự nhiên nàng sẽ trở lại tìm chàng.

Đêm ấy chàng ngủ sao yên? Hễ nghe một tiếng động nhỏ, chàng đều tưởng là Tiểu Long Nữ trở về, lại vội bò dậy, gọi to "Cô cô!" chạy ra đón; và lần nào cũng thất vọng buồn bã. Sau đó chàng không nằm nữa, chạy ra sườn núi, căng mắt nhìn bốn phía, mãi cho tới lúc trời sáng hẳn, chỉ thấy dưới đáy sơn cốc sương mù như mây, trời đất mênh mông, song chỉ có mỗi một người là Dương Quá mà thôi.

Dương Quá vỗ vào ngực, chợt nghĩ: "Sư phụ không trở về, thì ta đi tìm nàng, chỉ cần gặp được nàng, bất kể nàng muốn đánh muốn chửi ta thế nào, ta cũng sẽ không rời nàng. Nàng muốn đánh chết ta thì cứ để nàng đánh".

Lòng đã quyết, tinh thần lập tức phấn chấn, chàng vơ đại quần áo vật dụng của hai người gói lại, đeo sau lưng rồi đi xuống núi. Cứ đến chỗ nào có nhà dân, chàng lại hỏi thăm có thấy một bạch y thiếu nữ xinh đẹp hay chăng. Nửa ngày trời, hỏi thăm mười mấy hương dân, ai cũng lắc đầu bảo không thấy. Dương Quá nóng lòng sốt ruột, khi hỏi thăm lời lẽ không tránh khỏi thiếu lễ độ; một số hương dân thấy chàng còn ít tuổi mà luôn miệng hỏi về một thiếu nữ xinh đẹp nào đó, thì họ có phần bực mình, có người hỏi lại, thiếu nữ kia là thế nào với chàng. Dương Quá đáp:

– Các hạ khỏi cần biết, ta chỉ hỏi các hạ có nhìn thấy bạch y thiếu nữ đi qua đây hay không?

Người được hỏi bĩu môi giễu cợt. Một lão nhân đứng cạnh kéo áo chàng, chỉ con đường nhỏ ở mé đông, cười nói:

– Tối qua lão phu thấy có một tiên nữ đi về hướng đông, lão phu cứ ngỡ là Quan Thế Âm Bồ Tát giáng trần, không ngờ lại là hiền thê của tiểu huynh đệ..

Dương Quá chưa nghe xong đã vội vái tạ, rồi cắm đầu chạy về hướng đó, chỉ nghe sau lưng tiếng cười ồ, chàng cũng chàng để ý, đâu biết rằng lão nhân thấy chàng trẻ tuổi vô lễ, đã cố tình đánh lừa chàng.

Chạy độ một tuần trà, trước mắt có ngã ba, không biết nên rẽ hướng nào. Chàng nghĩ thầm: "Cô cô không thích ồn ào, chắc sẽ chọn nơi nào hẻo lánh", bèn quẹo sang một con đường mòn nhỏ bên trái, không ngờ đường này càng đi càng rộng dần, sau mấy đoạn quành, lại thông ra một con đường lớn. Từ hôm qua đến giờ chàng chưa có chút gì vào bụng, thấy trời sắp tối, bụng đói cồn cào, nhìn phía trước nhà cửa san sát, là một thị trấn, bèn rảo bước, tìm một khách điếm, bước vào gọi cơm ăn.

Điếm tiểu nhị bưng ra một suất ăn thông thường.

Dương Quá ăn vài miếng, cổ họng cứ nghẹn lại khó nuốt, thì không ăn nữa, nghĩ thầm: "Dù trời tối, mình cũng phải đi tìm cô cô, bỏ lỡ đêm nay, chỉ e mãi mãi không được gặp lại". Thế là chàng buông đũa, gọi:

– Điếm bạn, ta hỏi ngươi một câu.

Điếm tiểu nhị cười, nói:

– Thiếu gia có gì sai bảo ạ? Món ăn không hợp khẩu vị chăng? Tiểu đích sẽ dọn món khác hầu thiếu gia.

Dương Quá xua tay lia lịa, nói:

– Không phải chuyện ăn uống, ta hỏi ngươi, ngươi có thấy một bạch y cô nương mỹ mạo ghé qua đây chăng?

Điếm tiểu nhị ngẫm nghĩ, nói:

– Bạch y à, ồ vị cô nương ấy mặc đồ tang ư? Gia đình có thân nhân qua đời à?

Dương Quá sốt ruột, hỏi:

– Rốt cuộc là có hay không?

Điếm tiểu nhị đáp:

– Cô nương thì có, đúng là mặc đồ màu trắng..

Dương Quá mừng rơn, hỏi:

– Nàng đi lâu chưa?

Điếm tiểu nhị nói:

– Đi lâu rồi? Nhưng mà thiếu gia ơi, cô nương ấy không hay đâu..

Đột nhiên y hạ thấp giọng, nói:

– Tiểu đích khuyên thiếu gia đừng tìm nàng ta thì hơn.

Dương Quá cả mừng, biết là đã lần theo tung tích cô cô vội hỏi:

– Nàng ta.. làm sao?

Điếm tiểu nhị nói:

– Tiểu đích hỏi thiếu gia câu này, thiếu gia có biết nàng ta giỏi võ hay không đã?

Dương Quá nghĩ thầm: "Sao ta lại không biết?" bèn đáp:

– Biết chứ, nàng ta giỏi võ lắm.

Điếm tiểu nhị nói:

– Thế thì thiếu gia còn đi tìm nàng ta làm gì, nguy hiểm đấy!

Dương Quá hỏi:

– Rốt cuộc là có chuyện gì?

Điếm tiểu nhị nói:

– Thiếu gia hãy cho tiểu đích biết, bạch y mỹ nữ là người thế nào với thiếu gia đã.

Dương Quá hết cách, biết rằng nếu không nói vài điều về Tiểu Long Nữ, thì điếm tiểu nhị sẽ không chịu cho biết hành tung của nàng, bèn nói:

– Nàng ta là.. tỷ tỷ của ta, ta cần tìm nàng.

Điếm tiểu nhị nghe vậy liền tỏ vẻ kính nể hơn, nhưng lại lắc đầu lẩm bẩm:

– Không giống, không giống..

Dương Quá sốt ruột, túm lấy cổ áo điếm tiểu nhị, quát:

– Rốt cuộc ngươi có chịu nói hay không thì bảo?

Điếm tiểu nhị lè lưỡi, nói:

– Đúng, đúng, giờ thì giống!

Dương Quá quát hỏi:

– Cái gì mà lúc thì không giống, lúc lại giống?

Điếm tiểu nhị nói:

– Thiếu gia, hãy buông tay ra đã, cổ họng tiểu đích bị nghẹn không nói được đây này, kể ra nói cũng được nhưng mà..

Dương Quá nghĩ gã này tính nết như thế, mình có dùng vũ lực cũng bằng thừa, liền buông tay. Điếm tiểu nhị ho vài tiếng, nói:

– Thiếu gia, tiểu đích bảo không giống, bởi vì cô nương.. tỷ tỷ của thiếu gia vừa trẻ vừa xinh hơn thiếu gia, trông là muội muội thì đúng hơn là tỷ tỷ. Còn bảo giống, là vì cả hai vị đều nóng như lửa, động một tí đã giở vũ lực.

Dương Quá nghe vậy thì cả mừng, tươi cười, nói:

– Tỷ tỷ của ta động võ với người khác hả?

Điếm tiểu nhị nói:

– Chứ sao nữa, không chỉ động võ, mà còn đánh bị thương mấy người, thiếu gia xem đây.

Gã chỉ vết đao kiếm chém mặt bàn, đắc ý nói:

– Nguy hiểm thật, tỷ tỷ của thiếu gia võ công tài quá, một đao mà chém đứt tai cả hai vị đạo gia.

Dương Quá cười, hỏi:

– Đạo gia nào?

Chàng đoán thầm chắc hai gã đạo sĩ phái Toàn Chân bị Tiểu Long Nữ giáo huấn một phen. Điếm tiểu nhị nói:

– Hai vị ấy..

Nói tới đó, mặt liền biến sắc, nhún vai, quay người đi.

Dương Quá đoán có chuyện gì, không đuổi theo gã mà bưng đũa bát lên lùa cơm vào miệng; mắt thì liếc vội thấy từ ngoài cổng khách điếm có hai đạo sĩ sánh vai nhau tiến vào. Hai người đó trạc hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi, băng tai, tới ngồi xuống bàn bên cạnh. Gã đạo sĩ lông mày rậm liên tiếp hối thúc mang cơm rượu lên. Điếm tiểu nhị cười cười, nháy mắt ra hiệu với Dương Quá, rồi bĩu môi. Dương Quá làm như không trông thấy, cúi đầu ăn. Chàng biết được tin tức của Tiểu Long Nữ thì vui mừng, ăn hết một bát rồi, đang ăn thêm bát nữa. Chàng mặc bộ quần áo vải thô do Tiểu Long Nữ khâu cho chàng, trông giản dị, lại lấm bụi hơn một ngày đêm qua, trông chàng y hệt một thiếu niên bình thường ở thôn quê. Hai gã đạo sĩ bàn bên cạnh cũng chằng để ý tới chàng, trò chuyện nho nhỏ với nhau.

Dương Quá cố ý nhai thật to, nhưng lại dỏng tai chăm chú nghe xem hai đạo sĩ nói gì.

Chỉ thấy gã đạo sĩ lông mày rậm nói:

– Bì sư đệ, theo sư đệ thì hai vị Hàn, Trần tối nay có đến đúng hẹn hay không?

Gã đạo sĩ thứ hai cằm bạnh, giọng ồ ồ, đáp:

– Hai vị ấy đều là hán tử chắc chắn bên Cái Bang, rất thân với Thân sư thúc, Thân sư thúc đã mời, họ thể nào cũng đến.

Dương Quá liếc mắt, thấy hai đạo sĩ đều lạ mặt, nghĩ thầm: "Cung Trùng Dương có hàng ngàn đạo sĩ, mình không quen họ, họ cũng chẳng nhận ra mình; song họ đều biết mình là tên tiểu tử từ bỏ giáo phái Toàn Chân, đừng để họ nhìn thấy mặt là hơn. Hừ, họ đánh không lại cô cô của ta, lại phải đi nhờ bọn ăn mày giúp sức". Gã đạo sĩ lông mày rậm nói:

– Không chừng đường xa quá, tối nay họ không đến kịp..

Gã đạo sĩ họ Bì nói:

– Ồ Cơ sư huynh, việc đã như thế, lo lắng cũng vô dụng, một mình nàng ta thì..

Gã đạo sĩ lông mày rậm họ Cơ, vội nói:

– Uống rượu đi nào, đừng nhắc đến nó.

Rồi gọi điếm tiểu nhị, sai chuẩn bị một gian phòng để đêm nay nghỉ ở đây.

Dương Quá nghe hai đạo sĩ nói chuyện với nhau, nghĩ rằng cứ bám theo họ hẳn sẽ có thể gặp được sư phụ, nghĩ vậy lòng mừng vô hạn. Chờ họ đi ngủ, chàng cũng bảo điếm tiểu nhị bố trí cho chàng một phòng nhỏ bên cạnh họ.

Điếm tiểu nhị cầm đèn, ghé tai Dương Quá nói nhỏ:

– Thiếu gia hãy cẩn thận đó, tỷ tỷ của thiếu gia cắt mất tai của hai đạo gia, họ chuẩn bị trả thù đó.

Dương Quá nói nhỏ:

– Tỷ tỷ của ta tính rất hiền, sao lại cắt tai của người ta thế?

Điếm tiểu nhị cười nhăn nhở, thấp giọng nói:

– Nàng ta đối với thiếu gia thì hiền, nhưng đối với người khác chẳng hiền tí nào. Tỷ tỷ của thiếu gia đang ăn cơm ở đây, hi hi, có đúng là tỷ tỷ hay không? Tiểu đích chưa tin lắm, nhưng thôi, cứ coi như tỷ tỷ, một đạo gia ngồi bàn bên nhìn chân nàng ta mấy lần, thế là nàng ta nổi giận, rút kiếm ra động thủ liền..

Điếm tiểu nhị cứ thao thao bất tuyệt, còn định kể tiếp. Dương Quá thấy gian bên đã tắt đèn, vội xua tay ra hiệu bảo hắn ngừng lời, trong bụng nghĩ thầm: "Hai gã đạo sĩ thối tha kia hẳn là thấy cô cô xinh đẹp, cứ nhìn chằm chằm, khiến cô cô tức giận. Hừ, giáo phái Toàn Chân làm gì có người nào tửtế kia chứ?" Lại nghĩ thầm: "Cô cô từng đến cung Trùng Dương động thủ, hai gã đạo sĩ kia tất nhiên nhận ra cô cô".

Chờ điếm tiểu nhị đi ra, chàng tắt đèn lên giường, quyết ý đêm nay không ngủ, đọc thuộc lại lần nữa bí quyết hai đại thần công mà Âu Dương Phong truyền thụ, song hai bí quyết đó quá ư thâm ảo, Âu Dương Phong lại truyền thụ tạp loạn vô chương, chàng chỉ nhớ được vài ba phần là cùng, lúc này cũng không dám tập trung suy ngẫm, sợ mải nghĩ sẽ không biết được động tĩnh ở buồng bên. Lặng lẽ canh chừng như thế đến nửa đêm, bỗng ngoài sân có hai tiếng bịch bịch nhẹ, có người vượt tường nhảy vào. Tiếp đó cửa sổ buồng bên cạnh khẽ kẹt một tiếng. Gã đạo sĩ họ Cơ hỏi:

– Có phải hai vị Hàn, Trần đó chăng?

Một người ngoài sân đáp:

– Đúng vậy.

Đạo sĩ họ Cơ nói:

– Mời vào!

Cửa buồng mở ra, đèn được thắp sáng. Dương Quá dỏng tai lắng nghe bốn người kia nói chuyện.

Đạo sĩ họ Cơ nói:

– Bần đạo là Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền, bái kiến Hàn, Trần hai vị anh hùng.

Dương Quá nghĩ thầm: "Giáo phái Toàn Chân xếp thứ tự theo bốn chữ 'Xứ Chí Thanh Tịnh', hai gã đạo sĩ này là đệ tử đời thứ tư trong phái Toàn Chân, không hiểu là môn hạ của Hách Đại Thông hay Lưu Xứ Huyền". Nghe một người giọng the thé nói:

– Hai ta nhận được thiếp mời của Thân sư thúc các vị, đi suốt ngày đêm tới đây. Kẻ tiểu tặc ấy tài giỏi lắm sao?

Cơ Thanh Hư nói:

– Nói ra thật hổ thẹn, sư huynh đệ tại hạ đấu với nàng ta một trận, không thể địch nổi.

Người kia nói:

– Võ công của nữ nhân ấy thuộc môn phái nào?

Cơ Thanh Hư đáp:

– Thân sư thúc nghi rằng nàng ta là truyền nhân của phái Cổ Mộ, tuy ít tuổi nhưng thân thủ rất lợi hại.

Dương Quá nghe ba chữ "phái Cổ Mộ" thì bất giác khẽ "à" một tiếng.

Chỉ nghe Cơ Thanh Hư nói:

– Nhưng khi Thân sư thúc nhắc đến phái Cổ Mộ, tiểu a đầu ấy lại nói lời khinh bỉ Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, hóa ra không phải.

Người kia nói:

– Đã thế thì cũng chẳng có gì ghê gớm. Ngày mai hẹn nhau ở đâu?

Cơ Thanh Hư nói:

– Thân sư thúc và nàng ta hẹn nhau, chính ngọ ngày mai sẽ gặp nhau ở Sài Lang Cốc, cách đây bốn chục dặm về phía tây nam, đôi bên tỷ võ quyết thắng. Đối phương có bao nhiêu người, hiện vẫn chưa biết. Chúng tại hạ đã có hai vị cao thủ anh hùng Hàn, Trần của Cái Bang áp trận trợ quyền, thì không sợ bọn họ đông người.

Một giọng già dặn hơn nói:

– Được, trưa mai huynh đệ ta sẽ tới đó, Hàn lão đệ, chúng ta đi nào.

Cơ Thanh Hư tiễn hai người kia ra cửa, nói nhỏ:

– Nơi đây cách cung Trùng Dương không xa, chuyện tỷ võ này không thể để các vị sư bá Mã, Lưu, Khưu, Vương hay biết, nếu không chúng tại hạ sẽ bị trách phạt rất nặng.

Người họ Hàn cười ha hả, nói:

– Thân sư thúc của các vị đã nói rõ trong thư rồi, nếu không thế, cung Trùng Dương cao thủ nhiều như mây, hà tất phải nhờ hai người ngoài bọn ta trợ giúp?

Người họ Trần nói:

– Ngươi cứ yên tâm, bọn ta quyết không tiết lộ phong thanh là được. Đừng nói sáu vị chân nhân Mã, Lưu, Khưu, Vương, Hách, Tôn hay biết, mà các vị sư bá, sư thúc khác của hai ngươi cũng không biết được.

Hai đạo sĩ cùng khen phải. Dương Quá nghĩ thầm: "Các người liên thủ với nhau ăn hiếp cô cô của ta, lại sợ người phe khác hay biết, hừ, lén lén lút lút, thật là gian xảo".

Chỉ nghe bốn người bàn thêm vài câu, rồi Hàn, Trần hai người vượt tường mà ra, Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền tiễn theo ra bên ngoài.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 08: Cô gái áo trắng

Dương Quá đẩy nhẹ cửa sổ, lẻn vào phòng hai gã đạo sĩ Cơ, Bì; thấy trên giường hai cái bọc, giở một cái ra, bên trong có hai mươi lạng bạc, nghĩ thầm: "Mình đang cần lộ phí". Bèn nhét luôn vào túi. Cái bọc thứ hai dài bốn thước, bọc hai thanh trường kiếm. Dương Quá rút từng thanh kiếm ra khỏi bao, bẻ gãy đôi, rồi nhét lại vào bao như cũ, đang định rời phòng, nghĩ thế nào lại vạch quần, tè một bãi vào chăn của hai gã đạo sĩ.

Nghe có tiếng người vượt tường, chàng biết hai đạo sĩ kia khinh công cũng tầm thường, muốn vượt tường phải nhảy lên bờ tường trước, rồi mới trên bờ tường nhảy xuống. Chàng vội lẻn về buồng mình, đóng cửa lại, hai đạo sĩ kia không biết gì. Dương Quá ghé tai sát tường lắng nghe động tĩnh bên kia.

Chỉ nghe hai đạo sĩ nói nho nhỏ với nhau, cuộc tỷ võ ngày mai đã nắm chắc phần thắng, cùng cởi quần áo lên giường ngủ, bỗng Bì Thanh Huyền kêu lên:

– Ôi, chăn sao ướt sũng thế này? Khiếp, khai ơi là khai, Cơ sư huynh lười quá, đi tiểu luôn trong chăn thế này?

Cơ Thanh Hư ngơ ngác, nói:

– Cái gì mà tiểu tiện luôn trong chăn?

Rồi chính y cũng kêu toáng lên:

– Mèo chết tiệt ở đâu lại đến đái vào chăn thế này?

Bì Thanh Huyền nói:

– Mèo đái có bao giờ lại sũng ra thế này?

Cơ Thanh Hư nói:

– Ừ kỳ quái.. Thôi chết, bạc đâu mất rồi?

Buồng bên kia náo loạn cả lên, hai gã đạo sĩ tìm cái bọc đựng bạc khắp nơi. Dương Quá thích thú cười thầm. Nghe Bì Thanh Huyền gọi to:

– Điếm bạn nhi, điếm bạn nhi, các người ở đây mở hắc điếm phải không? Nửa đêm vào đánh cắp vàng bạc của khách nhân thế này ư?

Hai đạo sĩ kêu ầm ĩ, điếm bạn đang ngủ bị đánh thức dậy, giụi mắt hỏi. Bì Thanh Huyền thộp ngực áo y bảo y mở hắc điếm. Điếm bạn vội đi gọi chưởng cự, người thắp đèn, điếm đường của khách điếm cùng thức dậy; tiếp đó các khách trọ cũng lần lượt kéo sang xem có gì ồn ào. Dương Quá trà trộn lẫn vào đó. Chỉ nghe điếm tiểu nhị trổ tài hùng biện, thao thao bất tuyệt, trình bày lý lẽ khiến hai đạo sĩ Cơ Bì á khẩu vô ngôn. Điếm tiểu nhị này vốn có cái tính thích đấu khẩu với người khác, bình thời còn ưa tán dóc với người bên cạnh, huống hồ lúc này có nhiều người xúm lại nghe, mà y thì hăng hái vì có lẽ phải. Y nói đến sùi bọt mép, càng nói tinh thần càng hăng hái. Hai đạo sĩ Cơ, Bì ngượng quá hóa giận, đã định động thủ, song nghĩ đến thanh qui bổn phái, nơi này ở ngay dưới chân núi Chung Nam, há dám gây chuyện? Họ đành nuốt giận, đóng cửa nằm ngủ. Gã điếm tiểu nhị vẫn còn chưa chịu ngừng lời ở bên ngoài.

Sáng hôm sau, Dương Quá dậy ăn điểm tâm, gã điếm tiểu nhị bẻm mép kia chào hỏi, vẫn còn lẩm bẩm chửi người. Dương Quá cười, hỏi:

– Hai gã tặc đạo kia sao rồi?

Điếm tiểu nhị đắc ý nói:

– Mẹ nó chứ, hai tên đạo sĩ thối tha ấy tưởng có thể ăn quịt, ngủ quịt. Kể ra nể cung Trùng Dương; cũng có thể thí không cho chúng, nhưng chúng lại dám bảo ở đây mở hắc điếm. Hôm nay trời chưa sáng hẳn, hai tên đạo sĩ thối tha ấy đã cuốn gói đi rồi. Hừ, lão phu nhất định phải báo cho cung Trùng Dương biết, giáo phái Toàn Chân có hàng ngàn hàng vạn đạo gia, sao lại có kẻ không giữ nghiêm thanh qui giới luật như thế? Hai tên đạo sĩ ấy lão phu đã nhớ kỹ mặt chúng, có mà chạy đằng trời..

Dương Quá cười thầm, nói khích thêm vài câu, trả tiền phòng, hỏi kỹ lối đi tới Sài Lang cốc, rồi lên đường.

Chẳng mấy chốc chàng đã đi hơn ba chục dặm. Sài Lang cốc không còn xa nữa, mà nhìn trời chỉ mới đầu giờ Thìn, Dương Quá nghĩ thầm: "Mình hãy tạm lánh một bên, xem cô cô đối phó với bọn kia ra sao. Tốt nhất là đừng để cô cô nhận ra mình trước". Nhớ lại lần giả trang đánh lừa Hồng Lăng Ba, chàng lấy làm đắc ý, quyết định giả trang một lần nữa; bèn lẻn vào sân sau một nhà nông phu nọ, nhìn trước ngó sau, thấy trong chuồng trâu có một con trâu đực rất lớn đang lồng lộn cọ sừng, húc đầu ầm ĩ vào gióng gỗ cửa chuồng. Dương Quá chợt nảy ra một ý: "Mình sẽ đóng giả kẻ mục đồng, cô cô có gặp cũng chẳng thể nhận ra".

Chàng lẻn vào nhà, trong nhà chỉ có hai đứa bé đang chơi đùa, trông thấy chàng thì cả sợ, không dám ho he một tiếng. Chàng tìm quần áo, đổi lấy một bộ của nông phu, đi giày cỏ, lấy đất bôi lên mặt, lại gần chuồng trâu, thấy trên vách treo một cái nón rộng vành, một cây sáo ngắn, chính là vật thường dùng của trẻ mục đồng, chàng cả mừng, có hai thứ này đóng giả càng giống, bèn đội nón, giắt cây sáo vào lưng, nhặt một đoạn dây thừng buộc quanh người, rồi mở cửa chuồng trâu. Con trâu thấy chàng lại gần đã hằm hè tức giận, vừa thấy cửa chuồng mở, nó lập tức phóng ra, húc thẳng vào người chàng.

Dương Quá tay trái ấn đầu con trâu, phi thân lên lưng trâu. Con trâu này thân cao, thịt săn chắc, nặng ít ra bảy tám trăm cân, lông mượt sừng nhọn, trông thật hùng vĩ. Loáng một cái nó đã phóng ra tới đường cái. Nó đang giai đoạn động hớn, nóng nảy dị thường, nó cứ tung vó muốn hất Dương Quá ra khỏi lưng nó. Dương Quá kẹp chân ngồi vững, cực kỳ đắc ý, cười nói:

– Mi không vâng lời ta thì khổ thân mi thôi, con ạ.

Chàng vung tay lên, dùng cạnh bàn tay chém một nhát xuống vai con trâu. Cú chém này chàng mới dùng hai thành nội lực, song con trâu đực đã đau lắm rồi; nó kêu ầm lên, định lồng lên ra oai, Dương Quá lại chém một nhát nữa. Chém hơn mười nhát, thì con trâu không dám chống lại nữa. Dương Quá lại thử dùng ngón tay ấn vào bên trái cổ con trâu, nó liền ngoảnh đầu sang bên phải; ấn vào bên phải cổ, nó liền ngoảnh đầu sang bên trái; ấn vào sau mông, thì nó tiến lên phía trước; ấn vào đằng trước thì nó lùi về phía sau, chịu sự chỉ huy của chàng.

Dương Quá cả mừng, ấn mạnh ngón tay xuống mông nó một cái, con trâu phóng lên phía trước, nhanh nhẹn lạ thường, chẳng kém gì ngựa. Không lâu sau nó chạy xuyên qua một cánh rừng rậm, tới một sơn cốc bốn phía là vách núi dựng đứng, đúng như lời mô tả của điếm tiểu nhị. Dương Quá bèn nhảy xuống đất, thả cho con trâu tự do gặm cỏ, tay cầm sẵn sợi dây thừng, nằm xuống đất giả vờ ngủ. Thỉnh thoảng chàng lại nhìn mặt trời, thấy vầng dương lên cao gần tới đỉnh đầu, trong lòng càng lúc càng hoảng loạn, chỉ sợ Tiểu Long Nữ không đến như đã hẹn với đối phương. Bốn phía tĩnh mịch, chỉ có con trâu thỉnh thoảng kêu lên một hai tiếng. Đột nhiên ở cốc khẩu có người vỗ tay, rồi từ sau núi mé nam cũng vọng lại mấy tiếng vỗ tay. Dương Quá nằm trên dốc, giơ một cái chân lấm bùn vắt lên đầu gối bên kia, kéo cái nón che quá nửa mặt, chỉ để lộ con mắt bên phải ra ngoài.

Một lát sau từ cốc khẩu đi vào ba đạo sĩ. Hai người trong đó là Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền đã ở khách điếm đêm qua, còn người thứ ba trạc tứ tuần, thân hình thấp lùn, chắc là vị được gọi là "Thân sư thúc". Dương Quá nhìn kỹ tướng mạo, dường như chàng từng gặp người này ở cung Trùng Dương. Từ phía sau có hai người chạy tới. Một người thân hình thô tráng, một người tóc bạc da nhăn, cả hai ăn mặc theo kiểu dân ăn mày, hẳn là hai vị Hàn, Trần của Cái Bang. Năm người kia tiến lại gần nhau, không nói năng gì, chỉ cung tay chào nhau, rồi sắp thành một hàng, hướng về phía tây.

Lúc đó từ ngoài cốc khẩu truyền vào tiếng lóc cóc.

Năm người kia đưa mắt cho nhau, cùng chăm chú nhìn về phía cốc khẩu; chỉ nghe tiếng lóc cóc càng lúc càng gần, ở cốc khẩu xuất hiện một khối trắng đen xen nhau, một bạch y thiếu nữ cười con lừa đen phóng vào. Dương Quá vừa nhìn, biết ngay không phải là Tiểu Long Nữ: "Chẳng lẽ bọn kia thêm một trợ thủ?" Chỉ thấy thiếu nữ tới cách năm người kia vài trượng thì dừng lừa lại, lạnh lùng nhìn năm người một lượt, vẻ mặt đầy ngạo mạn, tựa hồ không thèm nói chuyện với họ.

Cơ Thanh Hư nói:

– Tiểu a đầu, tưởng ngươi không có gan tới đây cơ đấy, có trợ thủ nào thì gọi cả ra đi.

Thiếu nữ cười khẩy, xoẹt một cái, rút từ thắt lưng ra một thanh loan đao vừa mảnh vừa nhỏ, cong cong như mảnh trăng lưỡi liềm, ngân quang lóa mắt. Cơ Thanh Hư nói:

– Bọn ta đây có năm người, các trợ thủ của ngươi bao giờ mới tới, bọn ta không thể chờ lâu.

Thiếu nữ giơ thanh loan đao, nói:

– Đây là trợ thủ của ta.

Thanh loan đao quét một vòng trong không trung, phát ra tiếng u u.

Lời này nói ra, sáu người đều kinh ngạc. Năm người kia kinh ngạc, vì thấy một thiếu nữ dám cả gan không dẫn theo trợ thủ, một mình đến tỷ võ với năm hảo thủ võ lâm. Dương Quá thì thất vọng quá chừng, chàng nóng lòng chờ Tiểu Long Nữ xuất hiện, nào ngờ "bạch y thiếu nữ xinh đẹp" lại là một người khác; đột nhiên nghịch khí dâng lên trong ngực, không sao kiềm chế nổi, bật ra thành tiếng khóc òa.

Chàng vừa khóc rống lên, thì sáu người kia cũng hết sức kinh ngạc. Chỉ thấy một gã mục đồng thả trâu ăn cỏ trên dốc núi, không đáng để ý, chắc là gã mục đồng gặp chuyện oan ức gì, mới ra đây khóc như thế. Cơ Thanh Hư chỉ vị họ Hàn nói:

– Vị này là Hàn anh hùng trong Cái Bang.

Chỉ vị họ Trần nói:

– Vị này là Trần anh hùng trong Cái Bang.

Lại chỉ "Thân sư thúc", nói:

– Sư thúc đạo trưởng Thân Chí Phàm của hai ta, ngươi đã gặp rồi đó.

Thiếu nữ chẳng buồn lý đến, mục quang lạnh lùng, nhìn năm người kia như không có họ vậy.

Thân Chí Phàm nói:

– Ngươi đã một mình tới đây, thì bọn ta cũng không thể động thủ với ngươi. Hạn cho ngươi mười ngày, sau mười ngày, ngươi phải dẫn bốn trợ thủ đến đây.

Thiếu nữ nói:

– Ta đã nói ta có trợ thủ rồi, đối phó với lũ bị thịt như các ngươi, cần chi phải dẫn thêm ai khác kia chứ?

Thân Chí Phàm nổi giận, nói:

– Tiểu a đầu, ngươi quả thật điên rồ..

Lão đã định nhiếc móc, song kìm lại được, hỏi:

– Rốt cuộc ngươi có thuộc phái Cổ Mộ hay không?

Thiếu nữ hỏi lại:

– Phải thì sao? Không phải thì sao? Này lão đạo, lão đạo có dám động thủ với ta hay không đấy?

Thân Chí Phàm thấy nàng có một thân một mình, mà chẳng sợ hãi gì, đoán là người có mai phục sẵn hảo thủ đâu đây, Lý Mạc Sầu của phái Cổ Mộ là một nhân vật không phải tầm thường, bèn nói:

– Cô nương, bần đạo muốn hỏi, bỗng dưng vô cớ cô nương đả thương người của môn phái ta, là vì lẽ gì. Nếu người bên phía bần đạo có lỗi, bần đạo sẽ tới gặp sư phụ cô nương tạ tội, còn nếu cô nương không nói ra được lý do, thì đừng trách vô lễ.

Thiếu nữ cười khẩy, nói:

– Dĩ nhiên là vì hai tên tiểu tử kia vô lễ, ta mới phải giáo huấn họ. Nếu không, thiên hạ thiếu gì thứ, hà tất ta phải xẻo tai của họ?

Thân Chí Phàm càng nghe thiếu nữ nói, càng kinh nghi bất định. Lão khất cái họ Trần tuy đã già, nhưng rất nóng nảy, sấn tới, gằn giọng, nói:

– Tiểu a đầu, nói chuyện với bậc tiền bối mà người không thèm xuống lừa ư?

Nói rồi vọt tới trước đầu con lừa đen, đưa tay chộp lấy cánh tay phải của thiếu nữ. Động tác xuất thủ cực lẹ, thiếu nữ tránh không kịp, cánh tay phải cầm đao bị nắm, không thể vung đao chống đỡ.

Nào ngờ thiếu nữ hơi xoay cánh tay phải, thanh loan đao vẫn ngoặt lại được. Lão khất cái họ Trần kinh hãi, vội buông tay ra. Phải nói là lão biến chiêu cực nhanh, vậy mà hai ngón tay cũng vẫn bị lưỡi đao làm chảy máu ròng ròng. Lão nhảy lùi lại, rút đơn đao ra, quát to:

– Tặc tiện nhân, đúng là ngươi chán sống mất rồi.

Lão khất cái họ Hàn rút ra một cặp liên tử chùy, Bì Thanh Huyền và Cơ Thanh Hư cũng rút kiếm khỏi bao, thấy kiếm nhẹ hẳn đi, cả hai không hẹn cùng kêu "ôi" một tiếng, cả kinh, vì thanh kiếm trong tay mình đã gãy từ lúc nào.

Thiếu nữ thấy thần thái ngơ ngác của hai gã đạo sĩ, thì bất giác cười òa; Dương Quá đang đau lòng, nghe tiếng cười của thiếu nữ, nhìn bộ dạng ngơ ngác của hai gã đạo sĩ, cũng không khỏi phì cười. Chỉ thấy thiếu nữ hơi ngả người chém một đao vào đầu Bì Thanh Huyền. Bì Thanh Huyền vội rụt đầu lại, nào ngờ đao thế bất tận, cổ tay hơi xoay, loan đao đang giữa chừng chợt ngoặt xuống dưới, trúng góc trán bên phải của Bì Thanh Huyền, lập tức máu tươi chảy ròng ròng. Bốn người còn lại vừa kinh ngạc vừa tức giận, vây tròn xung quanh con lừa đen. Bì Thanh Huyền và Cơ Thanh Hư lùi lại phía sau, mỗi người tay cầm một thanh kiếm gãy vứt đi thì tiếc, giữ lại cũng vô dụng, loay hoay chưa biết nên làm thế nào.

Thiếu nữ hú một tiếng, tay trái giật dây, con lừa đen phóng ra xa mấy trượng. Hai lão khất cái họ Trần, họ Hàn tức thì đuổi theo, đao chùy cùng vung lên tấn công. Thân Chí Phàm cũng xông tới, sử dụng kiếm pháp phái Toàn Chân, mũi kiếm nhằm toàn vào những chỗ yếu hại của đối phương. Dương Quá thấy kiếm pháp của y kém hẳn Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính, đoán rằng y chỉ xếp thứ ba thứ tư trong hàng chữ "Chí". Dương Quá lúc này tâm thần đã phần nào trấn tĩnh, mới nhìn kỹ dung mạo của thiếu nữ, thấy mặt nàng hình trái soan xinh xắn, tuổi còn thua chàng một, hai năm; hèn chi điếm tiểu nhị không tin rằng "bạch y thiếu nữ xinh đẹp" là tỷ tỷ của chàng. Nàng tuy cũng mặc bộ quần áo màu trắng, song nước da ngăm ngăm, khác hẳn nước da trắng như tuyết của Tiểu Long Nữ. Đao pháp của nàng rất linh hoạt, phần lớn giống như cách sử kiếm, đâm nhiều hơn là chém. Dương Quá nhìn vài chiêu, nghĩ thầm: "Nàng sử dụng quả nhiên là võ công của phái ta, chẳng lẽ nàng là đệ tử của Lý Mạc Sầu?" Nghĩ bụng cả hai phe đều không phải là người tốt, bất kể ai thắng ai bại cũng vậy, lại nghĩ thầm: "Người như nàng mà cũng đòi xưng là" bạch y thiếu nữ xinh đẹp ". Nàng có làm a hoàn cho cô cô của ta cũng chưa xứng". Thế là chàng nằm gối đầu lên tay, nhìn nghiêng xem đôi bên giao đấu.

Mười mấy chiêu đầu, thiếu nữ chưa bị núng thế, nàng ngồi trên lưng con lừa, trên cao nhìn xuống, loan đao vung chém tới tấp, năm người không thể không nhảy qua nhảy lại né tránh. Lại đấu hơn mười chiêu nữa, Cơ Thanh Hư thấy thanh kiếm gãy trong tay quả là vô dụng, chợt nghĩ một cách, gọi:

– Bì sư đệ, hãy theo ta.

Rồi chạy tới một bụi cây, chọn một cây nhỏ, dùng kiếm chặt sát gốc, phạt hết cành lá, thành một cây gậy nhọn. Bì Thanh Huyền cũng làm như vậy. Hai người dùng gậy làm binh khí, từ hai phía tả hữu đâm về phía con lừa đen. Thiếu nữ quát khẽ:

– Nhìn đây!

Nàng vung đao phạt ngang hai cây gậy; nhưng chỉ phân tâm một chút, liên tử chùy của lão họ Hàn và trường kiếm của Thân Chí Phàm trước sau cùng đánh tới. Thiếu nữ vội cúi đầu, né người, liên tử chùy vụt qua sát mặt nàng. Keng một tiếng, loan đao và trường kiếm đụng nhau; đúng lúc ấy con lừa rú lên một tiếng đau đớn, chân trước tung lên, thì ra nó bị Cơ Thanh Hư đâm trúng một gậy. Lão khất cái họ Trần lăn một vòng, triển khai Địa Đường đao pháp, dùng sống đao chém mạnh vào chân lừa, con lừa đen tức thời quị xuống. Thế là thiếu nữ kia không thể cưỡi lừa mà giao chiến. Nàng thấy kiếm và chùy cùng đánh tới, vội phi thân lên, tay trái chộp được cây gậy của Bì Thanh Huyền, dùng lực bẻ gãy làm hai đoạn. Hai chân vừa chạm đất, nàng hồi đao quét ngang, gạt cây đao của lão khất cái họ Trần đánh tới. Dương Quá kinh ngạc: "Sao, nàng ta bị thương rồi ư?"

Thì ra chàng thấy chân trái của thiếu nữ đi hơi khập khiễng, nên từ đầu nàng không chịu rời khỏi lưng lừa. Lòng hiệp nghĩa của Dương Quá trỗi dậy, định ra tay giúp nàng, nhưng chợt nghĩ: "Mình và cô cô đang sống yên lành trong nhà mồ, thì mụ Lý Mạc Sầu tàn ác mò tới mới đến nông nỗi này. Nay thiếu nữ kia lại mạo xưng là cô cô của ta, đòi người ta gọi là" bạch y thiếu nữ xinh đẹp "mà không biết ngượng." Chàng bèn ngoảnh đi, không thèm nhìn nàng ta nữa. Tiếng binh khí va nhau keng keng không dứt, cuối cùng chàng không nén được lòng hiếu kỳ, lại ngoảnh đầu xem, chỉ thấy tình thế đã thay đổi, thiếu nữ tránh bên này bên nọ, chống đỡ nhiều mà tấn công ít. Đột nhiên thiết chùy của lão khất cái họ Hàn bay tới, thiếu nữ nghiêng đầu né tránh, vừa hay trường kiếm của Thân Chí Phàm chém tới, "cạch" khẽ một tiếng, một cái kẹp tóc bằng bạc bị đứt, một nửa mái tóc bị xổ ra. Thiếu nữ nhướn mày, mím môi, đánh trả một đao. Dương Quá thấy cử chỉ nhướn mày, mím môi của thiếu nữ thì xúc động mạnh: "Cô cô lúc giận ta cũng có thần sắc y hệt như thế". Chỉ vì cử chỉ nổi giận của thiếu nữ mà Dương Quá quyết định giúp nàng; chàng nhặt bảy, tám viên sỏi bỏ vào túi. Lúc này thần sắc của thiếu nữ đã giận lắm rồi.

Thân Chí Phàm nói:

– Ngươi là thế nào với Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu? Nếu không nói thực, đừng trách bọn ta không khách khí!

Thanh loan đao của thiếu nữ bỗng ngoằng ra sau gáy Thân Chí Phàm. Thân Chí Phàm không ngờ bị đòn đó, không kịp chống đỡ. Lão khất cái họ Trần vội kêu:

– Cẩn thận!

Cơ Thanh Hư vội giơ gậy gạt thanh loan đao, mới cứu sống được Thân Chí Phàm. Năm người thấy thiếu nữ sử dụng chiêu số tàn độc, hạ thủ không dung tình nữa. Trong giây lát, thiếu nữ liên tiếp gặp hiểm chiêu.

Thân Chí Phàm cho rằng thiếu nữ có liên hệ với Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, nếu để Lý Mạc Sầu biết tin thì tai họa vô cùng, thấy nàng không có trợ thủ, chính là dịp giết người diệt khẩu, bèn liên tiếp đánh vào chỗ yếu hại của nàng.

Dương Quá thấy thiếu nữ bị nguy cấp, không thể chần chừ được nữa, liền nhảy lên lưng trâu, ấn vào mông nó một cái, hai chân chàng quặp chặt ngang bụng trâu. Con trâu đực lồng lên, lao thẳng tới chỗ sáu người.

Sáu người đang mải ác đấu, đột nhiên thấy một con trâu điên xông tới, đều cả kinh, nhảy ra tứ phía né tránh. Dương Quá nằm rạp trên lưng trâu, nhắm đúng các huyệt đạo như Hồn Môn, Thần Đường ở lưng năm nam tử mà búng các viên sỏi, cả năm người cánh tay đều tê dại, binh khí rớt cả xuống đất. Dương Quá đã đánh trâu quay lại sườn núi, từ lưng trâu nhảy xuống đất, miệng kêu ầm ĩ:

– Úi chao, úi chao, con trâu này phát điên mất rồi?

Thân Chí Phàm bị điểm huyệt, binh khí bị rơi khỏi tay, mà không thấy kẻ địch xuất thủ thế nào, tự liệu đó là hành động của trợ thủ thiếu nữ kia, võ công của trợ thủ đó cao minh như thế, y làm sao còn dám ham chiến? May mà hai chân vẫn chưa việc gì, bèn bỏ chạy, miệng gọi:

– Trần đại ca, Hàn huynh đệ, chúng ta đi thôi!

Mấy người còn lại không kịp suy nghĩ, cũng chạy theo. Bì Thanh Huyền hốt hoảng thế nào lại chạy về phía thiếu nữ, Cơ Thanh Hư gọi to:

– Bì sư đệ, đây cơ mà!

Bì Thanh Huyền định quay lại, thì thiếu nữ đã sấn tới, thanh loan đao chém ngang. Bì Thanh Huyền cả kinh, trong tay không có binh khí, vội nghiêng người né tránh, ai dè hướng chém của thanh loan đao bất định, tưởng chém bên này mà lại chém bên kia, tưởng trên hóa dưới, đang phạt ngang lại bổ xuống trước mặt. Bì Thanh Huyền vội giơ tay gạt đi xoẹt một cái, thanh loan đao chém đứt mất bốn ngón tay của y. Y chưa cảm thấy đau ngay, cắm đầu bỏ chạy.

Lão khất cái họ Hàn chạy mươi bước, thấy thiếu nữ không đuổi theo, thì nghĩ thầm: "Tiểu a đầu kia bị thọt chân, làm sao đuổi được kia chứ?" Bèn nhìn chân trái nàng ta một cái, đâu biết rằng cử chỉ đó phạm vào điều đại kỵ của nàng ta, thiếu nữ lập tức nổi cơn lôi đình, quát:

– Quân ăn mày, ngươi tưởng ta không đuổi kịp ngươi ư?

Nàng xoay thanh loan đao mấy vòng, rồi ném vù nó đi, chỉ thấy thanh loan đao loang loáng trong không trung, rồi cắm phập vào vai trái của lão khất cái họ Hàn. Lão ôm vai, để nguyên thanh loan đao mà chạy, lát sau cả năm người đều đã chạy khuất vào rừng cây.

Thiếu nữ cười khẩy mấy tiếng, lòng đầy hồ nghi: "Không lẽ có người mai phục đâu đây, vì lẽ gì người đó lại giúp ta?" Thanh loan đao bằng bạc nàng ném, cắm vào vai lão khất cái họ Hàn, bất giác tiêng tiếc; cúi nhặt thanh đơn đao mà lão khất cái họ Trần đánh rơi dưới đất, đi tứ phía ngó nghiêng vào rừng cây, chẳng thấy bóng một ai, lại trở về chỗ cũ, thấy Dương Quá đang ngồi dưới đất, mặt mày ủ rũ, miệng kêu trời than khổ.

Thiếu nữ hỏi:

– Này mục đồng, ngươi kêu khổ gì vậy?

Dương Quá nói:

– Con trâu của ta tự dưng nổi điên, bị tuột mất mấy mảng lông, ta về nhà chắc sẽ bị chủ nhân đánh chết mất thôi?

Thiếu nữ nhìn con trâu, thấy lông nó mượt mà, đâu có mất gì, nói:

– Thôi được; coi như con trâu này đã giúp ta một chút, ta đền cho ngươi một đĩnh bạc đây.

Nàng lấy trong bọc ra một thỏi bạc ba lạng, ném xuống đất, tưởng Dương Quá sẽ hoan hỉ cảm tạ, ai dè chàng vẫn mếu máo, lắc đầu không nhặt thỏi bạc.

Thiếu nữ nói:

– Ngươi sao vậy, đồ ngốc, cả một thỏi bạc đấy!

Dương Quá nói:

– Một thỏi chưa đủ.

Thiếu nữ lấy ra một thỏi nữa, ném xuống. Dương Quá cố ý chọc ghẹo, vẫn lắc đầu. Thiếu nữ khó chịu, nhướn mày, sầm mặt, mắng:

– Không chịu à, đồ ngốc!

Nàng quay mình bỏ đi. Dương Quá thấy cử chỉ nổi giận của nàng bất giác máu nóng dâng lên ngực, thấy nôn nao, mắt cay cay, nhớ lại dáng dấp của Tiểu Long Nữ mỗi khi trách cứ chàng, tâm ý đã quyết: "Trong thời gian chưa tìm thấy cô cô, mình phải làm cho cô nương này thỉnh thoảng nổi cáu lên mới được?" Bèn giơ hai tay ôm lấy chân phải nàng ta, nói:

– Không được đi!

Thiếu nữ dùng lực hất, song bị chàng ôm chặt, không thoát ra được, thì càng tức, quát:

– Buông ra! Sao ngươi lại làm như thế?

Dương Quá thấy nàng ta cau có thì càng thích chí, nói:

– Ta không về nhà được, cô cô hãy cứu ta.

Rồi kêu tướng lên:

– Cứu với! Cứu với!

Thiếu nữ vừa bực vừa buồn cười, giơ đao lên quát:

– Ngươi không buông tay ra, ta sẽ chém chết ngươi!

Dương Quá càng ôm chặt hơn, giả bộ khóc lóc, nói:

– Thì cô cô cứ chém chết ta đi cũng được, còn hơn về nhà cũng không sống nổi.

Thiếu nữ hỏi:

– Ngươi muốn gì?

Dương Quá nói:

– Ta không biết, ta đi theo cô cô.

Thiếu nữ nghĩ thầm: "Chẳng tội gì vướng víu với cái tên ngốc này", bèn chém xuống. Dương Quá đoán nàng sẽ không dám chém thật, vẫn cứ ôm chân nàng không thả, nào ngờ nàng xuất thủ tàn nhẫn, một nhát này tuy không định giết chàng, song cũng phải làm cho chàng đau đớn, không dám đeo bám nữa.

Dương Quá chờ đơn đao chỉ còn cách đỉnh đầu vài tấc, liền lăn tránh, miệng la to:

– Ối giết người, giết người!

Thiếu nữ càng tức, sấn tới chém xuống. Dương Quá nằm dưới đất, hai chân đá loạn xạ, mồm kêu:

– Ta chết, ta chết thôi?

Hai chân lấm đất của chàng cứ đá loạn lên, như kẻ đang giãy giụa, thực ra là mấy lần thiếu nữ suýt bị chàng đá trúng cổ tay, nên cũng chưa chém trúng được nhát nào. Dương Quá thấy nàng tức giận, chính là vẻ mặt mình muốn thấy, thì cứ nhìn trân trân như si dại. Thiếu nữ thấy chàng thần sắc kỳ quái, quát:

– Ngươi đứng lên đi?

Dương Quá nói:

– Cô cô có giết ta hay không đã?

Thiếu nữ nói:

– Được, ta sẽ không giết ngươi.

Dương Quá từ từ bò dậy, thở hổn hển, ngầm vận khí bế huyết, khuôn mặt liền tái nhợt như không còn hạt máu, ra điều sợ hãi lắm không bằng. Thiếu nữ đắc ý, nghĩ bụng: "Hừ xem ngươi còn dám đeo bám ta hay không nào?" Nàng giơ đao chỉ mấy ngón tay của Bì Thanh Huyền bị nàng chém đứt rơi dưới đất, nói:

– Người ta hung hăng cỡ mấy, ta cũng còn chém đứt tay bọn chúng nữa là.

Dương Quá giả vờ sợ sệt co rúm người lại. Thiếu nữ gài đao vào lưng, quay đi tìm con lừa đen, nhưng nó đã chạy mất từ hồi nào.

Dương Quá nhặt hai đĩnh bạc cất vào túi, dắt con trâu đi theo sau, gọi:

– Cô cô cho ta theo với.

Thiếu nữ chẳng buồn ngó, đi nhanh hơn, thoáng một lát đã bỏ chàng tụt lại sau rất xa. Nào ngờ vừa ngồi nghỉ, đã thấy chàng cưỡi trâu từ xa phóng tới, miệng gọi:

– Cho ta theo với! Cho ta theo với!

Thiếu nữ cau mày, thi triển khinh công, chạy một mạch mấy dặm liền, tường chàng không tài nào theo kịp, ai dè chẳng mấy chốc lại nghe tiếng gọi văng vẳng "cho ta theo với". Thiếu nữ giận không để đâu cho hết, chạy ngược lại, rút đao giơ sẵn. Dương Quá ôm đầu chạy đi, miệng kêu:

– Úi chao, úi chao!

Thiếu nữ chỉ cần chàng không bám theo, bèn quay người đi tiếp. Đi một hồi, lại nghe sau lưng có tiếng trâu rống, ngoảnh lại, thấy Dương Quá cưỡi trâu ở xa xa phía sau, cách chừng ba, bốn chục bước. Thiếu nữ dừng chân chờ chàng tới, song Dương Quá thấy nàng không đi thì cũng dừng trâu, nàng đi tiếp thì chàng cũng đi theo; nếu nàng vác đao đuổi chàng, thì chàng cắm đầu chạy. Cứ đuổi rồi dừng như thế, trời đã tối mà thiếu nữ vẫn không thoát nổi sự đeo bám của Dương Quá. Thiếu nữ thấy gã mục đồng tuy ngu ngốc, song cước bộ nhanh nhẹn dị thường, nghĩ rằng gã đã quen đi lại ở vùng núi, vậy muốn thoát sự đeo bám, thì phải đả thương cặp giò của gã.

Lại đi mấy hồi nữa, cái chân bên trái của thiếu nữ bị ngắn, càng đi lâu càng mỏi, nàng bèn nghĩ ra một kế, gọi to:

– Thôi được, ta cho ngươi đi theo vậy. Nhưng ngươi phải vâng lời ta.

Dương Quá mừng hỏi:

– Cô cô cho ta đi theo thật chứ?

Thiếu nữ đáp:

– Thật, cần gì phải đánh lừa ngươi? Ta đi bộ mệt rồi, ngươi hãy để ta cùng cưỡi trên lưng trâu.

Dương Quá cưỡi trâu lại gần; trong bóng tối nhập nhoạng thấy mục quang nàng ánh lên, biết là nàng ta không có ý tốt. Thiếu nữ nhún chân phải một cái, khéo léo leo lên lưng trâu, ngồi đằng trước Dương Quá, nghĩ thầm: "Ta mất lừa, thì cưỡi trâu cũng được".

Nàng thúc mạnh đầu bàn chân vào bụng con trâu. Con trâu bị đau lồng lên. Thiếu nữ cười khẩy, đột nhiên thúc cùi chỏ ra phía sau, trúng vào giữa ngực Dương Quá. Dương Quá kêu "Chết rồi?" ngã lộn một vòng ra sau lưng.

Thiếu nữ vô cùng đắc ý, nghĩ thầm: "Tên tiểu tử vô lại để xem lần này ngươi còn bám theo ta được không". Nàng ấn ngón tay vào bụng trâu, con trâu lồng lên nhanh hơn, bỗng nghe tiếng kêu oai oái của Dương Quá ở sau lưng; nàng ngoảnh lại, thấy chàng hai tay túm chặt đuôi con trâu, hai chân không chạm đất, để con trâu đưa đi như bay, mặt mũi lấm lem, trông rất thảm hại, song vẫn không chịu buông đuôi con trâu. Thiếu nữ vô pháp khả thi, liền vung đao định chặt tay chàng, chợt nghe tiếng người huyên náo, thì ra con trâu đã chạy tới một cái chợ. Người chen chúc khá đông, hết lối đi con trâu đành dừng lại.

Dương Quá cố tình làm cho thiếu nữ tức giận để ngắm thần sắc của nàng khi giận dữ. Chàng nằm dưới đất kêu to:

– Ngực ta đau quá, ngươi đánh chết ta rồi?

Dân đi chợ liền bu lại xung quanh. Thiếu nữ chen vào đám đông, định thừa cơ chuồn đi nào ngờ Dương Quá đã ôm chặt lấy chân phải của nàng, nói to:

– Đừng đi, đừng đi!

Mọi người hỏi:

– Làm sao thế? Hai người cãi nhau chuyện gì vậy?

Dương Quá nói:

– Nàng là tức phụ nhi (cô vợ trẻ) của ta, nàng không cần ta, nàng đánh ta.

Một người nói:

– Tức phụ nhi mà đánh phu quân thì còn ra cái thể thống gì?

Thiếu nữ mày liễu dựng ngược, giơ chân trái mà đá. Dương Quá đẩy một người cao lớn ở bên cạnh, khiến cú đá kia trúng vào lưng người ấy. Đại hán nổi giận, mắng:

– Tiểu tặc nhân, đá người hả?

Rồi tung quả đấm to tướng về phía nàng. Thiếu nữ mượn lực ở cùi chỏ của người ấy mà đẩy mạnh, thân hình nặng hai trăm cân của đại hán bay đi, kêu oai oái trên không, rồi rơi xuống đám đông, những người bị đè kêu la ầm ĩ, loạn cả lên.

Thiếu nữ cố sức thoát khỏi Dương Quá, bị chàng ôm chặt lấy chân, làm sao thoát nổi? Thấy năm, sáu người kéo lại chắc là gây khó dễ với nàng, nàng bèn cúi đầu nói:

– Ta đưa ngươi đi thì được chứ gì, buông ra đi.

Dương Quá hỏi:

– Có còn đánh ta nữa thôi?

Thiếu nữ đáp:

– Không đánh nữa.

Dương Quá bấy giờ mới buông tay, bò dậy. Hai người rời đám đông, ra khỏi chợ, nghe tiếng huyên náo sau lưng. Trong lúc vội vã, Dương Quá vẫn dắt theo con trâu đực.

Dương Quá cười hi hi, nói:

– Mọi người cũng bảo tức phụ nhi không được đánh phu quân đó.

Thiếu nữ hầm hầm nhìn chàng, nói:

– Đồ chết tiệt, ngươi còn nói năng bậy bạ, còn nói tức phụ nhi gì gì nữa, thì đừng trách ta bổ vỡ sọ ngươi ra.

Nói rồi giơ đao lên. Dương Quá ôm đầu, nhảy ra xa mấy bước, cầu xin:

– Hảo cô nương, ta không dám nói thế nữa.

Thiếu nữ nói:

– Trông ngươi bẩn thỉu thế kia, nữ nhân có xấu như ma cũng cũng chẳng thèm làm tức phụ nhi của ngươi.

Dương Quá cười hi hi, không đáp. Trời đã tối hẳn, hai người nhìn lại chỗ cái chợ kia, thấy khói bếp bốc lên, bụng đói cồn cào. Thiếu nữ nói:

– Thằng ngố, ngươi đến chợ mua mười cái bánh mang về đây.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ta không đi.

Thiếu nữ cau mặt, hỏi:

– Tại sao ngươi không đi?

Dương Quá nói:

– Cô nương lừa ta đi mua bánh bao, rồi một mình chuồn mất chứ gì.

Thiếu nữ nói:

– Ta không chuồn đi đâu cả.

Dương Quá vẫn lắc đầu. Thiếu nữ định đấm chàng, chàng chạy tránh. Nàng đuổi theo. Hai người chạy vòng quanh con trâu, thiếu nữ chân bị thọt, tuy thi triển khinh công cũng không thể đuổi kịp chàng. Nàng tức không để đâu cho hết, nghĩ thầm mình một thân võ công, lại cơ trí khôn khéo, thế mà đành thúc thủ vô sách trước một gã mục đồng vừa ngớ ngẩn vừa bẩn thỉu, thì quả là đồ vô dụng. Dương Quá lại giả trang quá giống, nếu không thì sau mấy phen giết chàng không nổi, nàng đã phải nghi ngờ từ sớm. Nàng theo đường lớn đi về phía nam, thấy Dương Quá cưỡi trâu lẽo đẽo theo sau một quãng. Nàng nghĩ cách phải bất ngờ giết chàng. Đi một hồi, thấy bên đường có một tòa thạch thất đổ nát cũ kỹ, tựa hồ không có người ở, nàng nghĩ thầm: "Đêm nay mình ngủ ở đây, đợi nửa đêm tên tiểu tử kia ngủ say, mình sẽ cho hắn một đao chết quách là xong", bèn đi tới thạch thất, đẩy cửa, chỉ thấy mùi ẩm mốc xộc vào mũi, bàn ghế bên trong cũ nát, rõ ràng ngôi nhà bỏ hoang đã lâu. Nàng lấy cỏ lau sạch một cái bàn, rồi nằm lên bàn nhắm mắt dưỡng thần.

Không thấy Dương Quá theo vào, thiếu nữ gọi:

– Thằng ngốc, thằng ngốc?

Không có tiếng trả lời, nàng nghĩ thầm: "Chẳng lẽ nó biết mình định giết nó, nên bỏ chạy rồi!" Không nghĩ đến nữa. Rất lâu sau, đang mơ mơ màng màng, bỗng ngửi thấy mùi thịt thơm nức mũi. Nàng ngồi dậy, bước ra ngoài, thấy Dương Quá đang ngồi dưới ánh trăng, tay cầm một miếng thịt to, miệng nhai ngon lành, trước mặt có một đống lửa nhỏ gác mấy cây củi nướng thịt. Mùi thịt nướng tỏa ra từng chập thơm lừng. Dương Quá thấy nàng bước ra, cười cười hỏi:

– Muốn ăn không?

Rồi ném cho nàng một miếng thịt nai đã nướng còn nóng. Thiếu nữ đón lấy, bụng đang đói ngấu, cắn luôn một miếng nhỏ, tuy không có muối, song thật tươi ngon, bèn ngồi xuống bên đống lửa, nhai chầm chậm, nàng cắn miếng thịt từng chút một, ăn rất nhỏ nhẹ; trong khi Dương Quá cắn từng miếng to, nhai nhồm nhoàm; nàng phải ngoảnh mặt ra chỗ khác, không muốn thấy sự thô tục.

Nàng ăn hết miếng thịt, Dương Quá lại đưa cho nàng một miếng to. Nàng hỏi:

– Đồ ngốc, tên ngươi là gì?

Dương Quá chậm rãi nói:

– Cô nương là tiên nữ hay sao mà lại biết tên ta là Đồ ngốc?

Thiếu nữ đắc chí, cười nói:

– Ồ thì ra tên ngươi là Đồ ngốc. Thế cha mẹ ngươi đâu?

Dương Quá nói:

– Chết cả rồi. Cô nương tên là gì?

Thiếu nữ nói:

– Ta không biết, ngươi hỏi để làm gì?

Dương Quá nghĩ thầm: "Cô nương không chịu nói, ta sẽ khích cho cô nương phải nói" bèn đắc ý nói:

– Ta biết rồi, cô nương cũng tên là Đồ ngốc, nên mới giấu không dám nói.

Thiếu nữ tức giận, đứng dậy, đấm vào đầu chàng một cái, mắng:

– Ai bảo tên ta là Đồ ngốc? Chính ngươi là Đồ ngốc thì có.

Dương Quá nhăn nhó, ôm đầu nói:

– Người ta hỏi ta, tên ta là gì, ta bảo không biết, thế nên người ta gọi ta là Đồ ngốc; cô nương cũng trả lời không biết, thế chẳng phải cô nương cũng tên là Đồ ngốc là gì?

Thiếu nữ nói:

– Ai bảo ta không biết? Ta không thích nói cho người biết ta họ Lục, ngươi hiểu chưa?

Thiếu nữ chính là cô bé Lục Vô Song năm nào hái hoa sen ở Gia Hưng. Người cùng với biểu tỷ Trình Anh và huynh đệ họ Võ trong lúc chơi hái hoa bị ngã gãy chân; Võ tam nương đang chữa trị cho nàng, đúng lúc ấy Hồng Lăng Ba đến tập kích, việc nắn xương chưa xong, nên sau này chân trái của nàng bị ngắn mất hơn một tấc, đi hơi khập khiễng. Nàng có nước da không thật trắng, nhưng dung mạo tú lệ, càng lớn càng xinh, chỉ tội một chân khập khiễng.

Hôm Lý Mạc Sầu giết hại cha mẹ, nô tì nhà nàng, bắt cóc nàng đi, vốn cũng định giết nàng, nhưng thấy trên cổ nàng quàng tấm khăn lụa, nghĩ đến tình xưa của bá phụ nàng là Lục Triển Nguyên, chần chừ chưa nỡ hạ thủ. Lục Vô Song thông minh khôn ngoan, biết rơi vào tay nữ ma đầu thì sống chết chỉ trong gang tấc, nữ ma đầu này đến và đi như gió lốc, đừng hòng trốn thoát tay mụ ta. Thế là ngay từ đầu Lục Vô Song đã tỏ ra ngoan ngoãn, tìm mọi cách lấy lòng, khiến nữ ma dầu sát nhân không chớp mắt ấy dần dần quên ý định giết nàng. Lý Mạc Sầu có lúc nhớ mối hận xưa, bèn gọi nàng ra mắng nhiếc một hồi. Lục Vô Song cố ý để đầu bù tóc rối, dáng đi khập khiễng; Lý Mạc Sầu thấy nàng có vẻ tội nghiệp, chửi mắng một trận đã tức, rồi thôi. Lục Vô Song cứ thế ủy khúc cầu toàn, cố làm một đứa bé ngoan ngoãn, nghiễm nhiên trở thành một môn hạ của nữ ma đầu.

Lục Vô Song chôn chặt mối thù của cha mẹ trong lòng, không để lộ chút gì. Lý Mạc Sầu có hỏi tới cha mẹ của nàng, nàng đều giả bộ không nhớ gì hết. Mỗi khi Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba luyện võ, nàng ở bên đưa kiếm dâng khăn, châm trà dâng trái cây, hầu hạ rất mực chu đáo. Nàng đã có căn cơ võ học, nhìn hai người luyện võ thì thầm ghi nhớ. Khi hai người đi vắng, nàng mới lén luyện tập, thường ngày lại càng cố lấy lòng Hồng Lăng Ba. Sau đó Hồng Lăng Ba nhân lúc thấy sư phụ đang vui vẻ, liền thay mặt Lục Vô Song xin cho nàng, thế là Lục Vô Song cũng trở thành đệ tử của Lý Mạc Sầu.

Cứ thế mấy năm, võ công của Lục Vô Song ngày càng tinh tiến. Có điều là đối với nàng, Lý Mạc Sầu vẫn ngờ vực, đừng nói võ công thượng thừa, mà ngay cả võ công hạng nhì cũng không truyền thụ. Ngược lại Hồng Lăng Ba thấy nàng đáng thương, thường kín đáo bày vẽ, chỉ dẫn, nên võ công của nàng nói là cao cũng không phải, bảo là thấp cũng không đúng.

Khi Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba trước sau đi lên núi Chung Nam tìm "Ngọc nữ tâm kinh", Lục Vô Song thấy họ lâu ngày chưa trở về, bèn rời bỏ nơi ở của nữ ma đầu, về Giang Nam tìm kiếm xem cha mẹ sống chết ra sao. Hồi chín tuổi nàng thấy Lý Mạc Sầu đánh cha mẹ nàng trọng thương, thiết nghĩ lành ít dữ nhiều nhưng rốt cuộc nàng chưa chính mắt nhìn thấy cha mẹ tắt thở, nên vẫn le lói chút hi vọng, phải tìm hỏi cho ra. Lúc ra đi, nàng đánh liều lấy trộm bản sao quyển "Ngũ độc bí truyền" của Lý Mạc Sầu ghi chép các thứ độc dược và giải dược.

Chân trái bị thọt, nàng hận nhất kẻ nào cứ nhìn vào chân trái của nàng. Hôm rồi tại khách điếm, hai đạo sĩ nhìn vào chân trái của nàng mấy lần, nàng bèn xuất ngôn chỉ trích, hai đạo sĩ tính cũng chẳng vừa, đôi bên lời qua tiếng lại, đi tới động thủ. Lục Vô Song dùng loan đao xẻo tai hai gã, mới có cuộc hẹn tái đấu ở Sài Lang cốc. Khi Lý Mạc Sầu bắt cóc nàng mang lên phương bắc, ở cửa hầm rượu nàng và Dương Quá từng gặp nhau, nhưng hồi ấy cả hai còn nhỏ, mấy năm qua đã thay đổi hẳn, bây giờ cả hai đều đã quên, không thể nhớ ra.

Lục Vô Song ăn hết hai miếng thịt nai nướng, đã no. Dương Quá mượn ánh lửa ngắm sắc diện nàng, nghĩ thầm: "Cô cô của mình lúc này ở đâu không biết? Ước gì người ngồi kia là cô cô của mình, mình nướng thịt cho cô cô ăn, có phải tốt biết bao!" Mải nghĩ, chàng ngây người nhìn nàng. Lục Vô Song nghĩ thầm: "Hừ, ngươi dám nhìn ta vô lễ thế kia, tạm thời ta nhẫn nại một chút, nửa đêm sẽ giết ngươi". Liền vào trong nhà nằm ngủ.

Ngủ đến nửa đêm, nàng nhẹ nhàng trở dậy, đi ra ngoài, thấy Dương Quá nằm im không hề động đậy bên đống lửa, lửa đã tắt, bèn rón rén tới phía sau chàng, chém mạnh cây đao xuống, bỗng cổ tay tê dại, hổ khẩu chấn động đau nhói, tai nghe tiếng choang, tay buông rơi cây đao, chỉ cảm thấy chỗ vừa chém xuống rắn như sắt như đá. Nàng kinh ngạc, vội quay mình chạy, nghĩ thầm: "Chẳng lẽ tên tiểu tử lại luyện được cách chống lại đao kiếm?"

Chạy vài trượng, thấy Dương Quá không hề đuổi theo, ngoảnh lại, thấy chàng vẫn nằm bất động như cũ.

Lục Vô Song nghi ngờ, gọi:

– Đồ ngốc, Đồ ngốc! Ta có lời cần nói với ngươi.

Dương Quá không trả lời. Nàng nhìn kỹ, chỉ thấy Dương Quá nằm co quắp, hình thù quái dị, bèn đánh bạo tới gần, thấy chàng không giống hình người, giơ tay sờ sờ, hóa ra bên dưới quần áo rất cứng rắn, y như là một hòn đá. Kéo quần áo phủ bên trên ra, quả nhiên là một tảng đá, chứ đâu phải là Dương Quá.

Nàng sững sờ, gọi to:

– Đồ ngốc, Đồ ngốc!

Không có tiếng trả lời. Nàng lắng nghe, từ trong nhà hình như vọng ra tiếng ngáy, bèn đi vào, thấy Dương Quá đang nằm trên chính cái bàn nàng vừa nằm, lưng quay ra ngoài, ngáy như kéo bễ, đang ngủ say. Lục Vô Song cả giận, cũng chẳng nghĩ tại sao chàng tự dưng lại nằm ở đây, sấn ngay tới, giơ đao đâm vào lưng chàng.

Mũi đao đâm sâu, đúng là vào da thịt, chứ tay nàng không có cảm giác gì lạ. Chỉ nghe Dương Quá khịt khịt mũi nói mớ:

– Đứa nào gãi ngứa sau lưng ta đó? Hi hi, đừng nghịch, đừng nghịch, để yên ta ngủ!

Lục Vô Song tái mặt, hai tay run rẩy, nghĩ thầm: "Người này chẳng lẽ là ma quỉ?" Nàng quay người định chạy, nhưng hai chân ríu lại, chỉ nghe Dương Quá lại nói mớ:

– Sau lưng ngứa quá, chắc là con chuột nhắt đến ăn vụng tảng thịt nai của ta rồi.

Chàng giơ tay, lôi từ sau lưng ra tảng thịt nai, ném phịch một cái xuống đất. Lục Vô Song há hốc mồm, bây giờ mới hiểu: "Thì ra Đồ ngốc đeo tảng thịt nai sau lưng, vừa rồi mũi đao của ta đâm trúng vào đó, chính ta bị giật mình". Hai lần đâm, chém đều bị lừa, Lục Vô Song càng tức giận thêm, nghiến răng nói:

– Đồ ngốc thối tha, xem lần này ta có lấy nổi mạng ngươi hay không.

Nàng xông tới, vung đao chém mạnh xuống người chàng. Dương Quá vẫn ngáy, lăn mình một cái, lưỡi đao cắm phập xuống mặt bàn. Lục Vô Song định vận sức vào hai tay để rút cây đao lên, thì Dương Quá hình như đang mơ thấy ác mộng, nói mớ:

– Mẹ ơi, mẹ ơi, chuột nhắt nó cắn con?

Hai chân lấm bùn của chàng giơ lên, chân trái gí vào huyệt Khúc Trì ở khuỷu tay, chân phải gí vào huyệt Kiên Tỉnh ở vai nàng, cả hai chỗ đều là đại huyệt trên cơ thể người, hai cái chân lấm lem giãy giãy thế nào mà lại điểm trúng hai huyệt ấy. Lục Vô Song tức thời đứng ngay đơ ra đó, làm cái giá để hai chân chàng gác lên. Lục Vô Song giận quá, thân hình tuy không cựa quậy được nhưng miệng thì vẫn có thể nói, bèn quát:

– Này, Đồ ngốc, mau bỏ hai cái chân hôi hám của ngươi ra!

Chỉ nghe chàng ngáy to hơn. Lục Vô Song không biết làm cách gì, liền há miệng nhổ một bãi nước bọt về phía chàng. Dương Quá trở mình, mũi bàn chân phải gí trúng vào huyệt Cự Cốt, Lục Vô Song toàn thân tê dại, ngay miệng cũng không há ra được, mũi vẫn ngửi thấy mùi hôi từ bàn chân chàng xộc lên. Cứ thế chừng một tuần trà, Lục Vô Song giận tưởng muốn ngất đi, trong bụng thề độc: "Ngày mai khi huyệt đạo đã thông, nhất định ta sẽ băm vằm Đồ ngốc vài chục nhát đao". Dương Quá nghĩ thầm đùa giỡn nàng như thế là đủ, bèn buông chân xuống, xoay mình lại, tuy trong bóng tối vẫn nhìn rõ thần sắc giận dữ của nàng, nàng càng giận thì hình như càng giống Tiểu Long Nữ, Dương Quá cứ trân trân nhìn nàng, không chớp mắt. Kỳ thực Lục Vô Song tướng mạo khác hẳn Tiểu Long Nữ, chẳng qua nữ nhân trong thiên hạ khi tức giận sẽ có diện mạo phần lớn giống nhau, Dương Quá quá nhớ sư phụ, nên nhìn Lục Vô Song giận dữ lại ngỡ đấy là Tiểu Long Nữ, giống như trường hợp ăn bánh vẽ, nhìn cây mơ đỡ khát mà thôi. Lúc này ánh trăng chếch sang phía tây, chiếu từ ngoài cổng vào. Lục Vô Song thấy Dương Quá mở to mắt đăm đăm nhìn mình, thì nghĩ thầm: "Không lẽ Đồ ngốc giả vờ ngớ ngẩn? Hắn điểm huyệt mình, chứ đâu phải là vô tình đạp trúng huyệt?" Nghĩ tới đó bỗng toát mồ hôi lạnh. Đúng lúc ấy, Dương Quá bỗng liếc xuống đất, nàng cũng đưa mắt nhìn theo, thấy dưới đất in rõ ba bóng đen đứng thành một hàng, là ba người đang đứng ngay ở cửa. Nhìn kỹ, tay họ đều lăm lăm vũ khí. Lục Vô Song thầm kêu khổ: "Nguy rồi, hỏng rồi, kẻ địch tìm đến, ta lại bị Đồ ngốc điểm huyệt thế này". Nàng liên tiếp gặp chuyện lạ, thâm tâm tuy nghi ngờ, song vẫn không thể tin rằng một gã mục đồng bẩn thỉu lại có võ công cao minh đầy mình như vậy.

Dương Quá nhắm mắt ngáy to. Chỉ nghe một người ngoài cửa gọi:

– Con tiểu tiện nhân kia, mau ra đây, ngươi cứ đứng yên trong ấy, tưởng đạo gia sẽ tha cho ngươi chăng?

Dương Quá nghĩ thầm: "Vẫn là tên đạo sĩ". Một người khác nói:

– Bọn ta cũng không cần lấy mạng ngươi, chỉ xẻo hai cái tai và chặt ba ngón tay ngươi mà thôi.

Người thứ ba nói:

– Lão phu ở bên ngoài chờ, ra ngoài này động thủ cho sướng tay.

Nói xong nhảy ra ngoài. Ba người dàn thành nửa vòng tròn ngoài sân.

Dương Quá vươn vai, thong thả ngồi dậy, nói:

– Ngoài kia ai gọi cái gì thế, Lục cô nương, cô nương đâu rồi? Ồ, sao cô nương lại đứng đờ ra thế?

Chàng ấn mấy cái vào sau lưng nàng. Lục Vô Song lập tức cảm thấy một luồng cường kình truyền sang, toàn thân chấn động, ba huyệt đạo đã được giải khai, cũng không kịp nghĩ ngợi gì, vội cúi nhặt thanh đơn đao, nhảy ra ngoài, chỉ thấy ba nam nhân đứng quay lưng về phía ánh trăng.

Nàng không nói gì, lật cổ tay đâm đơn đao về phía người đứng bên trái. Người đó tay cầm thiết tiên (roi sắt) vụt vào lưỡi đao. Thiết tiên của y vốn nặng, lực vụt lại mạnh, keng một tiếng, thanh đao của Lục Vô Song văng khỏi tay. Dương Quá đang nằm ngang trên bàn, thấy Lục Vô Song bước sang bên cạnh, tay trái đưa chếch, nghĩ thầm: "Hay lắm, đạo sĩ kia sắp mất kiếm cho mà xem". Quả nhiên Lục Vô Song thi triển võ công phái Cổ Mộ, đoạt được thanh kiếm từ tay gã đạo sĩ ở bên phải, thuận tay chém luôn, xoẹt một tiếng, trúng vai đạo sĩ. Gã kêu to, nhảy ra ngoài, xé vạt áo băng vết thương.

Lục Vô Song múa kiếm đấu với hán tử cầm thiết tiên. Gã hán tử thứ ba, thấp bé, cầm hoa thương (vũ khí cổ giống chiếc giáo, nhưng ngắn hơn) cứ đâm bên này một cái, đâm bên kia một cái, không dám lại quá gần. Gã sử dụng thiết tiên võ công không phải loại thường, sau hơn mười chiêu, Lục Vô Song bắt đầu cảm thấy khó địch nổi. Người ấy xuất thủ rất có khí độ, tựa hồ chú ý tới thân phận của mình; Lục Vô Song mấy lần thất thủ, người ấy đều không lấn tới quá mức.

Gã đạo sĩ băng bó xong vết thương, tay không nhảy vào, chỉ mặt Lục Vô Song, mắng:

– Tiểu tiện nhân phái Cổ Mộ kia, ngươi hạ thủ tàn độc quá!

Rồi múa quyền đấm tới. Bạch quang loáng lên, gã đạo sĩ thiếu chút nữa bị một kiếm chém vào lưng, nhưng cây hoa thương của gã thấp bé đã đâm phía sau Lục Vô Song, còn thiết tiên của gã thứ hai thì quất tới vai Lục Vô Song. Dương Quá kêu thầm "Không ổn". Hai viên sỏi từ hai tay búng đi, một viên đánh bật hoa thương, một viên bắn trúng cổ tay phải gã đạo sĩ sử dụng thiết tiên.

Không ngờ gã đó võ công cao cường, cổ tay phải trúng đòn, thiết tiên không còn lực quất tới, nhưng tả chưởng lại nhanh như chớp đánh ra, hự một tiếng, trúng vào sườn Lục Vô Song. Dương Quá cả kinh, vội lao ra, thộp gáy ném gã đi. Gã bị bay ra xa hơn một trượng. Gã đạo sĩ bị thương và gã thấp bé thấy Dương Quá lợi hại như thế, vội dìu hán tử vừa bị quẳng ra, kéo nhau đi luôn, không dám ngoảnh lại.

Dương Quá cúi nhìn Lục Vô Song, thấy mặt nàng tái nhợt, hơi thở rất yếu ớt, bị thương thực không nhẹ, đưa tay đỡ nàng từ từ ngồi dậy, nghe hai tiếng "cách cách" nhẹ, là tiếng xương gãy chạm nhau, thì ra hai dẻ xương sườn của nàng đã bị gã sử dụng thiết tiên đánh gãy. Lục Vô Song vốn ngất lịm, do cử động chỗ xương gãy gây đau nhói khiến nàng tỉnh lại, rên thành tiếng. Dương Quá hỏi:

– Thế nào, đau lắm à?

Lục Vô Song đau đến ngất đi, nghiến răng nói:

– Hỏi cái gì? Dĩ nhiên là đau rồi. Đưa ta vào nhà đi.

Dương Quá bế nàng lên, không khỏi động chạm, hai cái xương gãy đụng nhau, lại đau hoa cả mắt.

Nàng kêu:

– Đau quá, ngươi.. ngươi cố ý hành hạ ta. Ba tên kia đâu rồi?

Lúc Dương Quá ra tay, nàng đã bị đòn ngất đi nên không biết là chàng đã cứu mạng mình.

Dương Quá cười cười, nói:

– Họ ngỡ cô nương đã chết, nên phủi tay bỏ đi rồi.

Lục Vô Song hơi yên tâm, mắng:

– Ngươi cười cái gì? Đồ ngốc, thấy ta càng đau, ngươi càng thích thú phải không?

Dương Quá mỗi lần nghe nàng mắng một câu, lại nhớ đến lúc chàng bị Tiểu Long Nữ mắng. Mấy năm chung sống với Tiểu Long Nữ trong nhà mồ là thời kỳ sung sướng nhất trong đời chàng, mỗi khi Tiểu Long Nữ mắng chàng, chàng đều cảm thấy dễ chịu. Lúc này chưa tìm thấy sư phụ, vừa may gặp một bạch y thiếu nữ, cảm giác cô đơn khổ sở cũng vơi bớt mấy phần.

Kỳ thực khi Tiểu Long Nữ mắng chàng, do tính nàng lãnh đạm, nên cũng chỉ nói vài câu lạnh nhạt mà thôi; đâu có mắng té tát như Lục Vô Song? Song tình cảnh Dương Quá lúc này thà có thiếu nữ mắng nhiếc chàng còn hơn là không có ai nói gì. Cho nên Lục Vô Song mắng nhiếc gì, chàng cũng chẳng để bụng, cứ bế nàng đặt lên bàn. Lúc nàng nằm xuống, chỗ xương gãy lại đau nhói, nàng kêu to lên, lúc kêu to, phổi hít khí vào mạnh, lại động tới xương sườn, càng đau hơn; nàng đành nghiến răng, trán vã mồ hôi lạnh.

Dương Quá hỏi:

– Để ta nối chỗ xương gãy cho cô nương chứ?

Lục Vô Song nhiếc:

– Đồ ngốc thối tha, ngươi mà đòi biết cách tiếp cốt.

Dương Quá nói:

– Ở nhà ta có con chó ghẻ cắn nhau với con chó vàng nhà láng giềng, bị con kia cắn què một cẳng, ta đã chữa lành cho con chó ấy. Còn nữa, con heo nái nhà Vương bá bá bị gãy xương sườn, cũng do ta chữa khỏi đấy.

Lục Vô Song cả giận, nhưng không dám quát to, chỉ gằn giọng, nói:

– Ngươi nhiếc ta là chó ghẻ, lại còn nhiếc là heo nái. Ngươi mới là chó ghẻ, ngươi mới là heo nái.

Dương Quá cười, nói:

– Dẫu có là heo, thì ta cũng phải là heo đực chứ. Hơn nữa, con chó ghẻ lại là chó cái, chứ chó đực không bao giờ bị ghẻ.

Lục Vô Song tuy nói năng sắc sảo, song hễ nói một câu lại đau nhói ở ngực, tuy rất muốn đấu khẩu với chàng, song đành nhắm mắt nhịn đau, mặc kệ chàng. Dương Quá nói:

– Con chó ghẻ gãy chân, được ta tiếp cốt, mấy hôm đã khỏi, lại đi đánh nhau như chưa hề bị què vậy.

Lục Vô Song nghĩ thầm: "Không chừng Đồ ngốc hắn biết tiếp cốt thật cũng nên. Huống hồ nếu không có người chữa trị, ta chết là cái chắc. Nhưng mà hắn tiếp cốt cho mình, phải cởi áo nắn ngực.. thì làm sao đây? Hừ, hắn chữa không xong, thì ta liều chết với hắn; hắn chữa xong, thì ta cũng quyết không để cho kẻ nhìn thấy thân thể ta được sống trên đời". Nàng từ nhỏ đã gặp thảm họa, phải nhẫn nhục giữ mạng sống, tâm trạng vốn khác hẳn người thường, sống lâu năm với Lý Mạc Sầu, tai nghe mắt thấy nhiều chuyện, càng học cách nghĩ cách làm tàn ác, tuổi còn nhỏ mà lòng dạ độc địa, hạ giọng, nói:

– Thôi được, nếu ngươi lừa ta, Đồ ngốc, ta quyết không để cho người được chết một cách yên lành.

Dương Quá nghĩ thầm: "Bây giờ không gây khó dễ, sau không còn dịp", thế là lạnh lùng nói:

– Con heo nái nhà Vương bá bá bị gãy xương sườn, cô con gái của Vương bá bá khẩn khoản nhờ ta, gọi ta là "hảo ca ca" một trăm tiếng, ta mới chữa cho đấy..

Lục Vô Song nói:

– Ôi ôi, ôi, Đồ ngốc thối tha, Đồ ngốc xấu xa..

Ngực lại đau nhói lên.

Dương Quá cười, nói:

– Cô nương không chịu gọi cũng chả sao. Ta đi về nhà ta vậy. Cô nương cứ nằm đây mà nghỉ cho khỏe.

Đoạn đứng dậy, đi ra cửa.

Lục Vô Song nghĩ thầm: "Hắn bỏ đi, ta còn một mình ở đây, chắc chết mất", đành nuốt giận, hỏi:

– Ngươi muốn thế nào?

Dương Quá nói:

– Lẽ ra cô nương cũng phải gọi ta là "hảo ca ca" một trăm tiếng; nhưng vì suốt dọc đường cô nương mắng nhiếc ta khổ sở, vậy phải gọi một ngàn lần mới được.

Lục Vô Song nhẩm tính trong đầu: "Hãy tạm đáp ứng hắn, đợi khi mình khỏi, sẽ trị cho hắn một phen cũng chưa muộn". Bèn nói:

– Hảo ca ca, hảo ca ca, hảo ca ca.. ối, ối, ối..

Dương Quá nói:

– Thôi được, còn chín trăm chín mươi bảy tiếng nữa, ta cho cô nương nợ, đợi khi khỏe hãy gọi.

Rồi bước lại, giơ tay cởi áo cho nàng.

Lục Vô Song bất giác co người lại, sợ hãi nói:

– Tránh ra! Ngươi làm trò gì thế?

Dương Quá lùi một bước, nói:

– Để nguyên quần áo tiếp cốt thì ta chưa biết cách; con chó ghẻ và con heo nái đâu có mặc thứ gì.

Lục Vô Song cũng thấy buồn cười, nhưng khổ nỗi để cho chàng cởi áo thì xấu hổ quá, một lát sau, đành cúi đầu nói:

– Thôi được, ta chịu thua ngươi.

Dương Quá nói:

– Cô nương không muốn chữa thì thôi, ta đâu cần..

Vừa nói tới đó, bỗng nghe ngoài cổng có tiếng người:

– Con tiện nhân ấy chắc chắn ở đâu đây trong vòng hai chục dặm, chúng ta mau lục soát..

Lục Vô Song vừa nghe giọng nói đó, thì mặt cắt không còn hột máu, bất chấp cái đau ở ngực, giơ tay bịt miệng Dương Quá, thì ra tiếng nói vừa rồi là của Lý Mạc Sầu.

Dương Quá nghe giọng nàng ta, cũng kinh ngạc.

Một giọng nữ khác nói:

– Thanh loan đao ở vai gã ăn mày chính là thanh đao của sư muội, chỉ tiếc là không tiện đứng ra nhận.

Chính là Hồng Lăng Ba.

Hai sư đồ Lý Mạc Sầu thoát ra khỏi "Hoạt tử nhân mộ", về đến Xích Hà trang, thì phát hiện Lục Vô Song đã bỏ trốn, việc ấy cũng chẳng sao, không ngờ Lục Vô Song lại lấy mất quyển "Ngũ độc bí truyền". Lý Mạc Sầu hoành hành trên giang hồ, các nhân sĩ võ lâm kính sợ, không phải vì nàng võ công cao cường, mà chủ yếu vì chất độc của "Ngũ độc thần chưởng" và của "Băng phách ngân châm". "Ngũ độc bí truyền" ghi chép các thứ độc dược và giải dược, cách điều chế, sử dụng cho ngân châm, nếu truyền rộng ra, thì Xích Luyện Tiên Tử có khác gì con rắn độc bị người ta bẻ mất răng. Những điều ghi trong sách, Lý Mạc Sầu đã thuộc lòng từ lâu, không cần mang sách theo bên mình, nàng ta đem cất ở một chỗ hết sức bí mật trong Xích Hà trang, ai ngờ Lục Vô Song vạn sự bình nhật đều lưu tâm ghi nhớ, biết được chỗ sư phụ cất giấu, khi quyết ý bỏ trốn, đã lấy sách mang đi.

Lý Mạc Sầu tức giận ghê gớm, dẫn Hồng Lăng Ba ngày đêm đuổi theo, nhưng Lục Vô Song bỏ trốn đã lâu lại toàn đi đường nhỏ, sư đồ Lý Mạc Sầu đi từ bắc xuống nam, từ nam sang đông, quanh đi quẩn lại mấy lần, thủy chung vẫn chẳng thấy tung tích Lục Vô Song đâu cả. Đêm nay tình cờ sư đồ hai người đi tới gần Đồng Quan, nghe các đệ tử Cái Bang truyền tin nhau triệu tập bang chúng Cái Bang. Lý Mạc Sầu nghĩ bụng đệ tử Cái Bang rải khắp thiên hạ, tai mắt linh thông, nhất định có người gặp Lục Vô Song, thế là hai sư đồ đi tới nơi họ tụ họp để điều tra tin tức, đang đi chợt thấy một đệ tử năm túi của Cái Bang được một đệ tử khác vác chạy như bay, có mười bảy mười tám đệ tửkhác chạy bên cạnh hộ vệ. Lý Mạc Sầu thấy vai người kia cắm một thanh loan đao, chính là thanh loan đao của Lục Vô Song. Lý Mạc Sầu liền bám theo bên cạnh nghe lén, loáng thoáng nghe mấy đệ tử Cái Bang nói rằng thanh loan đao ấy do một tiểu a đầu thọt chân phóng ra, trúng vai gã kia.

Lý Mạc Sầu cả mừng, nghĩ chuyện mới xảy ra, thì Lục Vô Song còn ở gần đâu đây, thế là lao đi tìm, tìm đến trước tòa thạch thất hoang phế. Thấy ở đó có một đống tro còn ấm, lại thoảng mùi máu tanh, vội thắp lửa soi bốn phía, thấy dưới đất có dấu máu còn mới, rõ ràng ác đấu xảy ra chưa lâu. Lý Mạc Sầu kéo áo Hồng Lăng Ba, chỉ tay vào trong nhà. Hồng Lăng Ba gật đầu, đẩy cửa, múa kiếm hộ thân, xông vào. Lục Vô Song nghe sư phụ và sư tỷ nói với nhau, biết là nguy rồi, đành nằm chờ chết. Chỉ thấy một cái bóng vàng đẩy cửa lướt vào, chính là sư tỷ Hồng Lăng Ba.

Hồng Lăng Ba rất quí sư muội, biết phen này sư phụ sẽ dùng đủ cách ác độc, sư muội sẽ bị hành hạ thống khổ vạn phần trước khi chết, thấy nàng ta đang nằm trên bàn, bèn vung kiếm đâm luôn để sư muội khỏi bị khổ sở. Mũi kiếm đâm sắp đến ngực Lục Vô Song, thì Lý Mạc Sầu vỗ vào vai Hồng Lăng Ba một cái, cánh tay nàng vô lực, liền thõng xuống. Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Chẳng lẽ ta không biết động thủ sát nhân hay sao? Làm gì phải vội?

Rồi nói với Lục Vô Song:

– Ngươi gặp sư phụ mà không vái chào ư?

Lúc này Lý Mạc Sầu tuy tức giận, nhưng lời lẽ vẫn như thường ngày. Lục Vô Song nghĩ thầm: "Hôm nay gặp mụ ta, dù van xin hay ngang ngạnh thì cũng đều bị mụ ta hành hạ khổ sở", bèn thản nhiên nói:

– Sư phụ với nhà ta có mối thâm cừu, khỏi cần nhiều lời.

Lục Vô Song chăm chú nhìn, mục quang cũng không lộ rõ là vui hay buồn. Hồng Lăng Ba thì vẻ mặt đầy thương hại. Lục Vô Song hơi bĩu môi, sắc mặt thản nhiên.

Ba người cứ thế nhìn nhau một hồi lâu, Lý Mạc Sầu nói:

– Quyển sách đâu, đưa đây.

Lục Vô Song nói:

– Bị một gã đạo sĩ thối tha, một tên ăn mày xấu xa cướp mất rồi.

Lý Mạc Sầu thầm kinh hãi, nàng tuy không có thù oán gì với Cái Bang, nhưng với phái Toàn Chân thì đụng chạm không nhỏ, "Ngũ độc bí truyền" một khi rơi vào tay bọn họ, làm sao còn lấy lại được?

Lục Vô Song thấy sư phụ thản nhiên mỉm cười, tự biết sư phụ chính đang suy tính độc kế. Suốt thời gian đi trốn, nàng luôn luôn thấp thỏm sợ bị sư phụ đuổi bắt. Bây giờ đã bị sư phụ bắt được, nàng lại không sợ như trước, tự dưng lúc này lại nghĩ thầm: "Đồ ngốc đâu rồi nhỉ?". Nàng sắp mất mạng, nghĩ đến gã mục đồng bẩn thỉu và ngốc nghếch, chẳng hiểu sao lại có cảm giác ấm áp và thân thiết. Đột nhiên có lửa sáng và tiếng chân sầm sầm.

Sư đồ Lý Mạc Sầu quay người lại, thấy một con trâu xông thẳng vào nhà, một bên sừng buộc cây đơn đao, sừng bên kia buộc một cây củi đang cháy đùng đùng. Cái thế lao tới của con trâu uy mãnh vô cùng, Lý Mạc Sầu vội né sang một bên, con trâu chạy một vòng trong nhà, rồi quay đầu chạy ra ngoài. Nó chạy vào rất hung hăng, lúc chạy ra cũng như điên, thoáng chốc đã phóng ra xa mấy trượng. Lý Mạc Sầu nhìn theo con trâu, thoạt tiên cảm thấy hơi kỳ dị, sau đó nghĩ thầm: "Kẻ nào buộc củi lửa và đao nhọn vào sừng con trâu?". Quay người lại cả hai sư đồ cùng kinh ngạc, Lục Vô Song vừa nằm trên bàn đã biến mất tăm.

Hồng Lăng Ba ngó trước ngó sau tòa thạch thất một lượt, rồi nhảy lên mái nhà tìm kiếm. Lý Mạc Sầu đoán là mọi sự ở con trâu kia mà ra, bèn ra khỏi nhà đuổi theo. Trong đêm tối, chỉ thấy ánh lửa loang loáng ở sừng con trâu đã chạy vào cánh rừng trước mặt. Dưới ánh lửa, Lý Mạc Sầu thấy trên lưng trâu không hề có người cưỡi, xem chừng Lục Vô Song hoàn toàn không phải cưỡi con trâu chạy trốn. Nàng nghĩ thầm: "Phải rồi, nhất định có kẻ ở bên ngoài tiếp ứng, cho con trâu chạy vào để làm cho ta phân tâm, hắn thừa Cơ cứu Lục Vô Song đi". Song nhất thời nàng chưa biết đuổi về hướng nào, bèn gia tăng cước bộ, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp con trâu, nàng nhảy vọt lên lưng nó, nhìn kỹ không thấy gì lạ, mới nhảy xuống, đá một cái vào mông con trâu, huýt một tiếng sáo miệng thông tin cho Hồng Lăng Ba, rồi một người từ bắc xuống nam, một người từ đông sang tây, bắt đầu truy đuổi.

Con trâu dĩ nhiên do Dương Quá lùa vào nhà. Chàng nghe thấy tiếng sư đồ Lý Mạc Sầu nói với nhau, bèn chuồn ra cửa sau, nép bên ngoài nghe lén; chỉ sau một câu đã biết Lý Mạc Sầu sắp giết Lục Vô Song; bèn nảy ra một kế, chạy lại chỗ con trâu, nhặt thanh đơn đao của Lục Vô Song bị thiết tiên đánh rơi, nhặt một cành củi khô, buộc hai thứ vào hai bên sừng trâu, đốt thanh củi, nằm ở dưới bụng con trâu, tay chân quặp chặt thân trâu, cho con trâu xông vào trong nhà, ôm lấy Lục Vô Song, lại nép dưới bụng trâu mà thoát ra. Chàng hành động thần tốc, con trâu lại cổ quái nhờ vậy đã qua mặt được Lý Mạc Sầu. Khi Lý Mạc Sầu đuổi kịp con trâu, thì Dương Quá đã ôm Lục Vô Song trốn vào một đám cỏ dày.

Trải qua phen vừa rồi Lục Vô Song đau đến chết đi sống lại. Mọi việc Dương Quá cứu làm sao, ôm nàng nấp dưới bụng trâu, chui nấp trong cỏ thế nào, nàng chỉ biết một cách lờ mờ. Nằm một chỗ rồi, thần trí mới phục hồi, kêu "ôi" một tiếng. Dương Quá vội lấy tay bịt miệng nàng lại, ghé tai nàng nói nhỏ:

– Đừng lên tiếng!

Chỉ nghe tiếng bước chân, Hồng Lăng Ba nói:

– Lạ thật, tại sao trong chớp mắt đã biến mất tăm là sao?

Lý Mạc Sầu từ đằng xa nói:

– Chúng ta đi thôi. Con tiện nhân ấy chắc đã chạy xa rồi.

Tiếng chân của Hồng Lăng Ba đi xa dần. Lục Vô Song khó thở, lại rên lên, Dương Quá vẫn cứ bịt miệng nàng, chưa buông tay ra.

Lục Vô Song giãy một cái, phát hiện mình đang nằm trong lòng chàng, vừa ngượng vừa cuống, giơ tay định đánh chàng. Dương Quá ghé tai nàng nói:

– Đừng mắc lừa, sư phụ cô nương đánh lừa cô nương đấy.

Lời vừa dứt, quả nhiên nghe Lý Mạc Sầu nói:

– Đúng là nó không còn ở đây.

Tiếng nói nghe như ngay bên cạnh hai người, Lục Vô Song giật mình, nghĩ thầm: "Không có Đồ ngốc kiến cơ hành sự, thì mình mất mạng rồi". Nguyên Lý Mạc Sầu nghi là Lục Vô Song trốn ở đâu đây, miệng nói là đi thôi, kỳ thực thi triển khinh công quanh quẩn ở lại, Lục Vô Song tí nữa thì trúng kế.

Dương Quá dỏng tai lắng nghe, lần này thì sư đồ Lý Mạc Sầu bỏ đi thật, mới bỏ tay bịt miệng Lục Vô Song ra, cười, nói:

– Tốt rồi, không phải sợ nữa.

Lục Vô Song nói:

– Buông ta ra.

Dương Quá nhẹ nhàng đặt nàng nằm trên cỏ, nói:

– Ta sẽ lập tức tiếp cốt cho cô nương, chúng ta cần mau chóng rời khỏi nơi này, để sáng mai e khó thoát thân.

Lục Vô Song gật gật đầu. Dương Quá sợ nàng giãy giụa kêu đau trong lúc nắn xương, sư đồ Lý Mạc Sầu có thể nghe thấy, bèn điểm huyệt, cởi áo ngoài của nàng ra, nói:

– Nhất thiết chớ kêu đó!

Cởi xong áo ngoài, lộ ra cái áo trong màu trắng, dưới áo trong là cái yếm màu vàng. Dương Quá không dám cởi tiếp, đưa mắt nhìn lên, thấy nàng mắt nhắm nghiền, vừa ngượng vừa sợ. Dương Quá ngửi thấy mùi thơm của thân thể xử nữ, bất giác trống ngực đập thình thình. Lục Vô Song mở mắt, nhẹ nhàng giục:

– Ngươi chữa cho ta đi!

Nói xong lại nhắm mắt vào, nghiêng mặt sang một bên. Dương Quá hai tay run run, cởi yếm của nàng ra, thấy hai bầu vú, không dám đưa tay sờ nắn. Lục Vô Song chờ hồi lâu, chỉ thấy gió mơn man da ngực lành lạnh, ngoảnh mặt lại, mở mắt ra, thấy Dương Quá đăm đăm nhìn như đờ đẫn, thì nổi giận, nói:

– Ngươi.. nhìn gì.. mãi thế?

Dương Quá giật mình, đưa tay sờ nắn xương, chạm vào da thịt trắng ngần của nàng, người như bị chớp giật, nóng bừng lên, vội rụt tay lại. Lục Vô Song nói:

– Mau nhắm mắt vào đi, ngươi còn nhìn ta, ta sẽ..

Nói đến đây, nước mắt ứa ra.

Dương Quá vội nói:

– Vâng, vâng, ta nhắm mắt đây. Cô nương.. cô nương đừng khóc?

Liền nhắm mắt, hai tay sờ chỗ xương gãy, nắn lại thật khớp với nhau, lấy yếm che ngực nàng, đã hơi trấn tĩnh, liền chặt bốn đoạn cành cây, đặt hai đoạn trước ngực, hai đoạn sau lưng, dùng vỏ cây buộc chặt để chỗ xương gãy không xê dịch vị trí. Xong đâu đấy mới mặc áo lại, giải huyệt cho nàng.

Lục Vô Song mở mắt ra, ánh trăng chiếu vào mặt chàng, thấy hai má chàng ửng hồng, vẻ ngượng nghịu, mắt đang ngó trộm nàng, bốn mắt chạm nhau, cả hai cùng vội ngoảnh đi nơi khác. Lúc này chỗ xương gãy đã cố định, tuy còn đau, nhưng không đau chói như lúc trước nữa, nàng nghĩ thầm: "Đồ ngốc quả có tài tiếp cốt". Bây giờ nàng đã biết Dương Quá thực không phải kẻ tầm thường, càng không ngốc nghếch, nhưng ngay từ đầu đã quen miệng mắng nhiếc chàng, tuy vừa được chàng cứu, vẫn chưa chịu tỏ ra kính trọng, hỏi:

– Đồ ngốc, ngươi bảo nên làm thế nào, ở lại đây hay trốn đi thật xa?

Dương Quá nói:

– Thế cô nương nghĩ sao?

Lục Vô Song nói:

– Tất nhiên phải đi xa, ở lại đây chịu chết à?

Dương Quá hỏi:

– Đi xa là đi đâu?

Lục Vô Song nói:

– Ta phải về Giang Nam, ngươi có chịu đi theo ta hay không?

Dương Quá nói:

– Ta phải tìm cô cô của ta, không thể đi xa như thế được.

Lục Vô Song sa sầm mặt, nói:

– Được vậy thì ngươi đi cho mau! Cứ mặc ta chết ở đây cho xong.

Giả dụ Lục Vô Song khôn khéo cầu xin, chắc hẳn Dương Quá sẽ không đáp ứng; đằng này thấy nàng giận dỗi, buồn bã, trông rất giống lúc Tiểu Long Nữ tức giận, thì chàng lại khó cự tuyệt, nghĩ thầm: "Không chừng cô cô lại đi Giang Nam, mình đưa Lục cô nương đến đó, có câu hảo tâm sẽ được báo đáp, trời sẽ run rủi cho mình gặp cô cô ở Giang Nam." Chàng biết hi vọng ấy rất mỏng manh, song không nỡ cự tuyệt Lục Vô Song, đành tự an ủi mình, thở dài, cúi xuống bế nàng lên.

Lục Vô Song nói dỗi:

– Ngươi bế ta lên làm gì?

Dương Quá cười, nói:

– Bế cô nương đi Giang Nam đây.

Lục Vô Song cả mừng, tươi cười, nói:

– Đồ ngốc, Giang Nam xa lắm, ngươi làm sao bế ta đến tận đó?

Nói rồi ngoan ngoãn ngả đầu vào ngực chàng.

Con trâu đực đã chạy mất tiêu. Dương Quá sợ chạm trán với sư đồ Lý Mạc Sầu, toàn phải tìm đường nhỏ, vắng người mà đi. Chàng bước nhanh, nửa thân trên cố giữ yên, để khỏi chấn động đến vết thương của Lục Vô Song. Lục Vô Song thấy cây cối hai bên đường chạy lùi về phía sau, chàng đi nhanh như ngựa phi, so với nàng chạy một mình còn nhanh hơn, khinh công xem ra chẳng thua gì sư phụ, thì trong bụng kinh ngạc: "Thì ra Đồ ngốc thân mang tuyệt nghệ. Chàng còn ít tuổi, mà sao đã luyện được một thân võ công như thế?" Không lâu sau, phương đông rạng dần, nàng ngẩng mặt lên, thấy Dương Quá mặt mày tuy lấm lem, nhưng diện mạo thanh tú đôi mắt càng sinh động có thần, bất giác xúc động, dần dần quên cả chỗ đau trên ngực, rồi nàng ngủ thiếp đi.

Trời đã sáng hẳn, Dương Quá hơi mệt, chạy tới một cây to, chàng nhẹ nhàng đặt nàng xuống, mình thì ngồi nghỉ bên cạnh. Lục Vô Song mở mắt, mỉm cười nói:

– Ta đói. Ngươi có đói hay không?

Dương Quá nói:

– Dĩ nhiên ta cũng đói, thôi được, ta tìm một phạn điếm mà ăn đã.

Chàng đứng dậy, bế nàng lên, có điều chàng bế nàng từ nửa đêm qua tới giờ, hai tay hơi mỏi, bèn đặt nàng ngồi lên vai mà đi.

Lục Vô Song hai chân đụng nhẹ trước ngực Dương Quá, cười nói:

– Đồ ngốc, tên ngươi rốt cuộc là gì? Không thể trước mặt mọi người, ta lại gọi ngươi là Đồ ngốc.

Dương Quá nói:

– Ta không có tên, ai ai cũng gọi ta là Đồ ngốc.

Lục Vô Song hơi dỗi:

– Ngươi không nói thì thôi! Thế sư phụ của ngươi là ai?

Dương Quá nghe nhắc đến hai tiếng "sư phụ", chàng vốn hết mực kính trọng Tiểu Long Nữ, thì không dám đùa bỡn, nghiêm mặt đáp:

– Sư phụ của ta là cô cô của ta.

Lục Vô Song tin liền, nghĩ thầm: "Thì ra là võ nghệ gia truyền". Lại hỏi:

– Cô cô của ngươi thuộc nhà nào phái nào?

Dương Quá ngẩn ra, đáp:

– Cô cô sống ở nhà, thuộc phái nào ta cũng không biết.

Lục Vô Song hơi bực, nói:

– Ngươi giả vờ ngốc nghếch! Ta hỏi ngươi, ngươi học là học võ công của môn phái nào?

Dương Quá nói:

– Làm sao ta biết được?

Lục Vô Song nghĩ thầm: "Không lẽ hắn ngớ ngẩn thật? Giỏi võ, nhưng mà ngu." Bèn ôn tồn nói:

– Đồ ngốc, ngươi thửnói xem, vì sao ngươi lại cứu mạng ta?

Dương Quá nhất thời khó trả lời. Chàng nghĩ một lúc rồi nói:

– Tại cô cô của ta bảo ta cứu cô nương, thì ta cứu.

Lục Vô Song hỏi:

– Cô cô của ngươi là ai?

Dương Quá nói:

– Cô cô là cô cô. Cô cô bảo ta làm gì thì ta làm nấy.

Lục Vô Song thở dài, nghĩ thầm: "Người này đúng là một kẻ ngớ ngẩn". Vốn đã có chút mến mộ, bây giờ lại cảm thấy chán ghét chàng. Dương Quá không thấy nàng nói nữa, bèn hỏi:

– Sao cô nương không nói nữa?

Lục Vô Song hừ một tiếng. Dương Quá lại hỏi lần nữa. Lục Vô Song bực mình, đáp:

– Ta không thích nói thì không nói nữa chứ sao. Đồ ngốc, im miệng đi!

Dương Quá biết vẻ mặt nàng lúc này dĩ nhiên rất dễ coi, chỉ tiếc nàng đang ngồi trên vai, nên chàng không thể ngắm được. Không lâu sau thì đến một thị trấn nhỏ. Dương Quá tìm một phạn điếm, gọi cơm ăn. Hai người ngồi đối diện nhau. Lục Vô Song ngửi thấy mùi mồ hôi trâu tỏa ra từ người chàng, cau mày, nói:

– Đồ ngốc, sang chỗ khác mà ngồi, đừng ngồi chung bàn với ta.

Dương Quá cười cười, sang bàn bên cạnh. Lục Vô Song thấy chàng vẫn đối diện với mình, thì càng nhìn càng khó chịu, nói:

– Ngươi đừng nhìn ta.

Rồi chỉ chiếc bàn xa hơn, nói:

– Ra đấy mà ngồi.

Dương Quá tủm tỉm cười, bưng bát cầm ra đó ngồi ăn. Lục Vô Song tuy đói bụng, nhưng đau ngực, khó nuốt, cảm thấy trăm thứ đều trái ý, chỉ muốn trút giận xuống đầu Dương Quá, nhưng lúc này chàng đã ngồi đằng xa. Đang lúc ngán ngẩm, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng hát cất cao:

– Tiểu tiểu cô nương làm việc tốt.

Người thứ hai hát tiếp:

– Mau thí cho ta một bát cơm!

Lục Vô Song ngẩng đầu nhìn, thấy bốn hóa tử (người ăn xin) đứng dàn hàng ngang ngoài cửa cùng nhìn nàng. Nàng biết bốn kẻ kia có ý xấu, lòng thầm e ngại. Lại nghe gã thứ ba hát:

– Thiên đường có lối người chẳng tới!

Gã thứ tư hát tiếp:

– Địa ngục vô môn lại xuống đây?

Bốn hóa tử hát các câu trong bài ăn xin, nhan đề "Liên hoa lạc", mỗi gã đều tay phải cầm một chiếc bát mẻ, tay trái chống một cành cây, vai đeo bốn cái túi vải thô. Lục Vô Song từng nghe sư tỷ trong lúc nhàn đàm nói rằng bang chúng Cái Bang dùng số túi vải đeo trên vai để phân biệt thân phận cao thấp. Bốn gã hóa tử này đeo bốn cái túi vải, gọi là đệ tử bốn túi. Hôm qua ở Sài Lang cốc nàng đã giao đấu với hai lão Hàn, Trần, hình như hai lão ấy đều đeo năm cái túi vải cao hơn mấy gã này một bậc. Giá như nàng không bị thương, thì chẳng sợ gì bốn hóa tử này. Bây giờ cầm đũa còn run, thì làm sao có thể nghênh địch? Đồ ngốc tuy giỏi khinh công, nhưng lại ngớ ngớ ngẩn ngẩn, dù biết võ công, cũng chẳng giỏi giang, bất giác nàng phập phồng lo sợ.

Dương Quá cứ cúi đầu ăn cơm, làm như không nhìn thấy bốn hóa tử. Chàng ăn hết một bát, lại tự đến bên liễn cơm xới một bát đầy có ngọn rồi chìa tay nhón lấy một con cá kho trong đĩa, làm cho nước cá kho nhỏ mấy giọt xuống mặt bàn, cười nhăn nhở:

– Hi hi, ta ăn cá!

Lục Vô Song hơi cau mày, chẳng còn bụng dạ nào mắng chàng nữa.

Chỉ nghe bốn hóa tử lại hát bài ăn xin, nhấn mãi bốn tiếng "tiểu tiểu cô nương". Họ hát đi hát lại ba lần, tám con mắt cứ chằm chằm nhìn Lục Vô Song. Lục Vô Song chẳng biết đối phó thế nào, cứ thong thả và cơm, giả bộ không để ý, trong lòng thì lo lắng vô cùng.

Một gã hóa tử nói to:

– Tiểu cô nương, đã không chịu bố thí một bát cơm, thì hãy bố thí một thanh loan đao nữa đi.

Gã thứ hai nói:

– Cô nương hãy đi theo bọn ta, bọn ta cũng chẳng khó dễ gì, chỉ cần hỏi rõ phải trái cong vẹo, tự khắc sẽ có phán xét công bằng.

Lát sau, gã thứ ba nói:

– Đi mau, không lẽ chờ bọn ta cưỡng bức hay sao?

Lục Vô Song trả lời không được, im lặng cũng không xong, chẳng biết phải làm thế nào. Gã hóa tử thứ tư nói:

– Bọn ta bốn nam nhi không thể bắt nạt một cô nương bé nhỏ, để cho hảo hán giang hồ chê cười hay sao? Bọn ta chỉ cần cô nương đi giải thích một chút thôi.

Lục Vô Song nghe giọng điệu của bốn hóa tử, biết là họ sắp động thủ, mình không tài nào địch nổi, song chẳng lẽ khoanh tay chịu chết, tay trái liền cầm lấy một chiếc ghế, đối phương xông tới sẽ dùng chiếc ghế làm vũ khí.

Dương Quá nghĩ thầm: "Đến lúc xuất thủ rồi!" Chàng tới bên bàn của Lục Vô Song, bưng tô canh lên, miệng thì vừa cắn một khúc cá to, nói không rõ tiếng:

– Ta.. ta muốn húp canh!

Tô canh nghiêng đi, đổ về phía vai phải của Lục Vô Song, khiến nàng co người lại né tránh. Dương Quá kêu "Ôi chao" chân tay luống cuống, tìm cách lau chùi cho nàng, nhân đó tay trái hất ra phía ngoài một cái, bốn chiếc đũa tre bắn về phía bốn hóa tử. Bốn chiếc đũa bay tới cực nhanh, bốn hóa tử còn chưa kịp nhìn cho rõ, chỉ cảm thấy khuỷu tay tê đi, "choang choang" mấy tiếng liền, bốn cái bát cùng rơi xuống nền vỡ tan. Dương Quá thì lấy vạt áo của chàng chùi chùi vào vạt áo của Lục Vô Song, nói:

– Để ta lau.. sạch cho cô nương, cô nương đừng giận.

Lục Vô Song quát:

– Đừng lắm chuyện!

Nàng quay ra nhìn bốn hóa tử thì rất đỗi kinh ngạc.

Chỉ thấy bốn hóa tử đã chạy tít ra góc đường, dưới nền nhà đầy mảnh bát vỡ. Lục Vô Song kinh ngạc: "Bốn người kia kỳ quái thật, tự dưng lại bỏ chạy cả rồi là sao?" Nàng thấy Dương Quá hai tay dính nước cá kho, đang chùi vào bàn, thì mắng:

– Xéo ra chỗ khác đi, người đâu mà bẩn thỉu thế không biết!

Dương Quá nói:

– Vâng, vâng!

Hai tay lại chùi chùi vào vạt áo. Lục Vô Song cau mày hỏi:

– Bốn gã hóa tử sao lại bỏ đi?

Dương Quá nói:

– Họ thấy cô nương tham ăn, không chịu bố thí cho họ, có nài thêm cũng vô ích, đành phải bỏ đi.

Lục Vô Song ngẫm nghĩ một lát, chẳng hiểu nguyên do vì sao, lấy bạc ra, bảo Dương Quá đi mua một con lừa, trả tiền cơm xong xuôi, nàng leo lên lưng con lừa mà đi. Nhưng vừa đi thì chỗ xương gãy lại đau nhói, không nén được, phải rên to. Dương Quá nói:

– Đáng tiếc ta vừa bẩn vừa hôi, nếu không đã có thể ngồi sau dìu cô nương.

Lục Vô Song nói:

– Hừ, toàn nói vớ vẩn.

Nàng kéo căng dây cương, con lừa này rất ngang bướng, nó đi sát vào tường để người cưỡi bị đụng vào tường, Lục Vô Song vô lực, kêu lên một tiếng, ngã xuống. Chân phải nàng chạm đất, may mà đứng lại được không ngã, nhưng động đến chỗ xương gãy, đau đớn quá chừng, nàng tức giận nói:

– Ngươi thừa biết ta ngã, mà chẳng chịu đỡ.

Dương Quá nói:

– Ta.. người ta hôi hám mà.

Lục Vô Song nói:

– Ngươi không biết tắm rửa hay sao?

Dương Quá cười ngô nghê, không đáp. Lục Vô Song nói:

– Ngươi đỡ ta lên lưng con lừa đi.

Dương Quá đỡ nàng ngồi lên lưng con lừa. Thấy có người cưỡi lên lưng mình, con lừa lại giở trò quỉ.

Lục Vô Song nói:

– Ngươi mau dắt nó đi.

Dương Quá nói:

– Không, ta sợ nó đá lắm. Nếu là con trâu của ta, thì ta mới điều khiển nó được.

Lục Vô Song cả giận, nghĩ thầm: "Tên ngốc này bảo nó ngốc cũng không đúng, bảo nó không ngốc cũng không đúng. Rõ ràng là nó muốn ôm mình."

Không còn cách nào khác, đành nói:

– Thôi được, ngươi lên ngồi sau ta.

Dương Quá nói:

– Đấy là cô nương sai ta, không được ngại ta bẩn thỉu, không được đánh chửi ta đấy nhá.

Lục Vô Song nói:

– Phải, đừng có nhiều lời nữa.

Dương Quá bấy giờ mới leo lên lưng con lừa, hai tay ôm nàng, hai chân hơi dùng lực, con lừa cảm thấy bụng đau nhói, không dám giở trò gì, ngoan ngoãn bước đi.

Dương Quá hỏi:

– Đi hướng nào đây?

Lục Vô Song đã hỏi thăm đường đi từ sớm, vốn định đi về hướng đông, qua Đồng Quan, qua Trung Châu, rẽ xuống phía nam, đó là đường lớn; nay sau khi gặp bốn đệ tử Cái Bang, nghĩ rằng dọc đường phía trước sẽ còn bọn Cái Bang mai phục, chi bằng đi đường nhỏ, qua ải Trúc Lâm, vượt qua Long Câu trại, rồi qua ải Tử Kinh mà xuống Giang Nam, tuy lộ trình xa hơn, nhưng an toàn hơn hẳn, sư phụ càng khó đuổi theo; nghĩ một chút, nàng chỉ tay về hướng đông nam, nói:

– Đi lối kia.

Con lừa gõ móng lóc cóc, thong thả đi. Vừa ra khỏi thị trấn, thì có một cậu bé nông gia ở bên đường chạy tới chắn phía trước con lừa, nói:

– Lục cô nương, có cái này cho cô nương.

Nó tung bó hoa đang cầm trong tay về phía Lục Vô Song, rồi quay đầu chạy đi ngay. Lục Vô Song giơ tay đón bó hoa, thấy bên trong giấu một phong thư, vội bóc thư ra xem, là một tờ giấy ố vàng, viết: "Tôn sư sắp tới đó mau tìm cách trốn!"

Tờ giấy thô xấu, nhưng nét chữ thì rất đẹp. Lục Vô Song thốt một tiếng "ôi" kinh nghi bất định: "Cậu bé vừa rồi là ai? Sao lại biết ta họ Lục? Sao lại biết sưphụ sắp đuổi tới nơi?" Nàng hỏi Dương Quá:

– Ngươi biết cậu bé vừa rồi phải không? Lại do cô cô của ngươi sai nó tới à?

Dương Quá ở sau lưng đã nhìn thấy dòng chữ, nghĩ thầm: "Cậu bé này hẳn là do người ta nhờ mang thư đến. Ai là người viết thư nhỉ? Xem ra người ấy có lòng tốt. Nếu đúng là Lý Mạc Sầu đuổi tới, thì phải đối phó sao đây?" Chàng tuy đã luyện "Ngọc nữ tâm kinh" và "Cửu Âm chân kinh" một thân mà kiêm tu hai đại bí truyền trong võ lâm, nhưng thời gian ngắn ngủi, tuy biết sự bí ảo, song công lực chưa chín muồi, hoàn toàn chưa phải là đối thủ của Lý Mạc Sầu; thanh thiên bạch nhật thế này, biết trốn vào đâu, đang nghĩ cách, nghe Lục Vô Song hỏi, thì nói:

– Ta không quen biết cậu bé đó, xem chừng cũng không phải do cô cô của ta sai tới.

Vừa trả lời xong, bỗng nghe có tiếng cổ nhạc vang lên, đi ngược về phía hai người là một chiếc kiệu hoa, mấy chục người đi theo, thì ra là một đám rước dâu. Tuy là thứ cổ nhạc của thôn phu nhà quê, nhưng nghe cũng rất vui vẻ xôm tụ, làm háo hức lòng người. Dương Quá chợt nảy ra một ý, hỏi:

– Cô nương có muốn làm tân nương (cô dâu) hay không?

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 09: Trăm kế tránh địch

Lục Vô Song đang lo sợ, nghe Dương Quá hỏi một câu ngớ ngẩn, thì tức giận nói:

– Đồ ngốc, lại nói vớ vẩn gì thế?

Dương Quá cười, nói:

– Hai ta thử chơi trò bái thiên địa thành hôn. Cô nương sắm vai tân nương tử được chứ? Thế mới đẹp đó. Mặt được che tấm khăn hồng, ai nói gì mặc kệ, sẽ không ai nhìn thấy mặt cô nương.

Lục Vô Song ngẩn người, hỏi:

– Ngươi bảo ta sắm vai tân nương để trốn sư phụ, đúng không?

Dương Quá cười hi hi, nói:

– Ta không biết, cô nương sắm vai tân nương, còn ta sắm vai tân lang.

Tình thế lúc này quẫn bách, Lục Vô Song cũng chả còn bụng dạ nào trách mắng, nghĩ thầm: "Chủ ý của Đồ ngốc đúng là quái dị, nhưng ngoài cách đó ra, cũng chẳng còn cách nào khác", bèn hỏi:

– Phải làm thế nào?

Dương Quá không dám kéo dài thời gian, ra roi quất mấy cái vào mông con lừa, con lừa chạy tế lên.

Đường thôn quê nhỏ hẹp, chiếc kiệu hoa lớn do tám người khiêng choán hết mặt lộ, hai bên không còn chỗ trống nào. Đoàn người rước dâu thấy con lừa xông thẳng tới, thì kêu la ầm ĩ, bảo người cưỡi lừa hãy mau dừng lại. Dương Quá kẹp hai chân, thúc con lừa phóng nhanh hơn, thoáng chốc đã tới trước đám rước dâu. Hai đại hán to khỏe chặn lại, không cho con lừa đâm vào chiếc kiệu. Dương Quá vung cây roi da lên cuốn vào cánh tay hai người ấy, kéo họ ngã xuống vệ đường, nói với Lục Vô Song:

– Ta sắm vai tân lang đây.

Chàng chạy tới, túm lấy gã tân lang đang cưỡi con ngựa trắng.

Tân lang chừng mười bảy, mười tám tuổi, trang phục mới toàn thân, đầu đội kim hoa, đột nhiên bị Dương Quá tóm lấy thì cả sợ. Dương Quá tung thân hình tân lang lên cao hơn một trượng, rồi giơ tay đón đỡ y lúc y rơi xuống trong tiếng kêu sợ hãi của mọi người. Đám rước dâu ba chục người, quá nửa là tráng đinh, nhưng thấy bản lĩnh của chàng như thế, tân lang lại đang trong tay chàng, thì còn ai dám động thủ? Một lão nhân từng trải, đoán là gặp tướng cướp chặn đường, bèn bước lại mặc cả, nói:

– Xin đại vương hãy tha cho tân lang, đại vương cần bao nhiêu tiền lộ phí, chúng ta có thể thương lượng mà.

Dương Quá nói với Lục Vô Song:

– Tức phụ nhi, tại sao lão nhân lại gọi ta là đại vương? Họ tên của ta đâu phải là đại vương kia chứ? Ta thấy lão nhân còn ngốc hơn cả ta.

Lục Vô Song nói:

– Thôi đừng rề rà, ta đã nghe hình như là tiếng chuông đeo cổ lừa của sư phụ ta rồi đó.

Dương Quá kinh ngạc, dỏng tai nghe, quả nhiên văng vẳng xa xa có tiếng chuông, nghĩ thầm: "Mụ ta đến quá nhanh", nói:

– Chuông ư? Chuông gì? Của kẻ rao bán đường phải không? Hay quá, thế thì ta mua ít đường mà ăn.

Chàng quay sang nói với lão nhân:

– Các vị chịu làm theo lời ta, thì ta sẽ thả người này, nếu không..

Chàng lại tung tân lang lên cao một lần nữa, tân lang kêu oai oái, khóc ré. Lão nhân chắp tay, nói:

– Vâng, xin đại vương cứ sai bảo.

Dương Quá chỉ Lục Vô Song, nói:

– Nàng ấy là tức phụ nhi (vợ) của ta; nàng ấy thấy các vị diễn trò bái thiên địa thành hôn, thấy thú vị, cũng muốn chơi trò này một lúc..

Lục Vô Song nói:

– Đồ ngốc, nói gì vậy?

Dương Quá mặc kệ không lý đến nàng, nói:

– Các vị hãy mau lấy trang phục của tân nương mặc cho nàng ấy, còn ta sẽ sắm vai tân lang.

Trẻ con đùa nghịch, thường vẫn chơi trò tân nương tân lang bái thiên địa thành hôn. Người lớn muốn bắt chước chơi trò ấy thì cũng chẳng có gì lạ. Nhưng một tên tướng cướp chặn đường, không đòi tiền, lại muốn chơi trò kia, thì ai cũng bất ngờ, nhìn nhau im lặng. Nhìn Dương, Lục hai người, chàng đôi mươi, nàng mười tám, bảo là một cặp vợ chồng thì quá giống, mọi người chưa biết làm thế nào. Dương Quá nghe tiếng chuông vàng tới gần, từ trên lưng lừa nhảy xuống, đặt tân lang ngồi lên yên lừa để Lục Vô Song kiềm chế y, chàng tự tới trước chiếc kiệu hoa, mở cửa kiệu, lôi tân nương ra.

Tân nương sợ hãi, kêu rú lên, mặt che tấm khăn đỏ không biết bên ngoài có chuyện gì. Dương Quá đưa tay lật tấm khăn che mặt, chỉ thấy tân nương có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, thì cười, nói:

– Tân nương tử xinh quá thôi.

Rồi khẽ vuốt má nàng ta một cái. Tân nương sợ quá không dám kêu nữa. Dương Quá tay trái nhấc tân nương lên cao, nói:

– Nếu muốn ta tha mạng cho người này, hãy mau để cho tức phụ nhi của ta đóng thế vai tân nương.

Lục Vô Song nghe tiếng chuông của sư phụ đã khá gần, lườm Dương Quá một cái, nghĩ thầm: "Lúc này mà Đồ ngốc vẫn chẳng biết trời cao đất dày gì, vẫn cứ đùa cợt". Lão nhân ban nãy luôn miệng giục:

– Mau, mau nào! Mau thay đổi y phục cho đôi tân nương tân lang mới.

Những người đưa dâu vội vã gỡ mũ phụng, quần hồng áo gấm của tân nương, đội và mặc cho Lục Vô Song. Dương Quá thì tự thay quần áo lấy, rồi nói với Lục Vô Song:

– Tức phụ nhi, mau lên kiệu hoa đi.

Lục Vô Song bảo tân nương vào trong kiệu trước, rồi nàng vào sau, ngồi lên phía trên người tân nương, thả tấm khăn che mặt xuống.

Dương Quá nhìn đôi giày cỏ đi dưới chân, định thay, thì tiếng chuông đã vang lên ngay chỗ góc núi, chàng bèn nói to:

– Hãy quay đầu kiệu đi về hướng đông nam, mau nổi nhạc lên nào! Nếu có ai hỏi, đừng nói là có nhìn thấy vợ chồng ta.

Chàng nhảy lên lưng con ngựa trắng, đi ngang vai bên cạnh gã tân lang đang ngồi trên lưng con lừa. Mọi người thấy tân nương và tân lang của họ rơi vào tay kẻ cướp, thì không ai dám trái lời, tiếng cổ nhạc lập tức nổi lên.

Chiếc kiệu hoa quay đầu, mới đi được hơn mười trượng, thì tiếng chuông gấp gấp phía sau, hai con lừa đã đuổi tới nơi. Lục Vô Song ngồi trong kiệu nghe tiếng chuông, nghĩ thầm có thoát khỏi đại nạn hay không là ở lúc này đây, trống ngực đập loạn lên, dỏng tai nghe động tĩnh bên ngoài. Dương Quá giả vờ xấu hổ, cúi mặt xuống cổ ngựa, chỉ nghe Hồng Lăng Ba hỏi:

– Này, các vị có nhìn thấy một cô nương thọt chân qua đây hay không?

Lão nhân trong đoàn người rước dâu đáp:

– Không.. không thấy.

Hồng Lăng Ba lại hỏi:

– Có thấy một thiếu nữ cưỡi trâu đi qua hay không?

Lão nhân đáp:

– Không thấy.

Sư đồ hai người cưỡi lừa vượt qua đoàn người, phóng lên trước.

Không lâu sau, Lý, Hồng hai sư đồ cưỡi lừa quay lại. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần cuộn tấm vải che kiệu, giật một cái, tấm vải rách làm hai. Dương Quá cả kinh, tế ngựa lại gần, chỉ đợi Lý Mạc Sầu phất cây phất trần lần nữa, sẽ lập tức ra tay cứu người, nào ngờ Lý Mạc Sầu nhòm vào trong kiệu một cái, rồi cười, nói:

– Tân nương xinh lắm.

Rồi xoay qua phía Dương Quá, nói:

– Tiểu tử, ngươi có phúc đó.

Dương Quá cúi gằm mặt, không dám ngẩng nhìn Lý Mạc Sầu, chỉ nghe tiếng lóc cóc, hai con lừa đã chạy đi.

Dương Quá lấy làm lạ: "Tại sao Lý Mạc Sầu lại bỏ qua cho Lục cô nương?" Chàng ngó vào trong kiệu, thấy tân nương sợ tái cả mặt, người run rẩy, còn Lục Vô Song thì không biết trốn ở đâu. Dương Quá càng lạ thêm, hỏi:

– Ơ hay, tức phụ nhi của ta đâu rồi?

Có tiếng cười của Lục Vô Song:

– Không thấy ta ư?

Từ trong váy của tân nương, Lục Vô Song chui ra, thì ra vừa rồi nàng đã trốn vào đó. Nàng biết sư phụ hành sự rất tỉ mỉ cặn kẽ, quyết không bỏ qua bất cứ chỗ nào khả nghi; nàng đoán sư phụ sẽ quay lại, nên phải trốn.

Dương Quá nói:

– Cô nương cứ yên ổn sắm vai tân nương đi, ngồi kiệu dễ chịu hơn cưỡi lừa nhiều lắm đấy.

Lục Vô Song gật đầu, nói với tân nương:

– Ngươi mau xuống kiệu, để ta ngồi một mình thôi.

Tân nương đành xuống kiệu, ra cưỡi chung con lừa với tân lang. Tân lang và tân nương chưa gặp mặt nhau bao giờ, lúc này tân lang thấy tân nương trắng mập, có vài phần châu viên ngọc nhuận; tân nương ngó trộm tân lang, cũng thấy mặt mũi ngay ngắn, cả hai cùng mừng thầm, tạm quên tình cảnh trớ trêu hiện thời.

Đoàn người đi chừng hai mươi dặm, thấy trời sắp tối. Vị lão nhân không ngớt cầu xin Dương Quá tha cho, để khỏi lỡ ngày giờ cát lành bái thiên địa. Dương Quá quát:

– Sao lão lắm lời thế?

Vừa nói thì thấy có hai bóng người từ vệ đường chạy vụt vào rừng. Dương Quá khởi nghi, giục ngựa đuổi theo, thấy họ ăn mặc lam lũ, là dân hóa tử. Chàng ghìm ngựa lại, nghĩ thầm: "Chắc là Cái Bang bám theo tung tích, đã mai phục sẵn. Vậy thì phải đi mau hơn nữa".

Trở lại bên kiệu, Lục Vô Song thò đầu ra, hỏi:

– Có chuyện gì thế?

Dương Quá nói:

– Kiệu hoa không che kín, tân nương lại không che mặt. Đã sắm vai tân nương, thì cũng phải khóc khóc mếu mếu, sụt sùi gọi mẹ gọi cha, không chịu xuất giá. Thiên hạ làm gì có tân nương nào không e thẹn như nàng?

Lục Vô Song nghe chàng nói, đoán là hành tung của mình đã bị lộ, chỉ lẩm bẩm "Đồ ngốc", rồi im lặng. Đi một hồi nữa, đường núi phía trước hẹp dần, mỗi lúc càng khó đi hơn, đoàn người rước dâu đã mệt lắm, nhưng họ sợ Dương Quá, nên không ai dám oán thán một câu.

Mặt trời đã lặn sau núi, quạ bay ngang trên đầu về tổ, kêu quang quác. Đang đi, bỗng sau chỗ quành có mấy người cùng cất tiếng hát:

– Tiểu tiểu cô nương làm việc tốt, bố thí cho ta chiếc loan đao.

Lục Vô Song mặt biến sắc, nghĩ thầm: "Bốn gã hóa tử đã phục sẵn ở đây". Kiệu hoa đi tới, thấy ba gã hành khất chắn đường, cả ba thân hình đều cao to, không giống bốn gã hóa tử đã gặp ở phạn điếm. Dương Quá thấy mỗi người đều đeo năm cái túi vải, nghĩ bụng: "Ba đệ tử năm túi này chắc lợi hại hơn mấy gã hóa tử bốn túi trưa nay, xem ra đến phải động thủ mất thôi".

Trong đoàn rước dâu có người vung roi vụt vào đầu một gã hành khất, quát:

– Tránh ra, tránh ra cho người ta đi!

Gã hóa tử không buồn tránh, giơ tay chộp cây roi, kéo một cái, người kia ngã sấp mặt xuống. Nếu là lúc khác, hẳn mọi người đã cùng xông tới giao chiến, nhưng ai cũng nghĩ ba gã hóa tử này là đồng bọn của Dương Quá, không ai dám tiến lên, mà lùi lại vài bước. Một gã hóa tử nói to:

– Cung hỉ cô nương đại hỉ, tiểu khiếu hóa xin thưởng chút tiền.

Lục Vô Song ngoảnh lại, nói nhỏ:

– Đồ ngốc, ta đang bị thương, không thể động thủ, ngươi đuổi bọn kia đi cho ta.

Dương Quá nói:

– Được lắm.

Chàng giục ngựa lên trước, nói:

– Này các vị, hôm nay ngày lành tháng tốt, ta đi đón tức phụ nhi, các vị đừng nhiều lời, mau nhường lối ta đi.

Một gã hóa tử nhìn Dương Quá dò xét, nhất thời chưa biết lai lịch của chàng. Bốn gã hóa tử bốn túi bị que đũa tấn công ban trưa, cứ ngỡ là do Lục Vô Song xuất thủ, chẳng hề bẩm báo với mấy vị sư bá sư thúc về Dương Quá.

Một gã hóa tử hất tay phải. Con ngựa Dương Quá đang cưỡi giật mình, giơ hai vó trước lên. Dương Quá giả vờ ngồi không vững, ngã xuống đất, hồi lâu vẫn chưa bò dậy được. Ba gã hóa tử nghĩ thầm: "Thì ra người này đúng là tân lang". Cái Bang là bang hội theo con đường hiệp nghĩa, bao năm nay ngăn kẻ mạnh giúp kẻ yếu, tế khốn phù nguy, sở dĩ gây khó dễ với Lục Vô Song chỉ vì nàng đả thương huynh đệ của họ; bây giờ thấy Dương Quá không biết võ công, bị ngã ngựa, thì họ cảm thấy có lỗi, một gã hóa tử vội đỡ chàng dậy, nói:

– Xin lượng thứ cho.

Dương Quá giận nói:

– Hừ, các vị.. thật là.. xin tiền thì xin, sao lại dọa con ngựa của ta?

Chàng mò túi, lấy ra ba đồng tiền, cho mỗi gã một tiền. Ba gã hóa tử theo qui củ của Cái Bang, nhận tiền lạy tạ.

Dương Quá quay lại nói với Lục Vô Song:

– Nàng muốn ta đuổi bọn kia đi, ta đuổi rồi đó.

Lục Vô Song bực mình, nói:

– Ngươi cứ giả vờ ngốc nghếch với ta, có phải là hay không?

Dương Quá nói:

– Phải, phải!

Chàng lùi sang một bên, lấy ống tay áo phủi bụi trên người.

Lục Vô Song thấy ba gã hóa tử vẫn cứ chắn đường, bèn lạnh lùng hỏi:

– Các vị còn muốn gì?

Một gã hóa tử nói:

– Cô nương là cao thủ phái Cổ Mộ, ba huynh đệ ta rất ngưỡng mộ, muốn được cô nương chỉ điểm cho vài chiêu.

Lục Vô Song nói:

– Ta đang bị trọng thương, làm sao có thể động thủ? Các vị đã không phục, thì xin định ngày, chờ ta khỏi, sẽ tới lĩnh giáo. Ba vị là cao thủ Cái Bang, hôm nay hợp lực khi vũ một thiếu nữ đang bị trọng thương, như thế có còn là anh hùng hảo hán nữa không?

Ba gã hóa tử nghe nàng nói thế, quả nhiên cảm thấy bên mình đuối lý. Hai người cùng nói:

– Thôi được, đợi cô nương khỏi, sẽ tính chuyện này.

Gã thứ ba nói:

– Hãy khoan, cô nương bị thương ở đâu? Là thật hay giả, phải để ta coi. Nếu đúng là bị thương, hôm nay bọn ta sẽ tha cho cô nương.

Gã không biết Lục Vô Song bị thương ở ngực, lời nói chỉ là vô tình, nhưng Lục Vô Song thì lập tức đỏ bừng cả mặt, cả giận, nhất thời chưa nói nên lời, lát sau mới nói:

– Trên giang hồ người ta bảo Cái Bang anh hùng hiệp nghĩa gì kia chứ, toàn là một bọn vô sỉ.

Ba gã hóa tử nghe nàng thóa mạ thanh danh của Cái Bang, thì tái mặt, một gã hóa tử tính nóng nảy thô bạo bèn sấn tới giơ tay túm lấy nàng lôi ra khỏi kiệu.

Dương Quá thấy tình thế gấp gáp, kêu lên:

– Hượm, hượm đã, các vị xin tiền, ta cho rồi, sao lại còn gây sự với tức phụ nhi của ta?

Nói rồi tiến đến chắn trước kiệu, lại nói:

– Trông ba vị nhân huynh tuy đi ăn mày, nhưng ai nấy tướng mạo đường đường, sau này thể nào cũng thăng quan phát tài, sao lại đi trêu chọc một tân nương, câu kết với nhau giở trò vô lại như thế?

Ba gã hóa tử sững người, không biết đối đáp làm sao. Gã hóa tử thô bạo nói:

– Ngươi hãy tránh ra, bọn ta chỉ cần lĩnh giáo võ công phái Cổ Mộ của nàng ta, cái gì mà vô lại với chả vô đi?

Đoạn đưa tay đẩy nhẹ một cái. Dương Quá kêu tướng lên, ngã xuống vệ đường. Cái Bang bao lâu nay tương truyền có một qui củ, nhất thiết không được phép xuất thủ đánh người không biết võ công. Gã hóa tử nóng nảy kia không ngờ chàng tân lang lại bị thịt như thế, mới đẩy khẽ một cái đã ngã, nếu vì cái ngã ấy mà chàng bị thương, thì gã sẽ bị phạt tội rất nặng, hai đồng bọn cũng bị liên lụy. Ba gã hóa tử cả kinh, cùng xô lại dìu chàng đứng lên. Dương Quá cứ la ôi ối:

– Ái, ái, ối mẹ ơi!

Ba gã hóa tử cũng chẳng biết chàng có bị thương hay không.

Dương Quá vừa rên rỉ kêu đau, vừa nói:

– Ba vị cũng thật là ngốc, tân tức phụ nhi của ta còn e thẹn, đời nào chịu nói chuyện với mấy người lạ cơ chứ? Thế này vậy, ba vị cần lĩnh giáo cái gì, cứ nói trước với ta, ta sẽ hỏi tức phụ nhi của ta, rồi trả lời ba vị được không nào?

Ba gã hóa tử thấy Dương Quá chẳng ngớ ngẩn chút nào, kể đã sốt ruột lắm, song lại không tiện động thủ với chàng. Gã nhiều tuổi nhất trong ba gã hóa tử nghĩ thầm: "Nữ tử họ Lục vờ sắm vai tân nương, tên này nếu đúng là tân lang, thì sẽ không bênh vực như thế, còn nếu là tân lang giả, thì không thể vô dụng như vậy." Chăm chú quan sát thân hình, cử chỉ của chàng, không phát hiện được bất cứ điều gì.

Gã hóa tử nóng tính giơ tay lên, nói:

– Ngươi có tránh ra hay không thì bảo?

Dương Quá dang rộng hai tay, nói to:

– Các vị nhất quyết không được khi vũ tức phụ nhi của ta.

Một gã hóa tử nói:

– Lục cô nương, cô nương sai một tên ngốc như hắn ngăn chặn bọn ta có nổi không, thử nói ta nghe coi.

Dương Quá lấy làm lạ, nói:

– Ồ, vị này cũng biết tên ta là Đồ ngốc ư? Lạ quá nhỉ?

Gã hóa tử nóng tính nói với Lục Vô Song:

– Bọn ta cũng không cần lĩnh giáo thứ gì khác, chỉ cần biết môn loan đao chém vai, chiêu đó gọi là gì?

Lục Vô Song cũng biết Dương Quá cố gây khó dễ với ba gã hóa tử kia, không biết đến bao giờ mới chấm dứt, chính nàng cũng đang nghĩ kế thoát thân, nghe gã kia hỏi vậy, bèn thuận miệng nói:

– Chiêu đó gọi là "Điêu Thuyền bái nguyệt", nghe chưa.

Dương Quá nói tiếp:

– Đúng thế, thanh loan đao của hiền thê ta vù một cái, chém xuống vai các hạ thế này này.

Tay phải của chàng vòng ra phía sau, cạnh bàn tay chém nhẹ một cái vào sau bả vai gã kia.

Dương Quá xuất thủ, ba gã hóa tử kinh ngạc, cùng nhảy lùi, nghĩ thầm: "Thì ra hắn đóng giả tân lang để giễu cợt bọn mình". Gã bị một chưởng vào vai, tuy Dương Quá không dùng lực, song gã bị mất thể diện, bèn quát:

– Giỏi lắm, tên tiểu tử giả bộ ngốc nghếch, lại đây nào, ta lĩnh giáo cao chiêu của ngươi trước đã.

Dương Quá nói:

– Các hạ bảo muốn lĩnh giáo cao chiêu của hiền thê ta, sao bây giờ lại đòi lĩnh giáo cao chiêu của ta?

Gã kia nói:

– Lĩnh giáo cao chiêu của ngươi thì cũng thế.

Dương Quá nói:

– Thế thì chả hay rồi, vì ta không biết chiêu nào hết.

Rồi chàng ngoảnh lại hỏi Lục Vô Song

– Hiền thê, hiền thê thân thiết của ta, nàng bảo ta dạy người kia chiêu gì đây?

Lục Vô Song lúc này không còn nghi ngờ gì nữa, biết chàng một thân tuyệt nghệ, một chưởng vừa rồi của chàng chém xuống vai đối phương, thật tài tình, nàng không thể nào bì kịp, chỉ là chưa biết gia số võ công của chàng, bèn thuận miệng nói:

– Hãy dạy lại chiêu "Điêu Thuyền bái nguyệt".

Dương Quá nói:

– Được!

Lưng xoay, tay giơ, hịch một tiếng, lại chém một chưởng xuống sau bả vai gã hóa tử. Đòn này, ba gã hóa tử càng kinh hãi hơn. Dương Quá rõ ràng đứng đối diện với đối thủ, hoàn toàn không di bộ chuyển thân, chỉ thấy vung tay mà đã chém đằng sau vai, chưởng pháp kiểu này quả là quái dị. Lục Vô Song cũng chấn động nghĩ thầm: "Rõ ràng là võ công phái Cổ Mộ ta, tại sao Đồ ngốc cũng biết?" Bèn nói:

– Ngươi hãy dạy cho hắn chiêu "Tây Thi bổng tâm".

Dương Quá nói:

– Được!

Một quyền tung ra, trúng ngay ngực trái của đối phương.

Gã hóa tử trúng quyền, chỉ cảm thấy một lực mạnh đẩy y bay ra xa hơn một trượng, chỗ ngực trúng đòn không đau đớn gì, tựa hồ có người nhấc bổng đưa đi hơn một trượng rồi đặt xuống vậy. Hai gã hóa tử kia từ hai bên xông lại. Dương Quá gọi gấp:

– Hiền thê, ta đối phó không nổi, mau dạy ta.

Lục Vô Song nói:

– Chiêu Quân xuất tái, Ma Cô hiến thọ.

Dương Quá tay trái đưa xéo, tay phải búng năm ngón, như tư thế gảy đàn tì bà, năm ngón tay búng vào người gã hóa tử bên hữu, chính là chiêu "Chiêu Quân xuất tái", lại nghiêng người tung cước đá gã hóa tử ở bên tả, một tay nắm lại thành quyền, đấm thẳng lên, trúng cằm đối phương, nói:

– Cái này gọi là "Ma Cô hiến thọ", có phải không?

Chàng không định đả thương, nên không hề dùng sức.

Chàng sử liền bốn chiêu, đều thuộc "Mỹ nữ quyền pháp" tinh diệu của phái Cổ Mộ. Phái Cổ Mộ từ khi Lâm Triệu Anh khai sáng, chỉ truyền cho nữ, không truyền cho nam. Lâm Triệu Anh sáng tạo "Mỹ nữ quyền pháp", mỗi chiêu đều lấy tên một mỹ nữ để gọi, khi sử dụng thật kiều mị uyển chuyển, song toàn là sát thủ lợi hại. Dương Quá học võ của Tiểu Long Nữ, pho quyền pháp này dĩ nhiên đã học qua, có điều chàng cảm thấy quyền pháp này tuy tinh diệu, nhưng cứ thướt tha ủy mị thế nào ấy, nam giới sử dụng không được hợp lắm, cho nên khi luyện tập, chàng vô tình thêm chất dương cương vào chiêu số thuần nhu, phong thái tuy khác đi, song quyền thức vẫn nguyên trạng.

Ba gã hóa tử trúng đòn vẫn không hiểu vì sao, lại không cảm thấy đau, vẫn chưa phục võ công của Dương Quá, cùng hè nhau xông vào tấn công. Dương Quá né bên này, tránh bên kia, nói:

– Hiền thê ơi, nguy rồi, hôm nay nàng sẽ thành tiểu quả phụ mất thôi!

Lục Vô Song cười, nói:

– Thiên Tôn chức cẩm!

Dương Quá làm động tác tay phải đưa sang trái, tay trái đưa sang phải, y như người ném con thoi dệt vải, hai tay lại đánh vào hai gã hóa tử. Lục Vô Song nói:

– Văn Quân đương lô, Quý Phi túy tửu!

Dương Quá giơ tay làm động tác rót rượu, cốc vào đầu gã hóa tử nóng tính một cái, người lảo đảo ngã về phía gã hóa tử bên phải, dùng đầu vai hích trúng vào ngực gã hóa tử bên trái.

Ba gã hóa tử vừa kinh ngạc vừa tức giận, cả ba đã thi triển võ công bình sinh, vẫn không chạm được vào áo của đối phương, trong khi tên tiểu tử kia cứ vung tay đưa mắt, muốn đánh ai thì đánh, tuy ba gã bị trúng đòn không đau, nhưng đòn nào cũng quá ư cổ quái. Lục Vô Song nói liền ba chiêu "Lộng Ngọc xuy tiêu", "Lạc Thần lăng ba", "Điếu Phạt ốc quyền", Dương Quá đều xuất chiêu chính xác. Lục Vô Song cực kỳ thán phục, cố ý làm khó, chàng đang đấm quyền ra đằng trước, nàng liền kêu:

– Tắc Thiên thùy liêm.

Thân hình chàng đang như thế kia, xét về lý, tưởng không tài gì sử nổi chiêu này, vậy mà Dương Quá vẫn dừng lại được, hai bàn tay làm động tác buông rèm. Ba gã hóa tử thấy ngực chàng sơ hở, mừng thầm, cùng đánh tới, không ngờ bị nội lực của chàng đẩy ra, buộc phải lùi mấy bước.

Lục Vô Song vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nói:

– Nhất tiếu khuynh quốc!

Đây là chiêu do nàng tự nghĩ ra. Mỹ nhân đúng là có thể dùng tiếng cười làm nghiêng nước nghiêng thành, chứ làm sao có thể dùng để động thủ quá chiêu với đối phương? Dương Quá ngẩn người, tức thì cất tiếng cười ha ha ha ha, hi hi hi hi, khùng khục khà khà, vận nội công cao thâm theo "Cửu m chân kinh". Tuy chàng chưa luyện đến nơi đến chốn, chưa thể dùng để đối phó với một cao thủ thật sự, nhưng ba gã hóa tử năm túi này cũng chỉ là vào hàng thứ ba, thứ tư, nghe tiếng cười kinh dị thì bất giác đầu váng mắt hoa, thân hình loạng choạng mấy cái, rồi ngã sóng soài. Nên biết trong tai người có một vật nhỏ hình bán nguyệt, chuyên phụ trách sự cân bằng của cơ thể. Nếu vật nhỏ hình bán nguyệt đó đột nhiên bị chấn động, sẽ khiến cho người ta cảm thấy đầu nặng chân nhẹ không thể đứng vững được nữa. Tiếng cười của Dương Quá dùng nội lực cường kình phát ra, màng tang của người nghe liên tục bị xung kích, ai nấy cảm thấy trời xoay đất chuyển. Lục Vô Song tưởng ngất đi vội hai tay giữ chặt lấy kiệu; trong tiếng oang oang, cả đoàn người rước dâu, tân lang và tân nương đều ngã ngổn ngang.

Tiếng cười của Dương Quá vừa dừng, ba gã hóa tử lồm cồm bò dậy, mặt cắt không còn hạt máu, bỏ đi không dám ngoái đầu lại.

Mọi người nghỉ một lát, rồi mới khiêng kiệu đi tiếp. Lúc này họ coi Dương Quá như thần, càng không dám trái lời. Khoảng canh hai, đến một thị trấn, Dương Quá mới thả đoàn người rước dâu đi. Mọi người cứ ngỡ phen này bị tướng cướp bắt làm con tin đòi chuộc tiền, chắc là khổ sở vô cùng, ai dè tên tướng cướp chỉ chơi trò đóng giả tân lang, tân nương thì thôi, thật là ngoài dự liệu, không khỏi khấu đầu lạy tạ Dương Quá. Tân nương thì nói:

– Chúc đại vương và nương tử bách niên hảo hợp, bạch đầu giai lão, sinh hạ vài vị tiểu đại vương!

Nghe vậy Dương Quá cười ha hả, còn Lục Vô Song thì vừa ngượng vừa giận.

Dương Quá và Lục Vô Song tìm một khách điếm vào trú, gọi cơm, vừa ngồi xuống ăn, thì chợt thấy ngoài cửa có bóng người ló đầu vào, nhìn thấy Dương Quá và Lục Vô Song liền rụt đầu, quay mình đi.

Dương Quá đoán có chuyện, chạy đuổi theo, thấy ngoài sân có hai người, chính là Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư đã đấu với Lục Vô Song tại Sài Lang cốc. Hai gã kia rút kiếm xông tới. Dương Quá nghĩ thầm: "Các ngươi tìm ta chuốc lấy khổ sở hay sao?" Hai đạo sĩ tới gần chàng thì lách qua, xông tới chỗ Lục Vô Song trong phòng lớn. Đúng lúc đó bỗng có tiếng chuông đeo cổ lừa vang lên tinh tang một chập.

Tiếng chuông đột nhiên vang lên, nghe đã rất gần, hai đạo sĩ sắc diện đại biến, nhìn nhau một cái, vội vàng lùi vào gian buồng thứ nhất ở phía tây, đóng sập cửa lại, không thấy ló ra nữa. Dương Quá nghĩ thầm: "Đạo sĩ thối tha, chắc đã xơi đòn của Lý Mạc Sầu nên mới kinh hoảng như thế".

Lục Vô Song nói nhỏ:

– Sư phụ của ta lại đến rồi, Đồ ngốc, ngươi bảo nên làm thế nào?

Dương Quá nói:

– Làm thế nào ư? Tránh đi thôi!

Vừa đưa tay đỡ nàng, thì thấy tiếng chuông dừng ở cổng khách điếm, và giọng nói của Lý Mạc Sầu:

– Ngươi lên canh trên mái cho ta.

Hồng Lăng Ba vâng lời, vù một cái, phi thân lên mái nhà. Lại nghe chưởng cự nói:

– Tiên cô, lão nhân gia nghỉ lại đây.. Ôi..

Huỵch một tiếng, chưởng cự đã ngã gục, không cựa quậy gì nữa. Y đâu biết rằng Lý Mạc Sầu ghét nhất kẻ khác nhắc đến chữ "lão" trước mặt nàng ta, huống hồ y lại gọi nàng ta là "Lão nhân gia"? Cây phất trần vung lên, lấy luôn mạng của y. Lý Mạc Sầu hỏi điếm tiểu nhị:

– Có cô nương thọt chân nào trọ ở đây hay không?

Điếm tiểu nhị sớm đã hồn xiêu phách tán, chỉ ấp úng:

– Tiểu nhân.. tiểu..

Lý Mạc Sầu chân trái đá điếm tiểu nhị, chân phải đẩy cánh cửa gian buồng thứ nhất mé tây, chính là buồng của hai gã đạo sĩ Thân, Cơ, bước vào lục soát.

Dương Quá nghĩ thầm: "Đành chuồn lối cửa sau vậy, tuy có thể bị Hồng Lăng Ba nhìn thấy, nhưng không ngại nàng ta", bèn nói:

– Tức phụ nhi, theo ta đào mệnh nào.

Lục Vô Song lườm chàng một cái, đứng dậy, nghĩ bụng phen này mà trốn thoát được thì đúng là nhờ ơn trời che mắt sư phụ.

Hai người vừa đứng dậy, thì một vị khách ngồi ở chiếc bàn mé đông đứng lên, tới cạnh hai người, nói nhỏ:

– Ta ra ngoài kia dụ kẻ địch ra ngoài, hãy mau nghĩ cách mà trốn đi.

Người này vốn ngồi chỗ tối, quay mặt vào trong, nên Dương Quá không nhìn rõ diện mạo; bây giờ nói lại nhìn chỗ khác, nói xong liền chạy ra cổng, chỉ còn nhìn thấy lưng. Người đó thân hình không cao, mặc trường bào màu xanh, rộng thùng thình.

Dương, Lục hai người nhìn nhau, chợt nghe tiếng chuông treo cổ lừa vang rền, chuyển dần về phía bắc.

Hồng Lăng Ba gọi:

– Sư phụ, có kẻ dắt trộm lừa!

Lý Mạc Sầu từ trong buồng chạy ra cổng đuổi theo. Lục Vô Song nói:

– Đi mau thôi!

Dương Quá nghĩ thầm: "Lý Mạc Sầu khinh công mau lẹ như thế, sẽ đuổi kịp người kia trong giây lát, rồi trở lại đây. Mình phải ẵm Lục cô nương, đi không thể nhanh, rất khó thoát thân". Chàng chợt nảy ra một kế, chạy vào gian phòng thứ nhất ở mé tây. Thấy Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư đang ngồi bên cạnh giường lò, trên mặt vẫn chưa hết vẻ kinh hoàng. Tình thế lúc này gấp rút, Dương Quá chẳng để cho hai đạo sĩ hỏi han gì, liên tiếp điểm huyệt họ, nói:

– Tức phụ nhi, vào đây.

Lục Vô Song bước vào. Dương Quá đóng cửa lại, nói:

– Mau cởi quần áo!

Lục Vô Song đỏ mặt, nói:

– Đồ ngốc, ngươi nói lung tung gì vậy?

Dương Quá nói:

– Cởi hay không tùy cô nương, riêng ta thì ta phải cởi.

Chàng cởi áo ngoài, mặc áo đạo sĩ của Thân Chí Phàm, lại lột cả mũ của y đội lên đầu mình. Lục Vô Song chợt hiểu, nói:

– Được, ta cũng đóng giả đạo sĩ để lừa sư phụ.

Nàng cởi áo ngoài, lại đỏ mặt, đá gã Cơ Thanh Hư một cái, nói:

– Nhắm mắt vào, tên đạo sĩ chết tiệt!

Cơ Thanh Hư và Thân Chí Phàm chỉ bất động tứ chi, ngũ quan vẫn hoạt động bình thường; họ vội nhắm mắt, không dám nhìn nàng.

Lục Vô Song lại nói:

– Đồ ngốc, ngươi quay đi, đừng có nhìn ta thay quần!

Dương Quá cười, nói:

– Sợ cái gì, lúc nắn xương cho cô nương, ta chưa thấy gì hay sao?

Vừa nói xong, biết ngay mình quá ư khinh bạc vô lại, bất giác ngượng ngùng. Lục Vô Song cau mày, lật tay đánh một chưởng.

Dương Quá chỉ hơi cúi đầu, dễ dàng tránh qua, nhưng nhất thời thất hồn lạc phách, ngây ra xuất thần, bỗng bốp một tiếng, má bên trái của chàng bị một chưởng. Lục Vô Song không ngờ lần này nàng lại đánh trúng, lực dùng không nhẹ, nàng cũng ngây ra, cười, nói:

– Đồ ngốc, có đau lắm không? Ai bảo nói năng vớ vẩn?

Dương Quá xoa xoa má, cười cười, quay người nhìn chỗ khác. Lục Vô Song thay áo xong, cười, hỏi:

– Ngươi trông ta có giống một tiểu đạo sĩ hay chưa?

Dương Quá nói:

– Ta nhìn thấy sao được mà hỏi.

Lục Vô Song nói:

– Đồ ngốc, quay lại nhìn đi.

Dương Quá ngoảnh lại, thấy chiếc áo bào trên người nàng rộng thùng thình, càng lộ rõ thân hình mảnh dẻ của nàng, đang định nói, bỗng Lục Vô Song khẽ kêu ối, tay chỉ lên giường lò, thấy một đạo sĩ từ trong chăn ló mặt ra, chính là Bì Thanh Huyền, gã đạo sĩ bị nàng chém ba ngón tay ở Sài Lang cốc. Nguyên y nằm trên giường lò dưỡng thương, thấy Lục Vô Song vào buồng thì rụt đầu vào trong chăn, Dương, Lục hai người mải thay quần áo, không lưu ý. Lục Vô Song nói:

– Hắn.. hắn..

Định nói "Hắn nhìn trộm ta thay đồ", nhưng không tiện nói rõ.

Lúc này tiếng chuông lại vang lên. Dương Quá nghe mấy lần, biết Lý Mạc Sầu đã đoạt lại con lừa; khi người khách áo xanh cưỡi lừa chạy đi, tiếng chuông nghe tạp loạn; còn khi Lý mạc Sầu cưỡi, con lừa tuy chạy nhanh, song tiếng chuông vẫn thành nhịp hẳn hoi. Chàng chợt nghĩ, liền kéo Bì Thanh Huyền lên, điểm huyệt y, mở cửa ngăn giường lò, đẩy y vào dưới gầm giường lò. Phương bắc trời lạnh, mùa đông người ta đốt than dưới gầm giường lò cho ấm, bây giờ thời tiết đang nóng, gầm giường lò không đất than, nhưng bên trong toàn muội than, Bì Thanh Huyền bị đẩy vào trong đó, không khỏi bị dính đầy muội.

Tiếng chuông đã dừng, Lý Mạc Sầu đã quay trở lại cổng khách điếm. Dương Quá nói với Lục Vô Song:

– Lên giường lò nằm đi.

Lục Vô Song cau mày:

– Đạo sĩ thối tha đã nằm đó, hôi hám thế, làm sao mà nằm?

Dương Quá nói:

– Tùy cô nương thôi.

Vừa nói vừa đẩy Thân Chí Phàm vào gầm giường lò, thuận tay giải huyệt cho Cơ Thanh Hư. Lục Vô Song tuy có cảm giác chăn gối hôi hám, nhưng nghĩ đến thủ đoạn tàn ác của sư phụ, đành leo lên giường, nằm quay mặt vào trong. Vừa nhắm mắt, thì Lý Mạc Sầu đã đạp cửa, xộc vào phòng lần thứ hai để lục soát. Dương Quá cầm chén trà, cúi mặt mà uống, tay trái đặt trên tử huyệt ở sau lưng của Cơ Thanh Hư. Lý Mạc Sầu thấy trong phòng vẫn ba đạo sĩ, Cơ Thanh Hư mặt xám như gà cắt tiết, thần hồn bất định, nàng ta bèn cười cười đi sang phòng khác tìm kiếm. Lần trước vào phòng này, Lý Mạc Sầu đãnhìn kỹ mặt từng người, sợ Lục Vô Song cải trang làm đạo sĩ; còn lần thứ hai thì nàng ta không nhìn kỹ mặt từng người nữa.

Đêm nay sư đồ Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba rà soát khắp nơi trong trấn, khiến nhà nhà gà chó không yên. Dương Quá thì hoàn toàn yên ổn nằm trên giường lò bên Lục Vô Song, ngửi mùi hương thiếu nữ lan sang từng chập, không khỏi vô cùng thích thú. Lục Vô Song trong lòng cứ nổi lên bao ý nghĩ, thấy Dương Quá quả là một nhân vật cổ quái, bảo là ngốc nghếch thì không phải, chàng ta hết sức thông minh; bảo là thông minh, thì cũng đúng, song lại pha chút điên điên khùng khùng. Nàng nằm im không cựa quậy, nghĩ bụng, nếu Đồ ngốc đưa tay ôm nàng, thì nàng sẽ phải làm sao? Rất lâu cũng không thấy Dương Quá có động tĩnh gì, thì nàng lại cảm thấy thất vọng, ngửi hơi đàn ông nồng nàn của chàng, cũng thấy lòng xốn xang; hồi lâu sau mới mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.

Dương Quá ngủ một giấc tỉnh lại, trời đã sáng bạch, thấy Cơ Thanh Hư ngủ gục bên bàn chưa tỉnh; Lục Vô Song thì hai cánh mũi hơi phập phồng, hai má ửng hồng, đôi môi hồng he hé, bất giác lòng chàng xốn xang, nghĩ thầm: "Nếu mình thơm nhẹ nàng một cái, nàng cũng chẳng biết đâu". Thiếu niên bước đầu hiểu về tình ái, chưa từng gần gũi nữ giới, lúc này mặt trời vừa mọc, chính là lúc tình dục dâng lên mạnh nhất; nhớ đến cặp vú quá đẹp nhìn thấy lúc nắn xương cho nàng, càng không kiềm chế được, cúi đầu sang định thơm vào môi nàng.

Sắp chạm đến môi thì đã ngửi thấy mùi hương ngọt ngào, người bửng lửng, máu nóng dâng trào, nhưng bỗng thấy đôi mày nàng hơi cau, tựa hồ trong mơ vẫn cảm thấy đau ở vết xương gãy. Dương Quá trông thấy thế thì lập tức nhớ đến Tiểu Long Nữ, nhớ lời thề mà chàng đã nói với nàng "Trong lòng ta suốt đời chỉ có một mình cô cô, nếu ta thay lòng đổi dạ, thì không cần cô cô tới giết ta, ta cũng sẽ tự sát". Mồ hôi lạnh vã ra đầy người, bốp bốp hai tiếng, chàng tự giáng cho mình hai cái tát mạnh, nhảy khỏi giường lò.

Lục Vô Song giật mình thức giấc, mở mắt hỏi:

– Đồ ngốc, ngươi làm sao thế?

Dương Quá đang xấu hổ, trả lời ậm ừ:

– Không có gì, ta bị một con muỗi đốt vào mặt.

Lục Vô Song nghĩ đến chuyện cả đêm qua mình nằm ngủ với chàng, đột nhiên mặt đỏ bừng, cúi đầu nói nhỏ:

– Đồ ngốc, Đồ ngốc!

Giọng nói đầy vẻ ôn nhu trìu mến.

Lát sau, nàng ngẩng đầu, hỏi:

– Đồ ngốc, ngươi làm sao biết được "Mỹ nữ quyền pháp" của phái Cổ Mộ ta vậy?

Dương Quá nói:

– Trong lúc nằm mơ, ta thấy có nhiều mỹ nữ, như Tây Thi, Điêu Thuyền đến bên cạnh, mỗi người dạy ta một chiêu, cho nên ta biết.

Lục Vô Song hừ một tiếng, biết có hỏi thêm chàng cũng không chịu nói, đang định nói sang việc khác, thì lại nghe tiếng chuông đeo cổ lừa của Lý Mạc Sầu. Sư phụ vẫn cứ quanh quẩn tìm nàng, vì cuốn sách "Ngũ độc bí truyền" lấy lại chậm ngày nào nguy hiểm ngày ấy, nên không dám buông lơi, trời vừa tảng sáng, đã lại cưỡi lừa đi tìm.

Dương Quá nói:

– Lý cô nương tìm chưa ra hai ta, sẽ còn trở lại. Chỉ tiếc rằng cô nương bị thương, tránh bị chấn động, chứ không thì hai ta ăn cắp hai con tuấn mã, phóng một mạch một ngày một đêm, thử hỏi Lý cô nương làm sao đuổi cho kịp kia chứ!

Lục Vô Song giận hỏi:

– Ngươi không bị thương, sao không đi ăn cắp ngựa mà phóng một mạch cho yên chuyện?

Dương Quá nghĩ thầm: "Cái cô nương này quả là hay giận dỗi, mình mới nói một câu vô ý, mà đã tức rồi", song vì chàng thích nhìn lúc nàng nổi giận, bèn khích thêm:

– Nếu cô nương không cầu xin ta đưa xuống Giang Nam, thì ta đã đi lâu rồi.

Lục Vô Song giận nói:

– Ngươi đi đi, đi ngay đi! Đồ ngốc, ta hễ thấy mặt ngươi là tức quá, thà ta chết một mình ở đây còn hơn.

Dương Quá cười, nói:

– Ồ, để cô nương chết thì ta không nỡ.

Chàng sợ Lục Vô Song cả giận làm chấn động vết thương, bèn cười cười đi ra khỏi phòng, tới quầy hàng hỏi mượn nghiên mực, mang vào phòng, rót chút nước vào trong nghiên, rồi hai tay nhúng vào mực, đột nhiên bôi lên mặt Lục Vô Song.

Lục Vô Song không đề phòng, vội đưa tay xoa mặt, mắng:

– Đồ ngốc thối tha, Đồ ngốc chết tiệt.

Chỉ thấy Dương Quá bốc một nắm muội than dưới gầm giường lò lên, hòa vào nước, rồi bôi lên mặt mình, khiến khuôn mặt chàng trông lồi lồi lõm lõm, như mọc đầy mụn cơm. Nàng lập tức hiểu ra: "Mình tuy mặc áo đạo nhân, nhưng diện dung còn nguyên, gặp sư phụ tất bị nhận biết ngay", bèn cũng bôi nước mực loãng lên mặt.

Hai người cải trang đã xong, Dương Quá mới lôi hai đạo sĩ trong gầm giường lò ra, giải huyệt cho họ, Lục Vô Song không nhìn họ, đá cho vài cái, hai đạo sĩ rên rỉ, nàng trong bụng thán phục: "Đồ ngốc võ công cao hơn ta gấp mười lần", nhưng không để lộ ý thán phục, vẫn nhiếc chàng là Đồ ngốc, tựa hồ không coi chàng ra gì.

Dương Quá ra chợ định thuê một cỗ xe lớn, nhưng thị trấn này quá nhỏ, không có xe cho thuê, chàng đành mua hai con ngựa còm. Hôm nay thương thế của Lục Vô Song đã đỡ, hai người mỗi người cưỡi một con ngựa, thong thả đi về hướng đông nam.

Đi hơn một canh giờ, Dương Quá sợ Lục Vô Song không trụ nổi, bèn đỡ nàng xuống ngựa, ngồi nghỉ trên một tảng đá bên đường. Chàng nhớ lại sáng sớm nay mình đã có ý khinh bạc đối với Lục Vô Song, khinh bạc nàng ta thì cũng chẳng sao, nhưng như thế tức là không đúng đối với cô cô, quả thực là chàng đã phạm một điều đại kỵ ngu xuẩn, đang thầm tự trách mình, thì Lục Vô Song bỗng hỏi:

– Đồ ngốc, sao không nói gì với ta?

Dương Quá mỉm cười, không đáp, rồi chợt nhớ điều gì kêu lên:

– Thôi chết, hỏng rồi, ta thật là hồ đồ!

Lục Vô Song nói:

– Thì ngươi vốn là kẻ hồ đồ mà!

Dương Quá nói:

– Hai ta cải trang ngay trước mặt ba gã đạo sĩ kia, nếu họ kể với sư phụ của cô nương, thì có nguy hay không?

Lục Vô Song nhếch mép cười, nói:

– Ba tên đạo sĩ thối tha ấy đã cưỡi ngựa đi trước chúng ta, sư phụ còn ở mãi đằng sau chúng ta, ngươi hồn vía để ở đâu đâu, đang nghĩ vớ vẩn gì thế không biết.

Dương Quá kêu "Ờ nhỉ", nhìn nàng cười cười. Lục Vô Song cảm thấy nụ cười này hàm ý sâu xa, nghĩ câu nàng vừa nói "hồn vía để ở đâu đâu, đang nghĩ vớ vẩn" thì bất giác đỏ mặt. Đúng lúc đó, một con ngựa bỗng hí lên một tiếng dài. Lục Vô Song ngoảnh đầu nhìn, thấy ở khúc đường quành phía trước có hai lão hành khất sánh vai nhau đi tới.

Dương Quá thấy sau góc núi còn có hai bóng người thò đầu ra rồi thụt lại ngay, chính là Thân Chí Phàm và Cơ Thanh Hư, thì chợt hiểu: "Ba gã đạo sĩ đã đi báo tin với Cái Bang, rằng hai ta cải trang đạo sĩ", bèn chắp tay nói:

– Hai vị khiếu hóa đại gia, các vị xin ăn xin tám phương, bần đạo hóa duyên hóa mười phương, hôm nay xin hai vị bố thí cho.

Một lão hành khất giọng vang như chuông, nói:

– Hai ngươi dẫu có cạo trọc đầu, giả làm hòa thượng ni cô, cũng đừng hòng thoát khỏi tai mắt của bọn ta. Đừng có giả bộ ngốc nghếch, mau đi theo bọn ta tới gặp chấp pháp trưởng lão của bọn ta để làm rõ mọi chuyện.

Dương Quá nghĩ thầm: "Hai lão hóa tử này đeo tám cái túi, e rằng võ công rất cao cường". Hai lão hóa tử chính là hai đệ tử tám túi của Cái Bang, thấy Dương, Lục hai người đều là thiếu niên chưa đầy hai mươi tuổi, vậy mà đánh bại bốn đệ tử bốn túi, ba đệ tử năm túi, thì đoán rằng bên trong hẳn có điều gì cổ quái.

Đôi bên còn đang quan sát nhau, thì ở phía bắc vang lên tiếng chuông vàng tinh tang dồn dập trong trẻo. Lục Vô Song nghĩ thầm: "Nguy rồi, nguy rồi, mình tuy cải trang, nhưng lúc này lại có hai lão hóa tử chết tiệt kia làm lộ hết, làm sao thoát nổi độc thủ của sư phụ? Ôi, vận hạn thật là xui xẻo, tai nạn dồn dập, ở đâu mà lắm kẻ ăn no nhàn rỗi, cứ tìm đến mình gây sự thế này không biết?"

Tiếng chuông đã tới gần thêm. Dương Quá nghĩ thầm: "Mụ Lý Mạc Sầu này, ta đánh không nổi, chỉ còn cách mau cướp đường mà chạy trốn thôi". Bèn nói:

– Hai vị đã không chịu hóa duyên, cũng không sao, vậy xin hãy nhường đường cho.

Nói đoạn bước đi. Hai lão hóa tử thấy chàng bước đi thế kia tựa hồ là kẻ không hề biết võ công, cùng giơ tay phải ra chộp. Dương Quá hữu chưởng phách ra, đụng vào hai chưởng của hai lão hóa tử, cả ba cùng tự thoái lui ba bước. Hai lão hóa tử tám túi luyện công mấy chục năm, nội lực đều rất thâm hậu, trên giang hồ đã ít gặp địch thủ, nếu luận về võ công cao thấp, thực là hơn hẳn Dương Quá, song luận về sự ảo diệu tinh kỳ của chiêu số, thì lại không bằng. Dương Quá mượn lực địch đánh địch, hóa giải chưởng lực của hai người, song muốn nhờ đó để vượt qua họ, thì lại chưa thể được. Cả ba người cùng thầm kinh ngạc.

Lúc này sư đồ Lý Mạc Sầu đã tới. Hồng Lăng Ba gọi:

– Này, khiếu hóa nhi, tiểu đạo sĩ, có thấy một cô nương thọt chân đi qua đây hay không?

Hai lão hóa tử thuộc vai vế rất cao trong võ lâm, nghe Hồng Lăng Ba hỏi xách mé như vậy, trong bụng hơi bực, nhưng qui củ của Cái Bang rất nghiêm, không cho phép bang chúng tùy ý tranh chấp hơn thua với người ngoài, hai người thuận miệng đáp:

– Không thấy!

Lý Mạc Sầu tinh mắt, nhìn sau lưng Dương, Lục hai người, trong bụng hơi nghi: "Hai người này hình như mình đã gặp ở đâu thì phải", lại thấy bốn người đang đứng đối diện với nhau, tư thế sắp động võ, thì nghĩ thầm hãy đứng ngoài xem sao.

Dương Quá liếc nhanh, thấy Lý Mạc Sầu nhếch mép cười, khoanh tay đứng xem, chợt nảy một kế: "Có cách rồi, mình sẽ làm cho mụ ta hết nghi ngờ". Chàng bèn tới trước mặt Hồng Lăng Ba, cúi chào.

Hồng Lăng Ba dùng nghi thức Đạo gia hoàn lễ. Dương Quá nói:

– Bần đạo đi qua đây, không dưng vô cớ hai lão hành khất chặn đường, đòi động võ, bần đạo không mang theo binh khí, mong đạo hữu nể mặt Lão Quân, cho mượn thanh bảo kiếm.

Nói xong lại cúi mình thật thấp.

Hồng Lăng Ba thấy chàng mặt mày lồi lồi lõm lõm, vừa đen vừa xấu, nhưng thần thái khiêm cung, lại nhắc đến tổ sư của Đạo gia là Thái Thượng Lão Quân, thì không tiện cự tuyệt, rút trường kiếm, nhìn sư phụ, thấy sư phụ gật đầu, bèn chuyển thanh kiếm, chìa cán kiếm cho chàng. Dương Quá cúi mình cảm tạ, nhận thanh kiếm, chĩa mũi kiếm xuống đất, nói:

– Bần đạo nếu không địch nổi, mong đạo hữu nghĩ đến phái Đạo gia, giúp cho một tay.

Hồng Lăng Ba cau mày, không đáp.

Dương Quá quay sang nói to với Lục Vô Song:

– Sư đệ, sư đệ cứ đứng ngoài mà xem, khỏi cần động thủ, để ta cho hai lão hóa tử chút kiến thức về môn hạ phái Toàn Chân chúng ta.

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: "Thì ra hai tiểu đạo sĩ là đệ tử phái Toàn Chân. Nhưng giáo phái Toàn Chân và Cái Bang vốn giao hảo với nhau kia mà, sao môn hạ đôi bên lại đánh nhau thế này?" Dương Quá sợ hai lão hóa tử lên tiếng nhiếc mắng, làm lộ bí mật của Lục Vô Song, liền vung kiếm, nói:

– Nào nào lại đây, mình ta đấu với hai vị.

Lục Vô Song thầm lo: "Đồ ngốc không biết rằng sư phụ ta đã đánh nhau hơn chục trận lớn nhỏ với các đạo sĩ phái Toàn Chân, mọi chiêu thức võ công của phái Toàn Chân, sư phụ ta đều thừa biết. Thiên hạ thiếu gì giáo phái, nào Chính Ất, Thái Đạo, nào Thái Nhất, mạo xưng giáo phái nào chẳng được, lại đi mạo nhận là môn hạ phái Toàn Chân".

Hai lão hóa tử nghe năm chữ "môn hạ phái Toàn Chân", đều kinh ngạc, cùng quát:

– Có thật ngươi là môn hạ phái Toàn Chân hay không? Ngươi và..

Dương Quá đâu để cho họ nhắc đến Lục Vô Song, trường kiếm đã đâm luôn vào ngực người này, vào bụng dưới người kia, chính là kiếm pháp đích truyền của phái Toàn Chân. Hai lão hóa tử vai vế rất cao, không hề muốn hợp lực đấu với một kẻ hậu bối, nhưng chiêu kiếm của Dương Quá đâm tới quá nhanh, hai lão hóa tử đành phải cùng lúc giơ thiết bổng chống đỡ. Thiết bổng vừa giơ lên, trường kiếm của Dương Quá đã xuyên qua khe hở giữa hai cây thiết bổng, đâm nhanh tới ngực hai lão.

Hai lão hóa tử không ngờ kiếm pháp của chàng thần tốc như thế, vội vã nhảy lùi. Dương Quá không chút dung tình, lập tức xông tới; trong giây lát đã đâm liền hai lần chín mười tám kiếm, mỗi kiếm đều là một đánh hai, khi xuất chỉ có một chiêu, nhưng cổ tay hơi xoay, kiếm chiêu đánh ra hai nơi. Đây là kiếm thuật "Nhất khí hóa tam thanh" trong võ công thượng thừa của phái Toàn Chân, mỗi chiêu đều có thể hóa thành ba chiêu. Mỗi kiếm Dương Quá đâm ra, hai lão hóa tử lùi ba bước; mười tám kiếm đâm ra, hai lão hóa tử không kịp đánh trả một chiêu nào, tổng cộng phải lùi năm mươi tư bước. Võ công "Ngọc nữ tâm kinh" chuyên dùng để khắc chế phái Toàn Chân, Dương Quá khi chưa luyện "Ngọc nữ tâm kinh", đã luyện võ công phái Toàn Chân, có điều là luyện chưa đến mức thuần thục, nên "Nhất khí chưa hóa thành tam thanh", nhưng xem ra cũng hơi giống.

Lý Mạc Sầu thấy kiếm pháp tinh kỳ của tiểu đạo sĩ không khỏi thầm kinh ngạc: "Hèn chi phái Toàn Chân nổi danh thiên hạ, quả nhiên lắm nhân tài, người này mười năm nữa, ta làm sao còn địch nổi? Hẳn rằng chức vị chưởng giáo giáo phái Toàn Chân sau này sẽ thuộc về gã tiểu đạo sĩ kia". Nếu Lý Mạc Sầu động thủ với Dương Quá, chỉ sau vài chiêu sẽ biết kiếm pháp phái Toàn Chân mà chàng sử dụng chỉ là gần giống mà thôi, kỳ thực là công phu phái Cổ Mộ, nhưng nhìn bề ngoài thì khó phân biệt thật giả. Dương Quá từ khi được Triệu Chí Kính truyền thụ ca quyết của võ công phái Toàn Chân, cũng đã luyện tập, nên chàng bảo đó là võ công phái Toàn Chân thì cũng không phải là mạo xưng. Hồng Lăng Ba và Lục Vô Song dĩ nhiên hết sức thán phục.

Dương Quá nghĩ thầm: "Nếu ta xuất thủ chậm lại một chút, để cho hai lão hóa tử kia mở miệng nói năng, thì lành ít dữ nhiều", thế là trường kiếm đâm chếch, người vọt ra sau lưng hai lão hóa tử, một kiếm lại hóa thành hai chiêu mà đâm. Hai lão hóa tử vội quay người lại chống đỡ; Dương Quá không để cho thiết bổng của hai lão hóa tử đụng tới kiếm của mình, chàng lại luồn ra sau lưng họ, họ vội xoay mình, thì Dương Quá lại luồn ra sau lưng họ. Dương Quá tự biết, nếu dựa vào võ công đích thực, đừng nói một địch hai, mà chỉ với một lão hóa tử chàng cũng không địch nổi, nên dùng cách thi triển khinh công, luồn ra sau lưng họ như vậy.

Mỗi đệ tử phái Toàn Chân luyện võ công đến hỏa hầu thích đáng, thì phải luyện khinh công để còn sử dụng khi tham gia "Thiên CangBắc Đẩu trận". Dương Quá lúc này bộ pháptuy là võ công phái Toàn Chân, nhưng vận khí hô hấp thì lại theo tâm pháp "Ngọc nữ tâm kinh". Khinh công của phái Cổ Mộ đứng đầu thiên hạ, chàng mà chạy, thì hai cao thủ Cái Bang không thể theo kịp; hai lão hóa tử chỉ thấy chàng vùn vụt như tia chớp, bạch quang loang loáng, kiếm đâm lia lịa. Nếu chàng định lấy mạng hai người, thì đã giết hàng chục lần rồi. Hai lão hóa tử cứ vội vã xoay mình, dùng thiết bổng bảo vệ chỗ yếu hại, xem ra đã không thể chống đỡ nổi, chỉ cố sức giữ, mong ông trời phù hộ mà thôi.

Cứ thế xoay tròn mấy chục vòng, hai lão hóa tử đã mệt đến hoa cả mắt, cước bộ loạng choạng, sắp ngã đến nơi. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Ồ, bằng hữu Cái Bang, ta dạy cho một cách nhé, hai vị đứng tựa lưng vào nhau thì khỏi phải xoay.

Lời mách nước ấy, hai lão hóa tử nghe được thì cả mừng, đang định làm theo. Dương Quá nghĩ thầm: "Không được, để họ làm thế, mình thua mất", bèn không di chuyển vị trí nữa, một chiêu hai thức đâm tới sau lưng hai lão hóa tử. Hai lão hóa tử nghe tiếng gió quạt gấp sau lưng, không kịp dùng thiết bổng chống đỡ, đành bước vội về phía trước một bước, chân vừa chạm đất, kiếm lại đâm tới sau lưng, sợ quá đành bỏ chạy. Nào ngờ mũi kiếm của Dương Quá cứ bám theo như hình với bóng, bất kể hai lão hóa tử chạy nhanh mức nào, mũi kiếm của Dương Quá vẫn rung rung sát sau lưng, họ chỉ cần chạy chậm lại một chút, mũi kiếm đã chọc vào da thịt đau nhói. Hai lão hóa tử biết Dương Quá không có ý sát hại, nếu không chàng chỉ ấn mạnh một cái, lập tức kiếm sẽ đâm xuyên ngay ra trước ngực. Biết vậy song hai lão hóa tử vẫn không dám dừng lại. Ba người dốc sức chạy như điên, thoáng chốc đã chạy hơn hai dặm, cách xa hẳn chỗ Lý Mạc Sầu đang đứng.

Dương Quá đột nhiên vọt lên chặn trước hai lão hóa tử, cười hi hi, nói:

– Đi chậm thôi, kẻo ngã!

Hai lão hóa tử không hẹn mà cùng đâm thiết bổng tới. Dương Quá giơ tay trái chộp luôn được một cây thiết bổng, đồng thời trường kiếm trong tay phải dùng sống kiếm gạt cây thiết bổng thứ hai sang bên trái, thế là tay trái chộp luôn cả hai cây thiết bổng. Hai lão hóa tử vội vận kình giằng lại. Dương Quá công lực không bằng đối phương, dại gì giằng co với họ. Chàng dùng kiếm mà chặt một cái như người xước mía. Hai lão hóa tử nếu không buông thiết bổng ra, thì tám ngón tay của họ sẽ bị chém đứt tức thì, thế là họ đành buông tay, nhảy lùi lại, vẻ mặt ngượng ngùng. Đấu tiếp chắc không được, mà bỏ chạy thì chẳng còn gì thể diện.

Dương Quá nói:

– Tệ giáo với quí bang lâu nay vốn giao hảo, hai vị chớ nên nghe lời xúi giục của người ngoài. Oán có đầu, nợ có chủ, Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu hiển nhiên ở kia, sao hai vị chẳng đi tìm mụ ta?

Hai lão hóa tử hoàn toàn không biết mặt Lý Mạc Sầu, chỉ nghe đồn nàng ta lợi hại, nghe Dương Quá nói vậy thì kinh ngạc hỏi:

– Thật vậy ư?

Dương Quá nói:

– Bần đạo nói dối làm gì? Bần đạo chẳng qua bị nữ ma đầu dồn vào đường cùng, mới phải động thủ với hai vị đó thôi.

Nói rồi hai tay nâng hai cây thiết bổng cung kính trả lại cho hai lão hóa tử, lại nói:

– Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu có mang theo bên mình một vật lừng danh thiên hạ, hai vị lẽ nào không biết?

Một lão hóa tử chợt nhớ, nói:

– Phải rồi, nàng ta cầm cây phất trần, con lừa hoa có đeo chiếc chuông vàng, là nữ nhân mặc áo vàng phải không?

Dương Quá đáp:

– Đúng đấy, đúng đấy; còn cô nương dùng loan đao đả thương đệ tử của quí bang, chính là đệ tử của Lý Mạc Sầu..

Chàng ngẫm nghĩ, rồi nói:

– Chỉ e.. không được.. không được..

Lão hóa tử giọng vang như chuông nóng tính, hỏi:

– Chỉ e cái gì?

Dương Quá nói:

– Không được.. không được.

Lão hóa tử đó hỏi:

– Cái gì không được?

Dương Quá nói:

– Lý Mạc Sầu hoành hành thiên hạ, các nhân vật giang hồ ai nghe thấy cũng đều khiếp đảm, quí bang tuy lợi hại, nhưng chưa có ai địch nổi Lý Mạc Sầu. Nữ đệ tử của mụ ta đã đả thương đệ tử của quí bang thì cũng nên bỏ qua đi cho xong chuyện.

Lão hóa tử nóng tính bị chàng nói khích, thì giậm cây thiết bổng, nói:

– Hừ, dẫu mụ ta là Xích Luyện Tiên Tử hay Hắc Luyện Tiên Tử, thì hôm nay cũng phải đấu với mụ ta một trận!

Nói rồi định chạy ngay về chỗ cũ. Lão hóa tử thứ hai tính thận trọng, nghĩ thầm hai người vừa rồi còn chưa đối phó nổi với một gã tiểu tử nhãi ranh, huống hồ là Xích Luyện Tiên Tử, chỉ có mang thân đến nộp mạng, bèn kéo lão kia, nói:

– Cũng chưa có gì phải gấp, chúng ta phải về bàn tính kỹ đã.

Đoạn ôm quyền, nói với Dương Quá:

– Thỉnh giáo quý tính đại danh của đạo hữu?

Dương Quá cười, nói:

– Bần đạo họ Tát, tên Hoa Từ. Hẹn ngày tái ngộ.

Đoạn cúi chào, quay mình chạy đi.

Hai lão hóa tử lẩm bẩm "Tát Hoa Từ, Tát Hoa Từ? Chưa nghe cái tên này bao giờ, hắn còn nhỏ tuổi, mà võ công đã cao siêu đến thế.." Một lão hóa tử bỗng nhảy dựng lên, chửi:

– Mẹ kiếp, tên chó má!

Lão thứ hai hỏi:

– Sao vậy?

Lão thứ nhất nói:

– Hắn bảo tên là Tát Hoa Từ, nghĩa là sát hóa tử (giết ăn mày), để cho tên tiểu tặc chửi mình mà mình không biết.

Hai lão hóa tử chửi bới một hồi cho bõ tức, nhưng không dám đi tìm chàng tính sổ.

Dương Quá cười thầm, sợ Lục Vô Song có chuyện gì vội chạy trở lại chỗ cũ, thấy Lục Vô Song vẫn ngồi trên lưng ngựa, nhìn ra xa xa, chắc là sốt ruột dị thường. Vừa thấy Dương Quá, nàng vội giục ngựa lại đón, thấp giọng hỏi:

– Đồ ngốc, tưởng là ngươi chuồn rồi.

Dương Quá cười cười, hai tay giơ ngang kiếm, chìa cán kiếm về phía Hồng Lăng Ba, cúi mình hành lễ, nói:

– Đa tạ đã cho mượn kiếm.

Hồng Lăng Ba đưa tay đón lấy. Dương Quá định quay người đi, thì Lý Mạc Sầu bỗng nói:

– Hãy khoan.

Lý Mạc Sầu thấy tiểu đạo sĩ võ công cao cường, nghĩ thầm để kẻ này sống, ắt sau này có họa, chi bằng nhân lúc võ công hắn còn chưa bằng mình, đem giết quách hắn đi.

Dương Quá nghe hai tiếng "Hãy khoan", biết là có chuyện. Lý Mạc Sầu vốn muốn khích chàng động thủ, rồi dùng cây phất trần đánh chết chàng, nhưng hiện giờ tay chàng không có binh khí, mình địa vị cao thế này, chẳng thể dùng vũ khí đả thương chàng, bèn hất cây phất trần về phía sau một cái, hỏi:

– Ngươi là môn hạ của vị nào trong Toàn Chân Thất Tử?

Dương Quá cười đáp:

– Ta là đệ tử của Vương Trùng Dương.

Đối với các đạo sĩ phái Toàn Chân, chàng đều không ưa, cũng chẳng kính nể gì. Khưu Xứ Cơ tuy đối với chàng không tệ, nhưng thời gian hai người ở bên nhau quá ngắn, trước khi đi Khưu Xứ Cơ lại giáo huấn cho chàng một trận nên thân, chàng biết Khưu Xứ Cơ không có ác ý, nên cũng chẳng giận; còn những người như Hách Đại Thông, Triệu Chí Kính, thì mỗi khi nghĩ đến lại nghiến răng căm tức. Chàng đã học yếu quyết "Cửu m chân kinh" mà Vương Trùng Dương tự tay khắc trong tòa nhà mồ, nếu gọi chàng là đệ tử của Vương Trùng Dương, kể cũng phải. Nhưng xét về lứa tuổi, chàng chỉ đáng là đệ tử của Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình. Lý Mạc Sầu thấy chàng võ công cũng khá, mới hỏi chàng là môn hạ của vị nào trong Toàn Chân Thất Tử, tức là đã đề cao chàng quá lắm rồi. Giả dụ Dương Quá thuận miệng nói đại tên của Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, thì Lý Mạc Sầu chắc cũng tin. Đằng này chàng lại không chịu hạ mình đứng cùng hàng với Hách Đại Thông là kẻ đã giết chết Tôn bà bà, mà vỗ ngực xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương. Trùng Dương Chân Nhân là tổ sư sáng lập giáo phái Toàn Chân, bình sinh chỉ thu nhận có bảy đệ tử, điều này trong võ lâm ai nấy đều biết; ngày gã tiểu đạo sĩ này chào đời, Vương Trùng Dương đã từ trần lâu rồi.

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: "Tên tiểu tử này không biết trời cao đất dày, cũng không biết ta là ai, trước mặt ta dám cả gan giở trò ma", lại nghĩ bụng: "Các đạo sĩ phái Toàn Chân làm gì dám đem tổ sư gia ra đùa bỡn? Lại còn nói trống không ba chữ" Vương Trùng Dương "nữa chứ? Nhưng nếu hắn không phải là đệ tửp hái Toàn Chân, thì tại sao chiêu thức võ công lại rõ ràng là của phái Toàn Chân?"

Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu miệng tuy cười mỉm, nhưng lông mày hơi cau, đang ngẫm nghĩ, chàng nhớ lần chàng đóng giả kẻ kiếm củi đánh lừa Hồng Lăng Ba một trận, trong nhà mồ đã từng giao đấu với sư đồ nàng ta, không thể để họ nhận ra mình qua giọng nói, cử chỉ, việc không thể chậm trễ, chuồn đi là thượng sách, bèn giơ tay hành lễ, rồi nhảy phắt lên ngựa, định phóng đi.

Lý Mạc Sầu vọt ngay tới trước đầu ngựa của chàng, nói:

– Xuống đi, ta có điều cần hỏi ngươi.

Dương Quá nói:

– Bần đạo biết ngươi muốn hỏi gì rồi. Ngươi muốn hỏi bần đạo có nhìn thấy một cô nương xinh đẹp, chân trái hơi bị thọt, có biết quyển sách gì đó nàng ta mang theo ở đâu chứ gì?

Lý Mạc Sầu thầm kinh ngạc, nhưng làm ra vẻ thản nhiên nói:

– Đúng, ngươi thông minh lắm. Thế quyển sách ấy đâu rồi?

Dương Quá nói:

– Ban nãy bần đạo và sư đệ kia ngồi nghỉ ở bên đường, thấy cô nương ấy động thủ với ba gã hóa tử. Một gã hóa tử chém cô nương ấy một đao, lại thêm hai gã hóa tử nữa đến, cô nương ấy không địch nổi, cuối cùng bị họ bắt đi..

Lý Mạc Sầu luôn bình tĩnh, gặp việc to bằng trời cũng không lộ ra mặt, nhưng nghĩ đến việc Lục Vô Song bị Cái Bang bắt đi, quyển "Ngũ độc bí truyền" ắt rơi vào tay bọn họ, thì không khỏi tỏ ra nóng ruột.

Dương Quá thấy mình bịa chuyện kiến hiệu, càng tán rộng thêm:

– Một gã hóa tử lôi từ trong túi cô nương ra một quyển sách gì đó, cô nương không chịu giao, gã hóa tử nọ bèn tát cho một cái thật mạnh.

Lục Vô Song lườm chàng một cái, nghĩ thầm: "Đồ ngốc, ngươi nói nhăng nói cuội chê ta, cứ chờ đó, rồi ta sẽ cho ngươi một trận". Dương Quá thừa biết Lục Vô Song đang nghĩ gì, bèn hỏi:

– Này sư đệ, sư đệ bảo như thế thì có tức hay không cơ chứ? Cô nương ấy bị ba gã hóa tử tay đấm chân đá một phen tơi bời, tội nghiệp quá phải không?

Lục Vô Song cúi đầu, chỉ ậm ừ.

Vừa nói đến đây, phía góc núi vọng lại tiếng vó ngựa, rồi một đội binh mã nghi trượng hùng dũng kéo qua, thì ra là bọn quan binh Mông Cổ. Thời bấy giờ nước Kim đã bị diệt, từ Hoài Hà trở lên phía bắc hoàn toàn thuộc quyền cai quản của Mông Cổ. Lý Mạc Sầu không coi bọn quan binh Mông Cổ ra gì, nhưng lúc này đang cần tra xét hành tung của Lục Vô Song, nên không muốn lắm sự rắc rối, bèn tránh sang vệ đường, chỉ thấy vó ngựa rầm rập tung bụi, hơn trăm binh sĩ Mông Cổ hộ vệ một quan viên phóng qua. Quan viên Mông Cổ mình mặc cẩm bào, lưng đeo cung tiễn, tư thế cưỡi ngựa thành thục, nhìn không rõ mặt, chỉ biết là thần thái rất oai vệ.

Lý Mạc Sầu chờ binh mã đi qua, dùng cây phất trần phủi bụi do ngựa chạy tung lên bám vào người. Cứ mỗi lần cây phất trần vung, Lục Vô Song lại giật mình một cái, sợ rằng cây phất trần ấy mà quất vào đầu mình một cái, thì vỡ đầu nát óc tức thời.

Lý Mạc Sầu phủi bụi xong, lại hỏi:

– Sau đó thế nào?

Dương Quá nói:

– Ba gã hóa tử bắt cô nương đi về phía bắc, bần đạo giữa đường thấy cảnh bất bình, ra tay ngăn cản, thế nên hai gã hóa tử mới ở lại đánh nhau với bần đạo.

Lý Mạc Sầu gật gật đầu, mỉm cười, nói:

– Đa tạ đạo hữu. Ta họ Lý, tên Mạc Sầu; trên giang hồ người ta gọi ta là Xích Luyện Tiên Tử. Cũng có kẻ gọi ta là Xích Luyện ma đầu. Đạo hữu đã nghe tên ta bao giờ chưa?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Bần đạo chưa nghe bao giờ. Này cô nương, cô nương xinh đẹp như tiên giáng trần thế này, tại sao lại bảo là ma đầu kia chứ?

Lý Mạc Sầu đã ba mươi tuổi, nhưng nội công thâm hậu, da dẻ nõn nà, mặt không có một nếp nhăn, nhìn chỉ ngoài hai mươi một chút. Nàng ta cả đời tự phụ xinh đẹp, nghe Dương Quá ca tụng, dĩ nhiên cũng thích chí, nói:

– Đạo hữu vừa nói đùa, tự xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương, đáng lẽ phải cho đạo hữu nếm mùi khổ ải rồi mới được chết. Nhưng ta thấy đạo hữu còn biết ăn nói, vậy phải dùng cây phất trần giáo huấn một chút thôi.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ấy chớ, ấy chớ, bần đạo không thể tự dưng vô cớ động thủ với hậu bối được.

Lý Mạc Sầu giận, nói:

– Chết đến nơi còn pha trò. Làm sao mà ta lại có thể là hậu bối của đạo hữu?

Dương Quá nói:

– Sư phụ của bần đạo là Trùng Dương Chân Nhân, ngang vai với tổ sư bà bà của cô nương, chẳng phải bần đạo ở trên cô nương một bậc đó sao? Tiểu cô nương xinh xắn dễ thương như thế, lão phu ta đây không nỡ bắt nạt cô nương.

Lý Mạc Sầu cười nhạt, bảo Hồng Lăng Ba:

– Hãy lại đưa kiếm cho hắn mượn.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Không được, không được, bần đạo..

Chàng chưa nói xong, Hồng Lăng Ba đã rút kiếm khỏi bao, nhưng lạ chưa, trong tay nàng chỉ có cán kiếm, còn lưỡi kiếm thì nằm lại trong bao. Nàng kinh ngạc, chợt hiểu, thì ra khi trả kiếm, Dương Quá đã nhân lúc hơi dùng dằng mà ngầm dùng lực bẻ gãy kiếm. Lý Mạc Sầu mặt biến sắc. Dương Quá nói:

– Bần đạo vốn không muốn động thủ với các cô nương hậu bối vừa trẻ trung vừa xinh xắn; nhưng cô nương đã nhất quyết đòi quá chiêu với bần đạo, thì thế này vậy, bần đạo sẽ tay không tiếp ba chiêu phất trần của cô nương. Đôi bên nói rõ trước, như vậy chỉ ba chiêu thôi. Nếu cô nương địch nổi, thì bần đạo sẽ tha cho cô nương đi. Nhưng sau ba chiêu, cô nương nhất định không được bám theo bần đạo nghe chưa?

Dương Quá biết tình thế này không động thủ không xong, nhưng nếu tỷ thí thật sự, dĩ nhiên chàng hoàn toàn không phải là đối thủ của Lý Mạc Sầu, bèn giả bộ mình là bậc tiền bối, dùng lời lẽ nói khích nàng ta, để nàng ta đáp ứng chỉ đấu ba chiêu, không thể phát chiêu thứ tư; mình đã không địch nổi nàng ta, thì dù có dùng binh khí hay không cũng vậy, cốt sao nàng đừng giở hết chiêu số vô cùng lợi hại của cây phất trần.

Lý Mạc Sầu không hiểu dụng ý của chàng, nghĩ thầm: "Tên tiểu tử như ngươi mà tiếp nổi ba chiêu của ta ư?" bèn nói:

– Được, lão tiền bối, hậu bối xin lĩnh giáo.

Dương Quá nói:

– Không dám..

Đột nhiên chỉ thấy màu vàng chao động, đằng trước đằng sau đều là hình bóng cây phất trần. Đây là chiêu "Vô khổng bất nhật" của Lý Mạc Sầu, nhắm đánh toàn thân đối phương, tuy chỉ một chiêu, nhưng lại bao hàm mấy chục chiêu, cùng lúc điểm tất cả các đại huyệt trên thân thể chàng. Ban nãy nàng thấy Dương Quá giao thủ với hai lão hóa tử, kiếm pháp tinh diệu, chẳng phải tầm thường, muốn trong ba chiêu đả thương chàng, cũng không dễ gì, thế là nàng bèn sử luôn chiêu "Tam vô tam bất thủ" bình sinh đắc ý nhất.

Chiêu số này là do nàng sáng tạo, ngay Tiểu Long Nữ cũng chưa được biết, Dương Quá nhìn thấy thì giật mình. Đây là chiêu quả thực không thể chống đỡ; tránh sang bên trái, thì huyệt đạo bên phải sẽ bị điểm; tránh đằng trước, thì huyệt đạo đằng sau sẽ bị thương; chỉ có cao thủ trên tài Lý Mạc Sầu, mới có thể dùng chiêu nguy hiểm đánh chính diện, buộc Lý Mạc Sầu phải thu cây phất trần về tự cứu. Dương Quá dĩ nhiên không có cái tài đó, trong lúc nguy cấp bỗng lộn người một cái trồng cây chuối, vận công phu mà Âu Dương Phong truyền thụ, kinh mạch nghịch hành, phong bế hết thảy huyệt đạo toàn thân, chỉ cảm thấy vô số huyệt đạo cùng lúc hơi tê tê, hoàn toàn vô sự. Thân hình chàng chuyển gấp, cước bộ tức thời tung đòn đá ra.

Lý Mạc Sầu mắt thấy rõ ràng đã điểm trúng nhiều huyệt đạo của Dương Quá, vậy mà chàng vẫn còn khả năng trả đòn, thì hết sức lấy làm lạ, liền sử chiêu "Vô sở bất chí". Chiêu này chỉ điểm các huyệt đạo thiên môn toàn thân. Dương Quá đầu chống đất, tay trái đánh vào huyệt Ủy Trung ở bên trong gối phải của nàng. Lý Mạc Sầu càng kinh ngạc, vội né tránh, lập tức sử chiêu "Vô sở bất vi". Chiêu này không điểm huyệt nữa, mà chuyên dùng để đánh vào các chỗ mềm trên cơ thể người, như con mắt, cổ họng, bụng dưới, hạ âm; cực kỳ hiểm độc. Nhưng khi nàng luyện tập độc chiêu này, nàng đâu nghĩ rằng trên thế gian có kẻ lúc động võ lại lộn ngược, đầu dưới đất, chân trên trời. Lúc này gấp gáp xuất chiêu, cứ như đã luyện thành thạo mà đánh ra, thành thử đánh con mắt hóa thành đánh bắp chân, đánh cổ họng hóa thành đánh cẳng chân, đánh bụng dưới trở thành đánh trúng đùi, đánh hạ âm trở thành đánh ngực, định đánh chỗ mềm, hóa thành đánh vào chỗ cứng, đòn này chẳng đem lại chút công hiệu gì.

Lý Mạc Sầu quá sửng sốt, trong đời nàng đã đánh không ít trận lớn trận nhỏ, từng giao đấu với những người võ công cao hơn nàng, có điều là lúc lâm trận nàng đều tiên liệu chu toàn, hoặc công hoặc thủ, hoặc đánh hoặc tránh, đã có dự tính từ trước; không ngờ một gã tiểu đạo sĩ lại có võ công ngoài sức tưởng tượng thế này; nàng ngẩn ra, thì Dương Quá đột nhiên há miệng, cắn đuôi cây phất trần của nàng, bật người đứng thẳng dậy. Lý Mạc Sầu thấy tay chấn động, cây phất trần đã bị đối phương đoạt mất.

Tại cuộc luận kiếm lần thứ hai trên đỉnh Hoa Sơn, Âu Dương Phong nghịch vận kinh mạch, cắn trúng ngón tay của Hoàng Dược Sư, suýt nữa lấy mạng Hoàng Dược Sư. Trong lúc nghịch vận kinh mạch, môi miệng vận khí, một há một mím, tự nhiên nảy sinh ý định cắn người. Lực của mọi bộ vị trên cơ thể người, không chỗ nào lợih ại bằng răng, người ta có thể dùng răng cắn vỡ hạt hồ đào, trong khi lực tay của một đại lực sĩ cũng không thể bóp vỡ nổi cái vỏ cứng của hạt hồ đào. Bởi vậy, nội lực của Dương Quá tuy thua xa Lý Mạc Sầu, song chàng dùng răng cắn đã đoạt được cây phất trần là thứ binh khí mà nàng ta dùng để dương uy hơn mười năm nay.

Biến cố bất ngờ này khiến Hồng Lăng Ba và Lục Vô Song cùng sửng sốt kêu lên; Lý Mạc Sầu tuy kinh ngạc, nhưng không chút hoảng sợ, song chưởng vỗ nhẹ, thi triển Xích Luyện thần chưởng, đánh ra để đoạt lại cây phất trần. Một chưởng sắp tung ra, thì đột nhiên kêu lên:

– Ồ, thì ra là ngươi, sư phụ của ngươi đâu rồi?

Nguyên bùn đất bôi vẽ trên mặt Dương Quá sau hai phen lộn người gấp rút đã bị bong ra, rơi xuống, để lộ một nửa bản lai diện mục của chàng; đồng thời Hồng Lăng Ba cũng đã nhận ra Lục Vô Song, thốt lên:

– Sư phụ, là sư muội đây này.

Từ đầu Lục Vô Song không dám nhìn thẳng vào mặt Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba; bây giờ Dương Quá và Lý Mạc Sầu giao đấu ác liệt với nhau, Lục Vô Song cứ chăm chú quan sát, quên mất Hồng Lăng Ba theo dõi mình.

Dương Quá nhún chân một cái, phi thân lên con lừa hoa của Lý Mạc Sầu, đồng thời búng tay trái, một chiếc Ngọc phong châm bắn vào đầu con lừa mà Hồng Lăng Ba đang cưỡi.

Lý Mạc Sầu cả giận phi thân về phía Dương Quá. Dương Quá nhảy khỏi yên, đảo cán cây phất trần, bộp một tiếng, đập vỡ đầu con lừa hoa, miệng gọi to:

– Tức phụ nhi, mau theo phu quân đi thôi.

Thân hình chàng đáp xuống lưng ngựa, cây phất trần đập túi bụi về đằng sau. Lục Vô Song lập tức phóng ngựa đi. Lý Mạc Sầu nếu thi triển khinh công, thì chạy một, hai dặm cũng có thể đuổi kịp bốn vó ngựa; nhưng vừa rồi còn hoảng bởi quái chiêu của Dương Quá, nên không dám sấn tới quá gần, chỉ thi triển tiểu cầm nã thủ đoạt lại cây phất trần mà thôi.

Con lừa Hồng Lăng Ba cưỡi bị trúng Ngọc phong châm, bỗng dưng phát cuồng, húc mạnh về phía Lý Mạc Sầu, há mồm mà đớp. Lý Mạc Sầu quát:

– Lăng Ba, ngươi làm sao thế?

Hồng Lăng Ba nói:

– Con lừa này điên rồi.

Nàng gò cương, khiến mồm nó bật máu; đột nhiên nó khuỵu xuống chết luôn; Hồng Lăng Ba nhảy ra, nói:

– Sư phụ, chúng ta đuổi theo!

Nhưng lúc này Dương, Lục hai người đã phóng ngựa đi xa nửa dặm, không tài gì đuổi kịp.

Lục Vô Song theo Dương Quá phóng ngựa đi một hồi, ngoảnh lại không thấy sư phụ đuổi theo, thì gọi:

– Đồ ngốc, ta bị đau ngực quá, hết chịu nổi rồi.

Dương Quá xuống ngựa, áp tai xuống đất nghe, hoàn toàn không thấy có tiếng chân đuổi theo, nói:

– Không sợ nữa, thong thả đi được rồi.

Thế là hai người sóng vai nhau mà đi.

Lục Vô Song thở dài, nói:

– Đồ ngốc, làm cách nào mà ngay cả cây phất trần của sư phụ ta, ngươi cũng đoạt được thế?

Dương Quá nói:

– Ta làm loạn lên một hồi, nàng ta thích chí, đem cây phất trần tặng luôn cho ta. Lão phu không tiện sử dụng tặng vật của tiểu cô nương ấy, nên trả lại cho nàng ta rồi.

Lục Vô Song nói:

– Hừ, tại sao nàng ta thích chí? Tại vì nhìn thấy khuôn mặt tuấn tú của ngươi chăng?

Nói câu này, mặt nàng bất giác ửng hồng. Dương Quá cười, nói:

– Nàng ta thấy ta ngốc nghếch nên thích chí, chắc thế.

Lục Vô Song nói:

– Hừ, thích cái nỗi gì mà thích!

Hai người đi thong thả một quãng, sợ Lý Mạc Sầu đuổi theo, lại giục ngựa phóng nhanh. Cứ đi lúc nhanh lúc chậm như thế đến lúc hoàng hôn. Dương Quá nói:

– Tức phụ nhi, nàng muốn giữ được mạng sống, thì đành chịu đau vết thương ở ngực, cố đi thêm một đêm nữa.

Lục Vô Song nói:

– Ngươi còn nói năng lung tung, thì cứ chờ đấy, xem ta dám làm gì hay không.

Dương Quá lè lưỡi, nói:

– Chỉ tiếc là ngựa mệt rồi, bắt nó chạy đêm nữa thì nó chết mất.

Lúc này trời sắp tối, bỗng nghe phía trước có nhiều tiếng ngựa hí, Dương Quá mừng nói:

– Chúng ta thay ngựa thôi.

Hai người giục ngựa, chạy hơn một dặm, thì thấy ngoài rìa làng buộc hơn trăm con ngựa, nguyên là đội kỵ binh Mông Cổ họ gặp sáng nay. Dương Quá nói:

– Cô nương hãy đợi ta ở đây, ta vào trong làng xem sao.

Rồi chàng xuống ngựa, đi vào trong làng. Chỉ thấy các cửa sổ của một tòa nhà lớn đều sáng ánh đèn. Dương Quá vọt tới bên một cửa sổ, nhìn vào trong, thấy một quan viên Mông Cổ ngồi xoay lưng ra phía cửa sổ. Dương Quá chợt nảy ra một kế: "Thay ngựa chẳng bằng đổi người". Đợi một chút, thấy gã quan viên Mông Cổ đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, người này chưa đến ba mươi tuổi, chính là gã quan viên mặc cẩm bào đã gặp sáng nay trên đường, trông cử chỉ phong thái rất oai vệ, chắc là một chức quan không nhỏ. Dương Quá chờ lúc y quay lưng lại, liền nhẹ nhàng gỡ khung cửa sổ, nhảy vào trong. Gã quan viên nghe có tiếng gió sau lưng, cánh tay trái đưa ngang, xoay người lại, mười ngón tay như hai bộ vuốt chim ưng, chộp ngay tới, chính là chiêu số "Đại lực ưng trảo công" lợi hại. Dương Quá hơi chột dạ, không ngờ gã quan viên Mông Cổ lại biết võ công, chàng vội nghiêng mình né tránh. Gã quan viên chộp mấy lần liền, đều bị Dương Quá dễ dàng tránh được.

Gã quan viên thời nhỏ từng được danh sư truyền thụ "ưng trảo công", tự phụ mình giỏi võ, nhưng sau vài chiêu giao thủ với Dương Quá, đã hoàn toàn bị trói chân trói tay. Dương Quá thấy mười ngón tay gớm ghiếc của y lại chộp tới, chàng bèn dướn người lên, tay trái ấn vai trái, tay phải ấn vai phải của y, dồn lực ra hai tay, quát:

– Ngồi xuống!

Gã quan viên hai đầu gối mềm đi, ngồi phệt xuống, cảm thấy ngực tức, dường như máu cứ dồn lên, chỉ muốn phun ra miệng. Dương Quá đưa tay day day huyệt ở dưới vú hai cái, y mới thấy hết tức ngực, hít một hơi, từ từ đứng dậy, chăm chú nhìn Dương Quá một hồi, rồi hỏi:

– Ngươi là ai, tới đây làm gì?

Y nói tiếng Hán không chút ngọng nghịu.

Dương Quá cười cười, hỏi:

– Tên ngươi là gì? Giữ chức quan gì?

Gã quan viên trừng mắt nhìn chàng, lại định xông tới, Dương Quá chẳng thèm để ý, bước lại ngồi xuống chiếc ghế mà y ngồi ban nãy. Gã quan viên lao đến, hai tay đấm mạnh, Dương Quá không tốn chút sức lực nào, dễ dàng hóa giải từng chiêu của y, nói:

– Này, vai của ngươi bị thương rồi, chớ có dùng sức nữa.

Gã quan viên giật mình, hỏi:

– Bị thương gì chứ?

Y đưa tay trái sờ sờ vai bên phải, có một chỗ đau âm ỉ, vội đưa tay phải sờ sờ vai bên trái, cũng có một chỗ đau âm ỉ, hai chỗ ấy chỉ sờ đến mới đau, mà đau đến tận xương. Gã quan viên cả kinh, vội vạch áo, nhìn nghiêng, thấy vai bên trái có một nốt đỏ chỉ bằng cái lỗ kim, vai bên phải cũng thế. Y liền thịnh nộ, đối phương vừa rồi ấn tay lên vai y, chắc có giấu ám khí trong bàn tay, y không khỏi vừa sợ vừa giận, hỏi:

– Ngươi sửdụng loại ám khí gì? Có độc hay không?

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Ngươi đã học võ, mà chả hiểu qui củ gì hết thế ư? Ám khí lớn không có độc, ám khí nhỏ dĩ nhiên có độc.

Gã quan viên tin đến chín phần, song vẫn hi vọng là Dương Quá chỉ dọa thôi, thần sắc bán tín bán nghi.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Vai ngươi trúng thần châm của ta, khí độc mỗi ngày ngấm sâu một tấc, khoảng sáu ngày sẽ ngấm vào tim, thì được chầu trời.

Gã quan viên rất muốn cầu xin giải dược, song không chịu mở miệng, tức giận nói:

– Đã thế, lão gia sẽ liều chết với ngươi một phen.

Nói rồi xông tới. Dương Quá né tránh, mỗi tay cầm một cái Ngọc phong châm, chờ khi gã quan viên giơ hai tay chộp đến, chàng phóng châm vào hai lòng bàn tay y. Gã quan viên cảm thấy giữa lòng bàn tay đau nhói, liền dừng bước, giơ lòng bàn tay lên coi, thấy chiếc kim nhỏ xíu đâm giữa lòng bàn tay, cả hai bàn tay tê dại, thì cả kinh, không dám hùng hổ nữa, nói:

– Coi như ta thua rồi!

Dương Quá cười ha ha, hỏi:

– Tên ngươi là gì?

Gã quan viên nói:

– Hạ quan Gia Luật Tấn, thỉnh vấn quý tính đại danh của anh hùng?

Dương Quá nói:

– Ta là Dương Quá. Ngươi làm quan gì ở Mông Cổ?

Gia Luật Tấn trả lời. Thì ra y là con trai của đại thừa tướng Mông Cổ Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Sở Tài phò trợ Thành Cát Tư Hãn và Oa Khoát Đài (con trai của Thành Cát Tư Hãn – ND) bình định bốn phương, công huân siêu việt, cho nên Gia Luật Tấn tuổi chưa nhiều, đã được phong chức đại quan là Biện Lương kinh lược sứ, lần này đi Biện Lương Hà Nam nhậm chức.

Dương Quá không hiểu Biện Lương kinh lược sứ là chức quan thế nào, chỉ gật đầu, nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Gia Luật Tấn nói:

– Hạ quan không rõ đắc tội gì với Dương anh hùng, thật là hồ đồ vạn phần. Dương anh hùng cần gì, xin cứ phân phó.

Dương Quá cười cười, nói:

– Cũng chả đắc tội gì.

Chàng đột nhiên đứng dậy, nhảy qua cửa sổ mà đi. Gia Luật Tấn cả sợ, vội gọi:

– Dương anh hùng..

Y chạy ra bên cửa sổ, thì Dương Quá đã mất hút. Y kinh nghi bất định: "Người ấy chợt đến chợt đi, ta bị trúng độc châm của hắn, phải làm thế nào bây giờ?" Vội rút cây kim nhỏ ra khỏi lòng bàn tay, vai và lòng bàn tay ngứa ngáy rất khó chịu.

Đang tâm phiền ý loạn, thì Dương Quá đã trở lại, lần này có thêm một thiếu nữ, chính là Lục Vô Song. Gia Luật Tấn nói:

– A, Dương anh hùng đã trở lại!

Dương Quá chỉ Lục Vô Song, nói:

– Đây là tức phụ nhi của ta, ngươi hãy khấu đầu trước nàng!

Lục Vô Song quát:

– Ngươi bảo sao?

Giơ tay tát chàng một cái. Dương Quá muốn tránh, nào có khó gì? Chẳng hiểu tại sao chàng lại thấy khoan khoái khi bị nàng đánh một chưởng, mắng nhiếc vài câu. Bốp một tiếng, bên má bị tát nóng rát lên. Gia Luật Tấn không biết hai người này thường ngày đùa giỡn kiểu gì, chỉ đoán võ công của Lục Vô Song cao hơn hẳn Dương Quá, y cứ ngẩn ngơ nhìn họ, không dám nói gì. Dương Quá xoa xoa bên má bị tát, cười nói với Gia Luật Tấn:

– Ngươi bị trúng độc thần châm của ta, nhưng không chết ngay đâu mà sợ. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời ta, ta sẽ chữa khỏi cho ngươi.

Gia Luật Tấn nói:

– Hạ quan bình sinh ngưỡng mộ nhất các bậc anh hùng hảo hán, chỉ tiếc chưa từng gặp được người có bản lĩnh thật sự. Hôm nay may mắn được quen biết cao hiền, thực thỏa ước vọng bình sinh. Dương anh hùng không cứu chữa cho hạ quan, hạ quan dù chết cũng cam lòng.

Câu này vừa đề cao mình, lại vừa ca tụng đối phương. Dương Quá chưa bao giờ giao thiệp với quan viên, không biết rằng học vấn lớn nhất của người làm quan là phải nịnh bợ thượng ty, càng tinh thông hoạn lộ bao nhiêu, thì sự a dua càng kín đáo bấy nhiêu. Quan viên Mông Cổ vốn thô thiển chất phác, nhưng sau khi xuống Trung Nguyên, cũng dần dần nhiễm tập khí của quan trường Trung Quốc. Dương Quá được Gia Luật Tấn nịnh vài câu đã sướng rơn, giơ ngón tay cái tán thưởng, nói:

– Không ngờ ngươi lại là một hán tử rất có cốt khí. Nào lại đây, ta sẽ chữa trị cho ngươi.

Chàng liền dùng đá nam châm hút hai cái Ngọc phong châm ra khỏi vai Gia Luật Tấn, rồi xoa giải dược vào vai và hai lòng bàn tay y.

Lục Vô Song chưa từng nhìn thấy Ngọc phong châm, bây giờ thấy nó chỉ như sợi tóc, tưởng chừng bỏ xuống nước nó sẽ nổi lên, nghĩ thầm: "Một làn gió đủ thổi bay Ngọc phong châm không biết đi tận đâu, sao lại có thể dùng làm ám khí được kia chứ?" nàng trong bụng càng thêm thán phục Dương Quá, nhưng ngoài miệng lại nói:

– Sử dụng thứ ám khí âm tổn này thì còn gì là khí phách nam nhi, không sợ người ta cười cho hay sao?

Dương Quá cười cười, không thèm chấp, nói với Gia Luật Tấn:

– Hai ta muốn dựa hơi đại nhân, làm thị tòng cho đại nhân.

Gia Luật Tấn sợ hãi, vội nói:

– Dương anh hùng chỉ nói đùa, cần sai bảo gì, xin cứ phân phó.

Dương Quá nói:

– Ta không nói đùa đâu, quả thật bọn ta cần làm thị tòng cho đại nhân.

Gia Luật Tấn nghĩ thầm: "Chắc hai người này muốn làm quan, mong muốn tiến thân", bèn lấy lại tư thế, ho một tiếng, nghiêm trang nói:

– Phải, đã giỏi võ nghệ rồi, mua một chức quan lớn, thì sẽ chóng tiến thân.

Dương Quá cười, nói:

– Điều này thì đại nhân hiểu sai rồi. Hai ta có một kẻ thù cực kỳ lợi hại đang đuổi theo, hai ta địch không nổi hắn, nên muốn giả làm thị tòng cho đại nhân, để tạm thời tránh né hắn.

Gia Luật Tấn có vẻ thất vọng, vẻ nghiêm trang trở lại tự nhiên, cười nịnh:

– Võ công cao siêu như hai vị, kẻ thù nào dám làm gì kia chứ. Nếu hắn đông người, hạ quan sẽ triệu tập binh mã, bắt chúng cho Dương anh hùng tùy ý xử trí.

Dương Quá nói:

– Ngay đến ta còn đánh không nổi hắn, đại nhân đừng phí công. Mau sai thị tòng mang y phục ra cho hai ta thay.

Câu này chàng nói rất tự nhiên, nhưng giọng nói đầy vẻ uy nghiêm, Gia Luật Tấn luôn miệng vâng dạ, sai thị tòng mang y phục ra. Dương, Lục hai người sang phòng khác thay quần áo. Lục Vô Song soi gương, thấy trong đó một quân quan Mông Cổ trẻ trung, xinh đẹp, mặc áo gấm, mắt sáng, răng trắng, tự cảm thấy thú vị.

Sáng hôm sau dậy sớm, Dương Quá và Lục Vô Song mỗi người ngồi trong một chiếc kiệu do kiệu phu khiêng đi, Gia Luật Tấn vẫn cưỡi ngựa như hôm qua; đi đến giờ Ngọ, nghe có tiếng chuông vàng đeo cổ lừa vang vang, từ xa lại gần, rồi vượt qua đoàn người ngựa. Lục Vô Song cười vui, nghĩ thầm: "Ngồi trong kiệu dưỡng thương, quả nhiên không gì bằng. Đồ ngốc nghĩ ra cách này kể cũng có lý. Thế này là mình sẽ được ngồi kiệu về đến Giang Nam".

Cứ thế đi hai ngày, không còn nghe thấy tiếng chuông vàng, tức là Lý Mạc Sầu không quay lại tìm kiếm. Mấy gã đạo sĩ và đệ tử Cái Bang đuổi theo trả thù cũng mất tăm.

Ngày thứ ba, đoàn người đến Long Câu trại, đây là yếu địa giao thông giữa hai vùng Tần -Biện, chợ búa sầm uất. Dùng bữa tối xong, Gia Luật Tấn sang phòng của Dương Quá thỉnh giáo võ học, không tiếc lời tán dương tài nghệ của chàng. Dương Quá cũng chỉ vẽ cho một vài điều; Gia Luật Tấn đang chăm chú lắng nghe, thì một thị tòng hớt hải chạy vào nói:

– Khải bẩm đại nhân, lão đại nhân ở kinh có phái người mang thư đến.

Gia Luật Tấn mừng, nói:

– Được, ta sẽ sang gặp.

Y định đứng lên tạ tội với Dương Quá, nhưng lại nghĩ thầm: "Mình tiếp sứ giả mang thư đến trước mặt Dương Quá, để chứng tỏ mình coi Dương Quá như người thân tình, như thế Dương Quá sẽ dạy võ cho mình thật tận tình", bèn bảo gã thị tòng:

– Bảo người ấy sang đây gặp ta.

Gã thị tòng vẻ mặt rất lạ, ấp úng:

– Lão.. lão đại nhân..

Gia Luật Tấn phẩy tay, nói:

– Không sao hết, ngươi cứ dẫn hắn sang đây.

Gã thị tòng nói:

– Là lão đại nhân thân chinh..

Gia Luật Tấn cau mày, gắt:

– Đầy tớ gì dám nhiều lời, xéo đi..

Lời chưa dứt, có một người vén rèm tươi cười bước vào nói:

– Tấn nhi, con không ngờ ta tới phải không?

Gia Luật Tấn vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vội quì xuống, nói:

– Cha, là lão nhân gia đến thật ư..

Người kia cười, nói:

– Phải, là ta thân chinh tới đây!

Người ấy chính là Gia Luật Sở Tài, đại thừa tướng Mông Cổ, phụ thân của Gia Luật Tấn. Bấy giờ, theo quan chế Mông Cổ, Gia Luật Sở Tài giữ chức Trung thư lệnh.

Dương Quá nghe Gia Luật Tấn gọi người kia là phụ thân, chàng không biết vị đó là đại thừa tướng đầy quyền thế, uy danh hàng vạn dặm, ở dưới một người, ở trên muôn người; chàng nhìn người ấy, thấy người ấy cũng chưa già, tướng mạo thanh nhã, trong vẻ uy nghiêm có ba phần hiền hòa, bất giác trong lòng nảy sinh ý kính nể.

Người ấy vừa ngồi xuống ghế, ngoài cửa lại thêm hai người bước vào, hành lễ với Gia Luật Tấn, gọi Gia Luật Tấn là "đại ca". Hai người kia một nam một nữ, nam chừng hai mươi ba, hai mươi tư tuổi; nữ thì trạc tuổi Dương Quá. Gia Luật Tấn mừng rỡ nói:

– Nhị đệ, tam muội, cũng đến cả ư?

Rồi quay sang nói với phụ thân:

– Thưa phụ thân, phụ thân rời kinh, hài nhi không hề hay biết.

Gia Luật Sở Tài nói:

– Phải, có một việc lớn, nếu ta không thân chinh đến chủ trì, thì không thể yên lòng.

Lão đại nhân nhìn Dương Quá và đám thị tòng một cái, ngụ ý bảo chúng lui ra.

Gia Luật Tấn cảm thấy khó xử, vốn định khoát tay đuổi đám thị tòng ra ngoài, song lại không dám đắc tội với Dương Quá, vẻ mặt không khỏi lộ vẻ do dự. Dương Quá hiểu tâm ý của y, mỉm cười, tự bước ra. Gia Luật Sở Tài thấy Dương Quá có cử chỉ khác lạ, lúc mình bước vào, đám thị tòng đều rạp mình cúi chào, chỉ một mình gã thiếu niên ấy đứng nguyên, lúc này đường hoàng bước ra, tự nhiên tự tại như bậc công hầu, thì bất giác động lòng, hỏi Gia Luật Tấn:

– Người đó là ai vậy?

Gia Luật Tấn là một vị đại quan, nếu nói rõ lai lịch của Dương Quá trước mặt đệ, muội, thì mất hết thể diện, bèn thưa:

– Đấy là một vị bằng hữu mà hài nhi làm quen dọc đường. Phụ thân thân chinh đi xuống phương nam, không biết là vì việc gì?

Gia Luật Sở Tài thở dài, sắc mặt lo lắng, thong thả nói rõ nguyên do.

Nguyên sau khi đại hãn Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn tạ thế, người con thứ ba là Oa Khoát Đài lên nối ngôi. Oa Khoát Đài làm đại hãn mười ba năm, thì qua đời; con trai là Quý Do lên nối ngôi. Quý Do hồ đồ, say sưa rượu ngon gái đẹp, làm đại hãn có ba năm đã đoản mệnh chết đi. Lúc này hoàng hậu của Quý Do buông mành nhiếp chính. Hoàng hậu tin dùng bọn tiểu nhân, loại bỏ các vị đại thần đại tướng tiền triều, triều chính vô cùng hỗn loạn. Tể tướng Gia Luật Sở Tài là vị nguyên lão ba triều, lại là khai quốc công thần, thấy việc làm sai trái của hoàng hậu, thường dùng lời lẽ chính trực can gián. Hoàng hậu thấy Gia Luật Sở Tài thường ngăn trở các chỉ dụ của mình, thì rất tức giận, nhưng vì Tể tướng vị cao vọng trọng, nhiều điều nói ra đều là chính lý, nên không thể không dao động. Gia Luật Sở Tài tự biết mình đắc tội với hoàng hậu, tính mạng cả gia đình thân thích hàng trăm người như trứng để đầu đẳng, bèn dâng lên hoàng hậu một bản tấu, nói rằng tình hình ở vùng Hà Nam không yên, cần phái đại thần đi lo liệu, tự nguyện xin được lĩnh chỉ lên đường. Hoàng hậu cả mừng, nghĩ bụng người này đi càng xa càng tốt, ngày ngày khỏi chướng mắt, bèn lập tức chuẩn tấu. Thế là Gia Luật Sở Tài liền đem theo thứ tử Gia Luật Tề, tam nữ Gia Luật Yến đi Hà Nam. Chuyến đi này danh nghĩa là vỗ an dân chúng, thực tình là để tránh họa.

Dương Quá về phòng ở, cùng với Lục Vô Song trò chuyện đùa bỡn một hồi, thì Lục Vô Song im lặng. Dương Quá nói mấy câu, không nghe hồi đáp, bèn ngồi xếp chân dụng công.

Lục Vô Song thấy buồn tẻ, nhìn sang thấy Dương Quá cúi đầu nhắm mắt, ngồi chán chê chẳng động đậy gì, bèn nói:

– Đồ ngốc, tại sao lúc này lại ngồi dụng công hả?

Dương Quá không đáp. Lục Vô Song tức giận:

– Dụng công thì lúc nào chẳng được, bây giờ ngươi có chịu tiếp chuyện ta hay không thì bảo?

Nàng đang định giơ tay đánh gãi ngứa chàng, thì Dương Quá đột nhiên ngồi thẳng dậy, nói nhỏ:

– Có người đang nhòm trộm trên mái nhà!

Lục Vô Song không hề nghe thấy chút động tĩnh gì, ngẩng đầu nhìn lên mái nhà một cái, nói nhỏ:

– Lại định lừa ta hả?

Dương Quá nói:

– Không phải ở phòng này, là ở gian nhà bên kia kìa.

Lục Vô Song càng không tin, cười cười, mắng nhỏ:

– Đồ ngốc!

Nàng cho rằng Dương Quá lại giả bộ ngớ ngẩn để trêu chọc nàng.

Dương Quá kéo kéo áo nàng, nói khẽ:

– Nếu là sư phụ của cô nương tìm đến, thì chúng ta phải trốn trước.

Lục Vô Song nghe hai chữ "sư phụ", thì lưng toát mồ hôi lạnh, vội bám theo Dương Quá ra bên cửa sổ. Dương Quá chỉ lên mái nhà phía tây. Lục Vô Song ngẩng nhìn theo, quả nhiên thấy có một bóng đen mặc đồ đen nằm phục trên đó. Đêm nay cuối tháng, không có trăng, sao thì mờ, nếu không căng mắt quan sát khó lòng nhận biết. Lục Vô Song thầm thán phục: "Đồ ngốc làm sao phát giác được thế không biết?" Nàng biết sư phụ rất tự phụ, đi đêm vẫn mặc đạo bào màu vàng, không thèm mặc đồ đen, bèn ghé tai Dương Quá nói nhỏ:

– Không phải sư phụ đâu.

Lời vừa dứt, hắc y nhân bỗng đứng thẳng dậy, chạy trên mái nhà đến chỗ cửa sổ buồng cha con Gia Luật Tấn, dùng chân móc khuôn cửa sổ, rồi cầm đao nhảy vào trong buồng, miệng quát:

– Gia Luật Sở Tài, đêm nay ta cùng chết với ngươi ở đây!

Thì ra là một giọng nữ nhân.

Dương Quá nghĩ thầm: "Nữ nhân này thân pháp mau lẹ, võ công chắc là hơn hẳn Gia Luật Tấn, chỉ e lão đại nhân khó toàn tính mạng". Lục Vô Song giục:

– Ta đến mau!

Hai người chạy tới bên ngoài cửa sổ, ngó vào bên trong.

Chỉ thấy Gia Luật Tấn giơ chiếc ghế đang giao đấu với hắc y nữ tử. Nữ tử tuy tuổi còn trẻ, nhưng đao pháp hiểm ác, thanh liễu diệp đao trong tay nàng ta sắc bén dị thường, chém mấy nhát, chiếc ghế đã gãy nát thành nhiều mảnh. Gia Luật Tấn thấy không chống nổi, gọi:

– Phụ thân, mau tránh đi!

Rồi lớn tiếng gọi:

– Người đâu!

Hắc y thiếu nữ tung cước đá một cái, Gia Luật Tấn không kịp đề phòng, bị trúng vào thắt lưng ngã sấp xuống. Hắc y thiếu nữ liền lao tới, vung đao chém thẳng xuống đầu Gia Luật Sở Tài.

Dương Quá nghĩ thầm: "Nguy rồi! Cứu người trước đã rồi sẽ tính sau", chàng đang định phóng Ngọc phong châm tới cổ tay thiếu nữ, thì nghe một giọng nữ vang lên:

– Không được vô lễ!

Đó là Gia Luật Yến, con gái của Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Yến tay phải xuất chưởng đánh tới mặt hắc y thiếu nữ, tay trái dùng thủ pháp tay không đoạt binh khí để cướp đao của thiếu nữ. Hai tay nàng phối hợp cực khéo, hắc y thiếu nữ nghiêng đầu tránh chưởng, thì cổ tay đã bị Gia Luật Yến chộp lấy, vội tung cước đá ra, buộc Gia Luật Yến phải lùi lại, mới không bị cướp mất đao. Dương Quá thấy hai thiếu nữ đều xuất thủ thần tốc, chàng thầm kinh ngạc. Trong giây lát, hai nàng đã trao đổi bảy, tám chiêu.

Lúc này đã có mươi vệ sĩ chạy đến cửa, thấy hai thiếu nữ đang giao đấu, họ đều muốn xông vào, nhưng Gia Luật Tấn nói:

– Hượm đã, tam tiểu thư không cần các ngươi trợ thủ.

Dương Quá nói nhỏ với Lục Vô Song:

– Tức phụ nhi, hai cô nương kia võ công cao hơn nàng đấy!

Lục Vô Song cả giận, nghiêng người giáng cho một chưởng. Dương Quá vừa cười vừa tránh, nói:

– Đừng làm ồn, hãy xem người ta giao đấu thì hơn.

Lục Vô Song nói:

– Vậy ngươi thử nói thật ta nghe, rốt cuộc ta cao hơn họ, hay là họ cao hơn ta?

Dương Quá nói nhỏ:

– Một đấu một, thì hai cô nương kia đều không bằng nàng. Nàng một mình đánh hai cô nương ấy, nếu chỉ luận về võ công, chắc nàng sẽ thua. Nhưng lối đánh của hai cô nương kia quá thật thà, không hề mưu trí, quỉ kế đa đoan, hiểm ác như nàng, cho nên cuối cùng sẽ bị thua nàng.

Lục Vô Song thầm khoái chí, nói nhỏ:

– Cái gì mà quỉ kế đa đoan, nói về quỉ kế đa đoan, thì chẳng ai trên đời sánh kịp Ngốc đại gia Đồ ngốc nhà này!

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Như thế là nàng được làm Ngốc đại nương rồi còn gì?

Lục Vô Song xì nhẹ một tiếng.

Hai thiếu nữ đấu một hồi, Gia Luật Yến cuối cùng tay không vũ khí, mấy lần cố đoạt liễu diệp đao của đối phương không được, toàn phải né tránh, không cách gì trả đòn.

Gia Luật Tề nói:

– Tam muội, để huynh đấu thử.

Chàng trai tiến vào, tay phải tung liền ba chưởng. Gia Luật Yến lui ra, đứng bên tường, nói:

– Được, để ca ca thử.

Dương Quá mới ngắm Gia Luật Tề xuất thủ ba chiêu, đã thầm kinh dị. Thấy chàng ta tay trái chống nạnh, thủy chung không động, tay phải duỗi ra co vào, không hề di động cước bộ, linh hoạt đối phó với đơn đao của đối phương, chiêu số tinh diệu, bộ vị chuẩn xác, quả thật bất phàm, thì nghĩ thầm: "Người này cừ thật, võ công tựa hồ là phái Toàn Chân, song lại không phải".

Lục Vô Song nói:

– Đồ ngốc, võ công chàng trai kia cao hơn ngươi nhiều lắm.

Dương Quá mải nhìn, không nghe thấy lời của Lục Vô Song.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 10: Thiếu niên anh hiệp

Gia Luật Tề nói:

– Tam muội, muội hãy nhìn kỹ, huynh vỗ vào huyệt Kiên Nho của nàng ta, nàng ta nhất định sẽ lùi chếch đi để tránh; huynh sẽ vỗ vào huyệt Cự Cốt, nàng ta đành phải giơ đao chém ngược lại. Lúc đó xuất thủ phải nhanh, thì mới có thể đoạt được binh khí của nàng ta.

Hắc y thiếu nữ giận dữ nói:

– Hừ, đâu có dễ thế.

Gia Luật Tề nói:

– Nhìn đây này.

Nói đoạn tay phải vỗ vào huyệt Kiên Nho, một chưởng này xuất thủ xiên xiên chếch chếch, khống chế toàn bộ lối thoát trước sau tả hữu, chỉ chừa một kẽ hở ở góc chéo phía sau, hắc y thiếu nữ muốn né tránh chưởng này, ắt phải thoái lui về phía đó hai bước. Gia Luật Tề gật gật đầu, quả nhiên giơ tay vỗ tới huyệt Cự Cốt. Hắc y thiếu nữ đinh ninh tự nhủ: "Nhất thiết chớ giơ đao chém ngược lại"; nhưng tình thế cho thấy chỉ có làm như thế mới là cách hay nhất, cũng không thể suy tính lâu đành giơ đao chém ngược lại. Gia Luật Tề nói:

– Nhìn đây này!

Ai cũng tưởng chàng sẽ giơ tay đoạt đao, không ngờ tay phải của chàng rụt lại, ngang với tay trái, rồi cả hai bàn tay cùng thọt vào trong ống tay áo.

Hắc y thiếu nữ một đao chém hụt, thấy hai tay đối phương cùng chui vào ống tay áo thì hơi ngẩn người.

Gia Luật Tề đột nhiên tay phải vụt chìa ra, dùng hai ngón kẹp lấy sống đao, giật một cái, Hắc y thiếu nữ không giữ được đao, để đối phương đoạt mất.

Mọi người chứng kiến thần kỹ, nhất thời ngây người, rồi mới vỗ tay reo hò. Hắc y thiếu nữ sắc diện ủ dột, đứng im một chỗ. Mọi người đều nghĩ thầm: "Nhị công tử đã không bắt giữ nàng ta, rõ ràng dành cho một con đường sống, sao thiếu nữ không chạy đi, còn chờ gì nữa?"

Gia Luật Tề chậm rãi lùi lại, nói với Gia Luật Yến:

– Nàng ta đã không có binh khí, muội tái đấu thử với nàng ta đi. Mạnh dạn hơn một chút, lưu ý chân nàng ta lúc tung chưởng.

Gia Luật Yến tiến lên hai bước, nói:

– Hoàn Nhan Bình, chúng ta lại tha cho ngươi một lần nữa, ngươi cứ nằng nặc bám theo gây sự, không lẽ đến nay vẫn cố chấp như thế ư?

Hắc y thiếu nữ tên là Hoàn Nhan Bình cúi đầu ngẫm nghĩ. Gia Luật Yến nói:

– Ngươi đã quyết phân thắng bại với ta thì hãy mau vui vẻ lên mà động thủ đi!

Nói đoạn sấn tới tung ra hai quyền đánh thẳng vào mặt đối phương. Hoàn Nhan Bình nhảy lùi né tránh, buồn rầu nói:

– Trả đao cho ta.

Gia Luật Yến sững lại, nghĩ thầm: "Ca ca ta đoạt binh khí của ngươi, nay ta và ngươi bình thủ tương đấu sao ngươi lại còn đòi đao?" Bèn nói:

– Cũng được!

Nàng cầm lấy thanh liễu diệp đao từ tay Gia Luật Tề mà tung cho Hoàn Nhan Bình. Một vệ sĩ xoay ngược cán đao đang cầm, đưa cho Gia Luật Yến, nói:

– Tam tiểu thư, tiểu thư cũng dùng tạm binh khí đi.

Gia Luật Yến nói:

– Không cần.

Nhưng nghĩ lại: "Mình tay không đánh chẳng nổi nàng ta, vậy thì tỷ đao xem sao". Nàng nhận đơn đao, chém thử hai cái, thấy hơi nặng, đành dùng tạm.

Hoàn Nhan Bình sắc diện nhợt nhạt, tay trái giơ đao, tay phải chỉ Gia Luật Sở Tài, nói:

– Gia Luật Sở Tài, lão giúp quân Mông Cổ giết hại cha mẹ ta, kiếp này ta đã không thể tìm lão trả thù được nữa. Ta hẹn lão tính sổ ở cõi âm vậy!

Lời vừa dứt, tay trái đưa đao lên cứa ngang cổ họng.

Dương Quá nhìn ánh mắt thê lương của Hoàn Nhan Bình, tim bỗng đập mạnh, ngực đau, buột miệng kêu thất thanh:

– Cô cô!

Hoàn Nhan Bình dùng đao tự vẫn. Gia Luật Tề vọt lên hai bước, tay phải chìa ra, lại dùng hai ngón đoạt lấy thanh đao lá liễu của Hoàn Nhan Bình, tiện tay điểm luôn huyệt đạo ở vai nàng ta, nói:

– Tự dưng sao lại tự vẫn kia chứ?

Giơ đao cứa ngang cổ, hai ngón tay đoạt đao, hai sự việc ấy diễn ra trong một cái chớp mắt, mọi người đều nhìn rõ, thanh đao đã nằm trong tay Gia Luật Tề.

Lúc này mọi người trong nhà cùng kêu lên kinh ngạc, hai tiếng "Cô cô!" của Dương Quá không ai để ý. Lục Vô Song ở bên cạnh nghe rõ, thấp giọng hỏi:

– Ngươi gọi ai thế? Thiếu nữ kia là cô cô của ngươi ư?

Dương Quá vội đáp:

– Không, không, không phải!

Nguyên chàng nhìn thấy ánh mắt buồn thảm, hoàn toàn tuyệt vọng của Hoàn Nhan Bình, thấy giống hệt sắc diện của Tiểu Long Nữ lúc chia tay với chàng, thì bất giác chàng như si như cuồng, không biết mình đang ở chốn nào nữa.

Gia Luật Sở Tài chậm rãi nói:

– Hoàn Nhan cô nương, cô nương đã hành thích lão phu ba phen. Lão phu thân làm Tể tướng Mông Cổ, diệt nước Đại Kim, hại chết cha mẹ cô nương. Nhưng cô nương có biết tổ tiên của lão phu đã bị ai tiêu diệt hay không?

Hoàn Nhan Bình lắc đầu, nói:

– Ta không biết.

Gia Luật Sở Tài nói:

– Tổ tiên của lão phu là hoàng tộc nước Đại Liêu, nước Đại Liêu đã bị nước Đại Kim của cô nương tiêu diệt. Con cháu họ Gia Luật ở nước Đại Liêu ta đã bị họ Hoàn Nhan của cô nương giết gần hết, chỉ còn vài người sống sót. Lão phu từ nhỏ lập chí báo thù, mới phò tá đại hãn Mông Cổ tiêu diệt nước Đại Kim của cô nương. Ôi, oán thù tương báo, không biết khi nào mới chấm dứt đây?

Nói câu cuối, Gia Luật Sở Tài ngẩng đầu nhìn ra cửa sổ, nghĩ đến chỉ vì mấy nhà tranh giành ngôi vị đế vương, mà bao thành trấn sầm uất trở thành hoang phế, thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Hoàn Nhan Bình im lặng, để lộ mấy chiếc răng trắng như ngọc, nàng cắn môi, hừ một tiếng, nói với Gia Luật Tề:

– Ta ba phen báo thù không xong, tự trách bản lĩnh kém cỏi, đã đi một nhẽ. Ta muốn tự sát, việc đó can hệ gì tới công tử?

Gia Luật Tề nói:

– Cô nương chỉ cần đáp ứng từ nay không tìm đến báo thù nữa, thì cô nương có thể đi đâu tùy ý!

Hoàn Nhan Bình lại hừ một tiếng, nhìn trừng trừng. Gia Luật Tề dùng cán liễu diệp đao ấn nhẹ sau lưng Hoàn Nhan Bình vài cái, giải huyệt cho nàng, rồi đưa trả thanh đao. Hoàn Nhan Bình do dự, nửa nhận lại nửa không, cuối cùng cầm lấy, nói:

– Gia Luật công tử, công tử mấy lần thủ hạ lưu tình, dùng lễ đối đãi, ta há không biết? Nhưng dòng họ Hoàn Nhan ta với dòng họ Gia Luật của công tử thù sâu như bể, dẫu công tử có cao nghĩa khảng khái đến mấy, thì mối huyết hải thâm cừu của cha mẹ ta, ta không thể không báo.

Gia Luật Tề nghĩ thầm: "Thiếu nữ này thủy chung cứ bám riết, nàng ta võ công không kém, mình không thể lúc nào cũng kè kè bên cạnh cha già, lỡ có lúc sơ suất biết làm sao đây? Chi bằng dùng lời buộc nàng ta không được tìm đến nữa", bèn nói to:

– Hoàn Nhan cô nương, cô nương báo thù cho cha mẹ, chí khí đáng khen. Nhưng món nợ của lớp trước, phải do lớp trước thanh toán với nhau. Lớp người sau chúng ta có ân oán của mình. Món nợ máu giữa hai dòng họ chúng ta, cô nương cứ tính với tại hạ là được, nếu còn tìm phụ thân ta, thì lần sau gặp lại cô nương, sẽ rất khó xử cho tại hạ đó.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Hừ, ta võ công thua xa công tử, làm sao tính sổ với công tử kia chứ? Thôi được rồi.

Đoạn nàng che mặt mà đi.

Gia Luật Tề biết nàng ta đi ra bên ngoài, sẽ lại ra tay tự sát, chàng không muốn nàng phải chết, bèn cười khẩy, nói:

– Hi hi, nữ tử họ Hoàn Nhan chẳng có chí gì cả!

Hoàn Nhan Bình quay phắt lại, hỏi:

– Sao lại không có chí?

Gia Luật Tề cười, nói:

– Tại hạ võ công cao hơn cô nương, điều đó không sai, nhưng vì thế mà chịu ư? Tại hạ cao hơn, vì từng được minh sư chỉ điểm, chứ chẳng phải tại hạ có gì tài giỏi hơn người. Công phu Thiết chưởng của cô nương vốn cũng là một môn võ công vô cùng lợi hại thời nay, nhưng vị sư phụ truyền thụ cho cô nương chưa tinh, thời gian cô nương luyện tập còn ngắn, khó lòng khắc địch chế thắng, là lẽ đương nhiên. Tuổi còn trẻ, chỉ cần khổ công tìm kiếm minh sư, chẳng lẽ không tìm được hay sao?

Hoàn Nhan Bình đang oán giận, nghe chàng nói vậy cũng phải gật gật đầu. Gia Luật Tề lại nói:

– Mỗi lần động thủ với cô nương, tại hạ chỉ sử dụng tay phải, hoàn toàn không phải là tại hạ cao ngạo gì đâu, mà chỉ vì tay trái của tại hạ có lực rất mạnh, đã xuất thủ thường là đả thương đối phương. Bây giờ thế này, cô nương hãy đi tìm học minh sư, học xong hãy đến tìm tại hạ, chỉ cần cô nương buộc được tại hạ phải dùng đến tay trái, thì tại hạ chịu để cô nương lấy đầu, quyết không oán hận.

Gia Luật Tề biết võ công của Hoàn Nhan Bình thua mình quá xa, dù nàng có được cao nhân chỉ điểm, cũng khó thắng nổi một tay của chàng; thiết nghĩ một người chỉ muốn tự sát, nay ta nói khích để người đó tầm sư học nghệ, chuyên tâm tu luyện, thì sau một thời gian họ sẽ không còn ý định tự sát nữa.

Hoàn Nhan Bình nghĩ thầm: "Ngươi không phải là thần thánh, ta khổ công luyện tập, lẽ nào hai tay không thắng nổi một tay của ngươi?" bèn giơ đao chém một nhát vào không trung, trầm giọng, nói:

– Được, quân tử nhất ngôn..

Gia Luật Tề tiếp lời:

– Khoái mã nhất tiên (Ngựa hay chỉ một roi) !

Hoàn Nhan Bình không thèm nhìn mọi người, ngẩng đầu bước đi, nhưng không giấu được vẻ rầu rĩ lộ rõ trên mặt.

Đám thị vệ thấy nhị công tử thả cho Hoàn Nhan Bình đi, dĩ nhiên không dám ngăn lại; họ vội vã vấn an Gia Luật Sở Tài, rồi lui ra. Gia Luật Tấn thấy ở đây náo loạn động trời, mà thủy chung chẳng thấy Dương Quá xuất hiện, thì trong lòng rất lấy làm lạ.

Gia Luật Yến nói:

– Nhị ca, sao nhị ca lại để cho nàng ta đi?

Gia Luật Tề nói:

– Không cho nàng ta đi, chẳng lẽ giết nàng ta ư?

Gia Luật Yến mỉm cười, nói:

– Nhị ca thả nàng ta đi là sai rồi.

Gia Luật Tề hỏi:

– Sao lại sai?

Gia Luật Yến cười cười, nói:

– Nhị ca đã muốn nàng ta làm chị dâu của muội, thì không nên thả đi.

Gia Luật Tề nghiêm mặt, nói:

– Đừng nói bậy!

Gia Luật Yến thấy Gia Luật Tề nghiêm mặt, sợ nhị ca động nộ, không dám nói đùa nữa.

Dương Quá ở bên ngoài cửa sổ nghe Gia Luật Yến nói "muốn nàng ta làm chị dâu của muội" thì tự dưng vô cớ trong lòng nôn nao, thấy Hoàn Nhan Bình chạy về hướng đông nam, bèn nói với Lục Vô Song:

– Ta đi xem sao.

Lục Vô Song hỏi:

– Xem cái gì?

Dương Quá không trả lời, thi triển khinh công đuổi theo.

Hoàn Nhan Bình võ công không mạnh, song khinh công lại rất cao siêu. Dương Quá đề khí đuổi theo một mạch, mãi đến khi ra khỏi Long Câu trại, mới thấy bóng nàng ta. Chỉ thấy Hoàn Nhan Bình đi vào một sân nhà, đẩy cửa vào phòng. Dương Quá vào theo, nấp ở bên tường. Một lát sau trong phòng thắp đèn, rồi nghe một tiếng thở dài não nuột. Tiếng thở dài này chứa đầy oán sầu, thống khổ.

Dương Quá ở ngoài cửa sổ nghe thấy, ngơ ngẩn xúc động, bất tri bất giác cũng thở dài. Hoàn Nhan Bình nghe vậy cả kinh, vội thổi tắt đèn, lui vào bên góc tường, quát khẽ:

– Ai đó?

Dương Quá đáp:

– Cũng là người đang đau khổ như cô nương.

Hoàn Nhan Bình kinh ngạc, nghe giọng nói của người lạ tựa hồ hoàn toàn không có ác ý, bèn hỏi lại:

– Các hạ rốt cuộc là ai?

Dương Quá nói:

– Tục ngữ có câu "Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn". Cô nương mấy phen hành thích không thành, định tự sát, sao lại coi rẻ tính mạng của mình như vậy? Chẳng phải quá xem nhẹ mối huyết hải thâm cừu hay sao?

Kẹt một tiếng, hai cánh cửa phòng mở ra, Hoàn Nhan Bình thắp đèn lên, nói:

– Mời các hạ vào.

Dương Quá chắp tay từ ngoài cửa, bước vào. Hoàn Nhan Bình thấy chàng dùng trang phục quân quan Mông Cổ, còn rất trẻ, thì hơi kinh ngạc, nói:

– Các hạ dạy rất phải, thỉnh vấn quý tính đại danh?

Dương Quá không trả lời, hai bàn tay lồng trong ống tay áo, nói:

– Gia Luật Tề nói khoác không biết ngượng, cho rằng chỉ dùng tay phải đã là tài giỏi, kỳ thực muốn đoạt đơn đao, điểm huyệt người khác, vẫn dùng một tay, thì có gì khó đâu?

Hoàn Nhan Bình trong bụng nghĩ khác, nhưng chưa hiểu dụng ý của đối phương, nên không tiện phản bác. Dương Quá nói tiếp:

– Ta sẽ dạy cho cô nương ba chiêu võ công, là có thể buộc Gia Luật Tề phải dùng cả hai tay. Bây giờ ta sẽ làm thử trước với cô nương, ta không dùng tay, cũng không dùng chân, đấu với cô nương vài chiêu, được chăng?

Hoàn Nhan Bình lấy làm lạ, nghĩ thầm: "Không lẽ ngươi có yêu pháp, hay là chỉ khoác lác?" Dương Quá thấy nàng do dự, thì nói:

– Cô nương cứ việc dùng đao chém ta, nếu ta tránh không được, có chết cũng không oán trách.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Thôi được. Ta không dùng đao, chỉ dùng quyền, chưởng đánh các hạ là được rồi.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Không, ta không dùng tay chân mà đoạt đơn đao của cô nương, thì cô nương mới tin phục chứ.

Hoàn Nhan Bình thấy chàng nửa cười nửa không, trong bụng hơi giận, nói:

– Các hạ tài tình như thế, quả ta chưa từng gặp.

Đoạn rút đơn đao chém xuống vai chàng. Nàng thấy Dương Quá hai bàn tay lồng trong ống tay áo, làm như vô sự, thì sợ đả thương chàng, lưỡi đao chếch đi một chút. Dương Quá thấy vậy, thản nhiên nói:

– Đừng có nhường, cứ chém thật đi!

Thanh liễu diệp đao bèn chém thẳng xuống, chỉ còn cách vai chàng hơn một tấc. Hoàn Nhan Bình thấy chàng chẳng thèm lý đến, thầm khâm phục sự can đảm của chàng, lại nghĩ thầm: "Hay y là một kẻ ngớ ngẩn?" đao liền chém ngang sang, chẳng dung tình nữa. Dương Quá lập tức rùn mình xuống, lưỡi đao phạt qua, chỉ cách đỉnh đầu một tấc. Hoàn Nhan Bình hăng lên, vung đao chém thẳng. Dương Quá tránh đao, nói:

– Cô nương có thể phối hợp với chưởng pháp.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Được!

Nàng dùng đao phạt ngang, tay trái đánh ra. Dương Quá nghiêng mình tránh, nói:

– Nhanh chút nữa!

Hoàn Nhan Bình liền thi triển đao pháp phối hợp với chưởng pháp, càng đánh càng nhanh. Dương Quá nói:

– Chưởng pháp của cô nương lợi hại hơn đao pháp. Gia Luật Tề gọi đây là công phu Thiết chưởng, phải vậy không?

Hoàn Nhan Bình gật đầu, xuất thủ hiểm ác hơn. Dương Quá thủy chung vẫn hai tay lồng trong ống áo, múa lượn giữa chưởng ảnh đao phong. Đơn đao thiết chưởng của Hoàn Nhan Bình vẫn chưa chạm được vào quần áo của chàng.

Hoàn Nhan Bình đã sử quá nửa pho đao pháp, thì Dương Quá nói:

– Cẩn thận đó, nội trong ba chiêu, ta sẽ đoạt đao của cô nương.

Hoàn Nhan Bình lúc này đã hết sức thán phục chàng, nhưng bảo rằng nội trong ba chiêu, sẽ đoạt được binh khí, thì vẫn chưa tin; nàng bất giác nắm chặt cán đao hơn, nói:

– Các hạ đoạt đi!

Rồi dùng chiêu "Vân hoành Tần lĩnh" phạt đao ngang đầu Dương Quá. Dương Quá cúi đầu, luồn nghiêng ra, dùng góc trán đụng vào huyệt Khúc Trì ở khuỷu tay nàng. Hoàn Nhan Bình cánh tay tê dại, ngón tay vô lực. Dương Quá ngẩng đầu, há mồm, cắn lấy sống đao, nhẹ nhàng đoạt lấy thanh đao, tiếp đó nghiêng đầu sang một bên, cán đao thúc nhẹ vào bên sườn nàng, điểm trúng huyệt đạo ở đó. Dương Quá ngẩng mặt, há miệng, hất thanh đao lên trời, nói:

– Thế nào, đã phục chưa?

Nói xong năm chữ ấy, thì thanh đao rớt xuống, Dương Quá há miệng cắn lấy thanh đao, cười hi hi nhìn Hoàn Nhan Bình. Hoàn Nhan Bình vừa kinh ngạc vừa vui mừng, gật gật đầu.

Dương Quá thấy làn thu ba của nàng đung đưa, kiều mị động nhân, bất giác muốn ôm nàng thơm một cái nhưng làm như vậy quá liều lĩnh, miệng cắn sống đao, mặt đỏ bừng. Hoàn Nhan Bình không biết tâm sự của chàng, thấy sắc diện của chàng hơi lạ, chỉ thấy toàn thân nàng tê dại, hai chân bủn rủn muốn ngã khuỵu xuống. Dương Quá bước tới một bước, cách nàng chưa đầy một thước, định nhả đao, kề môi thơm nàng một cái, bỗng nghĩ thầm: "Nàng rất cảm kích trước việc Gia Luật Tề dùng lễ đối đãi với nàng, chẳng lẽ ta lại không bằng Gia Luật Tề? Hừ, ta phải hơn hắn về mọi phương diện". Thế là chàng cúi đầu, dùng cán đao thúc nhẹ vào lưng giải huyệt cho nàng, rồi chìa cán đao cho nàng.

Hoàn Nhan Bình chưa nhận đao, quì xuống đất, nói:

– Xin sư phụ chỉ điểm, tiểu nữ trả được mối thù cho cha mẹ, sẽ mãi mãi ghi nhớ đại đức.

Dương Quá vội đỡ nàng dậy, dùng tay cầm đao đang cắn ở miệng đưa trả nàng, nói:

– Ta sao có thể làm sư phụ của cô nương? Ta chỉ có thể dạy cho cô nương cách giết Gia Luật Tề mà thôi.

Hoàn Nhan Bình cả mừng, nói:

– Chỉ cần giết được Gia Luật Tề, thì ca ca và muội muội của hắn tiểu nữ đều không sợ, bấy giờ sẽ giết được phụ thân hắn..

Nói đến đây, sực nhớ điều gì, buồn bã nói:

– Ôi, chờ tiểu nữ học cách giết được Gia Luật Tề, thì phụ thân hắn đâu còn sống nữa? Mối thù của cha mẹ vậy là không bao giờ trả được.

Dương Quá cười, nói:

– Phụ thân của Gia Luật Tề đã chết ngay đâu mà lo.

Hoàn Nhan Bình ngạc nhiên, hỏi:

– Nghĩa là sao?

Dương Quá nói:

– Muốn giết Gia Luật Tề thì có khó gì? Bây giờ ta dạy cô nương ba chiêu, ngay đêm nay đã có thể giết chết hắn.

Hoàn Nhan Bình từng ba lần hành thích Gia Luật Sở Tài, cả ba phen đều bị Gia Luật Tề dễ dàng đánh bại, biết chàng ta võ công cao hơn nàng nhiều lần, nghĩ thầm viên quân quan Mông Cổ trẻ tuổi này dù giỏi võ đến mấy, cũng chưa chắc địch nổi Gia Luật Tề, dẫu có thắng nổi, cũng quyết không thể chỉ dạy nàng có ba chiêu, mà đã đủ để giết Gia Luật Tề, lại giết ngay trong đêm nay, thì càng không đời nào có chuyện đó. Nàng sợ Dương Quá buồn, không dám phản bác, chỉ nhè nhẹ lắc đầu, đăm đăm nhìn chàng bằng ánh mắt long lanh, lúng liếng.

Dương Quá biết rõ tâm ý của nàng, nói:

– Đúng là võ công của ta, nếu đánh nhau thật, chưa chắc ta địch nổi Gia Luật Tề; nhưng dạy cho cô nương ba chiêu để đi giết hắn ngay trong đêm nay, thì không có gì khó. Chỉ lo hắn đã tha cho cô nương ba lần, cô nương không nỡ ra tay mà thôi.

Hoàn Nhan Bình động lòng, quả quyết nói:

– Hắn tuy có đức với tiểu nữ, nhưng mối thù của cha mẹ không thể không báo.

Dương Quá nói:

– Được vậy ta sẽ dạy cho cô nương ba chiêu. Nếu cô nương có thể giết được hắn, mà cô nương lại tha cho hắn, thì sao?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Thì tùy các hạ xử trí. Các hạ võ công cao siêu thế, muốn đánh muốn giết, tiểu nữ làm sao thoát nổi?

Dương Quá nghĩ thầm: "Ta nỡ lòng nào giết nàng? Nàng giết hắn hay tha cho hắn, đâu có liên quan gì đến ta?" Bèn mỉm cười, nói:

– Thực ra ba chiêu cũng không có gì mới lạ. Cô nương hãy nhìn cho rõ này.

Đoạn giơ đao thong thả chém từ trái qua phải, nói:

– Chiêu thứ nhất là "Vân hoành Tần lĩnh".

Hoàn Nhan Bình nói:

– Chiêu này tiểu nữ biết lâu rồi, khỏi cần phải dạy.

Thấy lưỡi đao phạt ngang, nàng nghiêng người né tránh. Dương Quá đột nhiên giơ tay trái chộp bàn tay phải của nàng, nói:

– Chiêu thứ hai là "Khô đằng triền thụ".

Hoàn Nhan Bình nói:

– Đây là một chiêu trong "Thiết chưởng cầm nã thủ" của tiểu nữ.

Dương Quá nắm bàn tay mềm mại, trong lòng nao nao, cười, nói:

– Cô nương nên học "Dương chỉ ngọc chưởng công" mới phải, sao lại đi học "Thiết chưởng cầm nã thủ"?

Hoàn Nhan Bình không hiểu câu nói đùa của chàng, nói:

– Có môn "Dương chỉ ngọc chưởng công" ư? Nghe cái tên ấy hay đấy.

Nàng chỉ thấy chàng bóp bóp nhẹ bàn tay nàng, nghĩ như thế đâu có lợi hại bằng môn cầm nã thủ trong Thiết chưởng của nàng, nghĩ thầm: "Chiêu thứ nhất và chiêu thứ hai của chàng đều là thứ ta đã biết, không lẽ chỉ dựa vào một chiêu thứ ba mà giết được Gia Luật Tề?" Dương Quá nhìn chăm chú vào mắt nàng, nói:

– Nhìn cho kỹ này!

Đột nhiên xoay cổ tay, đưa ngang lưỡi đao cứa cổ mình.

Hoàn Nhan Bình cả kinh, kêu lên:

– Các hạ làm gì vậy?

Tay phải của nàng bị Dương Quá nắm giữ, nàng vội đưa tay trái giằng lấy đơn đao. Tuy trong lúc nguy cấp song chiêu "Thiết chưởng cầm nã thủ" nàng sử dụng cực chuẩn, chộp ngay cổ tay Dương Quá xoay ra ngoài, đơn đao không thể cứa vào cổ chàng được.

Dương Quá buông tay nàng, lùi lại hai bước, cười hỏi:

– Cô nương biết cách rồi chứ?

Hoàn Nhan Bình hoảng hồn, tim vẫn còn đập dồn, chưa rõ dụng ý của chàng. Dương Quá cười, nói:

– Cô nương thoạt sử chiêu "Vân hoành Tần lĩnh" phạt ngang, rồi sử chiêu "Khô đằng triền thụ" nắm lấy tay phải của Gia Luật Tề, chiêu thứ ba thì giơ đao cứa cổ tự sát, Gia Luật Tề ắt sẽ dùng tay trái cứu cô nương. Gia Luật Tề đã thề với cô nương, chỉ cần cô nương buộc hắn sử dụng tay trái, hắn sẽ để cho cô nương giết hắn mà hắn không một lời oán trách. Như thế được chưa?

Hoàn Nhan Bình nghĩ thấy đúng vậy. Nàng sững sờ nhìn Dương Quá. Dương Quá nói:

– Ba chiêu này hoàn toàn chắc thắng, nếu không, cứ đem đầu ta đi mà chặt.

Hoàn Nhan Bình lắc đầu, nói:

– Gia Luật Tề đã nói không dùng tay trái, thì nhất định hắn sẽ không dùng. Lúc ấy sẽ ra sao?

Dương Quá nói:

– Còn ra sao nữa? Thì cô nương sẽ vĩnh viễn không trả được mối thù, chết rồi còn trả sao được nữa?

Hoàn Nhan Bình buồn bã gật đầu, nói:

– Các hạ nói phải lắm. Đa tạ chỉ điểm bến mê. Cuối cùng thì các hạ là ai?

Dương Quá chưa kịp trả lời, ngoài song bỗng có giọng thiếu nữ nói:

– Chàng ta là Đồ ngốc, cô nương chớ tin lời quỷ quái của chàng ta.

Dương Quá nghe giọng nói của Lục Vô Song, chỉ cười cười, thây kệ. Hoàn Nhan Bình chạy ra cửa sổ ngó, chỉ thấy một bóng người nhảy qua tường vây ra khỏi sân.

Hoàn Nhan Bình định đuổi theo, Dương Quá kéo tay nàng, cười, nói:

– Đừng đuổi theo, là một bạn đồng hành của ta đó. Nàng ta rất thích gây khó dễ với ta.

Hoàn Nhan Bình nhìn chàng, ngẫm nghĩ một lát nói:

– Các hạ đã không muốn xưng danh thì thôi. Tiểu nữ tin rằng các hạ có thiện chí đối với tiểu nữ.

Dương Quá thấy ánh mắt nàng đung đưa, thần sắc ảm đạm, bất giác thấy nàng thật tội nghiệp, bèn cầm tay nàng, kéo nàng ngồi kề vai bên mép giường, dịu dàng nói:

– Ta họ Dương tên Quá, ta là người Hán, không phải là người Mông Cổ. Cha mẹ ta đều mất cả rồi, cũng như cô nương vậy..

Hoàn Nhan Bình nghe chàng nói đến đây, thì lòng bồi hồi, nước mắt rưng rưng. Dương Quá xúc động bỗng khóc òa lên. Hoàn Nhan Bình rút trong túi ra một chiếc khăn tay, đưa cho chàng. Dương Quá cầm khăn lau mặt, nghĩ đến thân phận của mình, lệ lại trào ra.

Hoàn Nhan Bình gượng cười, nói:

– Dương gia, hãy xem tiểu nữ làm theo chiêu khóc của các hạ này.

Dương Quá nói:

– Đừng gọi ta là Dương gia. Cô nương năm nay bao nhiêu tuổi?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Tiểu nữ mười tám, còn các hạ?

Dương Quá nói:

– Ta cũng mười tám.

Nghĩ thầm: "Nếu mình ít tháng hơn, chẳng hóa không được gọi nàng bằng muội muội ư?" Bèn nói:

– Ta sinh tháng Giêng, từ giờ cô nương cứ gọi ta là Dương đại ca thì được. Ta cũng chẳng khách sáo, gọi cô nương là Hoàn Nhan muội tử.

Hoàn Nhan Bình đỏ mặt, cảm thấy người này hành sự bộc trực, tính tình cổ quái, đối với nàng quả nhiên không hề có ác ý, bên gật gật đầu.

Dương Quá thấy nàng gật đầu thì hết sức vui mừng. Hoàn Nhan Bình diện mạo thanh tú, thân hình mảnh mai, gặp nhiều bất hạnh, tựa hồ sinh ra là để người ta thương yêu, nhưng điều đáng nói nhất là đôi mắt nàng giống hệt Tiểu Long Nữ. Chàng không biết rằng một người trong lòng đau khổ, thì ánh mắt dĩ nhiên đượm vẻ sầu muộn, ai mà chẳng vậy, bảo đôi mắt của Hoàn Nhan Bình giống Tiểu Long Nữ chỉ là cảm giác tự an ủi của chàng mà thôi. Chàng đắm đuối nhìn nàng, bỗng ảo tưởng hắc y thành bạch y, ảo tưởng khuôn mặt gầy gầy thành khuôn mặt kiều diễm của Tiểu Long Nữ, có cái nhìn đắm đuối, chan chứa vẻ cầu khẩn, thương nhớ, tiếc nuối.

Hoàn Nhan Bình hơi sợ, gỡ nhẹ tay khỏi tay chàng, hỏi nhỏ:

– Dương đại ca sao vậy?

Dương Quá như tỉnh mộng, thở dài, nói:

– Không sao. Muội có đi giết Gia Luật Tề hay không?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Muội đi chứ. Dương đại ca có đi với muội hay không?

Dương Quá định trả lời "Tất nhiên ta đi với muội", nhưng lại nghĩ thầm: "Nếu có ta ở bên cạnh, nàng sẽ không sợ, hành động tự sát sẽ không quả quyết, Gia Luật Tề sẽ không trúng kế", bèn nói:

– Ta không tiện đi với muội.

Hoàn Nhan Bình lộ vẻ thất vọng rõ rệt, Dương Quá chợt mềm lòng, cơ hồ bằng lòng đi cùng với nàng, thì Hoàn Nhan Bình nói:

– Thôi được rồi, Dương đại ca, chỉ e muội sẽ không gặp lại Dương đại ca nữa.

Dương Quá vội nói:

– Không đâu, có lẽ nào? Ta..

Hoàn Nhan Bình buồn bã lắc đầu, chạy ra khỏi nhà, trong giây lát đã quay lại chỗ trú đêm của Gia Luật Tấn.

Lúc này mấy cha con Gia Luật Sở Tài ai nấy đã về phòng mình, sắp ngủ yên. Hoàn Nhan Bình gõ mạnh vào cánh cổng hai tiếng, gọi to:

– Hoàn Nhan Bình cầu kiến Gia Luật công tử Gia Luật Tề.

Mấy tên thị vệ chạy ra, định ngăn cản, thì Gia Luật Tề mở cổng ra, hỏi:

– Hoàn Nhan cô nương, có chuyện gì vậy?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Ta muốn lĩnh giáo cao chiêu của công tử.

Gia Luật Tề lấy làm lạ, nghĩ thầm: "Sao cô nàng không tự lượng sức?" Bèn lùi sang một bên, giơ tay phải, nói:

– Mời vào.

Hoàn Nhan Bình vào phòng, rút đao, tấn công liền, đao phong phối hợp với Thiết chưởng chưởng pháp, một đao hai chưởng từ hai phía tả hữu đánh vào. Gia Luật Tề buông xuôi tay trái, tay phải hóa giải đao, chưởng của đối phương, nghĩ thầm: "Phải nghĩ cách khiến nàng ta thấy khó mà lùi, từ rày không dám đến quấy nhiễu nữa".

Hai người đấu một hồi, Hoàn Nhan Bình sắp sử dụng ba chiêu Dương Quá vừa dạy, thì ngoài cửa bỗng có tiếng thiếu nữ nói:

– Gia Luật Tề, Hoàn Nhan cô nương định lừa công tử sử dụng tay trái đấy, hãy cẩn thận.

Chính là giọng nói của Lục Vô Song. Gia Luật Tề hơi sững, Hoàn Nhan Bình không đợi chàng ta hiểu ra, lập tức sử chiêu "Vân hoành Tần lĩnh" phạt ngang, chờ khi chàng ta nghiêng mình né tránh, thì đột nhiên dùng tay trái sử chiêu "Khô đằng triền thụ", chộp lấy tay phải của Gia Luật Tề, còn tay phải cầm đao thì đưa ngay về cứa mạnh một cái vào cổ mình. Trong khoảnh khắc ấy, đầu óc Gia Luật Tề vụt hiện ý nghĩ: "Có cứu nàng ta hay không? Nhưng nàng ta lừa ta dùng tay trái, nếu ta dùng tay trái, thì ta phải nộp mạng cho nàng. Đại trượng phu chết thì thôi, lẽ nào thấy người ta chết không cứu?"

Dương Quá dự đoán tâm tư của Gia Luật Tề, chỉ cần đột nhiên sử dụng ba chiêu này, Gia Luật Tề nhất định sẽ phải dùng tay trái để cứu; ai dè Lục Vô Song lại gây rắc rối, đi nhắc trước cho Gia Luật Tề biết. Đáng lẽ ba chiêu này đã mất thiêng, nhưng Gia Luật Tề hào hiệp khảng khái, biết rõ ra tay cứu tức là mình sẽ mất mạng, vẫn dùng tay trái chộp cổ tay phải của Hoàn Nhan Bình, vặn ra ngoài, đoạt liễu diệp đao của nàng ta. Hai người cùng nhảy lùi hai bước. Gia Luật Tề không đợi nàng lên tiếng, quẳng đao đi, nói:

– Cô nương đã buộc ta phải sử dụng tay trái, vậy cô nương cứ việc giết ta, nhưng ta có một điều cầu xin cô nương.

Hoàn Nhan Bình mặt tái nhợt, hỏi:

– Là điều gì?

Gia Luật Tề nói:

– Xin cô nương đừng sát hại gia phụ.

Hoàn Nhan Bình hừ một tiếng, lại gần, nhặt thanh đao giơ lên, dưới ánh đèn chỉ thấy Gia Luật Tề thần sắc thản nhiên, có uy, lộ rõ khí khái nam tử hán, nghĩ vừa rồi chàng chỉ vì cứu sống nàng mà sử dụng tay trái, nỡ nào nàng đang tâm chém chàng? Ánh mắt đầy sát khí chuyển thành nhu hòa, Hoàn Nhan Bình quẳng đao xuống đất, ôm mặt chạy ra.

Nàng để mặc hai chân muốn đưa nàng tới đâu thì đến, chạy mãi ra tận ngoại ô, tới bên một con mương nhỏ, nhìn ánh sao in bóng dưới dòng nước, tâm trạng rối bời. Rất lâu sau, nàng mới thở dài não nuột.

Bỗng nghe sau lưng cũng có tiếng thở dài. Hoàn Nhan Bình kinh ngạc, quay lại, thấy người đứng sau lưng mình chính là Dương Quá. Nàng gọi một tiếng "Dương đại ca", rồi cúi đầu im lặng.

Dương Quá nắm lấy hai tay nàng, an ủi:

– Báo thù cho cha mẹ vốn là việc không dễ, cũng không nên nóng vội.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Dương đại ca thấy hết cả chứ?

Dương Quá gật gật đầu. Hoàn Nhan Bình nói:

– Đối với hạng người vô dụng như muội, báo thù tất nhiên là việc không dễ. Muội chỉ cần có một nửa bản lĩnh của Dương đại ca, thì sẽ không thất bại như thế này.

Dương Quá buông tay nàng, hai người cùng ngồi xuống một gốc cây lớn, chàng nói:

– Dù học được võ công như ta, cũng vô dụng thôi. Muội tuy chưa trả được mối thù, nhưng còn biết kẻ thù là ai, sau này sẽ có dịp tốt. Chứ ta thì cha mình chết thế nào, ai giết cha ta, ta cũng không biết, còn nói gì đến chuyện báo thù?

Hoàn Nhan Bình ngẩn người, hỏi:

– Cha mẹ của Dương đại ca cũng bị giết hại ư?

Dương Quá thở dài, nói:

– Mẹ ta chết vì bệnh; còn cha ta thì không rõ vì sao chết, chết thế nào? Ta không được biết mặt cha mình.

Hoàn Nhan Bình hỏi:

– Sao lại thế?

Dương Quá nói:

– Khi mẹ ta sinh ra ta, thì cha ta đã chết. Ta thường hỏi mẹ ta, cha con cuối cùng bị chết như thế nào, kẻ thù là ai? Mỗi lần hỏi thế, mẹ ta chỉ ứa nước mắt không trả lời, lâu dần ta không dám hỏi nữa. Bấy giờ ta nghĩ chờ ta lớn thêm vài tuổi, sẽ hỏi cũng chưa muộn; nào ngờ mẹ ta bỗng nhiên bị bệnh qua đời. Khi mẹ ta lâm chung, ta có hỏi, mẹ ta chỉ lắc đầu, nói: "Cha con.. cha con.. ôi, hài nhi, kiếp này con đừng nghĩ đến việc trả thù. Con hãy hứa với mẹ, nhất định đừng tính chuyện trả thù cho cha con!" Ta bi thương không chịu nổi, kêu to: "Con không hứa. Con không hứa!" Mẹ ta nấc lên, rồi tắt thở. Ôi, muội bảo ta sống thế có khổ hay không?

Chàng kể chuyện này cốt để an ủi Hoàn Nhan Bình, nhưng kể xong thì chính mình cũng cảm thấy đau khổ. Tục ngữ có câu "Mối thù giết cha, không đội trời chung". Kẻ nào không báo thù cho cha, sẽ phạm tội lớn nhất, tội bất hiếu, suốt đời bị người đời sỉ nhục, khinh bỉ. Dương Quá ngay họ tên kẻ giết cha cũng không biết, mối hận ấy dồn nén trong lòng đã lâu, lúc này thổ lộ, giọng nói dĩ nhiên chứa đầy phẫn uất.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Vậy ai nuôi dưỡng Dương đại ca?

Dương Quá nói:

– Làm gì có ai? Tự ta nuôi dưỡng ta. Sau khi mẹ ta chết, ta lưu lạc giang hồ, xin nơi này một bữa, ngủ chỗ kia một đêm; có khi đói mờ cả mắt, đành đi lấy trộm quả dưa, củ khoai, bị người ta tóm được, đánh cho no đòn. Muội xem, còn bao nhiêu vết sẹo đây này, toàn là do hồi nhỏ bị đòn mà ra.

Dương Quá vừa nói vừa vén ống tay áo, ống quần, chìa cho Hoàn Nhan Bình coi, dưới ánh sao lờ mờ, nàng không nhìn rõ, Dương Quá liền cầm tay nàng sờ vào vết sẹo ở bắp chân. Hoàn Nhan Bình sờ sờ thấy vết sẹo ở bắp chân chàng thì không khỏi buồn, nghĩ mình tuy quốc phá gia vong, nhưng cha mẹ còn để lại bao nhiêu người thân thích, vô số của cải; so với thân thế của chàng thật là còn may mắn hơn nhiều.

Hai người im lặng hồi lâu, Hoàn Nhan Bình nhè nhẹ rụt tay khỏi bắp chân chàng, nhưng vẫn để chàng cầm tay, hỏi nhỏ:

– Dương đại ca làm sao lại học được võ công cao cường? Do đâu lại làm quan cho người Mông Cổ?

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Ta không phải làm quan cho người Mông Cổ, ta mặc quần áo Mông Cổ chỉ là để tránh sự truy đuổi của kẻ thù mà thôi.

Hoàn Nhan Bình mừng nói:

– Thế thì hay quá.

Dương Quá hỏi:

– Sao lại hay?

Hoàn Nhan Bình đỏ mặt, nói:

– Người Mông Cổ là kẻ tử thù của nước Đại Kim muội muội, dĩ nhiên muội chỉ mong Dương đại ca không phải làm quan cho người Mông Cổ.

Dương Quá nắm bàn tay mềm mại, ấm áp, mượt mà của nàng, thì tâm thần bất định, hỏi:

– Nếu ta làm quan cho nước Đại Kim, muội sẽ đối với ta như thế nào?

Hoàn Nhan Bình thoạt đầu thấy chàng dung mạo tuấn tú, võ công cao cường, đã thích ba phần; huống hồ trong lúc hoạn nạn, lại được chàng thành tâm trợ giúp, rồi lại nghe chàng thổ lộ thân thế, càng thêm thương cảm vài phần; song lúc này nghe đôi lời của chàng không được hảo ý, thì nàng cũng chẳng tức giận, chỉ thở dài, nói:

– Nếu phụ thân muội còn sống, Dương đại ca muốn gì, phụ thân muội đều có thể dành cho Dương đại ca. Bây giờ phụ mẫu của muội đều mất cả rồi, còn biết nói gì?

Dương Quá nghe giọng nói dịu dàng, thì đặt tay lên vai nàng, ghé tai nói nhỏ:

– Muội tử, ta xin muội một điều.

Hoàn Nhan Bình trống ngực đập dồn, đoán chàng sẽ nói gì, thấp giọng hỏi:

– Gì cơ?

Dương Quá nói:

– Ta muốn thơm mắt muội, muội cứ yên tâm! Ta chỉ thơm mắt muội, chứ không phạm gì khác.

Hoàn Nhan Bình lúc đầu tưởng là chàng xin cầu hôn, lại sợ chàng đòi gần gũi về thể xác, nếu mình cự tuyệt, chàng ta sử dụng vũ lực, thì nàng đối phó sao nổi? Huống hồ bàn tay nhỏ bé của nàng đang nằm trong bàn tay to khỏe của chàng, đã cảm thấy ý loạn tình mê, chàng chẳng cưỡng bức, nàng cũng khó kiềm chế. Không ngờ chàng chỉ xin thơm mắt, thì cũng yên tâm, nhưng không khỏi có phần thất vọng. Nàng đắm đuối nhìn chàng, ánh mắt có phần e thẹn. Dương Quá nhìn nàng chằm chằm, bỗng nhiên nhớ lúc chia tay lần thứ nhất với mình, Tiểu Long Nữ cũng nhìn chàng đắm đuối và e thẹn thế này, bất giác chàng kêu to lên, đứng bật dậy.

Hoàn Nhan Bình giật mình, định hỏi chàng vì sao, nhưng lại thôi.

Dương Quá trong lòng bấn loạn, trước mặt cứ lúng liếng ánh mắt của Tiểu Long Nữ. Ngày ấy, khi nhìn thấy ánh mắt của Tiểu Long Nữ, chàng còn là một gã trai trong trắng, đối với Tiểu Long Nữ chỉ một niềm tôn kính, hoàn toàn không biết hàm ý bên trong; còn bây giờ, từ hôm xuống núi, sau mấy ngày ở chung với Lục Vô Song, vừa rồi lại kề vai áp má với Hoàn Nhan Bình, chàng bỗng đại ngộ, bây giờ mới lĩnh hội nhu tình mật ý của Tiểu Long Nữ, thì quá ư buồn phiền, chỉ muốn đập đầu vào thân cây mà chết quách, nghĩ bụng: "Cô cô đối với ta nặng tình như thế, lại bảo muốn làm thê tử của ta, ta lại nỡ phụ mỹ ý của nàng; bây giờ biết tìm nàng ở đâu kia chứ?" Đột nhiên chàng kêu lên, ôm chầm lấy Hoàn Nhan Bình mà thơm vào mắt nàng.

Hoàn Nhan Bình thấy chàng như si như cuồng, trong bụng vừa sợ vừa thích, chỉ thấy hai cánh tay chàng như hai thanh sắt, ghì chặt hai eo lưng mình, thì nhắm mắt lại, tiếp nhận sự âu yếm cuồng nhiệt của chàng, cảm thấy chàng thơm hết mắt trái lại thơm mắt phải, nghĩ thầm người này tuy cuồng bạo, nhưng biết giữ chữ tín, đâu biết vì sao chàng chỉ thơm vào mắt nàng? Đột nhiên Dương Quá gọi:

– Cô cô, cô cô!

Giọng nói của chàng đầy âu yếm, song cũng đầy đau khổ. Hoàn Nhan Bình đang định hỏi chàng gọi ai, thì sau lưng họ có một giọng thiếu nữ vang lên:

– Cảm phiền hai vị!

Dương Quá và Hoàn Nhan Bình cùng giật mình, rời nhau ra, thấy có một người đứng bên cạnh, mặc áo bào màu xanh. Hoàn Nhan Bình trống ngực đập dồn, mặt đỏ bừng, cúi đầu mân mê tà áo, không dám nhìn người kia. Dương Quá thì nhận ngay ra chính là người hôm rồi ở tiểu khách điếm đã dắt trộm lừa của Lý Mạc Sầu, quả thật là có ơn cứu mạng đối với chàng và Lục Vô Song. Thấy hai bên tóc mai buông dài của người đó, thì ra là một thiếu nữ, bèn cúi mình thật thấp, nói:

– Hôm rồi được cô nương cứu viện, đại đức khó quên.

Thiếu nữ áo xanh cung kính đáp lễ, nói:

– Dương gia lúc này còn nhớ người bạn vào sinh ra tử của mình hay chăng?

Dương Quá hỏi:

– Cô nương muốn nhắc đến..

Thiếu nữ nói:

– Sư đồ Lý Mạc Sầu vừa nãy đã bắt nàng ta mang đi!

Dương Quá cả kinh, run run hỏi:

– Thật ư? Hiện.. giờ nàng ta.. không sao cả chứ?

Thiếu nữ nói:

– Tạm thời thì chưa sao. Lục cô nương khăng khăng bảo rằng quyển sách bí truyền đã bị Cái Bang cướp mất, Xích Luyện ma đầu áp giải Lục cô nương đuổi theo Cái Bang đòi lại. Chắc tính mệnh thì chưa sao, song bị hành hạ chắc là khó tránh.

Dương Quá nói:

– Chúng ta mau đi cứu Lục cô nương.

Thiếu nữ nói:

– Dương gia võ công tuy cao, song chỉ e chưa phải là đối thủ của Xích Luyện ma đầu. Chúng ta tìm mụ thì chỉ là tự dẫn xác nộp mạng mà thôi.

Dưới ánh sao mờ, Dương Quá thấy diện mạo của thanh y thiếu nữ thật là ma chê quỷ hờn, da mặt không hề lay động, cứ y như một xác chết, khiến ai trông thấy cũng không khỏi e sợ. Chàng không dám nhìn thẳng vào mặt nàng ta nữa, nghĩ thầm: "Cô nương này tốt bụng biết bao, tiếc thay tướng mạo lại kinh dị thế kia; mình còn nhìn diện mạo nàng ta, ắt sẽ để lộ thần sắc, chẳng hóa ra đắc tội với nàng", bèn hỏi:

– Mạn phép thỉnh vấn quý tính đại danh của cô nương?

Thiếu nữ đáp:

– Tiện danh không đáng hé môi, sau này Dương gia sẽ tự biết. Hiện tại cần phải nghĩ cách cứu người trước đã.

Lúc nàng nói, da mặt không hề động đậy, nếu không nghe tiếng nói từ miệng nàng phát ra, thì cứ ngỡ nàng là một tử thi biết đi lại. Song kỳ lạ thay, giọng nói của nàng lại vô cùng trong trẻo dịu dàng, nghe du dương, tỉnh cả người.

Dương Quá nói:

– Đã vậy, làm cách nào cứu người, mong cô nương cứ cho biết, tiểu nhân xin lắng nghe cô nương phân phó.

Thiếu nữ nói:

– Dương gia khỏi cần khách khí, Dương gia võ công cao hơn tiểu nữ nhiều lần, thông minh tài trí cũng hơn hẳn tiểu nữ. Dương gia hơn tuổi tiểu nữ, lại đường đường là một nam tử hán, Dương gia bảo nên làm gì, tiểu nữ sẽ y lời.

Dương Quá nghe nàng nói vừa khiêm tốn, vừa chân thành, thì cả mừng, nghĩ thầm cô nương này diện mạo đáng sợ, nhưng lời lẽ nho nhã êm dịu, quả là nhìn người không thể chỉ xét bề ngoài, chàng nghĩ một chút, rồi nói:

– Chúng ta hãy kín đáo bám theo, tùy cơ cứu người vậy.

Thiếu nữ nói:

– Như thế là hay. Không biết ý của Hoàn Nhan cô nương thế nào?

Nói xong nàng đi ra chỗ khác, để Dương Quá bàn riêng với Hoàn Nhan Bình.

Dương Quá nói:

– Muội tử, ta phải đi cứu một người bạn. Hai ta sẽ có ngày tái ngộ.

Hoàn Nhan Bình cúi đầu, nói:

– Muội bản sự tuy thấp kém, song có lẽ cũng giúp được phần nào. Dương đại ca, muội xin theo Dương đại ca đi cứu người.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Hay, hay lắm!

Rồi cao giọng gọi thiếu nữ:

– Cô nương, Hoàn Nhan cô nương nguyện theo chúng ta đi cứu người đó.

Thiếu nữ lại gần, nói với Hoàn Nhan Bình:

– Hoàn Nhan cô nương, cô nương là kim chi ngọc diệp, hành sự xin hãy nghĩ kỹ một chút. Kẻ thù của Dương gia và tiểu nữ hành sự cực kỳ tàn bạo, chốn giang hồ người ta gọi mụ là Xích Luyện ma đầu, quả là một con ác quỉ đó.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Đừng nói Dương đại ca có ơn với muội, việc của Dương đại ca cũng là việc của muội. Chỉ riêng với một vị bằng hữu như thư thư đây, muội cũng rất mong được kết giao rồi. Muội xin theo cùng thư thư, mọi việc cẩn thận là được.

Thiếu nữ lại bên, cầm tay Hoàn Nhan Bình, dịu dàng nói:

– Thế thì không còn gì bằng, Thư thư, thư thư hơn tuổi tiểu nữ, cứ gọi tiểu nữ là muội thì hơn.

Hoàn Nhan Bình trong bóng tối không nhìn thấy diện mạo cực xấu của thiếu nữ, nghe giọng nói trong trẻo êm dịu của nàng ta, bàn tay của nàng ta cầm tay mình rất mềm mại, trẻ trung, thì đoán nàng ta là một mỹ nữ, trong bụng rất mừng, hỏi:

– Cô nương năm nay bao nhiêu tuổi?

Thiếu nữ cười khẽ, nói:

– Chúng ta đừng câu nệ lớn nhỏ. Cứu người là việc khẩn cấp, Dương gia bảo có phải vậy không?

Dương Quá nói:

– Đúng vậy, xin cô nương dẫn đường cho.

Thiếu nữ nói:

– Muội thấy họ đi về hướng đông nam. Chắc là chạy thẳng đến cửa ải Đại Thắng.

Ba người lập tức thi triển khinh công, phóng về hướng đông nam. Khinh công của phái Cổ Mộ vốn được coi là đệ nhất trong thiên hạ. Hoàn Nhan Bình võ nghệ còn thấp, nhưng khinh công không kém. Ai ngờ thanh y thiếu nữ luôn luôn bám sát phía sau, Hoàn Nhan Bình phóng nhanh thì thiếu nữ cũng phóng nhanh; Hoàn Nhan Bình đi chậm lại, thiếu nữ cũng đi chậm lại, hai người trước sau chỉ cách nhau một, hai bước. Dương Quá thầm kinh ngạc: "Cô nương này không rõ là đệ tử phái nào, khinh công của nàng ta rõ ràng cao hơn Hoàn Nhan muội tử". Chàng không muốn trổ tài trước mặt hai nàng, nên chỉ bám theo đằng sau họ.

Đi đến khi trời sáng bạch, thiếu nữ lấy trong túi ra lương khô, đưa cho hai người. Dương Quá thấy chiếc áo bào màu xanh của nàng ta tuy bằng vải thô, nhưng may cắt cực khéo, bó sát lấy thân hình mảnh mai, uyển chuyển của thiếu nữ, quả còn hơn cả y phục sang trọng; lương khô và bình nước uống cũng được sắp đặt hết sức chu đáo. Hoàn Nhan Bình thấy diện mạo của nàng ta thì không dám nhìn lâu, nghĩ thầm: "Trên thế gian sao lại có một thiếu nữ xấu xí đến thế?"

Thiếu nữ chờ hai người ăn xong, thì nói với Dương Quá:

– Dương gia, Lý Mạc Sầu biết mặt Dương gia, phải không?

Dương Quá nói:

– Lý Mạc Sầu đã gặp tại hạ mấy lần.

Thiếu nữ lấy trong bọc ra một vật mềm mềm, nói:

– Đây là một cái mặt nạ, Dương gia đeo nó vào, Lý Mạc Sầu sẽ không thể nhận ra được.

Dương Quá cầm cái mặt nạ lên, thấy nó có bốn cái lỗ cho hai mắt, mũi và miệng, đeo lên mặt, chỗ cao chỗ thấp đều phù hợp, khít liền với da mặt, thì cả mừng, cảm tạ. Hoàn Nhan Bình thấy Dương Quá sau khi đeo mặt nạ vào, tướng mạo thay đổi hẳn, cực kỳ xấu xí, thì chợt tỉnh ngộ, nói:

– Muội tử, thì ra muội cũng đeo mặt nạ, thư thư ngốc quá cứ ngỡ muội sinh ra đã vậy. Thật là ngớ ngẩn.

Thiếu nữ mỉm cười, nói:

– Dương gia diện mạo tuấn tú là thế, đeo cái mặt nạ vào bị xấu hẳn đi, thiệt thòi quá. Còn muội thì đeo mặt nạ hay không đeo, diện mạo cũng thế cả.

Hoàn Nhan Bình nói:

– Thư thư không tin! Muội tử hãy gỡ mặt nạ ra cho thư thư ngắm một chút đi, được chứ?

Dương Quá cũng nổi tính hiếu kỳ, muốn biết diện mạo thật của thiếu nữ ra sao, nhưng nàng ta lùi lại hai bước, cười, nói:

– Đừng, đừng, diện mạo của tiểu nữ quái dị lắm, không dám để hai vị nhìn thấy đâu.

Hoàn Nhan Bình thấy thiếu nữ nhất định không chịu, thì đành thôi.

Giữa trưa, ba người tới trấn Vũ Quan. Họ vào một tửu lâu lên trên lầu, chọn một bàn ngồi dùng cơm. Trong tửu điếm thấy Dương Quá trang phục như quan quân Mông Cổ, thì không dám chậm trễ, hầu bàn rất chu đáo. Ba người dùng được nửa bữa, bỗng thấy rèm cửa vén ra, ba nữ nhân bước vào, chính là sư đồ Lý Mạc Sầu và Lục Vô Song. Dương Quá nghĩ thầm, hiện thời Lý Mạc Sầu tuy không thể nhận ra chàng, nhưng cái diện mạo cổ quái như chàng rất dễ khiến nàng ta nghi ngờ, hành sự sẽ rất bất tiện, bèn quay mặt lo và cơm, dỏng tai nghe sư đồ Lý Mạc Sầu nói chuyện.

Nhưng sư đồ Lý Mạc Sầu ăn xong cũng không trò chuyện gì với nhau.

Hoàn Nhan Bình đã nghe Dương Quá miêu tả hình dạng sư đồ Lý Mạc Sầu, cảm thấy nóng ruột, xoay đầu đũa chấm vào nước canh, viết trên mặt bàn ba chữ "Động thủ chưa?" Dương Quá nghĩ thầm: "Dựa vào sức của ba người, cộng với Lục cô nương, vẫn khó địch nổi hai sư đồ Lý Mạc Sầu. Việc này phải dùng trí nữa mới được". Bèn dùng đôi đũa thong thả lắc qua lắc lại vài cái.

Cầu thang lên lầu có tiếng bước chân, Hoàn Nhan Bình liếc ra, thấy huynh muội Gia Luật Tề, Gia Luật Yến bước vào. Hai người kia thấy Hoàn Nhan Bình ở đây đều lấy làm lạ, gật gật đầu với nàng, tìm một bàn ngồi xuống. Huynh muội Gia Luật Tề sau khi Hoàn Nhan Bình bỏ đi, họ biết nàng sẽ không trở lại hành thích, bèn từ biệt phụ huynh, cùng nhau đi du sơn ngoạn thủy, giờ gặp nàng ở đây, lại càng thêm yên tâm.

Lý Mạc Sầu do sách "Ngũ độc bí truyền" rơi vào tay Cái Bang, sinh ra sầu muộn, mấy ngày nay không nuốt nổi cơm, chỉ ăn nửa bát mì đã buông đũa, quay ra nhìn cảnh ngoài đường, bỗng thấy ở góc đường có hai gã hành khất, vai đeo năm cái túi vải, thì động lòng, lại bên cửa sổ, vẫy tay gọi:

– Hai vị anh hùng Cái Bang, xin hãy lên lầu đây, bần đạo có một lời, phiền hai vị bẩm lại với bang chủ quí bang.

Lý Mạc Sầu biết rằng nếu tự dưng gọi họ lên, họ vị tất chịu lên lầu, còn nếu bảo có lời cần bẩm lại với bang chủ, thì đệ tử Cái Bang không thể từ chối.

Lục Vô Song nghe sư phụ gọi đệ tử Cái Bang tới, hẳn để tra hỏi về sách "Ngũ độc bí truyền", thì bất giác tái mặt. Gia Luật Tề biết Cái Bang ở phương Bắc thế lực cực mạnh, vị đạo cô xinh đẹp kia bảo có lời cần bẩm lại với bang chủ Cái Bang, không hiểu lai lịch của đạo cô ra sao, tính hiếu kỳ nổi lên, liền dừng uống, nghiêng đầu lắng nghe.

Phút chốc có tiếng chân ở cầu thang, rồi hai gã hóa tử bước lên lầu, hành lễ với Lý Mạc Sầu, nói:

– Tiên cô có gì sai bảo, chúng tiểu nhân xin vâng mệnh.

Hai gã hóa tử hành lễ xong đứng thẳng dậy, một gã nhìn thấy Lục Vô Song đứng bên cạnh thì mặt biến sắc, nguyên gã từng ngăn chặn nàng ở dọc đường, bèn kéo gã kia chạy ra cầu thang. Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Hai vị hãy nhìn mu bàn tay coi thử.

Hai gã hóa tử cùng đưa mắt nhìn mu bàn tay, thấy mỗi mu bàn tay của mình đều có ba vết ngón tay màu đỏ, thật không thể hiểu nổi thủ pháp mau lẹ tới mức nào của đạo cô, vì họ đã bị trúng "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Sầu mà không hề hay biết; ngay cả Dương Quá và Gia Luật Tề cũng nhìn không rõ.

Hai gã hóa tử cả kinh, cùng kêu lên:

– Đạo cô là.. là Xích Luyện Tiên Tử ư?

Lý Mạc Sầu dịu dàng nói:

– Hãy đi nói với bang chủ các vị rằng Cái Bang và Lý Mạc Sầu ta bao lâu nay đôi bên không xâm phạm lẫn nhau, bần đạo luôn luôn ngưỡng mộ quí bang chủ anh hùng, chỉ là chưa có duyên kiến diện, rất lấy làm tiếc.

Hai gã hóa tử nhìn nhau, nghĩ thầm: "Mi nói năng dễ nghe thế, tại sao bỗng dưng vô cớ lại hạ độc thủ?" Lý Mạc Sầu ngừng một lát, nói tiếp:

– Hai vị bị trúng "Ngũ độc thần chưởng" cũng đừng lo, chỉ cần đem trả lại quyển sách đã chiếm đoạt, bần đạo tất sẽ chữa trị cho hai vị.

Một gã hóa tử hỏi:

– Sách gì kia chứ?

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Một quyển sách cũ, kể ra cũng chẳng đáng gì, nếu quí bang không trả lại, cũng chẳng sao. Nhưng bần đạo sẽ lấy mạng một ngàn gã khiếu hóa tử đó.

Mu bàn tay của hai gã hóa tử chưa thấy biến chuyển gì lạ, nhưng nghe mỗi câu của Lý Mạc Sầu, họ lại nhìn mu bàn tay một lần; từ lâu họ đã nghe "Xích Luyện Thần chưởng" cực kỳ âm độc, bị trúng chưởng, khi chết sẽ đau và ngứa ghê gớm; bây giờ họ có cảm tưởng hình như ba vết ngón tay màu đỏ ở mu bàn tay đang lan rộng dần, thấy Lý Mạc Sầu nói thế, nghĩ bụng chỉ có mau về bẩm báo với trưởng lão bản lộ để đối phó, bèn đưa mắt cho nhau, cùng chạy xuống lầu.

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: "Bang chủ các người muốn giữ mạng sống cho hai ngươi, ắt phải đem sách" Ngũ độc bí truyền "trả lại ta.. Ồ, không được, nếu y sao một bản giữ lại, rồi trả bản gốc cho ta, thì tính sao?" Lại nghĩ bụng: "Các cách cứu chữa độc tính của ám khí và Thần chưởng của ta, đều có chép rành rành trong sách; bọn họ đã có quyển sách ấy, thì còn cần gì đến ta nữa?" Nghĩ vậy, sắc diện thay đổi hẳn, nàng phi thân chặn đầu hai gã hóa tử ở giữa cầu thang, hất họ bay ngược lên lầu. Chỉ thấy bóng áo vàng vút lên, Lý Mạc Sầu đã trở lại tầng lầu, túm lấy cánh tay một gã hóa tử, "rắc" một cái, đã bẻ gãy xương cánh tay người đó. Gã hóa tử thứ hai cả kinh, nhưng rất có nghĩa khí, không bỏ chạy mà đứng che chắn cho người bạn bị thương, tung quyền đấm thẳng vào mặt Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu chộp cổ tay y, lại tiện tay bẻ gãy luôn xương cánh tay của y.

Hai gã hóa tử chỉ trong một chiêu đã bị trọng thương, biết là hôm nay đã gặp bất hạnh, bèn tựa lưng vào nhau, mỗi người sử dụng cánh tay chưa bị gãy của mình mà liều chết với Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu nhẹ nhàng nói:

– Hai vị hãy ở lại đây, đợi bang chủ mang sách tới chuộc về.

Hai gã hóa tử thấy Lý Mạc Sầu trở lại bàn uống rượu, xoay lưng về phía họ, bèn nhích dần từng bước về phía cầu thang, để thừa cơ bỏ chạy. Lý Mạc Sầu quay lại, cười, nói:

– Xem chừng phải bẻ gãy cả chân của hai vị mới chịu yên tâm ngồi lại.

Nói rồi đứng dậy.

Hồng Lăng Ba không nỡ, nói:

– Sư phụ, đệ tử canh giữ không cho họ chạy đi là được rồi.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Hừ, ngươi tốt bụng không phải chỗ.

Rồi chậm rãi tiến lại chỗ hai gã hóa tử. Hai gã hóa tử vừa phẫn nộ, vừa hoảng sợ.

Huynh muội Gia Luật Tề quan sát từ đầu, lúc này đã không nhịn nổi nữa, cùng đứng bật dậy. Gia Luật Tề nói nhỏ với Gia Luật Yến:

– Tam muội đi mau đi, nữ nhân kia lợi hại lắm đó.

Gia Luật Yến nói:

– Còn nhị ca?

Gia Luật Tề đáp:

– Ta cứu hai người kia, rồi sẽ chạy sau.

Gia Luật Yến biết nhị ca đã là một cao thủ ít ai địch nổi, thế mà nhị ca lại bảo cũng sẽ bỏ chạy, thì nàng không tin.

Lúc ấy Dương Quá vỗ bàn một cái, đến trước mặt Gia Luật Tề, nói:

– Gia Luật huynh, huynh và đệ cùng xuất thủ cứu người được chứ?

Dương Quá nghĩ rằng muốn cứu Lục Vô Song, thì sớm muộn gì cũng phải động thủ với Lý Mạc Sầu, mấy khi gặp được một hảo thủ trượng nghĩa cứu người như Gia Luật Tề, mà không kéo chàng ta vào cuộc, thì còn đợi lúc nào?

Gia Luật Tề thấy Dương Quá mặc bộ quân trang Mông Cổ, tướng mạo thập phần xấu xí, bình sinh chưa gặp người này, nghĩ thầm Dương Quá đã đi cùng với Hoàn Nhan Bình, tất biết mình là ai, nhưng Lý Mạc Sầu giỏi võ như thế, chàng khó bề thủ thắng, để một người bình thường xuất thủ, chỉ uổng mạng mà thôi, cho nên chàng còn lưỡng lự.

Lý Mạc Sầu nghe Dương Quá nói, thì nhìn chàng từ đầu xuống chân, cảm thấy giọng nói rất quen thuộc, nhưng tướng mạo một người thế này đã gặp sẽ chẳng thể quên, bèn nghĩ rằng chàng là một kẻ không quen biết.

Dương Quá nói:

– Ta không có binh khí, cần mượn một thứ.

Đoạn chàng vọt qua bên cạnh Hồng Lăng Ba, thuận tay tháo luôn cái bao kiếm nàng đeo bên hông, thơm một cái vào má nàng, nói:

– Thơm quá!

Hồng Lăng Ba đánh một chưởng, chàng đã cúi đầu trườn qua, đứng chắn giữa Lý Mạc Sầu và hai gã hóa tử. Thân pháp như thế, phải nói là mau lẹ dị thường, nhờ công phu thượng thừa mà chàng đã luyện ở trong nhà mồ với việc rượt bắt chim sẻ. Lý Mạc Sầu thầm kinh ngạc. Gia Luật Tề thì cả mừng, hỏi:

– Thỉnh vấn quý tính đại danh của huynh đài?

Dương Quá nói:

– Tiểu đệ họ Dương.

Chàng giơ cái bao kiếm lên, nói:

– Ta đoán rằng thanh kiếm bên trong đã gãy.

Chàng rút kiếm ra khỏi bao, quả nhiên là một thanh kiếm gãy. Hồng Lăng Ba đột nhiên tỉnh ngộ, kêu lên:

– Hảo tiểu tử, sư phụ, là hắn đó.

Dương Quá lột cái mặt nạ ra, nói:

– Sư bá, sư tỷ, Dương Quá tham kiến.

Gia Luật Tề nghe Dương Quá gọi "Sư bá, sư tỷ" thì chẳng còn hiểu ra sao, Lục Vô Song thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng: "Sao Đồ ngốc lại gọi Sư bá, sư tỷ?", Lý Mạc Sầu thì cười nhạt, nói:

– Hừ, sư phụ của ngươi khỏe chứ?

Dương Quá lập tức nao lòng, nước mắt lưng tròng. Lý Mạc Sầu lạnh lùng nói:

– Sư phụ của ngươi quả dạy được một đệ tử giỏi giang.

Hôm trước Dương Quá đã dùng quái chiêu hóa giải được tuyệt kỹ bình sinh "Tam vô tam bất thủ" của nàng ta; cuối cùng dùng răng cắn, đoạt được cây phất trần của nàng ta; võ công quái dị khôn lường. Tuy rốt cuộc Lý Mạc Sầu đoạt lại cây phất trần, biết võ công của Dương Quá còn thua xa mình, nhưng sau đó nhớ lại vẫn không khỏi kinh ngạc: "Tên tiểu tử tiến nhanh như thế, thì sư muội chắc còn lợi hại hơn nữa. Võ công trong" Ngọc nữ tâm kinh "ghê gớm thật. May mà hôm trước sư muội không liên thủ với hắn, không thì.. không thì.." Lúc này lại thấy chàng xuất hiện, Lý Mạc Sầu cảm thấy lo ngại, bất giác đưa mắt nhìn bốn phía, xem Tiểu Long Nữ có tới hay không.

Dương Quá đoán biết tâm ý nàng ta, cười hi hi, nói:

– Sư phụ của đệ tử hỏi thăm sức khỏe của sư bá đấy.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Nàng ta đâu? Hai ta đã lâu chưa gặp nhau.

Dương Quá nói:

– Sư phụ ở cũng gần thôi, lát nữa sẽ tới gặp.

Chàng biết mình hoàn toàn không phải là đối thủ của Lý Mạc Sầu, dù có thêm Gia Luật Tề, cũng khó thủ thắng, bèn bày kế "Bỏ ngỏ cổng thành", đem sư phụ ra dọa Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nói:

– Ta quản giáo đệ tử của ta, can hệ gì đến sư phụ của ngươi?

Dương Quá cười, nói:

– Sư phụ của đệ tử xin sư bá một việc, xin sư bá hãy tha cho Lục sư muội.

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Ngươi loạn luân phạm thượng, dan díu ăn nằm với sư phụ của ngươi, trước mặt mọi người còn một điều sư phụ, hai điều sư phụ, không biết xấu hổ ư?

Dương Quá nghe Lý Mạc Sầu mở miệng làm nhục sư phụ, thì máu nóng bốc lên bừng bừng, dùng bao kiếm làm kiếm, đâm thật mạnh. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Ngươi làm trò xấu, lại sợ người ta biết chuyện chứ gì?

Dương Quá dùng bao kiếm tấn công dồn dập, chính là môn võ công khắc chế "Ngọc nữ kiếm pháp" của Lâm Triệu Anh mà Vương Trùng Dương khắc họa trên trần thạch thất. Lý Mạc Sầu không dám chậm trễ, vội vung cây phất trần chăm chú tiếp chiến.

Chiêu số cây phất trần của Lý Mạc Sầu đều xuất phát từ "Ngọc nữ kiếm pháp" mà ra, chỉ sau vài chiêu, Lý Mạc Sầu đã thấy kiếm pháp của Dương Quá tinh kỳ, mỗi chiêu thức của nàng đều bị chàng tiên liệu, ngăn chặn được cả, nếu không nhờ công lực thâm hậu, thì nàng đã bị núng thế. Nàng thầm oán hắn: "Sư phụ thiên vị, chỉ truyền thụ pho kiếm pháp đó cho một mình sư muội; ôi, chắc là để sư muội kiềm chế ta. Kiếm pháp này tuy lạ, nhưng ta đâu có sợ". Nàng lập tức biến chiêu, đột nhiên phi thân nhảy lên bàn, chân phải đá chếch, chân trái đứng ngay mép bàn, thân hình chao động trước sau, phiêu dật như lá sen trên mặt hồ lộng gió. Nàng cười hi hi, hỏi:

– Nhân tình của ngươi có dạy ngươi thứ này chưa? Xem chừng chính nàng ta cũng chưa biết đâu!

Dương Quá ngẩn ra, hỏi:

– Nhân tình là cái gì?

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội ta từng thề độc, nếu không có nam tử cam nguyện chết thay nàng, thì nàng sẽ suốt đời sống trong nhà mồ, quyết không xuống núi. Nay nàng đã cùng ngươi xuống núi, hai người không phải phu thê, thì là nhân tình nhân ngãi, chứ còn gì nữa?

Dương Quá cả giận, không thèm nói, vung bao kiếm, cũng nhảy lên mặt bàn. Có điều là khinh công của chàng không bằng đối phương, không dám đứng cheo leo ở mép bàn, hai chân đạp vỡ mấy chén đĩa thức ăn mới đứng vững, lia cái bao kiếm phạt ngang thật mạnh. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần gạt bao kiếm ra, cười, nói:

– Khinh công của ngươi không tồi! Nhân tình của ngươi đối với ngươi quả nhiên tử tế, có tình có nghĩa.

Dương Quá giận không để đâu cho hết, quát:

– Họ Lý kia, mụ có còn là người hay không hả?

Lại dùng bao kiếm đâm lia lịa. Lý Mạc Sầu thản nhiên nói:

– Mọi việc xấu xa, cuối cùng lộ ra. Phái Cổ Mộ ta có hai kẻ bại hoại như nàng ta và ngươi, thật là mất hết thể diện.

Lý Mạc Sầu vừa giao đấu vừa luôn miệng trào phúng, bởi lẽ nàng ta lo sợ Tiểu Long Nữ đang ở gần đâu đây, nếu nhảy ra động thủ, nàng ta sẽ khó lòng địch nổi, nên phải dùng lời lẽ nhiếc móc tệ hại, để Tiểu Long Nữ xấu hổ, không dám hiện thân.

Dương Quá nghe nàng ta càng nói càng tệ hại; nếu nàng ta chửi bới chàng, thì cũng chẳng sao, đằng này nàng ta lại vũ nhục Tiểu Long Nữ như thế, trong cơn cuồng nộ, tay chân run run, đầu óc bỗng mụ đi, chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, tức thì đứng không vững, rú lên một tiếng, ngã từ trên bàn xuống. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần lên, quất thẳng xuống thiên linh cái của chàng.

Gia Luật Tề thấy tình thế nguy cấp, vội chộp hai ly rượu trên bàn, ném tới sau lưng Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nghe tiếng tiếng gió do ám khí phát ra, liếc ngang thấy ly rượu, lập tức hít hơi phong bế huyệt đạo sau lưng, định hãy cứ đập chết Dương Quá trước đã, rồi tính sau, nghĩ thầm chỉ hai ly rượu nhỏ thì chẳng có gì đáng ngại. Nào ngờ ly chưa đến, rượu đã văng đến trước, chỉ cảm thấy hai huyệt Chí Dương và Trung Khu bị rượu bắn vào tê tê thầm kêu: "Nguy quá, sự muội đến rồi! Chút rượu đã thế, chiếc ly sẽ thế nào?" Vội chuyển cây phất trần lại, kịp thời hất được hai chiếc ly đi, thấy cánh tay bị chấn động, càng lo thêm: "Sư muội đã luyện được khí lực mạnh mẽ vậy ư?" Đợi khi quay mình lại, Lý Mạc Sầu thấy người ném ly không phải Tiểu Long Nữ, mà là một thiếu niên cao cao, trang phục theo lối quân quan Mông Cổ, thì kinh ngạc, nghĩ thầm: "Trong đám hậu sinh thật có nhiều hảo thủ!" Thấy thiếu niên kia rút kiếm, giọng sang sảng, nói:

– Tiên cô hạ thủ quá ư tàn bạo, tại hạ muốn lĩnh giáo vài chiêu.

Lý Mạc Sầu thấy chàng thong thả lại gần, cước bộ ngưng trọng, tuổi chỉ độ hai mươi, nhưng sức ném ly rượu vừa rồi cùng tư thức rút kiếm, bước chân tựa hồ đã có công lực tu luyện hai chục năm, bèn chăm chú quan sát, cười hỏi:

– Các hạ là ai? Tôn sư là vị nào?

Gia Luật Tề cúi mình nói:

– Tại hạ Gia Luật Tề, là môn hạ của phái Toàn Chân.

Lúc này Dương Quá đã tránh sang một bên, nghe Gia Luật Tề bảo là môn hạ phái Toàn Chân, thì nghĩ thầm: "Y quả nhiên là người của phái Toàn Chân, không lẽ là đệ tử của Lưu Xứ Huyền? Xem chừng Hách Đại Thông chẳng có nổi một hảo thủ như y".

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Tôn sư là Mã Ngọc, hay là Khưu Xứ Cơ?

Gia Luật Tề nói:

– Không phải.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Là vị nào trong ba vị Lưu, Vương, Hách?

Gia Luật Tề nói:

– Đều không phải.

Lý Mạc Sầu cười ha hả, chỉ Dương Quá, nói:

– Tên kia tự xưng là đệ tử của Vương Trùng Dương, vậy các hạ và hắn là sư huynh sư đệ chăng?

Gia Luật Tề ngạc nhiên nói:

– Sao thế được? Trùng Dương Chân Nhân tạ thế đã lâu, vị huynh đài này làm sao có thể là đệ tử của người được chứ?

Lý Mạc Sầu cau mày nói:

– Hừ, môn hạ phái Toàn Chân toàn là những tên tiểu tử nói khoác không ngượng mồm, giáo phái Toàn Chân nên sớm đổi tên thành phái "Toàn Giả" thì mới đúng. Tiếp chiêu!

Cây phất trần phất nhẹ, đánh xuống giữa đầu Gia Luật Tề. Gia Luật Tề tay trái giữ kiếm quyết, chân phải bước ra, sử chiêu "Định dương châm" đâm xéo lên, chính là kiếm pháp chính tông phái Toàn Chân. Một chiêu này thần hoàn khí túc, kình, công, thức, lực, hết thảy đều chuẩn xác, trông bình thường không có gì lạ, nhưng để luyện được tới mức chuẩn xác lạ lùng như thế, có người tốn công luyện cả đời cũng không được. Dương Quá trong "Hoạt tử nhân mộ" cũng từng học kiếm pháp phái Toàn Chân, dĩ nhiên biết những chỗ kỳ diệu của kiếm pháp đó, có điều là võ học của chàng pha tạp, chiêu "Định dương châm" này chàng không tài gì có thể sử một cách đoan ngưng hậu trọng như thế.

Lý Mạc Sầu thấy Gia Luật Tề sử chiêu đó, biết ngay là gặp kình địch, bèn bước chếch chân, vung cây phất trần ra phía sau. Gia Luật Tề chỉ thấy chùm sợi phất trần vùn vụt lúc bên phải khi bên trái, ập đến từ bốn phương tám hướng; chàng rất ít kinh nghiệm lâm trận, lần này gặp luôn cường địch, không dám lơ là, dốc toàn lực ứng phó. Thoáng chốc đôi bên đã trao đổi hơn bốn mươi chiêu, Lý Mạc Sầu càng đánh càng xích lại gần, Gia Luật Tề thu hẹp dần vòng kiếm, ngưng thần chống đỡ, thấy mình thua đã rõ; song Lý Mạc Sầu muốn thắng ngay thì cũng chưa thể. Lý Mạc Sầu thầm khen: "Tên tiểu tử này quả nhiên có võ công thuần chất của phái Toàn Chân, tuy chưa bằng ba vị Khưu, Vương, Lưu, song cũng chẳng thua Tôn Bất Nhị. Môn hạ phái Toàn Chân đúng là không thiếu nhân tài trẻ tuổi".

Lại đấu thêm mấy chiêu, Lý Mạc Sầu vờ để lộ một chỗ sơ hở, Gia Luật Tề không biết mưu kế của đối phương, giơ kiếm đâm thẳng, Lý Mạc Sầu đột nhiên tung chân trái đá trúng cổ tay chàng, Gia Luật Tề tê dại cả một cánh tay, thanh kiếm văng khỏi tay; chàng tuy bại song không loạn, tay trái chém chéo, tay phải sử dụng phép cầm nã đoạt lấy cây phất trần của đối phương. Lý Mạc Sầu cười, khen:

– Công phu khá lắm!

Trong vòng vài chiêu, thấy phép cầm nã của Gia Luật Tề chứa đựng nhu kình vô tận, là điều mà Lưu Xứ Huyền và Tôn Bất Nhị không thể có được, thì nàng càng thầm kinh dị.

Dương Quá ngoạc mồm chửi:

– Tặc tiện nhân kia, đời này kiếp này ta không thèm gọi mụ là sư bá nữa.

Rồi dùng bao kiếm sấn tới giáp công. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần cuốn lấy thanh trường kiếm đã rời khỏi tay của Gia Luật Tề mà hất tới mặt Dương Quá, cười nói:

– Ngươi làm nhân tình của sư phụ, thì cứ gọi ta là sư tỷ cũng được.

Dương Quá nhìn thế bay đến của thanh kiếm, chìa bao kiếm ra đón. Lục Vô Song, Hoàn Nhan Bình cùng kêu lên thảng thốt, chỉ nghe "phập" một tiếng rất ngọt, thanh kiếm cắm gọn trong bao. Việc giơ bao kiếm đón kiếm phải cực kỳ chuẩn xác, chỉ cần chệch đi một li thôi, với sức quăng của Lý Mạc Sầu, thanh kiếm sẽ xuyên qua ngực chàng như chơi. May mà trong nhà mồ chàng đã chuyên cần rèn luyện cách sử dụng ám khí, thời khắc đón bắt, lực đạo nặng nhẹ, phương vị chuẩn đầu, đều đã luyện đến mức không sai một li, ám khí "Ngọc phong châm" nhỏ li ti như sợi tóc mà chỉ vung tay là trúng, nói chi đón lấy một thanh trường kiếm. Chàng đón kiếm xong, liền rút kiếm khỏi bao, liên thủ với Gia Luật Tề mà giao đấu với Lý Mạc Sầu.

Trên tầng lầu lúc này bàn nghiêng ghế đổ, bát vỡ đũa văng, các tửu khách đã bỏ đi từ sớm, Hồng Lăng Ba từ ngày theo sư phụ đến nay, chưa một lần thấy sư phụ ở thế hạ phong trong giao chiến, trong khu nhà mồ bị thua Tiểu Long Nữ, chỉ là vì không biết bơi lặn; cây phất trần tuy từng bị Dương Quá đoạt mất, song chỉ trong giây lát đã lấy lại được; còn buộc Dương Quá phải bỏ chạy. Bây giờ Hồng Lăng Ba tuy thấy sư phụ bị hai chàng thiếu niên giáp công, song trong lòng không chút lo lắng, chỉ đứng ngoài quan chiến. Ba người giao đấu say sưa, Lý Mạc Sầu lại biến chiêu, cây phất trần phát ra một đạo kình phong, khiến Gia Luật Tề và Dương Quá không thể đứng vững, rơi vào hiểm chiêu.

Gia Luật Yến và Hoàn Nhan Bình thốt lên:

– Nguy mất!

Hai nàng cùng xông lên trợ chiến. Chỉ sau ba chiêu, Gia Luật Yến đã bị cây phất trần đánh trúng bắp chân trái, lảo đảo đụng lưng vào mép một cái bàn mới khỏi ngã. Gia Luật Tề thấy muội tử thụ thương, tâm thần hơi rối loạn, bị Lý Mạc Sầu công kích mạnh, đành liên tiếp thoái lui.

Thanh y thiếu nữ thấy tình thế nguy ngập, chạy tới đỡ Gia Luật Yến lùi về. Lý Mạc Sầu trong lúc giao đấu mắt vẫn nhìn bốn phía, tai vẫn nghe tám phương, thấy thanh y thiếu nữ thân pháp khinh linh, hiển nhiên là danh gia đệ tử, bèn quất ngọn cây phất trần tới mặt nàng, hỏi:

– Cô nương họ gì? Sư tôn là vị nào?

Hai người cách nhau hơn một trượng, nhưng cây phất trần nói đến là đến, sợi phất trần đã vụt tới trước mặt; thanh y thiếu nữ sợ hãi, tay phải hất vội, từ trong ống tay áo phóng ra một thứ binh khí đánh bật cây phất trần sang một bên. Lý Mạc Sầu thấy món binh khí kia rất cổ quái, dài chừng ba thước, trông từa tựa một cây sáo, lấp lánh phát quang, thì tự hỏi: "Là thứ binh khí của nhà nào phái nào không biết?" Bèn công kích dồn dập để buộc thiếu nữ thể hiện hết sở trường. Thiếu nữ không địch nổi, Dương Quá và Gia Luật Tề vội tiếp cứu; song quả thật khó bề đối phó với lối đánh cực kỳ linh hoạt, đông một chiêu, tây một chưởng, dồn dập ác hiểm. Dương Quá nghĩ thầm: "Chỉ cần huynh muội bên mình sơ suất một chút, thì khó giữ được mạng sống".

Chàng gọi to:

– Hảo tức phụ nhi, hảo muội tử, hảo thanh y tỷ tỷ, hảo Gia Luật sư muội, tất cả hãy mau mau xuống lầu, tản nhanh đi nào! Mụ tặc bà nương kia độc ác lắm đó!

Bốn thiếu nữ nghe chàng gọi ầm ĩ, loạn cả lên, người nào cũng gắn với chữ "hảo" thì bất giác cùng chau mày, thấy tình thế quả là hết sức nguy ngập. Lục Vô Song xuống lầu trước, thanh y thiếu nữ dìu Gia Luật Yến theo sau.

Hai gã hóa tử thấy mấy thiếu niên anh hiệp vì mình mà đánh nhau dữ dội với Lý Mạc Sau, rất muốn xông vào trợ chiến, khổ nỗi cánh tay đã bị bẻ gãy, không thể động thủ. Hai người cũng đầy nghĩa khí, tuy Lý Mạc Sầu không còn thời gian để ý đến họ, song họ vẫn đứng tại chỗ, không chịu bỏ chạy trước mấy người trẻ tuổi.

Dương Quá cùng Gia Luật Tề kề vai nhau chống đỡ chiêu thuật càng lúc càng lợi hại của Lý Mạc Sầu.

Hoàn Nhan Bình cũng đã xuống lầu. Dương Quá nói:

– Gia Luật huynh, ở đây khó thi triển thủ cước, chúng ta xuống lầu mà đánh.

Chàng nghĩ xuống chỗ đông người, có thể thừa cơ bỏ chạy. Gia Luật Tề nói:

– Được!

Hai người kề vai nhau lùi dần từng bước xuống cầu thang. Lý Mạc Sầu lấn dần từng bước, tuy đắc thắng, nhưng trong lòng rất chán nản: "Ta bình sinh muốn giết ai thì giết, hôm nay lại bị hai tên tiểu tử ngăn chặn; nếu để cho con tiện nhân Lục Vô Song chạy thoát, thì còn gì là uy danh của Xích Luyện Tiên Tử kia chứ?" Nàng quyết ý phải bắt giữ Lục Vô Song, nên truy sát xuống lầu.

Mọi người cùng dốc toàn lực, đấu từ tửu lâu ra đến giữa đường, rồi từ đường lớn lùi dần ra vùng ngoại vi. Dương Quá vẫn luôn miệng gọi:

– Tức phụ nhi thân ái, hảo muội tử thân ái, hãy đi càng nhanh càng tốt; thanh y cô nương, Gia Luật sư muội, tất cả hãy đi mau mau; hai nam tử hán này không chết được đâu.

Gia Luật Tề chẳng nói một lời, chàng chỉ hơn Dương Quá hai tuổi, nhưng sắc diện uy nghiêm, trầm tĩnh hậu trọng; khác hẳn với Dương Quá bồng bột nôn nóng, hăng hái ồn ào. Hai chàng đoạn hậu chặn địch; Gia Iuật Tề lẳng lặng đương đầu với độc chiêu của địch; Dương Quá thì vọt trước nhảy sau, làm rối loạn tâm thần đối phương.

Lý Mạc Sầu thấy Tiểu Long Nữ thủy chung không xuất hiện, thì càng yên tâm hơn, thi triển toàn lực. Dương Quá và Gia Luật Tề rốt cuộc công lực thua nàng ta quá xa, cả hai chàng đều đã đỏ gay cả mặt, tim đập dồn, thở hổn hển. Lý Mạc Sầu thấy vậy cả mừng, nghĩ thầm: "Không đầy nửa canh giờ nữa, ta sẽ lấy mạng hai gã tiểu quỉ này".

Đang giao đấu kịch liệt, bỗng nghe trên không trung vang lên mấy tiếng chim kêu rất to, rồi hai con chim điêu lớn lao thẳng xuống đầu Lý Mạc Sầu, bốn cánh chim quạt gió, tung bụi cát từ dưới đất lên mù mịt, thanh thế kinh người. Dương Quá nhận ra đó là đôi chim điêu do vợ chồng Quách Tĩnh nuôi dưỡng, hồi nhỏ ở Đào Hoa đảo, chàng từng chơi đùa với đôi chim điêu này; nghĩ bụng đôi chim điêu đã tới, thì vợ chồng Quách Tĩnh cũng đang ở gần đâu đây; chàng đã tự rời bỏ cung Trùng Dương mà đi, thì không nên gặp lại Quách Tĩnh, vội nhảy lùi mấy bước, lấy chiếc mặt nạ đeo lên.

Đôi chim điêu nhào xuống vút lên, lúc bên phải khi bên trái, không ngừng lao tới mổ vào người Lý Mạc Sầu. Thì ra đôi chim điêu này nhớ rất dai, dăm năm trước chúng từng bị thương khổ sở vì trúng "Băng phách ngân châm" của Lý Mạc Sầu, chúng vẫn để bụng, hôm nay từ trên trời cao nhìn xuống, nhận ra kẻ thù, chúng liền sà xuống tấn công, nhưng vẫn sợ ngân châm lợi hại, nên mỗi khi thấy nàng ta vung tay, đôi chim điêu lại vội bay vút lên.

Gia Luật Tề thấy đôi chim điêu khó bề đánh thắng, bèn gọi Dương Quá:

– Dương huynh, chúng ta lại tiếp chiến đi, bốn phía giáp công, xem người kia đối phó sao đây?

Chàng đang định xông vào, thì từ phía đông nam bỗng vang lên tiếng vó ngựa, rồi một người cưỡi ngựa phi tới.

Ngựa phóng nhanh vô tỉ, tai vừa nghe tiếng vó ngựa, thì một con ngựa đã vọt tới trước mắt. Con ngựa thân dài, chân cao, toàn thân một màu lông hồng, thần tuấn phi phàm. Lý Mạc Sầu và Gia Luật Tề đều kinh ngạc: "Giống ngựa gì mà phóng nhanh đến thế?" Cưỡi trên lưng ngựa là một hồng y thiếu nữ, cả người lẫn ngựa đều giống như một khối lửa đỏ ào tới, chỉ có khuôn mặt trắng như tuyết của thiếu nữ là không phải màu đỏ mà thôi. Dương Quá thấy đôi chim điêu và con ngựa hồng, thì đã đoán ngay đó là Quách Phù, con gái của vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Chỉ thấy thiếu nữ gò cương, con ngựa hồng dừng ngay lại. Con ngựa này đang phi như bay, bảo dừng là dừng, không chút khó khăn, thần định khí nhàn. Gia Luật Tề từ nhỏ sống ở Mông Cổ, từng gặp không biết bao nhiêu con tuấn mã, nhưng tinh anh như con ngựa này thì chưa từng, bất giác càng thêm kinh ngạc. Chàng không biết rằng con ngựa này là con ngựa quí mà Quách Tĩnh có được hồi ở sa mạc Mông Cổ, bấy giờ còn nhỏ, nay đã thành ngựa già, nhưng thần vật cuối cùng vẫn khác ngựa thường, về già mà gân cốt vẫn cường tráng, cước lực vẫn hùng kiện gần như thời trẻ.

Dương Quá và Quách Phù nhiều năm không gặp, hồi trước chỉ nhớ nàng là một cô bé kiêu ngạo đáo để, không ngờ bây giờ đã thành một thiếu nữ vô cùng xinh tươi. Sau một phen phi ngựa gấp gáp, trán nàng lấm tấm mồ hôi, đôi má ửng hồng, càng tăng vẻ kiều diễm.

Nàng nhìn đôi chim điêu giây lát, rồi nhìn bọn Gia Luật Tề, khi ánh mắt nàng nhìn tới Dương Quá, thấy chàng mặc quân phục Mông Cổ, mặt mũi xấu xí do mang mặt nạ, thì nàng hơi cau mày, có vẻ khó chịu. Dương Quá từ nhỏ vốn không ưa Quách Phù, lần này trùng phùng, thấy nàng vẫn ghét mình, thì càng tự ti và đau buồn, nghĩ thầm: "Nàng coi khinh ta, đâu phải lỗi tại ta? Phụ thân nàng là đại hiệp thời nay, mẫu thân nàng là bang chủ Cái Bang, ông ngoại của nàng là bậc đại tông sư võ học, hết thảy những người am hiểu võ học trong thiên hạ, không ai không kính nể Quách gia nhà nàng. Còn phụ mẫu của ta thì sao? Mẹ ta chỉ là một thôn nữ; cha ta chẳng biết là ai, lại chết một cách không minh bạch.. Hừ, dĩ nhiên ta không thể so với nàng. Số mạng ta đen đủi, luôn bị người vũ nhục. Nàng có vũ nhục ta, thì cũng thế thôi". Chàng đứng một bên buồn bã, cảm thấy trên thế gian không một ai coi trọng chàng, sống trên đời thật là vô vị. Chỉ một mình sư phụ Tiểu Long Nữ đối với chàng chân tình, nhưng bây giờ không biết đã đi phương nào? Không biết kiếp này chàng còn được gặp lại sư phụ nữa chăng?

Trong lòng đang chán ngán, nghe có tiếng vó ngựa, lại thêm hai người nữa phi ngựa tới, hai con ngựa kia, một xanh một vàng, cũng đều thuộc loại tuấn mã, song chẳng thể so với con ngựa hồng của Quách Phù.

Hai người cưỡi ngựa là thiếu niên, đều mặc áo vàng. Quách Phù gọi:

– Võ gia ca ca, lại gặp mụ ác nữ rồi.

Hai thiếu niên cưỡi ngựa chính là huynh đệ Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn. Nhìn thấy Lý Mạc Sầu, mụ ta là đại cừu nhân sát hại cha mẹ họ, mấy năm nay họ đêm ngày không quên, ai dè giờ lại gặp đây, họ liền xuống ngựa, rút trường kiếm, từ hai bên tả hữu đánh tới. Quách Phù nói:

– Muội cũng tham chiến.

Nói rồi lấy thanh bảo kiếm gài bên yên, xuống ngựa lại gần trợ chiến.

Lý Mạc Sầu thấy bên địch càng đánh càng đông, toàn một bọn thiếu niên nam nữ, hai gã thiếu niên vừa tới chưa chi đã hùng hổ xông vào đánh chí chết, kiếm pháp thuần chính, hiển nhiên cũng là danh gia đệ tử; rồi lại thêm hồng y thiếu nữ, vừa xuất thủ mũi kiếm đã rung rung, phát quang loang loáng, đâm chéo tới, ngầm giấu chiêu số cực kỳ lợi hại sau đó, công lực tuy nông cạn, nhưng kiếm pháp vô cùng ảo diệu, thì giật mình, hỏi:

– Cô nương là con gái Quách gia ở Đào Hoa đảo phải không?

Quách Phù cười, nói:

– Mụ cũng nhận ra bổn cô nương.

Rồi đâm liền hai kiếm, nhắm vào chỗ yếu hại ở giữa ngực. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần gạt kiếm, nghĩ thầm: "Tiểu nữ hài nhi kiêu căng quá đấy, bản lĩnh như ngươi mà đòi vô lễ với ta, nếu ta không ngán ngại cha mẹ ngươi, thì mười đứa ngươi ta cũng đập chết". Lý Mạc Sầu thu cây phất trần về, định đoạt thanh kiếm của Quách Phù, đột nhiên mũi kiếm của huynh đệ họ Võ cùng chọc tới hai bên sườn. Huynh đệ họ Võ và Quách Phù đều được Quách Tĩnh thân chinh truyền thụ võ công; ba người sống một nhà ở Đào Hoa đảo, cùng luyện một loại kiếm pháp. Kiếm chiêu của họ phối hợp cực kỳ chặt chẽ, người thoái kẻ tiến, người trên kẻ dưới, tuy không phải là trận pháp, nhưng ba kiếm liên thủ với nhau quả rất lợi hại.

Ba người, một đôi chim điêu, liên hoàn tấn công, vây Lý Mạc Sầu vào giữa. Nếu chỉ có vậy, lâu dần thì Lý Mạc Sầu cũng sẽ thừa sức đả thương một người, sau đó lấy mạng hai người kia. Nhưng Lý Mạc Sầu thấy bên địch đông người, nếu tất cả cùng tiến đánh, nàng khó lòng chống đỡ; thứ nữa còn vợ chồng Quách Tĩnh gần đâu đây, họ mà xuất hiện thì nguy to, bèn cuộn cây phất trần lại, cười nói:

– Bọn nhãi ranh kia, hãy nhìn thủ pháp đuổi khỉ của Xích Luyện Tiên Tử này!

Vù vù vù đánh liền sáu chiêu, mỗi chiêu đều nhắm vào chỗ yếu hại, khiến Quách Phù và huynh đệ họ Võ luống cuống chân tay, cứ phải nhảy tránh như con choi choi, quả nhiên giống khỉ. Lý Mạc Sầu cười một tràng, xoay mình gọi:

– Lăng Ba, đi thôi!

Hai sư đồ liền chạy về hướng tây bắc.

Quách Phù nói:

– Mụ sợ chúng ta rồi, đuổi mau!

Nàng cầm kiếm lao tới đuổi theo. Huynh đệ họ Võ thi triển khinh công, bám sát phía sau. Lý Mạc Sầu phẩy phẩy cây phất trần về phía sau, phong thái thản nhiên, mũi chân hơi nhún, không hề tung bụi, lướt đi nhẹ nhàng. Hồng Lăng Ba thì phải vắt chân lên cổ mà chạy. Quách Phù và huynh đệ họ Võ đã dùng đủ sức, mà khoảng cách với hai sư đồ Lý Mạc Sầu mỗi lúc một xa; chỉ có đôi chim điêu là nhanh hơn Lý Mạc Sầu, chúng không ngừng sà xuống tấn công. Võ Đôn Nhu thấy cuộc báo thù hôm nay vô vọng, bèn huýt sáo miệng, gọi đôi chim điêu trở về.

Bọn Gia Luật Tề sợ ba người có gì sơ suất, chạy theo sau tiếp ứng, thấy bọn Quách Phù quay lại, bèn tới gần hành lễ làm quen. Cả bọn đều trẻ tuổi, chỉ sau dăm ba câu đã trở nên thân tình. Gia Luật Tề bỗng sực nhớ, hỏi:

– Dương huynh đâu nhỉ?

Hoàn Nhan Bình nói:

– Chàng bỏ đi một mình rồi. Muội hỏi chàng đi đâu, chàng cũng chẳng thèm trả lời.

Nói đoạn cúi đầu xuống.

Gia Luật Tề chạy lên đỉnh một cái gò, nhìn tứ phía, chỉ thấy thanh y thiếu nữ cùng Lục Vô Song sánh vai nhau mà đi, cũng đã khá xa; Dương Quá thì không thấy tăm hơi đâu cả. Gia Luật Tề có cảm giác như mất đi cái gì. Chàng gặp Dương Quá đây là lần đầu, liên thủ chống địch, chỉ trong một buổi mà mấy lần hai người tưởng nguy đến tính mạng, đôi bên đã trở nên thân thiết bởi chung kẻ thù, nay Dương Quá đột nhiên bỏ đi, không một lời từ biệt, thì cảm thấy như mất đi một bằng hữu lâu năm vậy.

Nguyên Dương Quá thấy huynh đệ họ Võ phóng ngựa đến, cùng với Quách Phù hợp lực đánh nhau với Lý Mạc Sầu, ba người ấy thần tình thân mật, kiếm pháp thi triển lại vô cùng tinh diệu, chỉ vài chiêu đã buộc Lý Mạc Sầu phải bỏ chạy. Chàng không biết đấy là Lý Mạc Sầu ngán ngại vợ chồng Quách Tĩnh mà bỏ đi, chàng cứ tưởng rằng kiếm chiêu của ba người ẩn chứa nội lực cực kỳ lợi hại, khiến Lý Mạc Sầu không thể chống đỡ.

Ngày Quách Tĩnh dẫn chàng lên núi Chung Nam học nghệ, Quách Tĩnh đã thi triển hùng uy, đánh bại vô số đạo sĩ phái Toàn Chân; võ công cao cường của Quách Tĩnh để lại ấn tượng quá sâu trong trí óc non nớt của chàng, thiết nghĩ đệ tử của Quách Tĩnh phải có võ công cao hơn chàng gấp mười lần. Với định kiến như vậy, nhìn một chiêu kiếm pháp tầm thường của ba người kia, chàng cũng ngỡ rằng nó ẩn chứa chiêu số diệu kỳ. Chàng càng nhìn càng phẫn uất, nhớ hồi nhỏ ở Đào Hoa đảo bị huynh đệ họ Võ hai phen đánh đập, Quách Phù đứng bên cạnh cứ xúi: "Đánh nữa đi! Đánh mạnh vào". Lại nhớ Hoàng Dung cố ý không dạy võ công cho chàng; Quách Tĩnh võ công cao cường như thế, cũng không chịu truyền thụ, lại dẫn chàng lên cung Trùng Dương, núi Chung Nam, để cho bọn đạo sĩ hành hạ, thì trong lòng chàng đầy một nỗi oán hận. Lại thấy bọn Hoàn Nhan Bình, Lục Vô Song, thanh y thiếu nữ, Gia Luật Yến đều nhìn chàng với ánh mắt khác lạ, nghĩ thầm: "Lý Mạc Sầu dùng lời lẽ nhơ nhuốc chửi cô cô của ta, bọn người kia đều tin. Bọn họ coi thường ta thì cứ việc, nhưng sao dám khinh bỉ cô cô của ta? Ta lúc này mặt mũi khó coi, là do ta giận huynh đệ họ Võ và Quách Phù, giận Quách bá phụ, Quách bá mẫu; các người lại tưởng rằng vì ta tằng tịu dan díu với cô cô của ta mà ta hổ thẹn ư?" Đột nhiên chàng chạy như phát cuồng, cũng không theo đường nào cả, cứ chạy loạn giữa cảnh hoang dã. Lúc này tâm thần của chàng bất thường, chỉ nghĩ mọi người trong thiên hạ đều gây khó dễ với chàng, lại quên rằng mình đang đeo mặt nạ, dẫu sắc mặt có khó coi hay ngượng ngùng chăng nữa, bọn Hoàn Nhan Bình kia làm sao thấy được? Không dưng vô cớ mấy người kia sao lại chê cười chàng? Lý Mạc Sầu nổi tiếng xấu xa chốn giang hồ, đang chống đối mọi người, ai lại đi tin lời của mụ ta?

Chàng vốn từ vùng tây bắc đi xuống hướng đông nam; bây giờ chàng rời bỏ mấy người kia càng lúc càng xa, rốt cuộc lại chạy về hướng tây bắc. Trong lòng rối loạn, căm ghét thế gian, chàng lột mặt nạ, cứ đi bừa giữa chốn hoang sơn dã lĩnh; đói bụng thì hái quả dại rau dại mà ăn. Càng đi càng xa, chưa đầy một tháng, hình dung tiều tụy, quần áo rách nát, đến một vùng núi cao. Chàng cũng không biết đây là Hoa Sơn, một trong Ngũ nhạc của thiên hạ. Chỉ thấy sơn thế hiểm trở, thì cứ leo lên đỉnh núi như một người điên.

Khinh công của chàng tuy cao, nhưng sự hiểm trở của Hoa Sơn thì cũng không đâu bằng. Leo tới lưng chừng núi, khí trời rất lạnh, mây vờn trên đầu, gió bấc mạnh dần, tiếp đó hoa tuyết rơi lả tả. Trong lòng phiền não, chàng tự hành hạ mình, chẳng tìm chỗ tránh tuyết, gió tuyết càng mạnh, chàng càng chọn chỗ vách núi cheo leo mà đi, đi đến gần tối, tuyết rơi từng nắm lớn, dưới chân trơn trượt, đường càng khó đi, chỉ cần bước hụt một cái, rất dễ lăn xuống vực sâu vạn trượng, tan xương nát thịt. Chàng cũng bất cần, coi tính mạng của mình như cỏ rác, cứ thế cắm đầu leo thẳng lên.

Lại đi một hồi, bỗng nghe sau lưng tiếng lạo xạo khe khẽ, tựa hồ có dã thú chạy trong tuyết; Dương Quá liền quay mình lại, thấy phía sau có một bóng người nhảy xuống sơn cốc.

Dương Quá cả kinh, vội chạy lại chỗ đó, nhòm xuống hẻm núi, thấy một người dùng ba ngón tay bám vào vách đá, thân người treo lơ lửng giữa không trung. Chỉ dùng ba ngón tay bám vào vách đá, giữ toàn thân treo lơ lửng, dưới kia là vực sâu vạn trượng, võ công cao siêu như thế thật ngoài sức tưởng tượng. Thế là chàng bèn cung kính hành lễ, nói:

– Lão tiền bối, thỉnh người lên đây!

Người kia cười ha ha, vang động cả sơn cốc, bật người lên mép vực, đột nhiên gằn giọng hỏi:

– Ngươi có phải là đồng đảng của "Tạng biên ngũ xú" hay không? Giữa lúc gió to tuyết dầy, nửa đêm khuya khoắt, lén lén lút lút làm gì ở chốn này?

Dương Quá tự dưng bị nhiếc móc, nghĩ thầm: "Đại phong đại tuyết, bán dạ tam canh, rốt cuộc mình lén lén lút lút làm gì ở đây vậy?" Động đến tâm sự, chàng đột nhiên khóc òa lên, nghĩ một đời bất hạnh, bị người khinh rẻ, người mà chàng kính yêu vô hạn là Tiểu Long Nữ thì lại vô lý trách cứ chàng, đoạn tuyệt bỏ đi, chắc kiếp này chẳng còn hi vọng gặp lại, thì khóc một cách đau đớn não nề, tưởng chừng muốn dốc cho vợi ngàn mối sầu oán tích kết trong lòng.

Người kia thoạt nghe chàng khóc, thì không khỏi ngẩn ra, càng nghe càng thấy tiếng khóc đau thương, thì lấy làm lạ, cuối cùng thấy chàng khóc mãi không dừng, thì đột nhiên cất tiếng cười vang; một khóc một cười, hai thứ tiếng đụng vào nhau trong sơn cốc, chấn động, làm cho từng tảng tuyết bám trên vách núi rơi xuống tới tấp.

Dương Quá thấy người kia cười, thì nín khóc, giận hỏi:

– Lão tiền bối cười gì vậy?

Người kia cười, hỏi:

– Ngươi khóc cái gì vậy?

Dương Quá định dùng lời lẽ nặng nề, nhưng nghĩ người kia võ công cao siêu khôn lường, đành nuốt giận, cung kính vái chào, nói:

– Tiểu nhân Dương Quá, tham kiến tiền bối.

Người kia dùng một cái que trúc gẩy khẽ vào cánh tay chàng một cái, Dương Quá cảm thấy bị một luồng lực đạo đẩy mạnh ra phía sau, thế đẩy khiến chàng không thể không ngã ngửa; nhưng chàng đã từng luyện "Cáp mô công", đầu ở dưới đất, chân chĩa lên trời, thế là chàng bèn lộn người một vòng, ngã rồi lại đứng ngay ngắn như cũ.

Việc xảy ra bất ngờ đối với cả hai người. Với võ công hiện tại của Dương Quá, người khác muốn xuất thủ một cái khiến chàng phải ngã lộn người đi một vòng, thì cao thủ như Lý Mạc Sầu, Khưu Xứ Cơ cũng chẳng thể làm nổi. Người kia thấy Dương Quá lộn một vòng lại đứng vững như cũ, thì cũng không dám coi thường chàng nữa, lại hỏi:

– Ngươi khóc cái gì?

Dương Quá nhìn kỹ, thấy người kia là một lão nhân râu tóc bạc trắng, quần áo rách rưới như một gã hành khất, tuy trong bóng tối, nhưng được ánh tuyết trắng hắt lên, chàng thấy mặt lão nhân hồng hào, thần thái hăng say, thì bất giác kính nể, nói:

– Tiểu nhân số mệnh hẩm hiu, sống trên đời như thừa, chi bằng chết quách cho xong.

Lão nhân nghe lời lẽ chua chát, đúng là đầy phẫn uất thì gật gật đầu, hỏi:

– Ai vũ nhục ngươi? Mau nói cho công công của ngươi nghe coi.

Dương Quá nói:

– Phụ thân của tiểu nhân bị người ta giết, song không biết là ai giết. Mẫu thân của tiểu nhân lại bị bệnh qua đời, trên thế gian chẳng có ai thương xót tiểu nhân.

Lão nhân nói:

– Hừm, đáng thương thật. Sư phụ dạy võ công cho ngươi là ai?

Dương Quá nghĩ thầm: "Quách bá mẫu danh nghĩa là sư phụ của ta, nhưng không dạy ta chút võ công nào cả. Bọn đạo sĩ thối tha phái Toàn Chân nhắc đến chỉ thêm bực mình. Âu Dương Phong là nghĩa phụ của ta, chứ không phải là sư phụ. Võ công của ta là do cô cô dạy. Nhưng cô cô nói muốn làm thê tử của ta, ta cứ gọi cô cô là sư phụ, thì cô cô lại tức giận. Kinh sách mà Vương Trùng Dương tổ sư và Lâm Triệu Anh bà bà khắc họa trên trần thạch thất, sao có thể gọi là sư phụ của ta? Sư phụ của ta tuy nhiều, song không thể nhắc đến một ai cả". Câu hỏi của lão nhân lại động đến tâm sự của chàng, chàng lại khóc òa lên, nói:

– Tiểu nhân không có sư phụ, không có sư phụ!

Lão nhân nói:

– Được rồi! Được rồi! Ngươi không chịu nói thì thôi.

Dương Quá khóc, nói:

– Không phải là tiểu nhân không chịu nói, mà là không có thật.

Lão nhân nói:

– Không có thì thôi, làm sao phải khóc? Ngươi có quen biết "Tạng biên ngũ xú" hay không?

Dương Quá đáp:

– Tiểu nhân không quen biết.

Lão nhân nói:

– Ta thấy ngươi một mình đi trong đêm tối, lại tưởng ngươi là đồng đảng của "Tạng biên ngũ xú". Đã không phải, thì rất tốt.

Lão nhân chính là "Cửu chỉ thần cái" Hồng Thất Công. Lão nhân đã đem chức vị bang chủ Cái Bang truyền cho Hoàng Dung, rồi một mình phiêu du nơi này chốn nọ, tìm kiếm và thưởng thức của ngon vật lạ trong thiên hạ. Quảng Đông địa khí ôn hòa, là nơi có nhiều món ăn trân kỳ hơn cả. Từ khi đến Lĩnh Nam, Hồng Thất Công ở lỳ tại đó hơn mười năm, không trở lên Trung Nguyên ở phía bắc nữa.

Đất Quảng rắn độc mèo già, cá đốm chuột khoang, đều là món ăn khoái khẩu; tôm hùm hấp rượu, hào mập nấu cháo, heo sữa quay giòn, thôi thì đủ món; Hồng Thất Công như lên thiên đường, khoái lạc vô cùng. Gặp chuyện bất bình, lão lại kín đáo phò nguy tế khốn, diệt ác trừ gian, với bản lĩnh hiện thời của lão, không ai có thể hay biết lão đang hiện diện chỗ nào. Có lần nghe lỏm các đệ tử Cái Bang trò chuyện, lão được biết Cái Bang dưới sự dẫn dắt của Hoàng Dung, Lỗ Hữu Cước, thái bình vô sự, bên trong giảm bớt sự tranh chấp giữa hai phe áo dơ, áo sạch; bên ngoài thì loại trừ sự uy hiếp của người Kim và bang Thiết Chưởng, lão nhân gia thảnh thơi vô sự, ngày ngày chỉ bận bịu với việc ăn uống thỏa thích mà thôi.

Năm nay Nhị xú trong "Tạng biên ngũ xú" tại Quảng Đông lạm sát người vô tội, giết hại không biết bao nhiêu người lương thiện. Hồng Thất Công ghét ác như kẻ thù, vốn đã định ra tay trừ khừ Nhị xú, nhưng muốn giết một mình hắn thì quá dễ; tìm diệt bốn tên còn lại trong "Tạng biên ngũ xú" sẽ rất khó khăn; bởi vậy Hồng Thất Công mới bí mật bám theo tung tích, chờ khi cả năm tên tụ lại một chỗ, lão sẽ một đòn diệt sạch cho gọn; không ngờ bám theo từ nam lên bắc, vượt qua ngàn dặm, cuối cùng đến tận Hoa Sơn. Hiện thời bốn trong năm "Tạng biên ngũ xú" đã tụ một chỗ, chỉ còn tên đứng đầu, gọi là Đại xú, chưa đến. Lão đang theo dõi, thì trong đêm tối tuyết dày bắt gặp Dương Quá.

Hồng Thất Công nói:

– Hai ta tạm gác chuyện ấy lại đã, ta thấy ngươi chắc đã đói bụng, phải ăn no rồi tính.

Thế là lão bới tuyết tìm một số cành củi, nhóm một đống lửa. Dương Quá giúp lão kiếm củi, hỏi:

– Lão tiền bối nấu món gì ạ?

Hồng Thất Công nói:

– Món Ngô Công (thịt rết) !

Dương Quá ngỡ lão nói đùa, chỉ cười cười, không hỏi thêm. Hồng Thất Công nói:

– Ta vất vả đuổi theo "Tạng biên ngũ xú" từ Lĩnh Nam, một mạch đến tận Hoa Sơn này, nếu không tìm được vài món ăn đặc biệt, thì hóa ra không phải với nó quá sao?

Lão vừa nói vừa vỗ vỗ vào bụng. Dương Quá thấy toàn thân lão săn chắc, chỉ riêng cái bụng là hơi phệ. Hồng Thất Công lại nói:

– Cái chất âm của Hoa Sơn là thứ cực âm hàn trong thiên hạ, lũ rết ở đây béo ngậy. Quảng Đông tiết trời nóng bức, bách vật sinh trưởng nhanh, thịt rết không ngon mấy.

Dương Quá nghe lão nói nghiêm trang, hình như không phải nói đùa, thì nửa tin nửa ngờ.

Hồng Thất Công đặt bốn hòn đá vây quanh đống lửa, lấy từ bên thắt lưng ra một cái nồi sắt nhỏ, đặt lên bếp, vốc hai vốc tuyết bỏ vào nồi, nói:

– Theo ta đi bắt rết.

Vụt một cái, lão đã nhảy lên chỗ vách núi cao hơn hai trượng. Dương Quá thấy sơn thế hiểm trở, không dám nhảy. Hồng Thất Công gọi:

– Lên đây mau! Tên tiểu tử vô dụng kia!

Dương Quá ức nhất là bị người khác coi thường, nghe gọi vậy bèn nghiến răng, đề khí nhảy lên, nghĩ thầm: "Sợ cái gì? Ngã mất mạng là cùng chứ gì?" Khi bạo gan hơn, khinh công thi triển càng nhịp nhàng như ý, chàng bám sát đằng sau Hồng Thất Công, những chỗ cheo leo trơn trượt, chàng cũng vượt qua được cả.

Chừng sau một tuần trà, hai người leo tới một đỉnh núi không có dấu chân người. Hồng Thất Công thấy chàng có tài và có gan thi triển khinh công như vừa rồi, thì rất hài lòng; với kiến thức quảng bác của mình, lão vẫn chưa nhận biết được lai lịch võ công của gã thiếu niên này, cũng định hỏi cho ra lẽ, nhưng còn mải nghĩ đến món ăn ngon lành, bèn tới bên một tảng đá lớn, hai tay bới đất vun lên miệng hố. Một lát sau thì lộ ra một con gà trống đã chết. Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Ô hay, sao ở đây lại có con gà trống?

Rồi chợt hiểu: "Thì ra lão nhân gia vùi nó ở đây". Hồng Thất Công cười cười, lôi con gà lên. Trong ánh sáng mờ mờ của tuyết, chàng thấy có mấy chục con rết bám cắn thân con gà. Lũ rết dài bảy, tám tấc, đốt đen đốt hồng, hoa văn loang lổ, chúi đầu nhung nhúc. Chàng từ nhỏ lưu lạc giang hồ, vốn không sợ độc trùng, nhưng đột nhiên gặp ở một chỗ nhiều con rết lớn thế này, chàng cũng không khỏi rùng mình. Hồng Thất Công đắc ý, nói:

– Rết và gà hai loài xung khắc nhau, tối qua ta vùi ở đây con gà này, quả nhiên dụ được rết tứ phía bu lại.

Lão nhét con gà cùng lũ rết vào trong một cái túi vải, hoan hỉ rời khỏi đỉnh núi. Dương Quá theo sau, rùng mình nghĩ thầm: "Không lẽ xơi món rết thật? Trông thần tình của lão, không phải lão có ý dọa ta".

Lúc này nồi nước tuyết đã sôi sùng sục, Hồng Thất Công mở túi vải, tóm đuôi rết, thả từng con vào trong nồi. Lũ rết quằn quại một lát, đều chết thẳng cẳng. Hồng Thất Công nói:

– Lũ rết lúc sắp chết, có bao nhiêu chất độc trong cơ thể đều nhả ra hết, cho nên nồi nước này độc lắm đó.

Dương Quá đổ nước luộc rết xuống vực.

Hồng Thất Công dùng một con dao nhỏ chặt đầu đuôi từng con rết, tuốt nhẹ một cái, cái vỏ của con rết tuột ra, để lộ lớp thịt màu trắng, hơi trong, như thịt tôm, trông rất đẹp.

Hồng Thất Công lại đun sôi một nồi nước, cho thịt rết vào nhúng cho hết sạch chất độc; rồi lấy từ cái bọc sau lưng ra bảy, tám lọ đựng dầu mỡ mắm muối gia vị. Lão cho mỡ vào nồi, xào thịt rết, lập tức một mùi thơm nức mũi tỏa ra. Dương Quá thấy lão nuốt nước miếng liên tục, lộ rõ vẻ hăm hở thèm ăn, thì vừa kinh ngạc vừa buồn cười.

Hồng Thất Công đợi thịt rết hơi vàng, mới cho mắm muối gia vị vào trộn đều. Đoạn lão nhón tay vào nồi, lấy một con đưa vào miệng, nhai nhai chầm chậm, hai mắt lim dim, hít một hơi dài, cảm thấy mọi khoái lạc trong thiên hạ, không gì bằng món này. Lão gỡ một bầu rượu ở thắt lưng, đặt xuống bên cạnh, nói:

– Xơi món rết thì đừng uống rượu, nếu không rượu sẽ làm mất hết vị ngon của thịt rết.

Lão ăn mười mấy con liền, rồi bảo Dương Quá:

– Ăn đi, sao phải làm khách?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Tiểu nhân không ăn đâu.

Hồng Thất Công ngẩn người, rồi cười ha hả, nói:

– Phải rồi, phải rồi, ta từng gặp không ít anh hùng hảo hán, đầu rơi máu chảy chẳng cau mày, song lại không dám xơi một con rết với lão khiếu hóa này. Ha ha, tên tiểu tử này cũng nhát gan như họ cả thôi.

Dương Quá bị lão nói khích, nghĩ thầm: "Mình nhắm mắt lại, không nhai, nuốt vài con, cho lão khỏi coi thường mình"; bèn dùng hai cái que làm đũa, gắp một con rết xào trong nồi. Hồng Thất Công như đọc được ý nghĩ của chàng, nói:

– Nhắm mắt nhắm mũi, không nhai, nuốt vài con rết, như thế gọi là hạng ngu xuẩn, thực bất tri kỳ vị, chứ đâu phải là anh hùng hảo hán.

Dương Quá nói:

– Ăn độc trùng cũng được coi là anh hùng hảo hán ư?

Hồng Thất Công nói:

– Trong thiên hạ có vô số kẻ không biết ngượng mồm tự xưng là anh hùng hảo hán, nhưng dám ăn thịt rết thử hỏi có được mấy người?

Dương Quá nghĩ thầm: "Cùng lắm là chết chứ quái gì!" Liền bỏ con rết vào miệng mà nhai. Vừa nhai một cái đã cảm thấy vị thơm ngon, ngọt đậm lạ thường, nhai vài miếng thật kỹ, nuốt xuống, lại gắp, nhai con thứ hai, tấm tắc khen:

– Ngon quá! Ngon quá đi mất!

Hồng Thất Công thấy chàng ăn ngon lành, thì cũng mừng thầm. Thế là hai người, một già một trẻ, tranh nhau gắp, hơn một trăm con rết xào trong nồi đã xơi hết sạch. Hồng Thất Công đưa lưỡi liếm quanh mép, hận rằng không có trăm con rết nữa mà ăn cho sướng miệng. Dương Quá nói:

– Tiểu nhân lại mang con gà đi vùi, dụ rết đến được chăng?

Hồng Thất Công nói:

– Không được, một là mãnh tính của con gà đã hết, hai là quanh đó chẳng còn con rết béo mập nào nữa.

Đột nhiên lão vươn vai, ngáp một cái, nằm ngửa xuống tuyết, nói:

– Ta đuổi gấp tịch đồ, đã năm ngày đêm liền không ngủ, hiếm khi được chén một bữa ngon như hôm nay, bây giờ buồn ngủ quá, phải làm một giấc ngủ ba ngày liền, dù trời có sụp, ngươi cũng chớ đánh thức ta dậy. Ngươi hãy để ý, đừng để dã thú thừa cơ ta ngủ say, ngoạm mất cái đầu của ta, nghe chưa.

Dương Quá cười, đáp:

– Tuân lệnh!

Hồng Thất Công nhắm mắt lại, không lâu đã ngủ say.

Dương Quá nghĩ thầm: "Vị tiền bối này đúng là một kỳ nhân. Không lẽ sẽ ngủ ba ngày liền thật sao? Dù thật hay giả, mình cũng chẳng biết đi đâu, thôi thì đợi lão ba ngày vậy". Món thịt rết ở Hoa Sơn là vật chí hàn trong thiên hạ, sau khi ăn, Dương Quá cảm thấy trong bụng cứ mát lạnh, bèn tìm một tảng đá, ngồi dụng công thật lâu, mới thấy toàn thân dễ chịu.

Lúc này tuyết lông ngỗng rơi từng bông dày không ngớt, Hồng Thất Công toàn thân phủ một lớp tuyết dày, trông như đắp một tấm chăn bông vậy. Cơ thể người vốn có hơi ấm, hoa tuyết gặp nóng ấm thì tan, tại sao tuyết lại phủ trên mặt lão thế kia? Dương Quá thoạt tiên không hiểu nổi, nghĩ một hồi chợt hiểu: "Phải rồi, trong lúc ngủ, lão tiềm hành thần công, dồn hết hơi ấm vào bên trong cơ thể. Một người sống đấy, song lúc ngủ lại giống một tử thi, nội công luyện tới mức đó, thực đáng kính nể. Cô cô từng để cho ta nằm trên giường hàn ngọc, cốt mong mai sau ta có thể luyện thành nội công thâm hậu. Ôi, chiếc giường hàn ngọc giờ đây sao rồi?"

Thấy trời sắp sáng, Hồng Thất Công đã bị vùi kín trong nấm mồ bằng tuyết cao cao. Dương Quá hoàn toàn không cảm thấy mỏi mệt, chỉ thấy bốn phía đều im lìm, bỗng phía đông bắc có tiếng chân đạp trên tuyết; chàng ngưng thần nhìn kỹ, thấy có năm cái bóng đen đang chạy lại, thân pháp ai nấy mau lẹ, đao quang sau lưng loang loáng. Dương Quá chợt nghĩ thầm: "Chắc là" Tạng biên ngũ xú "mà lão tiền bối đã nói". Chàng bèn nấp vào sau một tảng đá lớn.

Lát sau năm người kia chạy tới phía trước tảng đá. Một người kêu lên:

– Thôi chết, đây là cái bầu rượu của lão khiếu hóa!

Người thứ hai lắp bắp:

– Lão ta.. lão ta đang ở Hoa Sơn.

Năm người kia mặt lộ vẻ kinh hoàng, họ chụm đầu lại bàn tính.

Đột nhiên năm gã tách ra, chạy vội xuống núi. Đường núi vốn hẹp, một gã mới chạy vài bước đã vấp phải người Hồng Thất Công, hắn thấy đụng phải một vật mềm mềm, thì kêu "Ối" một tiếng. Bốn tên kia dừng bước, quây chung quanh, bới tuyết, thấy Hồng Thất Công nằm ngay đơ bên dưới, tựa hồ đã chết từ lâu. Năm gã cả mừng, sờ tay chỗ mũi của lão, thấy tắt thở, thân thể thì lạnh giá. Năm gã reo mừng, nhảy cỡn cả lên, còn hơn là vớ được của quí. Một tên nói:

– Lão khiếu hóa cứ bám theo như đỉa đói, ai dè cuối cùng lại chết thảm ở đây.

Tên thứ hai nói:

– Lão tặc Hồng Thất Công võ công cao siêu, sao lại chết thế này?

Một tên nói:

– Võ công cao siêu thì không chết hay sao? Thử nghĩ xem lão ta đã bao nhiêu tuổi rồi còn gì.

Bốn tên kia đồng thanh khen phải, nói:

– May mà Diêm Vương gọi lão ta đi sớm, chứ không thì bọn ta khó mà đối phó.

Tên cầm đầu nói:

– Nào, bọn ta mỗi người chém lão khiếu hóa vài nhát đao cho bõ tức! "Cửu chỉ thần cái" Hồng Thất Công anh hùng cái thế, cuối cùng bị "Tạng biên ngũ xú" chém nát thây, thành mấy chục mảnh.

Dương Quá nghĩ thầm: "Thì ra vị lão tiền bối này là Hồng Thất Công, hèn chi võ công cao siêu đến thế." Danh tiếng Hồng Thất Công và tuyệt kỹ "Hàng long thập bát chưởng" chàng từng nghe Tiểu Long Nữ kể lúc nhàn đàm; nhưng còn hình dạng và tính khí của Hồng Thất Công, thì hồi trước Lâm Triệu Anh cũng không biết rõ, nên Tiểu Long Nữ dĩ nhiên cũng không biết. Chàng đã thủ sẵn "Ngọc phong châm" trong tay, nghĩ mình không thể đối phó cùng lúc với cả năm tên, sẽ chờ cơ hội phóng ám khí đả thương hai, ba tên trước; rồi sẽ thanh toán nốt hai, ba tên còn lại. Nhưng bây giờ nghe chúng bảo sẽ băm vằm cho bõ ghét, thì chàng sợ chúng đả thương Hồng Thất Công, không kịp phóng ám khí, lập tức quát to, từ sau tảng đá nhảy ra. Trong tay không có binh khí, chàng tiện tay nhặt hai cành cây, phát chiêu đánh năm tên kia. Năm chiêu này thần tốc dị thường, chỉ tiếc trước đó chàng đã quát to khiến Ngũ xú đề phòng, chứ không thì ít ra một hai tên đã bị trúng đòn. Nghe quát, năm tên quay lại chống đỡ.

Chúng thấy chỉ có một thiếu niên lam lũ, hai tay cầm hai cành cây, thì hầu như không chút sợ hãi. Đại xú nói:

– Tên tiểu tử thối tha kia, ngươi là tiểu khiếu hóa phải không? Lão khiếu hóa đã đi gặp tổ tông rồi, ngươi hãy mau quì xuống khấu đầu năm vị gia gia đi nào.

Dương Quá vừa nhìn thấy thân pháp của năm tên, đã biết qua võ công của chúng. Cả năm tên đều dùng đao to bản, võ công do một sư phụ truyền thụ, công phu thâm thiển khác nhau, nhưng gia số thì là một. Nếu là một đánh một, chàng thắng là cầm chắc; còn một đấu năm, thì chàng không thể địch nổi. Nghe Đại xú bảo chàng khấu đầu, bèn nói:

– Vâng, tiểu nhân xin khấu đầu năm vị gia gia.

Chàng tiến một bước, vái một cái. Động tác quì vái này chính là chiêu "Tiền cung hậu cứ"; năm trước Tôn bà bà từng sử qua, nhân lúc đạo sĩ phái Toàn Chân Trương Chí Quang xuất kỳ bất ý, ném chiếc lọ, chút nữa đánh mù mắt y. Lúc này Dương Quá sử xong chiêu đó, lại đánh tiếp chiêu "Thôi song vọng nguyệt", đột nhiên hai tay gạt ngang, quật hai cành cây sang hai bên.

Tên đứng bên trái là Nhị xú, ở bên phải là Tam xú. Chiêu "Thôi song vọng nguyệt" rất hiểm độc, Tam xú công phu khá cao, vội dựng đứng cây đao chống đỡ, bị cành cây của Dương Quá đánh vào sống đao, hổ khẩu nóng bừng, suýt nữa buông rơi đại đao. Ngũ xú thì bị quật trúng xương ống chân, "cộc" một tiếng, xương không gãy, nhưng đau oằn cả người lại. Bốn tên còn lại cả giận, bốn thanh đao vù vù chém tới. Dương Quá thân pháp linh hoạt, nhanh nhẹn né tránh, bọn kia chưa làm gì được. Một hồi sau, Ngũ xú khập khiễng cũng tiến vào tham chiến, nhăn nhó tức giận, xuất thủ như một kẻ liều mạng.

Dương Quá khinh công hơn hẳn năm tên kia; nếu muốn bỏ chạy thì không khó; nhưng nhớ đến Hồng Thất Công, sợ rời xa lão một bước, năm tên kia sẽ hạ độc thủ. Nhưng một mình chàng không thể đánh lại năm tên kia liên thủ, sẽ mau chóng gặp nguy hiểm; thế là chàng bèn cúi xuống, ôm Hồng Thất Công lên, tay phải múa cành cây dọn đường, chạy một mạch hơn mười trượng. "Tạng biên ngũ xú" đuổi theo sau.

Dương Quá cảm thấy thân thể Hồng Thất Công lạnh giá, bất giác lo sợ, nghĩ thầm lão có ngủ say đến mấy, cũng quyết không thể không tỉnh giấc, nếu lão chưa chết. Bèn gọi:

– Lão tiền bối, lão tiền bối!

Hồng Thất Công chẳng cựa quậy gì hết, không khác gì một tử thi, chỉ chưa cứng đơ mà thôi. Dương Quá đưa tay sờ chỗ ngực trái, hình như tim lão còn đập thoi thóp, mũi thì tắt thở hoàn toàn.

Dương Quá dừng lại một chút, Đại xú đã đuổi tới, chỉ vì Dương Quá võ công cao cường, nên hắn không dám một mình tới gần; chờ Nhị xú, Tam xú, Tứ xú, cùng tới, thì Dương Quá đã lại chạy xa hơn mười trượng. "Tạng biên ngũ xú" thấy chàng cứ chạy lên đỉnh núi, từ đây lên đỉnh núi chỉ có một lối đi duy nhất, thì nghĩ không lẽ chàng có thể bay lên trời? Bọn chúng chả cần vội, cứ thong thả đuổi theo cũng được.

Sơn đạo càng lúc càng cheo leo, qua một khúc quành, Dương Quá thấy trước mặt có một đoạn đường cực hẹp. Một người đi qua chỗ đó cũng không dễ, một bên mép đường là vực sâu vạn trượng, mây bay lãng đãng, không nhìn thấy đáy. Chàng nghĩ thầm: "Chỗ này hay lắm! Mình sẽ chặn bọn chúng ở đây". Chàng vội đi nhanh qua quãng đó, rồi đặt Hồng Thất Công xuống một tảng đá, quay trở lại, Đại xú đã tới đầu bên kia, Dương Quá bèn lao sang, quát:

– Xú bát quái, ngươi dám qua chỗ này không?

Đại xú sợ bị chàng đẩy xuống vực, vội lùi lại. Dương Quá đứng chặn ngay đầu đoạn đường hẹp ấy. Lúc này mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngừng rơi, phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy rừng núi lung linh trong lớp tuyết phủ trắng xóa, dưới ánh hồng ban mai, trông đẹp tuyệt trần.

Dương Quá đeo cái mặt nạ vào, quát:

– Các ngươi xấu xí, hay là ta xấu xí?

"Tạng biên ngũ xú" tướng mạo dĩ nhiên rất khó coi, song cũng chưa đến nỗi quá ư quái dị; chữ "xú" gắn vào chúng để chỉ hành vi xấu xa của chúng, nhiều hơn là để chỉ tướng mạo. Lúc này chúng thấy Dương Quá vừa đưa tay lên mặt xoa một cái, đột nhiên mặt chàng đã biến thành xấu xí cực độ, da vàng như sáp, thần tình lì lợm, như một cái xác chui từ dưới mộ lên, thì năm tên nhìn nhau ngơ ngác.

Dương Quá thong thả bước tới chỗ hẹp nhất, chênh vênh nhất, biểu diễn chiêu "Khôi tinh tứ đẩu thế", chân trái làm trụ, chân phải đá lên trời, thân hình khẽ đung đưa trong gió; trong giây lát khí khái anh hùng tràn đầy lồng ngực, kẻ địch dẫu có thiên binh vạn mã xông tới, một mình chàng cũng đủ chốt chặn cửa ải này.

Năm tên kia nghĩ thầm: "Cái Bang sao lại kiếm đâu được một thiếu niên cổ quái đến thế không biết?" Chúng nhìn địa thế quá hiểm yếu, không dám đi qua quãng đường hẹp, chụm đầu vào nhau bàn tính:

– Huynh đệ ta giữ chỗ này, thay phiên nhau xuống núi mang thức ăn lên. Chỉ cần vài ngày là tên tiểu tử kia sẽ đói mờ mắt, kiệt sức thôi.

Thế là bốn tên sắp thành hàng một ở đầu cầu, để tên Nhị xú xuống núi lấy thức ăn.

Đôi bên cứ canh chừng nhau như thế, không dám xông sang đầu cầu bên kia.

Ngày thứ hai, Nhị xú mang thức ăn lên, năm tên ăn uống nhồm nhoàm, cố ý nhai tóp tép rõ to. Dương Quá đói bụng từ lâu, ngoảnh nhìn Hồng Thất Công, chỉ thấy tư thế của lão vẫn hệt như hôm trước, không có gì thay đổi. Chàng nghĩ thầm: "Lão dẫu có ngủ, thì trong giấc ngủ cũng có lúc trở mình; đằng này nằm bất động mãi như thế, e rằng đã chết thật rồi. Chờ một ngày nữa, mình đói quá kiệt sức, càng khó chống địch, chi bằng lập tức tiến sang, còn có thể chạy thoát". Chàng thong thả đứng dậy, lại nghĩ thầm: "Lão bảo cần ngủ ba ngày liền, dặn mình canh chừng, mình đã đáp ứng, không thể bỏ lão mà đi". Bèn cố nhịn đói, nhắm mắt dưỡng thần.

Đến ngày thứ ba, Hồng Thất Công vẫn nằm bất động như hai hôm trước. Dương Quá càng nhìn càng nghi ngại: "Lão hiển nhiên đã chết rồi, mình cứ cố thủ ở đây, chẳng hóa ra ngu lắm sao. Chờ thêm nửa ngày nữa, chỉ e năm tên kia không cần động thủ, mình cũng chết đói mất thôi". Chàng bốc mấy vốc tuyết nuốt vào bụng, cũng đỡ cảm giác trống rỗng cồn cào. Nghĩ thầm: "Ta đối với cha mẹ đã không thể tận hiếu, lại không phải với cô cô, huynh đệ tỷ muội đều không có, ngay hảo bằng hữu cũng không có lấy một người, hai chữ" nghĩa khí "thôi đừng nhắc tới; nhưng còn chữ" Tín "sống chết gì cũng phải giữ cho bằng được!" Lại nghĩ: "Quách bá mẫu năm nào giảng sách cho ta, kể rằng thời xưa có chàng Vĩ Sinh hẹn chờ thiếu nữ ở dưới cầu; thiếu nữ không đến mà nước lũ dâng cao. Vĩ Sinh không chịu thất ước, ôm trụ cầu mà chết đuối, sau đó tên chàng được truyền tụng trăm đời. Dương Quá ta bị người đời khinh rẻ, nếu không giữ chữ tín, càng không ra gì; dẫu có vì chuyện này mà chết, ta cũng phải canh giữ đủ ba ngày".

Một ngày đêm thấm thoắt cũng qua nhanh, sáng hôm thứ tư, Dương Quá đến bên cạnh Hồng Thất Công, thử xem hơi thở của lão, thấy hoàn toàn tắt thở, chàng không khỏi thở dài, vái lão một cái, nói:

– Hồng lão tiền bối, tiểu nhân đã canh giữ đúng ba ngày như hẹn ước, tiếc rằng lão tiền bối không may qua đời. Tiểu nhân không còn sức canh giữ di thể của lão tiền bối, đành lăn người xuống vực sâu, không để cho bọn gian kia hủy nhục.

Rồi chàng ôm xác Hồng Thất Công lên, đi ra chỗ đường hẹp.

"Tạng biên ngũ xú" tưởng chàng không nhịn đói được nữa, phải bỏ chạy, thì chúng bèn hò nhau xông tới. Dương Quá thét một tiếng, lẳng Hồng Thất Công xuống vực, xông tới chỗ tên Đại xú.

-

[1] 出門一笑無拘礙, 雲在西湖月在天- Xuất môn nhất tiếu vô câu ngại, vân tại Tây hồ nguyệt tại thiên. Đây là hai câu cuối trong bài thơ thất ngôn bát cú mà Toàn Chân thất tử từng ngâm khi lập Thiên cang Bắc đẩu trận (hồi 25 – Xạ điêu Anh hùng truyện).

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 11: Phong trần khốn đốn

Dương Quá chạy được hai bước, thì đột nhiên một luồng gió mạnh ào qua phía trên đầu, có một người bay qua đầu chàng, đứng chắn giữa chàng và Ngũ xú, cười, nói:

– Ngủ giấc vừa rồi sướng ghê!

Chính là "Cửu chỉ thần cái" Hồng Thất Công.

Dương Quá mừng khôn xiết, Ngũ xú thì kinh hãi thất sắc.

Nguyên Hồng Thất Công ban đầu nằm trên tuyết ngủ thiếp đi thật, đến khi bị Ngũ xú đạp trúng người một cái, lão liền tỉnh giấc. Lão cố ý thử xem chàng thiếu niên có giữ đúng cái hẹn ba ngày hay không, mỗi lần Dương Quá tới thăm dò hơi thở của lão, lão lại nín thở giả chết. Cho đến tận bây giờ, lão mới đứng sừng sững chỗ đầu đường hẹp, hiển lộ thần uy. Tay trái khoát một nửa vòng tròn, tay phải đẩy ra một chưởng, chính là chiêu "Cang long hữu hối" trong "Hàng long thập bát chưởng". Đại xú không kịp tránh, biết rõ là không được tiếp chưởng này, song hai tay vẫn buộc phải cùng đưa ra, dồn lực chống đỡ.

Hồng Thất Công chưởng lực thu phát tùy ý, chỉ mới sử dụng một thành kình lực, Đại xú đã cảm thấy hai cánh tay tê chồn, ngực đau tức. Nhị xú thấy thế nguy của Đại xú, sợ chưởng lực của Hồng Thất Công đẩy hắn xuống vực sâu, vội đưa hai bàn tay đẩy vào sau lưng Đại xú. Hồng Thất Công gia tăng chưởng lực, Nhị xú phải ngả người ra sau, suýt ngã ngửa. Tứ xú đứng sau giơ tay ra đỡ, chưởng lực của Hồng Thất Công truyền tới Tứ xú, rồi truyền tới Tam xú, từ Tam xú truyền tới người Ngũ xú. Năm tên ấy chạy không được, tránh không được, chỉ trong giây lát sẽ bị Hồng Thất Công vận lực vào một chưởng mà đánh chết.

Hồng Thất Công cười, nói:

– Năm đứa các ngươi tác ác đa đoan, hôm nay được lão khiếu hóa dùng một chưởng đánh chết, tưởng cũng được nhắm mắt đó.

Năm tên cố bấm chân cho chắc, hợp lực chống chọi đơn chưởng của Hồng Thất Công, chỉ cảm thấy áp lực càng lúc càng nặng, ngực đau tức, muốn thở một hơi cũng càng lúc càng khó hơn.

Hồng Thất Công đột nhiên kêu "A" một tiếng đầy vẻ kinh dị, thu hồi tám phần kình lực, nói:

– Nội công của các ngươi rất khá, sư phụ của các ngươi là ai vậy?

Đại xú hai tay chống đỡ đơn chưởng của lão, vừa thở hổn hển vừa nói:

– Chúng tiểu nhân.. là.. môn hạ của.. sư phụ Đạt Nhĩ Ba.

Hồng Thất Công lắc đầu, nói:

– Đạt Nhĩ Ba à? Chưa từng nghe qua. Hừ, nội lực của các ngươi có thể truyền tiếp cho nhau, công phu ấy khá lắm.

Dương Quá nghĩ thầm: "Được Hồng lão tiền bối khen như vậy tức là khá thật; nhưng sao mình thấy năm tên kia cũng tầm thường, chẳng tên nào đánh hơn mình".

Hồng Thất Công lại nói:

– Các ngươi thuộc môn phái nào?

Đại xú nói:

– Sư phụ của chúng tiểu nhân.. là.. đệ tử thứ hai của vị thánh tăng Tây Tạng.. Kim Luân pháp vương.

Hồng Thất Công lại lắc đầu, nói:

– Thánh tăng Tây Tạng, Kim Luân pháp vương ư? Cũng chưa từng nghe qua. Tây Tạng có một hòa thượng, tên là Linh Trí Thượng Nhân gì đó, ta từng gặp qua, võ công của hắn cao hơn các ngươi, nhưng sở học chưa phải là công phu thượng thừa. Các ngươi học được công phu rất hay, hừ, rất có lý. Ngươi hãy đi gọi tổ sư gia của các ngươi lại đây đấu thử với ta.

Đại xú nói:

– Tổ sư gia của.. chúng tiểu nhân là.. Thánh tăng.. vị Bồ Tát sống, đệ nhất quốc sư Mông Cổ, thần thông quảng đại.. vô địch thiên hạ, làm sao.. có thể..

Nhị xú nghe giọng nói của Hồng Thất Công thì hình như lão tha mạng cho bọn chúng, nhưng Đại xú nói thế, chẳng hóa ra tự hủy đường sống hay sao, bèn nói:

– Vâng, vâng. Chúng tiểu nhân sẽ.. đi mời tổ sư gia tới.. đấu với Hồng lão tiền bối.. Cũng chỉ có.. tổ sư gia.. mới đủ tài động thủ.. với Hồng lão tiền bối. Chúng tiểu nhân.. thì bưng bầu rượu hầu.. lão tiền bối.. chưa đáng..

Đang nói, bỗng nghe mấy tiếng "thịch thịch", từ mé núi truyền tới, một người ở tư thế trồng cây chuối, hai tay cầm hai cục đá chống xuống đất mà đi tới, chính là Tây Độc Âu Dương Phong. Dương Quá gọi to, lạc cả giọng:

– Cha ơi!

Âu Dương Phong như không nghe thấy, nhảy đến sau lưng Ngũ xú; đặt chân phải vào bối tâm của hắn, truyền một luồng kình lực qua thân thể năm tên kia.

Hồng Thất Công thấy Âu Dương Phong bất ngờ xuất hiện, cũng vô cùng kinh ngạc, nghe Dương Quá gọi "Cha ơi", thì ra tiểu tử kia là con của Âu Dương Phong, hèn chi giỏi thế, cảm thấy tay trầm xuống, lực đạo của đối phương đã dồn đến, vội gia kình phản kích.

Sau cuộc luận kiếm thứ hai ở Hoa Sơn, hơn mười năm rồi Hồng Thất Công và Âu Dương Phong chưa gặp lại nhau. Âu Dương Phong thần trí tuy hồ đồ, vẫn nghịch luyện "Cửu Âm chân kinh", võ công càng luyện càng lạ, càng lạ càng mạnh. Hồng Thất Công từng nghe Quách Tĩnh, Hoàng Dung đọc thuộc lòng một phần trong "Cửu Âm chân kinh", đem ấn chứng với võ công vốn có của lão, lão cũng có tiến cảnh rõ ràng, cuối cùng chính phải thắng nghịch, tuy sở tri không nhiều, song cũng chẳng thua Tây Độc Âu Dương Phong. Mấy chục năm trước, hai người võ công đã khó phân cao thấp, hôm nay lần thứ ba tương phùng tại Hoa Sơn, đấu công lực với nhau, vẫn là bất phân thắng bại. Chỉ đáng thương cho "Tạng biên ngũ xú" phải đứng giữa hai đại cao thủ thời nay, làm vật thử chiêu, một thứ bao cát luyện quyền cho họ, thân thể cứ lạnh một chập lại nóng một chập, hô hấp dồn dập một chập lại chậm chạp một chập, xương cốt toàn thân kêu răng rắc, khổ sở hơn bị tra tấn hàng trăm lần.

Âu Dương Phong bỗng nói:

– Năm thằng nhãi ranh này học được thứ nội công rất khá. Là môn phái gì vậy?

Dương Quá nghĩ thầm: "Ngay nghĩa phụ của mình cũng bảo nội công của chúng rất khá, vậy thì Tạng biên ngũ xú quả thực không phải hạng tầm thường".

Hồng Thất Công nói:

– Bọn chúng bảo chúng là đồ tôn của thánh tăng Tây Tạng Kim Luân pháp vương gì đó.

Âu Dương Phong nói:

– Cái gã Kim Luân pháp vương ấy so với các hạ, ai lợi hại hơn?

Hồng Thất Công đáp:

– Không biết, chắc là ngang ngửa.

Âu Dương Phong hỏi:

– So với lão phu thì sao?

Hồng Thất Công nói:

– Lợi hại hơn một chút.

Âu Dương Phong sững sờ, nói:

– Không tin!

Hai người trong lúc đàm thoại, chân tay vẫn tiếp tục đấu lực. Hồng Thất Công mấy lần phát chưởng lực khác nhau, đều bị Âu Dương Phong dùng chân hóa giải, tiếp đó Âu Dương Phong dồn lực vào chân đẩy đi, nhưng cũng khó buộc Hồng Thất Công lui lại nửa tấc. Hai người một phen đấu lực, thầm thán phục nhau, bất chợt cùng cười phá lên và nhảy về phía sau.

Áp lực đè nặng lên thân thể "Tạng biên ngũ xú" không còn, năm tên kia lảo đảo như kẻ say rượu, chúng vừa bị nội lực của hai đại cao thủ từ hai phía trước sau dồn ép lại, lục phủ ngũ tạng đều bị trọng thương, gân cốt mềm đi, đã thành phế nhân, với một đứa bé bảy, tám tuổi cũng chẳng làm gì nổi. Hồng Thất Công quát:

– Năm tên gian tặc kia, coi như đại hạn của các ngươi còn chưa tới, nhưng từ nay các ngươi sẽ không thể làm hại người khác được nữa. Hãy mau xéo đi cho khuất mắt. Nhớ về bảo tổ sư gia Kim Luân pháp vương của các ngươi đến Trung Nguyên tỷ thí với ta.

Âu Dương Phong nói:

– Tỷ thí cả với ta nữa.

"Tạng biên ngũ xú" vâng dạ rối rít, dìu nhau líu ríu đi xuống núi.

Âu Dương Phong lộn người đứng lên, liếc xéo Hồng Thất Công như rất lạ, nói:

– Hừ, võ công của các hạ rất cao, tên các hạ là gì vậy?

Hồng Thất Công nghe thế, lại nhìn thần sắc ngu ngơ của Âu Dương Phong, thì biết là chứng phát cuồng từ hơn mười năm trước của lão ta vẫn chưa đỡ, bèn nói:

– Ta là Âu Dương Phong, còn các hạ tên chi?

Âu Dương Phong giật mình một cái, cảm thấy ba tiếng "Âu Dương Phong" nghe rất quen thuộc, nhưng tên mình là gì, thì vẫn chưa nhớ ra được, lắc đầu, nói:

– Lão phu không biết. Ồ, lão phu tên là gì nhỉ?

Hồng Thất Công cười ha hả, nói:

– Các hạ ngay cả tên mình là gì cũng không nhớ, hãy mau về nhà ngồi nhớ lại đi.

Âu Dương Phong tức giận nói:

– Các hạ nhất định biết, hãy nói lão phu nghe đi.

Hồng Thất Công nói:

– Ừ thì nói. Tên các hạ là Xú Cáp Mô (Con cóc hôi).

Hai chữ "Cáp Mô" thì Âu Dương Phong mười phần quen thuộc, nghe hình như tên mình là thế, nhưng nghĩ một lúc, lại thấy không phải thế.

Âu Dương Phong và Hồng Thất Công mấy chục năm là tử thù của nhau, sự căm ghét hằn sâu trong trí não, bây giờ không hiểu vì sao, song tự nhiên vừa trông thấy Hồng Thất Công, lão đã nổi giận. Hồng Thất Công nhìn Âu Dương Phong đứng ngây ra đó, ánh mắt bỗng lộ hung quang, thì ngầm đề phòng, quả nhiên Âu Dương Phong gầm lên một tiếng, xông tới, thì không dám chậm trễ, vội sử dụng luôn chưởng pháp "Hàng long thập bát chưởng". Hai người chân đạp hàn băng, gió bấc lay động vạt áo, đứng ở đoạn đường hẹp chưa đầy một thước mà thi triển tuyệt kỹ bình sinh, dốc sức đấu nhau. Một bên là vực sâu vạn trượng, chỉ cần sảy chân là thịt nát xương tan, so với giao đấu ở chỗ đất bằng, hung hiểm gấp bội. Hai người tuổi đã cao, tinh lực tuy đã suy thoái, nhưng tu vi võ học thì đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh, chiêu số vô cùng huyền diệu; chỉ sau mươi chiêu, đôi bên không khỏi thầm khâm phục đối phương. Âu Dương Phong thốt lên:

– Lão gia hỏa quá ư lợi hại!

Hồng Thất Công cười, nói:

– Xú Cáp Mô cũng ghê gớm thật!

Dương Quá thấy địa thế hiểm trở, sợ Âu Dương Phong ngã xuống vực, nhưng có lúc chàng thấy Hồng Thất Công gặp nguy, cũng tự dưng mong sao cho lão chuyển nguy thành an. Âu Dương Phong là nghĩa phụ của chàng, tình nghĩa là điều dĩ nhiên; song Hồng Thất Công khảng khái hào hiệp, có phong độ một bậc đại hiệp đương thế, khiến chàng vừa gặp đã tâm phục. Suốt ba ngày đói rét, chàng bất chấp nguy hiểm lo liệu cho Hồng Thất Công; ba ngày đêm ấy hai người không nói với nhau một lời, song trong tâm khảm Dương Quá, tựa hồ chàng đã vào sinh ra tử với Hồng Thất Công cả ngàn lần vậy.

Sau mấy chục chiêu, Dương Quá thấy hai vị lão nhân trước mọi ngón đòn cực kỳ lợi hại của đối phương đều có thể hóa giải, thì chàng không lo cho sự an nguy của cả hai bên nữa, mà chỉ chăm chú ngắm kỹ võ công kỳ diệu. "Cửu Âm chân kinh" là tổng cương của võ thuật thiên hạ; chàng biết chỉ một phần nhỏ rời rạc, song chàng thấy chiêu số của hai người ám hợp với yếu nghĩa của "Cửu Âm chân kinh", thì bất giác cả mừng, nghĩ thầm: "Một câu rất bình thường trong Cửu Âm chân kinh lại có thể diễn hóa huyền diệu tới mức này đây".

Đấu đến hơn một ngàn chiêu, võ công của hai người vẫn chưa tận, song tuổi đã cao, họ đều cảm thấy thấm mệt, chân tay không khỏi có phần uể oải. Dương Quá gọi to:

– Hai vị đấu chán chê, chắc đã đói bụng rồi, chúng ta hãy chén một bữa, rồi đấu tiếp, được chăng?

Hồng Thất Công nghe thấy chữ "chén" thì lập tức nhảy lùi lại, nói:

– Hay lắm! Hay lắm!

Dương Quá sớm nhìn thấy "Tạng biên ngũ xú" bỏ lại giỏ thức ăn đằng kia, bèn chạy tới, mở giỏ ra, thấy bên trong có gà luộc thịt luộc, cơm, rượu đủ cả. Hồng Thất Công cả mừng, vớ con gà luộc mà ngoạm ngon lành.

Dương Quá đưa cho Âu Dương Phong một tảng thịt luộc, dịu giọng nói:

– Cha ơi, những ngày qua cha ở đâu?

Âu Dương Phong chăm chú nhìn chàng, rồi nói:

– Ta đi tìm con.

Dương Quá nao lòng, nghĩ thầm: "Trên đời vẫn có người chân tình yêu thương ta". Chàng nắm cánh tay lão nói:

– Cha ơi, cha chính là Âu Dương Phong. Vị Hồng lão tiền bối kia là người tốt, cha đừng đánh nhau với Hồng lão tiền bối nữa.

Âu Dương Phong chỉ Hồng Thất Công, nói:

– Lão ta là Âu Dương Phong đấy, Âu Dương Phong là kẻ xấu.

Dương Quá thấy nghĩa phụ thần trí mê loạn, thì rất khổ tâm. Hồng Thất Công cười, nói:

– Đúng lắm, Âu Dương Phong là kẻ xấu, Âu Dương Phong đáng chết!

Âu Dương Phong nhìn Hồng Thất Công, nhìn Dương Quá, hai mắt thao láo, cố nhớ lại, nhưng trong trí não tất cả vẫn rối loạn.

Dương Quá hầu Âu Dương Phong ăn xong, đứng dậy nói với Hồng Thất Công:

– Hồng lão tiền bối, đây là nghĩa phụ của tiểu nhân. Mong lão tiền bối nghĩ thương nghĩa phụ của tiểu nhân bị trọng bệnh, thần trí hồ đồ, mà không gây khó dễ cho nghĩa phụ của tiểu nhân.

Hồng Thất Công nghe chàng nói vậy, thì gật gù, nói:

– Hảo tiểu tử, thì ra lão ta là nghĩa phụ của ngươi.

Ai dè Âu Dương Phong đột nhiên đứng dậy, nói:

– Này Âu Dương Phong, hai ta đấu quyền cước bất phân thắng bại, vậy hãy đấu bằng binh khí.

Hồng Thất Công lắc đầu, nói:

– Không đấu nữa, coi như các hạ thắng ta là được chứ gì.

Âu Dương Phong nói:

– Thắng thua cái gì? Ta phải giết ngươi mới được.

Nói rồi bẻ một cành cây, tuốt lá đi, thành một cái côn, đánh xuống đầu Hồng Thất Công. Hồi trước cây xà trượng của lão tung hoành thiên hạ, lợi hại vô cùng, bây giờ cây côn này tuy không có cái đầu con rắn, nhưng một khi đánh xuống, đầu gậy chưa tới, mà một luồng kình phong đã khiến Dương Quá khó thở. Dương Quá vội nhảy tránh xa, nhìn Hồng Thất Công, thấy lão khiếu hóa nhặt một cành cây, làm cái bổng (gậy) ngắn, mà đấu với Âu Dương Phong. Đả cẩu bổng pháp của Hồng Thất Công thiên hạ vô song, song ít khi được thi triển, bây giờ gặp đối thủ, mới có dịp sử dụng.

Trận ác đấu này, so với trận đấu quyền cước vừa rồi, quang cảnh đã khác; chỉ thấy trượng đi uyển chuyển như thần long, bổng đến cuộn xoáy như linh xà; khi thì như cầu vồng vắt ngang trời, lúc thì như sao băng truy nguyệt, làm cho Dương Quá kinh tâm động phách, nhìn như si như say.

Hai người trượng đi bổng đến, đấu mãi tới gần tối, khó phân thắng bại. Dương Quá thấy địa thế hiểm trở, băng tuyết trên núi cực trơn, hai người tuổi đã cao, tái đấu tất có sơ suất, bèn gọi to bảo dừng, khuyên hai người ngừng đấu. Nhưng Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đang hăng say, há chịu dừng tay?

Dương Quá biết Hồng Thất Công mê các món ăn, nghĩ nếu có mùi thơm hấp dẫn, có thể kiến hiệu; bèn đào lấy mấy củ mài, củ sắn, đốt lửa nướng chín.

Hồng Thất Công ngửi thấy mùi thơm, nói:

– Xú Cáp Mô, không đánh nhau nữa, phải ăn cái đã.

Nói xong chạy tới chỗ Dương Quá, nhặt hai củ mài nướng lên ăn liền, tuy bị nóng bỏng cả miệng, nhưng vẫn lúng búng khen ngon. Âu Dương Phong cũng chạy tới vung trượng đập xuống đầu đối phương. Hồng Thất Công không tránh, ném một củ mài về phía Âu Dương Phong nói:

– Ăn đi đã!

Âu Dương Phong ngẩn người, giơ tay đón bắt củ mài mà ăn, quên luôn cuộc ác đấu vừa rồi.

Đêm ấy ba người ngủ trong một hang đá. Dương Quá muốn giúp nghĩa phụ phục hồi trí nhớ, gợi lại rất nhiều chuyện cũ. Âu Dương Phong chỉ ngẩn ngơ không đáp, có lúc giơ tay đấm mạnh vào đầu mình, rõ ràng cố nhớ, nhưng không lần ra manh mối, mười phần khổ não. Dương Quá sợ lão tái phát cơn điên, bèn khuyên lão nằm ngủ; còn chàng trằn trọc mãi không ngủ được, nhớ lại quyền pháp, chưởng pháp của hai người, càng nghĩ càng thú vị, không nhịn được phải rón rén ngồi dậy, luyện đến nửa đêm, mệt bở hơi tai mới đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, Dương Quá chưa tỉnh giấc, đã nghe ngoài hang tiếng gió ù ù, xen lẫn tiếng quát, chạy ra, đã thấy Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đang giao đấu với nhau. Chàng thở dài, nghĩ thầm: "Hai vị lão nhân gia này cải lão hoàn đồng hay sao mà ham đánh nhau thế không biết". Đành ngồi một bên mà xem, thấy mỗi chiêu mỗi thức của Hồng Thất Công đều đâu ra đó, còn chiêu số của Âu Dương Phong thì chàng khó nắm bắt, mỗi khi Hồng Thất Công chiếm thượng phong, lại bị Âu Dương Phong dùng quái chiêu lấy lại thế cân bằng.

Hai người ngày đấu đêm ngủ, đấu liên tiếp bốn ngày, đều mỏi mệt cả về tâm thần lẫn thể xác, cũng muốn dừng tay, nhưng rốt cuộc không chịu nhường nhịn nhau nửa chiêu.

Dương Quá nghĩ thầm: "Ngày mai gì thì gì cũng không thể để hai người đấu nữa". Đêm đó, chờ lúc Âu Dương Phong đã ngủ, chàng nói nhỏ với Hồng Thất Công:

– Mời Hồng lão tiền bối ra ngoài cửa hang, tiểu nhân có lời muốn thưa.

Hồng Thất Công theo chàng ra ngoài. Cách cửa hang mươi trượng, Dương Quá đột nhiên quì xuống, liên tục khấu đầu, không nói một lời. Hồng Thất Công ngẩn người một chút, chợt hiểu, rằng Dương Quá cầu xin lão nghĩ Âu Dương Phong có bệnh nặng mà nhường nhịn. Lão ngẩng mặt cười to, nói:

– Ừ thì thế vậy.

Bèn quẳng cây bổng mà đi xuống núi.

Nhưng mới đi được vài trượng, đã nghe tiếng gió dập vạt áo, Âu Dương Phong từ trong hang xông ra, vung trượng quét ngang, nói:

– Lão gia hỏa, định chuồn hả?

Hồng Thất Công nhường ba chiêu, muốn cướp đường mà đi, nhưng bị trượng phong bao vây bốn phía tám mặt, không thể thoát thân. Cao thủ tỷ võ ngang ngửa, Hồng Thất Công đã cố nhường nhịn, lập tức ở thế hạ phong, mấy lần nguy hiểm, suýt bỏ mạng dưới cây trượng của đối phương; thấy cây trượng đánh nhanh tới bụng dưới, biết sau nó còn có chiêu lợi hại hơn, không thể tránh được, vội dùng bổng chặn ngang, bỗng cảm thấy từ cây trượng truyền sang một luồng nội lực cực kỳ mạnh mẽ, bất giác ngạc nhiên: "Lão khùng lại muốn đấu nội lực với ta ư?" Vừa nghĩ thế, nội lực của đối phương đã ào ạt dồn sang, trừ việc dùng nội lực chống đỡ, không còn cách nào khác. Bèn vận kình lực kháng ngự.

Với tu vi của hai người hiện thời, dẫu có sơ suất trúng một trượng, một chưởng của đối phương, thì nội lực sẽ lập tức sản sinh, vừa giữ mình vừa chống đỡ; dù có bị thương, cũng không quá nguy hiểm; lúc này tỷ thí nội lực đã đến cảnh giới không thể nhường nhịn, chưa chết chưa dừng. Hai người mấy phen tỷ võ trước kia, đều e ngại đối phương cao cường, biết mình khó thắng, không dám liều lĩnh mạo hiểm, sợ rằng cầu vinh chẳng được, lại bị mất mạng. Không ngờ bây giờ Âu Dương Phong sau mấy ngày tỷ võ không thắng, đột nhiên vận nội lực, hùng hùng hổ hổ tấn công.

Hơn mười năm trước, Hồng Thất Công còn căm hận Âu Dương Phong tận xương tủy; nhưng hiện giờ tuổi đã cao, tính nóng đã bớt, lại thấy Âu Dương Phong điên điên khùng khùng, Dương Quá lại cầu xin, thì lão thật tình không có ý định sát hại, bèn vận khí đan điền, chỉ thủ không công, chờ cho nội lực của Âu Dương Phong suy kiệt. Nào ngờ nội lực của đối phương cứ như sóng lớn Trường Giang, ào ạt tràn tới hết lớp này lớp khác, đã không có dấu hiệu suy giảm, lại còn càng lúc càng hung mãnh. Hồng Thất Công tự tin nội lực thâm hậu, mấy chục năm nay dũng mãnh tinh tiến, dẫu không thắng nổi Âu Dương Phong, nếu dốc toàn lực phòng ngự thì nhất định không thể lạc bại, ai dè vài lần phản kích, chỉ thấy nội lực của đối phương càng lúc càng mạnh. Hồng Thất Công nhớ lại lúc đấu nội lực với Âu Dương Phong thông qua "Tạng biên ngũ xú", Âu Dương Phong đã ba lần dồn lực ra chân mà đẩy, lần sau mạnh hơn lần trước; bây giờ nhớ lại, dường như lực đạo của lần tấn công thứ nhất chưa dứt, kình lực của lần thứ hai đã tràn tới; lực đạo của lần tấn công thứ hai chưa dứt, kình lực lần thứ ba đã tràn tới. Nếu chỉ thủ, sẽ liên tiếp bị dồn ép, càng khó chống đỡ; phải thừa lúc sơ hở mà phản công, buộc đối phương phải phòng thủ, thì thế công kích mới không tích lũy mạnh dần; nghĩ vậy, Hồng Thất Công bèn vận kình phản kích, hai người dùng cương đối cương, cùng bị chấn động toàn thân.

Dương Quá thấy hai vị lão tiền bối tỷ thí nội lực, thì bất giác lo ngại; nếu chàng xuất thủ tập kích sau lưng Hồng Thất Công, dĩ nhiên có thể giúp nghĩa phụ đắc thắng. Nhưng chàng thấy Hồng Thất Công tóc bạc như cước, trong vẻ thần uy lẫm liệt vẫn lộ rõ sự hiền từ nhân hậu, cương chính hiệp nghĩa mà hiền hòa tươi vui, thật chàng không thể đang tâm gia hại, huống hồ Hồng Thất Công đã đáp ứng lời cầu khẩn của chàng mà nhường nhịn.

Hai người lại đấu một hồi, từ đỉnh đầu Âu Dương Phong bốc lên một lớp bạch khí, càng lúc càng đậm, trông như hơi nước sôi. Hồng Thất Công cũng dốc toàn lực chống đỡ, lúc này chẳng còn nghĩ chuyện đả thương đối phương hay không, chỉ lo giữ được mạng mình đã là may lắm rồi.

Từ sáng sớm đấu đến giờ Thìn, lại từ giờ Thìn đấu đến giờ Ngọ, nội lực của Hồng Thất Công đã cạn dần, nhưng nội lực của đối phương thì vẫn cứ như sóng dữ tràn tới, nghĩ thầm: "Lão độc vật này thì ra càng điên khùng càng lợi hại, lão khiếu hóa hôm nay bỏ mạng mất thôi". Lão đoán mình sẽ thua, đã không thể tránh né, thì đành ráng sức cầm cự, không biết rằng Âu Dương Phong cũng đã khí suy lực kiệt, khó bề giữ vững.

Lại đấu hai canh giờ nữa, đã tới giờ Thân. Dương Quá thấy hai vị sắc diện đại biến, nghĩ thầm họ đấu thêm một lúc nữa, chắc cả hai sẽ chết, nếu chàng nhảy vào chiết giải, công lực của chàng thua họ quá xa, quá nửa sẽ không tách được họ ra, mà chàng còn mất mạng, do dự hồi lâu, thấy Âu Dương Phong thần sắc sầu khổ, Hồng Thất Công thì thở dốc, nghĩ thầm: "Mình phải mạo hiểm, mới có thể cứu mạng họ". Thế là chàng bẻ một cành cây to, đến ngồi xếp bằng giữa hai người, vận công bảo vệ toàn thân, nghiến răng đẩy vào giữa trượng bổng của họ.

Ai dè một cái đẩy ấy hoàn toàn không cần dùng sức, nội lực của hai người truyền vào cành cây, bị nội lực của chàng đẩy ra, lập tức tiêu tán. Cái nỏ cực mạnh đã hết đà bay, chẳng xuyên thủng được da thú. Bắc Cái Tây Độc tuy đều là anh hùng thời nay, nhưng tỷ thí nội lực đã mấy ngày nay, tinh lực đều kiệt, bị nội lực của Dương Quá phản kích, tức thời ngã vật ra, mặt tái nhợt, không cựa quậy nổi. Dương Quá cả sợ, gọi to:

– Cha ơi, Hồng lão tiền bối, hai vị không việc gì chứ?

Hai người cùng khó thở, không trả lời.

Dương Quá định dìu hai người vào trong hang nằm nghỉ, Hồng Thất Công khe khẽ lắc đầu. Dương Quá biết hai người đã bị thương rất nặng, không nên di động, tối hôm ấy chàng nằm ngủ giữa hai người, chỉ lo nửa đêm họ lại vùng dậy đấu tiếp. Kỳ thực hai người muốn vận nội công trị thương còn chưa nổi, lấy đâu sức lực giao đấu? Sáng hôm sau Dương Quá thấy họ thở thoi thóp, còn yếu hơn cả tối qua, thầm lo sợ, vội đào củ mài nướng cho họ ăn. Mãi đến ngày thứ ba, hai người mới phục hồi một chút sinh khí. Dương Quá dìu họ vào trong hang, nằm chắn giữa họ với nhau.

Cứ thế nghỉ ngơi mấy hôm, Hồng Thất Công ăn được, phục hồi sức lực nhanh hơn. Âu Dương Phong thì cả ngày không nói, thần sắc cau có; Dương Quá gợi chuyện, lão cũng không buồn trả lời.

Hôm nay hai người đang nằm ngoảnh mặt vào nhau, Hồng Thất Công bỗng nói:

– Xú Cáp Mô, đã phục ta chưa?

Âu Dương Phong hỏi:

– Phục cái đếch gì? Ta còn nhiều món võ công chưa sử dụng, nếu đem ra thi triển thì ngươi đã bại từ lâu rồi.

Hồng Thất Công cười to, nói:

– Chính ta cũng còn nhiều món võ công chưa sử dụng. Ngươi có nghe nói đến "Đả cẩu bổng pháp" của Cái bang hay chưa?

Âu Dương Phong chột dạ, nghĩ thầm: "Đả cẩu bổng pháp", cái tên này hình như đã nghe qua, lợi hại lắm thì phải, không lẽ thằng cha kia biết sử dụng. Nhưng trong cuộc ác đấu vừa rồi, tại sao hắn chưa sử dụng? Hay là hắn đã thi triển từ sớm rồi? Nếu không, hắn đâu có cầm cự được tới giờ? "Bèn nói:

– Đả cẩu bổng pháp là cái quái gì?

Hồng Thất Công đã hối hận, hôm trước đấu với Âu Dương Phong, lão đã định thi triển Đả cẩu bổng pháp để chế ngự đối phương, nhưng thấy Âu Dương Phong thần trí hồ đồ, bản thân lão đã chiếm không ít tiện nghi, nếu lại đem Đả cẩu bổng pháp là môn chí bảo của Cái Bang ra đối phó, có thắng cũng chẳng vẻ vang gì, không phải là hành động anh hùng hảo hán, ai dè Âu Dương Phong tuy điên khùng, song võ công chẳng vì thế mà suy giảm, lại quyết ý đấu theo lối lưỡng bại câu thương. Bây giờ có muốn sử dụng Đả cẩu bổng pháp, lão đã không còn hơi sức, nghe Âu Dương Phong nói rõ ràng không phục, thì chợt nảy ra một kế, giơ tay vẫy vẫy Dương Quá, bảo chàng ghé tai, nói:

– Ta là bang chủ tiền nhiệm của Cái Bang, ngươi có biết hay không?

Dương Quá gật gật đầu, hồi ở cung Trùng Dương, chàng từng nghe các vị sư huynh phái Toàn Chân đàm luận về các nhân vật thời nay, họ đều nói vị bang chủ tiền nhiệm của Cái Bang" Cửu chỉ thần cái "Hồng Thất Công võ công cái thế, can đảm hơn người, là đại anh hùng hảo hán.

Hồng Thất Công nói:

– Ta có một pho võ công muốn truyền cho ngươi. Pho võ công ấy vốn chỉ truyền cho bang chủ bổn bang, không truyền cho người ngoài. Nhưng vì nghĩa phụ ngươi mở miệng coi thường ta, nên ta muốn ngươi biểu diễn cho lão ta xem.

Dương Quá nói:

– Pho võ công của lão tiền bối đã không truyền cho người ngoài, thì vãn bối không dám học. Nghĩa phụ của vãn bối thần trí chưa phục hồi, lão tiền bối khỏi cần chỉ giáo.

Hồng Thất Công lắc đầu, nói:

– Ngươi tuy học chiêu thức, không biết quyết khiếu vận kình, khi lâm địch cũng vô dụng. Ta lại không muốn ngươi đánh lại nghĩa phụ ngươi, mà chỉ cần ngươi biểu diễn tư thức cho lão ta nhìn rõ thôi. Do vậy, cũng không thể bảo là ta truyền võ công cho ngươi.

Dương Quá nghĩ thầm:" Pho võ công ấy đã là môn trấn bang của Cái Bang, nghĩa phụ mình vị tất chống đỡ nổi, tội gì mình đi giúp lão ta thắng nghĩa phụ mình? "Bèn thoái thác rằng chàng không dám học môn võ công bí truyền của Cái Bang.

Hồng Thất Công biết ý chàng, nói to:

– Xú Cáp Mô, nghĩa nhi của ngươi biết ngươi không địch nổi Đả cẩu bổng pháp của ta, nên không chịu diễn xuất cho ngươi xem.

Âu Dương Phong cả giận, nói:

– Hài nhi, ta còn mấy thứ võ công thần kỳ chưa sử dụng, sợ gì lão ta? Mau diễn xuất ta coi.

Dương Quá bị ép từ hai phía, không còn cách gì, đành tới bên cạnh Hồng Thất Công.

Hồng Thất Công bảo chàng bẻ một cành cây, nói tỉ mỉ cho chàng nghe một chiêu" Bổng đả song khuyển "trong Đả cẩu bổng pháp. Dương Quá vừa nghe đã hiểu, theo đó diễn xuất.

Âu Dương Phong thấy bổng chiêu thần kỳ, quả nhiên lợi hại, nhất thời khó hóa giải, nghĩ một hồi lâu mới nói một chiêu trượng pháp cho Dương Quá nghe. Dương Quá theo đó diễn xuất. Hồng Thất Công mỉm cười, khen:

– Hay!

Lại nói một chiêu Đả cẩu bổng pháp.

Hai ngươi cứ thế đấu võ mồm với nhau, đến tối cũng mới xong được mười chiêu, thì Dương Quá đã mệt bở hơi tai, mồ hôi đầm đìa. Mất đứt ba ngày, ba mươi sáu lộ bổng pháp mới hoàn tất. Đả cẩu bổng pháp tuy chỉ có ba mươi sáu lộ, song sự biến hóa tinh vi thì lại huyền diệu vô cùng, càng về cuối, Âu Dương Phong càng tốn thời gian suy nghĩ; song chiêu số hồi kích của lão cũng đầy đủ công thủ, uy lực không kém phần lợi hại, khiến Hồng Thất Công nhìn cũng thầm thán phục.

Đến gần tối hôm ấy, Hồng Thất Công nói đến cách biến hóa thứ sáu của chiêu" Thiên hạ vô cẩu "trong ba mươi sáu lộ bổng pháp, đây là tuyệt chiêu khi biến hóa chiêu cuối cùng của Đả cẩu bổng pháp. Khi thi triển chiêu này, tứ diện bát phương đều là gậy, dẫu có mấy chục con chó dữ xung quanh cũng đều đánh chết, bốn chữ" Thiên hạ vô cẩu "là có nghĩa như vậy, cái tinh diệu của bổng pháp đã đạt tới tuyệt chỉ trong võ học. Âu Dương Phong dĩ nhiên khó có đối sách. Cả đêm hôm ấy Âu Dương Phong cứ trằn trọc mãi.

Sáng hôm sau, Dương Quá chưa dậy, Âu Dương Phong đã reo lên:

– Có rồi, có rồi, hài nhi, mau thi triển trượng pháp hóa giải.

Tiếng gọi vừa gấp vừa mừng. Dương Quá nghe hơi lạ, nhìn về phía đó, bất giác cả kinh, thì ra Âu Dương Phong tuy tuổi cao, nhưng nội lực thâm hậu, nên tóc chỉ mới hoa râm, nay qua một đêm suy ngẫm, cả mái tóc đã bạc trắng, tựa hồ già đi hàng chục tuổi.

Dương Quá đau lòng, định mở miệng cầu xin Hồng Thất Công đừng tỷ thí nữa, Âu Dương Phong đã thúc giục rối rít. Chiêu này thập phần phức tạp, Âu Dương Phong nói đi nói lại, Dương Quá mới hiểu rõ, theo lời mà diễn xuất.

Hồng Thất Công vừa xem thì sắc mặt đại biến, lão vốn chỉ nằm liệt một chỗ, khó bề cựa quậy, thế mà lúc này như bỗng sinh thần lực, bật dậy, gọi to:

– Lão độc vật, Âu Dương Phong! Lão khiếu hóa hôm nay khâm phục ngươi đó.

Rồi bước sang ôm choàng lấy Âu Dương Phong.

Dương Quá cả kinh, tưởng Hồng Thất Công định đả thương nghĩa phụ, vội kéo lưng lão ra, nhưng lão ôm quá chặt, kéo không ăn thua gì. Chỉ nghe Hồng Thất Công cười ha hả, nói:

– Lão độc vật, Âu Dương Phong! Ngươi đã nghĩ ra được một tuyệt chiêu, giỏi quá chừng! Hảo Âu Dương Phong! Hảo Âu Dương Phong!

Âu Dương Phong qua mấy ngày ác đấu, một đêm suy ngẫm khổ sở, thần đã suy, lực đã kiệt, nghe ba tiếng" Âu Dương Phong "thì đột nhiên hồi quang phản chiếu, trí óc bỗng sáng bừng, chuyện cũ mấy chục năm dồn dập hiện ra, cũng cười ha hả, reo lên:

– Ta là Âu Dương Phong! Ta là Âu Dương Phong! Ngươi chính là lão khiếu hóa Hồng Thất Công!

Hai lão nhân bạc đầu ôm nhau cười hô hố; cười một hồi, nghe tiếng nhỏ dần, rồi tắt hẳn, cả hai không thấy cử động gì cả.

Dương Quá cả kinh, gọi:

– Gia gia, lão tiền bối!

Không ai trả lời. Dương Quá đưa tay kéo Hồng Thất Công một cái, hai lão ngã ngay ra, đã chết rồi.

Dương Quá kinh hãi, cúi xuống chỗ Âu Dương Phong, nghĩa phụ cũng đã tắt thở. Hai người đã chết, mặt vẫn giữ vẻ tươi cười, tiếng cười của họ dường như vẫn âm vang trong sơn cốc.

Bắc Cái, Tây Độc mấy chục năm vài phen ác đấu, liều chết với nhau, ai dè cuối cùng lại cùng qui tiên trên đỉnh Hoa Sơn. Hai người suốt đời oán hận triền miên, lúc sắp chết lại ôm nhau cười vang. Mối thâm cừu đại hận mấy chục năm tiêu tan trong một tiếng cười!

Dương Quá nhất thời vừa kinh ngạc vừa bi thương, chưa có chủ ý, nghĩ thầm Hồng Thất Công từng giả chết ba ngày ba đêm, hay là hai lão tiền bối lại giả vờ chết? Nhưng thấy tình hình có vẻ không giống lắm, lại nghĩ thầm:" Rất có thể họ chết một thời gian, rồi sẽ sống lại. Hai vị lão nhân gia võ công cao siêu như thế, sẽ không thể chết được. Không chừng hai vị lại thi nhau, xem ai giả chết lâu hơn cũng nên ".

Chàng túc trực bên hai cái xác đúng bảy ngày bảy đêm, sau một ngày, hi vọng lại bớt đi một phần, thấy sắc mặt hai người sạm dần, mới biết là họ đã chết thật, thì khóc to một hồi, đào hai cái hố ở ngoài cửa hang, đem hai vị kỳ nhân võ lâm mai táng. Cái bầu rượu của Hồng Thất Công, cùng trượng, bổng mà hai vị dùng làm binh khí tỷ thí, cũng chôn theo họ. Chàng thấy các vết chân của họ giẫm trên tuyết trong thời gian ác đấu, giờ đã kết thành băng cứng, dấu chân còn đó, mà thể xác thì đã nằm sâu trong lòng đất, Dương Quá không khỏi tiếc thương. Lại nghĩ đến võ công kinh thế hãi tục của hai vị, rốt cuộc lại bị một tên tiểu tử kém cỏi như chàng chôn xuống đất, bao nhiêu uy phong, bao nhiêu vinh dự cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi.

Chàng cung kính khấu đầu tám cái trước mộ hai vị, nghĩ thầm:" Nghĩa phụ tuy tài giỏi, cuối cùng vẫn thấp hơn Hồng lão tiền bối một bậc. Khi thi triển Đả cẩu bổng pháp, nghĩa phụ phải suy ngẫm khổ sở một đêm mới hóa giải được, nếu là đánh nhau thật, ai cho phép nghĩ ngợi lâu như thế? "Lại thở dài một hồi, rồi đi xuống núi.

Chàng mặc cho hai chân đưa chàng đi đâu thì đi, cũng chẳng phân biệt đông tây nam bắc, thiết nghĩ đại địa bao la, chỉ có một mình ta, phiêu bạt tứ xứ, lúc nào hết thọ mệnh, thì chỉ việc nằm xuống chết. Ở trên đỉnh Hoa Sơn chưa đầy một tháng, mà chàng tưởng như đã sống mấy năm. Khi lên núi thì đau khổ, phẫn uất vì bị người đời khinh rẻ. Khi xuống núi thì cảm thấy thế sự chỉ như phù vân, người đời quí trọng hay khinh rẻ thì cũng chẳng sao hết. Tuổi còn nhỏ, mà đã phẫn thế đố tục, coi cuộc đời như một trò đùa.

Một hôm mới một vùng hoang dã ở Thiểm Nam, phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy cành khô cỏ úa, gió bấc thổi ào ào, cỏ rạp xuống trỗi lên từng chập. Đột nhiên từ phía tây văng vẳng tiếng chân ngựa, bụi tung lên như sương mù, không lâu sau có mấy chục con ngựa hoang cuồng bôn từ tây sang đông, cách chỗ chàng đứng non một dặm. Nhìn đàn ngựa hoang thỏa sức phi nhanh, tự do tự tại giữa thảo nguyên, Dương Quá bất giác cũng cảm thấy khoan khoái dễ chịu.

Đồng cỏ bằng phẳng, đàn ngựa đã chạy xa, trời đất rộng lớn, không gì trói buộc, thật là đắc ý, bỗng nghe có tiếng ngựa hí bi thương phía sau lưng. Quay người lại, thấy một con ngựa gầy lông vàng kéo một chiếc xe chở củi thong thả chạy tới. Chàng tưởng con ngựa này thấy đồng loại được rong ruổi tự do giữa thảo nguyên, còn nó phải lao thần khổ dịch ở đây, nên hí lên bi thương như thế. Con ngựa gầy quá, gầy trơ cả xương, bốn cái vó dài teo hết cả thịt, trông khô khẳng như cành cây; lông rụng từng đám, mình mẩy rớm máu nhiều chỗ vì vết roi quất. Một hán tử thô lỗ ngồi chễm chệ trên xe, cứ không ngừng quất roi đánh ngựa, giục ngựa chạy nhanh.

Dương Quá bị người ta khi vũ đã nhiều, giờ thấy con ngựa còm khổ sở thế kia, cái roi tựa hồ đang quất vào chính thân chàng, chợt nao lòng, nước mắt muốn ứa ra. Hai tay chống nạnh, chàng đứng giữa đường, quát to:

– Tên kia, sao nỡ đánh con ngựa tàn tệ như thế?

Hán tử thấy một thiếu niên lam lũ, trông như thằng ăn mày, đứng chắn đường, bèn vung roi quát:

– Xê ra, muốn mất mạng hả?

Nói xong lại quật roi tới tấp xuống mình ngựa.

Dương Quá cả giận, nói:

– Mi còn đánh ngựa, ta sẽ giết mi.

Hán tử kia cười hô hố, vung roi đánh xuống đầu Dương Quá. Dương Quá giơ tay chộp lấy, đảo ngược cái roi, cầm đằng cán, xoay xoay một vòng trong không trung, rồi quấn vào cổ gã kia kéo hắn xuống khỏi xe mà đánh cho một trận.

Con ngựa tuy gầy ốm, nhưng rất có linh tính, thấy hán tử bị đánh, thì nó hí lên thích thú, dùng đầu giụi giụi vào ống chân Dương Quá, đầy vẻ thân thiết. Dương Quá giật đứt dây chằng giữ nó với cỗ xe, vỗ vỗ mông nó, chỉ tay về phía đám bụi mà đàn ngựa hoang còn để lại phía sau, nói:

– Mi hãy đi đi, không kẻ nào còn khi vũ mi nữa.

Con ngựa giơ hai vó trước lên, hí một tiếng dài, phi nhanh về đằng trước. Ai dè sức nó suy kiệt, đột nhiên phóng nhanh, không còn đủ sức, mới chạy được mươi trượng, thì chân trước bủn rủn, ngã khuỵu ngay xuống. Dương Quá nhìn vậy không nỡ, chạy tới luồn tay dưới bụng con ngựa, giục" Dậy nào! "Bốc con ngựa đứng lên. Gã hán tử thấy thần lực của chàng như thế, thì bỏ cả chiếc xe củi mà cắm đầu chạy, chạy đến nửa dặm mới kêu toáng lên:

– Cướp cướp! Có kẻ cướp ngựa, cướp củi!

Dương Quá cảm thấy tức cười, vặt mấy túm cỏ xanh cho con ngựa ăn, thấy con ngựa bị đày đọa, bất giác nảy sinh đồng bệnh tương liên, vuốt ve lưng nó, nói:

– Ngựa ơi, ngựa ơi, từ nay mi cứ đi theo ta!

Chàng cầm cương, dắt nó thong thả tới một thị trấn, mua một ít lúa mạch cho con ngựa ăn no. Hôm sau thấy con ngựa còm có vẻ khỏe lên, chàng mới cưỡi lên mình nó mà đi.

Con ngựa thoạt đầu bước đi còn lẩy bẩy, không ngờ càng đi càng vững; sau bảy, tám ngày được ăn no, tinh lực dồi dào, đã có thể phóng như bay. Dương Quá cả mừng, càng chăm chút nó hơn.

Một hôm chàng vào nghỉ ở một tửu lâu, con ngựa tự nhiên tới bên bàn, nhìn bát rượu ở bàn bên cạnh, hí hí mấy tiếng liền, như thể muốn uống. Dương Quá nổi lòng hiếu kỳ, gọi tửu bảo mang ra một bát rượu to, đặt trên bàn. Chàng xoa xoa đầu con ngựa, chìa bát rượu cho nó, nó uống một hơi hết luôn, ve vẩy đuôi, giậm giậm chân, vô cùng thích thú. Dương Quá cũng lấy làm lạ, gọi mang rượu ra, con ngựa uống liên tục mười bát rượu, mà còn định uống thêm. Tửu bảo thấy Dương Quá ăn mặc rách rưới, sợ chàng không có tiền để trả, nói rằng đã hết rượu.

Ăn xong, tiếp tục lên đường, con ngựa có lẽ say rượu, phóng như điên, cây cối bên đường cứ vùn vụt lùi về phía sau, càng phóng càng nhanh thêm, thân mình nó cứ nhấp nhô lên xuống, Dương Quá may có khinh công cực cao, nên mới ngồi vững trên yên. Con ngựa này quái dị ở chỗ, hễ thấy đằng trước có một con vật, thì nó nhất định phải phi vượt lên mới xong, bất kể đó là trâu bò lừa ngựa. Cái tính hiếu thắng trình cường có lẽ là do nó cả đời luôn bị làm nhục mà ra. Dương Quá nghĩ bụng con tuấn mã này rơi vào tay gã thôn phu thô lỗ, phong trần khốn đốn, uất ức mãi rồi, bây giờ bỗng được một phen tung vó, ắt muốn phi đi như bay.

Cái tính nết ấy sao mà giống với Dương Quá, một người một ngựa, thành đôi hảo hữu. Chàng vốn tâm tình phẫn uất dọc đường lấy việc huấn luyện con ngựa làm vui, tính nết thiếu niên, cũng chóng quên buồn. Từ đó một mạch đi xuống phía nam, đến bờ sông Hán Thủy. Dọc đường nhớ lại chuyện đùa giỡn Lục Vô Song cùng sư đồ Lý Mạc Sầu, ngồi trên lưng ngựa bất giác cười vui. Nghĩ đến Tiểu Long Nữ không biết hiện tại ở đâu, bao giờ mới được gặp lại nàng, thì chàng lại buồn bã vô cùng.

Hôm ấy đi đến chính ngọ, dọc đường chốc chốc lại gặp một khiếu hóa tử, nhìn bộ dạng họ, phần lớn đều biết võ công, Dương Quá nghĩ thầm:" Không lẽ cuộc tranh chấp giữa Lục Vô Song và Cái Bang còn chưa chấm dứt? Hay là Cái Bang triệu tập bang chúng, nhất quyết thư hùng với Lý Mạc Sầu? Cuộc nhiệt náo này không thể không xem ". Đối với Cái Bang chàng vốn không mấy hảo cảm, nhưng vì khâm phục Hồng Thất Công, mà tự dưng chàng có cảm giác thân cận với Cái Bang, nghĩ thầm nếu mấy khiếu hóa tử kia không phải đang gây khó dễ với Lục Vô Song, thì chàng sẽ báo cho họ biết cái tin Hồng Thất Công tạ thế. Lại đi một quãng, thấy trên đường khiếu hóa tử càng đông thêm. Các khiếu hóa tử nhìn Dương Quá cũng hơi lấy làm lạ, vì lối ăn mặc của chàng hệt như khiếu hóa tử, song bang chúng Cái Bang nếu không có việc thật khẩn cấp, thì không bao giờ họ cưỡi ngựa.

Dương Quá cũng chẳng để tâm, cứ thế đi.

Đi đến giờ Thân, bỗng nghe có tiếng chim điêu trên trời, một đôi chim điêu trắng bay qua, lao xuống phía trước. Chỉ nghe một khiếu hóa tử nói:

– Hoàng bang chủ đến rồi, tối nay chín phần sẽ tụ hội.

Một khiếu hóa tử khác nói:

– Không biết Quách đại hiệp có đến hay không?

Gã hóa tử thứ nhất nói:

– Vợ chồng họ như cán cân với quả cân, có bao giờ rời nhau..

Liếc thấy Dương Quá đang chú ý nghe họ nói chuyện, gã trừng mắt với chàng một cái, không nói nữa.

Dương Quá nghe nhắc đến tên Quách Tĩnh, Hoàng Dung, hơi ngạc nhiên, rồi cười nhạt, nghĩ thầm:" Ngày trước ta ăn chực ở nhà các người, bị các người khinh rẻ; bấy giờ ta còn bé nhỏ bất tài, phải chịu không ít khổ sở. Giờ đây ta lấy thiên hạ làm nhà, đâu cần dựa dẫm vào các người? "Lại nghĩ bụng:" Chi bằng giả bộ bơ vơ khốn khổ, xem các người đối xử với ta thế nào ".

Thế là chàng bèn tìm một chỗ vắng, vò tóc rối bù, đấm mạnh một cái vào mắt trái, cào cào mấy cái vào má, mắt trái lập tức sưng lên và tím lại, má có nhiều vệt cào xước rớm máu. Quần áo của chàng vốn đã rách, chàng lại xé cho rách thêm, rồi lăn mình xuống chỗ ướt át cho lấm lem, cộng với con ngựa gầy gò xấu xí, quả nhiên trông như một kẻ cùng đồ mạt lộ, thiểu não vô cùng. Hóa trang xong xuôi, chàng khập khiễng trở ra đường cái, không cưỡi ngựa nữa, mà đi lẫn vào đám hóa tử. Chàng không cầm cương dắt ngựa, con ngựa tự đi sau chàng. Có gã hóa tử hỏi chàng có đi dự buổi đại yến hay không, chàng giương mắt nhìn không đáp, đi lẫn với đám hóa tử, lúc với đám này, lúc với đám khác.

Đi đến lúc trời sắp tối, thì tới một tòa miếu lớn cũ nát. Thấy đôi chim điêu trắng đậu trên một cây tùng. Huynh đệ họ Võ một tay cầm chậu, tay kia nhặt từng miếng thịt trong chậu ném cho chim ăn.

Lần huynh đệ họ Võ cùng Quách Phù hợp lực đấu với Lý Mạc Sầu, Dương Quá từng đứng bên cạnh quan sát, nhưng lúc ấy chàng chỉ chú ý đến Quách Phù, không để ý lắm tới huynh đệ họ Võ. Lúc này chàng có dịp nhìn kỹ, thấy Võ Đôn Nhu thần sắc dũng mãnh, cử chỉ mạnh mẽ; Võ Tu Văn thì linh hoạt sinh động, luôn chạy chỗ này chỗ kia, không lúc nào yên. Võ Đôn Nhu mặc chiếc áo lụa tơ tằm, Võ Tu Văn thì mặc áo lụa Sơn Đông màu lam, cả hai đều thắt dây lưng bằng gấm thêu, quả nhiên là thiếu niên anh hùng, nhân tài xuất chúng.

Dương Quá bước tới, ấp úng nói:

– Hai vị.. Võ huynh.. vẫn mạnh giỏi!

Lúc này trước miếu sau miếu tụ tập khá đông hóa tử, người nào người nấy quần áo vá chằng vá đụp, Dương Quá tuy mặt mày lem luốc, song giữa đám đông hóa tử cũng không có gì khác biệt lắm.

Võ Đôn Nhu đáp lễ, nhìn Dương Quá một cái, không nhận ra chàng, nói:

– Thứ cho tiểu đệ mắt kém, tôn huynh là ai vậy?

Dương Quá nói:

– Tiện danh chẳng đáng xưng, tiểu đệ.. tiểu đệ muốn cầu kiến Hoàng bang chủ.

Võ Đôn Nhu nghe giọng nói quen quen, đang định hỏi, bỗng từ cửa miếu vọng ra giọng nói trong trẻo như tiếng chuông ngân:

– Đại Võ ca ca, muội nhờ ca ca mua giùm cái roi ngựa mềm, không biết ca ca đã mua hộ chưa?

Võ Đôn Nhu vội bỏ Dương Quá, quay sang đón người kia, nói:

– Huynh mua rồi, muội thử xem có vừa tay hay không này.

Nói rồi lấy trong túi ra một cái roi ngựa.

Dương Quá ngoảnh lại, thấy một thiếu nữ mặc áo màu xanh nhạt, từ trong miếu bước nhanh ra, đôi lông mày cong cong, cái mũi nhỏ, mặt như bạch ngọc, dung nhan tươi như hoa, chính là Quách Phù. Nàng phục sức cũng không sang trọng cho lắm, chỉ đeo một chuỗi minh châu trên cổ, hợp với khuôn mặt diễm lệ của nàng. Dương Quá chỉ nhìn nàng một cái rồi ngoảnh đi, không khỏi tự thẹn về sự nhơ bẩn của mình. Võ Tu Văn cũng chạy lại, hai huynh đệ cùng ra sức nịnh bợ Quách Phù.

Võ Đôn Nhu nói chuyện với Quách Phù một hồi, mới sực nhớ ra Dương Quá, quay lại hỏi:

– Tôn huynh đến dự anh hùng yến phải không?

Dương Quá chẳng hiểu anh hùng yến là gì, thuận miệng đáp phải. Võ Đôn Nhu bèn vẫy gọi và nói với một gã hóa tử:

– Hãy tiếp đãi vị bằng hữu này, ngày mai dẫn tới ải Đại Thắng.

Rồi quay qua trò chuyện với Quách Phù, chẳng lý gì đến Dương Quá nữa.

Gã hóa tử đáp ứng, hỏi họ tên của Dương Quá. Dương Quá nói thật ra. Chàng vốn là hạng vô danh, gã hóa tử kia tất nhiên chưa từng nghe tên chàng bao giờ, cũng không để ý. Gã tự xưng tên là Vương Thập Tam, là đệ tử hai túi trong Cái Bang. Gã hỏi:

– Dương huynh từ đâu tới?

Dương Quá nói:

– Từ Thiểm Tây.

Vương Thập Tam nói:

– Ồ, Dương huynh là môn hạ phái Toàn Chân à?

Dương Quá nghe ba tiếng" phái Toàn Chân "thì khó chịu, lắc đầu nói:

– Không phải.

Vương Thập Tam hỏi:

– Dương huynh chắc là có mang theo anh hùng thiếp đấy chứ?

Dương Quá ngẩn người, nói:

– Tiểu đệ lưu lạc giang hồ, làm sao được gọi là anh hùng? Chẳng qua ngày trước có gặp Hoàng bang chủ, nay cầu kiến để bẩm cáo vài việc liên quan.

Vương Thập Tam cau mày, ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Hoàng bang chủ bận tiếp đãi anh hùng thiên hạ, chỉ e không rỗi để gặp huynh.

Dương Quá lần này cố ý giả trang cơ hàn, đối phương càng khinh rẻ, chàng càng đắc ý trong thâm tâm, bèn ra sức cầu khẩn.

Bang chúng Cái Bang đều xuất thân bần khổ, xưa nay phò nguy giải khốn, không khinh miệt người bần cùng. Vương Thập Tam nghe Dương Quá nài nỉ khổ sở, thì nói:

– Dương huynh đệ, huynh đệ hãy ăn no bụng cái đã, ngày mai chúng ta sẽ cùng đến ải Đại Thắng. Huynh sẽ bẩm về đệ với trưởng lão, nhờ bẩm với bang chủ, tùy bang chủ phân phó, được chứ?

Vương Thập Tam lúc đầu gọi Dương Quá là Dương huynh, bây giờ nghe chàng trả lời không phải là người được mời dự anh hùng yến, mình lại nhiều tuổi hơn hẳn chàng, đổi sang gọi là Dương huynh đệ. Dương Quá rối rít cảm tạ. Vương Thập Tam mời chàng vào trong miếu, bưng suất cơm khách ra mời chàng ăn. Bang quy của Cái Bang định rằng, đệ tử bổn bang dù gặp dịp đại điển hỉ khánh, mọi thứ thịt cá đều phải đem nấu cho nhừ nát, hệt như thức ăn dư thừa, mới được ăn, để vĩnh viễn không quên gốc gác, nhưng khi chiêu đãi khách khứa, thì lại thết cơm rượu tử tế.

Dương Quá đang ăn, thấy Quách Phù cười nói vui vẻ ung dung đi vào đại điện, huynh đệ họ Võ theo hầu hai bên. Nghe Võ Tu Văn nói:

– Được, đêm nay chúng ta sẽ đi suốt đêm tới ải Đại Thắng. Để huynh đi dắt ngựa lại cho muội.

Ba người mải trò chuyện, không để ý đến Dương Quá đang ngồi ăn dưới đất. Họ đi vào hậu điện lấy bọc vật dụng, binh khí, ra khỏi miếu, sau đó lên ngựa phóng đi. Dương Quá ngồi ăn, nghe tiếng vó ngựa xa dần, trong lòng cảm xúc lẫn lộn, cũng không rõ là sầu hay hận, là nộ hay bi?

Sáng hôm sau Vương Thập Tam rủ chàng cùng đi. Dọc đường, trừ bang chúng Cái Bang, còn có không ít nhân vật võ lâm, hoặc cưỡi ngựa, hoặc bộ hành, chắc là đều đi dự anh hùng yến. Dương Quá chẳng biết anh hùng yến, anh hùng thiếp là cái gì, có hỏi chắc Vương Thập Tam cũng chả chịu nói, bèn giả si giả ngốc mà đi. Gần tối thì đến ải Đại Thắng. Đại Thắng là cửa ải hiểm yếu giữa vùng Dự Ngạc, dân cư thưa thớt, từ đây trở lên phía bắc là vùng đất do quân Mông Cổ chiếm đóng. Vương Thập Tam dẫn Dương Quá đi qua thị trấn, lại đi thêm bảy, tám dặm nữa, thấy phía trước có mấy trăm cây hòe cổ thụ bao quanh một đại trang viện, các lộ anh hùng hảo hán đều đi đến trang viện này. Trong trang viện có nhiều dãy nhà, không đếm xuể, xem chừng có thể tiếp đón hàng ngàn tân khách một lúc.

Vương Thập Tam trong Cái Bang chỉ là đệ tử thuộc hạng thấp kém, biết bang chủ hiện đang bận bịu yếu vụ đâu dám bẩm cáo những chuyện nhỏ nhặt? Sau khi bố trí cho Dương Quá một chỗ ở, y đi gặp các bằng hữu trò chuyện.

Dương Quá thấy trang viện rất sang trọng, các trang đinh qua lại nườm nượp để tiếp khách, thì kinh ngạc, không hiểu chủ nhân trang viện là ai mà thanh thế lớn vậy? Bỗng nghe đoành đoành ba tiếng súng hỏa mai, rồi nhạc trống tấu lên. Có người nói:

– Vợ chồng trang chủ thân chinh ra đón khách, bọn mình đi xem vị anh hùng nào đến đi.

Chỉ thấy tri khách, trang đinh đứng thành hai hàng, rất đông người tụ tập ở hai bên. Từ sau tấm bình phong đại sảnh sánh vai nhau bước ra một nam một nữ, đều trạc tứ tuần, nam thì mặc áo cẩm bào, để ria con kiến, phong thái hiên ngang; nữ thì trắng trẻo, có dáng dấp thanh lịch của bậc quí phái. Các tân khách nói nhỏ với nhau:

– Lục trang chủ và Lục phu nhân thân chinh ra đón đại tân khách đó.

Đằng sau hai người lại có một cặp vợ chồng, Dương Quá vừa nhìn thấy thì giật mình, mặt tự nhiên nóng bừng, đó là vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Dăm năm không gặp, Quách Tĩnh khí độ càng trầm tĩnh, Hoàng Dung thì mỉm cười, nhan sắc không kém gì ngày trước. Dương Quá nghĩ thầm:" Thì ra Quách bá mẫu quá xinh đẹp, hồi nhỏ ta không nhận biết ". Quách Tĩnh mặc trường bào bằng vải thô, Hoàng Dung thì mặc áo lụa màu tím nhạt, vì nàng là bang chủ Cái Bang nên không thể trang phục sang trọng. Theo sau Hoàng Dung là Quách Phù và huynh đệ họ Võ. Lúc này trong đại sảnh đã thắp lên vô số ngọn nến hồng, dưới ánh nến lung linh, nam càng thêm anh võ, nữ càng thêm kiều diễm. Tân khách chỉ trỏ, gật đầu:

– Vị kia là Quách đại hiệp, vị kia là Quách phu nhân Hoàng bang chủ.

– Khuê nữ tươi như hoa kia là ai vậy?

– Là nữ nhi của vợ chồng Quách đại hiệp đấy.

– Hai chàng trai kia là nhi tử của vợ chồng họ phải không?

– Không phải đâu, là điệt nhi đấy.

Dương Quá không muốn hội diện với vợ chồng Quách Tĩnh trước mặt mọi người, chàng nấp vào phía sau một hán tử cao lớn mà quan sát. Trong tiếng nhạc trống, từ bên ngoài tiến vào có bốn đạo nhân. Dương Quá vừa nhìn thấy, thì lập tức nổi giận, đi đầu là một lão đạo sĩ râu tóc và lông mày bạc như cước, mặt đầy khí tím, chính là Quảng Ninh tử Hách Đại Thông, một trong" Toàn Chân thất tử ", tiếp đến một lão đạo cô tóc hoa râm, vị này Dương Quá chưa từng gặp. Đằng sau là hai đạo sĩ trung niên sánh vai nhau, là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình.

Vợ chồng Lục trang chủ cùng vái lạy, gọi lão đạo cô là sư phụ, tiếp đến vợ chồng Quách Tĩnh, Quách Phù, huynh đệ họ Võ lần lượt hành lễ. Dương Quá nghe một lão nhân đứng bên cạnh chàng nói nhỏ:

– Vị lão đạo cô kia là nữ hiệp của phái Toàn Chân, họ Tôn, tên Bất Nhị.

Một người khác nói:

– Ồ, thì ra đó là" Thanh tịnh tản nhân "lừng danh Đại giang nam bắc.

Lão nhân nói:

– Đúng vậy. Lão đạo cô là sư phụ của Lục phu nhân. Võ nghệ của Lục trang chủ thì không phải do lão đạo cô truyền thụ.

Nguyên Lục trang chủ có song danh là Quán Anh, phụ thân của Lục Quán Anh là Lục Thừa Phong làm đệ tử của Hoàng Dược Sư, phụ thân của Hoàng Dung; do đó phải nói là vai vế của Lục Quán Anh so với Quách Tĩnh, Hoàng Dung còn thấp hơn một bậc. Phu nhân của Lục Quán Anh là Trình Dao Gia là đệ tử của Tôn Bất Nhị. Vợ chồng Lục Quán Anh vốn sống ở Qui Vân trang tại Thái Hồ, sau trang viện ấy bị Âu Dương Phong đốt trụi. Lục Thừa Phong cả giận, bảo nhi tử từ bỏ chức thủ lĩnh lục lâm ở vùng Thái Hồ, dời lên phương bắc, định cư ở ải Đại Thắng. Hiện thời Lục Thừa Phong đã qua đời từ lâu. Có dạo Trình Dao Gia gặp nạn, được Quách Tĩnh, Hoàng Dung và người của Cái Bang cứu giúp, nên luôn luôn nhớ ơn Cái Bang. Vừa rồi Cái Bang gửi thiếp mời anh hùng thiên hạ, vợ chồng Lục Quán Anh xuất lực lo liệu, bày anh hùng yến ở Lục gia trang.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung hành lễ xong, mời Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị vào đại sảnh, dẫn kiến với các vị anh hùng. Hách Đại Thông vuốt râu, nói:

– Bốn vị sư huynh Mã, Lưu, Khưu, Vương nhận được anh hùng thiếp của Hoàng bang chủ, đều bảo phải đi dự, nhưng Mã sư huynh gần đây không được khỏe, ba vị sư huynh kia phải giúp Mã sư huynh vận kình chữa trị, không thể phân thân, đành phải cáo tội với Hoàng bang chủ.

Hoàng Dung nói:

– Nói rất khéo, rất khéo. Mấy vị tiền bối quá khách sáo rồi.

Nàng tuy trẻ tuổi, nhưng làm bang chủ một bang lớn nhất trong thiên hạ, nên Hách Đại Thông tất phải hết sức tôn trọng nàng. Quách Tĩnh với Doãn Chí Bình hồi niên thiếu từng quen nhau, hôm nay gặp lại rất đỗi vui mừng, dắt tay nhau bước vào. Quách Tĩnh hỏi thăm bệnh tình của Mã Ngọc. Bàn tiệc được bày biện trong đại sảnh, tiếng người huyên náo, ánh nến sáng hồng, không khí rất tưng bừng. Doãn Chí Bình nhìn đông ngó tây, tựa hồ tìm kiếm một người nào đó. Triệu Chí Kính cười khẩy, nói nhỏ:

– Doãn sư đệ, vị Long gia nọ chẳng hay có đến hay chưa?

Doãn Chí Bình biến sắc, không trả lời. Quách Tĩnh không biết rằng Triệu Chí Kính vừa nói đến Tiểu Long Nữ, bèn hỏi:

– Vị anh hùng họ Long ấy là bằng hữu của hai vị sư huynh hay sao?

Triệu Chí Kính nói:

– Là hảo hữu của Doãn sư đệ, bần đạo đâu dám tương giao.

Quách Tĩnh thấy thần sắc hai người quái lạ, chẳng lẽ có tình ý gì khác, không tiện hỏi thêm.

Đột nhiên trong đám đông Doãn Chí Bình nhận ra Dương Quá, thì rùng mình như bị chớp giật sét đánh; y cho rằng Dương Quá đã ở đây thì Tiểu Long Nữ ắt cũng đã tới. Triệu Chí Kính nhìn theo ánh mắt của Doãn Chí Bình, tức thời sắc diện đại biến, tức giận thốt lên:

– Dương Quá! Đúng là Dương Quá! Tên tiểu.. tử ấy cũng đến.

Quách Tĩnh nghe hai tiếng" Dương Quá ", vội ngoảnh nhìn. Hai người xa cách mấy năm, Dương Quá giờ đã trưởng thành, Quách Tĩnh vốn khó lòng nhận ra, nhưng nghe Triệu Chí Kính nói thế, liền nhận ra ngay, trong bụng vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, vội chạy tới nắm cánh tay chàng, mừng rỡ nói:

– Quá nhi, ngươi cũng đến đây. Ta chỉ sợ làm lỡ việc luyện võ công của ngươi, nên không gửi thiếp cho ngươi. Sư phụ ngươi cho ngươi theo cùng, thật là hay quá chừng!

Việc Dương Quá rời bỏ cung Trùng Dương, phái Toàn Chân trên dưới đều coi là nỗi nhục của bổn giáo, không ai tiết lộ ra ngoài một câu, cho nên Quách Tĩnh ở Đào Hoa đảo không hề biết.

Triệu Chí Kính phen này đi dự anh hùng yến, nhân tiện sẽ cho Quách Tĩnh biết chuyện đó, không ngờ lại gặp Dương Quá. Y sợ Quách Tĩnh chỉ nghe lời một phía là Dương Quá, nhưng vừa nghe Quách Tĩnh nói, thì biết rằng hai người họ bây giờ mới gặp nhau lần đầu, bèn sa sầm mặt, ngẩng lên trời, nói:

– Bần đạo làm gì có đức có tài để là sư phụ của Dương gia kia chứ?

Quách Tĩnh vô cùng kinh ngạc, vội hỏi:

– Triệu sư huynh nói gì vậy? Chắc là tiểu hài nhi không nghe lời giáo huấn?

Triệu Chí Kính thấy trong sảnh đông đủ anh hùng, đề cập chuyện không hay với Dương Quá chỉ làm mất thể diện phái Toàn Chân, nên chỉ cười nhạt, không nói nữa.

Quách Tĩnh nhìn Dương Quá, thấy chàng mắt sưng húp, mặt có nhiều vết máu xước, quần áo rách như tổ đỉa, toàn thân lem luốc, rõ ràng phải chịu không ít cảnh khổ sở, thì đau lòng, ôm chặt lấy chàng. Dương Quá bị Quách Tĩnh ôm, vội ngầm vận nội công bảo vệ các chỗ yếu hại. Nhưng đó là Quách Tĩnh yêu thương chàng, không hề có ý hại chàng.

Quách Tĩnh gọi:

– Dung nhi, nàng xem ai đến đây này!

Hoàng Dung nhìn thấy Dương Quá, cũng hơi ngạc nhiên, song nàng không mừng rỡ như Quách Tĩnh, chỉ thản nhiên nói:

– À ngươi cũng đến à?

Dương Quá khẽ khàng thoát ra khỏi vòng ôm của Quách Tĩnh, nói:

– Điệt nhi người nhơ bẩn, chẳng dám làm bẩn y phục của Quách bá bá.

Chàng nói câu này rất lạnh lùng, pha chút châm biếm. Quách Tĩnh đau lòng, nghĩ thầm:" Hài tử này không cha không mẹ, xem chừng sư phụ của nó cũng chẳng thương yêu nó ", bèn cầm tay Dương Quá, muốn chàng ngồi cùng một bàn với mình. Dương Quá đã được chỉ cho một chỗ ngồi ở một góc khuất trong đại sảnh, cùng với những người thấp kém, xa lạ; chàng liền lạnh lùng nói:

– Điệt nhi ngồi đây được rồi, Quách bá bá hãy đi lo tiếp các quí khách!

Quách Tĩnh cũng cảm thấy có quá nhiều tôn khách, không tiện ngồi đây, bèn vỗ vỗ nhẹ vai chàng, trở lại bàn tiệc chính. Sau ba tuần rượu, Hoàng Dung đứng dậy nói to:

– Ngày mai là ngày chính thức anh hùng đại yến. Hiện còn vài lộ anh hùng hảo hán chưa đến kịp. Tối nay mong các vị hãy uống cho thỏa thích, chưa say chưa dừng. Ngày mai hãy bàn chính sự.

Mọi người vỗ tay khen phải.

Chỉ thấy trên các bàn tiệc thịt cao như núi, rượu tràn như suối, quần hào vui vẻ chuốc rượu, hàn huyên. Hôm nay không biết Lục gia trang mổ bao nhiêu heo, cừu, rót bao nhiêu vò mỹ tửu.

Tiệc rượu đã tàn, các trang đinh đưa các lộ hảo hán về các phòng nghỉ ngơi.

Triệu Chí Kính bẩm cáo vài câu với Hách Đại Thông, Hách Đại Thông gật gật đầu. Triệu Chí Kính đứng lên, ôm quyền nói với Quách Tĩnh:

– Quách đại hiệp, bần đạo phụ lời ủy thác, hổ thẹn vô cùng, hôm nay tới đây chịu tội.

Quách Tĩnh vội trả lễ, nói:

– Triệu sư huynh quá khiêm rồi. Chúng ta hãy sang thư phòng nói chuyện. Tiểu hài nhi gia đắc tội với Triệu sư huynh, tiểu đệ sẽ phạt hắn thật nặng, mong Triệu sư huynh bớt giận.

Quách Tĩnh nói to mấy câu ấy, Dương Quá tuy ở cách xa, nghe rất rõ, định bụng:" Chỉ cần Quách bá bá chửi ta một câu, ta sẽ đi ngay, không bao giờ gặp lại nữa. Nếu Quách bá bá đánh ta, tuy võ công ta thua kém, ta cũng quyết liều chết một phen ".

Ý đã quyết, chàng cảm thấy thản nhiên, đã không còn khó chịu như lúc mới nhìn thấy Triệu Chí Kính. Thấy Quách Tĩnh vẫy tay, chàng liền đứng dậy đi theo sau.

Quách Phù cùng huynh đệ họ Võ ngồi ở bàn khác, thoạt tiên không nhận ra Dương Quá, sau thấy cha mẹ đã nhận ra chàng, mới nhớ rằng đấy là cậu bé từng chơi đùa ở Đào Hoa đảo ngày trước. Xa cách đã lâu, tướng mạo thiếu niên thay đổi nhanh chóng, vài tháng không gặp đã khác, huống hồ mấy năm; hơn nữa Dương Quá lại cố ý giả trang làm một kẻ khốn cùng, lẫn lộn vào đám hành khất hàng trăm người, Quách Phù dĩ nhiên không thể nhận ra. Nàng gặp lại Dương Quá, trong lòng không khỏi xúc động, nhớ lại đôi lần ẩu đả ở Đào Hoa đảo, không hiểu Dương Quá còn nhớ hận cũ hay chăng? Nhìn tình trạng khốn khổ của chàng, so với hình mạo tuấn tú gọn gàng của huynh đệ họ Võ thật cách nhau một trời một vực, bất giác có phần thương cảm, bèn nói nhỏ với Võ Đôn Nhu:

– Gia gia dẫn chàng ta đến phái Toàn Chân học nghệ, không biết so với bọn ta thì thế nào?

Võ Đôn Nhu chưa đáp, Võ Tu Văn đã nói:

– Sư phụ võ công vô địch thiên hạ, hắn làm sao so được với chúng ta?

Quách Phù gật đầu, nói:

– Chàng ta từ đầu căn cơ đã kém, chắc khó có tiến cảnh, nhưng tại sao lại khổ sở thế kia không biết?

Võ Tu Văn nói:

– Mấy đạo nhân kia nhìn hắn cứ như muốn ăn sống nuốt tươi. Hắn xấu tính xấu nết, chắc là đã gây đại họa gì rồi.

Ba người thì thào với nhau một hồi, nghe Quách Tĩnh mời Hách Đại Thông vào thư phòng nói chuyện, lại bảo sẽ phạt nặng Dương Quá, Quách Phù nổi tính hiếu kỳ, nói:

– Này, chúng ta mau sang nấp ở thư phòng, xem họ nói chuyện gì.

Võ Đôn Nhu sợ sư phụ trách mắng, không dám đáp ứng. Võ Tu Văn thì rối rít khen hay, đã chạy trước Quách Phù. Quách Phù giả làm mặt giận, nói với Võ Đôn Nhu:

– Ca ca không nghe lời muội hả?

Võ Đôn Nhu thấy vẻ giận dỗi rất đẹp của nàng thì tim đập dồn, không dám trái lời, liền đi theo nàng.

Ba người vừa nấp sau giá sách, thì Quách Tĩnh, Hoàng Dung dẫn Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình bốn người đi vào thư phòng, hai bên phân ngôi chủ khách mà ngồi. Dương Quá vào sau, đứng một bên.

Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi, ngươi cũng ngồi xuống đi!

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Điệt nhi không ngồi đâu.

Đối diện với sáu vị cao thủ võ lâm, chàng dẫu to gan, cũng không khỏi hồi hộp lo lắng. Quách Tĩnh vốn coi Dương Quá như con cháu ruột của mình, đối với" Toàn Chân thất tử "lại mười phần kính trọng, thiết tưởng cũng khỏi cần hỏi rõ phải trái, mặc nhiên kẻ dưới có lỗi với bề trên, bèn nghiêm nghị nói với Dương Quá:

– Tiểu hài nhi thật to gan, dám bất kính sư phụ. Mau khấu đầu tạ tội với hai vị sư thúc tổ, sư phụ, sư thúc!

Thời ấy danh phận giữa quân thần, phụ tử, sư đồ rất rõ ràng, vua muốn bề tôi chết, bề tôi không dám sống; cha muốn con chết, con không dám sống. Còn sự phân định tôn ti sư đồ trong võ lâm cũng không sai lệch một ly.

Quách Tĩnh nói thế, tức là đã thương Dương Quá cô khổ, giọng nói ôn tồn muôn phần, chứ là người khác thì đã chửi loạn lên" Tên súc sinh, đồ chó đẻ ", đã đấm đá túi bụi rồi.

Triệu Chí Kính đứng phắt dậy, lạnh lùng nói:

– Bần đạo đâu dám làm sư tôn của Dương gia? Quách đại hiệp, đừng châm biếm nữa. Phái Toàn Chân chúng bần đạo không hề đắc tội với Quách đại hiệp, hà tất phải làm nhục nhau như vậy? Dương đại gia, tiểu bần đạo xin khấu đầu tạ tội với lão nhân gia, coi như tiểu bần đạo có mắt như mù, không biết ai là anh hùng hảo hán..

Vợ chồng Quách Tĩnh thấy y thần sắc đại biến, càng nói càng giận, thì rất đỗi kinh ngạc, nghĩ rằng đồ đệ phạm lỗi, sư phụ trách mắng cũng là chuyện thường tình, hà tất phải nói năng chẳng còn ra thể thống gì như vậy? Hoàng Dung đoán là Dương Quá hẳn đã phạm lỗi rất nặng, rồi Quách Tĩnh sẽ cho hắn một trận, bèn thong thả nói:

– Chúng đệ muội gây phiền phức cho Triệu sư huynh, thật là áy náy. Triệu sư huynh cũng không nên phát nộ, hài tử này đắc tội với sư phụ như thế nào, xin cứ ngồi xuống nói rõ cho.

Triệu Chí Kính nói lớn:

– Triệu Chí Kính mỗ là đồ hèn mọn, sao dám đòi làm sư phụ của người ta? Để cho hảo hán trong thiên hạ cười thối mũi hay sao?

Hoàng Dung mày liễu hơi cau, thâm tâm cảm thấy khó chịu. Nàng với giáo phái Toàn Chân vốn không có giao tình gì nhiều, ngày trước" Toàn Chân thất tử "từng bày Thiên Cang Bắc Đẩu trận vây công phụ thân nàng là Hoàng Dược Sư; Khưu Xứ Cơ lại từng chỉ muốn Mục Niệm Từ kết hôn với Quách Tĩnh, là hai việc khiến nàng không ưa chút nào; tuy hai chuyện qua cũng lâu lắm rồi, chẳng để bụng nữa, nhưng bây giờ trước mặt nàng Triệu Chí Kính lớn tiếng, xuất ngôn như thế là quá vô lễ.

Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị tuy biết vì sao Triệu Chí Kính nổi giận, nhưng nóng nảy thô bạo kiểu đó thực không phải là bản sắc của người xuất gia. Tôn Bất Nhị nói:

– Chí Kính, hãy nói rõ với Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ xem nào. Ngươi nóng nảy thô bạo như thế có ra gì hay không? Ngươi tu hành tu cái đạo gì như thế?

Tôn Bất Nhị tuy là nữ lưu, nhưng tính khí nghiêm nghị, chúng tiểu bối đều hết sức kính sợ lão đạo cô. Mấy câu chậm rãi vừa nói khiến Triệu Chí Kính không dám cãi, chỉ vâng dạ ngồi xuống.

Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi, ngươi coi sư phụ của ngươi đối với trưởng bối có qui củ thế nào, sao ngươi không noi theo kia chứ?

Triệu Chí Kính lại định nói" Ta không phải là sư phụ của hắn ", nhìn Tôn Bất Nhị một cái, rồi nhịn lại không nói, ai dè Dương Quá nói to:

– Y không phải là sư phụ của điệt nhi.

Câu này nói ra, Quách Tĩnh, Hoàng Dung cố nhiên rất đỗi kinh ngạc, Quách Phù và huynh đệ họ Võ nấp sau kệ sách cũng lấy làm lạ. Trong võ lâm, sự phân chia sư đồ rất nghiêm minh, tục ngữ có câu" nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ "(Một ngày làm thầy, suốt đời làm cha). Quách Tĩnh từ nhỏ được Giang Nam thất quái nuôi dạy nên người, lại được Hồng Thất Công truyền thụ võ nghệ, ơn thầy sâu nặng, từ nhỏ đã tin rằng cái đạo tôn sư quả là thiên kinh địa nghĩa, nào ngờ Dương Quá công khai không nhận sư phụ, nói những lời ngỗ nghịch. Quách Tĩnh đứng phắt dậy, chỉ mặt Dương Quá, hỏi, giọng run run:

– Ngươi.. ngươi.. vừa nói cái gì?

Chàng chưa chửi mắng, nhưng mặt đanh lại, tức là đã giận đến cực điểm. Hoàng Dung ít khi thấy chàng giận như vậy, thấp giọng khuyên chàng:

– Tĩnh ca ca, hài tử này bản tính không hay, đừng vì nó mà tức giận quá.

Dương Quá vốn đã sợ, lúc này thấy ngay cả Quách bá bá là người yêu thương mình cũng gằn giọng, thì chẳng cần gì nữa, nghĩ thầm:" Chết là cùng chứ gì? Cùng lắm thì các người giết ta ". Thế là chàng nói rành rọt:

– Điệt nhi bản tính chẳng ra gì, song cũng không hề cầu xin các vị truyền thụ võ công. Các vị đều là nhân vật lừng lẫy trong võ lâm, hà tất phải dùng quỉ kế làm hại một đứa bé bơ vơ không cha không mẹ như điệt nhi?

Nói đến bốn chữ bơ vơ" không cha không mẹ ", chàng tự thương cho thân thế của mình, nước mắt lưng tròng, nhưng lập tức cắn môi, tự nhủ" Hôm nay dù có chết, ta cũng quyết không rơi nước mắt ".

Quách Tĩnh giận nói:

– Quách bá mẫu của ngươi và sư phụ của ngươi.. có hảo tâm.. có lòng truyền thụ võ nghệ cho ngươi, đều là nghĩ đến giao tình giữa ta và phụ thân quá cố của ngươi, ai lại đi.. lại đi dùng quỉ kế gì? Ai.. ai.. lại làm hại ngươi?

Quách Tĩnh vốn không biết khéo nói, trong cơn thịnh nộ lại càng ấp a ấp úng hơn.

Dương Quá thấy vậy, thì nói thật rành rọt:

– Quách bá bá đối với điệt nhi rất tốt. Điệt nhi vĩnh viễn sẽ không quên.

Hoàng Dung thong thả nói:

– Quách bá mẫu hóa ra đối với ngươi không tốt. Ngươi thích suốt đời nhớ hận, thì tùy ngươi thôi.

Dương Quá đã đến bước này thì phải nói thẳng ra:

– Quách bá mẫu đối với điệt nhi chưa tốt, nhưng cũng không xấu. Quách bá mẫu miệng nói là truyền thụ võ nghệ, kỳ thực chỉ dạy điệt nhi đọc sách, không dạy một chút võ công nào cả. Nhưng đọc sách cũng là việc tốt, điệt nhi cuối cùng biết thêm được ít chữ, được nghe Quách bá mẫu giảng giải nhiều chuyện của cổ nhân. Còn mấy lão đạo sĩ này..

Chàng chỉ Hách Đại Thông và Triệu Chí Kính, căm hận nói:

–.. thì sẽ có ngày điệt nhi phải trả mối huyết hải thâm cừu mới xong.

Quách Tĩnh kinh ngạc, vội hỏi:

– Cái gì? Gì mà.. huyết hải thâm cừu.. tại sao ngươi nói thế?

Dương Quá nói:

– Lão đạo sĩ họ Triệu tự xưng là sư phụ của điệt nhi, nhưng không hề truyền thụ một chút võ nghệ nào cả, thế cũng được đi, nhưng lão ta lại sai một bọn tiểu đạo sĩ hùa nhau đánh đập điệt nhi. Quách bá mẫu không dạy võ công cho điệt nhi, phái Toàn Chân cũng không hề dạy võ công cho điệt nhi, điệt nhi chỉ được bọn đạo sĩ cho ăn đòn mà thôi. Lại còn lão họ Hách kia, thấy có một vị bà bà thương điệt nhi, liền ra tay đánh chết bà bà đó. Này lão đạo sĩ họ Hách thối tha kia, lão có thừa nhận việc đó hay không?

Nghĩ đến Tôn bà bà vì chàng mà bỏ mạng, chàng nghiến răng như muốn xông tới liều chết với Hách Đại Thông.

Hách Đại Thông là bậc cao sĩ của giáo phái Toàn Chân, cả Đạo học lẫn võ công đều đã tu luyện đến cảnh giới rất cao, tinh thông Dịch lý, trong phái Toàn Chân là một vị đạo sĩ xuất chúng, chỉ vì lỡ tay giết chết Tôn bà bà, mà mấy năm nay thấp thỏm không yên, coi đó là một mối hận bình sinh." Toàn Chân thất tử "bình sinh giết không ít người, nhưng những kẻ bị giết đều là phường gian ác, chứ họ chưa hề giết người vô tội. Lúc này nghe Dương Quá chỉ trích trước mặt mọi người, Hách Đại Thông bất giác tái mặt, tình cảnh Tôn bà bà hôm nào bị lão đánh hộc máu tươi lại hiện ra trước mắt rõ mồn một. Lão không mang theo binh khí, bèn giơ tay trái rút lấy thanh kiếm từ bên hông Triệu Chí Kính. Mấy người cứ tưởng lão định dùng kiếm để đâm Dương Quá, Quách Tĩnh liền bước lên một bước, tính che chở cho Dương Quá, nào ngờ Hách Đại Thông quay cán kiếm, chìa cho Dương Quá, nói:

– Đúng vậy, bần đạo đã giết lầm người. Thí chủ cứ việc báo thù cho Tôn bà bà đi, bần đạo sẽ không chống đỡ đâu.

Mọi người thấy vậy thảy đều kinh ngạc. Quách Tĩnh sợ Dương Quá nhận kiếm đả thương Hách Đại Thông, bèn nói:

– Quá nhi, không được vô lễ.

Dương Quá biết có mặt Quách Tĩnh, Hoàng Dung, chàng không thể báo thù, bèn lạnh lùng nói:

– Lão thừa biết Quách bá bá sẽ không cho phép ta động thủ với lão, nên mới tỏ ra cao thượng như thế. Lão thật sự muốn ta giết lão, sao không đưa kiếm cho ta ở chỗ vắng người?

Hách Đại Thông là bậc tiền bối võ lâm, lại bị một gã thiếu niên châm biếm mà không đối đáp nổi, tay cầm kiếm giơ ra không xong, rút về chẳng ổn, bèn vận kình làm cho kiếm gãy đôi, rồi vứt kiếm gãy xuống đất, thở dài nói:

– Thôi đành, thôi đành!

Lão bước ra khỏi thư phòng, Quách Tĩnh định giữ chân, nhưng thấy lão cắm đầu đi, chẳng buồn ngoảnh lại.

Quách Tĩnh nhìn Dương Quá, lại nhìn Tôn Bất Nhị, nghĩ bụng lời Dương Quá nói là thật không phải bịa, một lát, mới lên tiếng:

– Lẽ nào các vị sư phụ phái Toàn Chân lại không hề dạy võ cho ngươi? Vậy thì mấy năm trời ở đấy ngươi làm những gì?

Hỏi hai câu ấy, giọng nói của Quách Tĩnh đã dịu hẳn lại.

Dương Quá nói:

– Khi Quách bá bá lên núi Chung Nam, đã đánh cho mấy trăm gã đạo sĩ cung Trùng Dương một trận tơi bời, cứ tạm coi như chư vị chân nhân Mã, Lưu, Khưu, Vương không để bụng, song những kẻ khác thì đâu có quên mối hận ấy? Bọn họ không làm gì được Quách bá bá, bèn trút giận xuống đầu một mình điệt nhi. Bọn họ chỉ hận không đánh chết điệt nhi, đời nào còn truyền thụ võ công cho điệt nhi kia chứ? Mấy năm qua, điệt nhi phải sống trong cảnh hoàn toàn tăm tối, không thấy ánh sáng ban ngày, hôm nay còn sống gặp được Quách bá bá thế này, quả là ông trời có mắt.

Chàng nói mấy câu, trút toàn bộ nguyên do từ bỏ phái Toàn Chân sang vai Quách Tĩnh. Câu" phải sống trong cảnh hoàn toàn tăm tối, không thấy ánh sáng ban ngày "cũng hoàn toàn là thật, không bịa chút nào, vì chàng mấy năm sống trong" Hoạt tử nhân mộ ", làm gì có ánh sáng ban ngày. Quách Tĩnh nghe xong, không khỏi thương xót cho chàng.

Triệu Chí Kính thấy Quách Tĩnh chín phần tin lời Dương Quá, vội đứng dậy, nói:

– Ngươi.. đồ khốn kiếp.. hồ thuyết bát đạo.. ngươi.. hừ, phái Toàn Chân ta quang minh lỗi lạc.. nào.. khi nào..

Quách Tĩnh tin Dương Quá nói thật. Hoàng Dung thì nhìn mặt, thấy cặp mắt Dương Quá và thần sắc lanh lợi cơ biến thế kia, nghĩ thầm:" Hài tử này giảo hoạt vô cùng, bên trong ắt hẳn có sự dối trá ", bèn hỏi:

– Như thế tức là ngươi không biết một chút võ công nào chứ gì? Ngươi làm môn hạ phái Toàn Chân mấy năm coi như trắng tay phải không?

Vừa nói vừa thong thả đứng dậy, đột nhiên giơ tay đánh thẳng xuống đỉnh đầu Dương Quá.

Một đòn này, ngón tay đánh xuống huyệt Bách Hội, cửa của bộ não, gốc bàn tay thì đánh vào huyệt Thượng Tinh ở mép tóc với trán; hai đại yếu huyệt này đều là nơi trí mạng, chỉ cần trúng đòn mạnh, sẽ táng mạng tức thời, không gì cứu vãn. Quách Tĩnh cả kinh, thốt lên:

– Dung nhi!

Nhưng Hoàng Dung xuất thủ cực nhanh, một đòn này là" Lạc Anh thần kiếm chưởng pháp "gia truyền của nàng, hoàn toàn không có triệu chứng báo trước, Quách Tĩnh có muốn cứu Dương Quá cũng chẳng kịp. Dương Quá hơi ngả người ra phía sau, định tránh né; nhưng võ công của Hoàng Dung hiện thời ở bậc nào, đã xuất thủ đâu còn để cho chàng né tránh, mắt thấy bàn tay đã vỗ xuống đầu chàng. Dương Quá cả kinh, vội giơ tay đỡ, trong óc chợt nghĩ, tay phải mới giơ lên một chút liền lập tức buông thõng xuống. Một người võ công cao cường mà trí óc chậm hiểu như Quách Tĩnh, thì trong óc chưa hiểu rõ, tay chân đã động. Còn Dương Quá liệu sự cực nhanh, trong óc nghĩ ngay:" Quách bá mẫu muốn thử xem ta có biết võ hay không, nếu ta đưa tay chống đỡ chưởng này, thì có khác gì tự nhận vừa rồi ta nói láo. Nhưng mắt thấy chiêu này của Hoàng Dung đúng là sát thủ lợi hại, nếu Quách bá mẫu không thử mà đánh thật, thì ta uổng mạng hay sao? "Trong cái sát-na ấy, tính quật cường trỗi dậy, chàng nghĩ thầm:" Chết thì chết đã sao! "Võ công của chàng bây giờ tuy chưa bằng Hoàng Dung, nhưng nếu muốn giơ tay chống đỡ chiêu đó của nàng thì cũng không khó. Song chàng chấp nhận đại hiểm sinh tử, đứng thõng tay bất động.

Chiêu này của Hoàng Dung quả nhiên chỉ để thử võ công của chàng, tay vỗ xuống đầu nhưng không vận lực, chỉ thấy Dương Quá sắc diện kinh hoàng, không giơ tay chống đỡ, cũng không ngầm vận nội công bảo vệ yếu huyệt, hiển nhiên là chàng không hề biết võ công, Hoàng Dung bèn mỉm cười, nói:

– Ta không truyền thụ võ công cho ngươi, là mong điều tốt cho ngươi thôi. Các vị đạo gia phái Toàn Chân chắc cũng có tâm ý như ta.

Rồi ngồi xuống, nói nhỏ với Quách Tĩnh:

– Nó quả nhiên không hề học võ công phái Toàn Chân.

Nói xong, đột nhiên kêu thầm:" Ôi, nhầm rồi! Suýt nữa thì mình bị mắc lừa hắn ". Nhớ hồi trước ở Đào Hoa đảo, Dương Quá từng dùng" Cáp mô công "làm chấn thương Võ Tu Văn, võ công đã có chút căn cơ, dẫu mấy năm qua không có tiến cảnh, thì vừa rồi cũng nhất định phải biết cách chống đỡ một chưởng vỗ vào đỉnh đầu, nghĩ bụng:" Tên tiểu tử, ngươi thông minh quá chừng, tí nữa thì ta bị ngươi đánh lừa. Ngươi cứ giả bộ ngớ ngẩn không biết gì ta coi ". Bèn im lặng, không nói ra, định bụng xem Dương Quá còn giở trò quỉ gì nữa. Nàng nhìn Triệu Chí Kính, lại nhìn Dương Quá, chỉ mỉm cười.

Triệu Chí Kính thấy Hoàng Dung thử một chiêu, Dương Quá hoàn toàn không hoàn thủ, biết là Hoàng Dung đã mắc lừa, như thế y càng bị đuối lý, liền cả giận, quát to:

– Tên súc sinh quỉ kế đa đoan, Hoàng bang chủ thử ngươi không xong, để ta thử coi.

Y tới trước mặt Dương Quá, chỉ vào mũi chàng, nói:

– Tên súc sinh, người quả thật không biết võ công ư? Nếu ngươi không tiếp chiêu, đạo gia thủ hạ sẽ không dung tình, sống hay chết là tùy ở ngươi đó.

Y biết Dương Quá võ công đúng là cao hơn y, song y sẽ sử dụng sát thủ, buộc chàng phải bộc lộ chân tướng, nếu cố ý giả trang, thì tiện thể một đòn lấy luôn mạng chàng, nhiều lắm chỉ là trở mặt với Quách Tĩnh, Hoàng Dung, bị giáo chủ và sư phụ trách phạt là cùng. Đúng là no mất ngon, giận mất khôn, y nghĩ thầm:" Ngươi cho rằng Hoàng bang chủ không lấy mạng ngươi, cho nên ngươi mới cả gan giả vờ như thế. Để xem dưới tay ta, ngươi có dám vậy nữa chăng? "Liền vung tay áo ra đòn.

Quách Tĩnh kêu:

– Hãy khoan!

Chàng chỉ lo Triệu Chí Kính đánh chết Dương Quá, nên định can thiệp. Hoàng Dung kéo áo chàng, nói nhỏ:

– Tĩnh ca ca đừng quản.

Hoàng Dung biết Triệu Chí Kính phẫn nộ dị thường, xuất chiêu ắt rất nặng tay, Dương Quá không mong gì sự nương nhẹ, muốn sống nhất định phải hoàn thủ, lúc ấy chân tướng sẽ rõ như ban ngày. Quách Tĩnh không biết bên trong có nhiều uẩn khúc, trong bụng rất lo, nhưng biết thê tử liệu sự không bao giờ sai lầm, nên cũng không nói thêm, chỉ bước gần thêm một bước, để nếu thật sự có nguy hiểm, sẽ kịp ra tay cứu giúp.

Triệu Chí Kính nói với Tôn Bất Nhị và Doãn Chí Bình:

– Tôn sư thúc, Doãn sư đệ, tên súc sinh kia giả vờ không biết võ công, họ Triệu ta không còn cách nào khác, đành phải thử; nếu hắn giả vờ đến cùng, họ Triệu này có một chưởng đánh chết hắn, mong hai người làm chứng cho trước mặt sư bá chưởng giáo, Khưu sư bá và sư phụ của Triệu mỗ.

Nguyên do vì sao Dương Quá từ bỏ phái Toàn Chân, Tôn Bất Nhị dĩ nhiên biết rõ, vừa rồi thấy chàng khôn khéo dồn Triệu Chí Kính vào thế bế tắc, rõ ràng phái Toàn Chân bị đuối lý, lúc này đạo cô cũng muốn Triệu Chí Kính buộc Dương Quá bộc lộ chân tướng, bèn lạnh lùng nói:

– Đối với một tên nghịch đồ hủy sư phản giáo, đánh giết sao cũng được.

Lão đạo cô là một cao nhân, há đi khuyên kẻ khác giết người? Câu này chẳng qua chỉ để dọa Dương Quá, khiến chàng không dám tiếp tục giả vờ nữa. Triệu Chí Kính có sư thúc khích lệ, càng bạo gan hơn, tung chân phải, nhắm bụng dưới của Dương Quá mà đá mạnh một cái. Chiêu" Thiên Sơn phi độ "này trong cương có nhu, dương kình ẩn chứa âm kình, vô cùng lợi hại. Nhưng cú đá này kình lực tuy mạnh, lại không có gì sâu xa, chỉ là chiêu số nhập môn của võ công phái Toàn Chân, xuất chiêu hết sức bình thường, chỉ cần hơi biết chút võ công, là có thể hóa giải.

Phàm đệ tử phái Toàn Chân ngày đầu tiên học võ, tất sẽ học chiêu" Thiên Sơn phi độ "này cùng chiêu" Thoái mã thế "là chiêu né tránh, tức là một cặp vừa công vừa thủ. Triệu Chí Kính sử chiêu này là để chứng minh với Quách Tĩnh, Hoàng Dung, rằng" Bảo là ta không truyền thụ võ công cao thâm đã đành, không lẽ chiêu nhập môn đầu tiên cũng không dạy hay sao? "

Dương Quá thấy Triệu Chí Kính sử chiêu" Thiên Sơn phi độ ", thì chàng không dùng chiêu" Thoái mã thế "mà kêu:

– Ôi chao!

Tay trái giơ ra che bụng dưới, Triệu Chí Kính thấy chàng không chịu tránh né, thì không dung tha, đá thẳng luôn, chờ lúc mũi chân chỉ còn cách bụng Dương Quá ba tấc, trong chớp mắt thấy ngón cái tay phải của chàng hơi động, nhắm vào huyệt Đại Khoát ở chân phải của y.

Cú đá này nếu cứ tiếp diễn, thì mũi chân chưa tới thân thể đối phương, chân y đã bị điểm huyệt trước. Cũng có thể nói là đối phương không hề giơ tay điểm huyệt, mà là tự y chìa mũi chân cho người ta đụng vào huyệt đạo. Y là đệ nhất cao thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, trong lúc nguy cấp vội biến chiêu, chuyển hướng của cú đá, chân phải chếch ra bên cạnh sườn Dương Quá, tuy tránh được nguy cấp song thân hình hơi chao đi, mặt đỏ bừng.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung đều đứng phía sau Dương Quá, không nhìn thấy ngón tay cái của chàng, lại tưởng Triệu Chí Kính cước hạ lưu tình, vào sát-na cuối cùng đã đá ra chỗ khác. Tôn Bất Nhị và Doãn Chí Bình thì đã nhìn thấy rõ ràng. Tôn Bất Nhị đứng phắt dậy, quát:

– Hảo tiểu tử, thật là gian trá!

Triệu Chí Kính tả chưởng đánh nhứ, hữu chưởng vỗ chếch vào má bên trái của Dương Quá, chiêu" Tử điện xuyên vân "này là chiêu số thượng thừa cực kỳ tinh diệu, bàn tay đến giữa chừng đột nhiên chuyển hướng, rõ ràng đánh má trái, song cạnh bàn tay lại chém xuống phía cổ bên phải của đối phương. Nào ngờ Dương Quá đã luyện" Ngọc nữ tâm kinh "vô cùng nhuần nhuyễn," Ngọc nữ tâm kinh "chính là đại khắc tinh của võ công phái Toàn Chân. Mọi chiêu số quyền thuật chưởng pháp lợi hại của Vương Trùng Dương đều đã bị Lâm Triệu Anh đưa ra cách hóa giải tài tình. Dương Quá thấy Triệu Chí Kính giơ tả chưởng, chàng vội giơ tay ôm đầu, tựa hồ cả sợ, ngón trỏ tay trái đã che cổ gáy phía bên phải, có điều là bàn tay phải ở bên ngoài che lấp, nên Triệu Chí Kính không nhìn thấy, đợi lúc cạnh bàn tay của y chém xuống, thì đột nhiên ngón trỏ tay trái điểm trúng ngay huyệt Hậu Khê ở giữa cạnh bàn tay phải của Triệu Chí Kính. Chiêu này vẫn là Triệu Chí Kính tự đưa bàn tay tới cho Dương Quá điểm huyệt. Dương Quá chỉ là tiên liệu đặt ngón tay ở bộ vị chuẩn xác mà thôi. Triệu Chí Kính bàn tay bị điểm huyệt, cánh tay phải lập tức tê chồn, trong cơn cuồng nộ tung chân trái quét ngang, Dương Quá kêu to:

– Thôi chết!

Cánh tay trái hơi gập lại, đặt đỉnh cùi chỏ cách sườn bên trái hai tấc năm phân. Chân trái của Triệu Chí Kính đá tới, hai huyệt Chiếu Hải và Thái Khê ở cạnh bàn chân cùng lúc đụng vào đỉnh cùi chỏ của Dương Quá. Cú đá này tung ra trong cơn đại nộ, y dồn hết sức mạnh vào đó, cho nên huyệt đạo bị chấn động cũng mạnh, cả chân trái tê dại đi, y ngã khuỵu xuống đất.

Tôn Bất Nhị thấy sư điệt bị hố, giơ tay đỡ y dậy, vỗ mấy cái vào sau lưng, giải huyệt cho y. Dương Quá thấy lão đạo cô xuất thủ đã nhanh lại chuẩn, võ công cao hơn hẳn Triệu Chí Kính, thì cũng thầm e ngại, vội lùi về một bên.

Tôn Bất Nhị tuy tu đạo lâu năm, tính nết vẫn cực kỳ cương cường, thấy công phu của Dương Quá vô cùng kỳ bí, hình như chính là khắc tinh của võ công bản môn, tự mình ra tay cũng chưa chắc thắng nổi, bèn nói:

– Đi thôi!

Cũng chẳng thèm cáo biệt Quách Tĩnh, Hoàng Dung, phất tay áo vọt ra khỏi thư phòng bằng lối cửa sổ, rồi vọt lên nóc nhà mà đi. Doãn Chí Bình dường như vẫn còn thất hồn lạc phách, định chờ Quách Tĩnh, Hoàng Dung giải thích nguyên do, thì Triệu Chí Kính giận dữ quát:

– Còn chờ gì nữa?

Y kéo áo sư đệ, cả hai trước sau nhảy qua cửa sổ, đi theo Tôn Bất Nhị.

Bằng nhãn lực của mình, Quách Tĩnh, Hoàng Dung dĩ nhiên biết là Triệu Chí Kính bị người điểm huyệt, nhưng Dương Quá hiển nhiên không hề giơ tay điểm huyệt, chẳng lẽ cạnh đây có vị cao nhân nào ngầm tương trợ hay sao?

Quách Tĩnh vội thò đầu ra ngoài cửa sổ, song làm gì có ai? Quách Tĩnh cho rằng Triệu Chí Kính lúc hạ sát thủ bỗng nhiên không nỡ, nên giả vờ bị điểm huyệt để mượn cớ bỏ đi. Hoàng Dung thì đoán rằng Dương Quá đã dùng quỉ kế, có điều một là nàng đứng sau lưng Dương Quá, nhãn quang tinh mấy cũng chẳng thể nhìn rõ cử động của ngón tay và cùi chỏ, hai là nàng không biết trên thế gian còn có môn võ công" Ngọc nữ tâm kinh ", tiên liệu hành vi của đối phương, không tốn sức đánh trả mà vẫn khắc chế được võ công phái Toàn Chân, nên nhất thời đoán chưa ra. Nàng không có tấm lòng quân tử độ lượng như Quách Tĩnh, thấy bốn đạo nhân phái Toàn Chân rũ áo bỏ đi một cách vô lễ, thì ngấm ngầm tức giận.

Hoàng Dung ngoảnh lại phía sau, thấy bên dưới kệ sách lộ ra đôi hài màu xanh sẫm của Quách Phù, bèn gọi:

– Phù nhi, làm gì ở đó?

Quách Phù cười cười từ sau kệ sách bước ra, nói:

– Hài nhi và Võ gia ca ca đang tìm sách để xem.

Hoàng Dung biết ba đứa trẻ vốn không ham đọc sách, sao hôm nay lại chăm chỉ thế, vừa nhìn mặt Quách Phù, thì biết ngay chúng đã nấp vào đây từ trước để nghe trộm, đang định trách mắng vài câu, bỗng đệ tử Cái Bang bẩm báo có viễn khách lai lâm, Hoàng Dung nhìn Dương Quá một cái, rồi cùng Quách Tĩnh đi ra đón khách.

Quách Phù nói với huynh đệ họ Võ:

– Dương gia ca ca là bạn thời nhỏ của hai ca ca đấy, hai ca ca ra chào đi.

Huynh đệ họ Võ vốn bất hòa với Dương Quá, lúc này thấy chàng khốn khổ thế kia, ở với phái Toàn Chân đã không học được chút võ công nào, còn bị sư phụ mắng nhiếc là" Tên súc sinh, đồ khốn kiếp ", thì càng khinh bỉ, gọi một trang đinh tới, bảo hắn bố trí cho Dương Quá một chỗ ngủ.

Quách Phù đối với Dương Quá thì hết sức hiếu kỳ, hỏi:

– Dương đại ca, sư phụ của đại ca sao lại không cần đại ca vậy?

Dương Quá nói:

– Nguyên do thì nhiều. Ta vừa ngu vừa lười, tính nết khó chịu, lại không chịu cúi mình hầu hạ thân nhân của sư phụ, không chịu đi mua roi ngựa roi lừa..

Huynh đệ họ Võ nghe vậy biến sắc. Võ Tu Văn không nhịn được, quát:

– Ngươi nói cái gì?

Dương Quá nói:

– Ta nói ta vô dụng, không biết lấy lòng sư phụ.

Quách Phù cười, nói:

– Sư phụ của đại ca là đạo sĩ, chẳng lẽ cũng có con gái hay sao?

Dương Quá thấy nàng cười tươi như đóa hoa hồng chớm nở, xinh xắn vô cùng, thì bất giác xúc động, mặt hơi đỏ, ngoảnh ra chỗ khác. Quách Phù lâu nay bao giờ cũng dễ dàng làm cho huynh đệ họ Võ xoay quanh nàng như chong chóng, sớm đã mất hứng thú với họ, giờ thấy Dương Quá ngoảnh đi, biết là chàng bắt đầu rung động trước sắc đẹp của nàng, thì trong lòng đắc ý.

Dương Quá nhìn về góc phòng phía tây, thấy trên tường treo một đôi câu đối, vế trên viết" Đào hoa ảnh lạc phi thần kiếm ", vế dưới viết" Bích hải triều sinh án ngọc tiêu ". Tại" Thí kiếm đình "ở Đào Hoa đảo, chàng đã từng thấy đôi câu đối này, là do Hoàng Dược Sư viết, nhưng ở đây bên dưới lại đề" Phế nhân ở Ngũ Hồ viết trong lúc bị bệnh ". Về tuổi, chàng chỉ hơn ba người trước mặt vài ba năm, nhưng từng trải tâm sự thì phải già hơn cả chục năm, đọc năm chữ" Phế nhân ở Ngũ Hồ", nghĩ đến mấy người thân, hoặc đã chết hoặc xa cách, bản thân mình thì phiêu bạt đó đây cũng chẳng khác gì một phế nhân, cái tâm trạng đắc ý vì vừa buộc Triệu Chí Kính phải tức giận bỏ đi lập tức tiêu tan, một nỗi xót xa xâm chiếm trái tim, bất giác chàng cúi đầu, chán chường.

Quách Phù dịu dàng nói nhỏ:

– Dương đại ca, đại ca đi nghỉ đi nhé, sáng mai muội sẽ lại tìm đại ca nói chuyện.

Dương Quá thản nhiên nói:

– Được thôi!

Chàng theo trang đinh rời thư phòng, nghe tiếng Quách Phù gắt với huynh đệ họ Võ:

– Muội thích tìm chàng ta nói chuyện đấy, hai ngươi quản được muội chắc? Võ công chàng ta kém, thì muội sẽ xin gia gia giúp chàng ta.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 12: Anh Hùng Đại Yến

Sáng hôm sau Dương Quá ăn điểm tâm trong sảnh, thấy Quách Phù ở ngoài sân giơ tay vẫy vẫy, huynh đệ họ Võ lấp ló ở chỗ khác, thì chàng cười thầm, đi ra chỗ Quách Phù, hỏi:

– Cô nương tìm ta ư?

Quách Phù cười, nói:

– Vâng, đại ca đi theo muội ra ngoài cổng trang viện, muội muốn hỏi mấy năm rồi đại ca làm những gì?

Dương Quá thở dài, nghĩ chuyện của mình kể ba ngày đêm cũng chưa hết, hơn nữa có một số chuyện làm sao có thể đem kể với nàng kia chứ?

Hai người sánh vai nhau đi ra ngoài cổng, Dương Quá nghiêng đầu, liếc nhìn, thấy huynh đệ họ Võ lẽo đẽo bám theo ở xa xa đằng sau. Quách Phù biết thế, nhưng giả như không thấy, chỉ luôn miệng hỏi chuyện Dương Quá.

Dương Quá thì chọn mấy chuyện vô thưởng vô phạt mà nói, vừa nói vừa bịa cho vui, khiến Quách Phù thích chí cười khúc khích.

Quách Phù biết là Dương Quá bịa ra, nhưng vẫn thú vị. Hai người thong thả đến bên một cây liễu, bỗng nghe một tiếng hí dài, rồi một con ngựa còm, da bị ghẻ, chạy tới, dụi dụi đầu vào người Dương Quá, vẻ rất thân thiết.

Huynh đệ họ Võ thấy con ngựa xấu xí, không nhịn được, cười hô hố, tiến lại chỗ hai người.

Võ Tu Văn nói:

– Dương huynh, con thiên lý mã của huynh tuyệt quá nhỉ? Lúc nào huynh cho đệ mượn cưỡi với nhé.

Võ Đôn Nhu nói nghiêm trang:

– Đây là giống ngựa quí của nước Đại Thục, làm cách nào huynh mua được nó thế?

Quách Phù nhìn Dương Quá, nhìn con ngựa xấu xí, thấy cả hai bẩn thỉu, khốn khổ như nhau, bất giác cũng cười một tiếng.

Dương Quá cười, nói:

– Ta xấu, ngựa cũng xấu, một cặp xứng đôi. Ngựa của hai vị Võ huynh, chắc phải là thần mã.

Võ Tu Văn nói:

– Ngựa của tiểu huynh đệ cũng chỉ khá hơn con ngựa ghẻ của Dương huynh một chút, còn con ngựa hồng của Phù muội thì mới đúng là ngựa quí. Ngày trước ở Đào Hoa đảo huynh cũng đã nhìn thấy nó rồi đó.

Dương Quá nói:

– Thì ra Quách bá bá đã tặng con ngựa hồng cho Quách cô nương.

Bốn người vừa đi vừa trò chuyện. Quách Phù bỗng chỉ về phía tây, nói:

– Nhìn kìa, mẫu thân của muội lại đi truyền thụ bổng pháp kìa.

Dương Quá nhìn theo, thấy Hoàng Dung cùng một lão khất cái đang sánh vai nhau đi về phía một thung lũng, mỗi người tay cầm một cây gậy. Võ Tu Văn nói:

– Lỗ trưởng lão cũng ngu thật đấy, Đả cẩu bổng pháp học bao nhiêu lâu mà vẫn chưa xong.

Dương Quá nghe đến bốn chữ "Đả cẩu bổng pháp" thì hơi chột dạ, nhưng thản nhiên như không, quay đầu nhìn chỗ khác, làm như đang ngắm cảnh.

Quách Phù nói:

– Đả cẩu bổng pháp là bảo bối trấn bang của Cái Bang, mẫu thân của muội nói rằng Đả cẩu bổng pháp thần diệu vô cùng, là chiêu số lợi hại nhất trong các binh khí của thiên hạ, cho nên không phải là thứ chỉ học mươi bữa nửa tháng đã xong. Ca ca bảo Lỗ trưởng lão ngu, chắc ca ca thông minh lắm đấy?

Võ Đôn Nhu thở dài, nói:

– Chỉ tiếc trừ bang chủ của Cái Bang, Đả cẩu bổng pháp không truyền cho người ngoài.

Quách Phù nói:

– Sau này nếu Võ đại ca làm bang chủ Cái Bang, thì Lỗ bang chủ dĩ nhiên sẽ truyền cho đại ca. Đả cẩu bổng pháp, phụ thân của muội cũng không biết, đại ca đừng có sốt ruột.

Võ Đôn Nhu nói:

– Kém cỏi như huynh, làm sao có thể trở thành bang chủ Cái Bang? Phù muội này, muội bảo tại sao sư mẫu lại chọn Lỗ trưởng lão làm người thay thế mình?

Quách Phù nói:

– Mấy năm rồi mẫu thân của muội chỉ nhắc đến Lỗ trưởng lão mà thôi. Mọi việc lớn nhỏ của Cái Bang, đều giao cho Lỗ trưởng lão xử lý. Mẫu thân của muội nghe chuyện này chuyện nọ trong Cái Bang đã nhức đầu lắm rồi, bảo rằng hà tất cứ phải hữu danh vô thực thế này mãi, chi bằng để Lỗ trưởng lão chính thức làm bang chủ cho xong. Đợi Lỗ trưởng lão học xong Đả cẩu bổng pháp, thì mẫu thân của muội sẽ chính thức truyền vị cho Lỗ trưởng lão.

Võ Tu Văn nói:

– Phù muội, Đả cẩu bổng pháp rốt cuộc là đánh như thế nào? Phù muội đã nhìn thấy bao giờ chưa?

Quách Phù nói:

– Muội chưa thấy bao giờ. À, mà thấy rồi!

Nàng nhặt một cành cây ở dưới đất lên, đánh nhẹ vào vai Võ Tu Văn, cười, nói:

– Đánh thế này này!

Võ Tu Văn nói:

– Được, muội coi ta như con chó, để xem ta có tha cho muội được không?

Bèn giơ tay làm như chộp bắt nàng. Quách Phù cười, bỏ chạy. Võ Tu Văn đuổi theo, hai người chạy một vòng tròn lại trở về chỗ cũ.

Quách Phù cười, nói:

– Tiểu Võ ca ca, đừng làm ồn nữa, muội có một ý này.

Võ Tu Văn nói:

– Được, muội nói đi.

Quách Phù nói:

– Chúng ta đi xem trộm, xem Đả cẩu bổng pháp rốt cuộc là thứ bảo bối gì đi.

Võ Tu Văn vỗ tay khen hay, Võ Đôn Nhu thì lắc đầu nói:

– Nếu sư mẫu phát giác chúng ta học lén bổng pháp, thì sẽ bị mắng đó.

Quách Phù nói:

– Chúng ta chỉ nhìn trộm xem thế nào thôi, chứ không học lén. Hơn nữa, thứ võ công thần diệu ấy, nhìn qua vài cái thì làm sao biết nổi? Đại Võ ca ca, ca ca đúng là kẻ nhát gan!

Võ Đôn Nhu bị nàng nhiếc thế, chỉ mỉm cười, Quách Phù lại nói:

– Tối qua chúng ta trốn trong thư phòng nghe trộm, mẹ của muội có chửi mắng hay không? Tiểu Võ ca ca, hai chúng mình đi thôi.

Võ Đôn Nhu nói:

– Thôi thôi, coi như muội đúng, ca ca đi theo muội vậy.

Quách Phù nói:

– Môn võ công đệ nhất thiên hạ này, lẽ nào ca ca không muốn xem? Ca ca không đi xem cũng được, muội học được rồi, trở về sẽ đánh cho ca ca thế này này.

Nàng giơ cành cây lên nhứ nhứ.

Ba người họ rất chú tâm tới môn Đả cẩu bổng pháp, họ nghe danh đã lâu, nhưng nó là thế nào, thì cuối cùng họ vẫn chưa nhìn thấy. Quách Tĩnh từng giảng cho họ nghe, năm xưa tại đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, Hoàng Dung đã dùng Đả cẩu bổng pháp chiến thắng quần hùng, đoạt ngôi vị bang chủ như thế nào, ba hài tử nghe mà ngưỡng mộ vô cùng. Lúc này Quách Phù xướng nghị đi xem, Võ Đôn Nhu ngoài miệng phản đối, trong bụng thì rất muốn, chỉ giả vờ miễn cưỡng, làm theo chủ ý của Quách Phù, để lỡ có bị phát hiện, thì sư mẫu không thể trách mắng chàng ta.

Quách Phù nói:

– Dương đại ca, hãy cùng đi nào.

Dương Quá nhìn dãy núi xa xa, giả bộ đang suy nghĩ, không nghe thấy lời ba người. Quách Phù gọi thêm lần nữa, Dương Quá mới ngoảnh lại, vẻ ngơ ngác, nói:

– Được thôi, đi thì đi, nhưng đi đâu vậy?

Quách Phù nói:

– Dương đại ca đừng hỏi, cứ đi theo muội.

Võ Đôn Nhu nói:

– Phù muội, rủ chàng ta đi làm gì, chàng ta có xem cũng chả hiểu gì, lại hỏi này hỏi kia, khiến sư mẫu phát giác thì sao?

Quách Phù nói:

– Võ đại ca yên tâm, muội chú ý đến chàng ta là được. Hai người cứ đi trước đi, muội sẽ cùng Dương đại ca đi sau một chút, bốn người cùng đi thì tiếng chân nghe rõ lắm.

Huynh đệ họ Võ chẳng muốn thế chút nào, nhưng lại không dám làm trái lời Quách Phù, đành đi lên trước. Quách Phù nói:

– Hãy đi đường tắt đến chỗ cái cây to đằng kia mà nấp, mọi người cẩn thận chớ gây ra tiếng động, mẫu thân của muội sẽ không biết đâu.

Huynh đệ họ Võ đáp ứng, rảo bước hơn. Quách Phù nhìn Dương Quá, thấy bộ quần áo chàng mặc quá rách nát, thì nói:

– Khi về, muội sẽ bảo mẫu thân cho đại ca vài bộ quần áo mới, đại ca mặc vào sẽ không khó coi nữa.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ta vốn khó coi rồi, có mặc gì cũng thế thôi.

Quách Phù nói qua rồi thôi, cũng chẳng để tâm, nhìn theo bóng huynh đệ họ Võ, thở dài nhè nhẹ.

Dương Quá hỏi:

– Cô nương sao lại thở dài?

Quách Phù nói:

– Muội buồn lắm, đại ca chả hiểu được đâu.

Dương Quá thấy Quách Phù đôi má ửng hồng, mi mục thanh tú, quả là một cô nương tuyệt mỹ, xinh đẹp hơn hẳn Lục Vô Song, Hoàn Nhan Bình, Gia Luật Yến, thì lòng hơi rung động, nói:

– Ta biết cô nương buồn chuyện gì rồi.

Quách Phù cười, nói:

– Lạ nhỉ, làm sao đại ca có thể biết, đúng là chỉ đoán mò.

Dương Quá nói:

– Được, nếu ta đoán trúng, cô nương không được chối cãi đấy nhé.

Quách Phù giơ một ngón tay thon thả nõn nà chạm lên má phải, đôi mắt đung đưa, khoé miệng tủm tỉm, nói:

– Được, Dương đại ca đoán đi.

Dương Quá nói:

– Kể cũng khó chọn thật. Huynh đệ họ Võ đều thích cô nương, cố lấy lòng cô nương, cô nương chẳng biết chọn ai.

Quách Phù bị chàng đoán trúng tâm sự thầm kín, trống ngực bỗng đập mạnh. Điều này nàng biết, huynh đệ họ Võ biết, cha mẹ nàng biết, thậm chí cả sư công Kha Trấn Ác cũng biết, nhưng mọi người đều cảm thấy việc này thật khó nói ra, trong lòng ai cũng hay nghĩ đến, nhưng ngoài miệng thì lại chưa nhắc đến một lần. Bây giờ đột nhiên Dương Quá nói toạc ra, bất giác Quách Phù đỏ bừng cả mặt, vừa vui vừa buồn, vừa muốn cười, vừa muốn khóc, nước mắt lưng tròng.

Dương Quá nói:

– Đại võ ca ca tư văn ổn trọng, Tiểu Võ ca ca thì lại có thể giúp cô nương giải sầu. Cả hai cùng niên thiếu anh tuấn, võ công cao cường, lại cùng ngoan ngoãn vâng lời, ân cần săn đón, đúng là ca ca có cái hay của ca ca, đệ đệ có cái hay của đệ đệ, mà cô nương chỉ một thân này, biết gả cho ai bây giờ?

Quách Phù ngẩn ra nghe chàng nói, nghe xong câu cuối cùng, thì dẩu môi, nói:

– Dương đại ca chỉ giỏi nói quàng nói xiên, ai thèm kia chứ?

Dương Quá nhìn thần sắc của Quách Phù, biết mình đoán trúng, bèn nói như hát:

– Cô nương chỉ một thân này, biết gả cho ai bây giờ?

Quách Phù giả vờ không để tâm, nói:

– Dương đại ca, theo đại ca thì Đại Võ ca ca và Tiểu Võ ca ca, ai hơn ai?

Câu này thật bất ngờ. Nàng với Dương Quá tuy hồi nhỏ biết nhau, chơi với nhau, nhưng hồi ấy có hiềm khích, lại nhiều năm không gặp nhau, bây giờ cả hai đều đã trưởng thành, chuyện thầm kín của nữ nhi, sao lại đem ra thổ lộ với chàng? Nhưng Dương Quá tính tình hoạt bát, chỉ cần không đắc tội với chàng, thì chàng sẽ nói sẽ cười, hi hi ha ha, chỉ giây lát sẽ làm cho người khác vui như gặp gió xuân, thích như uống rượu ngon. Huống hồ Quách Phù từng nghĩ đến chuyện này hàng ngàn vạn lần, cảm thấy đúng là huynh đệ họ Võ mỗi người đều có ưu điểm riêng, thường ngày chơi đùa thì Võ Tu Văn rất hợp, nhưng cần làm việc nghiêm trang, thì phải có Võ Đôn Nhu. Thiếu nữ mới biết yêu, bình thời đối với hai chàng kia hoặc giận dỗi, hoặc vui buồn, đều làm cho họ thần hồn điêu đứng, trong thâm tâm thì nàng cảm thấy thật khó, nên chọn ai cho hơn, bây giờ buột miệng đem ra hỏi Dương Quá.

Dương Quá cười, nói:

– Ta thấy cả hai đều không được.

Quách Phù sững người, hỏi:

– Tại sao?

Dương Quá cười, nói:

– Nếu hai người ấy đều được, thì Dương Quá này còn hi vọng nỗi gì?

Dọc đường chàng đã quen mặt dày mày dạn đùa cợt giả làm vợ chồng với Lục Vô Song, kỳ thực hoàn toàn không có tà niệm, lúc này trò chuyện với Quách Phù, cũng lại buột miệng thốt ra.

Quách Phù ngẩn ra, nàng quen được nâng niu chiều chuộng, chưa ai dám nói một câu khinh bạc với nàng, lúc này không biết có nên nổi giận hay không, bèn nghiêm mặt, nói:

– Đại ca không trả lời thì thôi, ai nói đùa với đại ca? Chúng ta đi mau lên nào.

Rồi thi triển khinh công chạy về phía sau thung lũng.

Dương Quá nghe nàng nói thế, nghĩ thầm: "Mình xen vào giữa ba người ấy làm quái gì? Tự mình tránh xa ra là hơn!" Bèn quay mình đi thong thả, nghĩ bụng: "Huynh đệ họ Võ coi Quách Phù như tiên nữ, chỉ sợ nàng ta không lấy mình; thực ra nếu lấy được một cô nương đỏng đảnh kiêu ngạo như thế, thì sẽ khổ sở hơn là lạc thú, ôi, hai gã si mê, thật tức cười!"

Quách Phù chạy một hồi, cứ tưởng Dương Quá sẽ chạy theo xin lỗi, không ngờ đứng lại chờ một lát vẫn chẳng thấy chàng đâu, thì nghĩ thầm: "Chàng ta không biết khinh công, tất nhiên không theo kịp mình", bèn chạy trở lại, thấy chàng đi ngược chiều đã khá xa, thì lấy làm lạ, chạy nhanh đến trước mặt, hỏi:

– Sao đại ca không đến?

Dương Quá nói:

– Quách cô nương, hãy thưa với thân phụ thân mẫu cô nương, rằng ta đi rồi.

Quách Phù ngạc nhiên, hỏi:

– Sao tự dưng lại bỏ đi?

Dương Quá cười nhạt, nói:

– Chẳng sao cả, ta vốn không định đến, nhưng đã đến rồi, thì cũng nên đi thôi.

Quách Phù vốn thích cảnh nhiệt náo, tuy nàng xem thường Dương Quá, chỉ cảm thấy chàng trò chuyện thú vị hơn hẳn huynh đệ họ Võ, song thực tình nàng rất muốn Dương Quá đừng bỏ đi, bèn nói:

– Dương đại ca, chúng ta lâu năm không gặp, muội có rất nhiều điều muốn hỏi đại ca. Hơn nữa tối nay mở anh hùng đại yến, anh hùng hảo hán của các gia các phái khắp bốn phương tụ hội, tại sao đại ca lại không đến xem cho biết kia chứ?

Dương Quá cười, nói:

– Ta không phải là anh hùng, nếu cũng đòi tham dự, chẳng hóa ra làm trò cười cho các vị đại anh hùng hay sao?

Quách Phù nói:

– Kể cũng phải, nhưng số người không biết võ công ở Lục gia trang cũng đông lắm. Đại ca cứ ngồi cùng bàn với các quản gia, trưởng phòng tiên sinh cũng được mà.

Dương Quá nghe vậy thì cả giận, nghĩ thầm: "Đồ nhãi ranh, mi lại xếp ta vào loại thấp kém thế sao". Nhưng ngoài mặt thản nhiên, nói:

– Kể cũng phải.

Chàng đã định bỏ đi, nhưng thế này thì nhất định phải làm cho nàng ta bẽ mặt một phen mới được.

Quách Phù quen được nuông chiều, không hiểu nhân tình thế cố, câu vừa nói của nàng thực tâm hoàn toàn không có ý khinh thường, cũng không biết mình đã vô tình đắc tội với người khác. Thấy Dương Quá đổi ý, nàng cười, giục:

– Đi thôi nào, đừng chậm trễ nữa, đến muộn thì không được xem nữa đâu.

Nàng nhanh nhẹn đi trước, Dương Quá nặng nề đi sau, giả bộ mười phần chậm chạp, vụng về.

Chạy tới gần chỗ Hoàng Dung truyền thụ Đả cẩu bổng pháp cho Lỗ Hữu Cước, thấy huynh đệ họ Võ đã leo lên ngọn cây, ngó nghiêng tứ phía. Quách Phù nhảy lên cây, chìa tay kéo Dương Quá lên theo.

Dương Quá nắm bàn tay ấm mềm như nhung của nàng, bất giác lòng thấy xốn xang, nhưng vội nghĩ ngay: "Mi có xinh đẹp gấp mười thế này, cũng chưa bằng được nửa cô cô của ta".

Quách Phù hỏi khẽ:

– Mẫu thân của muội vẫn chưa đến à?

Võ Tu Văn chỉ tay về phía tây, nói nhỏ:

– Lỗ trưởng lão đang múa gậy ở đằng kia, còn sư mẫu thì ra nói chuyện với sư phụ.

Quách Phù bình sinh chỉ sợ một người là phụ thân nàng, nghe nói phụ thân cũng đến đây, cảm thấy có chuyện gì không ổn. Chỉ thấy Lỗ Hữu Cước cầm một cây gậy trúc, chọc bên này, gạt bên kia, chẳng có gì ghê gớm, thì nói:

– Đấy là Đả cẩu bổng pháp ư?

Võ Đôn Nhu nói:

– Quá nửa là như vậy. Sư mẫu đang chỉ bảo, thì sư phụ tới, có việc cần bàn, mời sư mẫu ra một bên nói chuyện, Lỗ trưởng lão tự tập một mình.

Quách Phù lại xem vài chiêu nữa, thấy chả có gì huyền diệu, thì nói:

– Lỗ trưởng lão học chưa được, chả có gì đáng xem, chúng ta đi thôi.

Dương Quá thấy Lỗ trưởng lão sử bổng pháp hoàn toàn đúng như thứ mà Hồng Thất Công đã truyền thụ trên đỉnh Hoa Sơn, thì cười thầm trong bụng: "Nhãi ranh đã không hiểu, lại còn mở miệng chê bai".

Huynh đệ họ Võ răm rắp tuân theo ý muốn của Quách Phù, đang định tụt xuống đất, thì dưới gốc cây có tiếng bước chân, vợ chồng Quách Tĩnh đang đi tới gần. Chỉ nghe Quách Tĩnh nói:

– Chung thân đại sự của Phù nhi, dĩ nhiên không thể xem nhẹ. Quá nhi còn ít tuổi, tuổi trẻ khó tránh ương ngạnh, gây chuyện rắc rối. Việc nó gây rắc rối ở phái Toàn Chân, xem ra cũng không phải chỉ mình nó có lỗi.

Hoàng Dung nói:

– Việc nó gây rắc rối ở phái Toàn Chân, thiếp chẳng ngại. Chàng nghĩ đến giao tình nhiều đời giữa hai họ Quách, Dương cũng phải. Nhưng Dương Quá quá giảo hoạt, thiếp càng nhìn, càng thấy nó giống phụ thân nó, thiếp làm sao có thể yên tâm gả Phù nhi cho nó?

Bốn người, Dương Quá, Quách Phù, huynh đệ họ Võ nghe câu đó, đều vô cùng kinh ngạc. Bốn người tuy biết hai nhà Quách, Dương có dây mơ rễ má, nhưng không ngờ lại có uyên nguyên nhiều đời sâu xa như vậy, càng không thể ngờ Quách Tĩnh có ý gả Quách Phù cho Dương Quá. Câu nói vừa rồi có quan hệ trọng đại với cả bốn người, nên cả bốn cùng chăm chú nghe, bốn quả tim cùng đập mạnh.

Quách Tĩnh nói:

– Dương Khang huynh đệ không may lưu lạc vương phủ nước Kim, ngộ giao với bọn phỉ, mới bị kết cục bi thảm, chết chẳng toàn thây. Nếu từ nhỏ chàng ta được Dương Thiết Tâm thúc phụ giáo dưỡng, thì chắc chắn không như vậy.

Hoàng Dung thở dài, nhớ lại chuyện kinh tâm động phách đêm nọ ở miếu Thiết Thương tại Gia Hưng, thì rùng mình, nói nhỏ:

– Đúng thế.

Dương Quá bao năm nay không biết lai lịch của mình, chỉ biết phụ thân chết sớm, chết bởi tay kẻ khác, nhưng chết như thế nào, kẻ thù là ai, thì chính mẫu thân của chàng cũng không chịu nói cho chàng biết. Bây giờ nghe Quách Tĩnh nhắc đến phụ thân, nào là "không may lưu lạc vương phủ nước Kim, ngộ giao với bọn phỉ", nào là "bị kết cục bi thảm, chết chẳng toàn thây", thì như bị sét đánh, toàn thân run rẩy, mặt tái nhợt. Quách Phù liếc sang, thấy thần sắc của chàng như vậy, chỉ sợ chàng đột nhiên ngã xuống thì nguy to.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung ngồi kề vai trên một tảng đá, xoay lưng về phía cây lớn. Quách Tĩnh vuốt vuốt mu bàn tay của Hoàng Dung, nói:

– Từ khi nàng mang thai hài tử thứ hai, gần đây sức khỏe kém hẳn dạo trước, phải mau mau giao hết mọi việc lớn nhỏ của Cái Bang cho Lỗ Hữu Cước, rồi phải lo bổ dưỡng thật chu đáo mới được.

Quách Phù cả mừng, nghĩ thầm: "Thế là mẹ sắp sinh đệ đệ, hay quá! Sao mẹ chả nói cho mình biết?"

Hoàng Dung nói:

– Công việc của Cái Bang, thiếp vốn không lo mấy. Riêng chung thân đại sự của Phù nhi, thì thiếp chưa yên tâm.

Quách Tĩnh nói:

– Phái Toàn Chân đã không chịu thu nhận Quá nhi, thì ta sẽ tự dạy cho nó vậy. Ta thấy nó là đứa hết sức thông minh, tương lai ta sẽ truyền thụ mọi môn võ công cho nó, cho bõ cái việc ta kết nghĩa với phụ thân nó.

Dương Quá lúc này mới biết thì ra Quách Tĩnh với phụ thân mình là huynh đệ kết nghĩa, ba tiếng "Quách bá bá" thực chứa đựng bao ý nghĩa, nghe lời lẽ của Quách Tĩnh đối với chàng nặng tình như thế, thì chàng cảm động ứa nước mắt.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Thiếp chỉ lo nó thông minh quá hóa hỏng, cho nên chỉ dạy nó kinh thư, không truyền võ công. Những mong sau này nó trở thành một bậc nam nhi chính phái, thâm minh đại nghĩa, dù không biết gì võ công, song chúng ta gả Phù nhi cho nó, cũng là mãn nguyện rồi.

Quách Tĩnh nói:

– Nàng việc gì cũng lo liệu chu toàn, ý định rất hay, nhưng Phù nhi tính nết như thế, lại một thân võ công như thế, bảo nó sống suốt đời với một thư sinh yếu ớt, nàng nghĩ là nó chịu ư? Nàng bảo nó chịu tôn trọng Quá nhi hay sao? Ta nghĩ một cặp vợ chồng như thế khó lòng hòa thuận.

Hoàng Dung cười, nói:

– Nói không biết ngượng? Hóa ra vợ chồng ta hòa thuận, chẳng qua là vì võ công của chàng cao hơn thiếp. Quách đại hiệp, nào chúng ta tỷ thí xem ai hơn ai.

Quách Tĩnh cười, nói:

– Được Hoàng bang chủ, nàng muốn sao thì bảo?

Chỉ nghe bộp một tiếng, Hoàng Dung vỗ nhẹ vào vai Quách Tĩnh.

Lát sau, Hoàng Dung nói:

– Ôi, chuyện này kể cũng khó, việc của Quá nhi tạm gác lại đã, còn hai huynh đệ họ Võ tính sao đây? Chàng thấy giữa Đại Võ và Tiểu Võ, đứa nào hơn?

Quách Phù và huynh đệ họ Võ tự nhiên trống ngực đập dồn. Chuyện này không liên quan đến Dương Quá, nhưng chàng cũng muốn nghe Quách Tĩnh đánh giá hai người kia thế nào.

Chỉ nghe Quách Tĩnh "Ừm" một tiếng, im lặng hồi lâu, cuối cùng mới nói:

– Chuyện nhỏ, nhìn chưa ra. Phải gặp chuyện lớn, phẩm tính thật sự của một con người mới bộc lộ rõ ràng.

Giọng Quách Tĩnh dịu lại, nói:

– Được rồi, Phù nhi tuổi còn nhỏ, vài năm sau tính chuyện kia chưa muộn, không chừng bấy giờ mọi việc sẽ tự an bài thỏa đáng, cha mẹ khỏi cần lo lắng. Nàng dạy Đả cẩu bổng pháp cho Lỗ Hữu Cước, cũng đừng gắng sức quá. Mấy ngày nay ta cảm thấy nàng thở hơi loạn, ta rất lo. Bây giờ ta đi tìm Quá nhi, nói chuyện với nó.

Đoạn đứng dậy, đi về trang viện.

Hoàng Dung ngồi lại điều hòa hơi thở một hồi, mới gọi Lỗ Hữu Cước tới diễn thử bổng pháp. Hiện tại Lỗ Hữu Cước đã học hết ba mươi sáu lộ Đả cẩu bổng pháp, chỉ chưa nắm được quyết khiếu sử dụng như thế nào mà thôi. Hoàng Dung kiên nhẫn giải thích cho Lỗ Hữu Cước nghe tỉ mỉ từng lộ một. Chiêu số của môn Đả cẩu bổng pháp này cố nhiên là tinh diệu, song tâm pháp quyết khiếu còn thần diệu vô tỉ, nếu không chỉ một cành tre cành trúc nhỏ làm sao có thể trở thành bảo bối trấn bang của Cái Bang kia chứ? Âu Dương Phong võ công lợi hại như thế, mà phải suy ngẫm khổ sở một đêm mới hóa giải nổi một chiêu Đả cẩu bổng pháp. Hoàng Dung đã tốn ngót một tháng truyền thụ chiêu số cho Lỗ Hữu Cước, bây giờ mới đem khẩu quyết và tâm pháp biến hóa đọc vài lần cho Lỗ Hữu Cước ghi nhớ thật kỹ, nói việc lĩnh hội thấu triệt tới mức nào là tùy ở tư chất và ngộ tính của mỗi người, cái đó thì sư phụ không thể truyền thụ được.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ không hiểu bổng pháp, nghe đọc thấy vô vị, nào quyết khiếu chữ "Phong" thế này thế này, còn quyết khiếu chữ "Triền" lại thế kia thế nọ, biến thứ mười tám chuyển sang thứ mười chín, thứ hai mươi như thế nào. Ba người đã định tụt xuống gốc cây, nhưng sợ Hoàng Dung phát giác, chỉ mong Hoàng Dung nói khẩu quyết cho chóng xong, rồi cùng Lỗ Hữu Cước đi về. Ai dè Hoàng Dung dự tính hôm nay tại anh hùng đại yến, trước khi truyền ngôi vị bang chủ cho Lỗ Hữu Cước, phải truyền cho lão hết khẩu quyết, thà lão chưa hiểu thì sau sẽ học tiếp chứ phải theo đúng bang qui, trước khi tiếp nhiệm chức bang chủ, lão đã học xong Đả cẩu bổng pháp. Hoàng Dung đọc gần một canh giờ mới hết. Lỗ Hữu Cước thì tư chất không được thông minh, tuổi đã già; trí nhớ sút kém, nhất thời làm sao nhớ nổi nhiều khẩu quyết đến thế? Hoàng Dung cứ nhắc đi nhắc lại, lão vẫn khó nhớ đầy đủ.

Hoàng Dung quen biết Quách Tĩnh từ năm mười lăm tuổi, đã quen với người có tư chất chậm hiểu, Lỗ Hữu Cước trí nhớ kém, nàng cũng chẳng bực mình. Khổ nỗi theo bang qui, tâm pháp khẩu quyết này phải được truyền miệng, nhất thiết không được ghi chép, chứ không thì nàng đã viết ra cho lão học thuộc dần dần, đỡ tốn bao sức lực.

Ngày Hồng Thất Công tỷ thí với Âu Dương Phong trên đỉnh Hoa Sơn, lão đã dạy từng chiêu, từng biến chiêu Đả cẩu bổng pháp cho Dương Quá, bảo chàng diễn xuất cho Âu Dương Phong thấy, nhưng tâm pháp khẩu quyết dùng khi lâm địch thì không hề truyền thụ. Lão nghĩ Dương Quá tuy biết chiêu số, không biết tâm pháp khẩu quyết, thì hoàn toàn vô dụng, như vậy không thể coi là vi phạm bang qui, khi đó lại cũng không phải giao đấu thật với Âu Dương Phong, nên tâm pháp khẩu quyết cũng chẳng cần truyền thụ. Nào ngờ Dương Quá cuối cùng ở đây lại được nghe nguyên vẹn toàn bộ. Tư chất của chàng cao hơn Lỗ Hữu Cước cả trăm lần, chỉ nghe đến lần thứ ba thì đã thuộc lòng từng chữ, trong khi Lỗ Hữu Cước vẫn cứ lẫn lộn lung tung.

Hoàng Dung sau khi có thai lần thứ hai, trong một lần tu luyện nội công đã thiếu thận trọng, làm tổn hại thai khí, cho nên cảm thấy yếu hẳn đi. Hôm nay dạy võ đã nửa ngày, nàng cảm thấy rất mệt, tựa lưng vào vách đá, nhắm mắt dưỡng thần một lát, rồi gọi:

– Phù nhi, Nhu nhi, Văn nhi, Quá nhi, tất cả xuống đây cho ta!

Bọn Quách Phù bốn người cả kinh, nghĩ thầm: "Hoàng bang chủ cứ thản nhiên như không, thật ra đã phát hiện từ lâu rồi!" Quách Phù cười, nói:

– Mẹ ơi, mẹ tài thật đấy, không có gì giấu nổi mẹ.

Nói rồi dùng chiêu "Nhũ yến đầu lâm" nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt mẫu thân.

Huynh đệ họ Võ nhảy xuống theo, Dương Quá thì vụng về tụt xuống.

Hoàng Dung nói:

– Hừ, một chút công phu như các ngươi mà cũng đòi xem trộm ư? Nếu có mấy tên tiểu tặc như các người mà còn không phát hiện ra, thì hành tẩu giang hồ chắc chưa đến nửa ngày đã bị bọn xấu mai phục hãm hại rồi.

Quách Phù ngượng ngùng, nhưng thừa biết mẫu thân cưng chiều, sẽ không trách mắng nàng, nên cười, nói:

– Mẹ ơi, con rủ ba người này đến xem Đả cẩu bổng pháp uy chấn thiên hạ như thế nào, ai dè Lỗ trưởng lão múa gậy chán quá. Mẹ diễn cho bọn con xem đi.

Hoàng Dung cười, cầm cành trúc từ tay Lỗ Hữu Cước nói:

– Được, ngươi hãy cẩn thận, coi ta đánh ngã con chó con này.

Quách Phù toàn thần chú ý đến hạ bàn, chờ cành trúc vung ra thì nhảy lên, không để mẫu thân quét dưới chân. Hoàng Dung vung cành trúc một cái, Quách Phù nhảy ngay lên, hai chân cách mặt đất nửa thước, thì cành trúc mới quét ngang, nhẹ nhàng làm cho nàng ngã liền. Quách Phù bật ngay dậy, kêu to:

– Con chưa chịu, con chưa chịu. Đấy là tại con quá vụng.

Hoàng Dung cười, nói:

– Được ngươi muốn thế nào, cho ngươi làm lại lần nữa.

Quách Phù đứng dạng chân thật vững, gọi:

– Đại Võ ca ca, Tiểu Võ ca ca, cả hai cùng lại đứng hai bên với muội.

Huynh đệ họ Võ y lời, tới đứng dạng chân thật vững; Quách Phù móc tay với họ, ba người hợp lực, đúng là vững như núi Thái Sơn, nói:

– Mẹ ơi, con không sợ nữa. Trừ phi "Hàng long thập bát chưởng" của cha con, may ra mới đẩy ngã được chúng con.

Hoàng Dung mỉm cười, dùng cành trúc quét ngang mặt ba người, thế quét rất mạnh, cả ba vội ngả người ra sau để tránh, thế là dưới chân không còn vững nữa. Hoàng Dung sử dụng khẩu quyết chữ "Chuyển", đưa cành trúc về quét ngang dưới chân ba người, cả ba đều ngã ngửa cùng lúc. Họ có căn cơ võ công, nên đều bật dậy được ngay.

Quách Phù nói:

– Mẹ, vừa rồi mẹ lại dùng cách đánh lừa được con, con chưa chịu.

Hoàng Dung cười, nói:

– Vừa nãy ta truyền thụ cho Lỗ trưởng lão tám khẩu quyết chữ Bạn, Phách, Triền, Tài, Khiêu, Dẫn, Phong, Chuyển; khẩu quyết chữ nào dùng lực mạnh nhất? Ngươi bảo ta dùng cách đánh lừa; đúng thế, trong võ công, chín phần mười là dùng cách đánh lừa đối phương, chỉ cần đánh lừa được cao thủ, coi như đã thắng. Chỉ có môn võ công như "Hàng long thập bát chưởng" của cha con, mới là thứ công phu thật sự, không thể dùng lối xảo trá. Nhưng thiên hạ phỏng có mấy ai luyện được tới mức ấy?

Dương Quá nghe, thầm gật đầu, nghĩ tâm pháp khẩu quyết Đả cẩu bổng pháp mà Hoàng Dung đọc, đem ấn chứng với chiêu số mà Hồng Thất Công dạy chàng, quả thật huyền diệu vô cùng. Quách Phù và huynh đệ họ Võ tuy hiểu lời của Hoàng Dung, nhưng chưa ngộ được diệu chỉ trong đó.

Hoàng Dung nói:

– Đả cẩu bổng pháp là công phu đặc dị nhất trong võ lâm, đứng riêng thành một nhà, không giống công phu của các môn phái khác. Chỉ học chiêu số mà không biết khẩu quyết, thì cũng hoàn toàn vô dụng. Dù ngươi có thông minh tuyệt đỉnh, cũng khó lòng tự nghĩ ra nổi một câu khẩu quyết để phối hợp với chiêu số. Dù đã biết khẩu quyết, mà không do chính ta truyền thụ chiêu số, thì cũng chỉ nhớ tám khẩu quyết chữ Bạn, Phách, Triền, Tài, Khiêu, Dẫn, Phong, Chuyển mà thôi; bởi vậy không sợ bốn tên tiểu quỉ các ngươi nghe lén. Nếu là ta truyền thụ môn võ công khác, vị tất ta đã cho phép các ngươi làm như vậy. Từ rày trở đi, nhất thiết không được nghe lén học lén, biết chưa?

Quách Phù rối rít vâng dạ, cười, nói:

– Mẹ, võ công của mẹ, hài nhi hà tất phải học lén? Chẳng lẽ mẹ còn có môn chưa dạy cho hài nhi hay sao?

Hoàng Dung dùng cành trúc quất nhẹ vào mông con, cười, nói:

– Ngươi hãy theo hai vị Võ gia ca ca đi chơi đi. Quá nhi thì ở lại đây, ta có chuyện cần nói. Lỗ trưởng lão hãy về đi, cố nhớ dần, sau này quên chỗ nào, ta sẽ dạy lại cho.

Lỗ Hữu Cước, Quách Phù và huynh đệ họ Võ từ biệt Hoàng Dung, đi về Lục gia trang, chỉ còn Dương Quá đứng lại.

Dương Quá tim đập thình thình, sợ Hoàng Dung biết chàng học lén Đả cẩu bổng pháp, sẽ ra tay lấy mạng chàng.

Hoàng Dung thấy thần sắc của Dương Quá kinh nghi bất định, thì kéo tay chàng, bảo ngồi xuống bên cạnh, dịu dàng nói:

– Quá nhi, ngươi có nhiều chuyện ta đều không biết, ta có hỏi ngươi, chắc ngươi cũng không chịu nói. Song ta cũng không trách ngươi đâu. Thuở nhỏ, tính nết ta cũng ngang bướng lắm, Quách bá bá của ngươi cứ toàn phải nhường nhịn ta thôi.

Nói tới đây, Hoàng Dung thở dài khe khẽ, nhếch mép cười, nhớ lại những trò ngang bướng của mình hồi còn là thiếu nữ, rồi tiếp:

– Ta không truyền thụ võ công cho người, vốn là mong cho ngươi may mắn, không ngờ lại làm cho ngươi phải chịu không ít khổ sở. Quách bá bá của ngươi thương yêu ta, ân tình ấy dĩ nhiên ta sẽ hết lòng báo đáp. Quách bá bá của ngươi có một tâm nguyện rất lớn, mong ngươi trở thành một hảo nam nhi đội trời đạp đất. Ta nhất định sẽ tận lực giúp ngươi học giỏi, để thành toàn tâm nguyện ấy. Quá nhi, ngươi dù thế nào đi nữa cũng đừng để cho Quách bá bá ngươi phải thất vọng, được không con?

Dương Quá chưa bao giờ được nghe Hoàng Dung nói với mình những lời ấm áp chân thành đến thế, lại thấy ánh mắt của Quách bá mẫu tràn ngập thương yêu thì bất giác cảm động nghẹn ngào, không kìm được khóc òa lên.

Hoàng Dung xoa đầu chàng, dịu dàng nói:

– Quá nhi, ta cũng chẳng giấu gì con, trước đây ta không ưa phụ thân con, vì thế cũng không ưa con. Nhưng từ nay trở đi, ta nhất định sẽ thương yêu con; chờ khi ta khỏe mạnh trở lại, ta sẽ đem mọi môn võ công của mình truyền thụ hết cho con. Quách bá bá cũng bảo sẽ dạy võ công cho con đó.

Dương Quá càng xúc động mạnh, khóc càng to hơn, nghẹn ngào nói:

– Quách bá mẫu, rất nhiều chuyện điệt nhi giấu Quách bá mẫu, điệt nhi.. sẽ nói hết với Quách bá mẫu..

Hoàng Dung xoa đầu chàng, nói:

– Hôm nay ta rất mệt, vài hôm nữa hãy kể cũng chưa muộn, con chỉ cần làm một hảo hài tử là ta vui rồi. Đại hội Cái Bang, con cũng nên đến mà xem.

Dương Quá nghĩ thầm chuyện Hồng Thất Công tạ thế, sẽ phải nói rõ tại đại hội, bèn lau nước mắt, gật đầu.

Chuyện hai người ngồi nói dưới gốc đại thụ, đều là lời lẽ chân tình, đã xua tan hết thảy những gì bất mãn trước đây giữa đôi bên. Cuối câu chuyện thì Dương Quá đã từ khóc chuyển sang cười, lại nghĩ đến sự kỳ vọng và hậu ý của Quách Tĩnh đối với chàng, thì lần đầu tiên kể từ khi xa Tiểu Long Nữ, hôm nay chàng mới cảm thấy ấm áp trong lòng.

Hoàng Dung nói một hồi, bỗng thấy bụng đau âm ỉ bèn thong thả đứng dậy, nói:

– Chúng ta về thôi.

Đoạn dắt tay Dương Quá mà đi chầm chậm. Dương Quá nghĩ cần bẩm rõ cái tin Hồng Thất Công tạ thế, bèn nói:

– Quách bá mẫu, điệt nhi có một việc rất khẩn yếu cần thưa với Quách bá mẫu.

Hoàng Dung cảm thấy khí tức trong đan điền càng lúc càng khó chịu, cau mày nói:

– Để mai hãy nói, ta.. ta.. đang khó chịu.

Dương Quá thấy sắc mặt Quách bá mẫu tái nhợt, không khỏi lo lắng, thấy bàn tay Hoàng Dung hơi lạnh, bèn đánh bạo ngầm vận khí, truyền một luồng nhiệt lực qua bàn tay. Hồi chàng với Tiểu Long Nữ cùng luyện "Ngọc nữ tâm kinh" ở núi Chung Nam, chàng đã luyện cách truyền lực qua bàn tay rất thành thạo, nhưng chàng chỉ sợ nội công của Hoàng Dung trái ngược với sở học của chàng; nên thoạt tiên chỉ truyền từ từ, sau thấy thông hành dễ dàng, mới gia tăng nội lực.

Hoàng Dung cảm thấy luồng nội lực của Dương Quá truyền sang mạnh mẽ, khác hẳn nội công phái Toàn Chân, song rất nhu hòa hồn hậu, thực chẳng kém gì các cao thủ phái Toàn Chân, cơ thể mình tiếp nhận ngay, chỉ trong giây lát khí huyết nghịch chuyển đã trở lại thuận sướng, hai má hồng dần, thầm kinh ngạc: "Hài tử học ở đâu được môn nội công thượng thừa này vậy?" Hoàng Dung nhìn Dương Quá, mỉm cười hài lòng.

Đang định hỏi, thì Quách Phù từ xa chạy tới, gọi:

– Mẹ, mẹ ơi, mẹ đoán xem ai đến nào?

Hoàng Dung cười, nói:

– Hôm nay anh hùng thiên hạ tụ hội, ta làm sao biết ai đến kia chứ?

Đột nhiên nghĩ ra, vui mừng nói:

– À, là mấy vị sư bá, sư thúc của Võ gia ca ca chứ gì, quá lâu rồi chưa gặp họ.

Quách Phù nói:

– Mẹ thông minh thật, sao mẹ lại đoán ra ngay thế?

Hoàng Dung cười, nói:

– Có gì khó đâu? Hai Võ gia ca ca của ngươi không xa ngươi nửa bước, bây giờ lại không thấy đi cùng với ngươi, hẳn là thân nhân của chúng tới chứ gì nữa.

Dương Quá bao lâu nay tự cho mình là người thông minh cơ biến, nay thấy Hoàng Dung liệu sự như thần, hơn hẳn mình, thì không khỏi hãi phục.

Hoàng Dung lại nói:

– Phù nhi, cung hỉ ngươi lại có dịp học thêm một môn võ công thượng thừa, chỉ e ngươi học không nổi.

Quách Phù hỏi:

– Môn gì ạ?

Dương Quá nói xen vào:

– Nhất dương chỉ!

Quách Phù không thèm lý đến Dương Quá, nói:

– Dương đại ca thì hiểu gì? Mẹ, là môn võ công gì vậy?

Hoàng Dung đáp:

– Dương đại ca đã nói rồi đó thôi.

Quách Phù nói:

– Thì ra mẹ đã nói cho Dương đại ca biết.

Hoàng Dung và Dương Quá đều mỉm cười, im lặng.

Hoàng Dung nghĩ thầm: "Quá nhi thông minh gấp hàng chục lần huynh đệ họ Võ. Phù nhi thì càng ngốc nghếch, chẳng đáng nói đến. Dương Quá biết" Nhất dương chỉ "là công phu bản môn của Nhất Đăng đại sư, sư bá sư thúc của huynh đệ họ Võ tới đây, thương hai đứa trẻ cô khổ, chắc sẽ truyền thụ cho chúng, mà hai đứa ấy đều muốn lấy lòng Phù nhi, tất học được gì sẽ đem truyền thụ cho Phù nhi". Quách Phù thì cứ lấy làm lạ, tại sao mẹ nàng lại đem chuyện ấy nói trước với Dương Quá, không lẽ quả thật định gả nàng cho gã tiểu khiếu hóa này? Nghĩ đến đây, bất giác lườm Dương Quá một cái, dẩu môi với chàng.

Bên dưới Nhất Đăng đại sư nước Đại Lý có bốn đại đệ tử Ngư, Tiều, Canh, Độc. Phụ thân của huynh đệ họ Võ là Võ Tam Thông, chính là nông phu, đại đệ tử thứ ba. Từ ngày đánh nhau với Lý Mạc Sầu bị thương, đến nay vẫn không rõ tung tích, sống chết ra sao. Đến dự anh hùng đại yến lần này là hai vị: Ngư nhân Điểm Thương Ngư Ân và thư sinh Chu Tử Liễu.

Chu Tử Liễu với Hoàng Dung vừa gặp nhau đã muốn đấu khẩu, phen này sau hơn mười năm xa cách, vừa tái ngộ hai người đã trổ tài hùng biện. Sau khi hàn huyên, Điểm Thương Ngư Ân và Chu Tử Liễu quả nhiên tìm một gian tịnh thất, đem công phu "Nhất dương chỉ" truyền thụ cho huynh đệ họ Võ.

Sáng nay, lại thêm vô số anh hùng hảo hán đến Lục gia trang. Lục gia trang tuy rộng lớn, vậy mà chỗ nào cũng đã đầy người.

Ăn trưa xong, bang chúng Cái Bang tụ tập ở cánh rừng bên ngoài Lục gia trang. Lễ bàn giao giữa bang chủ cũ và mới là khánh điển long trọng nhất của Cái Bang. Các đại đệ tử các lộ đông tây nam bắc đều về dự; quần hào đến Lục gia trang tham gia anh hùng đại yến cũng được mời tới dự lễ.

Hơn mười năm nay Lỗ Hữu Cước luôn thay mặt Hoàng Dung xử lý bang vụ, công bằng chính trực, dám làm dám chịu, cả hai phe áo dơ, áo sạch đều khâm phục. Hiện thời Giản trưởng lão của phe áo sạch đã tạ thế, Lương trưởng lão ốm liệt giường nhiều năm, Bành trưởng lão bội phản bỏ đi, trong bang không có ai tranh chấp, cho nên lần bàn giao này là thuận lý thành chương. Sau khi Hoàng Dung theo bang qui tuyên bố, trao Đả cẩu bổng của bang chủ cho Lỗ Hữu Cước, chúng đệ tử nhất tề nhổ nước bọt về phía lão, tới lúc đầu, mặt, trước ngực sau lưng lão đều ướt sũng nước bọt, thì lễ tiếp nhiệm của tân bang chủ coi như hoàn tất.

Dương Quá thấy buổi lễ bàn giao bang chủ quá đặc biệt, trong bụng cứ lấy làm lạ, đang định đứng lên bẩm cáo cái tin Hồng Thất Công tạ thế, bỗng thấy một lão khất cái nhảy lên một tảng đá, nói to:

– Hồng lão bang chủ có lệnh, sai ta truyền đạt.

Bang chúng lập tức hoan hô vang dội. Hơn mười năm nay họ không biết tin tức của bang chủ, thường vẫn nhớ đến, nay bỗng nghe có hiệu lệnh của bang chủ, thì ai nấy hồ hởi như phát cuồng. Từ trong đám đông, một gã khất cái gào to:

– Cung chúc Hồng lão bang chủ mạnh giỏi!

Bang chúng đồng thanh hô vang trời dậy đất, hồi lâu mới ngừng. Dương Quá thấy bang chúng Cái Bang ai nấy kích động, có người thậm chí khóc òa, thì nghĩ thầm: "Đại trượng phu được mọi người yêu kính như thế, mới không sống uổng một đời. Nhưng bây giờ mọi người đang hoan hỉ thế này, ta nỡ lòng nào đi báo tin Hồng lão bang chủ đã mất? Huống hồ ta là kẻ thấp hèn, lời nói không có sức nặng gì, nói chuyện lớn kia ra, vị tất họ đã tin? Tất cả sẽ nhốn nháo cả lên, cái tin ta đưa ra lại không phải là tin mừng, chả nên làm mất hứng của họ". Lại nghĩ: "Họ hỏi đến tại sao Hồng lão bang chủ chết, ta sẽ không thể giấu việc nghĩa phụ tỷ thí với Hồng lão bang chủ. Huynh đệ họ Võ biết ta đã học" Cáp mô công "của nghĩa phụ, sẽ nói toạc việc đó ra, mọi người sẽ nghi ta ở bên cạnh ra tay trợ giúp nghĩa phụ, làm cho Hồng lão bang chủ bị chết. Ta dù có một trăm cái miệng cũng khó mà cãi lại. Đợi sau đại hội, ta sẽ kể tỉ mỉ với Quách bá mẫu, để Quách bá mẫu chuyển cáo cho mọi người thì hơn". Chàng thầm mừng: May mà lão khất cái kia lên tiếng trước, chứ không chàng chưa nghĩ kỹ đã báo tin ra, thì rầy rà to rồi.

Chỉ nghe lão khất cái kia nói:

– Cách đây nửa năm, tại quận Thủy Hưng, Thiệu Châu đông lộ Quảng Nam, lão phu có tình cờ gặp Hồng lão bang chủ, cùng uống một bữa rượu với Hồng lão. Hồng lão vẫn khỏe, ăn uống rất ngon miệng, tửu lượng còn cao hơn trước.

Quần hào lại hoan hô vang dậy, kèm theo không ít tiếng cười. Lão khất cái kia nói tiếp:

– Hồng lão mấy năm qua đã giết không ít bọn ác bá cẩu quan hại nước hại dân, Hồng lão bảo mới nghe tin có năm tên khốn kiếp gọi là "Tạng biên ngũ xú" gì đó vâng lệnh Thát tử Mông Cổ làm nhiều việc xấu xa ở một dải Xuyên Đông, Hồ Quảng. Hồng lão phải đi tra xét, nếu đúng như thế, Hồng lão sẽ ra tay lấy năm cái mạng chó ấy.

Một gã khất cái đứng tuổi nói:

– "Tạng biên ngũ xú" hoành hành ngang ngược, có điều là hành tung của chúng đó đây bất định, chúng huynh đệ ở Xuyên Đông thủy chung không sao tìm được chúng. Gần đây đột nhiên không biết chúng đi đâu mất, chắc hẳn Hồng lão bang chủ đã trừ xong bọn đó rồi.

Lão khất cái nọ lại nói:

– Hồng lão bang chủ nói: Hiện nay thiên hạ đại loạn, Thát tử Mông Cổ ngày càng lấn dần xuống phía nam, chiếm lấy thiên hạ của Đại Tống ta. Phàm là bang chúng, đều phải có lòng trung nghĩa, thề quyết giết địch, chống giặc ngoại xâm.

Bang chúng Cái Bang đồng thanh hưởng ứng hết sức hăng hái. Lão khất cái nói:

– Triều đình chính sự thối nát, gian thần lộng hành, chờ mong bọn quan lại hủ bại lo chuyện báo quốc hộ dân thì chỉ uổng công. Hiện thời cái họa ngoại xâm ngày càng lớn, người người đều phải có lòng quên mình báo quốc, Hồng lão bang chủ bảo lão phu khích lệ chư vị hảo huynh đệ hãy nhớ kỹ hai chữ "trung nghĩa".

Bang chúng đồng thanh hô to:

– Thề vâng theo giáo huấn của Hồng lão bang chủ!

Dương Quá từ nhỏ thất học, không biết hai chữ "trung nghĩa" có quan hệ trọng đại thế nào, chỉ thấy ai nấy hừng hực hào khí chính nghĩa, thì bất giác cũng xúc động, cảm thấy dạo trước chàng đùa giỡn khinh nhờn đệ tử Cái Bang là không nên không phải.

Phần tiếp theo của đại hội Cái Bang gồm mấy việc thưởng phạt thăng giáng trong nội bộ bổn bang, tân khách không tiện nghe, đều lũ lượt cáo biệt.

Đến tối, Lục gia trang trong ngoài treo đèn kết hoa, hoa chúc huy hoàng, chính sảnh, tiền sảnh, hậu sảnh, sương sảnh, hoa sảnh các nơi bày ra tổng cộng hơn hai trăm bàn tiệc, quá nửa anh hùng hào kiệt thành danh trong thiên hạ tới đây tham dự. Mấy chục năm nay mới có một cuộc anh hùng đại yến linh đình như lần này. Chủ nhân phải là người giao du rất rộng, được ai nấy khâm phục, mới có thể mời đông đảo hào kiệt võ lâm như thế này.

Quách Tĩnh, Hoàng Dung ngồi tiếp khách chính ở chính sảnh. Hoàng Dung xếp cho Dương Quá ngồi ở bàn tiệc kế tiếp, cạnh bàn của mình. Quách Phù và huynh đệ họ Võ ngồi ở bàn rất xa.

Quách Phù nổi tính hiếu kỳ, nghĩ thầm: "Chàng ta không biết võ công, sao mẫu thân lại cho chàng ta ngồi ở chỗ cao quí như thế?" Đột nhiên nghĩ bụng: "Thôi chết, phụ thân muốn gả mình cho chàng ta, hẳn là mẫu thân phải làm theo ý của phụ thân chăng?" Nàng càng nghĩ càng lo, nhớ sáng nay mẹ nàng cầm tay Dương Quá đi về, thần thái thân thiết, lại nghĩ cha mẹ nàng rất kính nể nhau, ý phụ thân đã như thế, mẫu thân nàng không thể làm khác. Nàng liếc về phía Dương Quá, vừa lo vừa tức, nghĩ thầm: "Làm sao ta có thể lấy một gã tiểu khiếu hóa kia chứ?" Không nhịn được, nàng chỉ muốn khóc nấc lên. Vừa lúc ấy Võ Tu Văn nói:

– Phù muội nhìn kìa, cái tên tiểu tử họ Dương cũng được ngồi chễm chệ đằng kia, cứ như một vị anh hùng của một môn phái không bằng!

Quách Phù bực bội nói:

– Ca ca có bản lĩnh thì tới đuổi hắn đi!

Huynh đệ họ Võ vốn đã coi khinh Dương Quá, lúc ở trên cây lại nghe Quách Tĩnh bảo muốn gả Quách Phù cho chàng, thì hai gã càng có ý thù địch. Võ Tu Văn nghe Quách Phù nói vậy, nghĩ thầm: "Tại sao mình không làm nhục hắn ta một phen, làm cho hắn ta bẽ mặt trước anh hùng thiên hạ kia chứ? Sư mẫu vốn là người hiếu thắng, ưa kẻ mạnh, hắn ta bị bẽ mặt thì sư mẫu sẽ không nhận hắn làm con rể". Y vừa học được công phu "Nhất dương chỉ" do sư bá truyền thụ, chính là dịp đem ra thi thố, bèn nói:

– Hắn đã mạo nhận anh hùng, thì hãy để cho hắn lộ rõ chân tướng.

Y đứng dậy, rót đầy hai ly rượu, mang tới bên cạnh Dương Quá, nói:

– Dương đại ca, mấy năm qua chắc đại ca đắc ý lắm, đệ kính đại ca một ly.

Dương Quá thấy Võ Tu Văn đi tới gần mình, mắt chốc chốc lại nhìn về phía Quách Phù, vẻ mặt giảo hoạt, rõ ràng không phải tử tế, nghĩ thầm: "Ngươi tới mời rượu ta, hẳn có trò ma. Nhưng bỏ thuốc độc vào rượu thì ngươi chẳng dám". Bèn đứng lên, nhận ly rượu, nói:

– Đa tạ.

Rồi uống một hơi cạn sạch. Đúng lúc ấy Võ Tu Văn đột nhiên giơ ngón trỏ tay phải thọc vào lưng chàng. Cú chọc này nhắm đúng vào huyệt "Tiếu yêu" của Dương Quá, nghe sư bá y nói, nếu sử dụng phép "Nhất dương chỉ" điểm trúng huyệt "Tiếu yêu" của đối phương, thì đối phương sẽ cười ầm ĩ không dừng, chỉ khi giải huyệt, mới hết cười.

Dương Quá sớm đã chăm chú đề phòng, há để bị người ám toán? Thực ra, với võ công hiện giờ của chàng, kẻ địch dẫu có bất ngờ đánh lén, chàng cũng đối phó được. Nếu là lúc khác, với cái tính không chịu lép vế của mình, chắc chàng đã hùng hổ phản kích, nếu không đánh ngã Võ Tu Văn, thì ít ra cũng điểm trả lại huyệt "Tiếu yêu" của y, nhưng sau buổi trò chuyện với Hoàng Dung, chàng đang sung sướng, dễ chịu, nghĩ thầm: "Ngươi tuy có lỗi với ta, nhưng dầu sao cũng là đồ đệ của Quách bá bá và Quách bá mẫu, ta cũng chả nên dằn mặt hắn". Bèn ngầm vận nội công theo lối Âu Dương Phong truyền thụ, làm cho kinh mạch toàn thân tức thời nghịch chuyển, các huyệt đạo thay đổi vị trí; nhưng vì lúc này chàng không làm động tác trồng cây chuối, việc tu luyện công phu này cũng chưa sâu, nên kinh mạch chỉ nghịch chuyển giây lát, rồi lại chuyển thuận; nếu muốn kinh mạch nghịch chuyển lần thứ hai, lại phải vận công. Song chỉ một lần cũng đã đủ làm cho cú chọc của Võ Tu Văn vô hiệu.

Võ Tu Văn điểm huyệt xong, thấy Dương Quá chỉ mỉm cười, ngồi xuống như thường, thì trong bụng lấy làm lạ, trở về bàn của mình, nói nhỏ:

– Ca ca, công phu "Nhất dương chỉ" mà sư bá vừa dạy, đừng nên sử dụng.

Võ Đôn Nhu hỏi:

– Sao lại không sử dụng?

Võ Tu Văn kể lại việc vừa rồi. Võ Đôn Nhu cười khẩy, nói:

– Hoặc là đệ xuất chỉ không đúng, hoặc là đệ điểm chệch huyệt đạo.

Võ Tu Văn nói:

– Sao lại không đúng? Ca ca coi đây.

Y giơ ngón tay làm động tác điểm huyệt huynh trưởng, tư thế đúng như sư bá đã truyền thụ.

Quách Phù bĩu môi, nói:

– Muội chỉ e cái món "Nhất dương chỉ" không có tác dụng gì!

Nàng biết huynh đệ họ Võ đã học được môn "Nhất dương chỉ", còn nàng thì chưa, tuy biết rồi hai người kia sẽ truyền thụ cho nàng, nhưng trong bụng vẫn cảm thấy khó chịu. Võ Đôn Nhu liền đứng dậy, cũng rót đầy hai ly rượu, mang tới bên cạnh Dương Quá, nói:

– Dương đại ca, mấy năm mới trùng phùng, tiểu đệ cũng xin kính đại ca một chén.

Dương Quá cười thầm: "Đệ đệ của mi đã hiện lộ thân thủ, để xem mi có cao chiêu gì nào?" đôi đũa đang gắp một miếng thịt bò to, cũng không đặt xuống, giơ tay trái nhận ly rượu, cười, nói:

– Đa tạ.

Võ Đôn Nhu chẳng cần che giấu, giơ tay phải, ống tay áo quạt gió, ngón tay thọc nhanh tới phía sau lưng Dương Quá. Dương Quá thấy đòn thế hiểm ác công phu nghịch vận kinh mạch của mình có hạn, e rằng không đối phó nổi, bèn không vận khí nghịch mạch nữa, mà đưa luôn miếng thịt bò xuống chắn huyệt "Tiếu yêu" của mình. Động tác của chàng thực hiện sau mà đến trước, ngón tay trỏ của Võ Đôn Nhu thọc ngay vào miếng thịt bò. Dương Quá buông đũa, cười, nói:

– Nhắm rượu với thịt bò là hợp nhất.

Võ Đôn Nhu rút tay lại, thấy miếng thịt bò mắc trong ngón tay, nước chảy nhỏ giọt, để nguyên hay hất đi đều bất tiện, trừng mắt nhìn Dương Quá một cái trở về chỗ cũ.

Quách Phù thấy ngón tay gã móc miếng thịt bò, thì lấy làm lạ, hỏi:

– Cái gì thế?

Võ Đôn Nhu đỏ mặt, chẳng biết ăn nói thế nào. Đang lúng túng, thì tân nhiệm bang chủ Cái Bang Lỗ Hữu Cước nâng ly rượu đứng lên.

Lão nâng ly rượu kính quần hùng, sang sảng nói:

– Hồng lão bang chủ tệ bang truyền hiệu lệnh, nói Mông Cổ ngày càng lấn dần xuống phía nam, lệnh cho bang chúng ai nấy dốc toàn lực chống lại ngoại xâm. Hiện thời anh hùng thiên hạ tề tựu ở đây, ai nấy một lòng trung nghĩa, chúng ta hãy bàn một diệu sách làm cho Thát tử Mông Cổ không dám tái xâm phạm giang sơn Đại Tống của chúng ta.

Lỗ Hữu Cước nói xong, quần hùng sôi nổi đứng dậy, mỗi người nói một câu, đều tỏ ý tán đồng. Đến dự anh hùng đại yến đa phần là người Hán, mắt thấy quốc sự ngày một nguy nan, đại họa lớn dần, sớm tự lo lắng, nay có người đề xướng, thì các bậc hào kiệt trung nghĩa tất nhiên hưởng ứng.

Một vị lão nhân tóc bạc như cước đứng dậy, giọng vang như chuông, nói:

– Tục ngữ có câu "Rắn không đầu chẳng thể bò", chúng ta đều có chí trung nghĩa, nhưng không có người dẫn đầu, thì đại sự khó thành. Hôm nay quần hùng ở đây hãy cử một vị hào kiệt đức cao vọng trọng, người người kính phục, làm minh chủ để hiệu lệnh chúng nhân.

Quần hùng hoan hô, có người nói to:

– Để lão nhân gia dẫn đầu là được! Khỏi cần cử ai khác!

Vị lão nhân cười ha hả, nói:

– Lão phu kém tài kém đức không thể đảm đương. Cao thủ võ lâm, bao năm nay vẫn do Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông đứng đầu. Trung Thần Thông Trùng Dương Chân Nhân qui tiên đã lâu, Đông Tà Hoàng đảo chủ một mình nay đây mai đó, Tây Độc thần trí điên điên khùng khùng, Nam Đế ở tận Đại Lý xa xôi, không phải là thần dân Đại Tống. Minh chủ quần hùng nhất định phải là Bắc Cái Hồng lão tiền bối.

Hồng Thất Công là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, đúng là người được ai nấy trông đợi. Quần hùng nhất tề vỗ tay, không ai dị nghị.

Một người nói:

– Hồng lão tiền bối đương nhiên xứng đáng làm minh chủ quần hùng; ngoài Hồng lão tiền bối chẳng ai tài đức hơn người, đảm đương nổi đại nhiệm.

Giọng người ấy sang sảng, ai nấy nhìn về phía ấy, song không thấy người, thì ra người ấy quá thấp, bị những người bên cạnh che khuất. Có tiếng hỏi:

– Vị nào vừa nói đó?

Người kia đứng luôn lên bàn, thân cao chưa đầy ba thước, tuổi trạc tứ tuần, vẻ mặt sắc sảo. Có người nhận ra đó là hảo hán Giang Tây "Oải Sư" Lôi Mãnh. Mọi người định cười, nhưng thấy mục quang uy mãnh của Lôi Mãnh quắc lên nhìn hai bên tả hữu, liền thôi.

Chỉ nghe Lôi Mãnh nói:

– Thế nhưng Hồng lão tiền bối hành sự xuất quỉ nhập thần, mười năm nay khó gặp một lần, nếu gặp đại sự chống ngoại xâm, biết tìm Hồng lão tiền bối ở đâu để thỉnh thị, lúc ấy phải làm sao đây?

Quần hùng nghĩ thầm: "Kể cũng đúng". Lôi Mãnh nói tiếp:

– Việc làm của chúng ta hôm nay là tận trung báo quốc, không một chút tư tâm. Chúng ta tiến cử một vị phó minh chủ, khi Hồng lão minh chủ đi chu du bốn phương, thì mọi người sẽ làm theo hiệu lệnh của vị phó minh chủ.

Trong tiếng hoan hô, có người kêu to đề xướng:

– Quách Tĩnh Quách đại hiệp!

Có người nói:

– Lỗ bang chủ là hay nhất!

Có người nói:

– Hoàng tiền bang chủ Cái Bang túc trí đa mưu, lại là đệ tử của Hồng lão bang chủ, tại hạ tiến cử Hoàng bang chủ!

Lại có người nói:

– Lục trang chủ.

Lại có người nói:

– Mã giáo chủ giáo phái Toàn Chân! Trường Xuân Tử Khưu Chân Nhân!

Tiếng ồn ào nhất thời nổi lên.

Giữa lúc đó, có bốn đạo nhân tiến nhanh từ cửa sảnh vào, đó là Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình. Dương Quá thấy bọn họ đã bỏ đi, giờ quay trở lại, thì nghĩ thầm: "Muốn gây sự thêm với ta chăng?" Quách Tĩnh và Lục Quán Anh cả mừng, vội rời bàn ra đón. Phái Toàn Chân hiệu xưng chính tông võ lâm thiên hạ, anh hùng đại yến hôm nay nếu không có cao thủ phái Toàn Chân tham gia, dĩ nhiên kém phần long trọng.

Hách Đại Thông nói nhỏ với Quách Tĩnh:

– Có kẻ địch sắp đến gây sự, hãy cẩn thận đề phòng. Bần đạo phải vội trở lại báo tin.

Quách Tĩnh nghĩ thầm, Hách Đại Thông là một cao thủ có hạng của phái Toàn Chân, giang hồ không mấy người võ công thắng nổi lão, vậy mà nói mấy câu vừa rồi, giọng lão hơi run, thì kẻ địch phải là nhân vật cực kỳ lợi hại, bèn hỏi nhỏ:

– Âu Dương Phong?

Hách Đại Thông nói:

– Không phải, là người Mông Cổ, bần đạo từng bại trận dưới tay đệ tử của hắn.

Quách Tĩnh chợt nhớ, gật đầu hỏi:

– Là vương tử Hoắc Đô chứ gì?

Hách Đại Thông chưa kịp trả lời, đã nghe ngoài cổng trang viện nổi lên tiếng tù và vang vang từng hồi không ngớt. Lục Quán Anh kêu to:

– Nghênh tiếp quí khách!

Lời vừa dứt, trước sảnh đã có mấy chục người đứng lố nhố. Quần hùng đang vui vẻ sướng ẩm, đột nhiên thấy có nhiều người xông vào trong sảnh, đều cảm thấy hơi khó chịu, nhưng nghĩ toàn là các nhân vật tới dự anh hùng đại yến, nhìn kỹ không thấy ai quen mặt, thì cũng chẳng để tâm.

Quách Tĩnh nói lại cho Hoàng Dung biết lời của Hách Đại Thông, rồi hai vợ chồng cùng phu thê Lục Quán Anh đi ra đón khách. Quách Tĩnh nhận ra ngay quí công tử diện mạo thanh nhã là vương tử Mông Cổ Hoắc Đô; gã Tạng tăng mặt quắt thân gầy là sư huynh của Hoắc Đô, tên Đạt Nhĩ Ba. Hai kẻ này chàng đã gặp tại cung Trùng Dương, núi Chung Nam, tuy là cao thủ hạng nhất, nhưng võ công thua kém chàng, không có gì đáng ngại. Nhưng ở giữa hai tên đó là một Tạng tăng cực cao cực gầy, thân hình như một cây trúc khô, mặc áo bào đỏ, đỉnh đầu lõm xuống như một cái đĩa. Quách Tĩnh và Hoàng Dung đưa mắt nhìn nhau, họ từng nghe Hoàng Dược Sư kể rằng có môn võ công kỳ dị của Mật tông Tây Tạng, khi luyện đến cảnh giới cực cao, thì đỉnh đầu hơi lõm xuống. Lão tạng kia đỉnh đầu lõm hẳn xuống, không lẽ võ công quả thật cực kỳ cao siêu? Tại sao lâu nay chưa hề nghe giang hồ đồn đại về một cao thủ như thế ở Tây Tạng? Hai vợ chồng ngầm đề phòng, đồng thời cúi mình thi lễ.

Quách Tĩnh nói:

– Các vị từ xa tới, mời vào bàn uống vài chén rượu.

Chàng đã biết bọn kia là địch, nên cũng chẳng cần dùng những lời giả dối như "quang lâm", "hoan nghênh" gì cả. Lục Quán Anh sai trang đinh bày bàn tiệc mới.

Huynh đệ họ Võ tất bật trợ giúp sư phụ sư mẫu liệu lý sự vụ, Võ Tu Văn nhanh chân nhanh tay, là nhân vật tháo vát số một. Hai huynh đệ chỉ huy trang đinh, bày bàn tiệc mới ở chỗ tôn quí nhất, miệng luôn xin lỗi khách khứa di chuyển chỗ ngồi. Quách Phù thấy Dương Quá cứ ngồi yên một chỗ, chẳng làm gì cả, trông rất chướng mắt, nghĩ thầm: "Mi cũng đòi làm anh hùng ư? Anh hùng trong thiên hạ có chết hết, cũng chưa đến lượt mi". Nàng nháy mắt ra hiệu cho Võ Tu Văn, rồi hất hàm về phía Dương Quá. Võ Tu Văn hiểu ý, tới trước mặt Dương Quá, nói:

– Dương đại ca, hãy ra đằng kia mà ngồi.

Rồi chẳng đợi Dương Quá có bằng lòng hay không, y sai trang đinh mang bát đũa của chàng tới chiếc bàn ở góc xa khuất. Dương Quá tức giận, nhưng chẳng thèm nói, chỉ lạnh lùng cười thầm.

Ở chỗ kia, vương tử Hoắc Đô nói với lão Tạng tăng cao gầy:

– Sư phụ, đệ tử dẫn kiến lão nhân gia với hai vị anh hùng lừng lẫy Trung Nguyên..

Quách Tĩnh ngạc nhiên: "Thì ra lão ta là sư phụ của vương tử Mông Cổ Hoắc Đô". Lão Tạng tăng gật gật đầu, mắt lim dim. Vương tử Hoắc Đô nói:

– Vị này là Quách Tĩnh Quách đại hiệp, từng làm hữu quân nguyên soái Tây chinh của Mông Cổ. Vị này là Quách phu nhân, cũng là Hoàng bang chủ Cái Bang.

Lão Tạng tăng nghe mấy chữ "hữu quân nguyên soái Tây chinh của Mông Cổ" thì mở to hai mắt, đột nhiên tinh quang phóng ra tứ phía, dừng một lát ở mặt Quách Tĩnh, rồi trở lại lim dim, không thèm để ý đến bang chủ Cái Bang.

Vương tử Hoắc Đô nói, giọng sang sảng:

– Vị này là sư tôn của tại hạ, thánh tăng Tây Tạng, được người người tôn xưng là Kim Luân pháp vương, được đương kim hoàng hậu nước Đại Mông Cổ phong làm Đệ nhất hộ quốc đại sư.

Câu này Hoắc Đô nhấn mạnh, quần hùng trong sảnh nghe rành rọt. Ai nấy kinh hãi nhìn nhau, đều nghĩ thầm: "Chúng ta đang ở đây bàn cách chống chọi Mông Cổ xâm lược phía nam, sao lại có tên hộ quốc đại sư Mông Cổ tới đây?"

Dương Quá càng kinh ngạc, nhớ hôm trên đỉnh Hoa Sơn, nghĩa phụ và Hồng Thất Công cùng tán thưởng công phu sở học của "Tạng biên ngũ xú", bảo chúng hãy về bảo sư tổ Kim Luân pháp vương mau tới Trung Nguyên tỷ thí. Bây giờ Kim Luân pháp vương cùng với sư phụ của "Tạng biên ngũ xú" Đạt Nhĩ Ba tới đây, nghĩa phụ và Hồng Thất Công đã không còn trên thế gian, thì đau lòng và biết lão Tạng tăng cao gầy kia chẳng phải tầm thường.

Quách Tĩnh chưa biết nên đối phó thế nào với mấy người này, chỉ thản nhiên nói:

– Các vị từ xa tới, mời vào bàn uống vài chén rượu.

Rượu qua ba tuần, vương tử Hoắc Đô đứng dậy, xòe cây quạt, để lộ trên cây quạt một bông mẫu đơn tuyệt đẹp, nói:

– Sư đồ tại hạ hôm nay không nhận được anh hùng thiếp, song vẫn đến dự anh hùng đại yến, muối mặt làm khách không mời, nhưng thiết nghĩ được gặp quần hiền, thì cũng không cần khách sáo gì lắm. Thịnh hội khó có, dịp may không trở lại, anh hùng thiên hạ tề tựu cả ở đây, theo thiển ý của tiểu vương, cần suy tôn một vị minh chủ của quần hùng, làm lãnh tụ võ lâm, đứng đầu hào kiệt trong thiên hạ, các vị thấy thế nào?

"Oải Sư" Lôi Mãnh nói to:

– Nói rất đúng. Ở đây quần hào đã tiến cử Hồng lão bang chủ Cái Bang làm minh chủ, hiện đang đề cử một vị phó minh chủ, các hạ thấy sao?

Hoắc Đô cười nhạt, nói:

– Hồng Thất Công đã chầu trời rồi. Tiến cử một hồn ma làm minh chủ, các hạ định coi mọi người đều là ma cả chăng?

Lời này vừa dứt, quần hùng cùng ồ lên, bang chúng Cái Bang phẫn nộ dị thường, nhao nhao phản đối.

Hoắc Đô nói:

– Thôi được, Hồng Thất Công nếu còn sống, mời vị ấy ra gặp coi!

Lỗ Hữu Cước hai lần giơ cao Đả cẩu bổng, nói:

– Hồng lão bang chủ vân du thiên hạ, hành tung vô định. Các hạ muốn gặp là gặp được sao?

Hoắc Đô cười nhạt, nói:

– Đừng nói là Hồng Thất Công sống chết khó biết, cho dù Hồng Thất Công có mặt ở đây chăng nữa, thì võ công đức vọng của Hồng Thất Công cũng không tài gì sánh nổi với Kim Luân pháp vương, sư phụ của tại hạ. Các vị anh hùng hãy nghe đây, vị minh chủ của võ lâm thiên hạ hiện nay, trừ Kim Luân pháp vương ra, không có người thứ hai xứng đáng.

Quần hùng nghe Hoắc Đô nói thế, đã biết ý định của bọn kia khi tới đây, bọn chúng biết anh hùng đại yến bất lợi cho Mông Cổ, nên tới đây phá đám và tranh chức vị minh chủ. Nếu Kim Luân pháp vương dùng võ công đoạt được chức vị minh chủ, dẫu hào kiệt Trung Nguyên không tuân theo hiệu lệnh của lão, thì vẫn làm suy giảm thanh thế chống Mông Cổ của người Hán. Mọi người đều biết Hoàng Dung túc trí đa mưu, không hẹn mà cùng quay đầu nhìn nàng, nghĩ thầm: "Mấy chục tên kia võ công dù cao đến mấy, cũng không thể địch nổi ngàn người ở đây, bất kể đơn đả độc đấu hay là quần ẩu, chúng ta nhất định đều không thua, mọi người chỉ cần nghe lệnh của Hoàng bang chủ mà hành sự là được".

Hoàng Dung biết hôm nay nếu không động võ, chắc không xong, quần ẩu tất nhiên sẽ thắng, nhưng đối phương sẽ không phục, bèn nói to:

– Vừa rồi quần hùng đã tiến cử Hồng lão bang chủ làm minh chủ; vị hảo hán Mông Cổ này lại đến cắt ngang, đòi tiến cử một vị Kim Luân pháp vương nào đó chẳng ai biết mặt, nghe tên. Giá như Hồng lão bang chủ có mặt ở đây, thì có thể cùng Kim Luân pháp vương hiển lộ thần thông, nhất quyết thư hùng; thế nhưng lão nhân gia chu du thiên hạ, diệt trừ bọn Thát tử Mông Cổ và bọn Hán gian, không ngờ hôm nay các vị kéo đến, nên không chờ sẵn, sau này Hồng lão bang chủ biết tin này, hẳn lấy làm tiếc lắm. May sao Hồng lão bang chủ và Kim Luân pháp vương đều có đệ tử thân truyền, vậy hãy để đệ tử đôi bên thay mặt sư phụ mình tỷ thí với nhau, có được chăng?

Quần hùng Trung Nguyên quá nửa biết Quách Tĩnh võ công kinh nhân, lại đang thời tráng niên, có khi đứng thứ nhất, bây giờ Hồng Thất Công chưa chắc đã mạnh hơn chàng; nếu chàng tỷ thí với đệ tử của Kim Luân pháp vương, thì phần thắng là cái chắc, không lý gì thua được, thế là khen phải, reo to làm rung chuyển cả mái ngói. Quần hùng đang ăn uống ở thiên sảnh, hậu sảnh, nghe tin lập tức đổ dồn lại, nhất thời hành lang, ngoài sân, bên cửa đầy kín người, ai nấy hô to trợ uy. Bọn Kim Luân pháp vương ít người, thanh thế sao bì được.

Hoắc Đô năm nọ ở cung Trùng Dương từng giao đấu với Quách Tĩnh, một chiêu đã bại, bấy giờ hắn chỉ biết chàng là môn nhân phái Toàn Chân, sau dò la mới biết lai lịch của chàng. Sư huynh Đạt Nhĩ Ba và hắn võ công xấp xỉ nhau, cả sư huynh và hắn liên thủ với nhau, chắc cũng không địch nổi gã đệ tử của Hồng Thất Công là Quách đại hiệp. Nhưng nếu không chấp nhận kiến nghị của Hoàng Dung, thì hôm nay khó đoạt chức vị minh chủ; biến cố này nằm ngoài dự liệu ban đầu, không khỏi khiến cho hắn hoang mang.

Kim Luân pháp vương nói:

– Được, Hoắc Đô, ngươi cứ việc tỷ thí với đệ tử của Hồng Thất Công đi.

Giọng nói của lão ta rất nặng và đục, một câu nói dài mà lão không cần nghỉ chuyển hơi. Lão ta chỉ sống ở Tây Tạng, cho rằng võ công của Hoắc Đô ở Trung Nguyên ít có đối thủ, giỏi lắm thì cũng chỉ thua mấy vị lão tiền bối, như Bắc Cái, Đông Tà, Tây Độc gì đó mà thôi, chứ không biết hắn từng bị Quách Tĩnh đánh bại. Hoắc Đô vâng dạ, rồi nói nhỏ:

– Sư phụ, đồ đệ của Hồng lão nhi mười phần tài giỏi, đệ tử chỉ sợ khó bề thủ thắng, làm mất uy phong của sư phụ.

Kim Luân pháp vương sầm mặt lại, nói:

– Hừ, không lẽ đồ đệ của người ta, ngươi cũng đánh không nổi? Cứ đánh đi.

Hoắc Đô ngại ngần, chuyện hắn từng thua Quách Tĩnh, hắn vẫn giấu sư phụ, lúc này thực không dám bẩm cáo. Hắn cứ ngỡ sư phụ có tài thông thiên thấu địa, thời nay không ai địch nổi, chỉ cần bí mật tới được anh hùng đại yến, thì có thể giành ngay lấy chức vị minh chủ, ai ngờ cuối cùng hắn lại phải tỷ thí với Quách Tĩnh. Hắn đang lo, thì một đại hán to béo mặc quân phục Mông Cổ tới ghé tai hắn nói nhỏ mấy câu.

Hoắc Đô vừa nghe đã cả mừng, đứng dậy, phe phẩy quạt vài cái nói lớn:

– Nghe đâu Cái Bang có món bảo bối trấn bang gì đó gọi là Đả cẩu bổng pháp, là bản sự bình sinh lợi hại nhất của Hồng lão bang chủ, tiểu vương bất tài, muốn thử dùng cây quạt này phá giải Đả cẩu bổng pháp. Nếu phá được, chẳng hóa ra bản sự của Hồng Thất Công cũng chẳng có gì ghê gớm.

Hoàng Dung thoạt thấy có kẻ rỉ tai gì đó với Hoắc Đô, cũng không để ý; nhưng bỗng nghe hắn nhắc đến Đả cẩu bổng pháp, tuy chỉ vài câu, song đã gạt bỏ được người có võ công mạnh nhất là Quách Tĩnh sang một bên, thì không biết kẻ nào vừa hiến diệu kế cho hắn? Nhìn kỹ gã quân nhân Mông Cổ kia, nàng chợt nhận ra đó là một trong bốn vị trưởng lão của Cái Bang, là Bành trưởng lão. Nguyên lão ta đã chạy sang theo bọn Mông Cổ, cải trang thành quân nhân Mông Cổ, để râu dài, mũ kép sụp xuống trán, nếu không chăm chú nhìn kỹ, rất khó nhận ra; cũng chỉ có lão ta, mới biết rằng Đả cẩu bổng pháp chỉ truyền cho bang chủ; Quách Tĩnh võ công cao cường, song cũng không được biết môn võ công đó. Hoắc Đô nói vậy, tức là khiêu chiến với đích danh Lỗ Hữu Cước. Lỗ Hữu Cước mới học Đả cẩu bổng pháp, chưa hề luyện tập, lĩnh hội có hạn, sử dụng chưa thạo, vậy là nàng đành phải xuất trận.

Quách Tĩnh biết Đả cẩu bổng pháp của thê tử diệu tuyệt thiên hạ, chắc chắn đánh thắng Hoắc Đô, nhưng mấy tháng nay nàng bị động thai, nội tức không điều hòa, hoàn toàn không thể động võ với người, bèn đứng dậy, bước ra, nói:

– Đả cẩu bổng pháp của Hồng lão bang chủ xưa nay không mấy khi sử dụng đến, các hạ hãy thử lĩnh giáo "Hàng long thập bát chưởng" của lão nhân gia.

Kim Luân pháp vương lim dim mắt, thấy Quách Tĩnh đứng dậy, bước ra, đường hoàng vững chãi, khí thế phi phàm, không khỏi kinh ngạc: "Người này quả không tầm thường".

Hoắc Đô cười hô hố, nói:

– Ở cung Trùng Dương, núi Chung Nam, tiểu vương từng có duyên kiến diện với các hạ, khi đó các hạ tự xưng là môn nhân của chư vị Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ sao bây giờ lại mạo nhận là đệ tử của Hồng Thất Công?

Quách Tĩnh định trả lời, thì Hoắc Đô đã cướp lời, nói tiếp:

– Một người theo học vài vị sư phụ, chuyện đó lẽ thường. Nhưng hôm nay là cuộc tỷ thí công phu giữa Kim Luân pháp vương với Hồng lão bang chủ, các hạ võ công tuy mạnh, song nghệ kiêm nhiều môn, không phải là bản sự đích thực của Hồng lão bang chủ.

Lời nói của Hoắc Đô kể cũng có lý, Quách Tĩnh vốn không giỏi nói năng, nhất thời chưa biết đối đáp ra sao. Quần hùng thì nhao nhao lên:

– Có giỏi thì tỷ thí với Quách đại hiệp, nhát gan thì cụp đuôi mà xéo đi.

– Quách đại hiệp là đệ tử cập môn của Hồng lão bang chủ, không xứng đại diện cho Hồng lão bang chủ thì còn ai vào đấy?

– Ngươi cứ nếm thử "Hàng long thập bát chưởng", rồi hãy xơi món Đả cẩu bổng pháp cũng chưa muộn.

Hoắc Đô ngửa mặt cười một tràng, trong lúc cười hắn ngầm vận nội lực, dùng tiếng ha ha hô hô át mọi tiếng ồn ào của quần hùng, làm cho đèn nến trong đại sảnh lung lay muốn tắt. Quần hùng nhìn nhau thất sắc, đều nghĩ thầm: "Không ngờ hắn còn trẻ, trông như công tử, mà lại có nội công lợi hại đến thế". Tất cả liền trở lại im lặng.

Hoắc Đô nói to với Kim Luân pháp vương:

– Sư phụ, chúng ta bỏ qua cho bọn họ thôi. Lúc đầu cứ tưởng hôm nay anh hùng thiên hạ tề tựu, mới từ ngàn dặm xa xôi tìm đến, ai ngờ rặt một phường tham sống sợ chết. Chúng ta về thôi, chẳng may sư phụ làm minh chủ cho bọn này, thì hảo hán thiên hạ sẽ bảo sư phụ đứng đầu phường giá áo túi cơm bị thịt, chẳng hóa làm ô danh sư phụ hay sao?

Quần hùng đều biết hắn cố ý khiêu khích để Hoàng Dung xuất chiến, nhưng lời lẽ ngông cuồng như thế thì ai chịu nổi? Mọi người nhao nhao nhiếc móc hắn, Lỗ Hữu Cước cầm cây gậy trúc, rời bàn tiệc bước ra, nói:

– Tại hạ là tân nhiệm bang chủ Cái Bang Lỗ Hữu Cước. Đả cẩu bổng pháp mười hai thành, tại hạ học chưa thạo một thành, lẽ ra chưa nên sử dụng. Có điều các hạ muốn nếm thử mùi vị Đả cẩu bổng, tại hạ đành chiều lòng các hạ.

Lỗ Hữu Cước võ công vốn rất tinh thâm, Đả cẩu bổng pháp tuy chưa học xong, nhưng cộng với căn cơ võ công thì cũng có không ít uy lực; thấy Hoắc Đô tuổi mới tam tuần, dẫu hắn có cao nhân truyền thụ, công lực chắc cũng chưa thâm hậu, lão biết Hoàng Dung người không được khỏe, bản thân lão dù thắng hay bại cũng không thể để nàng mạo hiểm.

Hoắc Đô chỉ cốt không phải tỷ thí với Quách Tĩnh, còn thì hắn không sợ ai khác, bèn ôm quyền cúi mình nói:

– Lỗ bang chủ, hạnh hội, hạnh hội. Được lĩnh giáo Lỗ bang chủ, thật không gì bằng.

Hoàng Dung thầm lo ngại, nhưng nghĩ Lỗ Hữu Cước vừa tiếp nhiệm chức bang chủ, đã lên tiếng khiêu chiến, nàng không tiện ngăn cản, nếu không sẽ vừa làm giảm uy phong của Lỗ Hữu Cước, vừa ra vẻ ta đây vẫn còn quyền thế ở Cái Bang, đành để lão thượng trận trước vậy.

Quản gia của Lục gia trang chỉ huy trang đinh kê lại bàn ghế trong đại sảnh, dành một chỗ trống khá rộng, đốt thêm nến hồng, chiếu sáng sảnh đường y như ban ngày.

Hoắc Đô nói:

– Xin mời!

Lời vừa dứt, cây quạt phe phẩy, một luồng kình phong quạt tới mặt Lỗ Hữu Cước, trong gió thoang thoảng mùi hương. Lỗ Hữu Cước sợ trong gió có độc, vội né tránh. Hoắc Đô vẩy tay, xoẹt một tiếng, cây quạt đã gấp lại thành một cây bút điểm huyệt dài tám tấc, chọc tới mạng sườn đối phương. Lỗ Hữu Cước vung cây gậy trúc, bất chấp Hoắc Đô định điểm huyệt, dùng khẩu quyết chữ "Triền", một quét ngang một gảy lên, môn Đả cẩu bổng pháp quả nhiên xảo diệu dị thường, thế đánh toàn vào những chỗ người bên cạnh không thể ngờ tới. Hoắc Đô nhẹ nhàng nhảy lên tránh, nào ngờ cây gậy đột nhiên quật lại, đánh trúng vào ống chân hắn, hắn loạng choạng ba bước, suýt nữa thì ngã. Quần hùng đứng xem cùng reo lên:

– Đánh trúng con chó rồi!

– Cho mi biết thế nào là uy phong của Đả cẩu bổng pháp!

Bị trúng một đòn, Hoắc Đô đỏ mặt đến tận mang tai, xoay mình, tay trái đánh ra một chưởng. Lỗ Hữu Cước tung chân trái đá, gậy trúc quét ngang, tức thì bổng ảnh múa lượn biến ảo vô định. Hoắc Đô nghĩ thầm: "Đả cẩu bổng pháp quả nhiên danh bất hư truyền!" Hắn tập trung toàn bộ tinh thần, tay phải cầm quạt phối hợp với tả chưởng mà đối phó. Lỗ Hữu Cước rốt cuộc chưa luyện thành Đả cẩu bổng pháp, mấy lần đáng lẽ đắc thủ, lại bỏ phí. Quách Tĩnh, Hoàng Dung ở ngoài quan sát, không khỏi kêu thầm "Tiếc quá!"

Đánh hơn mười chiêu nữa, Đả cẩu bổng pháp của Lỗ Hữu Cước đã bộc lộ sơ hở càng lúc càng lớn. Dương Quá nhìn rõ từng chiêu, bất giác cau mày. May mà Đả cẩu bổng pháp vừa xuất thủ, đã đánh trúng ngay vào ống chân đối phương, Hoắc Đô thầm ngán ngại, không dám bám sát quá, chứ không thì Lỗ Hữu Cước đã lạc bại từ sớm. Hoàng Dung thấy tình hình không ổn, định gọi Lỗ Hữu Cước dừng lại, thì Lỗ Hữu Cước đột nhiên sử chiêu "Tà đả cẩu bối", mím môi mím lợi giáng một gậy vào má trái của Hoắc Đô. Nhưng gậy này giáng quá mạnh, mất cái sự khôn khéo nhẹ nhàng; Hoắc Đô vừa đau vừa ngượng vì trúng đòn ở ống chân, đã giơ tay cực nhanh, chộp giật được cây gậy, chẳng cần suy nghĩ, tay kia giáng luôn một chưởng đánh trúng vào ngực Lỗ Hữu Cước, cây gậy thì quật ngang một cái, cách một tiếng, Lỗ Hữu Cước đã bị đánh gãy xương ống chân, miệng hộc ra một ngụm máu tươi, ngã sấp mặt xuống đất. Hai đệ tử bảy túi vội chạy tới đỡ Lỗ Hữu Cước dậy.

Quần hùng thấy Hoắc Đô xuất thủ tàn bạo, đều căm phẫn, nhiếc móc hắn.

Hoắc Đô cầm ngang cây gậy trúc nhẵn bóng màu bích lục, dương dương đắc ý, nói:

– Đả cẩu bổng, bảo bối trấn bang của Cái Bang chẳng qua chỉ thế mà thôi.

Hắn cố ý làm nhục một đại bang hội có tiếng nghĩa hiệp ở Trung Nguyên, hai tay cầm hai đầu cây gậy trúc, định bẻ gãy nó.

Đột nhiên một bóng áo xanh vọt tới trước mặt hắn, một thiếu phụ thanh nhã tú lệ, chính là Hoàng Dung, nói:

– Hãy khoan!

Hoắc Đô thấy thân pháp của nàng quá lẹ làng, kinh ngạc chưa kịp nói, thì tay phải của Hoàng Dung đã móc tới hai mắt hắn, hắn vội giơ tay gạt ra, thì tay trái của nàng đã nhẹ nhàng đoạt lấy cây gậy trúc.

Thủ pháp đoạt bổng như thế gọi là "Ngao khẩu đoạt trượng", một chiêu số rất cao minh trong Đả cẩu bổng pháp. Năm xưa tại đại hội Quân Sơn của Cái Bang bên hồ Động Đình, Hoàng Dung từng dùng chiêu này ba lần đoạt cây gậy trúc trong tay Dương Khang. Chiêu này biến ảo khó lường, dùng để đoạt gậy thì "trăm lần được cả trăm" cao thủ giỏi mấy cũng không tránh thoát. Quần hùng hò reo vang dậy. Hoàng Dung trở về chỗ ngồi, chống cây gậy trúc ở bên cạnh, bỏ Hoắc Đô đứng tại chỗ ngơ ngác.

Hoắc Đô tuy võ học tinh thông, nhưng cũng không thể hiểu, rốt cuộc Hoàng Dung đã đoạt cây gậy trúc bằng thủ pháp gì, hắn nghĩ thầm: "Chẳng lẽ thiếu phụ kia có ảo thuật?" Nghe tiếng chế nhạo của mọi người, liếc về phía sư phụ, thấy sắc diện lầm lì, thiết tưởng bản lĩnh của thiếu phụ xinh đẹp kia cũng chỉ có hạn, bèn nói to:

– Hoàng bang chủ, tại hạ đã trả lại cây gậy cho bang chủ, mời bang chủ ra đây giao đấu, bang chủ có dám hay không nào?

Hắn nói như vậy, quả nhiên có người nghĩ rằng vừa rồi không phải Hoàng Dung đoạt lại cây gậy trúc, mà là Hoắc Đô trả lại cho nàng, để đôi bên tỷ thí. Chỉ có người võ công rất cao, mới biết thực hư mà thôi.

Quách Phù nghe câu nói của Hoắc Đô thì cả giận, cả đời nàng chưa từng thấy kẻ nào dám vô lễ như thế với mẫu thân, xoẹt một tiếng, nàng đã rút bội kiếm ra. Võ Tu Văn nói:

– Phù muội, để huynh trị hắn cho!

Võ Đôn Nhu cùng một tâm tư, huynh đệ họ Võ không hẹn mà cùng nhảy ra giữa sảnh, người này nói:

– Sư mẫu của ta là bậc tôn quí.

Người kia tiếp lời:

– Há đi động thủ với loại thô lỗ như ngươi? Ngươi hãy lĩnh giáo công phu của tiểu gia đây đã!

Hoắc Đô thấy hai người nhỏ tuổi, nhưng thân pháp đoan ổn, đích thị có danh sư chỉ điểm, nghĩ thầm: "Hôm nay bọn ta đến đây chính là dụng võ dương uy, làm nhụt khí các võ sư người Hán, đánh thêm vài trận cũng tốt. Nhưng địch đông ta ít, nếu biến thành quần ẩu, thì sẽ rất khó", bèn nói:

– Xin anh hùng thiên hạ lưu ý, hai gã vắt mũi chưa sạch này đòi tỉ võ với tại hạ; nếu tại hạ xuất thủ, chỉ e bị mọi người cho là người lớn bắt nạt con nít, còn không thì lại cho rằng tại hạ sợ hai gã đó. Vậy chúng ta hãy nói rõ trước, đôi bên tỉ võ ba trận, bên nào thắng hai trận, sẽ giành chức minh chủ. Trận tỷ thí vừa rồi giữa tại hạ với Lỗ Hữu Cước Lỗ bang chủ coi như chưa tính. Các vị nói xem; như thế có thỏa đáng hay không?

Mấy câu vừa nói rõ ra cái giọng kẻ cả. Quách Tĩnh, Hoàng Dung với một số tân khách bàn nhỏ với nhau, thấy kiến nghị của đối phương thật khó từ chối. Tham gia đại hội hôm nay, trừ Hoàng Dung không thể xuất trận, còn ba người võ công mạnh hơn cả, là Quách Tĩnh, Hách Đại Thông, và đệ tử thứ tư của Nhất Đăng đại sư là thư sinh Chu Tử Liễu. Chu Tử Liễu là người nước Đại Lý, không phải là người Tống, nhưng Đại Lý và Đại Tống môi hở răng lạnh, những năm gần đây cũng bị Mông Cổ uy hiếp rất mạnh, nên Mông Cổ là kẻ thù chung; huống hồ Chu Tử Liễu giao hảo với vợ chồng Quách Tĩnh, ắt không từ chối. Bèn quyết định Chu Tử Liễu sẽ đấu trận thứ nhất với Hoắc Đô, Hách Đại Thông đấu trận thứ hai với Đạt Nhĩ Ba, Quách Tĩnh đấu trận cuối cùng với Kim Luân pháp vương. Trận thế này thắng thua ra sao chưa rõ; nếu Kim Luân pháp vương quả võ công cực cao, ngay Quách Tĩnh cũng địch không nổi, thì không chừng cả ba trận phía ta đều thua cũng nên.

Mọi người đang bàn chưa quyết, Hoàng Dung bỗng nói:

– Có một cách chắc thắng.

Quách Tĩnh cả mừng, đang định hỏi, bỗng nghe tiếng kiếm phong vù vù, ai nấy ngoảnh lại, thấy huynh đệ họ Võ đã bắt đầu giao đấu với Hoắc Đô, một bên sử dụng hai thanh trường kiếm, một bên là cây quạt. Vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung và hai môn hạ của Nhất Đăng đại sư là Điểm Thương Ngư Ẩn và thư sinh Chu Tử Liễu rất lo cho sự an nguy của đồ đệ, cùng chăm chú xem cuộc đấu.

Nguyên huynh đệ họ Võ nghe vương tử Hoắc Đô mở miệng càn rỡ, gọi họ là hai kẻ "miệng còn hơi sữa", để cho các bậc thượng nhân nghe thấy thì còn gì là thể diện, huống hồ vừa thấy sư mẫu đoạt lại cây gậy trúc một cách khá dễ dàng, nghĩ bụng Hoắc Đô tuy đánh bại Lỗ Hữu Cước, nhưng xem ra Lỗ Hữu Cước võ công quá thấp; lại nghĩ hai huynh đệ được sư phụ chân truyền võ công, một người đấu có thể không thắng, hai người hợp lực, quyết chẳng thể thua. Cũng bất chấp ba trận bốn trận gì hết, đúng là nghé con không sợ hổ, hai huynh đệ họ Võ đưa mắt cho nhau, song kiếm cùng xuất.

Nhưng Quách Tĩnh võ công tuy cao, cũng chưa dạy cả cho đồ đệ, tự mình lĩnh hội tinh nghĩa võ học thượng thừa, song khi truyền thụ thì diễn giải không rõ ràng, từ không đạt ý. Huynh đệ họ Võ tư chất bình thường, vẻn vẹn trong dăm năm, phỏng học được bao nhiêu? Chỉ sau vài chiêu, trường kiếm của họ đã bị Hoắc Đô khống chế, không thi thố gì được.

Hoắc Đô muốn trổ tài lập uy trước mặt quần hùng, thấy trường kiếm của Võ Tu Văn đâm tới, bèn dùng ngón trỏ tay trái hẩy lưỡi kiếm lên thành nằm ngang, cây quạt đánh xuống giữa thanh kiếm, "cách" một tiếng, kiếm gãy làm hai đoạn. Huynh đệ họ Võ cả kinh, Võ Tu Văn vội nhảy sang một bên, Võ Đôn Nhu thì đâm một kiếm tới sau lưng Hoắc Đô để hắn không thể đuổi đánh huynh đệ. Hoắc Đô sớm đã tiên liệu chiêu này, không cần ngoái đầu, đưa cây quạt về phía sau, vừa hay chạm vào sống kiếm, ngón tay xoay xoay hai cái. Hắn chỉ cần chuyển động ngón tay, thanh kiếm trong tay Võ Đôn Nhu nếu phải thuận theo cây quạt mà xoay chuyển, thì xương vai của Võ Đôn Nhu không thể không bị trật khớp, gã đành phải buông kiếm mà nhảy sang một bên; thanh kiếm bay thẳng lên, kiếm quang loang loáng mấy lần trong không trung rồi mới rơi xuống.

Huynh đệ họ Võ vừa kinh ngạc vừa tức giận, tuy đã mất binh khí, vẫn không hề sợ, Võ Đôn Nhu tả chưởng hoành không, sử chiêu thức của "Hàng long thập bát chưởng"; Võ Tu Văn thì tay phải buông xuống, ngón tay trỏ hơi gập lại, hễ kẻ địch đánh tới, sẽ dùng "Nhất dương chỉ" đối phó.

Hoắc Đô thấy tư thế của hai người ngưng trọng, thì không dám coi thường, nghĩ thầm: "Thắng đến mức này là đủ, đừng tưởng lấn tới đã ngon". "Hàng long thập bát chưởng" và "Nhất dương chỉ" là hai công phu đệ nhất trong võ học, huynh đệ họ Võ công lực tuy non, nhưng động tác của họ hoàn toàn chính xác, người thường nhận không ra, nhưng người có nhãn quang tinh đời như Hoắc Đô thì biết ngay giá trị, hắn bèn cười hà hà, ôm quyền nói:

– Mời hai vị về chỗ ngồi, chúng ta chỉ phân thắng bại, chứ không liều chết.

Giọng nói đã bớt hẳn ngông cuồng.

Huynh đệ họ Võ ngượng ngùng, thiết nghĩ tay không đấu với hắn, quá nửa là sẽ thảm bại, đành cúi đầu lùi về, không dám trở lại bên chỗ Quách Phù.

Quách Phù vội chạy lại, nói:

– Võ gia ca ca, ba chúng ta cùng xông ra tái đấu với hắn.

Mọi người chăm chú nhìn, Quách Phù tay phải cầm kiếm, tay trái vẫy gọi:

– Ba sư huynh muội chúng ta liên thủ với nhau.

Quách Tĩnh quát:

– Phù nhi, đừng làm ồn!

Quách Phù sợ nhất phụ thân, đành lùi mấy bước, hầm hầm nhìn Hoắc Dô. Hoắc Đô thấy nàng mỹ mạo kiều diễm, thì gật gù, cười hì hì. Quách Phù trừng mắt nhìn hắn một cái, rồi quay nhìn chỗ khác. Huynh đệ họ Võ vốn chỉ sợ Quách Phù chê cười, giờ thấy nàng bênh vực cho họ, thì trong lòng rất được an ủi.

Hoắc Đô mở quạt, phe phẩy vài cái, nói:

– Trận tỷ thí vừa rồi, dĩ nhiên cũng không tính. Quách đại hiệp, tệ phương gồm ba người là gia sư, sư huynh và tại hạ. Tại hạ võ công thấp nhất, sẽ đấu trận đầu. Vị nào bên quí phương sẽ hạ trường chỉ giáo đây? Ai thắng ai bại, chẳng phải chuyện đùa.

Quách Tĩnh nghe Hoàng Dung bảo có cách chắc thắng, biết nàng túc trí đa mưu, tuy chưa rõ diệu kế của nàng thế nào, nhưng đã không lo nữa; lớn tiếng nói:

– Được, chúng ta sẽ đấu ba trận để phân thắng bại.

Hoắc Đô biết bên phía đối phương, người có võ công mạnh nhất là Quách Tĩnh, sư phụ của hắn vô địch thiên hạ, nhất định sẽ thắng chàng; Hoàng Dung vừa rồi tuy có quái chiêu đoạt gậy, nhưng nhìn vẻ yếu ớt của nàng, nếu giao đấu thật sự, vị tất đã lợi hại, những kẻ khác chả đáng nói, thế là đưa mắt quét qua mọi người một lượt, nói:

– Các vị nếu có kiến nghị gì khác thì hãy nói sớm. Một khi thắng bại đã quyết, tất phải theo lệnh minh chủ đó.

Quần hùng cũng định đáp ứng, nhưng thấy hắn liên tiếp đánh bại Lỗ Hữu Cước và huynh đệ họ Võ, không biết còn có những bản sự gì chưa thi triển, nên chưa ai dám lên tiếng, đều quay nhìn vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung.

Hoàng Dung nói:

– Túc hạ đấu trận thứ nhất, lệnh sư huynh đấu trận thứ hai, tôn sư đấu trận thứ ba, đã chắc chắn không thay đổi nữa chứ?

Hoắc Đô đáp:

– Đúng thế.

Hoàng Dung quay lại nói nhỏ với mấy người xung quanh:

– Chúng ta chắc thắng rồi.

Quách Tĩnh hỏi:

– Làm thế nào?

Hoàng Dung nói nhỏ:

– Nay "dĩ quân chi hạ tứ, dữ bỉ thượng tứ.."

Nàng vừa nói vừa nhìn Chu Tử Liễu. Chu Tử Liễu mỉm cười, nói tiếp:

– "Thủ quân thượng tứ, dữ bỉ trung tứ, thủ quân trung tứ, dữ bỉ hạ tứ". Đánh xong ba trận, Điền Kỵ thua một trận mà thắng hai trận, giành được ngàn lạng vàng.

Quách Tĩnh giương mắt nhìn, hoàn toàn không hiểu họ nói gì.

Hoàng Dung ghé tai chàng nói:

– Chàng tinh thông binh pháp, sao lại quên diệu kế của ông tổ binh pháp Tôn Tẫn?

Quách Tĩnh chợt nhớ thời nhỏ học "Võ Mục di thư", Hoàng Dung từng kể với chàng tích cũ thế này: Đại tướng Điền Kỵ nước Tề đua ngựa với Tề vương, đánh cuộc ngàn lạng vàng. Tôn Tẫn bày cho Điền Kỵ cách thắng cuộc, dùng con ngựa kém nhất đua với con ngựa hay nhất của Tề vương; dùng con ngựa hay nhất đua với con ngựa trung bình của Tề vương; rồi dùng con ngựa trung bình đua với con ngựa kém nhất của Tề vương, kết quả Điền Ky thắng hai trận, giành được ngàn lạng vàng. Hoàng Dung vừa nói là ngụ ý dùng cách tương tự.

Hoàng Dung nói:

– Chu sư huynh, với công phu "Nhất dương chỉ" của mình, sư huynh thắng vương tử Hoắc Đô không khó.

Chu Tử Liễu ở nước Đại Lý từng thi đỗ trạng nguyên, từng làm Tể tướng, tất là bậc tài trí hơn người. Hiểu rất sâu về võ công của môn phái họ Ân ở nước Đại Lý. Ban đầu Chu Tử Liễu là môn hạ của Nam Đế, võ công đứng sau cùng trong bốn đại đệ tử Ngư, Tiều, Canh, Độc; mười năm đã thăng lên vị trí thứ hai. Hiện thời võ công đã cao hơn hẳn ba vị sư huynh. Nhất Đăng đại sư đối với bốn đại đệ tử như nhau, có môn võ công nào cũng đều truyền thụ cho họ, nhưng cuối cùng thì Chu Tử Liễu là người lĩnh hội được nhiều hơn cả, nhất là công phu "Nhất dương chỉ" luyện tới mức xuất thần nhập hóa. Lúc này võ công của Chu Tử Liễu so với Quách Tĩnh, Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ thì chưa bằng, nhưng đã cao hơn những người như Vương Xứ Nhất, Hách Đại Thông.

Quách Tĩnh nghe Hoàng Dung nói vậy, bèn tiếp lời:

– Mời Hách đạo trưởng đấu với Kim Luân pháp vương, kể ra rất nguy hiểm. Thắng hay bại cố nhiên không liên quan đến đại cục. Chỉ sợ kẻ địch xuất thủ quá tàn ác, không đối phó nổi.

Chàng ngay thẳng, nghĩ sao nói vậy, cũng không ngại coi mình là "con ngựa hay nhất", Hách Đại Thông là "con ngựa dở nhất".

Hách Đại Thông hiểu rõ cuộc đấu này quan hệ đến vận mệnh quốc gia, hoàn toàn không giống cuộc đấu giành giật danh tiếng tầm thường trong võ lâm; nếu để lão quốc sư Mông Cổ kia đoạt lấy chức vị minh chủ anh hùng thiên hạ, thì các võ sĩ người Hán chẳng những mất mặt, mà còn làm phân tán nhân tâm, e rằng khó kết minh kháng địch, bèn khảng khái nói:

– Chuyện đó khỏi cần lo nghĩ, chỉ cốt lợi cho quốc gia, lão đạo này dẫu có bỏ mạng dưới tay Tạng tăng, cũng không sao cả.

Hoàng Dung nói:

– Trong ba trận, chúng ta chỉ cần thắng hai trận đầu, thì trận thứ ba đâu cần đấu nữa.

Quách Tĩnh cả mừng, khen phải.

Chu Tử Liễu cười, nói:

– Tại hạ gánh vác trọng nhiệm rồi, nếu không thắng nổi gã vương tử Mông Cổ, thì suốt đời sẽ bị anh hùng thiên hạ phỉ thổ mất thôi.

Hoàng Dung nói:

– Không nên quá khiêm tốn, mời sư huynh xuất trận cho.

Chu Tử Liễu bước ra giữa sảnh, ôm quyền nói với Hoắc Đô:

– Trận đấu thứ nhất này, do tệ nhân lĩnh giáo các hạ. Tệ nhân họ Chu, tên Tử Liễu. Bình sinh thích ngâm thơ, làm câu đối, tụng kinh đọc Dịch, võ công thì rất thô sơ, mong được các hạ chỉ giáo thật nhiều.

Nói rồi vái một cái thật dài, rút từ ống tay áo ra một cây bút, viết mấy nét trong không trung, đúng là phong thái một gã hủ nho.

Hoắc Đô nghĩ thầm: "Kẻ trông càng tầm thường, càng có võ công cao thâm, thực không thể coi thường", bèn ôm quyền đáp lễ, nói:

– Tiểu vương xin lĩnh giáo tiền bối, xin hãy lấy binh khí ra cho.

Chu Tử Liễu nói:

– Mông Cổ là xứ man di, chưa được thánh nhân giáo hóa, các hạ đã muốn lĩnh giáo, thì tệ nhân dĩ nhiên sẽ chỉ điểm cho.

Hoắc Đô trong bụng tức giận: "Ngươi mở miệng nhục mạ Mông Cổ ta, không thể tha cho ngươi được".

Hắn xòe quạt, nói:

– Đây là binh khí của tiểu vương. Tiền bối sử dụng đao hay kiếm?

Chu Tử Liễu giơ bút viết chữ "Bút" trong không trung, cười, nói:

– Tệ nhân cả đời lấy cây bút làm bạn, còn biết sử dụng thứ binh khí nào khác?

Hoắc Đô nhìn kỹ cây bút của đối phương, thấy cán tre lông cừu, ngòi bút chấm mực đen một nửa, thật không có gì lạ, khác hẳn với loại bút thép dùng để điểm huyệt trong võ lâm, đang định hỏi, thì thấy từ ngoài tiến vào một bạch y thiếu nữ.

Nàng dừng chân ở cửa sảnh, thong thả đưa mắt nhìn mặt mọi người, tựa hồ đang tìm ai đó.

Quần hùng vốn đang chú mục nhìn Chu Tử Liễu và Hoắc Đô, thấy bạch y thiếu nữ bước vào, ai nấy bất giác cùng nhìn về phía nàng. Chỉ thấy nàng sắc diện trắng trẻo, xanh xao như người có bệnh, nhìn dưới ánh nến tưởng chừng không một hạt máu, càng lộ vẻ thanh nhã tuyệt tục, vô cùng tú lệ. Người đời thường dùng bốn chữ "đẹp như tiên nữ" để tả cái đẹp của nữ nhân, nhưng tiên nữ đẹp như thế nào, thì chẳng ai biết cả. Lúc này vừa trông thấy bạch y thiếu nữ, mọi người nghĩ ngay tới bốn chữ kia. Toàn thân nàng như được bao phủ bởi một lớp sương khói mỏng manh, nửa thực nửa hư, không phải như người trần tục.

Dương Quá nhìn thấy bạch y thiếu nữ thì sung sướng như điên, như có ai đấm mạnh vào ngực, tức thì từ trong góc sảnh lao ra, ôm lấy nàng, gọi to:

– Cô cô, cô cô!

Bạch y thiếu nữ chính là Tiểu Long Nữ. Sau khi giã biệt Dương Quá, nàng quanh quẩn ở vùng sơn dã một vòng, lội suối trở lại "Hoạt tử nhân mộ". Hơn mười tám năm sống trong tòa cổ mộ, lòng nàng giống như hồ nước lặng, không hề gợn sóng. Nhưng từ khi gặp Dương Quá, lại trải qua một phen sóng gió vừa rồi, muốn trở lại nếp sống cũ đã không tài gì làm nổi. Mỗi lần ngồi tĩnh tọa luyện công trên chiếc giường hàn ngọc, nàng lại nhớ Dương Quá từng nằm ngủ trên cái giường này; mỗi lần ngồi bên bàn ăn cơm, nàng lại nhớ mình luôn có Dương Quá bầu bạn trong lúc ăn uống. Luyện công chỉ được một lát, nàng đã sốt ruột, không thể tiếp tục được nữa. Cứ vậy hơn một tháng, nàng hết chịu nổi, quyết ý đi tìm Dương Quá, nhưng nếu tìm được, sẽ đối xử với Dương Quá như thế nào, nàng cũng chưa biết. Nhân tình thế cố nàng không hiểu gì hết; y hệt một dã nhân ở chốn thâm sơn cùng cốc. Từ khi xuống núi, Tiểu Long Nữ thấy cái gì cũng hoàn toàn mới mẻ, nàng lại không biết đường, hễ gặp ai trên đường nàng cũng hỏi:

– Quí vị có thấy Dương Quá hay không?

Bụng đói, thì lấy thứ này thứ nọ của nhà người ta mà ăn, cũng không biết rằng cần phải trả tiền, dọc đường đã gây nên bao chuyện tức cười. Người ta thấy nàng xinh đẹp hồn nhiên, tự dưng đều nhường nhịn, cũng chẳng nỡ gây khó dễ với nàng. Một hôm vô tình ở một khách điếm nghe hai đại hán trò chuyện với nhau, rằng các anh hùng hảo hán hữu danh trong thiên hạ đều đi dự anh hùng đại yến ở Lục gia trang, ải Đại Thắng. Tiểu Long Nữ nghĩ bụng Dương Quá rất có thể sẽ tới đó, thế là nàng hỏi đường và đi tới Lục gia trang.

Trừ ba người Hách Đại Thông, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, hơn hai ngàn người trong đại sảnh không ai biết lai lịch của Tiểu Long Nữ, chỉ thấy nàng quá xinh đẹp, thì ai nấy đều có cảm giác đặc dị. Tôn Bất Nhị tuy biết Tiểu Long Nữ, song cũng chưa gặp mặt lần nào. Doãn Chí Bình mặt tái nhợt, người run rẩy. Triệu Chí Kính liếc nhìn sư đệ, cười nhạt. Quách Tĩnh, Hoàng Dung thấy cử chỉ của Dương Quá đối với Tiểu Long Nữ thì cũng vô cùng kinh ngạc.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ngươi quả nhiên ở đây, thế là cuối cùng ta đã tìm được ngươi.

Dương Quá ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:

– Cô cô.. cô cô sẽ không hắt hủi đệ tử nữa chứ?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Ta không biết.

Dương Quá nói:

– Từ rày cô cô đến đâu, đệ tử sẽ theo cô cô đến đó.

Đại sảnh đông cả ngàn người, hai người ấy cứ làm như xung quanh chẳng có ai, cứ trò chuyện thân mật với nhau. Tiểu Long Nữ cầm tay Dương Quá, trong lòng cũng không rõ là hỉ hay bi.

Hoắc Đô thấy Tiểu Long Nữ xinh đẹp như thế, lòng cũng xúc động, nhưng hắn không biết nàng chính là cô nương ở núi Chung Nam mà hắn từng đến cầu hôn, thấy Dương Quá ăn mặc lam lũ, nhưng lại thân mật với Tiểu Long Nữ, thì hắn rất khó chịu, bèn nói:

– Bọn ta cần tỷ thí ở đây, hai người bước ra chỗ khác hộ cho!

Dương Quá cũng chẳng trả lời, kéo tay Tiểu Long Nữ sang bên cạnh, ngồi xuống tảng đá kê chân cột, lòng sung sướng không sao kể xiết.

Hoắc Đô quay lại, nói với Chu Tử Liễu:

– Các hạ đã không dùng binh khí, thì chúng ta dùng quyền cước phân thắng bại cũng được.

Chu Tử Liễu nói:

– Đâu có. Trung Hoa là nước có lễ nghĩa, không phải Mông Cổ man di. Quân tử luận văn, dùng bút hiểu nhau, tệ nhân có bút, chính là binh khí đó.

Hoắc Đô nói:

– Đã vậy thì tiếp chiêu đi!

Hắn xòe quạt, quạt một cái về phía đối phương. Chu Tử Liễu bước chếch, lắc đầu, tả chưởng đưa nhẹ trước thân, cây bút trong tay phải vạch một nét lên mặt Hoắc Đô. Hoắc Đô nghiêng mặt né tránh, thấy đối phương thân pháp nhẹ nhàng, chiêu số kỳ dị, chưa dám tấn công, muốn xem gia số võ công của đối phương thế nào, mới định cách đối phó

Chu Tử Liễu nói:

– Cây bút của tệ nhân quét sạch ngàn quân, các hạ hãy cẩn thận đấy.

Nói xong ngọn bút chọc nhanh về phía trước.

Hoắc Đô tuy học võ nghệ ở Tây Tạng, nhưng Kim Luân pháp vương có bộ não uyên bác, võ công của các danh gia Trung Nguyên món nào cũng biết. Hoắc Đô trong khi học võ, đã quyết ý đi Trung Nguyên lập uy danh, bởi vậy Kim Luân pháp vương từng đem những chiêu số đắc ý của các đại phái võ học lừng danh ở Trung Nguyên ra chiết giải với hắn. Không ngờ hôm nay lại gặp Chu Tử Liễu sử dụng cây bút như một thứ binh khí cổ quái, xuất chiêu càng lạ lùng ngoài sức tưởng tượng, chỉ thấy ngọn bút cứ tạo các nét vạch, nét sổ, nét chấm, y như đang viết chữ, nhắm vào các đại huyệt trên thân người.

Họ Ân ở nước Đại Lý vốn thuộc quận Võ Uy, Lương Châu, lập nước xưng đế tại Đại Lý, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn vật giáo hóa Trung Hoa. Chu Tử Liễu là danh gia thư pháp đệ nhất ở Thiên Nam, tuy học võ, song không bỏ văn, khi võ học càng luyện càng tinh thông, đã đem môn "Nhất dương chỉ" phối hợp làm một với thư pháp. Công phu ấy do một mình Chu Tử Liễu sáng tạo; đối phương võ công dẫu cao cường mà trong bụng ít chữ, thì quả thật khó bề đối phó nổi với môn võ công trong văn có võ, trong võ có văn, cả văn lẫn võ đều đạt tới cảnh giới cao diệu của Chu Tử Liễu. Chỉ thấy cây bút cứ chao động, trong thư pháp có điểm huyệt, trong điểm huyệt có thư pháp, lợi hại vô cùng, vừa oai hùng lại vừa uyển chuyển.

Quách Tĩnh không hiểu văn chương, nhìn mà lấy làm lạ. Hoàng Dung được phụ thân dạy dỗ, văn võ toàn tài, thấy môn võ công kỳ diệu của Chu Tử Liễu, không khỏi thầm tán thưởng.

Quách Phù đến bên cạnh Hoàng Dung, hỏi:

– Mẹ ơi, Chu tiên sinh cứ vạch vạch cái gì như đùa thế ạ?

Hoàng Dung đang mải xem đấu, trả lời:

– Bia văn Phòng Huyền Linh.

Quách Phù ngơ ngác:

– Bia văn Phòng Huyền Linh là cái gì ạ?

Hoàng Dung đang ngắm thích quá, không trả lời.

Nguyên "Bia văn Phòng Huyền Linh" là loại bia văn do vị đại thần triều Đường Chử Toại Lương viết ra, là một loại thư phẩm kỳ diệu kiểu chữ khải. Tiền nhân bình phẩm thư pháp của Chử Toại Lương là "Tiên nữ tán hoa", thư pháp vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển, vút lên trời cao, cực kỳ phóng khoáng, thanh thoát. Môn "Nhất dương thư chỉ" của Chu Tử Liễu này dùng bút thay ngón tay, chiêu nào pháp độ cũng nghiêm cẩn, hệt như lối viết chữ khải không thể cẩu thả.

Hoắc Đô tuy không hiểu sự huyền diệu của môn "Nhất dương chỉ", song cũng từng tập viết "Bia văn Phòng Huyền Linh", dự tính sau nét ngang sẽ là nét sổ, nên phòng thủ rất chặt chẽ, hoàn toàn không có dấu hiệu núng thế.

Chu Tử Liễu thấy đối phương nhận biết lộ thư pháp này, bèn quát:

– Coi chừng! Giờ đến chữ thảo.

Đột nhiên ném cái mũ đang đội trên đầu xuống đất, tay áo dài múa lượn, chạy tế lên, xuất chiêu không còn theo chương pháp nào nữa. Chỉ thấy Chu tiên sinh như điên như cuồng, như kẻ say rượu, như kẻ trúng tà, bút ý lâm li, chỉ trỏ loạn xạ.

Quách Phù ngạc nhiên, hỏi:

– Mẹ ơi, Chu tiên sinh phát điên hay sao thế?

Hoàng Dung nói:

– Ừm, nếu uống ba chén rượu, thế bút càng tuyệt diệu.

Nàng cầm bình rượu, rót ra ba chén, gọi:

– Chu đại ca, hãy cạn ba chén trợ hứng.

Rồi tay trái giơ chén, dùng ngón giữa tay phải búng một cái, chén rượu bay ngang đi. Chu Tử Liễu ra một đòn bút, buộc Hoắc Đô lùi một bước, đón chén rượu uống cạn một hơi. Hoàng Dung búng tiếp chén thứ hai, chén thứ ba. Hoắc Đô thấy hai người mời rượu trước trận như thế, thật chẳng coi hắn ra gì, định dùng cây quạt đánh văng chén rượu; nhưng Hoàng Dung phối hợp rất ăn ý với cây bút của Chu Tử Liễu, búng chén rượu tới đúng lúc, Hoắc Đô không làm gì được.

Chu Tử Liễu uống liền ba chén, nói:

– Đa tạ, công phu Đạn chỉ thần công mới hay làm sao!

Hoàng Dung cười, nói:

– Sắc bén thay "Tự ngôn thiếp"!

Chu Tử Liễu cười, nghĩ thầm: "Chu mỗ một đời tự phụ thông minh, hóa ra còn thua tiểu cô nương một bậc. Ta tốn hơn mười năm khổ công mới nghĩ ra tuyệt kỹ này, nàng ta vừa nhìn đã biết". Nguyên lối chữ Chu Tử Liễu viết lúc này chính là "Tự ngôn thiếp" của Trương Húc đời Đường. Trương Húc được tôn là "Thảo thánh", tức là bậc thánh về thảo thư. Đỗ Phủ viết Ẩm trung bát tiên ca có câu:

Trương Húc ba ly xưng thánh thủ

Trước vương công ném mũ ngẩng đầu

Bút vung quỷ khốc thần sầu

Như mây như khói trên màu giấy hoa

Hoàng Dung mời ba chén rượu, một là rất hợp với thân phận của Chu Tử Liễu khi sử dụng môn công phu này, hai là để tăng tửu ý, bút pháp sẽ càng lợi hại, ba là cũng giảm bớt nhuệ khí của Hoắc Đô.

Chỉ thấy Chu Tử Liễu viết đến chữ "Đạo" trong câu "Đảm phu tranh đạo", thì nét cuối cùng hất lên, như cái móc kéo toạc vạt áo của Hoắc Đô. Quần hào cười rộ, Hoắc Đô nhảy vội về phía sau.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 13: Minh Chủ Võ Lâm

Kim Luân pháp vương mắt lúc mở lúc nhắm, tựa hồ không thèm để ý đến chiến cục trước mặt, thực ra lão nhìn rõ hết thảy, thấy Hoắc Đô đã rơi vào thế hạ phong, đột nhiên nói:

– A cu si chin tơ nhi, mi ma cáp si tâng, si ơ si ơ hô!

Mọi người không ai hiểu mấy câu tiếng Tạng ấy nghĩa là gì. Hoắc Đô thì biết là sư phụ nhắc hắn không nên chỉ thủ mãi, bèn sử "Cuồng phong tấn lôi công" mà tấn công đối phương, tức thì hú lên một tiếng dài, cây quạt cuốn lên một luồng gió mạnh, xông về phía Chu Tử Liễu. Luồng kình phong lợi hại, những người đứng xem bất giác lùi dần, nghe Hoắc Đô luôn miệng gầm lên như sấm để trợ uy, thiết tưởng "Cuồng phong tấn lôi công" ngoài binh khí quyền cước, thì tiếng gầm thét cũng là một thủ đoạn lợi hại để khắc địch chế thắng. Chu Tử Liễu vung bút, nhìn cao bước rộng, đối phó dữ dội với địch thủ.

Hai người đấu hơn trăm chiêu, Chu Tử Liễu sắp viết xong thiên "Tự ngôn thiếp", bút ý đột nhiên biến đổi, xuất thủ chậm hẳn lại, nét bút vừa gầy vừa cứng. Hoàng Dung tự nhủ: "Cổ nhân nói" Sấu ngạnh phương thông thần ", cái lộ" Bao tà đạo thạch khắc "này quả là kỳ quan ngàn năm chưa có".

Hoắc Đô vẫn sử dụng "Cuồng phong tấn lôi công" đối địch, thấy lực đạo của đối phương rất mạnh, thì hắn cũng gia kình tương ứng, tiếng quát cũng ầm ĩ hơn. Những người võ công kém hơn không thể đứng lại trong đại sảnh, cứ phải lùi dần ra sân.

Hoàng Dung thấy Tiểu Long Nữ ngồi kề vai với Dương Quá dưới chân cột, chỗ ấy cách trận ác đấu chỉ hơn một trượng, hai người cứ thì thầm trò chuyện với nhau, dĩ nhiên chẳng thèm để ý tới hai kẻ đang giao đấu, kình phong của Hoắc Đô không làm tổn hại nổi họ. Chỉ thấy cái dải áo của Tiểu Long Nữ bay phần phật, song nàng coi như không có chuyện gì, cứ đắm đuối nhìn Dương Quá. Hoàng Dùng càng nhìn càng lạ, sau đó nhìn hai người đó nhiều hơn là xem cuộc đấu, nghĩ thầm: "Quá nhi hình như có võ công thượng thừa, nó và cô nương kia thân mật như vậy, không rõ cả hai là môn hạ của vị cao nhân nào?"

Tiểu Long Nữ hiện thời đã ngoài hai mươi tuổi, chỉ vì nàng hoàn toàn sống trong tòa cổ mộ, không có ánh mặt trời, nên da dẻ đặc biệt trắng trẻo, nội công lại cao, nên trông chỉ chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Trước khi gặp Dương Quá, nàng hầu như không có hỉ nộ ai lạc, thất tình lục dục rất có hại cho thân thể và nhan sắc. Nàng sống hai năm, chỉ như người thường sống một năm. Ví thử nàng cứ theo đúng lời dạy của sư phụ mà tu luyện, thì chẳng những có thể thọ trăm tuổi, mà đến khi một trăm tuổi, thể lực và nhan sắc sẽ chỉ như người năm mươi tuổi; vì thế dưới con mắt của Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ không chỉ ít tuổi hơn Dương Quá, mà cử chỉ hồn nhiên chất phác thì còn nhiều hơn cả Quách Phù.

Lúc này Chu Tử Liễu dùng bút càng lúc càng thô thiển, nhưng kình lực thì cũng mạnh dần, bút tới như nhện giăng tơ, vô cùng kỳ ảo, Hoắc Đô thầm kinh sợ. Kim Luân pháp vương quát to:

– Ma mi pa mi, cu xi mo xi?

Tám chữ ấy không biết nghĩa gì, chỉ làm cho mọi người nghe đinh tai nhức óc. Chu Tử Liễu chợt sốt ruột, nghĩ thầm: "Nếu hắn lại biến chiêu, thì trận đấu này biết khi nào mới xong. Ta là người Đại Lý, đánh trận đầu giúp Đại Tống, nhất quyết không được để thua, làm hổ danh bang quốc và sư môn". Đột nhiên bút pháp lại thay đổi, vận bút tựa hồ không phải để viết chữ, mà là như cầm búa đập đá. Điều này Quách Phù cũng nhận ra, hỏi:

– Mẹ ơi, Chu bá bá đang khắc chữ à?

Hoàng Dung cười, nói:

– Con gái ta cũng không đến nỗi xuẩn, lộ chỉ pháp ấy gọi là Thạch cổ văn. Là thứ văn tự dùng búa khắc vào đá, thời Xuân Thu. Con thử nhìn kỹ, xem Chu bá bá khắc chữ gì nào.

Quách Phù nhìn theo bút ý, chỉ thấy các chữ cứ quấn quít với nhau, như một bức vẽ nhỏ, không thể nhận biết một chữ nào cả. Hoàng Dung cười, nói:

– Đấy là lối chữ triện cổ xưa, ngươi không biết là phải, ta cũng không nhận ra được hết mọi chữ.

Quách Phù vỗ tay cười nói:

– Tên Mông Cổ ngu xuẩn kia càng nhận không ra nổi. Mẹ nhìn kìa, hắn vã mồ hôi đầy mặt kìa.

Lối chữ triện cổ xưa, quả nhiên Hoắc Đô không nhận ra được chữ nào. Hắn đã không biết đối phương viết chữ gì, tất nhiên sẽ không đoán nổi thế đi của chiêu thức trong thư pháp, khó bề chống đỡ. Chu Tử Liễu viết lối chữ triện cổ xưa hết chữ này chữ kia, "Nhất dương chỉ" làm nền cho thư pháp cũng gia tăng kình lực tương ứng. Hoắc Đô vung quạt đỡ, thu về hơi chậm, bị Chu Tử Liễu viết lên cây quạt một chữ triện to tướng.

Hoắc Đô nhìn, ngạc nhiên hỏi:

– Là chữ "Võng" phải không?

Chu Tử Liễu cười, đáp:

– Không phải, là chữ "Nhữ".

Lại đưa bút viết luôn lên quạt một chữ nữa. Hoắc Đô hỏi:

– Chắc là chữ "Nguyệt" hả?

Chu Tử Liễu lắc đầu, nói:

– Sai rồi, là chữ "Nãi".

Hoắc Đô chán nản, hất hất cây quạt, muốn tránh ngọn bút, không để cho đối phương đề chữ lên cây quạt; ai ngờ Chu Tử Liêu đột nhiên vung tả chưởng công kích, Hoắc Đô vội giơ chưởng chống đỡ, Chu Tử Liễu thừa cơ lại đề hai chữ lên cây quạt, nhưng vì viết vội, đã không còn lối chữ triện, mà là chữ thảo. Hoắc Đô liền nhận ra, kêu lên:

– Man di!

Chu Tử Liễu cười ha hả, nói:

– Không sai, chính là bốn chữ "Nhữ nãi man di" (Mi là mọi rợ).

Quần hùng căm hận quân thiết kỵ Mông Cổ xâm lược tàn hại bách tính, ai cũng hờn căm, nghe Chu Tử Liễu chửi Hoắc Đô "Mi là mọi rợ" thì reo hò thích thú.

Hoắc Đô bị đối phương dùng bốn kiểu chữ chân, thảo, lệ, triện, lồng vào "Nhất dương chỉ" tấn công, không chống nổi, đã khiếp đảm, nghe tiếng reo hò, tâm trí càng loạn, thấy Chu Tử Liễu múa bút viết ba chữ cổ trên không trung, không nhận biết là chữ gì; chỉ gắng gượng dùng cây quạt che đỡ vùng ngực, đột nhiên cảm thấy đầu gối tê dại, thì ra hắn đã bị đối phương quay bút, dùng cán bút điểm huyệt. Hoắc Đô thấy đầu gối mềm đi, chực ngã khuỵu xuống, nhưng nghĩ nếu ngã thì không còn mặt mũi nào làm người, bèn hít một hơi dài dẫn tới huyệt đạo đó, tính lùi lại nhận thua, thì cây bút của Chu Tử Liễu đã như tia chớp điểm tới. Chu Tử Liễu dùng bút thay ngón tay, lấy cán bút liên hoàn tiến chiêu "Nhất dương chỉ". Hoắc Đô làm sao đỡ nổi? Đầu gối tê dại, cuối cùng hắn ngã khuỵu xuống, mặt không còn hạt máu.

Quần hùng hoan hô như sấm. Quách Tĩnh quay sang nói với Hoàng Dung:

– Diệu kế của nàng đã thành.

Hoàng Dung mỉm cười.

Huynh đệ họ Võ đứng bên xem đấu, thấy môn "Nhất dương chỉ" của Chu sư thúc biến ảo vô cùng, thì cực kỳ khâm phục, nghĩ thầm: "Công lực của Chu sư thúc mạnh mẽ thâm hậu, hóa thành thư pháp lại càng biến hóa huyền ảo thêm, bao giờ mình mới học được như vậy?" Cả hai đang định nói lời tán thưởng võ công của sư thúc, bỗng nghe Chu Tử Liễu rú lên, quay đầu nhìn lại, thì thấy Chu Tử Liễu đã ngã ngửa. Diễn biến xảy ra bất ngờ khiến tất cả kinh hãi.

Nguyên sau khi Hoắc Đô nhận thua, Chu Tử Liễu nghĩ bụng mình đã sử dụng phép "Nhất dương chỉ" điểm trúng huyệt đạo của hắn, phép điểm huyệt này khác hẳn phép điểm huyệt thông thường, người ngoài không cứu nổi, bèn đưa tay ấn vào sườn hắn mấy cái, vận khí giải huyệt cho hắn. Ai dè Hoắc Đô vừa được giải huyệt, thì sát cơ nổi lên, miệng lầm bầm, thân chưa đứng thẳng dậy, đã đưa ngón tay cái bật cái chốt trên cây quạt, bốn cây đinh bôi chất độc từ trong khung quạt bắn ra, cắm cả vào người Chu Tử Liễu. Cao thủ tỷ võ, đã phân rõ thắng bại, nhất thiết không được tái động thủ, huống hồ trước con mắt của bao nhiêu con người trong đại sảnh, ai ngờ Hoắc Đô lại dám ám toán. Nếu trong lúc giao đấu, Hoắc Đô có phóng ám khí, mấy cây đinh có giấu trong cây quạt khéo đến mấy, cũng không làm gì nổi Chu Tử Liễu; đằng này Chu Tử Liễu giải huyệt cho hắn, chỉ cách hắn chưa đầy một thước, cho nên võ công cao mấy cũng khó lòng né tránh. Bốn cây đinh bôi chất độc lấy trên núi tuyết vùng Tây Tạng, Chu Tử Liễu vừa bị trúng, lập tức cảm thấy toàn thân đau buốt ghê gớm, không thể đứng vững.

Quần hùng căm phẫn, chỉ mặt Hoắc Đô mà chửi hắn là quân hèn hạ vô sỉ. Hoắc Đô cười nhăn nhở, nói:

– Tiểu vương chuyển bại thành thắng, có gì mà hữu sỉ với chả vô sỉ? Trước khi tỉ thí, đôi bên có nói là không được sử dụng ám khí hay không? Vị Chu huynh đây nếu sử dụng ám khí trước, tiểu vương cũng sẽ không nói gì cả.

Mọi người tuy thấy hắn cưỡng từ đoạt lý, song nhất thời cũng chưa biết nên đối phó thế nào, chỉ chửi bới hắn mà thôi.

Quách Tĩnh chạy ra ôm Chu Tử Liễu vào, thấy bốn cây đinh nhỏ cắm trên ngực, sắc mặt rất quái dị, biết là chất độc bôi vào ám khí kỳ dị, vội điểm ngay ba đại huyệt để máu lưu thông chậm lại, phong bế kinh mạch, không cho khí độc chạy vào tim, rồi hỏi Hoàng Dung:

– Làm thế nào?

Hoàng Dung cau mày, im lặng, nghĩ thầm thuốc giải độc hẳn do Hoắc Đô hoặc Kim Luân pháp vương nắm giữ, làm thế nào lấy được thuốc giải, thì nhất thời nàng chưa nghĩ ra.

Điểm Thương Ngư Ẩn thấy sư đệ trúng độc trầm trọng, vừa lo vừa tức, thắt chặt dây lưng, định xông ra giao đấu với Hoắc Đô. Hoàng Dung nghĩ thầm: "Đối phương đã thắng một trận, Ẩn sư huynh nếu nhảy ra, bên đối phương Đạt Nhĩ Ba ứng chiến, thì bên ta hoàn toàn không thể thắng", vội nói:

– Sư huynh hãy khoan?

Điểm Thương Ngư Ẩn hỏi:

– Tại sao?

Hoàng Dung tuy túc trí đa mưu, cũng chưa biết trả lời thế nào, trận thứ nhất đã thua, hai trận sau sẽ rất khó khăn.

Hoắc Đô dùng gian kế thắng Chu Tử Liễu, hắn đứng ở cửa sảnh dương dương tự đắc, đưa mắt nhìn bốn phía. Hắn thấy Tiểu Long Nữ và Dương Quá kề vai nhau ngồi dưới chân cột, thì thầm chuyện trò thân mật với nhau, chẳng để ý đến trận thắng của hắn, thì bất giác nổi giận, giơ cây quạt chỉ mặt Dương Quá, quát:

– Tiểu súc sinh, đứng lên.

Dương Quá còn mải mê ngắm Tiểu Long Nữ, cảm thấy thiên hạ tuy rộng lớn, nhưng không việc gì có thể làm cho chàng phân tâm, cho nên trận đấu rung chuyển trời đất vừa rồi giữa Hoắc Đô với Chu Tử Liễu, chàng nhìn mà chẳng thấy, nghe mà không để ý. Chàng cùng Tiểu Long Nữ đã sống mấy năm trong tòa cổ mộ, quả thực không biết rằng chàng với nàng đã khắc cốt ghi xương, sống chết có nhau. Hôm Tiểu Long Nữ hỏi chàng có muốn lấy nàng làm thê tử hay không, câu hỏi đột ngột, chàng chưa từng nghĩ đến, chưa biết trả lời thế nào; sau đó Tiểu Long Nữ bỏ đi mất tăm, chàng cứ thầm nhắc lại trong lòng hàng ngàn vạn lần: "Ta muốn, ta muốn. Thà phải chết ngay, ta cũng muốn lấy cô cô làm thê tử của ta". Tình ý giữa Tiểu Long Nữ với chàng, cả hai đều chớm nở mà không biết, đến khi chia tay mới bột phát ra không thể kìm chế. Giờ đây Dương Quá cố nhiên không sợ trời, không sợ đất; mà Tiểu Long Nữ thì lễ giáo thế tục chẳng biết chút gì, chỉ nghĩ mình muốn luyến ái thì luyến ái, đâu có liên quan gì tới người khác? Thế nên, một người thì bất chấp, một người thì không hiểu, đôi bên ở chỗ ngàn người vây quanh, cạnh cuộc ác đấu, vẫn cứ điềm nhiên nắm tay nhau, đắm đuối chuyện trò với nhau.

Hoắc Đô quát một tiếng, Dương Quá vẫn không nghe thấy. Hoắc Đô định quát tiếp, thì nghe Kim Luân pháp vương nói:

– Bên ta đã thắng một trận, có thể bắt đầu trận thứ hai.

Hoắc Đô trừng mắt nhìn Dương Quá, lui về chỗ ngồi, nói to:

– Bên tại hạ đã thắng một trận, trận thứ hai sẽ do sư huynh Đạt Nhĩ Ba xuất thủ. Vị anh hùng nào của quí phương sẽ ra chỉ giáo đây?

Đạt Nhĩ Ba rút binh khí từ trong áo cà sa đỏ, bước ra giữa sảnh. Mọi người nhìn thấy binh khí của y đều kinh ngạc, thì ra đó là một cái chày vừa thô vừa dài bằng vàng, gọi là kim chử. Loại "Kim cương hàng ma chử" này vốn được các bậc chấp pháp trong Phật giáo sử dụng. Lão tăng này dùng nó làm binh khí cũng không lạ, nhưng cây kim chử này của Đạt Nhĩ Ba dài tới bốn thước, đầu thô, cán lấp lánh màu vàng, hình như được đúc bằng vàng nguyên chất, nặng không khác gì sắt thép.

Đạt Nhĩ Ba tới giữa sảnh, chấp tay trước ngực hành lễ với quần hùng, tung cây kim chử lên một cái, nó rơi xuống nghe hịch một tiếng, làm vỡ vụn hai hòn gạch hoa xanh lớn dưới nền, cán kim chử cắm sâu xuống đất non một thước. Trọng lượng cây kim chử nặng tới mức ấy, mà Đạt Nhĩ Ba thì là một hòa thượng gầy đét, sử nổi cây kim chử đó, đủ hiểu võ công cao cường biết chừng nào.

Hoàng Dung nghĩ thầm: "Tĩnh ca ca có thể đánh bại lão hòa thượng này, nhưng trận thứ ba sẽ do Kim Luân pháp vương xuất thủ, bên ta không ai địch nổi, cuộc đấu võ kết cục đã định mất rồi. Có lẽ mình phải gắng dùng xảo kình đấu với lão hòa thượng này vậy". Nàng bèn cầm Đả cẩu bổng, nói:

– Để thiếp xuất thủ!

Quách Tĩnh cả kinh, vội nói:

– Không được, không được. Nàng không khỏe, làm sao động thủ với người khác được kia chứ?

Hoàng Dung cũng cảm thấy không nắm chắc phần thắng, nếu thua trận này nữa, thì khỏi cần đấu trận thứ ba, đang ngần ngừ, thì Điểm Thương Ngư Ẩn lên tiếng:

– Hoàng bang chủ, để lão phu đấu với ác tăng đó.

Điểm Thương Ngư Ẩn thấy thảm trạng của sư đệ sau khi trúng độc, thì nóng lòng báo thù. Hoàng Dung cũng không có cách nào hơn, nghĩ thầm: "Bây giờ chỉ còn cách liều thử, nếu Ẩn sư huynh đánh thắng Đạt Nhĩ Ba, thì Tĩnh ca ca quyết phân cao thấp với Kim Luân pháp vương là được". Bèn nói:

– Xin sư huynh cẩn thận cho.

Huynh đệ họ Võ mang ra cho sư bá hai cái mái chèo bằng sắt, gọi là thiết tương. Điểm Thương Ngư Ẩn kẹp chúng vào nách, bước ra giữa sảnh, hai mắt rực lửa, đi quanh Đạt Nhĩ Ba một vòng. Đạt Nhĩ Ba không hiểu gì, thấy đối phương đi vòng quanh mình, thì xoay người theo. Điểm Thương Ngư Ẩn bỗng quát một tiếng, vung hai cái thiết tương đánh xuống đầu Đạt Nhĩ Ba. Đạt Nhĩ Ba thân pháp cực nhanh, giơ tay rút cái kim chử cắm dưới đất lên, chử – tương đụng nhau, choang một tiếng lớn, mọi người nghe rát cả tai. Hổ khẩu cả hai người đều đau nhức, biết đối phương nội công thâm hậu, cùng nhảy lùi lại Đạt Nhĩ Ba nói một câu tiếng Tạng, Điểm Thương Ngư Ẩn thì dùng tiếng Đại Lý chửi một câu, hai người không ai hiểu ai, đột nhiên cùng sấn tới, chử – tương lại đụng nhau, lại choang một tiếng lớn.

Trận ác đấu này khác hẳn trận đấu tiêu sái mềm mỏng giữa Chu Tử Liễu với Hoắc Đô. Đôi bên dùng đại lực đấu với đại lực, lấy thượng thừa ngoại môn ngạnh công đối địch nhau, chử – tương sinh gió, người xem hết sức kinh hãi.

Điểm Thương Ngư Ẩn có lực cánh tay cực khỏe. Khi Nhất Đăng đại sư ẩn cư ở chùa Sương Tây, ngày ngày Điểm Thương Ngư Ẩn dùng thiết tương chèo thuyền bơi ngược dòng, luyện hai cánh tay có gân cốt cứng như sắt. Điểm Thương Ngư Ẩn là đại đệ tử của Nhất Đăng đại sư, ở trong sư môn lâu nhất, được Nhất Đăng đại sư quí nhất vì cái tính chất phác thô lỗ; chỉ có điều thiên tư hơi kém, nội công không bằng Chu Tử Liễu, nhưng ngạnh công thì cực kỳ lợi hại. Lúc này tỷ thí ngoại công với Đạt Nhĩ Ba, chính là dùng đến sở trường của mình. Chỉ thấy hai cái thiết tương vung lên đánh xuống, công kích mãnh liệt. Mỗi cái thiết tương nặng dăm chục cân, Điểm Thương Ngư Ẩn vung múa nó linh hoạt cứ như người ta sử dụng cây đao thanh kiếm nặng vài cân vậy.

Đạt Nhĩ Ba tự phụ có hai cánh tay vô song, nào ngờ đến Trung Nguyên lại gặp một vị tướng quân có thần lực nhường này, đối phương không chỉ cực khỏe, mà chiêu số càng tinh diệu, phải dốc toàn lực sử dụng kim cương chử. Chử đối tương, tương đối chử, cả hai thủ ít công nhiều. Lúc Chu Tử Liễu đấu với Hoắc Đô, nhiều người xem trong sảnh đã phải tản đi tránh gió; bây giờ hai loại binh khí nặng đấu nhau, đừng nói luồng gió quạt ra khó chịu, mà tiếng va nhau của chúng càng không thể chịu nổi. Đa số phải bịt tai mà xem. Dưới ánh nến, cái kim chử hóa thành một đạo kim quang, thiết tương thì trông như hai luồng hắc khí, cứ xoắn lấy nhau, càng đấu càng ác liệt.

Trận đấu này, mọi người quả là bình sinh chưa từng gặp. Tình cảnh hung hiểm cố nhiên lại càng hiếm thấy; cao thủ khi đấu nội công, bên trong căng thẳng, mà bề ngoài thì rất thản nhiên. Còn việc tỷ thí bằng quyền cước và binh khí, sự xảo diệu và hiểm ác dĩ nhiên là cốt yếu. Đằng này trước hết là cuộc đấu ngạnh công. Trên thế gian mấy ai có thần lực như Điểm Thương Ngư Ẩn, trận đấu dữ dội thế này quả là khó gặp.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung hồi hộp theo dõi, mồ hôi ướt cả lòng bàn tay. Quách Tĩnh hỏi:

– Dung nhi, nàng nghĩ bên ta có thắng được không?

Hoàng Dung đáp:

– Hiện tại còn chưa rõ.

Kỳ thực Quách Tĩnh làm gì không biết lúc này chưa phân thắng bại, song chàng chỉ mong Hoàng Dung nói "Ngư Ẩn sẽ thắng" để yên tâm mà thôi. Lại đấu mươi chiêu nữa, khí lực của hai người chẳng suy giảm, tinh thần càng hăng thêm. Điểm Thương Ngư Ẩn vừa đấu vừa hò hét trợ uy. Đạt Nhĩ Ba hỏi:

– Ngươi nói gì vậy?

Y hỏi bằng Tạng ngữ; Điểm Thương Ngư Ẩn không hiểu, cũng hỏi:

– Ngươi nói cái gì?

Đôi bên không hiểu nhau nói gì, vừa đấu vừa chửi nhau, chỉ thấy đụng bàn ghế trong sảnh, làm chúng gãy rời văng tung toé; mọi người chỉ lo lỡ một trong hai đấu thủ không để ý, lại giáng binh khí vào cây cột, e rằng sảnh đường sẽ đổ sụp xuống không chừng.

Kim Luân pháp vương và Hoắc Đô cũng đều thầm kinh ngạc, xem ra trận này dẫu có đắc thắng, Đạt Nhĩ Ba cũng sẽ kiệt sức trọng thương, nhưng trận đấu đang hăng, làm sao dừng lại?

Hai người chạy nhảy, hò hét, kim quang hắc khí làm lu mờ cả ánh nến; đột nhiên hai người cùng thét lên rầm trời, cùng nhảy tách ra, cái thiết tương trong tay phải của Điểm Thương Ngư Ẩn chém vào cái kim chử của Đạt Nhĩ Ba, cả hai cùng dùng toàn lực, thiết tương không cứng bằng kim chử, nên bị gãy thành hai mảnh, một mảnh bay tới, choang một cái, rơi ngay xuống trước mặt Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ đang mải mê trò chuyện với Dương Quá, mảnh thiết tương rơi chạm vào ngón chân trái của nàng, nàng kêu "ái" một tiếng, đứng dậy. Dương Quá giật mình, hỏi:

– Cô cô có bị thương không?

Tiểu Long Nữ chỉ ngón chân, vẻ mặt đau đớn.

Dương Quá cả giận, quay lại xem kẻ nào để mảnh thiết tương rơi làm đau cô cô, chỉ thấy Điểm Thương Ngư Ẩn tay cầm cái thiết tương còn lại đang định đấu tiếp với Đạt Nhĩ Ba. Đạt Nhĩ Ba lắc đầu, biết rằng công phu và lực khí của đối phương với mình kẻ tám lạng người nửa cân, có tái đấu cũng khó thắng, giờ y đã chiếm ưu thế về binh khí, phần thắng nắm chắc trong tay trận này.

Hoắc Đô đứng dậy, nói to:

– Tệ phương ba trận đã thắng hai trận rồi, chức vị minh chủ võ lâm tất nhiên thuộc về sư phụ của tiểu vương, các vị..

Lời hắn chưa dứt, nghe Dương Quá hỏi Điểm Thương Ngư Ẩn:

– Thiết tương của lão sao lại để gãy, bay tới làm đau chân cô cô của ta?

Điểm Thương Ngư Ẩn nói:

– Lão phu.. lão phu..

Dương Quá nói:

– Có cái thiết tương cũng không đúc cho chắc hơn, hãy mau tạ lỗi.

Điểm Thương Ngư Ẩn thấy chàng còn như một đứa con nít, không thèm lý đến. Dương Quá liền giơ tay đoạt cái thiết tương gãy của Điểm Thương Ngư Ẩn, gằn giọng:

– Hãy mau tạ lỗi với cô cô của ta.

Hoắc Đô bị Dương Quá ngắt lời, thì bực lắm, quát:

– Tên súc sinh kia, cút mau!

Dương Quá hỏi:

– Ai chửi là tên súc sinh đấy?

Hoắc Đô nghe Dương Quá hỏi "Ai chửi là tên súc sinh?" bèn thuận miệng nói luôn:

– Ta chửi đấy.

Hoắc Đô không biết con nít phương nam có kiểu cãi nhau dùng câu hỏi đánh lừa đối phương, nên đã mắc lừa, chỉ nghe Dương Quá cười hô hố, nói:

– Đúng thế, kẻ chửi ta chính là tên súc sinh!

Đại sảnh đang cực kỳ căng thẳng, đột nhiên anh chàng thiếu niên kia đánh lừa để Hoắc Đô tự nhận mình là tên súc sinh, thì cười ầm lên. Hoắc Đô cả giận, cầm cây quạt đánh thẳng xuống đầu Dương Quá.

Quần hùng vừa nãy thấy Hoắc Đô võ công cao cường, đòn này đánh thẳng xuống đầu Dương Quá, không chết cũng trọng thương, vội kêu to:

– Dừng tay!

– Không được ỷ lớn hiếp nhỏ.

Quách Tĩnh phi thân tới, định đoạt chiếc quạt, thì Dương Quá đã cúi đầu luồn qua dưới nách Hoắc Đô, cái thiết tương vòng trở lại, quét ngang dưới chân hắn theo khẩu quyết chữ "Triền" của Đả cẩu bổng pháp. Hoắc Đô đứng không vững, lảo đảo suýt ngã; thực ra là nhờ võ công cao cường, đang ngã đã lật người lại được.

Quách Tĩnh ngạc nhiên, hỏi:

– Quá nhi, có sao không?

Dương Quá cười, đáp:

– Không sao đâu ạ. Kẻ này dám coi thường Đả cẩu bổng pháp của Hồng lão bang chủ. Điệt nhi muốn dùng Đả cẩu bổng pháp cho hắn nếm mùi, tiếc rằng hắn vừa đỡ được.

Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Sao ngươi biết sử dụng?

Dương Quá nói khoác:

– Ban nãy Lỗ bang chủ động thủ với hắn, điệt nhi xem rồi học được vài chiêu.

Quách Tĩnh vốn quá thật thà, nghĩ rằng trên thế gian có rất nhiều người thông minh, nghe Dương Quá nói vậy đã tin tám, chín phần.

Hoắc Đô bị Dương Quá quét ngang chân, ngỡ là mình thiếu cẩn thận, chứ đâu ngờ một gã thiếu niên lại có võ công cao cường, nghĩ thầm hiện thời việc tranh chức minh chủ là đại sự, tranh xong sẽ xử lý tên tiểu tử này cũng không muộn, bèn nói lớn với Quách Tĩnh:

– Quách đại hiệp, cuộc tỷ thí hôm nay tệ phương đã thắng, sư phụ của tiểu vương là Kim Luân pháp vương từ nay làm minh chủ võ lâm thiên hạ. Có vị nào không phục..

Hắn chưa dứt lời, Dương Quá đã lặng lẽ tới sau lưng hắn, sử chiêu thứ tư theo khẩu quyết chữ "Tróc" của Đả cẩu bổng pháp, chọc vào mông hắn. Tu vi võ công của Hoắc Đô dẫu có người bất ngờ ám toán, lẽ nào hắn không biết? Nhưng môn Đả cẩu bổng pháp này thần kỳ huyền diệu, hắn tuy cảm thấy, vội vã né tránh, song vẫn cứ trúng đòn, "bộp" một cái vào mông, may nhờ hắn nội công thâm hậu, mông đít lại là chỗ dày thịt, vậy mà hắn vẫn thấy đau điếng, phải kêu "ối" một tiếng.

Dương Quá nói:

– Có ta không phục đây.

Cả đại sảnh cười ầm lên. Quần hùng đều nghĩ chàng thiếu niên không chỉ ngang ngạnh, mà còn can đảm, gã vương tử Mông Cổ hai lần bị chàng cho nếm đòn.

Đến nước này thì Hoắc Đô không tức sao được? Hắn tát ngược lại một cái cho đỡ tức đã rồi tính sau. Một chưởng này của Hoắc Đô chứa đựng kình lực đủ để làm cho gã thiếu niên kia ngã xuống ngất lịm, chính là cái tinh túy của võ công phái Tây Tạng.

Quách Tĩnh biết nó lợi hại, dùng tay trái chộp lấy chưởng của Hoắc Đô, khuyên:

– Các hạ sao lại đi đánh một hài nhi?

Hoắc Đô bị Quách Tĩnh bóp bàn tay, chỉ cảm thấy nửa thân mình tê dại, vừa kinh hãi vừa tức giận.

Dương Quá thừa thế dùng thiết tương đánh mạnh vào mông đít Hoắc Đô, nói:

– Tên súc sinh không vâng lời, cha mi phải cho mi ăn đòn này!

Quách Tĩnh quát:

– Quá nhi, lui về, đừng làm ồn!

Nhưng quần hùng đã hi hi ha ha cười rộ lên. Đám võ sĩ Mông Cổ kêu nhao nhao:

– Như thế là hai đánh một!

– Không biết ngượng!

– Như thế mà gọi là đấu võ à!

Quách Tĩnh ngẩn người, buông tay Hoắc Đô ra.

Hoàng Dung thấy hai chiêu của Dương Quá vừa dùng chính là chiêu số trong Đả cẩu bổng pháp, thì cả nghi: "Quá nhi học lén ở đâu được lộ bổng pháp này? Không lẽ hơn tháng qua mình dạy cho Lỗ Hữu Cước, nó ngày ngày đến xem trộm hay sao? Nhưng ngày nào mình cũng tra xét bốn phía, nó làm sao giấu được mình?" bèn gọi:

– Tĩnh ca ca, về đây đi.

Quách Tĩnh lui về chỗ thê tử, nhưng vẫn lo cho Dương Quá, mắt cứ nhìn chăm chú ra giữa sảnh.

Chỉ thấy Hoắc Đô vung chưởng tung cước liên tiếp tấn công Dương Quá. Dương Quá thì vừa né, miệng kêu to "Đánh đít mi này! Đánh đít mi này!" vừa dùng thiết tương đánh mạnh vào mông đít Hoắc Đô, nhưng lúc này Hoắc Đô đã triển khai thân pháp, Dương Quá không đánh trúng mông hắn được. Hoắc Đô dùng cây quạt đập vào đầu Dương Quá, Dương Quá thì dùng thiết tương đánh mạnh vào mông đít Hoắc Đô, hai người cứ thế đuổi nhau thành vòng tròn cực nhanh trong đại sảnh, không ai đánh trúng được ai.

Người xem lúc đầu thấy hoạt kê, sau vài vòng thì đều kinh ngạc, Dương Quá tuy nhỏ tuổi, song cước bộ nhanh nhẹn, thân thủ thần tốc chẳng kém gì Hoắc Đô. Hoắc Đô mấy phen dấn lên ra đòn, đều bị Dương Quá khéo léo tránh được.

Điểm Thương Ngư Ẩn và Đạt Nhĩ Ba vẫn cầm binh khí gườm gườm nhìn nhau, một người muốn xông tới tái đấu, người kia toàn thần phòng bị đối phương, thấy Hoắc Đô không làm gì nổi một gã thiếu niên, thì đều rất đỗi kinh ngạc, một người cười hô hô, một người lẩm bẩm niệm chú bằng Tạng ngữ.

Hoắc Đô, Dương Quá trong giây lát đã chạy ba vòng, Hoắc Đô nhận thấy đối phương có khinh công cao siêu, cứ thế này đuổi tiếp, có lẽ hắn sẽ thua, bỗng chuyển thân, giơ tay trái chộp lấy cái thiết tương của Dương Quá, tay phải thì dùng cây quạt điểm huyệt Hoàn Khiêu ở đùi chàng. Đòn này không còn là để phạt đứa con nít hỗn hào, mà là chiêu thức võ công hẳn hoi.

Dương Quá vẫn chưa đối chiến chính diện với Hoắc Đô, nghiêng người tránh cây quạt, quật ngang cái thiết tương, nói:

– Cha mi phải đét mông mi này! Một ngày không đánh đòn quá ba lần, đánh hai lần rồi, còn một lần nữa này!

Chàng dùng thủ đoạn đùa giỡn là để đối phương dù võ công cao cường hơn hẳn mình cũng chưa thể ra đòn nguy hiểm. Chàng đã học không ít môn võ công thượng thừa, nhưng công lực thì còn thua xa Hoắc Đô, cứ thế này lâu sẽ khó tránh tai ương. Nhưng quần hùng rất thích thú, ra sức khích lệ, vỗ tay, giậm chân trợ uy cho chàng. Hoắc Đô nghe vậy thì tâm thần bất định, chỉ sợ trước mắt anh hùng thiên hạ bị gã thiếu niên đét đít lần nữa, song cũng không dám hạ sát một đứa bé, cứ toàn thần chăm chú tránh đòn, nhất thời quên cả phản kích nên Dương Quá vẫn chưa gặp nguy.

Đến lúc này Hoàng Dung đã biết Dương Quá được cao nhân chỉ điểm, võ công rất cao, nhớ trưa nay Dương Quá truyền nội lực cho mình điều tức, thấy tu vi nội công của chàng cũng không phải tầm thường, nghĩ thầm cứ để Dương Quá đùa giỡn một phen, không chừng có thể cứu vãn tình thế thất bại hai trận bèn nói to:

– Quá nhi, hãy đấu thử với hắn một phen, ta nghĩ hắn không phải là đối thủ của ngươi đâu.

Dương Quá thè lưỡi nói với Hoắc Đô:

– Ngươi có dám hay không nào?

Chàng chỉ thẳng vào mặt hắn.

Hoắc Đô tuy tức giận, nhưng nghĩ không nên vì chuyện nhỏ mọn mà làm lỡ mưu lớn, phe hắn đã thắng liền hai trận, chức minh chủ võ lâm đã chiếm được rồi, hà tất lôi thôi với gã thiếu niên, bèn nói:

– Tên súc sinh, tên nhãi ranh hỗn hào như ngươi lẽ ra phải được giáo huấn một phen, song chuyện đó chưa vội. Bây giờ mời vị minh chủ võ lâm thiên hạ Kim Luân pháp vương chỉ giáo cho mọi người, tất cả mọi người hãy nghe hiệu lệnh của lão nhân gia.

Quần hùng phản đối ầm ĩ, náo loạn cả lên. Hoắc Đô quát to:

– Chúng ta đã nói rõ từ đầu, ba trận chỉ cần thắng hai. Các vị gây ồn ào như thế có đáng hay không?

Quần hùng đều là nhân vật hữu danh trên giang hồ, đều biết ý nghĩa câu "một lời đã nói, tứ mã khó đuổi kịp", điều đã nói không thể nuốt lời; nhưng hai trận thua vừa rồi thực là oan uổng: Trận thứ nhất bị địch ám toán, đã thắng hóa thành bại; trận thứ hai chỉ mới gãy binh khí, chưa thể bảo là đã bại. Mọi người căn vặn, Hoắc Đô cứng lưỡi.

Dương Quá nói:

– Cái lão hòa thượng kia vừa cao vừa gầy, cổ quái như thế, làm minh chủ võ lâm sao được? Ta thấy lão không xứng đáng.

Hoắc Đô tức giận, nói:

– Sư phụ của đứa nhỏ này là ai? Mau ra lôi nó về quản giáo. Còn ở đây nói láo, ta sẽ hạ thủ không lưu tình nữa.

Dương Quá nói:

– Sư phụ của ta mới xứng đáng làm minh chủ võ lâm, chứ sư phụ của ngươi có bản lĩnh gì mà đòi?

Hoắc Đô hỏi:

– Sư phụ ngươi là vị nào? Mời vị đó ra đây coi.

Hoắc Đô thấy Dương Quá thân thủ bất phàm, đoán sư phụ của gã thiếu niên ắt là một đại cao thủ, nên phải dùng chữ "mời". Dương Quá nói:

– Hôm nay tranh chức vị minh chủ võ lâm, đều là đệ tử giao đấu thay sư phụ, phải vậy không?

Hoắc Đô nói:

– Đúng vậy, bọn ta đã thắng hai trong ba trận, do đó sư phụ của ta là minh chủ.

Dương Quá nói:

– Ừ thì vừa rồi coi như các ngươi đã thắng bọn họ đi, nhưng ngươi chưa hề thắng đồ đệ của sư phụ ta kia mà.

Hoắc Đô hỏi:

– Đệ tử của sư phụ ngươi là ai nào?

Dương Quá cười, nói:

– Đồ ngu! Đệ tử của sư phụ ta tất nhiên là ta chứ ai.

Quần hùng nghe chàng nói rất lý thú, đều cười khoái trá. Dương Quá nói tiếp:

– Chúng ta cũng đấu ba trận, các ngươi phải thắng hai trận, thì ta mới chịu nhận lão hòa thượng kia làm minh chủ. Nếu ta thắng hai trận, thì xin lỗi nhé, minh chủ võ lâm phải do sư phụ ta đảm nhiệm.

Quần hùng nghe Dương Quá nói đến đây, đều nghĩ không lẽ sư phụ của chàng quả là nhân vật không vừa, muốn đến tranh chức vị minh chủ võ lâm với Hồng Thất Công và Kim Luân pháp vương; bất kể sư phụ chàng là ai, thì cũng là người Hán, còn hơn để cho cái lão quốc sư Mông Cổ kia đoạt mất địa vị minh chủ; chàng thiếu niên này dĩ nhiên không địch nổi Hoắc Đô, nhưng hiện tại phe mình đã bại trận, phải có chuyện gì đó mới mong xoay chuyển tình hình, thế là ai nấy phụ họa:

– Đúng, đúng, trừ phi người Mông Cổ thắng hai trận nữa.

– Vị tiểu ca này nói chí phải.

– Trung Nguyên thiếu gì cao thủ, các ngươi may mắn chiếm được tiện nghi hai trận, chưa là gì cả.

Hoắc Đô nghĩ thầm: "Hai cao thủ mạnh nhất của đối phương đã bị đánh bại, thêm hai tên nữa thì có gì ngại? Chỉ sợ bọn chúng cứ dùng kiểu xa luân chiến, hết hai tên này lại hai tên khác", bèn nói với Dương Quá:

– Tôn sư muốn tranh chức minh chủ võ lâm, kể cũng có lý; nhưng anh hùng thiên hạ đâu ít, cứ đấu hết trận này lại đấu trận khác, thì biết bao giờ mới xong?

Dương Quá ngẩng cao đầu, nói:

– Người bên ngoài đến đây đòi làm minh chủ võ lâm, sư phụ ta cũng chẳng muốn dính, nhưng nhìn thấy sư phụ của người, thì sư phụ của ta không thể ưa nổi.

Hoắc Đô hỏi:

– Tôn sư là ai? Lão nhân gia người ngồi đâu?

Dương Quá cười, nói:

– Lão nhân gia người ngồi ngay trước mặt ngươi đó. Cô cô, hắn vấn an lão nhân gia đấy.

Tiểu Long Nữ "ừm" một tiếng, nhìn Hoắc Đô gật gật đầu. Quần hùng thoạt tiên cùng sửng sốt, rồi cười ha hả. Họ thấy Tiểu Long Nữ dung mạo tú lệ, tuổi còn nhỏ hơn Dương Quá, làm sao lại có thể là sư phụ của chàng kia chứ? Hiển nhiên chàng thiếu niên này có ý đùa giỡn với Hoắc Đô. Chỉ có Hách Đại Thông, Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình mấy người là biết chàng nói thật. Hoàng Dung tuy trí tuệ hơn người cũng không thể nghĩ một thiếu nữ kiều nhược bé bỏng như thế kia lại là sư phụ của Dương Quá. Hoắc Đô cả giận, quát:

– Tên nhãi ranh hỗn hào nói nhăng nói cuội? Hôm nay quần hùng tụ hội, có bao nhiêu việc hệ trọng cần làm, đâu phải chỗ cho ngươi gây náo loạn? Mau xéo đi cho ta!

Dương Quá nói:

– Sư phụ của ngươi vừa đen vừa xấu, nói xì xà xì xồ chướng tai lắm. Ngươi thử nhìn xem, sư phụ của ta thanh nhã tú lệ, trắng trẻo biết chừng nào, nàng mà làm minh chủ võ lâm, chẳng hơn hẳn lão hòa thượng xấu xí, sư phụ của ngươi hay sao?

Tiểu Long Nữ nghe Dương Quá tán tụng mình xinh đẹp, thì trong lòng vui sướng, mỉm cười, thật y như đóa hoa lạ chớm nở, xinh tươi, diễm lệ tuyệt trần.

Quần hùng thấy Dương Quá chọc ghẹo, giễu cợt kẻ địch càng lúc càng táo bạo, thì hết sức khoái trá; một số bậc lão thành hơi lo lắng cho chàng, sợ Hoắc Đô hạ sát thủ, thì chàng ắt bỏ mạng. Quả nhiên đến lúc này Hoắc Đô không thể nhịn thêm, liền nói to:

– Xin anh hùng thiên hạ làm chứng cho, tiểu vương sẽ giết tên nhãi ranh hỗn hào này, cũng là do hắn tự chuốc lấy họa, đừng trách tiểu vương.

Nói đoạn vung cây quạt đánh xuống đầu Dương Quá. Dương Quá nhại kiểu nói của Hoắc Đô, ưỡn ngực, gọi:

– Xin anh hùng thiên hạ làm chứng cho, tên nhãi ranh hỗn hào sẽ giết gã vương tử này, cũng là do hắn tự chuốc lấy họa, đừng trách tên nhãi ranh.

Quần hùng cười rộ lên, Dương Quá đột nhiên cầm cái thiết tương quất vào mông đít Hoắc Đô. Hoắc Đô nghiêng người tránh, cây quạt đâm chếch, tả chưởng như gió, đánh thẳng vào đầu đối phương. Quạt đâm là hư, chưởng đánh là thực, Hoắc Đô dồn vào chưởng này mười thành kình lực, muốn làm vỡ đầu nát óc đối phương. Dương Quá nhảy chếch sang một bên, thuận tay hất một cái bàn vuông, "bốp" một tiếng, chưởng của Hoắc Đô đánh vào cái bàn, ván gỗ bay tung, cái bàn chỉ còn một nửa. Quần hùng thấy Hoắc Đô chưởng lực kinh người, bất giác lè lưỡi. Hoắc Đô lập tức đá tung chiếc bàn, sấn tới công kích. Dương Quá thấy hắn xuất chưởng hiểm ác thì không dám coi thường, múa thiết tương theo Đả cẩu bổng pháp mà đấu với hắn. Chiêu số Đả cẩu bổng pháp, Hồng Thất Công đã truyền thụ hết cho chàng, lần ấy trên đỉnh Hoa Sơn, Dương Quá từng biểu diễn cho Âu Dương Phong thấy mấy ngày liền, những chỗ huyền diệu khúc chiết nhất của chiêu số, chàng từng diễn qua, khẩu quyết và cách biến hóa thì chàng nghe Hoàng Dung truyền thụ cho Lỗ Hữu Cước, lúc này chàng đem hai thứ phối hợp với nhau, dĩ nhiên xuất chiêu cũng đâu ra đấy. Nhưng vì cái thiết tương quá nặng, lại gãy một nửa, sử dụng rất bất tiện, nên chỉ sau mươi chiêu đã bị cây quạt của Hoắc Đô khống chế, khó bề thi triển.

Hoàng Dung thấy Dương Quá sử dụng đúng là Đả cẩu bổng pháp, nhưng chiêu số chưa nhuần nhuyễn, tư thế xuất chiêu cũng không chuẩn xác, biết là binh khí trong tay chàng không phù hợp, bèn tới gần một chút, giơ cây gậy trúc vào khoảng giữa hai người, nói:

– Quá nhi, đánh chó thì phải dùng cẩu bổng. Ta cho ngươi mượn cây cẩu bổng này của Lỗ bang chủ, đánh xong ác cẩu, phải trả lại liền.

Đả cẩu bổng là tín vật của bang chủ Cái Bang, nên cần nói rõ rằng đây chỉ là cho mượn.

Dương Quá cả mừng, nhận lấy cây gậy trúc. Hoàng Dung nói nhỏ bên tai chàng:

– Hãy buộc hắn phải trao thuốc giải.

Nói xong nàng nhảy về chỗ ngồi. Dương Quá ban nãy không để ý đến chuyện Chu Tử Liễu bị trúng ám khí, không hiểu thuốc giải cái gì, hơi ngẩn người, thì chưởng của Hoắc Đô đã đánh tới. Dương Quá giơ Đả cẩu bổng chọc tới bụng dưới của Hoắc Đô. Cây gậy trúc này có độ dài ngắn nặng nhẹ thật vừa tay, lại vừa chắc vừa dẻo, dùng để thi triển Đả cẩu bổng pháp, tất nhiên uy lực gia tăng hẳn lên. Hoắc Đô đang đánh một chưởng tới cổ Dương Quá, thấy cây gậy trúc chọc tới huyệt Quan Nguyên ở dưới rốn ba tấc, là yếu huyệt của mạch Nhâm. "Tên tiểu tử kia nhận huyệt quả là chuẩn xác", hắn nghĩ và giật mình. Ban nãy hắn cứ tưởng Dương Quá chẳng qua là một gã thiếu niên có thân thủ nhanh nhẹn, được cao nhân chỉ điểm; bây giờ nhìn một chiêu điểm huyệt của chàng, mới thấy chàng quả là một đối thủ đáng gờm, không thể coi thường, vội thu chưởng về, lấy cây quạt che ngực. Người xem thấy hắn lui về thế thủ, chứng tỏ ngán ngại Dương Quá, thì họ càng kinh ngạc.

Dương Quá nói:

– Hãy khoan, tên nhãi ranh quyết không đấu không với người, đã đấu thì phải đánh cuộc.

Hoắc Đô nói:

– Được, ngươi thua sẽ phải rập đầu ba cái, gọi ta là gia gia.

Dương Quá lại giở trò chơi đánh lừa của trẻ con Giang Nam, giả vờ nghe chưa rõ, hỏi:

– Gọi thế nào?

Trò chơi này bất ngờ, đối phương rất dễ bị lừa. Hoắc Đô sống ở Mông Cổ, thường ngày giao tiếp toàn với những người chất phác thực thà, làm sao hiểu nổi trò ma mãnh của trẻ con Giang Nam, liền trả lời luôn:

– Gia gia! (Cha)

Dương Quá đáp:

– Cha nghe thấy rồi, con ngoan, gọi lần nữa đi!

Mọi người cười phá lên, Hoắc Đô biết mình mắc lừa, nghiến răng, cây quạt tay phải, tay trái tung chưởng, tấn công tới tấp như cuồng phong bạo vũ.

Dương Quá vừa chống đỡ, vừa nói:

– Nếu ngươi thua, thì phải đưa thuốc giải cho ta.

Hoắc Đô giận, nói:

– Ta mà thua ngươi ư? Đừng có nằm mơ, tên súc sinh!

Dương Quá giơ cây bổng, quát:

– Ai chửi là tên súc sinh?

Hoắc Đô suýt nữa thì lại mắc lừa, may mà sực nhớ, nuốt luôn chữ "Ta chửi.." vào bụng. Dương Quá cười, nói:

– Tiểu phiên vương kia, từ rày thì nhớ nhá!

Chàng nói nghe ngon lành, nhưng tay chân xem chừng mỗi lúc một lúng túng hơn.

Hoắc Đô là đệ tử đắc ý của Kim Luân pháp vương, đã nắm vững tinh yếu của võ công Tây Tạng, đã đấu ngót ngàn chiêu với đệ tử giỏi nhất của Nhất Đăng đại sư là Chu Tử Liễu, nội công thâm hậu, Dương Quá không thể sánh nổi. Dương Quá thoạt đầu khích cho hắn tức giận, thừa cơ chiếm tiện nghi; hắn cũng chưa dốc toàn lực, bây giờ hắn mới đấu thật sự, sau hơn hai mươi chiêu, Dương Quá đã lộ rõ chỗ non kém. Quần hùng thấy chàng nhỏ tuổi, cầm cự lâu được như thế, đã là đáng khen, đều nói:

– Hài tử này giỏi thật!

Họ bàn tán, không biết chàng là môn hạ của ai.

Hoắc Đô thấy đối phương núng thế, càng gia tăng chưởng lực. Môn Đả cẩu bổng pháp mà Dương Quá sử dụng thần diệu khôn lường, vốn lợi hại hơn phiến pháp (cách dùng quạt) và chưởng pháp của Hoắc Đô, nhưng Hồng Thất Công chỉ truyền thụ cho chàng chiêu số, còn bí ẩn khẩu quyết thì chàng nghe lỏm được từ miệng Hoàng Dung, chỉ nhờ trí thông minh mới đem phối hợp hai thứ với nhau, ngay lập tức chưa thể phát huy uy lực; đấu thêm một lát nữa, Dương Quá toàn phải tránh né, đã khó chống trả.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ từ khi bắt đầu có các cuộc tỷ thí trong đại sảnh, đã toàn thần xem đấu, to nhỏ bàn luận với nhau; đến lúc Dương Quá tiến ra động thủ, cả ba quả thật bị bất ngờ. Huynh đệ họ Võ bảo Dương Quá ngu xuẩn cuồng vọng, tự chuốc lấy tai họa. Quách Phù cãi lại, khen Dương Quá dũng cảm cơ mẫn. Huynh đệ họ Võ nghe nàng nói thế thì trong lòng chua xót. Lúc họ mới thấy Tiểu Long Nữ đến, thần thái thân mật với Dương Quá, thì cả hai cảm thấy nhẹ cả người, đến khi nghe Dương Quá bảo Tiểu Long Nữ là sư phụ, chưa biết thật hay giả, thì cả hai lại thấy lòng nặng trĩu. Giờ đây thấy Dương Quá bị Hoắc Đô dồn vào thế chân tay luống cuống, huynh đệ họ Võ tự biết không nên mong cho kẻ địch chiến thắng, người đằng mình đại bại; nhưng trong thâm tâm vẫn cứ mong Dương Quá thảm bại thì hơn. Với tâm trạng ấy, huynh đệ họ Võ cứ lúc thì mừng, lúc thì lo, thay đổi xoành xoạch. Quách Phù đối với Dương Quá tuy không có hảo cảm, song cũng không ghét bỏ; vốn coi chàng là kẻ bất tài vô dụng, chẳng đáng lưu tâm; nghe phụ thân muốn gả nàng cho Dương Quá, tuy bực tức, nhưng tin rằng việc ấy quyết không thành sự thực, nên cũng không lo lắm. Bây giờ thấy chàng võ công cao cường, nàng cũng chỉ kinh ngạc mà thôi; nhìn chàng lâm vào tình thế nguy hiểm, không khỏi lo lắng cho chàng.

Dương Quá biết cứ đấu kiểu này, nội trong mươi chiêu nữa sẽ bị đối phương đánh gục. Nhác thấy Tiểu Long Nữ tuy vẫn ngồi ở chân cột, nhưng đã không tựa lưng vào cột nữa, vẻ mặt chăm chú, sẵn sàng bật dậy tiếp cứu, chàng chợt nảy ra một kế, đột nhiên quật ngang cây bổng, phi thân chếch qua bên chân Tiểu Long Nữ.

Hoắc Đô quát:

– Chạy đằng trời!

Hắn lập tức đuổi theo.

Tiểu Long Nữ hơi nâng hai chân lên, mũi chân trái chọc vào huyệt Côn Luân ở bên trên mắt cá chân phải của Hoắc Đô; mũi chân phải thì chọc vào huyệt Dũng Tuyền ở lòng bàn chân trái. Phải nói là Hoắc Đô võ công rất tinh cường, thoáng nhìn đã biết, biến hóa mau lẹ, Tiểu Long Nữ vừa nhấc hai chân lên, nhiều người không để ý, song Hoắc Đô đã biết là thiếu nữ này dùng chiêu số lợi hại trợ giúp cho Dương Quá, hấn vội sử chiêu "Uyên ương liên hoàn thoái", hai chân liên tiếp đạp nhứ trong không trung, mới tránh được đòn điểm huyệt lai vô ảnh khứ vô tung của nàng.

Dương Quá vọt qua bên chân Tiểu Long Nữ rồi, đoán sự việc tiếp theo sẽ như thế, không đợi Hoắc Đô đặt chân xuống đất, đã quất cây bổng lại phía sau lưng mình. Hoắc Đô dùng cây quạt đè gạt cây bổng, mượn sức bay người chếch ra ngoài, xa hẳn chỗ Tiểu Long Nữ, bất giác nhìn nàng, nghĩ thầm: "Trung Nguyên quả nhiên lắm nhân tài, đôi thiếu niên nam nữ này mới mười mấy tuổi, mà đã tài ba như thế!"

Dương Quá được lợi một chiêu, thừa thế dùng bổng pháp tấn công mạnh. Hoắc Đô phải dốc toàn lực chống đỡ. Nhưng chỉ vài chiêu sau thì Dương Quá không thể công kích được nữa, bị Hoắc Đô phản kích, lại lâm vào thế bí.

Người xem không hiểu bổng pháp thì thôi, chứ Hoàng Dung thì luôn miệng thốt lên tiếc rẻ. Cuối cùng nàng không nhịn được, liền nhắc:

– Bổng hồi lược địa thi diệu thủ,

Hoành đả song ngao mạc hồi đầu.

(Khéo léo quét ngang cây gậy sát đất, đánh hai con chó, không thu về).

Đó chính là quyết khiếu Đả cẩu bổng pháp, Dương Quá tuy biết chiêu số ca quyết, song chưa biết chiêu này sử dụng lúc nào; nghe Hoàng Dung nhắc, liền giơ cây bổng đâm thẳng, không thu về.

Đòn bổng pháp này thế rất cổ quái, Dương Quá tuy sử dụng, song chưa biết công hiệu của nó ra sao, ai dè cây bổng đánh ra đúng lúc cây quạt của đối phương đâm chếch tới. Hoắc Đô chưa sử xong chiêu đó, đã biết nguy rồi, vội nhảy lên cao né tránh.

Hoàng Dung lại nói:

– Cẩu cấp khiêu tường như hà đả,

Khoái kích cẩu đôn phách cẩu vi.

(Chó nhảy vội lên cao, phải đánh sao? Mau mau quất mạnh mông, đuôi chó).

Lộ bổng pháp này truyền đời trong Cái Bang, người ngoài nghe cứ tường Hoàng Dung xuất ngôn chế giễu kẻ địch là chó, không biết rằng nàng đang mách nước cho Dương Quá. Đả cẩu bổng pháp vốn chỉ bang chủ Cái Bang mới được truyền thụ, người khác nhất quyết không được biết, nhưng một là Dương Quá đã tự học được, hai là cuộc tỷ võ này có quan hệ trọng đại bên mình phải thắng, thế nên Hoàng Dung bất chấp sự hạn chế của bang qui, căn cứ tình hình công thủ tiến thoái của hai người, mà lên tiếng mách nước cho Dương Quá.

Mỗi câu nhắc của Hoàng Dung đều là quyết yếu, Dương Quá lại hết sức thông minh, sau vài lần đắc thủ, không đợi Hoàng Dung đọc hết câu ca quyết, chỉ nghe vài chữ đầu, chàng đã có thể thi triển, Đả cẩu bổng pháp quả nhiên uy lực mạnh mẽ lạ thường, Hoắc Đô võ công đầy mình mà vẫn cứ bị cây gậy trúc buộc phải di chuyển loạn cả lên, không còn dịp đánh trả.

Thấy chỉ vài chiêu nữa, gã vương tử Mông Cổ võ công cao cường sẽ bị lạc bại, quần hùng vui mừng hẳn lên trong đại sảnh.

Hoắc Đô vung cây quạt đánh rát hai chiêu, buộc Dương Quá lùi vài bước, nói:

– Hãy khoan!

Dương Quá cười hỏi:

– Cái gì? Ngươi nhận thua gia gia rồi phải không?

Hoắc Đô sầm mặt, nói:

– Ngươi bảo ngươi đấu thay sư phụ ngươi tranh chức vị minh chủ, sao ngươi lại sử dụng võ công của Hồng Thất Công? Nói về việc Hồng Thất Công tranh chức vị minh chủ, thì hai trận đấu ban nãy đã xong rồi. Rốt cuộc các người định thế nào đây?

Hoàng Dung nghĩ thầm hắn nói đúng, định cưỡng từ đoạt lý với hắn một phen, thì Dương Quá đã trả lời:

– Lần này ngươi nói đúng, món bổng pháp này quả nhiên không phải do sư phụ ta truyền thụ, dẫu có đánh thắng ngươi, ngươi cũng không phục. Ngươi muốn lĩnh giáo võ công của sư phụ ta, chuyện đó cũng chả khó. Vừa rồi ta mượn võ công của môn phái khác, nếu dùng công phu bản môn chỉ e ngươi sẽ thảm bại quá sớm mà thôi.

Nguyên Dương Quá nghe Hoắc Đô nói thế, mới ngoảnh nhìn Tiểu Long Nữ, sực nhớ: "May mà tên phiên vương nhắc ta. Nếu ta dùng Đả cẩu bổng pháp thắng hắn, thì đâu có hiển lộ bản sự của cô cô ta? Cô cô sẽ trách ta quên ân đức cô cô đã truyền thụ võ công." Kỳ thực Tiểu Long Nữ hết sức hồn nhiên, lòng đang tràn ngập nhu tình mật ý đối với Dương Quá; nàng chỉ cần trông thấy chàng, thì trong lòng đã thỏa mãn rồi, muôn sự khác đều không cần, chàng thắng cũng tốt, mà bại cũng chẳng sao; còn chuyện chàng có sử dụng công phu bản môn, có nghe lời mách nước của Hoàng Dung hay không, nàng nửa điểm cũng chẳng để tâm.

Hoắc Đô nghĩ thầm: "Nếu ngươi không sử dụng Đả cẩu bổng pháp, ta lấy mạng ngươi đâu có khó gì", bèn cười khẩy, nói:

– Cứ vậy đi, ta sẽ lĩnh giáo cao chiêu do tôn sư truyền thụ.

Môn võ công mà Dương Quá cùng luyện với Tiểu Long Nữ nhuần nhuyễn nhất là kiếm pháp. Thế là chàng hướng về phía quần hùng, nói:

– Xin vị tôn trường nào đó cho mượn một thanh kiếm.

Hai ngàn người trong sảnh, có tới ba trăm người có bội kiếm. Nghe Dương Quá nói vậy, nhiều người đồng thanh đáp ứng, soàn soạt rút kiếm ra.

Hách Đại Thông và Tôn Bất Nhị hồi xưa bái Vương Trùng Dương làm sư phụ, đều đã có lòng trung nghĩa, sau được Vương Trùng Dương trui rèn, cái chí chống Mông Cổ xâm lấn càng sôi sục. Việc Dương Quá từ bỏ phái Toàn Chân, hai người rất phẫn nộ, nhưng hôm nay thấy chàng dốc sức chống địch, giữ thể diện cho Trung Hoa, họ liền gác bỏ thành kiến riêng sang một bên. Tôn Bất Nhị là người thấp nhất về võ công trong "Toàn Chân thất tử", lúc lâm chung Vương Trùng Dương đem thanh bảo kiếm sắc bén nhất tặng lại, ngụ ý lấy binh khí lợi hại bù cho phần khiếm khuyết của võ công. Thấy Dương Quá mượn kiếm đánh địch, Tôn Bất Nhị là người đầu tiên chạy ra, hai tay giơ ngang một thanh bảo kiếm lấp lánh ánh biếc, đưa cho Dương Quá, nói:

– Hãy dùng thanh kiếm này!

Dương Quá nhìn thanh kiếm như một vệt thu thủy, biết là nó lợi hại vô cùng, dùng để đấu với Hoắc Đô, nhất định chàng sẽ chiếm không ít lợi thế, nhưng nhìn bộ đạo bào trên người Tôn Bất Nhị, liền nhớ ngay cảnh chàng bị vũ nhục hồi ở cung Trùng Dương. Lại nhớ lúc Tôn bà bà phải chết dưới chưởng của Hách Đại Thông, thì chàng bèn ngoảnh mặt đi, nhận một thanh kiếm sắt nặng nề màu đen, hơi hoen gỉ, của một đệ tử Cái Bang, nói:

– Xin mượn đại ca thanh kiếm này.

Để Tôn Bất Nhị đứng ngẩn tại chỗ, tiến thoái lưỡng nan. Lão đạo cô tuy xuất gia tu luyện, rốt cuộc tính nóng vẫn còn, mình có thiện chí cho mượn thanh bảo kiếm, gã thiếu niên này lại dám vô lễ như thế, thì không khỏi cả giận, đã định mở miệng mắng nhiếc, song nghĩ đại địch ở trước mặt, chẳng nên hơn thua chuyện khác, bèn cố nén giận trở về chỗ ngồi. Cũng tại Dương Quá tính nết quá cương ngạnh, yêu ghét quá rõ ràng, lẽ ra có thể nhân cơ hội này làm lành với phái Toàn Chân, đàng này chàng làm như thế, chỉ khiến cho hiềm khích giữa đôi bên càng sâu thêm.

Hoắc Đô thấy Dương Quá không nhận bảo kiếm, lại mượn thanh kiếm sắt xấu xí, chớm gỉ, thì hắn lại đâm ra lo sợ. Người luyện võ đến cảnh giới cực cao, thì hoa bay lá rụng cũng có thể đả thương đối thủ, chẳng cần binh khí sắc bén hay không, nghĩ bụng đối phương chọn thanh kiếm thô thế này, chẳng lẽ hắn không sợ gì hay sao? Bèn xòe quạt, định mở miệng khai chiến. Dương Quá dùng kiếm chỉ bốn chữ Chu Tử Liễu viết trên cây quạt, cười, nói:

– Mi là mọi rợ, tuy ai cũng biết, nhưng đừng xòe quạt thì hơn.

Hoắc Đô đỏ mặt, gấp cây quạt lại, thành một cây gậy ngắn, điểm nhẹ tới huyệt Kiên Tỉnh của Dương Quá, tả chưởng đẩy ra, một luồng kình phong ép tới rất hiểm ác. Dương Quá vung kiếm, dùng "Ngọc nữ kiếm pháp" đánh trả.

Hồi Lâm Triêu Anh khổ luyện trong tòa cổ mộ, đã sáng tạo môn võ công "Ngọc nữ tâm kinh", sau đó không hề ra khỏi nhà mồ, chỉ truyền thụ cho a hoàn hầu cận, a hoàn truyền thụ cho Tiểu Long Nữ, rồi Tiểu Long Nữ truyền thụ cho Dương Quá. A hoàn kia không giao thiệp với võ lâm, thậm chí không rời khỏi núi Chung Nam một bước. Lý Mạc Sầu tuy là sư tỷ của Tiểu Long Nữ, song chưa được sư phụ truyền thụ kiếm pháp cao siêu, chỉ dùng cây phất trần, chưởng pháp và ám khí lập uy chốn giang hồ. Lúc này Dương Quá sử dụng kiếm pháp phái Cổ Mộ, cao thủ các môn phái tề tựu trong đại sảnh, trừ Tiểu Long Nữ ra, chẳng một ai nhận biết.

Người sáng tạo phái võ công này cố nhiên là nữ, đệ tử hai đời tiếp theo cũng đều là nữ, không tránh khỏi thừa khinh nhu mà thiếu uy mãnh. Chiêu thức mà Tiểu Long Nữ truyền thụ cho Dương Quá đều mang vài phần phong thái ẻo lả. Dương Quá sau khi luyện nhuần nhuyễn, tự nhiên loại trừ thần thái nữ nhân, biến nó thành linh động uyển chuyển. Khinh công phái Cổ Mộ là vô địch thời nay, lúc này chỉ thấy Dương Quá lướt đi trong sảnh, chiêu này chưa dứt, chiêu sau đã tới. Thoạt xuất kiếm chiêu thì thân mình còn ở bên trái, cuối chiêu thân mình đã lách sang bên phải, kiếm với người tưởng một mà hai, ngỡ hai mà một, chàng mới sử mươi chiêu pho kiếm pháp này, quần hùng ai nấy đã cùng thán phục.

Công phu sử dụng cây quạt của Hoắc Đô vốn cũng là một tuyệt kỹ võ lâm, ra đòn điểm huyệt, đâm, quét, chém, chặt, cũng là lấy sự khinh nhu thủ thắng; nhưng bây giờ gặp phải khinh công tuyệt đỉnh vô song của phái Cổ Mộ, thì không thi triển được, hơn nữa, cây quạt đã bị Chu Tử Liễu đề bốn chữ, Dương Quá nhè vào đó chế giễu, Hoắc Đô không muốn xòe quạt ra nữa, thành thử công phu chữ "phẩy" của cây quạt đã mất tác dụng.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ thấy kiếm pháp của Dương Quá tài tình như thế, cứ trố mắt mà ngắm, không thể nói gì hơn. Trong số quần hào bàng quan, người mừng nhất là Quách Tĩnh, thấy con trai của cố nhân không ngờ đã luyện thành môn võ công siêu việt mà chính chàng cũng chưa nhận biết gia số, nghĩ đến giao tình nhiều đời giữa hai họ Dương – Quách, bất giác vừa bi vừa hỉ. Hoàng Dung liếc phu quân một cái, thấy mắt chàng rưng rưng, khóe miệng mỉm cười, biết tâm ý của chàng, đưa tay nắm bàn tay chàng.

Hoắc Đô thấy không địch nổi, lo lắng nghĩ thầm, nếu hôm nay bị bại bởi tay tên tiểu tử này, thì từ đây mất hết thể diện, còn nói gì tới việc lập uy ở Trung Nguyên? Thấy trường kiếm của Dương Quá chĩa xéo, mũi kiếm rắc hoa, đâm liền ba chỗ, nếu nhảy tránh, Hoắc Đô sẽ lập tức rơi vào thế hạ phong, bèn xòe cây quạt quét liền ba chiêu; quát một tiếng, lại sử "Cuồng phong tấn lôi công" để phản kích. Với thân phận cao thủ võ lâm như hắn, giao đấu với một gã thiếu niên, phải vừa đấu vừa quát tháo, dẫu có đắc thắng, cũng chả vẻ vang gì; huống hồ bây giờ hắn chỉ cầu không thua, chẳng dám mong gì hơn.

Dương Quá kiếm đi khinh linh, chiêu dứt ý liền, liên miên bất tuyệt, quả thực nhàn nhã thảnh thơi. Pho mỹ nữ kiếm pháp này vốn lấy sự khéo léo dịu dàng để thủ thắng, bên cạnh sự hò hét cuồng tẩu của đối phương, càng lộ rõ vẻ ung dung, yên vị đàng hoàng của chàng. Dương Quá quần áo tuy rách rưới, nhưng lộ kiếm pháp này của chàng quả thật tinh diệu, ai nấy chỉ thấy kiếm quang loang loáng, chàng cứ thanh thoát tuyệt tục như một công tử phong lưu.

Nhưng Dương Quá vừa chọn tư thế, phong thái tuấn nhã, thì đường kiếm khó bề phát huy uy lực. Hoắc Đô thì liều mạng, càng đấu càng hung, Dương Quá dần dần cảm thấy đuối sức. Quách Tĩnh, Hoàng Dung lại thấy chàng sắp lạc bại, đều lắc đầu, cau mày, bất giác thầm kêu lên "Nguy mất!"

Bỗng Dương Quá chĩa kiếm, quát:

– Cẩn thận! Ta sắp phóng ám khí đó!

Hoắc Đô từng dùng đinh có độc giấu trong cây quạt đả thương Chu Tử Liễu; nghe Dương Quá kêu thế, tưởng thanh kiếm thô của chàng cũng giấu ám khí như cây quạt của hắn, hèn chi Dương Quá không dùng bảo kiếm, mà chọn thanh kiếm gỉ này, tự hắn đã dùng thủ đoạn này để vượt hiểm thủ thắng, chắc đối phương cũng bắt chước làm theo; thấy Dương Quá chĩa mũi kiếm vào mặt mình, hắn vội nhảy sang bên trái. Tay trái của Dương Quá dẫn kiếm quyết, kiếm đâm tới, chứ đâu có ám khí gì?

Hoắc Đô biết mình bị lừa, chửi:

– Tên súc sinh!

Dương Quá hỏi:

– Ai chửi là tên súc sinh?

Hoắc Đô không trả lời, sợ lại bị lừa, đánh ra một chưởng. Dương Quá vung tay trái, quát:

– Phóng ám khí đó!

Hoắc Đô vội tránh sang bên phải, thì thanh kiếm của đối phương vừa vặn từ bên phải đâm tới, hắn vội thu mình rụt người lại, mũi kiếm sượt qua bên sườn, chỉ cách không đầy một tấc, hú vía! Quần hùng suýt soa tiếc rẻ, đám võ sĩ Mông Cổ thì kêu "Hú vía!"

Hoắc Đô tuy thoát nạn, nhưng cũng sợ vã mồ hôi lạnh, thấy Dương Quá lại vung tay trái, quát:

– Ám khí này!

Hoắc Đô không thèm lý đến nữa, vung chưởng tiếp đòn, quả nhiên đối phương lại bịa. Dương Quá sấn tới, đâm một kiếm, lại vung tay trái, quát:

– Ám khí thực đó!

Hoắc Đô chửi:

– Tên súc..

Chữ "sinh" chưa ra đến đầu lưỡi, chợt thấy trước mắt loang loáng bay tới mấy thứ ám khí rất nhỏ, từ cự li cực gần, vội nhảy tránh, nhưng đã cảm thấy bắp đùi đau nhói mấy chỗ. Hoắc Đô cho rằng ám khí quá nhỏ, có trúng cũng không đáng ngại, trong cơn thịnh nộ quạt chém, chưởng vỗ, định đánh chết tươi tên nhãi ranh giảo hoạt.

Dương Quá biết đã đắc thủ, đâu còn cần liều mạng làm gì với hắn, bèn múa kiếm nghiêm thủ môn hộ, cười hì hì, nói:

– Ta đã tam phen tứ phen nhắc ngươi phải đề phòng ám khí, vậy mà ngươi cấm chịu tin. Ta đâu có đánh lừa ngươi, đúng không nào?

Hoắc Đô định ra đòn, bỗng đùi ngứa ngáy quá chừng, như thể bị một con muỗi lớn đốt, hắn cố nhịn ngứa để xuất chiêu, nhưng cơn ngứa càng dữ dội, chợt giật mình: "Thôi chết, ám khí của tên súc sinh có độc". Vừa nghĩ thế, thì cái sự ngứa ngáy không thể chịu đựng thêm được nữa, cũng bất chấp đại địch trước mặt, hắn quẳng cây quạt để lấy tay gãi ngứa; song bây giờ thì dường như cả quả tim cũng đang ngứa ngáy, hắn bất giác kêu lên và ngã gục xuống. Nên biết, chất độc bôi vào ám khí Ngọc phong châm của phái Cổ Mộ là thứ hiếm gặp trong thiên hạ, trúng một cái châm đã khó chịu, huống hồ đang ác đấu, huyết lưu thông nhanh, lại bị trúng những mấy cái châm liền.

Lão tăng Đạt Nhĩ Ba bước ra, ôm Hoắc Đô mang vào trao cho sư phụ, rồi quay ra, nói với Dương Quá:

– Tiểu hài tử, ta tỷ võ với ngươi!

Cây kim cương chử phạt ngang lưng Dương Quá.

Cây kim cương chử nặng như thế phạt qua, mang theo một đạo kim quang, chứng tỏ cánh tay của Đạt Nhĩ Ba cực khỏe, thủ pháp cực nhanh. Dương Quá hai chân giữ nguyên vị trí, cong người ra phía sau gần một thước, cây kim cương chử đánh qua ngay trước ngực. Nào ngờ Đạt Nhĩ Ba không chờ cây kim cương chử đi hết đà, cổ tay vận kình, cây kim cương chử đang phạt ngang liền chuyển sang đâm thẳng vào bụng Dương Quá. Cây kim cương chử nặng thế, giữa chừng đột ngột chuyển hướng, khiến ai nấy cùng bất ngờ; Dương Quá cũng cả kinh, vội dùng kiếm ghìm đầu cây kim cương chử xuống, mượn sức vọt lên không trung.

Đạt Nhĩ Ba không đợi chàng đáp xuống đất, vung cây chử truy kích, Dương Quá lại ghìm đầu cây chử xuống mà nhảy vọt lên. Đạt Nhĩ Ba quát to:

– Chạy đi đâu?

Cây kim cương chử đánh tới. Dương Quá thân lơ lửng trên không, khó bề xoay trở, thấy tình thế quá nguy hiểm, bèn liều lĩnh giơ tay chộp đầu cây kim cương chử, đồng thời tay kia chém kiếm thẳng xuống. Giá như chàng có sức lực như Điểm Thương Ngư Ẩn, thì đối phương đã phải buông tay khỏi cây chử. Đằng này Đạt Nhĩ Ba lực mạnh gấp mấy lần chàng, đã giằng lại cây chứ mà nhảy về phía sau. Dương Quá thừa thế buông cây chử ra, nhẹ nhàng đáp xuống đất. Chàng bị dồn ép liền ba chiêu ở trên không, tính mệnh ngàn cân treo sợi tóc, vừa rồi tuy không đoạt được binh khí của đối phương, nhưng đã giải nguy, người xem xung quanh đều thở phào nhẹ nhõm.

Đạt Nhĩ Ba thấy Dương Quá khinh công cao cường, biến chiêu linh hoạt, bèn hỏi:

– Tiểu hài tử công phu rất khá, là ai dạy ngươi vậy?

Đạt Nhĩ Ba nói tiếng Tạng, Dương Quá dĩ nhiên chẳng hiểu lấy một chữ. Chàng đoán lão hòa thượng này chửi mắng chàng, thế là bèn bắt chước giọng nói, cũng xì xà xì xồ vài câu. Mấy câu của chàng phát âm rất chuẩn, lại đúng trật tự từ ngữ, Đạt Nhĩ Ba chỉ nghe là:

– Tiểu hài tử công phu rất khá, là ai dạy ngươi vậy?

Tưởng Dương Quá hỏi y, Đạt Nhi Ba đáp:

– Sư phụ ta là Kim Luân pháp vương, ta lại không phải là tiểu hài tử, ngươi phải gọi ta là đại hòa thượng.

Dương Quá không chịu lép vế, nghĩ thầm: "Bất kể lão chửi ta độc ác thế nào, ta cứ chửi lại đúng hệt, cái khoản đấu khẩu lão đừng hòng thắng ta. Lão dùng tiếng Tạng nhiếc ta là heo là chó, thì ta cũng nhiếc lại lão hệt như thế". Đợi Đạt Nhĩ Ba nói xong, chàng bắt chước nhại lại y hệt:

– Sư phụ ta là Kim Luân pháp vương, ta lại không phải là tiểu hài tử, ngươi phải gọi ta là đại hòa thượng.

Đạt Nhĩ Ba lấy làm lạ, nghiêng đầu nhìn bên trái, lại nhìn bên phải, nghĩ thầm: "Ngươi hiển nhiên là tiểu hài tử, đâu phải là đại hòa thượng? Sư phụ của ngươi sao lại là Kim Luân pháp vương?" Bèn nói:

– Ta là đệ tử đời thứ nhất của Kim Luân pháp vương, ngươi là đệ tử đời thứ mấy?

Dương Quá cũng nói:

– Ta là đệ tử đời thứ nhất của Kim Luân pháp vương, ngươi là đệ tử đời thứ mấy?

Đạo Lạt Ma ở Tây Tạng xưa nay có thuyết luân hồi truyền kiếp, thời bấy giờ Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền chưa bắt đầu kiếp sau, nhưng chuyện người ta sau khi chết sẽ đầu thai tái sinh, thì đã được mọi người theo đạo Lạt Ma tin chắc như đinh đóng cột. Kim Luân pháp vương thời trẻ có thu nhận một đại đệ tử, đệ tử ấy chưa đến hai mươi tuổi đã chết, Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô đều không biết mặt người đó, chỉ biết từng có một người như vậy. Trong đám môn hạ của Kim Luân pháp vương, Đạt Nhĩ Ba là đệ tử thứ hai, Hoắc Đô là đệ tử thứ ba. Bây giờ Đạt Nhĩ Ba nghe mấy câu đối đáp vừa rồi, cứ ngỡ Dương Quá đúng là đại sư huynh đã đầu thai sang kiếp này, nghĩ thầm nếu không phải là thần đồng võ nghệ đầu thai, thì làm sao một gã thiếu niên đã giỏi võ đến thế? Hơn nữa chàng ta là một gã thiếu niên Trung Nguyên, làm sao lại nói tiếng Tạng sõi như thế được? Đạt Nhĩ Ba chăm chú nhìn Dương Quá một lát, càng nhìn càng thấy giống, bèn đặt cây kim cương chử xuống đất, chắp tay vái Dương Quá, nói:

– Đại sư huynh, sư đệ Đạt Nhĩ Ba tham kiến.

Dương Quá càng lấy làm lạ, nghĩ bụng lão hòa thượng này chửi mình không xong, đành cúi đầu nhận thua, thấy cử chỉ của lão ta cực kỳ cung kính, lời vừa nói chắc không phải chửi bới, nên chàng không bắt chước nhại lại, chỉ mỉm cười, gật đầu, ra vẻ tiếp nhận.

Người xem xung quanh thì càng kinh dị. Mọi người không hiểu Tạng ngữ, chẳng biết Dương Quá xì xà xì xồ những gì, mà sau một hồi vị lão tăng có sức lực kinh nhân kia lại cúi đầu bái phục chàng.

Chỉ có Kim Luân pháp vương biết rõ nguồn cơn, thừa biết gã đệ tử thứ hai là người thẳng thắn chất phác, đã mắc lừa Dương Quá, bèn nói to:

– Đạt Nhĩ Ba, nó không phải là đại sư huynh tái sinh đâu, mau tỷ thí với nó đi.

Đạt Nhĩ Ba giật mình, nói:

– Sư phụ, đệ tử thấy đó chính là đại sư huynh rồi, nếu không, còn nhỏ tuổi sao đã có thân thủ như vậy?

Kim Luân pháp vương nói:

– Đại sư huynh của ngươi võ công giỏi hơn ngươi rất nhiều, đứa bé này thì còn thua xa ngươi.

Đạt Nhĩ Ba cứ lắc đầu, chưa tin. Kim Luân pháp vương biết y tính quá thẳng thắn, nhất thời chưa hiểu ngay, bèn nói:

– Ngươi chưa tin, cứ đấu thử với nó một lát sẽ biết.

Đạt Nhĩ Ba luôn coi lời sư phụ như thần thánh, nếu sư phụ đã bảo Dương Quá không phải là đại sư huynh tái sinh, thì quá nửa không phải là đại sư huynh. Nhưng chàng ta mới tí tuổi đầu, đã có võ công cao minh như thế, lại tự xưng là đại sư huynh của y, thì thật là khó mà không tin, thôi thì vâng lời sư phụ, đấu thử với chàng ta vài chiêu, xem công phu đích thực của chàng ta, xem ai thắng ai bại, sẽ biết ngay thật giả, thế là y bèn ôm quyền nói với Dương Quá:

– Được, ta sẽ tỷ thí võ công với ngươi, là thật hay giả, dựa vào thắng bại mà định.

Dương Quá thấy y xì xà xì xồ mấy câu, thần sắc rất cung kính, bèn bắt chước nhại lại y như thế với y:

– Được, ta sẽ tỷ thí võ công với ngươi, là thật hay giả, dựa vào thắng bại mà định.

Đạt Nhi Ba nghe vậy, trong lòng run sợ, nghĩ thầm:

"Sư phụ bảo võ công của đại sư huynh cao hơn ta rất nhiều, tất nhiên là ta không địch nổi rồi".

Dương Quá thấy vẻ mặt sợ hãi của Đạt Nhĩ Ba, nghĩ thầm: "Mình phải dọa thêm cho lão ta sợ mà lùi mới được" bèn nói to:

– Ngươi có năm tên đệ tử, gọi là "Tạng biên ngũ xú" ít ngày trước đây trên đỉnh Hoa Sơn dám vô lễ với ta, đã bị ta phế bỏ võ công. Năm tên đó vẫn còn sống cả chứ?

Dương Quá nói bằng tiếng Hán, Đạt Nhĩ Ba dĩ nhiên không hiểu, bèn nhờ một võ sĩ đi cùng dịch lại. Nghe xong, Đạt Nhĩ Ba cả kinh thất sắc. "Tạng biên ngũ xú" làm vật đệm cho hai đại cao thủ Hồng Thất Công và Âu Dương Phong giáp kích, gân mạch toàn thân đều bị phế, trở về chỉ còn ú ớ, nói cũng không ra lời nữa. Đạt Nhĩ Ba xem thương thế của "Tạng biên ngũ xú", nghĩ ngay Kim Luân pháp vương cũng không thể có công lực tài tình như vậy, đánh hỏng bát mạch của cả năm người mà vẫn bảo toàn tính mạng cho họ, hạ thủ như thế thật là quỉ quái thần thông, thông thiên triệt địa. Bây giờ nghe Dương Quá nói, càng kinh hãi, quay nhìn Kim Luân pháp vương, chỉ thấy sư phụ vẻ mặt tức giận, thì không thể không động thủ với Dương Quá, đành nói:

– Xin hãy thủ hạ lưu tình.

Dương Quá bắt chước y, cũng nhại lại:

– Xin hãy thủ hạ lưu tình.

Quách Phù thấy hai người cứ nói tiếng Tạng với nhau mãi, bèn lại bên cạnh Hoàng Dung, hỏi:

– Mẹ ơi, họ nói gì thế?

Hoàng Dung sớm đã nhận biết Dương Quá chỉ nhại theo y hệt, vậy mà Đạt Nhĩ Ba lại chắp tay mà vái, thì cũng chưa hiểu vì sao, nghe nữ nhi hỏi, chỉ đáp:

– Ừm, Dương gia ca ca nói giỡn lão tăng đấy thôi!

Lúc này Đạt Nhĩ Ba đã vung cây chử tấn công Dương Quá, nghĩ bụng y đã nói rõ trước, đối phương tất có phòng bị. Dương Quá thấy Đạt Nhĩ Ba thần thái cung kính, không ngờ y lại đột nhiên xuất thủ, cây chử suýt nữa thì đánh trúng người chàng, chàng vội nhảy lùi né tránh.

Dương Quá lùi rồi, lập tức sấn tới, đâm liền ba nhát kiếm. Đạt Nhĩ Ba vốn sợ hãi, chỉ lo Dương Quá theo học sư phụ lâu năm, võ học tài giỏi hơn người, luân hồi tái sinh, càng quỉ quái thần thông, nên chỉ dùng cây chử che đỡ môn hộ, không dám lơ là chút nào; sau vài chiêu, Dương Quá nhận thấy Đạt Nhĩ Ba chỉ thủ không công, tuy chưa hiểu dụng ý, nhưng thừa thế tấn công, đâm đông chém tây, tha hồ thi triển "Ngọc nữ kiếm pháp". Đấu hơn trăm chiêu, Kim Luân pháp vương không nhịn được nữa, quát:

– Đạt Nhĩ Ba, mau phản kích đi, nó không phải là đại sư huynh của ngươi.

Võ công của Đạt Nhĩ Ba dĩ nhiên cao hơn hẳn Dương Quá, chẳng qua y kính sợ trong bụng, nên giảm mất năm phần, Dương Quá thì thừa cơ toàn lực thi triển. Một người càng lúc càng ứng tâm đắc thủ, một người thì càng lúc càng co về thoái nhượng.

Dương Quá tuy chiếm thượng phong, cũng không đả thương y nổi, Đạt Nhĩ Ba lại cứ ngỡ đại sư huynh thủ hạ lưu tình. Kim Luân pháp vương cả giận, gằn giọng quát:

– Hãy phản kích ngay lập tức!

Tiếng quát làm rung chuyển cả đại sảnh, nghe váng cả tai. Đạt Nhĩ Ba không dám trái lời sư phụ, vội vung cây chử mà cuồng đả cấp công.

Đợt tấn công mãnh liệt này buộc Dương Quá liên tiếp né tránh, những chỗ sơ hở non nớt của chàng cũng dần dần lộ ra. Đạt Nhĩ Ba thấy kiếm chiêu của Dương Quá hơi chậm lại, bèn phang cây chử gấp tới, Dương Quá tránh không kịp, chử kiếm đụng nhau. Trong lúc tỷ thí, binh khí đôi bên đụng nhau là chuyện thường, nhưng cây kim cương chử quá nặng, Dương Quá chỉ múa kiếm, không dám cho đụng vào cây chử của đối phương, bây giờ kiếm – chử đụng nhau, chàng thấy hổ khẩu bị chấn động đau nhói, keng một tiếng, thanh kiếm của chàng gãy đôi. Đạt Nhĩ Ba nói:

– Ta thắng rồi!

Y cắm cây chử xuống đất, chắp tay trước ngực, cúi mình hành lễ. Y tuy đắc thắng, song không dám thất lễ với đại sư huynh.

Dương Quá nhại lại bằng tiếng tạng:

– Ta thắng rồi!

Đoạn ném cái kiếm gãy vào mặt Đạt Nhĩ Ba, y né tránh, nghĩ thầm: "Tại sao đại sư huynh lại thắng? Không lẽ đấy là chiêu dẫn dụ?" Chỉ thấy Dương Quá tay không đánh tới, không dám xem thường, vội múa cây chử hộ thân.

Hồi Dương Quá ở trong "Hoạt tử nhân mộ" theo Tiểu Long Nữ học chưởng pháp, chàng đã luyện thành thạo cách dùng song chưởng ngăn giữ chín chín tám mươi mốt con chim sẻ đang bay, mà không để cho một con nào bay thoát. Lộ chưởng pháp "Thiên la địa võng thế" ấy là bí quyết độc đáo của Lâm Triêu Anh, chiêu số chưởng hình chưa hề ra khỏi núi Chung Nam một bước; bây giờ đem ra sử dụng, quả nhiên kín đáo vô cùng, tuy chỉ là tay không, mà uy lực chẳng thua gì trong tay có đao kiếm.

Đạt Nhĩ Ba múa cây chử vù vù, Dương Quá thì sử dụng khinh công cao siêu, tiến thoái trong kẽ hở của cây chử. Tuy cây chử gây vô số hung hiểm, nhưng thủy chung vẫn chưa hề đụng được vào người chàng, trong khi không không ngừng công kích, trảo, đả, phách, cầm nã, kích, thi triển chưởng pháp "Thiên la địa võng thế".

Lại đấu một trận nữa, Đạt Nhĩ Ba thần lực càng tăng, Dương Quá cũng khinh công càng lúc càng lanh lẹ. Hồi ở tòa cổ mộ, chàng từng nằm trên giường hàn ngọc luyện công, bây giờ công phu tu luyện mấy năm mới hiển lộ hết ra.

Tiểu Long Nữ ngồi bên chân cột, mỉm cười nhìn cuộc đấu thấy Dương Quá cầm cự được lâu như thế chưa thua, bèn lấy trong túi ra đôi bao tay màu trắng, gọi:

– Quá nhi, đón lấy này.

Tay phải ném đôi bao tay ra.

Đôi bao tay này của nàng được đan bằng hàng trăm sợi bạch kim, tuy mềm mỏng, nhưng bảo đao lợi kiếm chẳng làm gì được. Hách Đại Thông nhìn thấy đôi bao tay bay trong không trung thì mặt hơi biến sắc. Hồi lão giao đấu với Tiểu Long Nữ ở cung Trùng Dương, nàng đã đeo đôi bao tay này mà bẻ gãy trường kiếm của lão, buộc lão chút nữa phải tự sát, bây giờ gặp lại nó, lão không khỏi xúc động tâm cảnh.

Dương Quá đón bắt đôi bao tay, lùi lại một bước, đeo ngay vào tay, bắt đầu sử dụng môn võ công đẹp mắt và kỳ diệu nhất trong võ công phái Cổ Mộ là "Mỹ nữ quyền pháp". Lộ quyền pháp này chàng từng sử dụng vài chiêu hôm giúp Lục Vô Song cự địch, đánh lui mấy đệ tử Cái Bang truy đuổi. Mỗi chiêu quyền pháp bắt chước một mỹ nữ thời xưa, do nam tử sử dụng thì có lẽ không được thanh nhã cho lắm; nhưng Dương Quá khi luyện tập đã cải biên tư thế, tên gọi từng chiêu vẫn giữ nguyên, nhưng động tác tay chân thì đã được chàng biến từ ẻo lả ủy mị thành phiêu dật thanh thoát. Bởi vậy quần hùng bàng quan càng không thể biết gia số, chỉ thấy chàng lúc thì múa may uyển chuyển, lúc thì đứng sững nghiêm nghị, thần thái biến ảo cực kỳ kỳ dị.

Nên biết tâm trạng thần thái của nữ nhân thay đổi đã nhiều lại nhanh, mà các mỹ nữ lừng danh thời đại thì tính cách đều có điểm phi phàm, buồn vui cười khóc càng khó tiên liệu. Đem sự thay đổi khôn lường tâm trạng thần thái của mỹ nữ bao nhiêu đời vào trong võ công, rồi thêm vào độ phong tư mỹ lệ, dáng hình phiêu diêu của tiên nữ, thì kẻ phàm phu tục tử làm sao hiểu nổi?

Dương Quá sử chiêu "Hồng Ngọc kích cổ", hai cánh tay thay nhau đánh nhanh, Đạt Nhĩ Ba giơ cây chử đỡ ngang. Dương Quá biến chiêu thành "Hồng Phất dạ bôn", xuất kỳ bất ý chọc thẳng vào, Đạt Nhĩ Ba giơ cây chử chặn dọc. Dương Quá đột nhiên sử chiêu "Lục Châu trụy lâu", nhào xuống đánh vào hạ bàn đối phương. Đạt Nhĩ Ba cả kinh, nghĩ thầm: "Chiêu pháp của đại sư huynh sao mà khó đoán đến thế?", vội nhảy lên tránh tả chưởng của chàng chém xuống. Song chưởng của Dương Quá liên tiếp vỗ ra mấy lần, ấy là chiêu "Hán Cơ qui Hán", tổng cộng vỗ liền mười tám cái.

Mỗi chiêu của chàng đều có lai lịch, Đạt Nhĩ Ba là Tạng tăng, làm sao hiểu nổi điển cố Trung Nguyên? Trong giây lát chỉ thấy Dương Quá bất chợt đánh trên cao, bất chợt đánh dưới thấp, bất chợt bên đông, bất chợt lên tây, khiến y chân tay luống cuống cả lên. Dương Quá đeo đôi bao tay, cứ luôn luôn thừa cơ sử các chiêu "Hồng Tuyến đạo hạp", "Mộc Lan loan cung", "Ban cơ phú thi", "Thường Nga khấu dược" mà đoạt cây kim cương chử. Đạt Nhĩ Ba cứ phải kêu lên hoảng sợ. Quần hùng cả mừng, hò reo trợ uy.

Kim Luân pháp vương thấy đệ tử võ công hiển nhiên cao hơn gã thiếu niên, chỉ vì có ý hoảng sợ, mà liên tiếp bị đối phương tấn công trước, đến nỗi lâm vào thế quẫn bách, bèn gằn giọng quát:

– Mau sử Vô thượng đại lực chử pháp!

Đạt Nhĩ Ba đáp:

– Vâng!

Hai tay nắm chắc cây chử, y bắt đầu múa. Y dùng một tay múa cây chử, đã là thần lực kinh nhân, bây giờ dùng cả hai tay, thêm cả sức của eo lưng, tiếng gió ù ù do cây chử phát ra càng mạnh gấp bội. "Vô thượng đại lực chử pháp" không có gì biến hóa, chỉ gồm tám chiêu phạt ngang, tám chiêu chọc thẳng, tổng cộng hai lần tám mười sáu chiêu, nhưng mười sáu chiêu đó cứ sử đi sử lại, phạt ngang chọc thẳng, buộc Dương Quá phải tránh thật xa, đừng nói giao phong chính diện, ngay cả chử phong, chàng cũng không dám tiếp xúc.

Điểm Thương Ngư Ẩn sau khi bị gãy cái thiết tương, vẫn ấm ức không phục, lúc này thấy uy lực khủng khiếp của "Vô thượng đại lực chử pháp" nghĩ bụng "Thiết tương pháp" của mình không thể có được chiêu số chí cương chí mãnh như vậy, thì bất giác cũng đã khâm phục.

Đấu một lát nữa, bảy tám cây nến hồng trong sảnh đã bị chử phong thổi tắt, Dương Quá chỉ dựa vào khinh công nhảy chỗ này luồn chỗ kia, tránh né, cốt sao không bị cây chử đánh trúng, làm gì còn khả năng phản kích?

Quần hùng Trung Nguyên thầm kinh sợ, lặng cả đi; đám võ sĩ Mông Cổ thì thích thú reo hò. Dương Quá bị cây chử dồn ép cứ liên tiếp thoái lui chẳng mấy chốc đã bị dồn vào một góc sảnh, rất muốn biến chiêu, nhưng không thể thi thố gì được. Lộ "Vô thượng đại lực chử pháp" này có mang ba phần điên khùng, Đạt Nhĩ Ba giờ đã phát cuồng, đã quên biến trước mặt là đại sư huynh tái sinh, chỉ thấy Dương Quá đã thu mình vào trong góc sảnh, không còn đường thoái lui, bèn quát lớn một tiếng:

– Ngươi chết này!

Cây chử đập vào, chỉ nghe "sầm" một tiếng to, bụi tung mù mịt, vôi gạch bay tung tóe, bức tường chỗ ấy đã bị phá thủng một mảng lớn.

Dương Quá thoát cái thế ngàn cân treo sợi tóc bằng cách phi thân vọt qua đầu đối phương, vẫn không quên nhại câu tiếng Tạng:

– Ngươi chết này!

Cú vọt này là võ công trong "Cửu Âm chân kinh". Hồi ở trong tòa cổ mộ với Tiểu Long Nữ, Dương Quá đã luyện theo di kinh mà Vương Trùng Dương khắc trên trần thạch thất, quyền cước kiếm thuật học được mấy thành, chỉ có nội công là không được ai chỉ dẫn, hai người luyện thì luyện, song không biết đúng hay sai, bây giờ lần đầu tiên gặp đại địch, đâu dám đem ra sử dụng? Không ngờ trong cơn nguy cấp, tự nhiên bật ra, nhờ vậy thoát chết.

Quần hùng biết rằng chiêu này nhất định Đạt Nhĩ Ba đắc thủ, Quách Tĩnh không để y vung cây chử hết mức, đã nhảy ra định tập kích vào sau lưng y, chợt thấy hồng bào chao động, Kim Luân pháp vương đã phát chưởng đánh tới. Quách Tĩnh thấy chưởng thế của đối phương quá thần tốc, vội sử chiêu "Kiến long tại điền" gạt ra. Song chưởng của hai người đụng nhau, không hề phát ra tiếng động, nhưng thân hình đôi bên đều chao đảo. Quách Tĩnh lùi lại ba bước, Kim Luân pháp vương thì vẫn đứng nguyên tại chỗ. Lão ta công lực thâm hậu hơn hẳn Quách Tĩnh, song chưởng pháp võ kỹ thì lại không bằng chàng. Quách Tĩnh lùi lại giảm mãnh kình của kẻ địch, để khỏi thụ thương. Kim Luân pháp vương thì cực kỳ hiếu thắng, sau cú tiếp chiêu vừa rồi, cảm thấy ngực bị đau tức, phải đứng yên một chỗ. Cả hai cao thủ cỡ Quách Tĩnh lẫn Kim Luân pháp vương đều biết Dương Quá nhất định sẽ ngộ hiểm, nên một người phi thân ra cứu, một người thì xuất thủ ngăn cản. Nào ngờ cuối cùng Dương Quá đã có kỳ chiêu, vọt ra khỏi kẽ hở đánh tới của cây chử. Hai người thấy Dương Quá thoát hiểm, thì một người vui mừng, một người tiếc nuối, cùng trở về chỗ cũ.

Đạt Nhĩ Ba ra đòn không trúng, cũng chẳng quay người lại, vung cây chử ra phía sau. Dương Quá thấy chiêu của địch tới quá nhanh, chàng tự nhiên bay ngang một cái, giống như chim én bay vụt qua mành vậy, thân hình lướt ngang cách mặt đất hơn một thước, ở bên dưới cây chử vài tấc. Lại là võ công trong "Cửu Âm chân kinh". Hoàng Dung rất đỗi kinh ngạc nói:

– Tĩnh ca ca, tại sao Quá nhi cũng biết "Cửu Âm chân kinh"? Chàng có dạy cho nó không vậy?

Nàng cho rằng Quách Tĩnh vì nghĩ đến tình cố nhân mà trên đường dẫn Dương Quá lên núi Chung Nam đã đem "Cửu Âm chân kinh" dạy cho nó. Quách Tĩnh nói:

– Không hề, nếu truyền thụ cho nó, ta đã chẳng giấu nàng làm gì?

Hoàng Dung "ừm" một tiếng, biết tính phu quân vốn đối với người ngoài vẫn có sao nói vậy, đối với nàng càng không khi nào nói dối. Chỉ thấy Dương Quá bay người né tránh mỗi lúc nguy cấp, đúng là dựa vào công phu hộ thân của "Cửu Âm chân kinh".

Nhưng chàng rõ ràng chưa luyện thành thục, không biết dùng võ công "Cửu Âm chân kinh" phản kích thủ thắng, tuy giữ được tính mạng, nhưng trận đấu này rốt cuộc chàng sẽ thua mất. Hoàng Dung thở dài:

"Quá nhi quả là bậc kỳ tài, nếu nó theo học mình chừng một năm, sẽ luyện xong Đả cẩu bổng pháp và Cửu Âm chân kinh, thì lão Tạng tăng kia đâu có địch nổi nó?"

Chính đang phiền não, vừa đưa mắt, Hoàng Dung bỗng nhìn thấy gã phản đồ của Cái Bang là Bành trưởng lão đang đứng lẫn trong đám võ sĩ Mông Cổ có vẻ hí hửng, nàng chợt nảy ra một kế, gọi:

– Quá nhi, Di hồn đại pháp! Di hồn đại pháp!

Trong "Cửu Âm chân kinh" có một môn công phu gọi là "Di hồn đại pháp", dùng sức mạnh tâm linh để khắc địch chế thắng. Lần trước tại đại hội Cái Bang bên hồ Động Đình, Hoàng Dung từng sử dụng công phu đó khắc chế "Nhiếp tâm thuật" thôi miên của Bành trường lão, cho nên bây giờ trông thấy lão ta, nàng sực nhớ ra.

Dương Quá vẫn nhớ cách luyện "Di hồn đại pháp", nhưng chàng chưa tin rằng dùng tâm lực chăm chú nhìn đối phương, lại có thể khắc địch chế thắng, bởi vì chàng chưa từng luyện qua. Chàng vốn phục tài năng của Hoàng Dung, nên nghĩ thầm: "Quách bá mẫu đã bảo thế, tất có duyên cớ; đằng nào thì hôm nay mình cũng thua, chi bằng cứ thử một phen". Thế là trong lúc quyền cước tiếp tục tránh né, trong óc bắt đầu gạt bỏ mọi ý nghĩ, căn cứ cái gọi là "pháp môn chỉ quán" nói trong "Cửu Âm chân kinh", đi từ "Chế tâm chỉ" đến "Thể chân chỉ", tinh thần qui về một điểm duy nhất, hoàn toàn không còn tạp niệm. Lúc này chàng toàn dựa vào bản tính mà chống đỡ, nghe âm thanh, tiếng gió mà né tránh, nhãn quang trừng trừng nhìn kẻ địch.

Lại thêm vài chiêu, Đạt Nhĩ Ba thấy cử chỉ của Dương Quá lạ hẳn, bèn nhìn vào mắt chàng, cây kim cương chử đánh mạnh tới. Dương Quá sử chiêu "Man yêu hiên hiên" trong "Mỹ nữ quyền pháp" uốn éo eo lưng né tránh. Chàng đã vận "Di hồn đại pháp", tâm thể là một, quyền cước đang sử chiêu số gì, thì trên mặt có thần tình tương ứng. Đạt Nhĩ Ba thấy mặt chàng bỗng hiện khí thư quyển, đâu biết rằng chàng đang bắt chước tư thế múa của Tiểu Man, là ái thiếp của thi nhân Bạch Lạc Thiên đời Đường, bất giác ngây người, chọc thẳng cây chử. Dương Quá nghiêng đầu tránh, rồi sử chiêu "Lệ Hoa sơ trang" trong Mỹ nữ quyền pháp, giơ tay chải đầu một cái, các ngón tay mềm mại vuốt tóc, miệng mỉm cười. Trương Lệ Hoa là ái thiếp của Lý Hậu chủ, tóc dài bảy thước, bóng mượt tới mức người khác có thể soi gương. Lý Hậu chủ vì mê mệt Lệ Hoa mà phế bỏ chính sự, đi đến mất nước, đủ hiểu sức quyến rũ thế nào. Dương Quá mỉm cười, Đạt Nhĩ Ba bị lây, cũng bắt chước mỉm cười. Nhưng Dương Quá mi thanh mục tú, thêm nụ cười càng quyến rũ; còn Đạt Nhĩ Ba thì lưỡng quyền nhô cao, hai má lõm sâu, bắt chước mỉm cười, chỉ khiến cho quần hùng đứng ngoài xem không khỏi sởn gai ốc.

Dương Quá thấy Đạt Nhĩ Ba ngây người, thì giơ ngón tay sử chiêu "Bình Cơ châm thân". Đạt Nhĩ Ba nghiêng người né tránh, trên mặt bắt chước Dương Quá làm vẻ chăm chú khâu áo.

Hoàng Dung thấy Dương Quá lĩnh hội ý tứ của nàng, biết dùng "Di hồn đại pháp" làm cho kẻ địch bị cảm ứng, thì trong bụng cả mừng, nói nhỏ với Quách Tĩnh:

– Quá nhi thông tuệ lạ thường, hồi ca ca bằng tuổi nó bây giờ, ca ca đâu đã có được bản sự như nó.

Quách Tĩnh vui mừng gật gật đầu, mắt vẫn chăm chú theo dõi hai người ở giữa sảnh. Môn "Di hồn đại pháp" là sự cảm ứng bằng sức mạnh của tâm linh, nếu đối phương tâm thần ổn định vững vàng, thì môn này thường thường vô hiệu. Nếu đối phương có nội lực cao cường, phản kích trở lại, thì người thi triển môn này sẽ bị chế ngự. Hai bên tỷ võ, người nào võ công cao hơn, có thể dùng quyền cước, binh khí thủ thắng, thì không cần thi triển môn này. Kẻ công lực thua kém, cũng không dám sử dụng nó. Vì thế, môn này tuy cao thâm tinh diệu, song khi lâm địch ít khi được sử dụng.

Đạt Nhĩ Ba nghe Dương Quá nói tiếng Tạng, sớm đã tin tám, chín phần rằng chàng là đại sư huynh tái sinh ở kiếp này, vì trong lòng vốn có ý kính sợ, nên bị cảm ứng cực nhanh, Dương Quá vừa thi triển đã thành công. Nếu chàng đem thi triển với Hoắc Đô, nội lực chàng thua kém hắn, ắt sẽ gặp đại họa.

Lúc này Dương Quá đem Mỹ nữ quyền pháp ra thi triển, khi gót sen lãng đãng, lúc thướt tha liễu rủ, Đạt Nhĩ Ba cứ bắt chước y hệt, làm cho mọi người đứng xem vừa kinh ngạc, vừa tức cười.

Quách Phù cười ngặt cười nghẽo, nói với mẫu thân:

– Mẹ ơi, công phu này của Dương gia ca ca hay thật, sao mẹ không dạy cho hài nhi?

Hoàng Dung nói:

– Ngươi mà biết "Di hồn đại pháp" chắc sẽ làm cho trời long đất lở, rốt cuộc tự làm hại mình.

Nàng kéo tay con, nghiêm trang nói:

– Ngươi chớ có đùa, Dương gia ca ca chính đang giao đấu một mất một còn với lão Tạng tăng, môn này còn hung hiểm hơn cả giao đấu bằng đao kiếm đấy.

Quách Phù lè lưỡi, chăm chú nhìn Dương Quá, nghĩ thầm dầu sao cũng có khác gì trò đùa đâu kia chứ, thấy Dương Quá cười, thì Đạt Nhĩ Ba cũng cười; Dương Quá giận, thì Đạt Nhĩ Ba cũng giận, thế là nàng bắt chước làm theo. Ai ngờ "Di hồn đại pháp" cực kỳ lợi hại, mới học theo một lát, đầu óc đã mụ mẫm, tự dưng bước ra giữa sảnh.

Hoàng Dung cả kinh, vội giơ tay kéo lại. Lúc này tâm thần Quách Phù đã bị chế ngự, bèn đẩy mạnh mẹ ra. Hoàng Dung chộp cổ tay con, xoay lại, không cho Quách Phù nhìn thấy mặt Dương Quá. Quách Phù co kéo vài cái, mạch môn đã bị giữ chặt hết bề cựa quậy, đầu óc mụ đi, gục đầu vào lòng mẫu thân mà ngủ.

Lúc này Đạt Nhĩ Ba đã bị Dương Quá chế ngự hoàn toàn, thấy chàng sử chiêu "Tây Tử bổng tâm", y lập tức sử theo chiêu "Đông Thi hiệu Tần"; thấy chàng sử chiêu "Lạc Thần vi bộ", y cũng "bay như chim, trườn như rắn", nhanh chậm tùy theo Dương Quá. Kim Luân pháp vương sớm đã nhận ra không ổn, luôn miệng quát gọi, song Đạt Nhĩ Ba coi như không nghe thấy. Dương Quá thấy thời cơ đã đến, đột nhiên sử chiêu "Tào Lệnh cát tỵ", dùng hai tay luân phiên nhau chém xéo trên mặt mình, chém liên tiếp không ngừng. Thời xưa vợ của Tào Văn Thúc tên là Lệnh, sau khi chồng chết đã tự cắt mũi mình để biểu thị quyết ý không tái giá. Trong quyền pháp, chiêu này vốn dùng để ngăn chặn quyền chưởng của đối phương đánh vào mặt mình. Tay của Dương Quá cách mặt vài tấc, trông tưởng là chém vào mặt mình, xuất thủ cực mạnh, kỳ thực hai bàn tay chàng chỉ vuốt nhẹ qua má và mũi. Đạt Nhĩ Ba đâu có biết thế, hai tay cứ tự đánh vào mặt mình, y thần lực kinh nhân, mỗi chưởng đều có kình lực cả trăm cân, đánh hơn mười chưởng thì không chịu nổi nữa, y ngã xuống ngất lịm. Dương Quá lùi mấy bước, ngồi xuống bên cạnh Tiểu Long Nữ, tay phải chống cằm, tay trái giơ ra vẫy nhè nhẹ, thở dài, vẻ mặt lộ ý tịch liêu. Đây là chiêu cuối cùng của "Mỹ nữ quyền pháp", gọi là chiêu "Cổ mộ u cư", do Dương Quá tự tạo ra, Lâm Triêu Anh thời trước cũng như Tiểu Long Nữ hiện thời đều không biết. Sau khi học xong "Mỹ nữ quyền pháp", Dương Quá nghĩ thầm tổ sư bà bà có đức hạnh chẳng thua gì các mỹ nữ thời xưa, nếu trong lộ quyền pháp này không có hình bóng tổ sư bà bà thì chưa toàn vẹn, thế là chàng bèn sáng tạo ra chiêu này, tiếng là tưởng nhớ Lâm Triêu Anh, cử chỉ thần thái thì lại mô phỏng sư phụ Tiểu Long Nữ của chàng. Khi đó Tiểu Long Nữ có nhìn thấy, song chỉ mỉm cười, không đùa giỡn với chàng.

Quần hùng đồng thanh hoan hô, reo to:

– Chúng ta thắng trận thứ hai rồi! Minh chủ võ lâm là cao thủ của Đại Tống!

– Thát tử Mông Cổ mau mau cút xéo, đừng vác mặt tới Trung Nguyên nữa?

Hai võ sĩ Mông Cổ vội chạy ra, khiêng Đạt Nhĩ Ba vào.

Kim Luân pháp vương thấy hai đệ tử đều thảm bại một cách cực kỳ vô lý bởi tay một gã thiếu niên, mà không phải do võ công thua kém, thì trong bụng hết sức tức giận, nhưng ngoài mặt thản nhiên như không, tựa người vào lưng ghế, quát:

– Gã thiếu niên kia, sư phụ của ngươi là ai?

Ngoài võ công tuyệt luân, lão ta còn bác học đa tài, biết cả tiếng Hán.

Dương Quá chỉ Tiểu Long Nữ, cười nói:

– Sư phụ của ta là vị này, lão hãy mau bái kiến minh chủ võ lâm!

Kim Luân pháp vương thấy Tiểu Long Nữ dịu dàng kiều mị, còn ít tuổi hơn Dương Quá, thì không tin nàng là sư phụ của chàng, nghĩ thầm: "Người Hán Trung Nguyên quỉ kế đa đoan, đừng hòng lừa nổi ta". Lão đứng phắt dậy, lấy trong bọc ra một cái kim luân, lập tức vang lên nhiều tiếng loong coong. Cái kim luân này đường kính một thước rưỡi, đúc bằng vàng, trên khắc chân ngôn Mật tông bằng chữ Tạng, bên trong có chín quả cầu nhỏ, cầm kim luân lắc lắc, tiếng loong coong sẽ phát ra hồi lâu không dứt. Kim Luân pháp vương chỉ Tiểu Long Nữ, nói:

– Hừ, một tiểu cô nương như ngươi cũng đòi làm minh chủ võ lâm ư? Chỉ cần ngươi tiếp nổi ta mười chiêu kim luân này, ta sẽ công nhận ngươi làm minh chủ.

Dương Quá cười, nói:

– Ta đã thắng hai trận, đấu ba thắng hai, phe của lão đã nói rõ ngay từ đầu như thế, giờ còn gây sự nỗi gì?

Kim Luân pháp vương nói:

– Ta chỉ muốn thử võ công, xem tiểu cô nương này có xứng đáng hay không.

Tiểu Long Nữ không biết Kim Luân pháp vương võ công kinh thế hãi tục, cũng không biết "minh chủ võ lâm" là cái giống gì, càng không cần biết mình có xứng đáng hay không xứng đáng, nghe lão ta bảo muốn thử coi nàng có tiếp nổi mười chiêu của lão ta hay không, bèn đứng dậy, nói:

– Để đó ta thử.

Kim Luân pháp vương nói:

- Nếu cô nương không tiếp nổi mười chiêu của ta thì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không tiếp nổi tức là không tiếp nổi, chứ còn sao nữa?

Tiểu Long Nữ lúc này tuy đối với Dương Quá tình ái đã sâu, song đối với mọi chuyện khác, nàng vẫn không hề quan tâm. Quần hùng Trung Nguyên và đám võ sĩ Mông Cổ đều không biết bản tính của nàng, thấy nàng chẳng coi Kim Luân pháp vương ra gì, thì đoán là nàng có võ công cao thâm khôn lường; có người thấy Dương Quá sử dụng Di hồn đại pháp đánh bại Đạt Nhĩ Ba, còn cho rằng nàng biết sử dụng yêu pháp, nàng là Tiểu Yêu Nữ, ai nấy xôn xao bàn luận.

Kim Luân pháp vương cũng sợ nàng hành sử yêu pháp, bèn lên tiếng niệm thần chú, câu thần chú lão niệm là chân ngôn Mật tông "Hàng yêu phục ma chú". Dương Quá đứng bên cạnh nghe rõ ràng, ngỡ rằng lão ta dùng tiếng Tạng chửi sư phụ của chàng, bèn cố ghi nhớ thật đầy đủ mọi chữ.

Kim Luân pháp vương niệm thần chú xong, vung cái kim luân lên, loong coong một hồi, quát Dương Quá:

– Mau lui ra, để ta động thủ!

Câu này lão đã nói bằng tiếng Hán. Dương Quá xua xua tay, không dám nói, sợ phân tâm sẽ quên mấy câu tiếng Tạng vừa thuộc, rồi chàng cũng đọc lại đúng như Kim Luân pháp vương vừa niệm chú. Vừa lúc đó Đạt Nhĩ Ba tỉnh lại, thấy sư phụ tay cầm kim luân, sắp động thủ với người, nghe Dương Quá niệm chân ngôn Mật tông "Hàng yêu phục ma chú", là bí pháp bản môn, không bao giờ truyền cho người ngoài, Dương Quá nếu không đích thực là đại sư huynh tái sinh ở kiếp này, thì làm sao lại biết niệm thần chú? Đạt Nhĩ Ba vội bật dậy, quì trước mặt Kim Luân pháp vương mà nói:

– Sư phụ, đó đúng là đại sư huynh tái sinh, sư phụ hãy thu nhận lại chàng thiếu niên kia đi!

Kim Luân pháp vương tức giận:

– Nói láo! Ngươi đã mắc lừa còn chưa tỉnh hay sao.

Đạt Nhĩ Ba nói:

– Đó là điều thiên chân vạn xác, quyết không thể sai.

Kim Luân pháp vương thấy Đạt Nhĩ Ba cứ mê muội như vậy, bèn túm lưng áo y mà quẳng đi. Thân xác Đạt Nhĩ Ba nặng hơn trăm cân bị lão tăng túm quẳng đi nhẹ như không vậy.

Mọi người vừa nãy chứng kiến Đạt Nhĩ Ba giao đấu với Điểm Thương Ngư Ẩn và Dương Quá, biết y có sức mạnh cánh tay kinh người, bây giờ cái quẳng của Kim Luân pháp vương chứng tỏ công lực của lão tăng này còn ghê gớm hơn nhiều, nhìn Tiểu Long Nữ mảnh khảnh yêu kiều thế kia, đừng nói tiếp mười chiêu, chỉ e lão ta thổi mạnh một cái, nàng cũng đã bay đi, thì không khỏi lo lắng cho nàng. Trong đám võ sĩ Mông Cổ, không ít người từng chứng kiến Kim Luân pháp vương hiển thị võ công, đúng là tài hơn muôn người, sức khỏe hơn voi. Tiểu Long Nữ tuy ở phía địch, nhưng thấy nàng bé nhỏ xinh xắn, lòng trắc ẩn ai mà chẳng có, nghĩ nàng dẫu có yêu thuật, cũng khó địch nổi huyền công thần thông của Kim Luân pháp vương, đều thầm mong nàng không bị những đòn ác hiểm.

Dương Quá niệm thần chú xong, nói nhỏ:

– Cô cô, cẩn thận với lão hòa thượng.

Kim Luân pháp vương nghe chàng niệm chú không sai một chữ, lòng thầm thán phục, nói:

– Gã thiếu niên kia, khá khen cho ngươi.

Dương Quá nói:

– Hòa thượng kia, khá khen cho lão.

Kim Luân pháp vương trừng mắt, hỏi:

– Khá khen về cái gì?

Dương Quá nói:

– Khá khen cho lão dám cả gan động thủ với sư phụ của ta, sư phụ ta là Bồ tát đầu thai, có tài thông thiên thấu địa, có công hàng long phục hổ, lão hãy cẩn thận kẻo nguy đó.

Dương Quá thấy lão tăng này lợi hại, định dọa cho lão ta lo sợ, xuất thủ không dám tận lực, sư phụ sẽ dễ đối phó hơn; nhưng Kim Luân pháp vương là anh kiệt ẩn cư ở Tây Tạng, văn võ toàn tài, đâu bị mắc lừa. Lão chỉ nói:

– Chiêu thứ nhất, tiểu cô nương, mau lấy binh khí ra!

Dương Quá cởi đôi bao tay bạch kim đưa cho sư phụ đeo, rồi lùi ra. Tiểu Long Nữ lấy từ trong bọc ra một dải lụa trắng, hất nhẹ một cái, đầu dải lụa buộc một quả cầu tròn màu vàng, quả cầu rỗng, bên trong có vật nhỏ, khi dải lụa chuyển động, quả cầu phát ra tiếng kinh coong trong trẻo rất êm tai. Mọi người thấy binh khí của đôi bên đều quái dị, nghĩ thầm hôm nay quả là được mở rộng tầm mắt, một bên binh khí cực ngắn, bên kia binh khí cực dài, một bên cực cứng, bên kia cực mềm, song cả hai loại binh khí đều phát ra âm thanh kính coong.

Cái kim luân mà Kim Luân pháp vương sử dụng chuyên dùng để khóa và cướp vũ khí của đối phương, bất kể đao thương kiếm kích, mâu chùy tiên côn, đều bị kim luân của lão làm cho bó tay, bị đoạt mất ngay từ chiêu đầu tiên. Nếu không phải lão ta thấy Dương Quá võ công cao siêu, thì hẳn lão đã chẳng nói hãy tiếp mười chiêu. Trong cả cuộc đời lão, ít ai có thể tiếp nổi ba chiêu kim luân của lão.

Dải lụa của Tiểu Long Nữ rung động, nàng đã xuất chiêu trước. Kim Luân pháp vương nói:

– Là cái thứ gì vậy?

Tay trái lão chộp dải lụa, nhìn dải lụa yêu kiều linh động, chắc hẳn có nhiều biến hóa, cho nên cú chộp của lão ám tàng năm phương vị trên, dưới, phải, trái, giữa, bất kể dải lụa lướt tới đâu, cũng không thoát nổi cú chộp của lão. Nào ngờ quả cầu nhỏ ở đầu dải lụa kêu coong một tiếng, bật lại đánh vào huyệt Trung Chử ở mu bàn tay lão. Kim Luân pháp vương biến chiêu cực nhanh, lão lật bàn tay, lại chộp lấy quả cầu. Tiểu Long Nữ hơi xoay cổ tay, quả cầu bật từ dưới lên trên, đánh vào huyệt Hợp Cốc ở hổ khẩu lão ta.

Kim Luân pháp vương lại lật bàn tay, lần này dùng hai ngón trỏ và giữa để kẹp lấy quả cầu. Tiểu Long Nữ nhìn rõ, hơi đẩy dải lụa ra, quả cầu đã đánh tới huyệt Khúc Trạch ở chỗ gập cánh tay của lão ta.

Mấy biến chiêu vừa xảy ra thực chỉ trong nháy mắt, Kim Luân pháp vương lật bàn tay hai lần, Tiểu Long Nữ thì xoay cổ tay ba lần, đôi bên đã trao đổi nhau năm chiêu. Dương Quá nhìn rất rõ, đếm to:

– Mộ hai, ba, bốn, năm.. năm chiêu rồi! Còn năm chiêu nữa!

Kim Luân pháp vương đòi Tiểu Long Nữ tiếp lão mười chiêu, tức là muốn Tiểu Long Nữ chống đỡ mười chiêu tấn công bằng kim luân của lão ta; Dương Quá lại khôn ngoan đem cộng mọi chiêu số mà đôi bên trao đổi với nhau lại. Kim Luân pháp vương là bậc tông sư võ học, không lẽ lại đi tranh cãi với một gã thiếu niên vô danh về cách đếm chiêu số. Lão bèn hơi lệch cánh tay trái, để quả cầu trượt qua rồi chĩa thẳng cái kim luân ra đằng trước. Tiểu Long Nữ chỉ nghe loong coong loạn xạ, kim quang loang loáng trước mặt; cái kim luân của đối phương đã công tới cách mặt hơn một thước.

Biến đổi này thật bất ngờ, đừng nói chống đỡ, ngay cả né tránh cũng chẳng kịp, trong cơn nguy cấp, nàng bèn xoay cổ tay, dải lụa lập tức vòng lại, quả cầu đánh thẳng vào huyệt Phong Trì ở sau ót Kim Luân pháp vương. Huyệt này là nơi yếu hại của cơ thể con người, dù võ công cao cường đến mấy, bị đánh trúng huyệt này cũng khó mà toàn mạng. Chẳng qua Tiểu Long Nữ không còn cách nào khác, mới đành dùng hiểm chiêu lưỡng bại câu thương này để buộc lão ta phải đưa cái kim luân về chống đỡ, giữ lấy mạng sống. Quả nhiên Kim Luân pháp vương không định liều chết với nàng, bèn cúi thấp đầu né tránh; chỉ cần một cái cúi đầu ấy, cái kim luân trong tay lão đánh ra đã hơi chậm lại, Tiểu Long Nữ thừa cơ thu hồi dải lụa, tiếng kính coong vang dồn, quả cầu đánh bật kim luân ra. Chỉ trong chớp mắt, Tiểu Long Nữ thoát chết, vội thi triển khinh công lùi ngay sang một bên, mặt lộ vẻ kinh hoàng.

Kim Luân pháp vương mới tiến công có một chiêu này, song Dương Quá đã kêu to:

– Sáu, bảy, tám, chín, mười.. hết rồi; sư phụ ta đã tiếp nổi lão mười chiêu, còn gì để nói nữa không?

Kim Luân pháp vương sau một hồi giao thủ, đã biết tiểu cô nương này võ công tuy cao, song còn thua xa lão, nếu chính thức tỷ thí, nội trong mười chiêu nhất định lão sẽ đánh bại nàng, chỉ tức nỗi Dương Quá cứ lải nhải luôn mồm ở bên ngoài, khiến cho lão tâm thần bất định, lão nghĩ thầm: "Mặc kệ tên nhãi đó mình cứ gấp tiến chiêu, đánh bại xong tiểu cô nương sẽ tính", thế là lại dùng kim luân tung ra một chiêu cực kỳ lợi hại.

Dương Quá kêu to:

– Không biết xấu! Nói mười chiêu, hết rồi lại đánh trộm, mười một, mười hai, mười ba, mười bốn chiêu..

Chàng bất kể đôi bên công thủ bao nhiêu chiêu số miệng cứ đếm liên tục. Tiểu Long Nữ tiếp xong chiêu thứ nhất, thì cả sợ, không dám chính diện tiếp chiêu thứ hai của đối phương, mà thi triển khinh công bay lượn qua lại trong sảnh, dải lụa phiêu động, quả cầu chuyển động vùn vụt, như tạo thành một vệt sương mù, một đạo hoàng quang. Quả cầu phát ra tiếng kính coong tinh tang, lúc nhanh lúc chậm, khi cao khi thấp, nghe như một khúc nhạc. Nguyên những lúc nhàn nhã trong tòa nhà mồ, Tiểu Long Nữ dựa vào bản cầm phổ do Lâm Triêu Anh để lại mà gảy đàn, nghe rất hay. Sau đó khi luyện dải lụa, thấy quả cầu phát ra âm thanh rất có tiết tấu, cũng là do tâm tính thiếu nữ, nàng bèn đem thứ nhạc ấy phổ vào võ công. Trình tự năm tháng trong trời đất, sự sinh trưởng của thảo mộc, cho đến hơi thở, mạch đập của cơ thể người, đều có tiết tấu nhất định, âm nhạc là dựa vào tiết tấu tự nhiên của trời đất và con người mà hình thành, nên tiếng nhạc dặt dìu thì nghe êm tai dễ chịu, âm thanh nhộn nhạo, pha tạp rối rắm thì nghe rất mệt. Võ công khi phù hợp với âm nhạc, sử ra sẽ nhịp nhàng, đắc tâm ứng thủ.

Khinh công phái Cổ Mộ là tuyệt kỹ trong võ lâm, không một môn phái nào theo kịp, ở chốn trống trải hoang dã, người ta khó thấy chỗ mạnh của nó, còn đem nó ra sử dụng ở trong sảnh đường này, đích thị là phiêu dật vô luân, biến ảo vạn phương. Nàng suốt đời luyện công trong thạch thất, bây giờ trong sảnh đường tiến thoái như thần. Kim Luân pháp vương võ công tuy cao hơn hẳn nàng, nhưng khinh công thì không sánh được, chỉ thấy nàng chạy, nhảy, luồn lách, quả cầu phát ra âm thanh nghe như một khúc nhạc, nghe một hồi thì Kim Luân pháp vương cũng rung lắc cái kim luân, thế là cả đại sảnh tràn ngập âm thanh, lúc cao lúc thấp, lên bổng xuống trầm, nghe cũng thú vị. Âm thanh của cái kim luân phát ra có lúc nghe như tiếng gõ sắt, tiếng giết heo, tiếng đánh chó vô cùng quái dị.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung ngồi xem, đều nhớ lại tình cảnh hồi nhỏ ở Đào Hoa đảo, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Hoàng Dược Sư ba người giao đấu dựa theo tiếng nhạc, tưởng như đã ở một kiếp khác. Hai người này võ công tuy kỳ diệu, nhưng nói về giao đấu dựa theo tiếng nhạc, thì còn thua xa ba vị Hồng, Hoàng, Âu Dương.

Lúc này, Dương Quá vẫn thao thao bất tuyệt đếm chiêu, đã tới số "một ngàn lẻ năm, một ngàn lẻ sáu, một ngàn lẻ bảy.." song Tiểu Long Nữ vẫn không chính diện động thủ với Kim Luân pháp vương, Kim Luân pháp vương thì tính ra chưa đủ mười chiêu. Quách Phù ngủ vùi trong lòng mẹ, bị tiếng kim luân chói tai đánh thức, lấy hai tay bịt tai, ngẩng đầu lên nhìn, mặt ngơ ngơ ngác ngác, không hiểu có chuyện gì.

Lúc này Kim Luân pháp vương đã vô cùng sốt ruột, nghĩ bụng với địa vị một đại tông sư mà cứ loay hoay mãi không hạ nổi một thiếu nữ, nếu kéo dài thêm, dù có chiến thắng cũng đã mất hết thể diện, bèn giơ ngang cánh tay trái, kim luân chênh chếch, tả chưởng từ phía dưới bên trái hất lên, kim luân từ phía trên bên phải dập xuống. Hai người giao đấu đã lâu, lộ khinh công của Tiểu Long Nữ đã bị Kim Luân pháp vương xác định năm phần, hai sát chiêu này của lão là nhằm chặn đứng đường tiến thoái của nàng, nàng muốn tránh thoát đàng trước, thì không tránh nổi phía sau. Trong cơn nguy cấp, Tiểu Long Nữ hất dải lụa, cuốn lên một dải hoa trắng, thân hình vọt lên trên cao. Kim Luân pháp vương dùng kim luân khóa giữ dải lụa lại.

Nếu là binh khí thông thường, đã bị kim luân của lão khóa giữ, thì lập tức tuột khỏi tay, để lão đoạt mất; nhưng dải lụa lại chẳng có chút gì cứng rắn, quá ư nhẹ nhàng tuột khỏi vòng kim luân. Kim Luân pháp vương quát:

– Mới qua chiêu thứ hai, giờ đến chiêu thứ ba!

Lão dấn lên một bước, cái kim luân đột nhiên rời khỏi tay lão, bay về phía Tiểu Long Nữ.

Tuyệt chiêu này thực ngoài dự liệu của mọi người. Cái kim luân bay thẳng tới trước mặt Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ cả kinh, rùn người xuống, lùi nhanh ra phía sau, chỉ nghe loong chong, một vệt hoàng quang vụt qua, cách mặt chừng một tấc, luồng gió làm rát cả da. Giữa tiếng kêu hốt hoảng của mọi người, Kim Luân pháp vương rướn người, vươn dài cánh tay, hất một cái vào mép cái kim luân, cái kim luân ấy như một vật sống, đột nhiên chuyển mình trong không trung, vòng trở lại đuổi theo Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ thấy cái kim luân chuyển động dị thường như thế, đâu dám dùng dải lụa cuốn lấy, đành thi triển khinh công tuyệt đỉnh tránh sang một bên. Kim Luân pháp vương hai đòn không đánh trúng, kêu lên:

– Khinh công giỏi!

Đột nhiên dùng tả quyền đẩy một cái vào mép cái kim luân, đồng thời song chưởng cùng đẩy về phía trước mặt Tiểu Long Nữ, trong khi cái kim luân bay vòng lại tấn công sau gáy nàng. Cái kim luân bay tới không thật nhanh, nhưng kim luân chưa tới, gió đã ập đến, hiểm ác cùng cực. Kim Luân pháp vương khi đẩy một quyền vào cạnh cái kim luân, đã tiên liệu phương vị mà đối phương né tránh, cho nên cái kim luân cứ y như có mắt, bay một nửa vòng thì quay lại đánh vào gáy nàng.

Tiểu Long Nữ vừa rồi một nhảy lên, một lạng người sang bên, đã thi triển hết sở học bình sinh, lại thấy song chưởng của lão Tạng tăng ập tới trước mặt. Quần hùng tai bùng nhùng, mắt hoa lên, ai cũng kinh hồn.

Dương Quá thấy Tiểu Long Nữ bị nguy cấp, lo sợ cho nàng, thuận tay nhặt luôn cây kim cương chử mà Đạt Nhĩ Ba ném dưới đất, hai tay giơ cây chử lên hất cái kim luân đi; nghe choang một tiếng lớn, cây chử lọt ngay vào trong vòng kim luân, có điều là lực đạo của kim luân quá mạnh, làm chấn rách hổ khẩu cả hai tay chàng, máu tươi tức thì trào ra, chàng ngã huỵch xuống đất, lôi theo cây chử và kim luân. Tiểu Long Nữ thấy kim luân đã rơi xuống đất, nguy hiểm phía sau không còn, nhưng thân hình nàng đang lơ lửng trên không, làm sao tránh nổi đại địch trước mặt? Tình cấp trí sinh, dải lụa tung ra cuốn lấy cây cột phía tây, nàng kéo tay một cái, thân hình giữa không trung đã có chỗ mượn lực, liền bay chếch đi, nhẹ nhàng đáp xuống đất, rồi luồn ngay ra sau cây cột tránh được chưởng lực khủng khiếp của Kim Luân pháp vương.

Kim Luân pháp vương rõ ràng thấy mình đắc thủ, không ngờ bị Dương Quá ngăn cản giữa chừng, chẳng những đối phương thoát được, ngay cả thứ binh khí tung hoành vô địch của lão cũng bị kéo rơi xuống đất, thật là thất bại chưa từng có trong đời. Lão ta vốn khôn ngoan sáng suốt, lúc này tự dưng không còn biết gì hết, không đợi Dương Quá bò dậy, vung ngay chưởng đánh chàng. Về lý mà nói, lão là tông sư một phái, đối phương vừa là hậu bối, lại đã ngã chưa kịp đứng dậy, lão đánh như thế thật không xứng chút nào với thân phận và lòng tự phụ vốn có của lão, nhưng trong cơn thịnh nộ, lão đã bất chấp tất cả.

Quách Tĩnh thấy lão ta hầm hầm nhìn Dương Quá, cái vai hơi động, cánh tay hơi co, biết ngay là lão ta sắp hạ độc thủ, nghĩ thầm: "Nguy mất nếu mình sấn tới dù có ngăn lại, Dương Quá cũng không khỏi bị thương" thế là cũng không kịp nghĩ thêm, sử luôn chiêu "Phi long tại thiên", bay vọt trên không, nhắm đỉnh đầu lão ta mà đánh xuống. Kim Luân pháp vương nếu không thu chưởng lại, tuy sẽ đánh chết Dương Quá, song chính lão cũng sẽ mất mạng bởi một chưởng trong "Hàng long thập bát chưởng" vô cùng lợi hại, thế là lão đành chuyển gấp chưởng về, "bùng" một tiếng, đối chưởng với Quách Tĩnh.

Hai vị đại sư võ học đương đại đối chưởng với nhau lần thứ hai. Quách Tĩnh lơ lửng trên không, không có chỗ mượn lực, thuận chưởng thế của đối phương mà lộn nửa vòng, đáp xuống phía sau. Kim Luân pháp vương đứng vững tại chỗ, người không lảo đảo chân không xê dịch, tựa hồ chẳng có gì xảy ra.

Những người biết võ công của Quách Tĩnh, như Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị, Điểm Thương Ngư Ẩn thấy thế đều không khỏi kinh hãi, công phu của lão Tạng tăng thật cao thâm khôn lường. Kỳ thực Quách Tĩnh lùi về phía sau, đã tự dưng hóa giải được chưởng lực của kẻ địch, là chính đạo vô học. Kim Luân pháp vương bị Dương Quá ngăn chặn, cảm thấy mất thể diện, muốn cứu vãn thể diện bằng cách tiếp chưởng của Quách Tĩnh, đã đại hao chân khí nội lực, tuy chiếm thượng phong, song bên trong thiệt to. Cả hai đều là hùng kiệt đương đại, trong vài chục chiêu khó phân thắng bại, Kim Luân pháp vương miễn cưỡng cố chiếm ưu thế trong một chiêu, ngực lại bị đau tức; may mà đối phương chỉ cốt cứu người, không tiếp tục tiến chiêu, nên lão có dịp mím môi, ngầm vận nội lực khai thông trệ khí trong ngực.

Dương Quá thoát chết, đứng lên, chạy tới bên Tiểu Long Nữ, Tiểu Long Nữ cũng đang bước lại xem chàng thế nào, cả hai cùng hỏi:

– Có sao không?

Hai người cùng gật đầu, cùng mỉm cười, nắm tay nhau vui sướng.

Dương Quá nhặt cây kim cương chử và cái kim luân lên, giơ cây chử quay quay cái kim luân như làm trò ảo thuật, cao giọng nói:

– Các võ sĩ Mông Cổ nghe đây, binh khí của lão đại quốc sư các ngươi đã bị ta đoạt mất, còn đòi làm minh chủ võ lâm cái cóc gì nữa, bảo lão ta mau xéo về với mụ bà bà Mông Cổ của lão đi!

Các võ sĩ Mông Cổ không phục, thấy Kim Luân pháp vương tỷ thí với Tiểu Long Nữ đã thắng rõ rồi, đối phương có Dương Quá nhảy ra chưa đủ, lại thêm Quách Tĩnh xông tới, bèn nhao nhao nói:

– Các người lấy ba địch một, không biết xấu hay sao?

– Kim Luân pháp vương tự quẳng cái kim luân đi, chứ nhà ngươi mà đòi đoạt được?

– Một chọi một thôi, người khác không được xen vào?

– Đúng đấy, đấu lại đi!

Họ nhao nhao lên, nhưng nói bằng tiếng Mông Cổ, trừ Quách Tĩnh ra, quần hùng Trung Nguyên chẳng ai hiểu họ nói gì.

Những người hiểu lý lẽ trong số quần hùng Trung Nguyên cũng biết rằng nói về võ công, Kim Luân pháp vương cao hơn Tiểu Long Nữ, song danh hiệu minh chủ võ lâm không thể để rơi vào tay một tên quốc sư Mông Cổ, nếu không võ lâm Trung Nguyên chẳng còn thể diện đã đành, mà mất cả nhuệ khí chống địch sau này. Những người trẻ tuổi thấy bọn võ sĩ Mông Cổ nhao nhao gì đó, thì cũng chửi mắng chúng ầm ĩ, đôi bên rút binh khí, sẵn sàng quần ẩu. Dương Quá giơ cao cái kim luân, nói với Kim Luân pháp vương:

– Còn chưa nhận thua hay sao? Lão đã đánh mất binh khí, còn thể diện gì nữa? Trên thế gian có vị minh chủ võ lâm nào để cho đối phương đoạt mất vũ khí hay không hả?

Kim Luân pháp vương đang ngầm vận nội lực, lời của Dương Quá lão ta nghe rõ mồn một, nhưng không dám mở miệng trả lời. Dương Quá nhìn lão đoán ngay ra ba phần, liền nói lớn:

– Các vị anh hùng nghe đây, tôi hỏi ba tiếng nữa, nếu lão ta không đáp, tức là đã nhận thua.

Chàng sợ kéo dài thời gian, Kim Luân pháp vương sẽ vận khí xong mất, liền hỏi một mạch:

– Lão nhận thua rồi phải không? Chức minh chủ võ lâm, lão không dám mơ đến nữa chứ gì? Lão im lặng không trả lời, tức là đã nhận thua phải không?

Kim Luân pháp vương chính vừa loại trừ được trệ khí, ngực không còn đau tức, định mở miệng trả lời, thì Dương Quá đã nói luôn:

– Thôi được, lão đã nhận thua, thì mọi người bên ta cũng không gây khó dễ cho lão, lão hãy đem cả bọn lui về đi.

Rồi chàng giao cái kim luân cho Quách Tĩnh. Chàng vốn định đưa cho sư phụ, nhưng sợ Kim Luân pháp vương nổi giận xông tới đoạt lại, Tiểu Long Nữ sẽ không địch nổi.

Kim Luân pháp vương giận tím mặt, nhưng sợ Quách Tĩnh võ công cao cường, cái kim luân đã rơi vào tay chàng, lão tay không xông tới khó lòng đoạt lại, nhìn các võ sĩ Trung Nguyên người đông thế mạnh, nếu là quần ẩu, phe của lão chắc chắn thảm bại. Người khôn ngoan biết nhịn nhục trước mắt, phục hận sau này, thế là lão nói to:

– Bọn Trung Nguyên ngụy kế đa đoan, cậy đông lấn lướt, không phải là anh hùng hảo hán, mọi người hãy theo ta về thôi.

Lão phẩy tay một cái, đám võ sĩ Mông Cổ cùng rút ra khỏi đại sảnh. Lão từ xa thi lễ với Quách Tĩnh, nói:

– Quách đại hiệp, Hoàng bang chủ, hôm nay lĩnh giáo cao chiêu. Non xanh không đổi, nước biếc chảy hoài, nhất định sẽ còn gặp lại.

Quách Tĩnh cúi mình đáp lễ, nói:

– Đại sư võ công tinh thâm, tại hạ hết sức thán phục. Binh khí của quí vị sư đồ, hãy nhận lại cho.

Nói xong định đưa trả cái kim luân và cây kim cương chử. Dương Quá nói to:

– Kim Luân pháp vương, lão giơ tay nhận lại mà không biết ngượng hay sao?

Quách Tĩnh quát:

– Quá nhi, đừng nói bậy.

Kim Luân pháp vương đã phất tay áo, quay người đi ra khỏi đại sảnh, không buồn ngoảnh đầu lại.

Dương Quá sực nhớ một việc, gọi giật giọng:

– Này, đệ tử Hoắc Đô của lão trúng ám khí có độc của ta, mau đưa thuốc giải đổi lấy giải dược của ta.

Kim Luân pháp vương tự phụ huyền công thông thần, hiểu sâu y lý, chất độc nào lão cũng chữa trị được, căm tức Dương Quá giảo hoạt vô lễ, nên chẳng thèm lý đến lời chàng, bỏ đi thẳng.

Hoàng Dung nhìn Chu Tử Liễu đang nhắm mắt ngủ say, nghĩ thầm quần hùng tề tựu ở đây chẳng thiếu gì danh gia sử dụng ám khí có chất độc, sẽ có người chữa trị được cho Chu Tử Liễu, nên việc Kim Luân pháp vương không chịu trao đổi thuốc giải, cũng chẳng đáng lo.

Lúc này khắp Lục gia trang người người reo hò, khen ngợi Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã chiến thắng Kim Luân pháp vương. Hàng mấy trăm người vây quanh hai người, râm ran bàn luận. Người thì bảo Dương Quá đánh bại Hoắc Đô là đã lấy "Gậy ông đập lưng ông". Người thì ca ngợi khinh công tuyệt luân của Tiểu Long Nữ trong việc tránh né đòn phi kích của cái kim luân lợi hại. Còn về việc Dương Quá sử dụng "Di hồn đại pháp" làm cho Đạt Nhĩ Ba tự đánh hắn đến ngất xỉu, thì mười người có đến tám chín người không hiểu. Có người hỏi, Dương Quá chỉ nói nhăng nói cuội vài câu.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 14: Lễ Giáo Cản Ngại

Lập tức Lục gia trang dọn dẹp đại sảnh, bày lại bàn tiệc. Dương Quá cả đời bị bao nhiêu ủy khuất; bị vô số khinh khi vũ nhục hôm nay mới được mở mày mở mặt, đã lập đại công cho võ lâm Trung Nguyên, ai ai cũng muốn được ngắm chàng, chàng vô cùng đắc ý.

Tiểu Long Nữ không am hiểu thế sự, thấy Dương Quá hoan hoan hỉ hỉ, nàng không rõ nguyên do, song cũng rất cao hứng. Hoàng Dung rất mến nàng, cầm tay nàng hỏi han điều này điều nọ, muốn nàng ngồi cùng bàn tiệc với mình. Tiểu Long Nữ thấy Dương Quá ngồi giữa Quách Tĩnh với Điểm Thương Ngư Ẩn, cách xa chỗ nàng, bèn vẫy tay gọi:

– Quá nhi, lại đây ngồi bên ta.

Dương Quá biết là nam nữ thụ thụ bất thân, lúc mới gặp nhất thời quên mất, đã biểu lộ chân tình, còn bây giờ trước con mắt chăm chú của bao nhiêu người, chàng không thể tỏ ra thân mật với nàng như ban nãy, cho nên nghe nàng gọi như vậy, chàng bất giác đỏ mặt, mỉm cười, song vẫn ngồi im.

Tiểu Long Nữ lại gọi:

– Quá nhi, sao không sang bên này?

Dương Quá nói:

– Tại hạ ngồi đây được rồi, Quách bá bá muốn nói chuyện với tại hạ.

Tiểu Long Nữ hơi cau mày, nói:

– Ta muốn ngươi ngồi bên cạnh ta cơ.

Dương Quá thấy thần tình hơi giận dỗi của nàng, thì dầu có tan xương nát thịt cũng chẳng dám trái ý nàng; nhớ hôm nào Lục Vô Song giận dỗi chỉ hơi giống Tiểu Long Nữ, mà chàng đã sẵn sàng thân chinh đưa nàng ta vượt ngàn dặm về phương nam, nữa là bây giờ chính người thật ngồi kia. Thế là chàng liền đứng dậy, đi tới ngồi trước mặt nàng.

Hoàng Dung thấy thần tình của hai người, thì trong bụng hơi nghi ngờ, hỏi Dương Quá:

– Quá nhi, võ công của ngươi là học được ở ai vậy?

Dương Quá chỉ Tiểu Long Nữ, nói:

– Đây là sư phụ của điệt nhi. Quách bá mẫu vẫn không tin hay sao?

Hoàng Dung vốn biết Dương Quá giảo hoạt, nhưng thấy Tiểu Long Nữ hồn nhiên thật thà, chắc nàng ta không nói dối, bèn quay đầu, hỏi nàng:

– Muội muội, võ công của Quá nhi là do muội dạy phải không?

Tiểu đong Nữ đắc ý, nói:

– Vâng, tỷ tỷ bảo muội dạy Quá nhi như thế có được không?

Hoàng Dung mới tin, nói:

– Được lắm! Muội muội, thế sư phụ của muội là ai?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ của muội đã chết rồi.

Nói rồi nước mắt rưng rưng, lòng xúc động. Sư phụ của nàng vốn dạy nàng không được khơi động thất tình lục dục, vậy mà tình ái sâu lắng đối với Dương Quá cứ không ngừng lộ ra.

Hoàng Dung lại hỏi:

– Xin hỏi quý tính đại danh của tôn sư.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Muội không biết, sư phụ là sư phụ mà.

Hoàng Dung nghĩ Tiểu Long Nữ không chịu nói, trong võ lâm người ta không cho biết sự thật về sư môn cũng là chuyển thường, nên không hỏi thêm. Kỳ thực sư phụ của Tiểu Long Nữ là a hoàn của Lâm Triêu Anh, chỉ gọi tên, chứ nàng cũng không biết họ là gì.

Lúc này các lộ quần hào võ lâm lần lượt tới chúc rượu Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ và Dương Quá bốn người, chúc mừng họ đã cùng nhau đánh bại cường địch là Kim Luân pháp vương. Quách Phù ở bên cha mẹ, vốn luôn được mọi người tôn trọng, lúc này xem ra mờ nhạt hẳn, trừ huynh đệ họ Võ vẫn ân cần săn đón, còn thì chẳng ai hỏi đến. Nàng buồn phiền, nói:

– Đại Võ ca ca, Tiểu Võ ca ca, chúng mình không uống rượu nữa, ra ngoài kia chơi đi.

Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn cùng đáp ứng. Cả ba đứng dậy, định ra khỏi sảnh, thì bỗng nghe Quách Tĩnh gọi:

– Phù nhi, lại đây nào.

Quách Phù thấy phụ thân đã chuyển sang ngồi cùng bàn tiệc với mẫu thân, mỉm cười, vẫy tay gọi nàng lại gần, nàng bèn tới cạnh, tựa người vào bên mẫu thân. Quách Tĩnh nói với Hoàng Dung:

– Nàng thoạt đầu cứ lo Quá nhi nhân phẩm bất chính, võ công non kém, khó sánh kịp Phù nhi. Bây giờ thì nàng không còn gì để chê nữa phải không? Quá nhi đã lập đại công đối với anh hùng Trung Nguyên, chẳng những không có sai phạm gì, mà dù có sai phạm, thì cũng không đáng kể so với công lao.

Hoàng Dung gật đầu, cười, nói:

– Hồi trước thiếp để mắt đi đâu không biết, Quá nhi cả nhân phẩm lẫn võ công đều tốt, thiếp rất mừng.

Quách Tĩnh thấy thê tử đã đáp ứng hôn sự của con gái, thì cả mừng, nói với Tiểu Long Nữ:

– Long cô nương, phụ thân quá cố của lệnh đồ ngày trước có kết nghĩa huynh đệ với tại hạ. Dương, Quách hai họ nhiều đời giao hảo, tại hạ có một đứa con gái, dung mạo và võ công đều rất khá..

Quách Tĩnh bộc trực, nghĩ sao nói vậy. Hoàng Dung cười, ngắt lời:

– Ô hay, sao chàng lại tự khoe khoang nữ nhi mình như thế, không sợ Long gia muội tử cười cho à?

Quách Tĩnh cười hà hà, tiếp lời:

– Ý của tại hạ là muốn gả con gái cho Quá nhi. Phụ mẫu của Quá nhi đều đã qua đời, việc hôn sự xin nhờ Long cô nương chủ trì cho. Nhân dịp hôm nay quần hiền tề tựu, có thêm điều vui, chúng ta hãy mời hai vị anh hùng tuổi cao đức lớn làm mối đính hôn luôn có được chăng?

Thời ấy việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ định liệu, người làm mối tuyên ngôn, bản thân nam nữ không được làm theo ý mình. Trước kia phụ thân của Quách Tĩnh là Quách Khiếu Thiên và tổ phụ của Dương Quá là Dương Thiết Tâm đã định hôn ước từ khi thê tử của hai người mới có thai.

Quách Tĩnh vừa nói vừa cười hì hì, nhìn Dương Quá và Quách Phù. Tường rằng Tiểu Long Nữ sẽ hoàn tất mỹ sự. Quách Phù thì mặt đỏ bừng, giấu mặt vào vai mẫu thân, cảm thấy không ổn, nhưng không dám nói gì cả.

Tiểu Long Nữ hơi biến sắc, chưa kịp trả lời, thì Dương Quá đã đứng lên, vái Quách Tĩnh và Hoàng Dung một cái thật dài, nói:

– Đại ân dưỡng dục, tình thương mến của Quách bá bá và Quách bá mẫu, điệt nhi nát thân cũng khó báo đáp. Nhưng điệt nhi gia thế hàn vi, nhân phẩm thấp kém, muôn phần không xứng với thiên kim tiểu thư của Quách bá bá và Quách bá mẫu.

Quách Tĩnh cứ tưởng vợ chồng mình nổi danh khắp thiên hạ, con gái mình phẩm hạnh và võ công đều là nhân tài hạng nhất, giờ chàng đích thân gả con cho Dương Quá, chắc Dương Quá sẽ vô cùng hoan hỉ mới phải, đằng này lại cự tuyệt, thì ngẩn ra, nhưng lại nghĩ chắc Dương Quá còn ít tuổi, bẽn lẽn ngượng ngùng, liền cười ha hả, nói:

- Quá nhi, chúng ta không phải người ngoài, chung thân đại sự này không cần phải xấu hổ.

Dương Quá lại vái dài, rồi nói:

– Quách bá bá, bá bá có gì sai khiến, điệt nhi dẫu phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, cũng không dám từ nan. Nhưng còn việc hôn nhân, điệt nhi quả thật không thể vâng mệnh.

Quách Tĩnh thấy vẻ mặt Dương Quá trịnh trọng, thì rất đỗi kinh ngạc, nhìn thê tử, mong nàng nói rõ. Hoàng Dung thầm trách phu quân trực tính, chưa thăm dò xem sao, đã nói thẳng trước mặt mọi người giữa bàn tiệc, nên vấp ngay phải sự cự tuyệt, thấy thần tình giữa Dương Quá với Tiểu Long Nữ đầy vẻ luyến ái, song rõ ràng hai người ấy tự nhận là sư đồ, không lẽ họ lại dám làm cái việc trái luân thường hay sao? Việc này thật là khó nói, nghĩ thầm Dương Quá tuy chưa hẳn đã là chính nhân quân tử, song cũng không dám làm bậy đến như vậy. Người đời Tống trọng nhất lễ giáo, tôn ti luân thường giữa sư đồ được coi trọng không khác gì quan hệ quân thần, phụ tử nhất quyết không được nghịch loạn. Hoàng Dung tuy có nghi ngờ, nhưng việc này quá lớn, nhất thời chưa dám tin, bèn hỏi Dương Quá:

– Quá nhi, Long cô nương đúng là sư phụ của ngươi chứ?

Dương Quá đáp:

– Thưa, đúng ạ!

Hoàng Dung lại hỏi:

– Ngươi đã khấu đầu, hành đại lễ bái sư chứ?

Dương Quá đáp:

– Thưa, vâng ạ!

Chàng miệng trả lời Hoàng Dung, nhưng mắt thì nhìn Tiểu Long Nữ, ánh mắt dịu dàng đắm đuối, thâm liên mật ái, đừng nói Hoàng Dung quá đủ thông minh, ngay bất cứ ai nhìn vào cũng biết ngay hai người không chỉ có tình sư đồ mà thôi.

Quách Tĩnh chưa rõ dụng ý của thê tử, nghĩ thầm: "Quá nhi đã nói ngay nó là đệ tử của Long cô nương, võ công của hai người quả nhiên nhất lộ đồng phái, đâu phải là giả mà còn hỏi? Mình nhắc đến chuyện hôn nhân với Phù nhi, sao nàng lại hỏi nó về môn phái sư thừa? Hừ, thoạt tiên nó theo phái Toàn Chân, sau đi theo sư phụ khác, tuy không phù hợp qui củ võ lâm, song chuyện ấy hóa giải cũng không khó".

Hoàng Dung thấy thần sắc của Dương Quá với Tiểu Long Nữ, thì ngầm kinh ngạc, nháy mắt với phu quân, nói:

– Phù nhi còn ít tuổi, chuyện hôn nhân chưa cần vội. Hôm nay quần hùng tề tựu, còn phải thương nghị đại kế quốc gia. Chuyện riêng của nữ nhi, chúng ta hãy tạm gác một bên.

Quách Tĩnh nghĩ đúng vậy, bèn nói:

– Phải, phải lắm! Ta chút nữa thì lo chuyện riêng, quên việc chung. Long cô nương, việc hôn nhân của Quá nhi với tiểu nữ, chúng ta để sau hãy bàn vậy.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Muội tự mình muốn làm thê tử của Quá nhi, Quá nhi sẽ không lấy nữ nhi của huynh đâu.

Câu này nói rất rành rọt, mấy trăm người trong đại sảnh đều nghe rõ. Quách Tĩnh sửng sốt, đứng bật dậy, không tin vào tai mình nữa, nhưng thấy Tiểu Long Nữ nắm tay Dương Quá, thần tình thân mật, thì không thể không tin, ấp úng nói:

– Hắn.. hắn là đồ.. nhi của cô nương kia mà, chẳng lẽ không phải vậy sao?

Tiểu Long Nữ bao nhiêu năm sống trong hầm mộ, không có ánh mặt trời, mặt trắng nhợt như không hạt máu, nhưng lúc này trong lòng sung sướng, má hơi ửng hồng, trông tươi như đóa hoa chớm nở, mỉm cười, nói:

– Đúng vậy, trước đây muội có dạy võ công cho Quá nhi, nhưng hiện nay võ công của Quá nhi đã ngang với muội rồi. Quá nhi thích muội, muội cũng rất thích Quá nhi. Dạo trước..

Nói đến đây, giọng nàng thấp xuống, tuy hồn nhiên chất phác, nhưng cái ngượng ngùng của nữ nhi là đặc tính bẩm sinh, nàng thong thả nói tiếp:

– Dạo trước.. muội cứ tưởng Quá nhi không thích muội, không muốn muội làm thê tử của chàng, muội.. muội đau lòng quá chừng, đã định chết quách cho xong. Đến hôm nay muội mới biết Quá nhi thật lòng luyến ái muội, muội.. muội..

Sảnh đường mấy trăm con người im lặng như tờ, lặng nghe nàng thổ lộ tâm sự. Thường thì một thiếu nữ dẫu trong lòng tràn đầy nhiệt ái, cũng không khi nào thổ lộ trước Quách Tĩnh là người không liên can, và trước cả công chúng như vậy. Nhưng vì nàng không biết chút gì về nhân tình lễ giáo, nàng chỉ thấy cần nói ra điều đó, liền nói ngay ra.

Dương Quá nghe nàng thổ lộ chân tình, thì vô cùng cảm động, song nhìn vẻ mặt kinh dị của hết thảy mọi người xung quanh, thấy họ vừa ngượng ngùng, vừa chê trách, thì chàng biết là Tiểu Long Nữ quá ngây thơ về thế sự, lẽ ra không nên nói ra điều đó ở đây bèn kéo nàng đứng dậy, dịu dàng nói:

– Cô cô chúng mình đi thôi!

Tiểu Long Nữ nói:

– Được!

Hai người sánh vai nhau đi ra cửa đại sảnh. Lúc này quần hùng tề tựu trong đại sảnh rất đông, nhưng dưới con mắt của Tiểu Long Nữ, thì chỉ có một mình Dương Quá mà thôi.

Quách Tĩnh và Hoàng Dung kinh ngạc nhìn nhau, trong đời hai vợ chồng từng gặp muôn ngàn chuyện quái dị, khó hiểu; nhưng sự việc trước mắt thì không tài nào tưởng tượng nổi, nhất thời chưa biết đối phó thế nào.

Tiểu Long Nữ và Dương Quá sắp bước ra khỏi cửa, thì Hoàng Dung gọi:

– Long cô nương, cô nương là minh chủ võ lâm, ai nấy trông chờ, hi vọng ở cô nương, mong cô nương hãy suy nghĩ cho kỹ.

Tiểu Long Nữ ngoảnh đầu lại, cười hồn nhiên, nói:

– Muội không làm nổi minh chủ minh tớ gì đâu, nếu tỷ tỷ thích, thì tỷ tỷ làm thay cho muội đi.

Hoàng Dung nói:

– Không, nếu cô nương quả thật muốn nhường, thì hãy nhường lại cho vị anh hùng tiền bối Hồng lão bang chủ.

Minh chủ võ lâm là danh vị tôn vinh nhất của các bậc võ học, Tiểu Long Nữ chẳng để tâm chút nào, chỉ cười, nói:

– Việc đó cứ tùy ý tỷ tỷ, muội không biết gì đâu.

Rồi nàng kéo tay Dương Quá bước ra. Bỗng nhiên tay áo quạt gió, nến hồng lay lắt chực tắt, một người từ trong sảnh nhảy ra, thân mặc đạo bào, tay cầm trường kiếm, chính là đạo sĩ phái Toàn Chân Triệu Chí Kính. Y giơ kiếm chắn ngang cửa sảnh, quát to:

– Dương Quá, ngươi khi sư diệt tổ, đã không biết xấu hôm nay còn giở trò cầm thú, làm sao có thể đứng giữa trời đất? Triệu mỗ dẫu còn một hơi thở, cũng không dung tha cho ngươi.

Dương Quá không muốn dây dưa với Triệu Chí Kính trước mặt mọi người, chỉ gằn giọng quát:

– Tránh ra!

Triệu Chí Kính nói to:

– Doãn sư đệ, mau tới đây, sư đệ hãy nói đi, đêm nào trên núi Chung Nam, chúng ta từng chính mắt nhìn thấy hai người này thân thể lõa lồ, đang làm trò gì nào?

Doãn Chí Bình run rẩy đứng dậy, giơ tay trái lên.

Mọi người thấy ngón tay út và ngón vô danh bị cụt một nửa, tuy không hiểu hàm ý, nhưng nhìn y run rẩy, sắc diện kỳ dị, thì đoán là bên trong có chuyện mờ ám.

Dương Quá đêm ấy cùng Tiểu Long Nữ luyện "Ngọc nữ tâm kinh" bên bụi hoa, bị Triệu, Doãn hai gã bắt gặp, Dương Quá đã buộc Triệu Chí Kính phải thề không được nói với người thứ năm, không ngờ hôm nay y lại đem ra nói trước đông đảo quần hào, thì cả giận, quát:

– Ngươi đã thề không nói với người thứ năm, tại sao lại.. lại đi..

Triệu Chí Kính cười hô hố, nói to:

– Đúng, ta đã thề không nói với người thứ năm, nhưng ở đây có người thứ sáu, người thứ bảy, người thứ một trăm một ngàn, chứ đâu phải là người thứ năm. Hai đứa ngươi làm trò khỉ, ta cứ nói ra đấy.

Triệu Chí Kính nửa đêm nhìn thấy hai người ở bên bụi hoa, áo quần xộc xệch, làm sao nghĩ hai người đang tu tập võ công thượng thừa? Lúc này giận dữ đem nói toạc ra, kể cũng không phải là cố y vu hãm.

Tiểu Long Nữ đêm ấy bị thổ huyết, suýt nữa mất mạng, bây giờ nghe y lu loa, thì không nhịn được nữa, bèn giơ tay đẩy nhẹ vào ngực y, nói:

– Ngươi nói láo như thế đủ rồi.

"Ngọc nữ tâm kinh" nàng đã luyện thành từ sớm, một chưởng này vô ảnh vô tung, "Ngọc nữ tâm kinh" lại là khắc tinh của võ công phái Toàn Chân. Triệu Chí Kính vội giơ tay gạt ra, không ngờ bàn tay của Tiểu Long Nữ đã vòng qua tay y, đẩy ngay vào ngực.

Triệu Chí Kính gạt sểnh cả kinh, bàn tay của đối phương đã đẩy nhẹ vào ngực, hầu như không có cảm giác gì, thì y chẳng để tâm, cười gằn, nói:

– Nàng sờ mó ta làm chi? Ta chẳng..

Lời chưa dứt, hai mắt đã trợn ngược, huỵch một cái, y đã ngã ngửa, bị nội thương rất nặng.

Tôn Bất Nhị và Hách Đại Thông thấy sư điệt bị thương, vội chạy ra đỡ dậy, chỉ thấy máu dồn lên mặt y đỏ bừng như kẻ say rượu. Tôn Bất Nhị cười khẩy, nói:

– Nhãi con, phái Cổ Mộ các ngươi đúng là đối nghịch với phái Toàn Chân của ta.

Đoạn rút trường kiếm định động thủ với Tiểu Long Nữ.

Quách Tĩnh vội từ bàn tiệc lao ra, đứng giữa hai người, khuyên:

– Chúng ta là người mình cả, không nên tương tranh.

Quay sang nói với Dương Quá:

– Quá nhi, đôi bên đều là sư tôn của ngươi. Ngươi hãy khuyên mọi người trở lại bàn, thong thả phân biện phải trái cũng không muộn.

Tiểu Long Nữ không thể ngờ trên thế gian lại có kẻ nói rồi trở mặt bội tín, trong lòng quá ư chán ngán, bèn nắm tay Dương Quá, cau mày, nói:

– Quá nhi, chúng mình đi thôi, vĩnh viễn không nhìn mặt bọn kia nữa!

Dương Quá đi theo nàng.

Tôn Bất Nhị vung kiếm, quát:

– Đả thương người rồi bỏ đi ư?

Quách Tĩnh thấy đôi bên lại định tranh chấp hơn thua, bèn nghiêm mặt, nói:

– Quá nhi, ngươi hãy tỏ ra vững vàng, làm người tử tế, đừng gây chuyện để thân bại danh liệt. Tên của ngươi là do ta đặt, ngươi có biết chữ "Quá" có hàm ý gì hay không?

Dương Quá nghe vậy giật mình, đột nhiên nhớ bao chuyện thời thơ ấu, bao điều sỉ nhục đau lòng, lại nghĩ thầm: "Sao tên mình lại do Quách bá bá đặt nhỉ?"

Quách Tĩnh hết mực thương yêu Dương Quá, thấy hôm nay trước mặt quần hùng chàng đã lập đại công, đang vô cùng hãnh diện, thì đột nhiên phát hiện chàng lại làm một việc muôn phần không nên làm, nên ra giọng nói hết sức nghiêm nghị:

– Mẫu thân quá cố của ngươi chắc cũng đã nói cho ngươi biết, chữ "Quá" trong tên của ngươi có hàm ý gì chứ?

Dương Quá nhớ mẫu thân từng nói với chàng, nhưng bấy giờ chàng còn quá nhỏ, cũng không có ai dùng tên chữ để gọi chàng, nên hầu như chàng đã quên, bèn đáp:

– Hàm ý "sửa đi".

Quách Tĩnh nói:

– Đúng thế, vậy nghĩa là gì?

Dương Quá nghĩ một chút, nhớ đến kinh thư mà Hoàng Dung đã dạy qua, bèn nói:

– Nghĩa là Quách bá bá bảo điệt nhi có lầm lỗi thì phải hối cải.

Giọng nói của Quách Tĩnh đã dịu lại:

– Quá nhi, người ta ai cũng có thể lầm lỗi, lầm lỗi rồi mà biết hối cải, thì không gì tốt hơn, đấy là lời thánh hiền đã dạy đó. Ngươi bất kính đối với sư tôn, là lầm lỗi lớn, ngươi hãy suy nghĩ một chút xem.

Dương Quá nói:

– Nếu điệt nhi lầm lỗi, dĩ nhiên phải hối cải, nhưng hắn ta..

Chàng chỉ Triệu Chí Kính, nói tiếp:

– Hắn ta đánh đập điệt nhi, vũ nhục, lừa dối, căm ghét điệt nhi, làm sao điệt nhi có thể nhận hắn ta làm sư phụ? Điệt nhi và Long cô cô hoàn toàn thanh bạch, có trời đất chứng giám. Điệt nhi kính ái Long cô cô, không lẽ như thế là sai hay sao?

Chàng nói, lời lẽ hùng hồn, có lý. Quách Tĩnh cơ trí, tài nói năng đều thua xa, nói sao cho lại, chỉ biết hành vi của Dượng Quá là lầm lỗi rất lớn, song không biết diễn giải thế nào mới phải, cứ ngắc ngứ:

– Chuyện ấy.. chuyện ấy.. ngươi không đúng..

Hoàng Dung thong thả lại gần, dịu giọng nói:

– Quá nhi, Quách bá bá chỉ mong điều tốt cho ngươi, ngươi nên nhớ kỹ.

Dương Quá nghe giọng nói dịu dàng ấm áp của Hoàng Dung, xúc động, cũng dịu giọng:

– Quách bá bá luôn đối tốt với điệt nhi, điệt nhi biết lắm chứ.

Nước mắt lưng tròng, chút nữa thì trào ra.

Hoàng Dung nói:

– Quách bá bá thật tình khuyên ngươi, ngươi chớ hiểu sai ý của Quách bá bá.

Dương Quá nói:

– Điệt nhi chỉ không hiểu, rốt cuộc thì điệt nhi đã phạm lỗi lầm gì?

Hoàng Dung cau mặt, nói:

– Ngươi quả thật không hiểu, hay là còn vờ vịt với chúng ta?

Dương Quá tức giận nghĩ thầm: "Các vị tử tế đối với ta, ta cũng báo đáp tử tế, vậy còn muốn gì nữa chứ?" Chàng cắn môi không đáp. Hoàng Dung nói:

– Được, ngươi đã muốn ta nói thẳng, thì ta cũng không vòng vo nữa. Long cô cô đã là sư phụ của ngươi, tức là bậc tôn trưởng của ngươi, thì không được phép có chuyện tư tình nam nữ.

Qui củ này, Dương Quá không phải là hoàn toàn không hay biết như Tiểu Long Nữ, song chàng chưa phục, tại sao chỉ vì cô cô từng dạy võ cho chàng, mà nàng không thể trở thành thê tử của chàng kia chứ? Tại sao chàng không hề có hành vi bất chính với cô cô mà Quách bá bá cũng không chịu tin? Nghĩ đến đây cơn giận trào lên ngực. Chàng vốn là kẻ bất cần, chẳng sợ trời sợ đất, lúc này bị oan uổng, thì càng bất chấp, bèn lớn tiếng nói:

– Điệt nhi đã làm điều gì sai trái với các vị? Đã làm hại ai chưa? Long cô cô dạy điệt nhi võ công, điệt nhi muốn lấy nàng làm vợ đấy. Các vị có chém điệt nhi nghìn đao, muôn kiếm, thì điệt nhi cũng cứ muốn lấy nàng làm vợ.

Mấy câu này quả thực khiến hết thảy kinh hãi. Thời ấy người đời Tống hết sức câu nệ lễ giáo khắt khe, có bao giờ nghe những lời ngỗ nghịch bất chấp luân lý như thế. Quách Tĩnh một đời rất mực tôn kính sư phụ, nghe vậy thì nộ khí bốc lên đầu, bèn giơ tay thộp ngực Dương Quá.

Tiểu Long Nữ giật mình, giơ tay gạt đi. Quách Tĩnh võ công cao hơn hẳn nàng, lúc này trong cơn thịnh nộ, càng xuất toàn lực, hất một cái khiến nàng bắn ra xa hơn một trượng, tiếp đó chộp tới huyệt Thiên Đột ở ngực Dương Quá, tay trái giơ lên, quát:

– Tên súc sinh, ngươi dám nói những lời đại nghịch thế ư?

Dương Quá bị Quách Tĩnh thộp ngực, toàn thân mất hết sức lực, nhưng trong lòng không một chút sợ hãi, nói bằng giọng sang sảng:

– Long cô cô toàn tâm toàn ý luyến ái điệt nhi, điệt nhi đối với nàng cũng hệt như vậy. Quách bá bá muốn giết điệt nhi thì cứ ra tay; chủ ý của điệt nhi, kiếp này quyết không thay đổi

Quách Tĩnh nói:

– Ta coi ngươi như thân sinh nhi tử, ta quyết không cho phép ngươi đã lầm lỗi còn không chịu hối cải.

Dương Quá hiên ngang đáp:

– Điệt nhi không hề lầm lỗi! Điệt nhi không hề làm việc gì bại hoại! Điệt nhi không làm hại ai.

Ba câu nói được nói ra bằng giọng quả quyết, đanh chắc.

Quần hùng trong sảnh nghe xong, cảm thấy lời nói của Dương Quá cũng vài phần có lý; giả dụ sư đồ hai người họ sống ở cõi đào nguyên, hoặc ở một hoang đảo nào đó mà kết thành phu phụ, suốt đời không ai biết, thì đúng là chẳng tổn hại gì cho ai cả. Có điều ở đây là nhân tâm thế đạo, hai người công nhiên bất chấp để làm bừa như vậy, thì bị coi là chuyện bại hoại trong võ lâm.

Quách Tĩnh giơ chưởng lên, buồn rầu nói:

– Quá nhi, ta rất đau lòng, ngươi biết không? Ta thà để ngươi chết, còn hơn để ngươi làm việc xấu, ngươi hiểu không?

Nói câu cuối, giọng Quách Tĩnh nghẹn ngào.

Dương Quá nghe vậy, biết nếu mình không nói khác đi, Quách bá bá sẽ một chưởng đánh chết chàng.

Chàng có những lúc khôn ngoan giảo hoạt né tránh, nhưng lúc này lại hết sức quật cường, sang sảng nói:

– Điệt nhi biết mình không hề lầm lỗi, Quách bá bá không tin thì cứ việc đánh chết điệt nhi đi.

Quách Tĩnh giơ cao tay trái, một chưởng này nếu đánh xuống đỉnh đầu Dương Quá, thì chàng tất mất mạng. Quần hùng nín thở, mấy trăm cặp mắt đều nhìn bàn tay đó của Quách Tĩnh. Quách Tĩnh nhìn Dương Quá, thấy chàng cắn môi, cau mày, trông giống hệt phụ thân Dương Khang của chàng năm xưa, thì trong lòng nhói đau, thở dài, tay phải đang túm ngực Dương Quá buông ra, nói:

– Ngươi hãy suy xét cho thật kỹ.

Rồi quay mình trở lại bàn, không nhìn Dương Quá lần nào nữa, vẻ mặt bi thương, tuyệt vọng.

Tiểu Long Nữ vẫy tay, gọi:

– Quá nhi, mấy người kia ngang ngược quá, chúng mình đi thôi.

Nàng hoàn toàn không biết rằng vừa rồi Dương Quá ở giữa lằn ranh sống chết. Dương Quá nghĩ bụng hai chữ "ngang ngược" rất đúng với đám người kia, chàng rảo bước đi ra, tay nắm tay Tiểu Long Nữ, ra bên ngoài trang viện, dắt theo con ngựa gầy mà đi.

Quần hùng nhìn theo bóng hai người, kẻ tức giận, kẻ tiếc nuối, kẻ cảm thông, kẻ kinh dị.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ sánh vai nhau đi đến lúc đêm đã về khuya. Hai người cửu biệt trùng phùng, đã quên luôn mấy phen ác đấu, tranh biện vừa trải qua, lúc này được thảnh thơi ở bên nhau, cảm thấy nhân sinh thật tươi đẹp, quá khứ đã sống uổng phí, tương lai chắc gì đã bằng hiện tại. Hai người tâm linh tương thông, không nói một lời, lặng lẽ đi bên nhau.

Đến dưới một gốc thùy dương, thì ngồi xuống, tựa lưng vào thân cây, cảm thấy mệt mỏi, cùng ngủ thiếp đi. Con ngựa gầy gặm cỏ cách đó một quãng, thỉnh thoảng hí khẽ một tiếng.

Tỉnh giấc, trời đã sáng bạch, hai người nhìn nhau cười. Dương Quá nói:

– Cô cô, chúng mình đi đâu bây giờ?

Tiểu Long Nữ nghĩ một lát, nói:

– Trở về tòa cổ mộ còn hơn.

Nàng từ ngày xuống núi, cảm thấy cuộc sống ở ngoài nhà mồ tuy phồn hoa, nhưng rốt cuộc lại không bằng cảnh tiêu dao tự tại trong nhà mồ. Dương Quá nghĩ thầm: "Được sống suốt đời với cô cô trong nhà mồ, cũng không cần gì hơn". Trước đây chàng khắc khoải nhớ thế giới bên ngoài, chỉ mong Tiểu Long Nữ thả cho chàng ra khỏi nhà mồ, nhưng sau một thời gian ở bên ngoài, chàng lại lưu luyến cuộc sống thanh tịnh trong nhà mồ. Thế là hai người nhắm hướng bắc mà thong thả đi. Một người gọi "Quá nhi", người kia gọi "Cô cô", xưng hô như thế cảm thấy tự nhiên dễ chịu.

Giữa trưa, hai người nhắc đến võ công của Kim Luân pháp vương, đều nói là võ công quá cao cường, khó lòng địch nổi. Tiểu Long Nữ bỗng nói:

– Quá nhi, chương cuối cùng của "Ngọc nữ tâm kinh" chúng mình luyện chưa thạo, Quá nhi còn nhớ không?

Dương Quá nói:

– Nhớ thì nhớ đấy, nhưng chúng ta tập đi tập lại vẫn không thành, chắc là có chỗ nào đó không đúng cách.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta vốn cũng nghĩ mãi không ra, nhưng hôm qua nhìn lão đạo cô lắc bảo kiếm mấy cái, ta đã nghĩ ra một chuyện.

Dương Quá hồi tưởng kiếm chiêu mà Tôn Bất Nhị sử hôm qua, lập tức lĩnh ngộ, thốt lên:

– Đúng rồi, đúng rồi, cần phải sử dụng đồng thời võ công phái Toàn Chân với "Ngọc nữ tâm kinh", hèn chi chúng ta luyện mãi không được.

Thời trước tổ sư phái Cổ Mộ Lâm Triêu Anh sống một mình trong nhà mồ, sáng tạo "Ngọc nữ tâm kinh", tuy muốn khắc chế võ công phái Toàn Chân, nhưng tình ý với Vương Trùng Dương thủy chung không giảm, khi viết đến chương cuối cùng, tưởng tượng sẽ có một ngày nào đó sát cánh với người trong mộng mà đánh địch, cho nên võ thuật trong chương này là một người sử dụng "Ngọc nữ tâm kinh", người kia sử dụng võ công phái Toàn Chân, phân tiến hợp kích. Khi ấy Lâm Triêu Anh đem toàn bộ cõi lòng với bao tình cảm sâu xa, ý tứ triền miên gửi gắm vào chương võ kinh này. Song kiếm tung hoành là khách, kề vai đánh địch mới là chủ; song lúc khắc lại trên trần thạch thất, không tiện ghi chú rõ tâm sự đó. Lúc Tiểu Long Nữ và Dương Quá mới luyện, đôi bên chưa luyến ái nhau, không tài nào hiểu nổi thâm ý của tổ sư bà bà, khi tập hai người đều sử dụng tâm pháp bản môn, tất nhiên không lĩnh hội được diệu chỉ hàm chứa trong đó.

Bây giờ hai cùng ngộ ra, bèn bẻ cành liễu mà đối chiêu với nhau. Tiểu Long Nữ chậm rãi sử "Ngọc nữ kiếm pháp", Dương Quá thì sử kiếm pháp phái Toàn Chân; nhưng trao đổi mấy chiêu, vẫn cảm thấy khó bề ăn ý. Hai người không nghĩ được rằng Lâm Triêu Anh khi sáng tạo pho kiếm pháp này, trong lòng thầm mơ ước kề vai với Vương Trùng Dương chống địch, mỗi chiêu thức đều phối hợp chiếu cố nhau; còn lúc này Dương Quá và Tiểu Long Nữ lại đấu với nhau, tức thị coi đối phương là địch mất rồi, ngược hẳn với hàm ý. Thực ra Lâm Triêu Anh và Vương Trùng Dương đều là đệ nhất cao thủ đương thời, chỉ một trong hai người đã không ai địch nổi, huống hồ hai người liên thủ với nhau, thành thử môn võ công ấy sẽ trở nên vô dụng.

Chẳng qua Lâm Triêu Anh sáng tạo ra chỉ để gửi gắm tâm sự mà thôi. Khi ấy, võ công của Lâm Triêu Anh đã đạt tới cảnh giới tột đỉnh, chiêu thức kình cấp, vô cùng chặt chẽ, không sai lệch một ly, Dương Quá và Tiểu Long Nữ không hiểu hàm ý bên trong, làm sao có thể đắc tâm ứng thủ.

Hai người luyện một hồi vẫn cảm thấy không đúng,

Tiểu Long Nữ nói:

– Có lẽ chúng mình nhớ lầm, khi nào về đến nhà mồ xem lại cho rõ, rồi hãy luyện.

Dương Quá đang định trả lời, bỗng nghe phía xa có tiếng vó ngựa, rồi một con ngựa lông màu đỏ tuyền phi tới như bay, ngồi trên lưng ngựa là một thiếu phụ mặc áo tím, trong nháy mắt, một người một ngựa lướt qua như gió, chính là Hoàng Dung cưỡi con ngựa hồng. Dương Quá không muốn gặp lại người nào ở nhà ấy cho khỏi phiền phức, bèn bàn với Tiểu Long Nữ bỏ đường lớn, đi đường nhỏ, để khỏi gặp lại. Tiểu Long Nữ tuy là sư phụ, nhưng trừ võ công, mọi chuyện còn lại nàng đều không hiểu gì cả, Dương Quá bảo đi đường nhỏ, thì nàng bằng lòng ngay. Tối hôm ấy, họ nghỉ đêm trong một tiểu khách điếm. Dương Quá nằm trên giường, Tiểu Long Nữ vẫn dùng dây thừng buộc chéo căn phòng mà nằm ngủ trên dây. Hai người đã quyết ý kết thành phu phụ, nhưng mấy năm qua ở "Hoạt tử nhân mộ" họ đã quen ngủ như vậy, bây giờ gặp lại, họ vẫn tự nhiên nằm ngủ như cũ, chỉ khác là bây giờ trong lòng biết rằng có ý trung nhân ở bên cạnh, không bao giờ xa nhau nữa, đều rất vui và an tâm.

Trưa hôm sau hai người tới một thị trấn lớn. Nơi đây ngựa xe qua lại rất tấp nập. Dương Quá dẫn Tiểu Long Nữ vào một tửu lâu dùng cơm. Vừa lên trên lầu, chàng sững người, thấy Hoàng Dung cùng huynh đệ họ Võ đang ngồi ăn cơm ở một bàn. Dương Quá nghĩ thầm đã gặp, thì không tiện giả bộ không thấy, bèn bước tới hành lễ, nói:

– Quách bá mẫu.

Hoàng Dung vẻ mặt buồn bã lo lắng, hỏi:

– Ngươi có gặp nữ nhi của ta hay không?

Dương Quá nói:

– Không, Phù muội không đi với Quách bá mẫu hay sao?

Hoàng Dung chưa trả lời, thì cầu thang lầu có tiếng mấy người đi lên, người đi đầu thân hình cao lớn, chính là Kim Luân pháp vương. Dương Quá vội ngoảnh đi, không nói chuyện thêm với Hoàng Dung, lẳng lặng đến bên Tiểu Long Nữ, nói nhỏ:

– Quay mặt đi, đừng nhìn bọn chúng.

Nhưng Kim Luân pháp vương rất tinh mắt, vừa lên lầu lão ta đã nhìn khắp lượt, biết có những ai, lão cười hì hì, ngồi xuống một bàn. Dương Quá đã ngoảnh đi bỗng nghe tiếng Hoàng Dung gọi:

– Phù nhi!

Chàng bất giác quay đầu lại, thấy Quách Phù ngồi cùng bàn với Kim Luân pháp vương, mắt mở to nhìn mẫu thân, song lại không dám đi sang đó.

Nguyên Kim Luân pháp vương bị bại ở Lục gia trang, trong lòng ấm ức, nghĩ cách chuyển bại thành thắng, hiềm nỗi Hoắc Đô trúng độc Ngọc phong châm, độc tính phát tác, giải cứu nhiều cách đều vô hiệu, phải nghĩ cách lấy được thuốc giải, vì chưa đi xa, nên vẫn quanh quẩn gần Lục gia trang. Vừa hay sáng sớm hôm nay Quách Phù cưỡi con ngựa hồng đi chơi, chạm trán Kim Luân pháp vương, bị lão ta bắt giữ. Con ngựa hồng rất tinh khôn, chạy về trang viện, hí lên đau buồn. Quách Tĩnh biết nữ nhi gặp nạn, cả kinh, chia nhau đi tìm. Hoàng Dung tuy có thai, cũng dẫn huynh đệ họ Võ đi một một hướng, trưa nay ghé vào tửu lâu, gặp sư đồ Dương Quá, không ngờ Kim Luân pháp vương lại áp giải Quách Phù cũng tới nơi này.

Hoàng Dung vừa nhìn thấy nữ nhi, thì vừa mừng vừa lo, vì Quách Phù rơi vào tay đại địch, gọi một tiếng, không nói gì thêm, tay cầm đũa vẽ lên bàn, suy tính cách cứu con. Đang suy tính, bỗng nghe Kim Luân pháp vương gọi:

– Hoàng bang chủ, vị này là ái nữ của bang chủ phải không? Hôm trước ta thấy tiểu thư làm nũng với bang chủ, trông rất đáng yêu.

Hoàng Dung hừ một tiếng, không nói gì. Võ Tu Văn đứng dậy, quát:

– Không ngờ lão là tông sư một phái, tỷ võ không thắng, lại đi bắt nạt con gái nhà người, thật không biết xấu hổ.

Kim Luân pháp vương coi như không nghe Võ Tu Văn nói gì, lại tiếp:

– Hoàng bang chủ, hôm trước tỷ võ, các vị rõ ràng đã thua, lại giở trò ngang ngược, không phải là phong cách hảo hán. Bang chủ trước hết hãy trao thuốc giải độc châm cho ta, sau đó chúng ta ước định ngày tỷ thí thật công bằng, để xem danh vị minh chủ võ lâm rất cuộc sẽ thuộc về ai.

Hoàng Dung lại hừ một tiếng, không trả lời.

Võ Tu Văn quát:

– Lão hãy thả Quách cô nương ra đã, chúng ta sẽ trao thuốc giải, chuyện tỷ thí bàn sau chưa muộn.

Hoàng Dung liếc về phía Dương Quá và Tiểu Long Nữ, nghĩ thầm: "Thuốc giải là của hai người kia, ngươi đáp ứng trao thuốc, trong khi chưa biết họ có bằng lòng cho hay không".

Kim Luân pháp vương nói:

– Tẩm độc vào ám khí, thiên hạ không lẽ chỉ một mình các người biết làm? Các người dùng độc châm đả thương đệ tử của ta, ta cũng có thể cắm vài cái đinh có độc vào người tiểu cô nương này. Các người đưa thuốc giải, thì ta sẽ chữa trị cho nó. Muốn ta thả người, đâu có dễ thế.

Hoàng Dung thấy nữ nhi thần sắc vẫn bình thường, tựa hồ chưa bị thương, nhưng mẫu nữ tình thâm, bất giác tâm trung vô chủ, ngạn ngữ có câu "Quan tâm tắc loạn", nàng tuy cơ biến vô song, nhưng lúc này lại bối rối chẳng biết làm sao.

Chỉ thấy điếm tiểu nhị liên tục bưng thức ăn tới bàn Kim Luân pháp vương, bọn họ ăn uống nói cười rôm rả, Quách Phù thì cứ ngồi ngẩn ra nhìn mẫu thân, không hề động đũa. Hoàng Dung lòng như dao cắt, đột nhiên thấy bụng đau âm ỉ.

Kim Luân pháp vương ăn uống xong, đứng đậy, nói:

– Hoàng bang chủ, đi theo ta nào.

Hoàng Dung kinh ngạc, lập tức tỉnh ngộ, lão ta không chỉ bắt nữ nhi, mà còn bắt cả nàng đi theo; lúc này bên cạnh chỉ có huynh đệ họ Võ, tất nhiên không phải là địch thủ của lão, bất giác tái mặt. Kim Luân pháp vương lại nói:

– Hoàng bang chủ, đừng sợ, bang chủ là một nhân vật rất có tiếng tăm của võ lâm Trung Nguyên, bọn ta sẽ đối đãi tử tế. Chỉ cần danh vị minh chủ võ lâm định rõ, bọn ta sẽ lập tức tiễn về phương nam.

Khi vừa lên lầu, nhìn thấy Hoàng Dung, lão ta biết ngay là cơ hội hiếm có, chỉ cần bắt sống nàng, thì võ lâm Trung Nguyên không thể không khoanh tay thần phục; việc này còn có giá trị gấp trăm lần so với việc bắt Quách Phù, đúng là cơ hội trời cho. Hoàng Dung mải lo cho nữ nhi, chưa nghĩ đến điều này. Huynh đệ họ Võ thấy sư mẫu bị cưỡng bức, tuy biết không địch nổi, cũng không thể không ra tay, cùng rút trường kiếm khỏi bao, đứng chắn phía trước sư mẫu. Hoàng Dung nói nhỏ:

– Mau nhảy qua cửa sổ đi cầu cứu sư phụ!

Huynh đệ họ Võ nhìn sư mẫu, lại nhìn Quách Phù một cái, rồi mới chạy ra phía cửa sổ.

Hoàng Dung mắng thầm: "Đồ ngốc! Sao lại chậm trễ như thế?"

Quả nhiên chỉ chậm một giây đã không kịp. Kim Luân pháp vương chìa tay, mỗi tay tóm lưng một người, như con đại bàng chộp gà con vậy. Huynh đệ họ Võ vội xoay kiếm đâm vội; Kim Luân pháp vương cũng chẳng thèm tránh, hai tay hơi xoay, kiếm của Võ Đôn Nhu đã đâm đệ đệ, còn kiếm của Võ Tu Văn thì đâm ca ca. Huynh đệ họ Võ cả kinh, vội vàng buông kiếm, keng keng hai tiếng, hai thanh kiếm cùng rơi xuống sàn, cả hai mới không bị thương.

Kim Quân pháp vương vung nhẹ hai tay, ném huynh đệ họ Võ ra một góc xa hơn một trượng, cười nói:

– Hãy ngoan ngoãn đi theo lão Phật gia nghe.

Lão ta quay sang phía Dương Quá và Tiểu Long Nữ, nói:

– Hai vị nếu không muốn cùng đi với Hoàng bang chủ, thì đi đâu tùy ý, sau này đừng nhúng tay vào việc của ta là được. Hai vị võ công cũng khá, từ rày gắng bảo trọng, luyện tập thêm một, hai chục năm, thì thiên hạ sẽ không có đối thủ đâu.

Kim Luân pháp vương không dám coi thường hai người, lão biết Hoàng Dung, Dương Quá, Tiểu Long Nữ ba người võ công tuy thua kém lão, nhưng nếu cả ba liên thủ đấu với lão, thì lão rất khó đối phó, dẫu có thắng, cũng chưa chắc đã bắt sống được Hoàng Dung; bèn cố ý ly gián, tức là chỉ lấy thân cây, loại bỏ các cành. Lão hoàn toàn không biết rằng Hoàng Dung đang mang thai, nên không tiện động thủ; cứ tưởng nàng có Đả cẩu bổng pháp cực kỳ thần diệu, là một cường địch.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, chúng mình đi thôi, lão hòa thượng này rất lợi hại, chúng mình địch không nổi đâu.

Nàng chỉ mong sớm trở về tòa cổ mộ, chung sống với Dương Quá; về những chuyện ân oán đấu sát trên thế gian, nàng vốn chẳng hề quan tâm, lại sợ Kim Luân pháp vương, nên nói thẳng với Dương Quá như vậy. Dương Quá đáp ứng, đứng dậy, đi ra cầu thang, nghĩ thầm lần này trở về tòa cổ mộ, chắc là sẽ không bao giờ còn gặp lại Hoàng Dung, bất giác chàng ngoảnh lại nhìn lần cuối.

Chỉ thấy Quách bá mẫu mặt tái nhợt, tay trái đặt ở bụng dưới, rõ ràng đang nén cơn đau, Dương Quá liền nghĩ thầm: "Quách bá bá, Quách bá mẫu không cho ta lấy cô cô để tránh mọi phiền toái, chứ không phải có ý xấu gì với ta; hôm nay Quách bá mẫu gặp nạn, ta có thể quay mặt bỏ đi thế này được ư? Chỉ có điều kẻ địch quá mạnh, ta với cô cô cùng chống chọi, cũng không thể địch nổi lão ta, hóa ra cứu chẳng được Quách bá mẫu, mà còn làm cho cả ta lẫn cô cô mất mạng. Chẳng bằng ta lập tức đi bẩm cáo với Quách bá bá, để Quách bá bá đến cứu thì hơn". Nghĩ vậy, chàng bèn đưa mắt ra hiệu cho Hoàng Dung. Hoàng Dung biết chàng sẽ đi báo tin cầu cứu, thấy yên tâm phần nào, chậm rãi gật đầu.

Dương Quá cầm tay Tiểu Long Nữ, đi xuống cầu thang lầu, thấy một tên võ sĩ Mông Cổ đến trước mặt Hoàng Dung, quát:

– Đi mau, sao còn lần khần mãi thế?

Hắn giơ tay nắm cánh tay Hoàng Dung để kéo đi như một tù nhân.

Hoàng Dung đã làm bang chủ Cái Bang hơn mười năm, trong võ lâm có địa vị tôn kính, tuy hôm nay gặp nạn, song há chịu để một tên vũ phu làm nhục? Thấy bàn tay lông lá to tướng của hắn sắp đụng vào tay mình, nàng phất tay áo che lấp cổ tay của hắn, thừa thế chộp lấy hất đi, thân hình to béo cửa tên võ sĩ bay qua cửa sổ, rơi xuống giữa đường nghe huỵch một cái, nằm bất động, không biết còn sống hay đã chết. Hoàng Dung tính ưa sạch sẽ, không muốn tay mình chạm vào tay hắn, đã dùng tay áo làm lớp ngăn cách.

Khách khứa trên tửu lâu thoạt tiên nghe hai bên nói nhỏ, không để ý, bây giờ thấy động thủ, tức thì nhốn nháo cả lên. Kim Luân pháp vương cười khẩy, nói:

– Hoàng bang chủ công phu quả nhiên lợi hại.

Lão ta bắt chước tên võ sĩ vừa rồi, bước tới, giơ tay y hệt; Hoàng Dung biết lão ta có ý hiển thị võ công, tuy là ra tay hệt như tên kia, song nàng thì không thể quẳng lão đi như với tên kia, đành lùi một bước.

Dương Quá đã bước xuống vài bậc cầu thang, thấy Hoàng Dung sắp bị làm nhục chợt nổi lòng nghĩa hiệp, bất chấp an nguy sinh tử, phi thân lên nhặt thanh kiếm Võ Đôn Nhu đánh rơi, dùng chiêu "Thanh long xuất hải" đâm nhanh tới sau lưng Kim Luân pháp vương, miệng quát:

– Hoàng bang chủ đang bị bệnh, lão thừa cơ cưỡng bức, không biết xấu mặt ư?

Kiếm Luân pháp vương nghe tiếng binh khí sau lưng, không thèm ngoảnh đầu, đưa tay lại, dùng ngón búng vào mặt bằng của thanh kiếm. "Tâng" một tiếng, Dương Quá thấy cánh tay tê dại, mũi kiếm đã chúi xuống, chàng vội phi thân tránh sang một bên.

Kim Luân pháp vương quay người lại, nói:

– Gã thiếu niên, đi nơi khác cho mau! Ngươi còn quá trẻ, võ công không kém, tương lai sẽ hơn hẳn ta, bây giờ thì chưa phải là đối thủ của ta, nếu cứ liều mạng, chẳng hóa chết uổng hay sao?

Mấy câu này vừa đấm vừa xoa, vừa khen ngợi Dương Quá, vừa đe dọa chàng. Chiếc kim luân của lão đã bị Dương Quá và Tiểu Long Nữ đánh rơi, khiến danh vị minh chủ võ lâm đã vào tay lão cuối cùng lại bị vuột mất, lão rất căm hận hai người. Nhưng lúc này cân nhắc nặng nhẹ, lão coi việc bắt giữ Hoàng Dung là hệ trọng nhất, không muốn có thêm kẻ thù; chỉ mong Dương Quá và Tiểu Long Nữ rút khỏi trường thị phi này, mai đây tìm hai tên nhãi ranh trừng trị cũng chưa muộn. Lão xưng hùng Tây Tạng, là người đầy mưu lược, chứ đâu chỉ lừng danh về võ công.

Mấy câu vừa rồi nửa cương nửa nhu, không hề đại ngôn khinh người, Dương Quá rốt cuộcvẫn còn tâm tính thiếu niên, nghe lão bảo tương lai chàng sẽ còn cao siêu hơn lão, trong lòng dĩ nhiên khoái trá, chàng cười nói:

– Đại hòa thượng khỏi cần khách sáo, muốn luyện được công phu lợi hại như lão, chẳng dễ gì. Vị Hoàng bang chủ này nuôi dưỡng ta từ nhỏ, lão đừng gây khó dễ thì hơn. Nếu không phải Hoàng bang chủ đang có bệnh, thì công phu của lão chưa chắc thắng nổi đâu; nếu lão không tin, cứ đợi Hoàng bang chủ khỏi bệnh hãy đấu với Hoàng bang chủ được chăng?

Chàng biết Kim Luân pháp vương tự phụ võ công cao cường, nghe chàng nói khích như thế, may ra sẽ không gây khó dễ cho Hoàng Dung nữa.

Ai dè Kim Luân pháp vương chỉ lo Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ, Dương Quá ba người liên thủ hợp lực, lão mới khách sáo với chàng; giờ nghe nói thế, nhìn kỹ Hoàng Dung, thấy sắc diện tiều tụy, có bệnh không nhẹ, thì nghĩ bụng Kim Luân pháp vương ta đâu ngán gì hai gã thiếu niên các ngươi, bèn cười khẩy, nhảy ra đứng chặn đầu cầu thang, nói:

– Thế thì cả ngươi cũng ở lại đây.

Tiểu Long Nữ đang đứng giữa cầu thang, bị Kim Luân pháp vương ngăn cách nàng với Dương Quá, thì không thích thế, nói:

– Lão hòa thượng tránh ra, để Quá nhi xuống đây nào!

Kim Luân pháp vương quắc mắt, một chưởng "Đơn chưởng khai bi" đẩy xuống; lực cánh tay của lão vốn đã mạnh, lại ở trên cao đánh xuống, càng uy mãnh vô cùng. Tiểu Long Nữ không dám đối chưởng, nghĩ Dương Quá ở trên tửu lâu, nàng không nhảy xuống bên dưới, mà dùng khinh công tuyệt đỉnh luồn người qua bên cạnh kẻ địch, lên đứng sánh vai với Dương Quá. Lúc nàng luồn qua bên cạnh, Kim Luân pháp vương có đánh cùi chỏ, vậy mà không trúng, lão cũng phải thầm khen tài khinh công của nàng.

Dương Quá nhặt thanh kiếm của Võ Tu Văn, đưa cho Tiểu Long Nữ, nói:

– Cô cô, lão hòa thượng này vô lễ, chúng mình cùng đánh cho lão một trận.

Kinh coong, Kim Luân pháp vương lấy từ trong bọc ra một cái vòng, kích thước cũng như cái kim luân đã sử dụng, cái này màu đen, đúc bằng sắt, gọi là thiết luân, trên đó cũng có đúc chân ngôn Mật tông. Lão có năm cái luân cả thảy, đúc bằng vàng, bạc, đồng, sắt, chì; khi gặp đại địch, lão sẽ sử dụng năm cái luân, nhưng thường thì chỉ dùng kim luân đã chiến thắng vô số kẻ địch, cho nên mới có biệt hiệu Kim Luân pháp vương. Bốn cái luân còn lại, đúc bằng bạc, đồng, sắt, chì, lão chưa từng dùng đến, thực ra căn cứ tu vi võ học, phải gọi lão là Ngũ Luân pháp vương mới đúng. Trong cuộc tỷ thí ở Lục gia trang, cái kim luân đã bị Dương Quá dùng cây kim cương chử đoạt mất, lúc này liền rút thiết luân ra, nói:

– Hoàng bang chủ cũng nhập bọn một thể chứ?

Kim Luân pháp vương tuy biết Hoàng Dung đang có bệnh, song vẫn ngại võ công cao cường của nàng, lão dùng ba tiếng "Hoàng bang chủ" là cốt nhắc nhở rằng nàng là bang chủ một đại bang hội, nếu hợp lực với kẻ khác đánh một người, tức là để mất thân phận bang chủ của mình.

Dương Quá nói:

– Hoàng bang chủ cần phải về nhà, không thừa thời gian huyên thuyên với lão.

Chàng quay sang phía Hoàng Dung, nói:

– Quách bá mẫu, mau đưa Phù muội về đi.

Chàng đã có chủ ý, chàng cùng Tiểu Long Nữ hợp lực cự địch, chắc là đánh không lại, nhưng dẫu gì cũng chống chọi được một hồi, rồi sẽ tìm cách bỏ chạy, quá nửa là chạy thoát, may mà bây giờ hoàn toàn không phải là tỷ võ để giành giật cái gì, nên có bỏ chạy cũng chẳng hề mất thể diện, bèn chĩa kiếm đâm Kim Luân pháp vương. Tiểu Long Nữ thấy chàng sử dụng công phu "Ngọc nữ tâm kinh", thì cũng vung kiếm lên; nàng chẳng hề có dự tính gì, thấy Dương Quá động thủ với lão hòa thượng, thì nàng vung kiếm trợ giúp thế thôi.

Kim Luân pháp vương múa thiết luân, gạt song kiếm, lão ngại trên tửu lâu có quá nhiều bàn ghế, khó thi triển thủ cước, nên vừa múa thiết luân, vừa đá bàn ghế sang một bên. Dương Quá nghĩ thầm: "Đấu lực với lão, bọn ta nhất định thua, chỉ có làm cho lão vướng víu, mới mong cầm cự ít lâu." Thấy lão ta đạp bàn ghế cho rộng chỗ, chàng lại đẩy bàn ghế lại chắn giữa đôi bên. Chàng và Tiểu Long Nữ đều có khinh công cao siêu, chỉ luồn ngang lách dọc, hoàn toàn không chính diện đương đầu với kẻ địch, rồi lúc thì ném bầu rượu, lúc thì ném bát đĩa, làm cho cả tửu lâu bừa bãi thức ăn, cơm nước.

Hoàng Dung đã thừa cơ kéo Quách Phù lại bên mình. Đạt Nhĩ Ba sau khi trúng "Di hồn đại pháp" của Dương Quá, hiện tại cứ lúc tỉnh lúc mê; Hoắc Đô thì trúng độc trọng thương, đám võ sĩ Mông Cổ còn lại, bản lĩnh thấp kém, làm sao ngăn nổi Hoàng Dung? Dương Quá kêu to:

– Quách bá mẫu, các vị đi về mau đi!

Hoàng Dung thấy Kim Luân pháp vương chiêu số lợi hại, Dương, Long hai người dốc toàn lực cũng khó bề chống chọi, bây giờ làm rối lên, còn ngăn chặn lão ta được một lát; nhưng rồi lão ta sẽ tìm ra chỗ sơ hở, hạ độc thủ, thì còn gì tính mạng đôi thiếu niên nam nữ. Hoàng Dung nghĩ thầm: "Quá nhi xả thân cứu ta, ta há có thể chỉ lo cho mình, bỏ đây mà đi?" Bèn cứ đứng đó quan chiến.

Huynh đệ họ Võ luôn miệng giục giã:

– Sư nương, chúng ta về thôi, sư nương không được khỏe, cần phải bảo trọng.

Hoàng Dung ban đầu còn không đếm xỉa, sau nghe hai huynh đệ họ Võ cứ giục giã, bèn nổi giận:

– Làm người không hiểu hai chữ "nghĩa hiệp" thì luyện võ mà làm gì, sống trên đời mà làm gì? Gã họ Dương kia đúng là hơn các ngươi cả trăm lần. Huynh đệ nhà ngươi cứ thử nghĩ coi.

Huynh đệ họ Võ bày tỏ hảo ý, lại bị trách mắng, chỉ biết ngượng ngùng đứng im.

Quách Phù nhặt một cái chân bàn gãy, nói:

– Võ gia ca ca, chúng ta cùng xông vào đi.

Hoàng Dung giữ con lại, nói:

– Công phu như ngươi, xông vào đó nộp mạng à?

Quách Phù bĩu môi không tin, nàng thấy Dương Quá và Tiểu Long Nữ xuất chiêu cũng đâu có gì là tuyệt diệu; có lúc tư thế thì đẹp, nhưng kiếm chiêu lại chẳng lợi hại chút nào.

Kim Luân pháp vương mỗi lần truy kích đều bị bàn ghế ngã đổ chỏng chơ ngăn cản, trong khi Dương, Long hai người di chuyển linh hoạt, nhẹ nhàng du đấu. Lão chợt nảy ra một kế, đột nhiên dồn sức xuống chân, tiếng bàn ghế gãy nát dưới chân lão vang lên dồn dập. Tay múa thiết luân, chân sử công phu "Thiên cân trụy", chân giẫm tới đâu, bàn ghế chỗ đó gãy vụn; sau vài vòng, toàn bộ sàn lầu đã thành một bãi đầy các mảnh gỗ vụn; ba người giao đấu trên đó, không còn bị bàn ghế ngăn trở nữa.

Kim Luân pháp vương tha hồ sải bước, cái thiết luân phát ra tiếng kính coong liên hồi, hai cánh tay to khỏe của lão khép mở liên tục, mãnh công Dương, Long hai người.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ lúc này không còn được bàn ghế che chắn, đành dùng công phu thật sự để chống chọi. Kim Luân pháp vương tấn công liền ba chiêu, Dương Quá đỡ xong, thấy cánh tay đau âm ỉ. Kim Luân pháp vương thừa thế giáng luôn chiêu thứ tư, đánh thẳng xuống đầu Dương Quá, thiết luân chưa đến mà kình phong đã ập tới kinh người. Dương Quá và Tiểu Long Nữ song kiếm cùng xộc lại, mũi kiếm đụng vào thiết luân, hợp lực song kiếm mới gạt được chiêu này, nhưng cả hai thanh kiếm đều bị cong đi.

Hai người dồn sức đẩy thiết luân ra rồi, Dương Quá đâm thẳng tới hạ bàn, Tiểu Long Nữ thì chém ngang đùi kẻ địch. Kim Luân pháp vương tung cước đá cổ tay Tiểu Long Nữ, cái thiết luân đánh chếch lên cổ Dương Quá. Dương Quá thụp người xuống, tránh thiết luân. Không ngờ Kim Luân pháp vương ném thiết luân xuống đỉnh đầu chàng, rồi hai tay chộp lấy vai Tiểu Long Nữ.

Trong khoảnh khắc ấy, cả hai người cùng gặp kỳ hiểm. Hoàng Dung nhìn thấy, kêu "ôi" một tiếng, định xông lại cứu, chỉ thấy Dương Quá phi thân chéo lên, người chưa đáp xuống đã đâm kiếm vào lưng Kim Luân pháp vương, chiêu này nhất cử lưỡng tiện, vừa công vừa thủ, vừa giải nguy cho mình, vừa là kế "vây Ngụy cứu Triệu", buộc Kim Luân pháp vương không dám tấn công Tiểu Long Nữ nữa, gọi là chiêu "Nhạn hành tà kích", là kiếm pháp phái Toàn Chân. Kim Luân pháp vương kêu "ái chà!" nhân cái thiết luân chưa rơi xuống sàn, dùng mu bàn chân phải hẩy nó một cái, nó kêu kính coong, bay ngược lên phía đầu Dương Quá. Dương Quá vừa rồi trong cơn nguy cấp đã sử một chiêu kiếm pháp phái Toàn Chân, thu được hiệu quả kỳ diệu, thì lại sử tiếp chiêu "Bạch hồng kinh thiên" của kiếm pháp phái Toàn Chân, mặt bằng của kiếm đánh vào thiết luân. Luân nặng kiếm nhẹ, đòn kiếm này vốn dĩ vô hiệu, nhưng đánh đón này lại hoàn toàn phù hợp với đạo lý "bốn lạng thắng ngàn cân" trong võ học, cái thiết luân chuyển hướng, bay vụt về phía đầu Kim Luân pháp vương; Quách Phù đứng cạnh trông thấy thế thích quá, vỗ tay reo lên.

Kim Luân pháp vương cả gan ném thiết luân bay đi tấn công đối phương, vốn nghĩ rằng đối phương không tài gì tiếp thiết luân, nếu đối phương dùng binh khí đụng vào cái thiết luân đang bay, thì bất kể binh khí ấy nặng như đại đao, hay nhẹ như thiết tiên, đã đụng phải ắt văng tuột khỏi tay, ai ngờ Dương Quá lại có tài hất thiết luân như thế. Lão cả giận, giơ tay chộp lại cái thiết luân, rồi vận kình lại phóng nó đi. Lúc này thiết luân lao đi cực nhanh, quả cầu nhỏ bên trong thiết luân không kịp va đập phát ra tiếng kính coong nữa.

Dương Quá lần thứ nhất hất được thiết luân, là do vô tình sử dụng công phu "Cửu Âm chân kinh" lần này chàng lại giơ kiếm hất luân, keng một tiếng, thanh kiếm tuột khỏi tay. Kim Luân pháp vương tức thời sử chiêu "Đại suất bi thủ", song chưởng đánh mạnh tới.

Nguyên công phu "Cửu Âm chân kinh" của Dương Quá luyện chưa thành thạo, lần này sử dụng lực đạo không chuẩn xác.

Tiêu Long Nữ thấy Dương Quá gặp hiểm, hơi uốn lưng đâm một kiếm tới, đường kiếm đi lợi hại, tư thế xuất chiêu phiêu dật vô cùng, chính là võ công trong chương cuối của "Ngọc nữ tâm kinh". Mẫu nữ Hoàng Dung nhìn thấy quá đẹp, cùng thốt lên:

– Hay quá!

Kim Luân pháp vương thu chưởng về, nhảy lên chộp lấy thiết luân để đỡ đòn trường kiếm. Dương Quá cũng thừa cơ chộp lại thanh kiếm, vừa rồi đúng là thoát chết. Nhưng người ta trong lúc nguy cấp, tâm trí đặc biệt linh mẫn, chàng sực nhớ: "Cô cô và ta hai người cùng sử Ngọc nữ kiếm pháp thì rất khó chống đỡ lão ta; còn khi ta sử dụng kiếm pháp phái Toàn Chân, cô cô sử dụng Ngọc nữ kiếm pháp, lại giải trừ hết nguy hiểm, không lẽ chương cuối cùng của" Ngọc nữ tâm kinh "lại phải hành sử như thế sao?" bèn gọi:

– Cô cô "Lãng tích thiên nhai"!

Rồi chàng đâm chếch một kiếm. Tiểu Long Nữ không kịp suy nghĩ, theo lời chàng sử luôn chiêu "Lãng tích thiên nhai" trong "Ngọc nữ tâm kinh", giơ kiếm chém thẳng. Hai chiêu tên gọi như nhau, nhưng chiêu thức khác hẳn, một bên là kiếm chiêu lợi hại của kiếm pháp phái Toàn Chân, một bên là gia số hiểm ác của Ngọc nữ kiếm pháp, song kiếm hợp bích, uy lực lập tức kinh hồn. Kim Luân pháp vương không thể chống đỡ song kiếm cái đâm cái chém, vội nhảy lùi, may mà kịp, hai kiếm sượt qua sườn, một kiếm đâm thủng cả vạt áo lão ta, khiến lão ta sợ toát mồ hôi lạnh.

Kim Luân pháp vương vội nhảy lùi hai bước để tránh đòn, lại nghe Dương Quá gọi:

– Cô cô, "Hoa tiền nguyệt hạ"!

Một chiêu từ trên đánh xuống, như tuyết rơi. Tiểu Long Nữ mũi kiếm rung rung như hoa tươi rơi lả tả trong gió, khiến Kim Luân pháp vương hoa cả mắt, không còn biết kiếm chiêu từ phía nào đánh tới, đành phải nhảy tránh về phía sau. Dương Quá lại nói:

– Thanh ẩm tiểu chước!

Đốc kiếm chổng lên, mũi kiếm chĩa xuống, như người róc rượu từ bầu ra chén. Mũi kiếm của Tiểu Long Nữ thì chĩa lên môi mình, như đưa chén rượu lên miệng mà uống vậy.

Kim Luân pháp vương thấy kiếm chiêu của hai người càng lúc càng quái dị, phối hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau, vô cùng lợi hại. Lão càng đấu càng hãi, nghĩ thầm: "Thiên hạ rộng lớn, quả nhiên có nhiều nhân tài, thứ kiếm pháp kỳ diệu thế này, ta ở Tây Tạng làm sao tưởng tượng ra nổi? Ôi, ta khác gì ếch ngồi đáy giếng, dám coi thường anh hùng thiên hạ". Lão càng lúc càng núng thế, bại tượng đã rõ ràng.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ mấy phen tu luyện chương kiếm pháp này đều chưa có công hiệu; bây giờ thân lâm kỳ hiểm, hai người lo lắng cho nhau, bất chấp sự an nguy của bản thân mình, chỉ cốt cứu tình lữ, thật hợp với chủ đích của lộ kiếm pháp này. Mỗi chiêu của nó đều hàm chứa một sự tao nhã, là chiêu "Phủ cầm án tiêu" (Gảy đàn thổi sáo) hay "Tảo tuyết phanh trà" (Quét tuyết đun trà), hay "Tùng hạ đối địch" (Đánh cờ dưới gốc tùng), hay "Trì biên điều điêu" (Chăn chim điêu bên hồ) đều là cảnh nam nữ bên nhau, dịu dàng đầm ấm. Lâm Triêu Anh tình trường thất ý, ôm hận mà chết trong tòa cổ mộ. Nàng văn võ toàn tài, cầm kỳ thư họa, môn gì cũng biết, cuối cùng đem toàn bộ sở học bình sinh hóa thành pho võ công này. Khi nàng sáng tạo nó, chỉ là gửi gắm hoài bão, không ngờ mấy chục năm sau lại có một đôi tình lữ dùng nó để chế ngự cường địch.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ thoạt đầu sử dụng vẫn chưa thấy hết sự huyền diệu của nó, càng sử càng đắc tâm ứng thủ. Nếu một đôi nam nữ sử dụng kiếm pháp này mà không phải là tình lữ, thì sẽ không thể lĩnh hội được nhiều chỗ tinh diệu của nó, tâm linh không thể hòa thông với nhau; nếu hai người liên thủ là bằng hữu sẽ quá khách sáo; nếu là kẻ trên người dưới, sẽ khó tránh dựa dẫm vào nhau; nếu là phu phụ, thì tuy tốt đấy, nhưng đôi bên lại quá ư đắm đuối e lệ thẹn thùng, nửa gần nửa xa, tâm tình vẫn có chỗ chênh lệch. Hiện thời Dương Quá và Tiểu Long Nữ luyến ái nhau thắm thiết, nhưng chưa kết thành phu phụ, trong lòng vẫn cảm thấy phía trước còn đầy rẫy gian truân, vui đấy mà lo đấy, cay đắng đấy mà ngọt ngào đấy, tâm tình hệt như Lâm Triêu Anh lúc sáng tạo pho Ngọc nữ kiếm pháp.

Hoàng Dung đứng ngoài quan chiến, thấy Tiểu Long Nữ hai má hơi ửng hồng, đôi phần bẽn lẽn; Dương Quá thi thoảng liếc trộm nàng ta, lo lắng bảo vệ, tuy đang cùng chống cường địch, song hai người vẫn để lộ tâm trạng vui sướng, tình ái thân thiết; thì Hoàng Dung không khỏi kinh ngạc, đồng thời bị lây tâm trạng của họ, tự dưng nhớ lại thời nàng và Quách Tĩnh mới luyến ái nhau. Giữa tửu lâu đầy tiếng sát phạt, lại tràn ngập nhu tình mật ý.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ tâm linh hòa thông, Kim Luân pháp vương càng khó chống đỡ, hối hận là ban nãy đi hủy hết bàn ghế, nếu không, có bàn ghế ngăn trở, đối phương sẽ không thể tấn công lợi hại như thế.

Lão thấy cứ đánh tiếp, lão ắt sẽ phải bỏ mạng, bèn từng bước lùi dần ra đầu cầu thang, rồi lùi xuống từng bậc cầu thang một. Dương Quá và Tiểu Long Nữ từ trên đánh xuống, thấy sắp đuổi được lão ta đi rồi. Hoàng Dung nói:

– Trừ ác phải triệt để, Quá nhi, đừng cho lão ta chạy thoát.

Hoàng Dung thấy sở dĩ Dương Quá và Tiểu Long Nữ đánh bại Kim Luân pháp vương là nhờ pho kiếm pháp kỳ diệu, lại thêm tám phần may mắn; nếu hôm nay để lão ta chạy thoát, người này võ học cao thâm, lão ta sẽ nghĩ ra cách phá giải pho kiếm pháp nảy, thì mai sau khó lòng trừ khử nổi lão ta.

Dương Quá đáp ứng, liên tiếp sử các chiêu sát thủ "Tiểu viên nghệ cúc" "Xuyến song dạ thoại", "Liễu âm liên cú", "Trúc liêm lâm trì", Kim Luân pháp vương cơ hồ chống đỡ không nổi, nói gì đánh trả.

Dương Quá cũng định giết Kim Luân pháp vương theo lệnh của Hoàng Dung, nhưng Lâm Triêu Anh khi sáng tạo pho kiếm pháp này vốn không có ý giết người, lòng đang tràn ngập nhu tình, nên không có chiêu nào lấy mạng đối phương. Lúc này Dương, Long hai người tuy làm cho Kim Luân pháp vương tối tăm mặt mũi, nhưng giết được lão ta không phải dễ.

Kim Luân pháp vương không rõ lai lịch của pho kiếm pháp, thấy đối phương liên tiếp xuất kỳ chiêu, nhưng họ chưa hề sử dụng sát chiêu; nếu họ sử dụng, mạng lão đâu còn nữa; trong cơn nguy cấp nghĩ ra một kế, dồn lực xuống chân, lùi qua bậc cầu thang nào lại đạp gãy bậc đó. Thân hình to lớn của lão choán giữa cầu thang, Dương, Long hai người không thể ào xuống; đợi khi ba bậc thang đã gãy sụp, thì trường kiếm của họ không thể với tới người lão được nữa. Lão giơ thiết luân, nói:

– Hôm nay được biết võ công Trung Nguyên, lão nạp thán phục vô cùng. Pho kiếm pháp của hai vị tên là gì vậy?

Dương Quá nghiêm trang nói:

– Võ công Trung Nguyên lấy Đả cẩu bổng pháp Thích lư (đâm con lừa) kiếm thuật làm đầu, pho kiếm pháp này của tại hạ chính là Thích lư kiếm thuật đó.

Kim Luân pháp vương ngẩn ra, hỏi:

– Thích lư kiếm thuật ư?

Dương Quá đáp:

– Phải, nghĩa là kiếm thuật đâm con lừa trọc ấy mà.

Kim Luân pháp vương bây giờ mới biết gã thiếu niên chửi xỏ mình, bèn quát:

– Tiểu nhi vô lễ, rồi có ngày ngươi được nếm đòn của Kim Luân pháp vương.

Lão vung cái thiết luân kêu loong coong, sải bước mà đi. Chỉ thấy thân hình lão ta lướt đi rất nhanh, loáng một cái đã khuất sau góc tường. Dương Quá biết là khó mà đuổi kịp, quay lại, thấy Đạt Nhĩ Ba dìu Hoắc Đô đi, mặt mày nhợt nhạt, chợt dừng lại nói với Dương Quá:

– Đại sư huynh, sư huynh có định giết đệ hay không?

Dương Quá thấy hai tên này đáng thương, bèn hỏi Hoàng Dung:

– Quách bá mẫu, tha cho chúng đi được không ạ?

Hoàng Dung gật đầu. Dương Quá thấy Hoắc Đô lờ đờ, tiều tụy chàng lấy trong bọc ra một lọ mật ong, chỉ chỉ Hoắc Đô, làm động tác uống thuốc, rồi trao cho Đạt Nhĩ Ba. Đạt Nhĩ Ba cả mừng, xì xồ một hồi với Hoắc Đô. Hoắc Đô lấy ra một gói thuốc bột, đưa cho Dương Quá, nói:

– Vị tiền bối dùng bút nọ bị trúng độc đinh của ta, đây là giải dược.

Đạt Nhĩ Ba chắp tay thước ngực hành lễ với Dương Quá, nói:

– Đa tạ đại sự huynh.

Dương Quá cũng chắp trước ngực hành lễ, nói:

– Đa tạ đại sư huynh.

Đạt Nhĩ Ba lấy làm lạ: "Đại sư huynh tại sao lại gọi ta là đại sư huynh nhỉ?" Nghĩ giây lát, chợt hiểu: "Phải rồi, đại sư huynh đầu thai sang kiếp này, thấy ta đã lớn hơn, nên không tranh địa vị đại sư huynh với ta nữa", thế là y càng cảm kích, vái chào Dương Quá thật cung kính, đoạn tay trái cắp Hoắc Đô, cùng bọn võ sĩ Mông Cổ rút đi.

Dương Quá trao lại giải dược cho Hoàng Dung, cúi mình thi lễ, nói:

– Quách bá mẫu, điệt nhi xin cáo biệt ở đây, mong bá mẫu và Quách bá bá bảo trọng.

Chàng nghĩ sau lần biệt ly này, chắc sẽ không còn ngày gặp lại, trong lòng buồn bã. Hoàng Dung hỏi:

– Ngươi đi đâu vậy?

Dương Quá nói:

– Điệt nhi sẽ cùng Long cô cô tới một nơi ẩn cư không ai biết, vĩnh viễn không ra khỏi nơi đó, để khỏi lụy đến thanh danh của Quạch bá bá và bá mẫu.

Hoàng Dung nghĩ thầm: "Hôm nay ngươi đã xả thân cứu ta và Phù nhi, ân đức không nhỏ, bây giờ thấy ngươi sa vào cảnh trầm luân, ta há có thể không cứu hay sao?" Bèn nói:

– Vậy thì cùng không cần vội, hôm nay mọi người đều đã mệt, chúng ta hãy tìm khách điếm nghỉ một đêm, sáng mai hãy chia tay lên đường chưa muộn.

Dương Quá thấy Hoàng Dung chân tình, không tiện thoái thác, liền đáp ứng.

Hoàng Dung lấy hai lạng bạc đền cho tửu lâu về khoản thiệt hại, rồi đi tìm khách điếm nghỉ ngơi. Tối hôm ấy sau bữa ăn, Hoàng Dung bảo Quách Phù ra ngoài nói chuyện với huynh đệ họ Võ, còn nàng thì rủ Tiểu Long Nữ vào trong phòng mình, nói:

– Muội tử, tỷ tỷ có thứ này muốn tặng muội.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Tỷ tỷ tặng muội cái gì thế?

Hoàng Dung kéo Tiểu Long Nữ lại bên cạnh, dùng lược chải đầu cho nàng ta, thấy mái tóc đen óng mượt xõa vai rất đẹp, bèn cuộn lại, rồi rút một cái vòng vàng chặn tóc trên đầu mình ra, nói:

– Muội muội, tỷ tỷ tặng muội cái này.

Cái vòng vàng được chế tạo cực kỳ tình xảo, trông như một cành hoa hồng, uốn vòng với mấy đóa hoa chớm nở. Hoàng Dược Sư thu thập kỳ trân dị bảo trong thiên hạ, Hoàng Dung chọn lấy cái vòng vàng này, đủ biết nó được chế tạo tinh xảo bậc nào. Tiểu Long Nữ từ nhỏ chưa bao giờ dùng vật trang sức, nên cũng không hiểu giá trị của cái vòng giữ tóc này, chỉ nói lời đa tạ thông thường. Hoàng Dung gài lên mái tóc Tiểu Long Nữ, rồi hai người nhàn đàm với nhau.

Nói chuyện một hồi, thấy Tiểu Long Nữ hồn nhiên vô tà không hiểu chút gì về thế sự, dưới ánh nến thấy nàng dung sắc tú mỹ, thanh lệ tuyệt tục, nếu không có danh phận sư đồ với Dương Quá, thì hai người ấy sẽ là một cặp xứng đôi vừa lứa, Hoàng Dung bèn hỏi:

– Muội tử, muội thích Quá nhi lắm phải không?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Vâng, tại sao các vị không cho phép Quá nhi đối tốt với muội?

Hoàng Dung nhớ lại hồi nhỏ phụ thân không chịu cho hứa hôn với Quách Tĩnh, Giang Nam Thất Quái lại nhiếc nàng là "Tiểu Yêu Nữ", trải qua bao sóng gió, cuối cùng mới kết thành phu phụ với Quách Tĩnh; còn hiện tại Dương Quá và Tiểu Long Nữ chân tình luyến ái nhau, tại sao mình lại nỡ nhảy vào ngăn cản? Nhưng nghĩ hai người đã định rõ danh phận sư đồ, nếu lại thêm tình nam nữ là trái với luân thường, không còn mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ. Nàng thở dài, nói:

– Muội tử, thế gian có rất nhiều chuyện muội chưa biết đâu. Nếu muội kết thành phu thê với Quá nhi, thì suốt đời người ta sẽ coi khinh muội.

Tiểu Long Nữ mỉm cười hỏi:

– Người ta coi khinh muội, thì đã làm sao?

Hoàng Dung Lại sững người, chỉ thấy lời này sao mà giống với cách nghĩ của phụ thân nàng, đúng là ta thích sao làm vậy, chẳng làm gì phải sợ thiên hạ.

Nghĩ đến đây, Hoàng Dung bất giác gật đầu, nghĩ rằng một nhân vật siêu quần như Tiểu Long Nữ ắt không câu nệ thiên kiến của thế tục. Lại nghĩ phu quân đối với Dương Quá hết sức ái hộ, bất kể Dương Quá có thành con rể của mình hay không, cũng chỉ mong Quá nhi đức hạnh hoàn mỹ, thế là bèn nói:

– Còn Quá nhi? Người ta cũng sẽ coi khinh Quá nhi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi và muội sẽ chung sống ở một nơi không ai nhìn thấy, sống sung sướng với nhau, cần gì cái việc người ta coi khinh coi trọng?

Hoàng Dung hỏi:

– Một chỗ không ai nhìn thấy là thế nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đấy là một tòa cổ mộ rất rộng lớn, muội đã sống ở đó từ khi ra đời.

Hoàng Dung ngây người, hỏi:

– Chẳng lẽ từ nay suốt đời muội sẽ sống trong đó, vĩnh viễn không ra ngoài?

Tiểu Long Nữ rất vui vẻ, đứng dậy đi đi lại lại, nói:

– Đúng thế, ra ngoài mà làm gì? Người ở bên ngoài đều quá tệ.

Hoàng Dung nói:

– Quá nhi từ nhỏ lang bạt đó đây, phải giam mình mãi trong tòa cổ mộ, liệu nó buồn chán hay không?

Tiểu Long Nữ cười, đáp:

– Có muội bên cạnh, sao lại buồn chán?

Hoàng Dung thở dài:

– Thời gian đầu dĩ nhiên sẽ không buồn chán. Nhưng vài năm sau sẽ luôn nhớ đến thế giới phồn hoa bên ngoài, nhớ mà không được ra, sẽ phiền não lắm.

Tiểu Long Nữ vốn rất vui vẻ, nghe xong mấy câu này, xịu mặt lại nói:

– Muội đi hỏi Quá nhi đây, muội không nói chuyện với tỷ tỷ nữa đâu.

Nói rồi ra khỏi phòng.

Hoàng Dung thảy khuôn mặt mỹ lệ của Tiểu Long Nữ thoáng qua bóng mây u ám, biết lời mình vừa nói đã làm tổn thương tấm lòng thiếu nữ hồn nhiên vô tà, thì rất ân hận; song lại nghĩ mình đã từng trải hơn hẳn đôi thiếu niên nam nữ này, lời nói thật dễ chướng tai, không biết Dương Quá sẽ trả lời ra sao?

Bèn rón rén tới bên cửa sổ phòng Dương Quá, nghe hai người đối đáp nhau.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Quá nhi, Quá nhi suốt đời chung sống với ta, sẽ không phiền não chứ?

Dương Quá đáp:

– Cô cô hỏi ta làm gì? Cô cô biết là ta hết sức vui lòng mà. Hai ta sẽ chung sống đến già, đến lúc tóc bạc trắng, răng rụng hết, cũng vẫn vui sướng không rời nhau.

Câu này chân tình, hoàn toàn thành thực. Tiểu Long Nữ nghe xong, cảm động, ngẩn ngơ một hồi, mới nói:

– Phải rồi, ta cũng thế.

Nàng giấy trong bọc ra sợi sây thừng, chăng ngang phòng, nói:

– Ngủ thôi!

Dương Quá nói:

– Quách bá mẫu bảo đêm nay cô cô hãy ngủ cùng phòng với mẫu nữ Quách bá mẫu, ta với huynh đệ họ Võ sẽ ngủ một phòng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không! Tại sao phải để hai nam nhân nằm với Quá nhi? Ta với Quá nhi sẽ ngủ một phòng.

Noi rồi phẩy tay tắt đèn.

Hoàng Dung nghe câu ấy thì kinh hãi, nghĩ thầm: "Sư đồ Quá nhi quả nhiên đã ăn nằm với nhau, Triệu Chí Kính nói không sai?"

Hoàng Dung cứ tưởng hai người nằm chung một giường, không tiện đứng ngoài nghe lén, đang định bỏ đi, đột nhiên thấy một vệt trắng chuyển động trong phòng, có người nằm vắt ngang giữa không trung, đung đưa mấy cái, rồi bất động.

Hoàng Dung lấy làm lạ, nhờ ánh trăng hắt vào phòng mà nhìn. Chỉ thấy Tiểu Long Nữ nằm vắt ngang trên một sợi dây, còn Dương Quá thì nằm trên giường.

Hai người tuy ngủ chung buồng, song vẫn giữ lễ. Hoàng Dung rón rén lui về, cảm thấy hai người này hành sự thật khác người thường.

Hoàng Dung đứng hồi lâu, đang định về phòng ngủ, bỗng nghe tiếng bước chân, Quách Phù vả huynh đệ họ Võ từ bên ngoài trở về. Hoàng Dung nói:

– Đôn nhi, Tu nhi, hai ngươi hãy thuê thêm một phòng, không ngủ chung với Dương gia ca ca nữa.

Huynh đệ họ Võ đáp ứng. Quách Phù hỏi:

– Mẹ, vì sao vậy?

Hoàng Dung đáp:

– Không liên quan đến ngươi.

Võ Tu Văn cười, nói:

– Điệt nhi biết vì sao. Hai người ấy sư chẳng ra sư, đồ chẳng ra đồ, cẩu nam cẩu nữ ngủ chung một buồng..

Hoàng Dung mắng:

– Tu nhi, ngươi nói nhăng nói cuội gì vậy?

Võ Đôn Nhu nói:

– Sư nương kể cũng lạ thật đấy, đối với người như hắn, ta cứ mặc xác hắn. Điệt nhi thì quyết không trò chuyện với hắn.

Quách Phù nói:

– Hôm nay hai người ấy đã cứu chúng ta, dẫu gì cũng là đại ân.

Võ Tu Văn nói:

– Huynh đệ ta thà để Kim Luân pháp vương giết đi, còn hơn phải mang ơn tên súc sinh ấy.

Hoàng Dung khó chịu, nói:

– Đừng nhiều chuyện nữa, mau đi ngủ đi.

Câu chuyện ngoài song ấy, Dương Quá và Tiểu Long Nữ đều nghe rõ ràng. Dương Quá từ nhỏ vốn đã bất hòa với huynh đệ họ Võ, nghe vậy chỉ cười. Tiều Long Nữ thì cứ trằn trọc: "Tại sao Quá nhi tốt với ta, lại thành tên súc sinh, cẩu nam cẩu nữ kia chứ?" Nghĩ mãi không ra, nửa đêm gọi Dương Quá dậy, hỏi:

– Quá nhi, có một việc Quá nhi phải thành thật trả lời ta. Quá nhi rồi đây sống với ta trong tòa cổ mộ, mấy năm sau có nhớ đến thế giới phồn hoa bên ngoài hay không?

Dương Quá đớ người hồi lâu không trả lời. Tiểu Long Nữ lại hỏi:

– Nếu không được ra ngoài, Quá nhi liệu có phiền não hay không? Lòng luyến ái ta của Quá nhi tuy không thay đổi, nhưng ở mãi trong tòa cổ mộ, liệu có phiền muộn hay không?

Hai câu trên, Dương Quá đều cảm thấy khó trả lời. Bây giờ nghĩ suốt đời được sống với Tiểu Long Nữ thì đúng là sướng như tiên, sống trong tòa nhà mồ lạnh giá, tối tăm mười năm, hai mươi năm cũng chưa chán, nhưng ba mươi năm thì sao? Bốn mươi năm sẽ thế nào? Nếu cứ trả lời bừa "Quyết không phiền muộn" thì chẳng có gì khó, song chàng đối với Tiểu Long Nữ hoàn toàn chân thành, không bao giờ nói dối, sau một lát ngẫm nghĩ, bèn đáp:

– Cô cô, giả dụ hai ta phiền muộn, thì lại cùng nhau ra ngoài đời.

Tiểu Long Nữ "ừm" một tiếng, không nói thêm, nghĩ thầm: "Quách phu nhân hóa ra nói đúng, tương lai rồi Quá nhi rồi sẽ phiền muộn; muốn rời khỏi nhà mộ, bấy giờ bị người người coi khinh, Quá nhi sống còn gì lạc thú? Mình tốt với Quá nhi, tại sao người ta lại coi khinh Quá nhi? Họ coi ta là kẻ xấu xa. Ta luyến ái chàng, thích chàng, họ muốn lấy mạng ta thì đi một nhẽ. Đàng này họ lại không chịu để cho chàng sống sung sướng, vậy thì chàng đừng lấy ta là hơn. Ngày nọ trên núi Chung Nam, Quá nhi không bằng lòng lấy ta làm thê tử, chắc là vì thế". Nàng suy đi nghĩ lại hồi lâu nghe tiếng thở đều đều của Dương Quá, biết chàng đang ngủ say, bèn nhẹ nhàng ngồi dậy, bước lại bên giường, chăm chú ngắm khuôn mặt tuấn tú của chàng, trong lòng thổn thức, bất giác lệ chảy ròng ròng.

Sáng hôm sau Dương Quá tỉnh giấc, thấy một bên vai ẩm ướt, Tiểu Long Nữ không có trong phòng, chàng ngồi dậy, thấy trên mặt bàn có viết tám chữ bằng kim châm: "Hãy tự bảo trọng, đừng nhớ ta nữa".

Dương Quá lập tức đầu óc rối loạn, sững sờ, thấy mặt bàn còn nhiều giọt nước mắt chưa khô hẳn, một bên vai áo là vì nước mắt của Tiểu Long Nữ. Thần trí hỗn loạn, chàng đẩy cửa sổ nhảy ra, gọi to:

– Cô cô, cô cô!

Điếm tiểu nhị chạy lại. Dương Quá hỏi y bạch y nữ khách đi từ lúc nào, đi về hướng nào, y trố mắt nhìn, không biết trả lời ra sao. Dương Quá lúc này ruột đứt trăm đoạn, nếu hôm nay tìm không thấy nàng, chỉ e khó lòng có ngày hội ngộ, liền chạy ra chuồng ngựa, dắt con ngựa gầy, cưỡi ngựa phóng đi.

Quách Phù trong phòng chạy ra hỏi:

– Dương đại ca, đi đâu vậy?

Dương Quá nghe mà không hiểu, phóng ngựa về hướng bắc theo đường cái, không lâu đã vượt mấy chục dặm. Chàng thi thoảng lại gọi to:

– Cô cô, cô cô!

Nhưng nào thấy bóng hình Tiểu Long Nữ.

Phóng ngựa một hồi nữa, chàng thấy bọn Kim Luân pháp vương cưỡi ngựa đi về hướng Tây. Bọn kia thấy Dương Quá một mình một ngựa, đều kinh ngạc, Kim Luân pháp vương thúc ngựa lại chỗ chàng.

Dương Quá không mang theo binh khí, đột nhiên chạm trán đại địch, đúng là mười phần hung hiểm, nhưng lúc này chàng chỉ nghĩ đến mỗi một điều là Tiểu Long Nữ đang ở đâu, không lo gì đến sự an nguy của bản thân mình, thấy Kim Luân pháp vương tế ngựa đến, chàng còn quay đầu ngựa về phía lão ta, hỏi:

– Lão hòa thượng có gặp sư phụ của tại hạ hay không?

Kim Luân pháp vương thấy chàng không bỏ chạy, đã lấy làm lạ, nghe chàng hỏi thế, càng ngạc nhiên hơn, đáp:

– Không gặp, nàng ta không đi cùng ngươi hay sao?

Hai người một hỏi một đáp, đều là vội vàng, không qua suy nghĩ, lúc này Dương Quá một thân một mình, không thể địch nổi Kim Luânn pháp vương. Hai người vừa nhìn nhau, chợt hiểu ngay. Dương Quá kẹp hai chân vào bụng ngựa, Kim Luân pháp vương đã giơ tay chộp đến. Nhưng con ngựa gầy thần tuấn phi phàm, phóng vút ngay đi. Kim Luân pháp vương giục ngựa đuổi theo, thoáng chốc Dương Quá một người một ngựa đã vọt xa cả dặm. Kim Luân pháp vương không đuổi theo nữa, chợt nghĩ thầm: "Sư đồ hắn mỗi đứa một nơi, ta còn sợ gì nữa? Hoàng bang chủ nếu chưa đi xa, hì hì.." Lão ta bèn dẫn đám võ sĩ Mông Cổ đi ngược trở lại. Dương Quá phóng ngựa liền mấy chục dặm, không thấy bóng dáng Tiều Long Nữ đâu cả, bỗng thấy nôn nao chóng mặt, suýt nữa ngã ngựa, trong lòng bi khổ: "Cô cô sao nỡ bỏ ta mà đi, ta lại đắc tội với cô cô hay sao? Trước khi bỏ đi, nàng khóc nhiều như thế, hẳn không phải là trách móc ta". Chợt nghĩ thầm: "Thôi đúng rồi, ta bảo ở lâu trong tòa cổ mộ nếu buồn chán, thì nàng lại cho rằng ta không chung tình với nàng".

Nghĩ tới đó, chàng lập tức hiểu ra: "Cô cô đã trở về tòa cổ mộ, ta về đó với nàng là xong". Bất giác chàng cười vui, lộn mấy vòng trên yên ngựa. Vừa rồi cứ cắm đầu phi ngựa, chẳng kể đông tây nam bắc; bây giờ chàng định thần lại, xác định rõ phương hướng, cho ngựa chạy về hướng núi Chung Nam. Trưa hôm đó chàng ghé vào một phạn điếm bên đường, ăn xong bữa, chưa trả tiền, thấy điếm chủ nhân không để ý, chàng nhảy ngay lên ngựa phóng đi, chỉ nghe có tiếng người chửi phía sau, đâu làm gì được chàng, nghĩ mà cười thầm.

Đi đến giờ Thân, thấy phía trước là một cánh rừng lớn sẫm màu, từ trong rừng vọng ra tiếng chửi mắng. Dương Quá hơi ngạc nhiên, lắng nghe, nhận ra giọng nói của Kim Luân pháp vương và Quách Phù.

Dương Quá biết là có chuyện, vội xuống ngựa, buộc dây cương vào hàm thiếc, nấp mình sau các thân cây tiến về phía có tiếng ồn, đi hơn mười trượng, thì thấy trong một bãi đá lổn nhổn ở sâu giữa rừng, mẫu nữ Hoàng Dung và huynh đệ họ Võ đang chống chọi với bọn Kim Luân pháp vương. Chỉ thấy huynh đệ họ Võ trên mặt và quần áo lốm đốm vết máu, Hoàng Dung và Quách Phù thì đầu tóc rối bời, thần tình hoảng hốt; xem ra nếu không phải Kim Luân pháp vương định bắt sống, thì bốn người đã bỏ mạng từ sớm dưới thiết luân của lão ta rồi.

Dương Quá nhìn một lát, nghĩ thầm: "Cô cô không có ở đây nếu mình xông ra giúp họ, chỉ e mất mạng. Phải làm sao bây giờ? Có cách gì cứu Quách bá mẫu hay không?" Chàng thấy Kim Luân pháp vương vung thiết luân tấn công, Hoàng Dung không dám đỡ, rút vào phía sau bãi đá lổn nhổn, Kim Luân pháp vương cứ loay hoay bên ngoài bãi đá, không đánh được tới chỗ Hoàng Dung. Dương Quá lấy làm lạ, nhìn kỹ, thấy Quách Phù và huynh đệ họ Võ cũng dựa vào bãi đá kia mà tránh địch, mỗi lúc nguy cấp lại nấp vào sau một tảng đá, bọn Đạt Nhĩ Ba phải đuổi vòng tảng đá, gần kịp thì ba người đã lại lẩn vào sau một tảng đá khác. Dương Quá rất đỗi kinh ngạc, thấy một bãi đá lổn nhổn mà lại diệu dụng như vậy, thật ngoài sức tưởng tượng; xem chừng nhóm Hoàng Dung bốn người tuy nguy mà an, chẳng qua không thể rời bỏ bãi đá gọi là "Loạn thạch trận" để đào thoát mà thôi.

Kim Luân pháp vương đánh mãi không xong, tuy đả thương huynh đệ họ Võ, nhưng họ chỉ bị thương nhẹ, bên lão có một võ sĩ bị Quách Phù đâm chết, lão thấy "Loạn thạch trận" mà Hoàng Dung bố trí rất cổ quái, phải tìm hiểu chỗ huyền diệu của nó đã, mới có thể bắt sống bốn người. Lão tự phụ tài trí hơn người, đàng nào thì bốn người này cũng không thoát nổi tay lão; chờ lão tìm ra cách bố trí "Loạn thạch trận", rồi sẽ xông vào bắt. Thế là lão khoát tay cho cả bọn đồ đệ lui ra, bản thân lão cũng lùi về hơn một trượng, quan sát "Loạn thạch trận" thật kỹ.

Phàm hành binh bố trận, không ra ngoài sự biến hóa Thái cực, Lưỡng nghi, Ngũ hành, Bát quái. Kim Luân pháp vương tinh thông Kỳ môn diệu thuật, nghĩ bụng "Loạn thạch trận" tuy quái lạ, song cũng không nằm ngoài đạo lý Ngũ hành sinh khắc.

Nào ngờ lão ngẫm nghĩ chán chê, tường đã tìm ra đầu mối, song nghĩ sâu thêm, lại thấy hoàn toàn không đúng, đúng với cánh bên phải, thì cánh bên trái đã biến đổi, tưởng thông phía trước của trận pháp, thì phía sau lại bị bế tắc, lão bất giác đứng ngây tại chỗ, khâm phục trận đồ. Lão văn, võ toàn tài, đúng là nhân vật siêu quần thời nay, bây giờ lại gặp nan đề, quyết ý dùng tài trí hóa giải mới thỏa chí.

Dương Quá thấy Kim Luân pháp vương cau mày trầm tư, hồi lâu bất động, đột nhiên ánh mắt bừng sáng, thân hình vọt đi, xông thẳng vào "Loạn thạch trận", túm được cánh tay Quách Phù, lập tức lui ra.

Sự việc đột biến, Hoàng Dung và huynh đệ họ Võ cả kinh, luống cuống chân tay, nếu nhảy ra cứu, không thề thoát khỏi độc thủ của Kim Luân pháp vương.

Nguyên Quách Phù thấy kẻ địch đứng ngây một chỗ, nhất thời sơ ý, không đứng đúng vị trí mẫu thân chỉ định, rời khỏi chỗ che chắn của trận pháp.

Kim Luân pháp vương vừa phát hiện có sơ hở, lập tức xuất thủ bắt sống nàng, điểm huyệt bên sườn rồi bỏ nằm dưới đất. Lão ta cố ý không điểm á huyệt, để cho nàng rên rỉ cầu cứu, khiến Hoàng Dung phải xông ra khỏi "Loạn thạch trận". Quách Phù cảm thấy toàn thân tê tái khó chịu, không nhịn được, rên lên đau đớn. Hoàng Dung làm gì chẳng biết đó là quỉ kế của kẻ địch, nhưng nghe tiếng rên rỉ của nữ nhi, lòng đau như cắt, đành cắn môi nín nhịn.

Dương Quá ở sau thân cây nhìn rất rõ, thấy Hoàng Dung lăm lăm cây gậy trúc, sắp xông ra khỏi "Loạn thạch trận" để cứu ái nữ, việc đó cực kỳ nguy hiểm, Dương Quá không nghĩ ngợi gì nữa, nhảy vọt ngay ra, túm lấy sau lưng Quách Phù, lao vào trong "Loạn thạch trận". Kim Luân pháp vương phóng thiết luân đánh tới sau lưng chàng, Dương Quá đang lơ lửng trên không, khó né tránh, bèn quăng mạnh Quách Phù về phía Hoàng Dung, đồng thời sử chiêu "Thiên cân trụy", cho thân hình rơi thẳng xuống, huỵch một cái, ngã ngay xuống bãi đá, chỉ nghe tiếng kính coong vang liên tục, cái thiết luân bay vào qua đầu chàng, vòng trở về tay Kim Luân pháp vương. Hoàng Dung ôm lấy ái nữ, cả mừng, thấy Dương Quá lóp ngóp bò dậy giữa bãi đá, má tím mũi sưng, vội giơ cây gậy trúc chỉ dẫn cho chàng lối vào "Loạn thạch trận". Kim Luân pháp vương thấy mình sắp thành công, lại bị Dương Quá phá đám, tuy vậy lão chuyển giận thành vui, cười khẩy, nói:

– Càng hay, ngươi ngoan ngoãn tự chui vào lưới, để ta tóm cổ ngươi luôn thể.

Dương Quá vừa cứu người, quả thực vì nghĩa khí, sau khi vào trong "Loạn thạch trận" rồi, mới nghĩ lần này khó hi vọng thoát chết để gặp lại Tiểu Long Nữ, thì thầm ân hận.

Hoàng Dung hỏi:

– Sư phụ của ngươi đâu rồi?

Dương Quá rầu rĩ nói:

– Nàng đột nhiên nửa đêm bỏ đi, điệt nhi đang đi tìm nàng.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Quá nhi, ngươi đâu cần làm như vậy?

Dương Quá chỉ cười buồn, lắc đầu nói:

– Điệt nhi vẫn ngu ngốc lắm, nhiệt huyết đã dâng lên là điệt nhi không còn làm chủ mình được nữa.

Hoàng Dung nói:

– Hảo hài tử, ngươi thật tốt bụng, khác hẳn phụ..

Nói nửa chừng, bỗng nhiên ngừng bặt. Dương Quá giọng run run, hỏi:

– Quách bá mẫu, phụ thân của điệt nhi là người xấu phải không?

Hoàng Dung cúi đầu, nói:

– Ngươi muốn biết điều đó làm gì?

Đột nhiên kêu lên:

– Cẩn thận, lại đây nào.

Liền kéo Dương Quá qua một tảng đá tránh đòn đánh lén của Kim Luân pháp vương.

Dương Quá quan sát trước sau "Loạn thạch trận" một hồi, rồi thán phục, nói:

– Quách bá mẫu, thông minh tài trí như bá mẫu, trên thế gian thật không có người thứ hai.

Hoàng Dung đang xoa bóp giải huyệt cho Quách Phù, mỉm cười không đáp. Quách Phù nói:

– Dương đại ca biết không, bản sự của mẹ muội đều do ngoại công (ông ngoại) dạy đấy. Ngoại công mới ghê cơ.

Dương Quá từng thấy cách bày trận của Hoàng Dược Sư ở Đào Hoa đảo, có điều là hồi nhỏ chàng không thể hiểu cái hay của nó, bây giờ nghe Quách Phù nhắc đến, chàng liền gật gật đầu, bất giác thở dài, mơ màng:

– Biết bao giờ mới được bái kiến Hoàng lão nhân gia một lần, cũng không uổng một đời.

Đột nhiên Kim Luân pháp vương lại vượt qua hai tảng đá, xông tới tấn công. Dương Quá trong tay không có binh khí, bèn nhặt cây gậy trúc Hoàng Dung để dưới đất, vung lên ngăn chặn, vù vù hai gậy, đã sử Đả cẩu bổng pháp. Kim Luân pháp vương thấy Đả cẩu bổng pháp của chàng tinh diệu, ngưng thần tiếp chiến, giao đấu mấy chiêu, cả hai bỗng cùng vấp vào đá mà loạng choạng suýt ngã. Kim Luân pháp vương sợ bị ám toán, vội nhảy ra khỏi "Loạn thạch trận".

Hoàng Dung chỉ dẫn cho Dương Quá đi vào, sai huynh đệ họ Võ và Quách Phù lăn đá, thay đổi "Loạn thạch trận", hỏi Dương Quá:

– Đả cẩu bổng pháp, rốt cuộc là ngươi học ở đâu vậy?

Thế là Dương Quá cứ thực tình kể lại trên đỉnh Hoa Sơn chàng đã gặp Hồng Thất Công như thế nào, rồi Bắc Cái và Tây Độc tỷ võ ra sao, Hồng Thất Công truyền thụ Đả cẩu bổng pháp thế nào; nhưng Dương Quá sợ kích động tâm thần Hoàng Dung, nên giấu việc Hồng Thất Công đã tạ thế. Hoàng Dung thở dài, nói:

– Quá nhi, sự tình cờ của ngươi quả thực hi hữu vô cùng.

Bỗng nảy ra một ý, nói:

– Quá nhi, ngươi rất thông minh, hãy thử nghĩ xem có cách gì thoát nạn này không?

Dương Quá nhìn thần tình của Hoàng Dung, biết Hoàng Dung đã nghĩ ra kế sách, nhưng còn làm như chưa biết, đáp:

– Nếu Quách bá mẫu không bị bệnh, cùng điệt nhi đấu với Kim Luân pháp vương, có thể chiến thắng; hoặc có sư phụ của điệt nhi tới cũng vậy.

Hoàng Dung nói:

– Bệnh của ta làm sao có thể khỏi ngay? Sư phụ của ngươi cũng không biết đi đâu rồi. Ta có một cách, ấy là sử dụng "Loạn thạch trận". "Loạn thạch trận" là do phụ thân ta truyền thụ, biến hóa tài tình, vừa rồi mới chỉ dùng đến hai thành của nó mà thôi.

Dương Quá vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nghĩ Hoàng Dược Sư nghiên cứu thiên địa nhân sâu xa, thật đáng khâm phục.

Hoàng Dung nói:

– Đả cẩu bổng pháp mà sư phụ ta truyền thụ cho ngươi chỉ là chiêu thức, khẩu quyết mà ngươi ở trên cây nghe ta đọc chỉ là đại ý. Bây giờ ta sẽ đem mọi biến hóa tinh vi trong Đả cẩu bổng pháp pháp dạy hết cho ngươi.

Dương Quá cả mừng, nói nhún nhường mà thực ra là để tiến tới:

– Điệt nhi chỉ sợ không tiện, Đả cẩu bổng pháp trừ bang chủ Cái Bang, xưa nay không truyền cho người ngoài.

Hoàng Dung lườm một cái, nói:

– Trước mặt ta ngươi còn giả bộ nữa ư? Đả cẩu bổng pháp, sư phụ ta đã truyền cho ngươi ba thành, ngươi nghe lén được hai thành, bây giờ ta dạy cho người hai thành. Còn ba thành nữa, ngươi hãy dùng tài trí của mình mà lĩnh hội, không ai truyền thụ được cho ngươi đâu. Môn này, một là không có ai truyền thụ toàn bộ cho ngươi; hai là hôm nay tình thế cấp bách, đành phải tòng quyền.

Dương Quá quì xuống, vái mấy cái, cười, nói:

– Quách bá mẫu, hồi điệt nhi còn nhỏ, bá mẫu đã bằng lòng truyền thụ võ công cho điệt nhi, hôm nay mới truyền thụ, cũng vẫn chưa muộn.

Hoàng Dung mỉm cười hỏi:

– Trong bụng ngươi vẫn chưa quên mối hận cũ, phải không?

Dương Quá cười, đáp:

– Điệt nhi đâu dám!

Hoàng Dung đem những điều huyền diệu của bổng pháp nói cặn kẽ cho một mình Dương Quá nghe. Kim Luân pháp vương đứng bên ngoài "Loạn thạch trận" thấy Dương Quá khấu đầu trước Hoàng Dung, rồi hai người cười cười nói nói với nhau chẳng biết những gì, xem ra không có vẻ gì là sợ sệt, không coi lão ta vào đâu cả. Tuy lão tức giận, nhưng quen thận trọng, biết hai người võ công tuy không địch nổi lão, song quỉ kế đa đoan, thiếu cẩn thận sẽ mắc lừa họ ngay, chi bằng cứ suy tính bí ẩn của trận pháp kia cho rõ, rồi hãy định đối sách. May mà Kim Luân pháp vương tạm dừng tấn công, Hoàng Dung và Dương Quá không cần ứng chiến, chưa đến nửa canh giờ đã truyền thụ xong mọi yếu quyết.

Dương Quá thông minh đĩnh ngộ gấp trăm lần Lỗ Hữu Cước, nghe một biết mười, đã thế môn bổng pháp này chàng đã hao tốn bao tâm huyết để suy đoán cho hiểu thấu về nó, hôm nay Hoàng Dung chỉ dẫn một chút là chàng đã lập tức quán thông. Kim Luân pháp vương thấy Hoàng Dung thần sắc nghiêm trang an tường, miệng mấp máy, Dương Quá thì chăm chú lắng nghe, mặt mày hớn hở, lão không biết hai người kia đang giở trò quỉ gì, song rõ ràng là bất lợi cho lão.

Dương Quá nghe xong yếu quyết, hỏi rõ mươi điều chưa rõ, Hoàng Dung giải thích xong xuôi, nói:

– Được rồi, các câu hỏi của ngươi chứng tỏ ngươi đã lĩnh hội đủ. Bước thứ hai là chúng ta hãy dụ lão hòa thượng kia vào đây để bắt sống lão ta.

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Bắt sống lão ta ư?

Hoàng Dung nói:

– Việc đó có gì là khó? Bây giờ ta và ngươi liên thủ với nhau, cả trí và lực đều đã hơn lão ta rồi. Nếu ta đem cái sự huyền diệu của "Loạn thạch trận" giảng cho ngươi, nhất thời ngươi khó lĩnh hội được, may mà ngươi có trí nhớ cực tốt, nên ngươi chỉ cần nhớ kỹ ba mươi sáu cách biến hóa là được.

Rồi bắt đầu giảng lần lượt, Thanh Long làm thế nào diễn thành Bạch Hổ, Huyền Vũ làm sao lại biến thành Chu Tước. Nguyên "Loạn thạch trận" này là biến đổi từ Bát trận đồ của Gia Cát Lượng mà ra.

Năm xưa Gia Cát Lượng tại bến sông Trường Giang dùng các khối đá xếp thành trận pháp, đại tướng Lục Tốn của Đông Ngô sau khi xông vào trong đó, không thể thoát ra. Hôm nay Hoàng Dung bố trí "Loạn thạch trận" là theo phép tắc của Gia Cát Võ Hầu, có điều sự thể bất ngờ, bố trí chưa trọn vẹn, đại địch đã tới, nên "Loạn thạch trận" có qui mô nhỏ hơn mà thôi. Tuy thế nó cũng đã khiến cho Kim Luân pháp vương tâm thần bất định, cứ trố mắt nhìn năm người trước mặt mà không dám xông vào động thủ.

Ba mươi sáu cách biến hóa trận đồ, quả thật phức tạp huyền diệu, Dương Quá tuy rất thông minh, nhất thời cũng chỉ nhớ được hơn mười cách. Thấy trời sắp tối Kim Luân pháp vương có vẻ muốn động thủ.

Hoàng Dung nói:

– Mười mấy cách biến hóa, đã đủ vây khốn địch thủ rồi. Ngươi hãy ra dụ lão ta vào trận, ta biến đổi trận pháp, vây khốn lão ta.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Quách bá mẫu, sau này nếu điệt nhi đến Đào Hoa đảo, bá mẫu có chịu dạy nốt môn học này cho điệt nhi hay chăng?

Hoàng Dung mỉm cười, gió thổi tóc bay bay, trời gần tối gió mạnh lên, Hoàng Dung nói:

– Nếu người chịu đến, lẽ nào ta không dạy? Ngươi đã xả thân cứu ta và Phù nhi hai phen, không lẽ ta còn đối xử với ngươi như cũ hay sao?

Dương Quá nghe xong, trong lòng cực kỳ ấm áp; bây giờ Hoàng Dung có bảo chàng làm bất cứ việc gì, chàng cũng không quản ngại, thế là liền cầm cây gậy trúc, ra ngoài "Loạn thạch trận", gọi to:

– Này Thiết Luân pháp vương, lão có gan thì tới đây đấu với ta ba trăm hiệp!

Kim Luân pháp vương đang lo mấy người trong "Loạn thạch trận" bày trò quỉ ám hại lão; thấy Dương Quá ra khỏi trận khiêu chiến, thì thật là không cầu mà được, bèn vung thiết luân loong coong đánh tới.

Lão sợ Dương Quá sắp thua, lại chạy vào "Loạn thạch trận", nên sau hai chiêu, lão chặn ngay phía sau lưng chàng, buộc chàng phải rời xa "Loạn thạch trận". Không ngờ Dương Quá mới học được tinh yếu của Đả cẩu bổng pháp, đem ra sử theo khẩu quyết tám chữ Bạn, Phách, Triền, Tróc, Khiêu, Dẫn, Phong, Chuyển, quả nhiên biến hóa tinh vi, xuất thần nhập hóa. Kim Luân pháp vương sơ ý một chút, bị chàng chọc một gậy vào đùi, tuy trong lúc nguy cấp lão đã phong bế huyệt đạo, nên không bị thương, nhưng cũng đau, nhức nhối hồi lâu.

Bị một đòn rồi, lão không dám khinh thường, giơ thiết luân ngưng thần nghênh chiến, đối thủ trước mắt chỉ là một gã thiếu niên mười mấy tuổi, song lão coi như đại địch, lúc công thì linh hoạt, lúc thủ thì chặt chẽ, y như đang phải đối phó với một vị đại tông sư môn phái không bằng. Dương Quá cảm thấy khó cầm cự, Đả cẩu bổng pháp tuy kỳ diệu, song vừa học dùng ngay, khó bề tận thông; chàng bèn theo khẩu quyết chữ "Phong", ngăn chặn thế công của cái thiết luân, di chuyển cước bộ, tả xung hữu đột. Kim Luân pháp vương thấy cây gậy trúc của đối phương biến chiêu, thấy Dương Quá xông ra phía ngoài, nghĩ bụng thế này quá tốt, cứ thế dẫn dụ chàng rời xa "Loạn thạch trận", không ngờ lùi được mươi bước, đột nhiên chân phải vấp vào một tảng đá, thì ra chính lão đã bị dụ vào "Loạn thạch trận" lúc nào không biết.

Lão biết là hỏng rồi, chỉ nghe Hoàng Dung luôn miệng nói:

– Chu Tước di Thanh Long, vị trí Tốn đổi thành vị trí Ly, Ất mộc biến Quý thủy.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ xê dịch các tảng đá, "Loạn thạch trận" nhanh chóng biến đổi. Kim Luân pháp vương tái mặt cả kinh, dừng cái thiết luân chờ quan sát tình hình bốn phía, cây gậy trúc của Dương Quá lại đánh tới. Đả cẩu bổng pháp đánh chính diện với lão thì chưa đáng ngại, nhưng giữa lúc lão đang rối trí, thì có thừa lợi hại; Kim Luân pháp vương bị vấp chân liền mấy cái, đứng không vững, biết là "Loạn thạch trận" quá ư lợi hại, đã sa chân vào đây, càng di động càng loạn, trong cơn nguy cấp, lão quát to một tiếng, nhảy lên trên đống đá. Lẽ ra đứng trên đống đá sẽ không bị "Loạn thạch trận" vây hãm, không bị mê loạn phương vị, chứ cứ ở bên dưới chạy chán vẫn cứ loanh quanh trong vòng tròn mươi trượng của "Loạn thạch trận", cuối cùng tinh hao lực tận, thì chỉ còn cách khoanh tay chờ chết. Nhưng Kim Luân pháp vương vừa nhảy lên trên một tảng đá, Dương Quá đã vung gậy trúc quật ngang ống chân, thiết luân của lão ngắn, không thể cúi thấp chống đỡ, lão đành phải nhảy xuống đất, vung thiết luân phản kích.

Lại đấu thêm mươi chiêu, trời đã sẩm tối, bốn phía nhấp nhô loạn thạch, "Loạn thạch trận" tựa hồ thấp thoáng nhiều bóng ma quỉ, lão dẫu to gan, cũng không khỏi rùng mình. Đột nhiên óc lão lóe lên một kế, lão dùng chân trái hất một hòn đá chừng hơn hai chục cân bay lên cao, rồi chân phải cũng hất một hòn lên cao. Lão cứ thế dùng hai chân hất đá bay lên, các hòn đá va vào nhau tóe lửa, có hòn vỡ ra, rơi xuống; "Loạn thạch trận" tức thời bị phá vỡ. Nhóm Hoàng Dung năm người cả kinh, cứ phải không ngừng né tránh các hòn đá từ trên cao rơi xuống.

Lúc này nếu Kim Luân pháp vương muốn ra khỏi "Loạn thạch trận", đã dễ như trở bàn tay; song lão lại chuyển từ thủ sang công, tay trái vươn dài, túm lấy Hoàng Dung. Dương Quá chọc mũi cây gậy vào sau lưng lão, lão vung chếch cái thiết luân gạt gậy đi, tay trái lại túm lấy bả vai Hoàng Dung. Hoàng Dung đã định nhảy tránh về phía sau, nhưng nghe tiếng gió mạnh, một hòn đá lớn từ trên cao đang rơi xuống phía sau, nàng đành thi triển đại cầm nã thủ pháp, chộp lấy cổ tay trái của Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương thốt lên:

– Hay lắm!

Lão chờ nàng nắm cổ tay mình, tiện thế vận thần lực giật mạnh nàng về phía lão một cái.

Nếu là ngày thường, Hoàng Dung có thể vận kình đẩy ra, nhưng lúc này nội lực không đủ, kêu ối và ngã sấp xuống. Dương Quá bất chấp an nguy sống chết, lao tới ôm hai cẳng Kim Luân pháp vương, cả hai người cùng ngã. Kim Luân pháp vương võ công cao hơn hẳn chàng, thân hình chưa chạm đất, lão đã đánh ra một chưởng vào ngực chàng, Dương Quá vội giơ tay trái chống đỡ. "Bộp" một cái, Dương Quá cảm thấy khí huyết nhộn nhạo trong ngực, thân hình bay đi như một bó lúa.

Đúng lúc ấy, một hòn đá lớn từ trên cao rơi xuống, giáng trúng lưng Kim Luân pháp vương, nghe huỵch một tiếng; nội công của lão dẫu thâm hậu đến mấy, cũng không chịu nổi, tuy lão vận công đẩy được tảng đá sang bên cạnh, nhưng cũng lảo đảo, cuối cùng ngã gục xuống.

Lúc này đá rơi trận vỡ, Hoàng Dung, Dương Quá, Kim Luân pháp vương ba người cùng bị thương, nằm cả dưới đất.

Comments

Comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 15: Đệ Tử Đông Tà

Đạt Nhĩ Ba cùng đám võ sĩ Mông Cổ ở bên ngoài "loạn thạch trận", Quách Phù và huynh đệ họ Võ ở trong "loạn thạch trận" cùng kinh hãi, đổ xô lại cứu. Đạt Nhĩ Ba thần lực kinh nhân, trong đám võ sĩ Mông Cổ cũng có vài hảo thủ, Quách Phù và huynh đệ họ Võ làm sao địch nổi? Đột nhiên Kim Luân pháp vương loạng choạng đứng dậy, rung cái thiết luân kêu loong coong một hồi, sắc diện nhợt nhạt, ngửa mặt cười một cách thê thảm, mọi người kinh hãi nhìn nhau, không dám tiến lại.

Kim Luân pháp vương trầm giọng nói:

– Lão nạp bình sinh động thủ với người, chưa bao giờ bị một vết thương nhỏ, hôm nay tự mình lại đả thương mình.

Rồi giơ tay túm lấy lưng Hoàng Dung. Dương Quá bị chưởng lực của lão ta làm chấn thương vùng ngực, bò dưới đất chưa dậy nổi, thấy Hoàng Dung bị nguy, bèn giơ cây gậy trúc gạt chưởng của lão ta ra, do gắng sức, chàng hộc ra một ngụm máu tươi. Hoàng Dung buồn rầu nói:

– Quá nhi, chúng ta nhận thua cho rồi, đừng liều mạng nữa, hãy tự bảo trọng.

Quách Phù chĩa kiếm bảo hộ trước mặt mẫu thân. Dương Quá nói nhỏ:

– Phù muội, mau chạy đi, báo tin cho phụ thân muội cần hơn.

Quách Phù tâm trí rối bời, biết là mình võ công thấp kém, nhưng làm sao nỡ bỏ mẫu thân mà đi? Kim Luân pháp vương dùng thiết luân đánh nhẹ vào thanh kiếm của nàng, keng một tiếng, thanh kiếm bị văng ngay về phía rừng cây.

Kim Luân pháp vương đang định gạt Quách Phù ra để bắt Hoàng Dung, thì bỗng nghe một thanh âm trong trẻo vang lên:

– Hãy khoan!

Một cái bóng áo xanh từ trong rừng cây nhảy ra, giơ tay đón thanh kiếm sắp rơi, sau ba cú nhảy đã tới bên cạnh. Kim Luân pháp vương thấy mặt mày người kia rất đáng sợ, ba phần giống người, bảy phần giống quỉ, bình sinh chưa từng gặp thứ diện mạo quái đản thế này, không khỏi giật mình, quát:

– Là ai vậy?

Thiếu nữ không trả lời, cúi xuống lăn một hòn đá vào chắn giữa lão ta với Hoàng Dung, nói:

– Các hạ có phải là Kim Luân pháp vương tiếng tăm lừng lẫy đó chăng?

Diện mạo của thiếu nữ tuy xấu xí, nhưng giọng nói trong trẻo lạ thường.

Kim Luân pháp vương đáp:

– Không sai. Tôn giá là ai?

Thiếu nữ nói:

– Tiểu nữ là kẻ vô danh, các hạ khỏi cần biết.

Nói rồi lại di chuyển một hòn đá khác đi ba thước. Lúc này mặt trời đã lặn, rừng cây một dải mông lung, Kim Luân pháp vương chợt lo ngại, quát to để ngăn thiếu nữ không được lăn đá:

– Ngươi làm trò gì vậy?

Thiếu nữ nói:

– Giốc mộc giao biến Cang kim long!

Quách Phù và huynh đệ họ Võ ngẩn người, nghĩ thầm: "Thiếu nữ này cũng biết cách biến hóa loạn thạch trận ư?" Nghe giọng nói của nàng ta uy nghiêm như mệnh lệnh, ba người vội y lời, lăn bốn, năm hòn đá, trận pháp tán loạn đã được phục hồi.

Kim Luân pháp vương vừa kinh ngạc vừa tức giận, quát:

– Nhãi ranh như ngươi cũng đòi làm loạn!

Chỉ nghe thiếu nữ lại nói:

– Tâm nguyệt hồ chuyển Phòng nhật thố, Tất nguyệt điểu di Khuê mộc lang, Nữ thổ bức tiến Thất hỏa trư.

Nàng toàn gọi tên phương vị của Nhị thập bát tú. Quách Phù và huynh đệ họ Võ nghe rõ rành rành, hệt như khi Hoàng Dung chủ trì trận pháp, thì cả mừng, ra sức di động các tảng đá, thấy rõ lại vây khốn Kim Luân pháp vương vào trong.

Kim Luân pháp vương bị hòn đá rơi trúng lưng, cố vận nội lực cầm cự, nhưng kỳ thực đã bị nội thương không nhẹ, không còn đủ sức hất hoặc lăn các hòn đá, biết rằng chỉ cần chậm trễ giây lát, sẽ bị hãm thân trong "Loạn thạch trận", đệ tử Đạt Nhĩ Ba tuy có dũng lực, nhưng không hiểu trận pháp, khó lòng vào cứu; Hoàng Dung thì vừa gắng gượng đứng dậy được, chỉ cần tiến vài bước là đủ bắt sống nàng ta, nhưng lão nghĩ điều cốt yếu là lão phải thoát thân, bèn vung thiết luân giả bộ đánh tới ngực Võ Tu Văn.

Sau khi bị thương, cánh tay lão đã mất hết sức lực phải mười phần gắng sức mới giơ nổi cái thiết luân; Võ Tu Văn giả dụ dùng kiếm đỡ gạt, thì thừa sức đánh rớt binh khí của lão. Nhưng trông lão uy phong lẫm hệt, tuy là hư chiêu, mà trông cứ dũng mãnh phi thường, Võ Tu Văn không dám chống đỡ, vội thu mình vào trong "loạn thạch trận".

Kim Luân pháp vương thong thả ra khỏi "loạn thạch trận", đứng ngây một hồi, nghĩ thầm: "Hôm nay bỏ lỡ thời cơ, chỉ e mai sau khó còn gặp lại. Không lẽ ông trời quả thật phù hộ cho Đại Tống, không cho đại sự của ta được thành toàn? Võ lâm Trung Nguyên quá nhiều anh tài, chỉ vài gã thiếu niên nam nữ cũng đã văn võ kiêm toàn, đoàn hào kiệt Mông – Tạng của ta vì khinh địch mà đành bại trận". Lão thở dài, quay đầu bỏ đi, mới được mươi bước, đột nhiên nghe "choang" một tiếng, cái thiết luân rơi xuống đất, thân hình lão lảo đảo.

Đạt Nhĩ Ba cả kinh, gọi to:

– Sư phụ!

Chạy tới đỡ, vội hỏi:

– Sư phụ có sao không?

Kim Luân pháp vương cau mày im lặng, đưa tay quàng vai y, nói nhỏ:

– Đáng tiếc, đáng tiếc! Đi thôi!

Một võ sĩ Mông Cổ dắt ngựa lại. Kim Luân pháp vương bị trọng thương, không còn đủ sức leo lên lưng ngựa, Đạt Nhĩ Ba phải dùng bàn tay trái đỡ lưng sư phụ lên yên. Đoàn người ấy bỏ đi về hướng đông.

Thanh y thiếu nữ thong thả tới bên cạnh Dương Quá, chậm rãi cúi người quan sát sắc diện của chàng, muốn biết thương thế ra sao. Lúc này trời đã tối mịt, cách hơn một thước nhìn không rõ, nàng phải cúi thật gần, thấy chàng hai mắt mở to thất thần, hơi thở hổn hển, hiển nhiên bị thương không nhẹ.

Trong cơn nửa mê nửa tỉnh, Dương Quá thấy trước mặt mình một đôi mắt đen láy hiền hòa, hệt như ánh mắt Tiểu Long Nữ vẫn nhìn chàng, vừa dịu dàng, vừa ấm áp, bèn giơ hai tay ôm lấy nàng, gọi:

– Cô cô, Quá nhi bị thương rồi, cô cô đừng bỏ mặc Quá nhi mà đi nhé.

Thiếu nữ vừa ngượng vừa lo, đẩy nhẹ ra. Vết thương ở ngực Dương Quá lập tức đau nhói, chàng kêu ối một tiếng. Thiếu nữ đành để yên, nói nhỏ:

– Muội không phải là cô cô của huynh đâu, huynh hãy buông muội ra nào.

Dương Quá nhìn trân trân vào mắt nàng, khẩn cầu:

– Cô cô đừng bỏ mặc ta, ta.. ta.. ta là Quá nhi của cô cô đây mà.

Thiếu nữ mềm lòng, dịu dàng nói:

– Muội không phải là cô cô của huynh đâu.

Trời tối như bưng, diện mạo đáng sợ của thiếu nữ nhòa lẫn, chỉ còn đôi mắt long lanh phát sáng. Dương Quá kéo tay nàng, không ngớt khẩn cầu:

– Phải mà, phải mà! Cô cô đừng bỏ mặc ta.

Thiếu nữ đành để cho chàng ôm, ngượng ngùng run rẩy cả người, không biết nên làm thế nào. Đột nhiên Dương Quá bừng tỉnh, biết người này không phải là Tiểu Long Nữ, thì quá ư thất vọng, trong đầu thấy trời xoay đất chuyển, lập tức ngất đi.

Thiếu nữ kinh hãi, thấy Quách Phù và huynh đệ họ Võ đều vây quanh Hoàng Dung hỏi han hầu hạ, không ai để ý đến Dương Quá, nàng nghĩ chàng bị thương rất nặng, nếu không cho uống linh dược mà sư phụ bí mật chế ra, e sẽ nguy đến tính mạng, bèn cõng chàng rời khỏi bãi đá, rồi thong thả ra khỏi cánh rừng. Con ngựa gầy của Dương Quá cực kỳ tinh khôn, nhận biết chủ nhân, chạy lại gần. Thiếu nữ đặt Dương Quá nằm lên lưng ngựa, rồi nàng dắt ngựa mà đi.

Dương Quá cứ lúc mê lúc tỉnh, có lúc thấy thiếu nữ bên cạnh là Tiểu Long Nữ thì sung sướng gọi, có lúc phát hiện không phải, toàn thân tưởng như rơi xuống hố băng. Cũng không biết bao nhiêu lâu sau, tự nhiên thấy cổ họng mát rượi, lan dần tới vết thương trong ngực, cảm giác dễ chịu vô cùng, mới từ từ mở mắt ra, thì không khỏi kinh ngạc, hóa ra chàng đang nằm trên giường, đắp ngang mình một tấm chăn mỏng. Chàng định ngồi dậy, bỗng thấy xương ngực đau nhói, không dám cựa quậy nữa.

Quay đầu nhìn ra, chỉ thấy bên song cửa một thanh y thiếu nữ tay trái đè giấy, tay phải cầm bút đang viết. Nàng ngồi quay lưng về phía chàng, không nhìn thấy diện mạo, nhưng thân hình nàng thon thả, mảnh mai, kiều mỹ vô cùng. Nhìn xung quanh, thấy đây là một gian nhà lá, bàn ghế, giường đều bằng gỗ, hết sức giản dị mộc mạc, bốn bức tường sạch bong, không một vết bụi, thanh u tuyệt tục. Trên cái chõng tre cạnh giường có một chiếc đàn dao và một cây sáo trúc.

Chàng chỉ nhớ mình bị thương trong trận ác đấu với Kim Luân pháp vương tại "loạn thạch trận", không biết tại sao được mang đến đây, chỉ nhớ mang máng mình nằm trên lưng ngựa, có người dắt ngựa đi, người đó là nữ. Bây giờ nhìn kỹ sau lưng, nhớ ra người ấy chính là thiếu nữ đang ngồi kia. Thiếu nữ đang mải viết, chỉ thấy cánh tay phải nàng ta lay động nhẹ, tư thế thanh thoát tự nhiên. Nơi đây tĩnh mịch hoàn toàn, so với cuộc ác đấu ở "loạn thạch trận" vừa rồi thật y như một thế giới khác. Chàng không dám lên tiếng làm phiền thiếu nữ, cứ nằm yên như thể vừa tỉnh sau một giấc mộng hoặc một cơn say.

Bỗng nhiên chàng nhớ ra, thanh y thiếu nữ kia chính là người ở dọc đường Tràng An đã cảnh báo cho chàng biết về Lý Mạc Sầu, sau đó liên thủ với chàng cứu Lục Vô Song, chàng nghĩ hai bên không quen biết thân thích gì, tại sao nàng lại cứu chàng thế này? Chàng buột miệng, hỏi:

– Tỷ tỷ, thì ra lại là tỷ tỷ cứu sống đệ.

Thiếu nữ dừng bút, không ngoảnh lại, dịu dàng nói:

– Cũng không thể nói là muội cứu sống huynh, muội tình cờ đi qua, thấy lão hòa thượng Tây Tạng quá càn rỡ, huynh lại bị thương..

Nàng nói rồi hơi cúi đầu xuống.

Dương Quá nói:

– Tỷ tỷ, đệ.. đệ..

Chàng cảm kích, nhất thời nghẹn ngào nói không nên lời.

Thiếu nữ nói:

– Huynh có lòng nghĩa hiệp, bất chấp nguy hiểm cứu mạng người khác, chứ muội chỉ giúp được tí chút, đâu có đáng gì.

Dương Quá nói:

– Quách bá mẫu đối với đệ có ơn dưỡng dục, Quách bá mẫu gặp nguy nan, đệ ắt phải cứu, còn tỷ tỷ với đệ..

Thiếu nữ nói:

– Muội không nói đến Quách bá mẫu của huynh, mà là nói về Lục Vô Song muội tử.

Ba chữ "Lục Vô Song" Dương Quá đã lâu không nhớ tới, nghe thiếu nữ nhắc đến, vội hỏi:

– Lục cô nương có được bình an chăng? Vết thương đã lành hẳn chưa?

Thiếu nữ nói:

– Đa tạ huynh quan hoài, vết thương của Lục muội đã lành hẳn, thì ra huynh vẫn chưa quên Lục muội.

Dương Quá nghe thiếu nữ nói về Lục Vô Song với giọng nói thân thiết, bèn hỏi:

– Không biết tỷ tỷ với Lục cô nương xưng hô thế nào?

Thiếu nữ không trả lời, mỉm cười, nói:

– Huynh đừng có một tỷ tỷ, hai tỷ tỷ nữa, muội còn ít tuổi hơn huynh mà.

Dừng một lát, cười, nói tiếp:

– Cũng không hiểu tại sao lại gọi người ta là "cô cô", đến lúc đổi cách xưng hô, chỉ e đã muộn.

Dương Quá đỏ mặt, đoán là trong lúc hôn mê chàng đã tưởng nhầm thiếu nữ là Tiểu Long Nữ, cứ luôn miệng gọi "cô cô", không chừng còn nói những lời thân mật, vượt quá lễ giáo, càng nghĩ càng cảm thấy bất an, ấp úng:

– Cô.. cô nương.. không trách ta chứ?

Thiếu nữ cười, nói:

– Dĩ nhiên là muội không trách huynh, huynh cứ yên tâm ở đây dưỡng thương, khi nào khỏe sẽ lại đi tìm "cô cô" của huynh.

Lại nói thêm:

– Cũng đừng quá lo, rồi huynh sẽ tìm thấy thôi.

Mấy lời vừa nói dịu dàng, hiền hòa, ấm áp, trân trọng, khiến người nghe vừa yên tâm, vừa vui lòng, thật khác hẳn tất cả các thiếu nữ mà Dương Quá từng gặp. Nàng không hoạt bát nhanh nhẹn như Lục Vô Song, cũng không kiêu căng khó chịu như Quách Phù. Gia Luật Yến thì hào sảng, không ràng buộc. Hoàn Nhan Bình yếu ớt đáng thương. Còn Tiểu Long Nữ ban đầu lạnh nhạt băng giá, không thèm quan tâm, về sau thì đằm thắm chung tình, sống chết có nhau, tính nết có vẻ thiên về cực đoan. Chỉ riêng thanh y thiếu nữ là dịu dàng thanh nhã, chu đáo ân cần, biết chàng thương nhớ "cô cô" thì khuyên chàng yên tâm dưỡng thương, lúc nào khỏi hãy đi tìm, mà tìm khắc thấy. Ở bên nàng, cảm thấy thật yên bình.

Nàng nói xong, lại cầm bút viết. Dương Quá hỏi:

– Cô nương, quí tính là chi?

Thiếu nữ nói:

– Huynh đừng hỏi gì nữa, hãy cứ nằm yên đó, đừng nghĩ ngợi lung tung thì nội thương mới mau lành.

Dương Quá nói:

– Thôi được, thực ra ta đã biết là có hỏi cũng vô ích; cô nương có khuôn mặt còn chẳng cho nhìn, nữa là chịu nói họ tên.

Thiếu nữ thở dài:

– Tướng mạo của muội xấu xí lắm, huynh đã nhìn thấy rồi mà.

Dương Quá nói:

– Không, không phải! Đấy là cô nương đeo mặt nạ.

Thiếu nữ nói:

– Nếu muội xinh xắn như "cô cô" của huynh, thì cần gì phải đeo mặt nạ kia chứ?

Dương Quá nghe nàng khen Tiểu Long Nữ xinh đẹp thì rất sung sướng, hỏi:

– Tại sao cô nương biết "cô cô" của ta xinh xắn?

Thiếu nữ nói:

– Muội chưa hề gặp. Nhưng trong giấc ngủ mà huynh cứ luôn miệng nhớ nhớ thương thương như thế, nàng ta hẳn phải là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ.

Dương Quá thở dài:

– Ta nhớ thương nàng, không chỉ vì nàng xinh xắn, dẫu nàng có là đệ nhất xú nhân trong thiên hạ, thì ta cũng nhớ thương nàng như vậy. Có điều.. có điều là nếu cô nương nhìn thấy nàng, thì thể nào cũng phải khen nàng đẹp.

Câu này mà nói với Quách Phù và Lục Vô Song, nhất định chàng sẽ bị họ châm biếm vài câu, còn thiếu nữ này thì nói:

– Chắc chắn như vậy. Nàng không chỉ xinh xắn, mà đối với huynh hẳn là tốt lắm.

Nói xong nàng lại cúi xuống bàn mà viết.

Dương Quá nhìn lên nóc nhà một hồi, không nhịn được lại quay đầu nhìn thân hình thon thả của thanh y thiếu nữ, hỏi:

– Cô nương viết cái gì mà chăm chú vậy?

Thiếu nữ đáp:

– Muội tập viết chữ.

Dương Quá hỏi:

– Cô nương viết chữ kiểu gì?

Thiếu nữ nói:

– Chữ muội xấu lắm, đâu có kiểu cách gì.

Dương Quá nói:

– Cô nương quá khiêm tốn, ta đoán chữ cô nương phải rất đẹp.

Thiếu nữ cười, nói:

– Ồ, huynh lạ thật, tại sao huynh lại đoán như thế?

Dương Quá nói:

– Cô nương có nhân phẩm tuấn nhã dường ấy, thư pháp ắt phải tuấn nhã. Cô nương cho ta xem vài chữ được chăng?

Thiếu nữ lại mỉm cười, nói:

– Chữ của muội chẳng đáng xem đâu, chờ khi nào huynh dưỡng thương khỏe rồi, sẽ nhờ huynh dạy muội viết chữ.

Dương Quá thầm cảm kích Hoàng Dung hồi ở Đào Hoa đảo đã dạy chàng đọc sách, viết chữ; nếu hồi ấy chàng không chịu học, thì đừng nói là phân biệt thư pháp hay dở, mà ngay cả người ta viết chữ gì, mình cũng không đọc hiểu.

Mải nghĩ một hồi, chợt thảy ngực đau âm ỉ, chàng bèn vận nội công, dẫn khí đi bách huyệt, dần dần dễ chịu, ngủ thiếp đi; tỉnh dậy thì trời đã tối, thiếu nữ dọn cơm trên một cái chõng tre sát giường, bón cơm cho chàng ăn. Đũa tre bát sành, tuy là vật thô sơ, nhưng đều mới nguyên, nhìn vào thấy ngay có sự chăm chút.

Bữa cơm cũng rất bình thường, có rau xanh, đậu phụ, trứng gà, cá nhỏ, nhưng nấu nướng thật khéo léo, ăn rất ngon miệng. Dương Quá ăn một mạch hết ba tô cơm, vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Thiếu nữ tuy mang mặt nạ, không thấy được vẻ hỉ nộ, nhưng nhìn ánh mắt cũng biết nàng rất hoan hỉ.

Hôm sau thương thế của Dương Quá khá hơn một chút, thiếu nữ kéo chiếc ghế lại cạnh giường, ngồi vá áo cho chàng. Cái áo ngoài rách bươm của chàng được nàng vá víu cẩn thận. Nàng giơ cái áo lên, nói:

– Một người nhân phẩm cao đẹp như huynh, sao lại cố ý ăn mặc lam lũ thế này?

Nói rồi nàng vào buồng trong, mang ra một mảnh vải xanh, dựa theo cái áo rách mà cắt khâu cho chàng chiếc áo mới.

Nghe giọng nói, nhìn cử chỉ, thiếu nữ chỉ mười bảy, mười tám tuổi là cùng; nhưng nàng đối với Dương Quá cứ y như trưởng tỷ đối với tiểu đệ, thậm chí như một từ mẫu. Dương Quá mồ côi mẹ đã lâu, hôm nay cảm thấy như trở lại cảnh hồi thơ ấu ở bên mẹ, vừa cảm kích, vừa lạ lùng, không nhịn được, hỏi:

– Tỷ tỷ, sao tỷ tỷ đối với đệ chu đáo quá vậy? Đệ thật không xứng đáng.

Thiếu nữ nói:

– May giúp một cái áo thì có gì mà bảo là chu đáo? Huynh xả thân cứu người, thế mới quí đấy.

Hôm sau buổi sáng trôi qua yên ổn, buổi chiều thiếu nữ ngồi bên bàn viết. Dương Quá rất muốn xem nàng viết gì, xin xem mấy lần nàng đều không chịu.

Nàng viết chừng một canh giờ, viết xong một tờ, nhìn một hồi, vò nhàu tờ giấy, viết tờ khác, tựa hồ vẫn chưa vừa ý, lại vò nhàu, viết tờ mới. Kiểu cách đó, xem chừng không phải là nàng sao chép bí kíp võ công nào cả. Cuối cùng nàng để đấy, không viết nữa, hỏi Dương Quá:

– Huynh muốn ăn món gì, để muội đi làm cho huynh ăn.

Dương Quá chợt nảy ra một kế, nói:

– Chỉ sợ tỷ tỷ vất vả quá thôi.

Thiếu nữ nói:

– Món gì nào? Huynh cứ nói cho muội nghe coi.

Dương Quá nói:

– Đệ thèm ăn bánh trôi.

Thiếu nữ nói:

– Làm vài cái bánh trôi thì có gì mà vất vả. Muội cũng thích ăn bánh trôi đây. Thế huynh thích ăn loại nhân mặn hay nhân ngọt?

Dương Quá nói:

– Mặn ngọt đều được. Có bánh trôi ăn là thích lắm rồi.

Tối hôm ấy, thiếu nữ quả nhiên cho chàng ăn mấy cái bánh trôi, loại ngọt thì nhân đậu xanh với chút mỡ heo, loại mặn thì nhân thịt tươi, ngon vô cùng, Dương Quá cứ vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Thiếu nữ thở dài nói:

– Huynh thông minh thật, đoán trúng ngay thân thế của muội.

Dương Quá lấy làm lạ, nghĩ thầm: "Ta đoán trúng ư? Sao lại bảo ta đoán trúng thân thế của nàng?"

Thiếu nữ nói:

– Bánh trôi ở Giang Nam quê muội nổi tiếng khắp thiên hạ, huynh nói một cái trúng luôn.

Dương Quá nhớ lại hàng loạt chuyện cách đây mấy năm ở vùng Chiết Tây chàng gặp vợ chồng Quách Tĩnh, cuộc đấu với Lý Mạc Sầu, rồi việc Âu Dương Phong nhận chàng làm nghĩa tử, vậy mà chàng vẫn chưa nhận ra thiếu nữ trước mặt mình là ai.

Chàng bảo muốn ăn bánh trôi là có dụng ý khác. Ăn xong, thừa lúc thiếu nữ không để ý, chàng giấu một cái trong lòng bàn tay; chờ lúc thiếu nữ dọn bát đũa đi, chàng lấy một sợi chỉ mà thiếu nữ khâu áo để lại buộc một đầu vào cái bánh trôi, ném cái bánh trôi tới chỗ mấy tờ giấy vò nhàu kia cho dính, kéo tờ giấy lại mở ra xem, thấy viết tám chữ "Ký kiến quân tử, vân hồ bất hỉ". Đây là hai câu trong Kinh Thi, năm trước Hoàng Dung từng dạy Dương Quá. Hai câu này được giảng nghĩa là: Đã gặp được chàng nam tử rồi, tại sao còn chưa biết vui sống?

Dương Quá lại ném cái bánh buộc sợi chỉ, kéo một tờ giấy khác lại, mở ra xem, thấy tờ này vẫn viết tám chữ kia. Dương Quá hồi hộp, tim đập dồn, kéo hơn mười tờ giấy vò nhàu lại, mở ra xem, toàn là viết tám chữ đó, chàng suy nghĩ về thâm ý của chúng, bất giác ngẩn cả người. Nghe có tiếng chân thiếu nữ đi vào, Dương Quá vội giấu cái bánh vào trong chăn, thiếu nữ đem số giấy vò nhàu ra ngoài đốt đi.

Dương Quá nghĩ thầm: "Nàng viết" Khái kiến quân tử ", hai chữ quân tử không lẽ là nói về ta? Nàng và ta đều chưa nói gì với nhau, nàng đã thấy ta có gì để mà thích nhỉ? Ta nào có ra gì mà nàng coi ta là bậc quân tử kia chứ. Nhưng ở đây ngoài ta ra, đâu còn ai khác?"

Chàng đang ngẩn ngơ, thì thiếu nữ bước vào phòng, đứng bên cửa sổ một lát, thổi tắt ngọn nến, ánh trăng suông chiếu qua khung cửa, soi xuống nền nhà. Dương Quá gọi:

– Cô nương!

Thiếu nữ không đáp, thong thả bước ra ngoài.

Lát sau, nghe có tiếng tiêu (sáo) dìu dặt qua cửa sổ vọng vào. Dương Quá từng thấy nàng dùng cây ngọc tiêu đứng thủ với Lý Mạc Sầu, võ công không kém chút nào, bây giờ thổi ngọc tiêu, không ngờ nghe cũng hay đến thế.

Hồi sống trong tòa cổ mộ, Dương Quá có nghe Tiểu Long Nữ gảy đàn, chàng đứng bên nghe nàng giảng giải, cũng hiểu đôi chút về âm luật. Lúc này chàng nhận ra cây tiêu đang thổi điệu "Vô xạ thương" trong khúc "Kỳ úc". Khúc nhạc này u nhã bình hòa, Dương Quá đã nghe mấy lần, cũng không thích lắm. Chàng thấy nàng cứ thổi đi thổi lại năm câu đầu:

Trông kìa trên dải sông Kỳ,

Bờ tre mới mọc xanh rì thướt tha,

Có người quân tử tài hoa,

Như lo mài giũa đặng mà lập thân,

Dùi mài dốc chí chuyên cần..

Tiếng tiêu lúc bổng lúc trầm, lúc nhanh lúc chậm, vẫn năm câu kia, nghe quyến luyến triền miên. Dương Quá biết đấy là mấy câu trong Kinh Thi, khen ngợi một trang nam nhi thanh nhã, tuấn tú, có chí, như một viên ngọc đẹp đã được mài giũa vậy.

Dương Quá nghe hồi lâu, bất giác ngâm nga khe khẽ hai câu đầu, Chiêm bỉ Kỳ úc, Lục trúc a a.. đột nhiên tiếng tiêu ngừng bặt. Dương Quá sững lại, ân hận về sự đường đột của mình: "Nàng thổi tiêu là để biểu hiện ý nghĩ, ta lại đi ngâm nga, hóa ra biết rõ tâm tư của nàng, thật quá vô lễ".

Sáng hôm sau thiếu nữ mang cơm vào, thấy Dương Quá đeo mặt nạ, thì ngạc nhiên, cười, hỏi:

– Huynh cũng mang mặt nạ để làm gì?

Dương Quá nói:

– Cái mặt nạ này là cô nương cho ta, cô nương không chịu để lộ bản lai diện mục, thì ta cũng đeo mặt nạ.

Thiếu nữ thản nhiên nói:

– Thế cũng hay.

Nói xong đặt mâm cơm xuống, đi ra, cả ngày hôm đó không nói câu nào.

Dương Quá thấp thỏm không yên, sợ mình đã đắc tội với nàng, định nói vài lời xin lỗi, song nàng không dừng bước trong phòng. Mãi đến tối, khi nàng vào thu dọn chén đũa, sắp bước ra, Dương Quá bèn nói:

– Cô nương thổi tiêu nghe rất hay, cô nương cho nghe một khúc nữa, được chăng?

Thiếu nữ nghĩ một lát, rồi nói:

– Cũng được.

Nàng đi lấy ống tiêu, ngồi ngay bên giường của Dương Quá mà thổi. Lần này nàng thổi khúc "Nghênh tiên khách", là khúc nhạc chủ khách thù đáp, giai điệu cũng ôn hòa dìu dặt. Dương Quá nghĩ thầm: "Thì ra khi thổi tiêu nàng cũng đeo mặt nạ cho cả tiếng tiêu, không chịu thổ lộ tâm tư".

Bỗng có tiếng chân, có người từ xa chạy vội đến. Thanh y thiếu nữ đặt ống ngọc tiêu xuống, bước ra cửa, gọi:

– Biểu muội!

Một người chạy tới cửa, thở hổn hển, nói:

– Biểu tỷ, nữ ma đầu ấy đã dò ra tung tích của muội, đang tìm đến đây, chúng ta mau chạy đi thôi.

Dương Quá nghe giọng, nhận ra Lục Vô Song thì rất mừng; nhưng nghe Lục Vô Song nhắc đến nữ ma đầu sắp đến, chính là Lý Mạc Sầu, thì lại thầm kinh hãi, rồi chàng nghĩ bụng: "Thì ra thiếu nữ này là biểu tỷ của Lục cô nương".

Thiếu nữ nói:

– Có người bị thương, đang ở đây dưỡng thương.

Lục Vô Song hỏi:

– Ai thế?

Thiếu nữ nói:

– Ân nhân cứu mạng của muội đó.

Lục Vô Song kêu lên:

– A, Đồ Ngốc, chàng.. ta đang ở đây ư!

Nói xong chạy ào vào.

Dưới ánh trăng, chỉ thấy nàng mừng rỡ rối rít:

– Đồ Ngốc, Đồ Ngốc! Sao huynh lại tìm tới đây được? Lần này thì đến lượt huynh bị thương nhé.

Dương Quá nói:

– Tức phụ..

Chàng đã định gọi "Tức phụ nhi" (cô vợ trẻ), nhưng nghĩ bên cạnh có thanh y thiếu nữ đoan trang thanh nhã, không thể bỡn cợt với Lục Vô Song như trước, bèn đổi cách xưng hô, hỏi:

– Lý Mạc Sầu làm sao lại lần ra tung tích cô nương?

Lục Vô Song nói:

– Sau trận đấu ở tửu lâu hôm ấy, huynh đột nhiên bỏ đi, biểu tỷ đưa muội về đây dưỡng thương. Vết thương lành rồi, muội buồn quá, mới đi chơi cho đỡ buồn, một hôm gặp hai gã khiếu hóa tử, nghe họ nói với nhau rằng ở ải Đại Thắng có đại hội quần hùng gì đó. Muội bèn đến ải Đại Thắng xem cảnh nhiệt náo, không ngờ đến nơi thì đã bế mạc. Muội sợ biểu tỷ nhớ, vội trở về, ở trước cửa một quán trà, muội bỗng nhìn thấy con lừa hoa của nữ ma đầu, lừa đã thay con khác, cái chuông vàng thì vẫn giữ nguyên..

Nói đến đây giọng hơi run:

– May mà mạng chưa tuyệt, chứ cứ đi thẳng vào quán, thì bây giờ đâu còn được nhìn thấy biểu tỷ với huynh.

Dương Quá hỏi:

– Cô nương đây là biểu tỷ của cô nương à? May được cô nương đây cứu mạng, vẫn chưa kịp hỏi họ tên.

Thanh y thiếu nữ nói:

– Muội..

Lục Vô Song đột nhiên dùng hai tay gỡ cả hai cái mặt nạ ra khỏi mặt Dương Quá và thiếu nữ, nói:

– Nữ ma đầu sắp đến rồi, hai người còn mang mặt nạ làm gì kia chứ?

Dương Quá thấy trước mặt sáng hẳn lên, thấy thiếu nữ có khuôn mặt trái soan xinh xắn, má lúm đồng tiền, da trắng như tuyết, tuy không thanh lệ tuyệt tục bằng Tiểu Long Nữ, song cũng là một cô nương rất xinh tươi.

Lục Vô Song nói:

– Biểu tỷ của muội là Trình Anh, tiểu đệ tử quan môn của Đào Hoa đảo Hoàng đảo chủ.

Dương Quá vái một cái, nói:

– Trình cô nương.

Trình Anh đáp lễ, nói:

– Dương thiếu hiệp.

Dương Quá nghĩ thầm: "Nàng còn ít tuổi, sao lại là đệ tử của Hoàng Dược Sư? Tính theo Quách bá mẫu, không lẽ mình lại ở dưới nàng một bậc?"

Nguyên Trình Anh năm nọ bị Lý Mạc Sầu bắt đi, bị nữ ma đầu hạ độc thủ, may gặp Hoàng Dược Sư tình cờ đi ngang qua, cứu sống nàng. Hoàng Dược Sư từ sau khi nữ nhi xuất giá, lão lang bạt giang hồ, bốn biển là nhà, tuổi già cô đơn, bấy giờ thấy Trình Anh tuổi nhỏ bơ vơ, không nơi nương tựa, thì động lòng trắc ẩn, sau khi trị thương cho nàng, bèn mang nàng đi theo bên mình. Trình Anh hầu hạ Hoàng lão nhân còn chu đáo bằng mấy Hoàng Dung ngang ngạnh và kiêu ngạo. Hoàng Dược Sư quý mến, nhận nàng làm đồ đệ. Trình Anh tuy thông minh cơ trí thua xa Hoàng Dung, nhưng nàng chịu khó và tỉ mỉ, cũng học được không ít bản sự của Hoàng Dược Sư.

Năm nay võ công sơ thành, Trình Anh bẩm minh sư phụ, đi lên phương bắc tìm biểu muội, tại vùng Quan Thiểm gặp Dương Quá và Lục Vô Song, người cảnh báo nguy hiểm, rồi đang đêm cứu giúp, chính là nàng. Sau trận mấy thiếu niên nam nữ hợp sức chống trả Lý Mạc Sầu, nàng đưa Lục Vô Song tới cánh rừng hoang này, làm nhà tranh trị thương. Mấy hôm trước Lục Vô Song một mình đi ra ngoài, lâu không về. Trình Anh lo lắng đi tìm, thấy Hoàng Dung bày "loạn thạch trận" chống chọi Kim Luân pháp vương. Kỳ môn trận pháp này, nàng cũng đã được Hoàng Dược Sự truyền thụ, tuy biết không nhiều, nhưng nàng học kỹ, may sao cứu được Dương Quá đưa về đây.

Lục Vô Song nói:

– Tình hình khẩn cấp thế này, hai vị còn khách sáo đa lễ làm gì kia chứ?

Dương Quá hỏi:

– Rồi Lý Mạc Sầu trông thấy cô nương à?

Lục Vô Song nói:

– Huynh hỏi mới tức cười chứ? Nếu để nữ ma đầu nhìn thấy, thì muội còn chạy thoát được về đây ư? Muội nhìn thấy cái chuông vàng đeo ở cổ con lừa hoa, bèn nấp vào sau quán trà, không dám thở mạnh nữa; nghe nữ ma đầu hỏi dò tin tức trong quán; rằng có nhìn thấy hai tiểu cô nương, một đi cà nhắc, một xấu như ma lem, hay không. Biểu tỷ, nữ ma đầu gọi biểu tỷ là cô nương xấu như ma lem, không biết rằng biểu tỷ là một mỹ nhân..

Trình Anh hơi đỏ mặt, nói:

– Biểu muội đừng nói thế, Dương thiếu hiệp cười cho đấy.

Dương Quá nói:

– Ta thì thiếu hiệp cái gì kia chứ? Cô nương cứ gọi Dương Quá là được rồi.

Lục Vô Song nguýt một cái, nói:

– Huynh vừa gặp biểu tỷ của muội thì đã khép na khép nép, cả họ lẫn tên đều khai ra hết, còn với muội thì giả vờ ngớ ngẩn để đánh lừa người ta.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Cô nương cứ nhiếc ta là Đồ Ngốc, thì ta liền vâng lời làm Đồ Ngốc, như thế còn chưa phải là khép nép ngoan ngoãn hay sao?

Lục Vô Song bĩu môi, nói:

– Cứ chờ đấy, rồi muội sẽ tính sổ với huynh.

Nàng quay sang nói với Trình Anh:

– Biểu tỷ thường mang mặt nạ tới thị trấn mua gạo muối, vật dụng, mọi người ở đấy đều biết biểu tỷ; chủ quán trà cũng không ngờ Lý Mạc Sầu là một đạo cô xinh đẹp thanh nhã như thế mà lại tàn ác, nên mới kể cho mụ ta biết chỗ ở của chúng ta. Nữ ma đầu cảm tạ, rồi hỏi ở thị trấn có thể nghỉ đêm tại nơi nào, sau đó cùng Hồng Lăng Ba sư tỷ đi tìm nhà trọ. Mụ ta nóng lòng hại người, chắc là sáng ra sẽ đi ngay, coi như chúng ta còn ba canh giờ nữa.

Trình Anh nói:

– Đúng thế. Năm trước nữ ma đầu đến nhà biểu muội cũng là vào cuối giờ Dần đầu giờ Mão.

Ba người kể lại việc năm đó Lý Mạc Sầu đã hạ độc thủ sát hại cha mẹ Lục Vô Song như thế nào, mới biết ba người hồi ấy từng gặp nhau ở Gia Hưng, Trình Anh và Lục Vô Song còn tới cái nhà hầm hoang phế là chỗ trú thân của Dương Quá, nhớ lại thời ấy, cả ba không khỏi cảm thấy thêm phần thân thiết.

Dương Quá nói:

– Nữ ma đầu võ công cao cường, dù ta không bị thương, cả ba chúng ta hợp lực cũng không địch nổi mụ ta. Chi bằng chúng ta cứ theo bài cũ, chuồn đi thì hơn.

Trình Anh gật đầu, nói:

– Chúng ta còn ba canh giờ nữa. Con ngựa của Dương huynh rất hay, chúng ta chạy đi, nữ ma đầu vị tất đã đuổi kịp.

Lục Vô Song nói:

– Đồ Ngốc, huynh bị thương, có cưỡi ngựa được hay không?

Dương Quá thở dài:

– Không cưỡi được thì cũng phải cố, còn hơn rơi vào tay nữ ma đầu.

Lục Vô Song nói:

– Chúng ta chỉ có một con ngựa. Biểu tỷ, biểu tỷ hãy đưa Dương huynh chạy về hướng tây, muội sẽ nghi binh, dụ nữ ma đầu đuổi về hướng đông.

Trình Anh hơi đỏ mặt, nói:

– Không, biểu muội hãy đi với Dương huynh. Tỷ với Lý Mạc Sầu không có thâm cừu đại oán, mụ ta có bắt được, cũng không hẳn sẽ sát hại tỷ. Muội mà sa vào tay mụ ta thì nguy lắm.

Lục Vô Song nói:

– Nếu nữ ma đầu đuổi kịp muội, thấy muội đi cùng Dương huynh, chẳng hóa ra làm liên lụy đến Dương huynh hay sao?

Hai thiếu nữ cứ mỗi người một câu nhường cho nhau đi cùng với Dương Quá.

Dương Quá nghe một hồi, vô cùng cảm động, nghĩ hai cô nương này đều là người có nghĩa khí, trong lúc nguy cấp cam lòng mạo hiểm cứu mạng chàng, dù chàng có bị nữ ma đầu giết hại, cũng coi như đã sống một cuộc đời không uổng phí.

Chỉ nghe Lục Vô Song nói:

– Đồ Ngốc, huynh hãy nói một lời xem nào, huynh muốn biểu tỷ của muội đi trốn cùng huynh, hay là muốn muội đi cùng?

Dương Quá chưa trả lời, Trình Anh nói:

– Sao biểu muội còn gọi Dương huynh là Đồ Ngốc mãi thế, không sợ Dương huynh giận hay sao?

Lục Vô Song lè lưỡi, cười:

– Trông biểu tỷ kìa, biểu tỷ đối với Ngốc huynh hiền dịu như thế, chắc là Ngốc huynh sẽ chọn biểu tỷ đi cùng.

Nàng đổi cách xưng hô, gọi Dương Quá là Ngốc huynh, coi như đã lùi một bước.

Trình Anh da mặt trắng trẻo, rất dễ đỏ mặt, bị biểu muội nói thế, lập tức ngượng đỏ bừng cả mặt như một đóa hồng, cười, trêu lại:

– Người ta gọi biểu muội là "tức phụ nhi", phải không nào? Đã là tức phụ nhi, không theo chàng sao được?

Lần này đến lượt Lục Vô Song đỏ mặt, giơ hai tay túm lấy Trình Anh, Trình Anh bỏ chạy. Gian nhà tranh lập tức ồn ào vui vẻ, ba người không còn lo sợ như lúc đầu nữa.

Dương Quá nghĩ thầm: "Nếu Trình cô nương đưa ta chạy trốn, tức phụ nhi sẽ khó toàn mạng; nếu tức phụ nhi đi với ta, Trình cô nương cũng muôn phần nguy hiểm". Bèn nói:

– Hai cô nương đối đãi như vậy, ta cảm kích vô cùng. Ta nghĩ hay là hai cô nương mau trốn đi, để ta ở lại đây đối phó với nữ ma đầu. Sư phụ ta với mụ ta là sư tỷ muội, mụ ta cũng phải nể tình hương hỏa; huống hồ mụ ta sợ sư phụ, sẽ không dám giết..

Lời chàng chưa dứt, Lục Vô Song đã cướp lời:

– Không được, không được!

Dương Quá nghĩ bụng hai người không ai chịu đi với mình, bèn cao giọng nói:

– Ba chúng ta kết bạn đồng hành, nếu nữ ma đầu đuổi kịp, cả ba sẽ liều mình tử chiến, sống chết tùy ý trời.

Lục Vô Song vỗ tay, nói:

– Đúng, cứ thế đi.

Trình Anh ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Nữ ma đầu đến như gió lốc, ba người cùng đi, nhất định mụ ta sẽ đuổi kịp ngay. Tử chiến với mụ ta ở dọc đường, chẳng bằng ta cứ ở lại đây dĩ dật đãi lao.

Dương Quá nói:

– Đúng đấy. Trình cô nương biết thuật Kỳ môn độn giáp, ngay Kim Luân pháp vương còn bị vây khốn, thì Xích Luyện Tiên Tử chắc gì đã phá nổi.

Lời vừa nói đem lại cho ba người một tia hi vọng. Trình Anh nói:

– "Loạn thạch trận" là do Quách phu nhân bố trí, muội chỉ nhân đó biến hóa đôi chút là xong, chứ bảo muội tự bày trận, thì quả thật chưa đủ tài. Thôi thì chúng ta cứ gắng hết sức, còn sống chết tùy ở ông trời. Biểu muội, hãy ra đây giúp tỷ nào.

Dương Quá nghĩ thầm: "Quách bá mẫu dạy ta cách biến đổi trận pháp, ta nhớ được mươi cách, chỉ dùng để dẫn dụ cái lão Tạng tăng gớm ghiếc Kim Luân pháp vương vào trận, chứ chẳng thể ngăn chặn nổi cái mụ Lý Mạc Sầu oán trời giận đất này. Cái môn công phu ấy quả rắc rối vô cùng, muốn thành thạo, bỏ công sức một hai năm chẳng thể xong. Trình cô nương còn ít tuổi, sở học dĩ nhiên không theo kịp Quách bá mẫu, lời nàng vừa nói cũng không phải là khiêm nhường. Nhưng trận thế do nàng bố trí dẫu đơn giản cách mấy, cũng còn hơn là không có".

Hai cô nương mang cuốc xẻng ra khỏi nhà, đào đất, khiêng đá, bày trận. Hơn một canh giờ sau, nghe có tiếng gà gáy xa xa, Trình Anh mồ hôi nhễ nhại, nhìn thổ trận của mình so với "loạn thạch trận" của Hoàng Dung thực không ra gì, thì trong lòng buồn bã: "Tài năng của Quách phu nhân thật gấp ta trăm lần. Cái thổ trận thô sơ thế này làm sao ngăn chặn Xích Luyện ma đầu kia chứ?" Sợ biểu muội và Dương Quá thất vọng, nàng không dám nói ra.

Dưới ánh trăng, Lục Vô Song thấy sắc mặt biểu tỷ có vẻ lạ, biết Trình Anh không nắm chắc trận pháp, bèn lấy ra một quyển sách, đi vào phòng đưa cho Dương Quá, nói:

– Dương huynh, đây là quyển "Ngũ độc bí truyền" của sư phụ muội.

Dương Quá thấy bìa cuốn sách đỏ như máu, thì hơi rờn rợn. Lục Vô Song nói:

– Muội nói dối sư phụ muội, rằng quyển sách bị Cái Bang lấy mất. Khi sư phụ bắt được muội, mụ ta sẽ lục thấy nó. Dương huynh chỉ cần xem qua một lần, nhớ rồi thì hãy hủy nó đi.

Nàng và Dương Quá lâu nay chưa lần nào nói năng nghiêm túc với nhau, bây giờ nghĩ chẳng còn sống được mấy lúc nữa, thì không còn bụng dạ nào đùa giỡn.

Dương Quá thấy nàng nghiêm túc, thì gật đầu cầm lấy.

Lục Vô Song lại lấy ra một tấm khăn, nói nhỏ:

– Nếu Dương huynh không may sa vào tay nữ ma đầu, mụ ta định giết hại huynh, thì huynh hãy đưa cái này cho mụ ta.

Dương Quá thấy một trong bốn mặt của tấm khăn tua tua, rõ ràng nó bị xé ra từ mảnh vải gì đó, bông hoa hồng thêu trên khăn cũng chỉ có một nửa, chàng chưa biết dụng ý của nàng nên chưa nhận, hỏi:

– Là cái gì vậy?

Lục Vô Song nói:

– Là cái mà muội nhờ huynh giao cho nữ ma đầu, huynh có đáp ứng hay không?

Dương Quá gật đầu, nhận lấy, để bên gối. Lục Vô Song bước tới, nhặt lên, nhét vào túi áo chàng, nói nhỏ:

– Đừng để cho biểu tỷ của muội biết đấy.

Đột nhiên ngửi thấy mùi đàn ông từ người chàng tỏa ra, nhớ tới lần cởi áo nắn xương, ngủ chung một giường hôm nào, trong lòng nao nao, ngơ ngẩn nhìn chàng, rồi quay mình bước ra.

Dương Quá thấy cái nhìn vừa rồi của nàng vô cùng đắm đuối, thì trống ngực cũng đập dồn. Chàng giở sách ra xem, nhớ kỹ cách giải "Ngũ độc thần chưởng" và độc tính của "Băng phách ngân châm", nghĩ thầm: "Hai loại giải dược này đều rất khó chế luyện, nhưng nếu hôm nay ta thoát chết, ngày sau sẽ rất hữu dụng".

Bỗng nghe có tiếng kẹt cửa, chàng ngẩng đầu lên, thấy Trình Anh hai má đỏ bừng, bước lại bên giường, mồ hôi lấm tấm trên trán, hơi thở dồn dập, nói:

– Dương huynh, thổ trận mà muội bố trí ở bên ngoài hết sức thô thiển, chắc không ngăn nổi Xích Luyện Tiên Tử.

Nói đoạn lấy ra một tấm khăn, đưa cho chàng, nói:

– Nếu mụ ta xông vào đây, huynh hãy đưa tấm khăn này cho mụ ta.

Dương Quá thấy tấm khăn này y hệt tấm khăn Lục Vô Song vừa đưa chàng, lấy làm lạ, ngẩng nhìn, bắt gặp ánh mắt của nàng, dưới ánh đèn thấy nàng nước mắt lưng tròng, có vẻ e thẹn, đang định hỏi, thì nàng đỏ bừng cả mặt, nói nhỏ:

– Đừng để cho biểu muội của muội biết đấy.

Nói xong bước ra ngoài.

Dương Quá lấy trong túi ra tấm khăn của Lục Vô Song, ghép lại, quả nhiên là hai nửa của một tấm khăn lụa bị xé đôi, lụa đã cũ, phai màu vàng, nhưng bông hồng thêu thì vẫn đỏ hồng tươi rói. Chàng ngắm hai nửa tấm khăn, biết bên trong nhất định có thâm ý, tại sao hai nàng lại cùng trao cho chàng? Tại sao lại bảo chàng hãy đưa cho Lý Mạc Sầu? Tại sao cả hai nàng đều không muốn người kia biết chuyện? Tại sao lúc trao khăn cho chàng, cả hai nàng cùng đỏ mặt e thẹn?

Chàng ngồi trên giường ngẩn ngơ xuất thần, lại nghe xa xa có tiếng gà gáy, rồi tiếng tiêu dìu dặt nổi lên, chắc là Trình Anh đã bày trận xong xuôi, thổi tiêu để đỡ lo buồn, nàng thổi khúc "Lưu ba", tiếng tiêu réo rắt, không hề có ý bi thương, nghe tựa hồ người thổi tiêu đang ở trong tâm trạng vui vẻ, vô tư. Dương Quá nghe một lát, liền cất tiếng hát theo.

Lục Vô Song ngồi sau động đất, nghe biểu tỷ và Dương Quá người thổi tiêu, người hòa ca, phương đông rạng dần, nghĩ thầm: "Sư phụ sắp ập đến đây, tính mạng của mình sắp tuyệt, chỉ mong sư phụ nhìn thấy tấm khăn, sẽ tha chết cho Dương huynh và biểu tỷ, hai người ấy.."

Lục Vô Song tính nết vốn đáo để, từ nhỏ trong mọi chuyện Trình Anh đều nhường nhịn nàng vài phần. Nhưng giờ đây lâm nguy, nàng chỉ mong Dương Quá bình an vô sự, ước sao tai qua nạn khỏi, Dương Quá và biểu tỷ sẽ kết thành đôi uyên ương, thì nàng có chết cũng cam lòng.

Đang mải nghĩ, chợt ngẩng lên, thấy bên ngoài đống đất sừng sững một đạo cô áo vàng, tay phải cầm ngang cây phất trần, gió lay động tay áo, chính là sư phụ Lý Mạc Sầu.

Lục Vô Song giật mình, rút kiếm đứng dậy. Lý Mạc Sầu đứng im, dỏng tai nghe.

Nguyên Lý Mạc Sầu đang nghe tiếng tiêu hòa với tiếng hát, hồi tưởng tình cảnh nàng ta cùng với ái lữ (người bạn tình) Lục Triển Nguyên thời trước vẫn thường cùng nhau hòa tấu khúc nhạc "Lưu ba" này. Đấy là chuyện hai mươi năm trước, bây giờ âm vận thì vẫn như cũ, nhưng đã là "trăng gió vô tình người đổi dạ", tai nghe tiếng tiêu hòa với lời ca, vô cùng vương vấn, đột nhiên đau đớn hết chịu nổi, liền khóc tướng lên.

Tiếng khóc bi thương thật là hoàn toàn bất ngờ đối với Lục Vô Song. Nàng vốn chỉ quen thấy sư phụ nghiêm khắc hung sát, chưa một lần mềm yếu khóc than. Tại sao mụ ta đến đây là để báo oán sát nhân, lại đứng ngoài cổng mà khóc một cách đau đớn như vậy? Nghe tiếng khóc cực kỳ sầu thảm, tưởng chừng đứt ruột của Lý Mạc Sầu, nàng cũng không khỏi nao lòng.

Lý Mạc Sầu đứng khóc, Dương Quá và Trình Anh cũng rất đỗi kinh ngạc, tiếng tiêu và tiếng ca lập tức tán loạn. Lý Mạc Sầu đột nhiên ngừng khóc, cất tiếng ca, âm điệu thê lương, ca rằng:

Tình là chi hỡi thế gian

Câu thề sinh tử đa mang một đời

Trời Nam đất Bắc đôi nơi

Cánh chim rũ mỏi mấy hồi hàn ôn

Vui ân ái, biệt ly buồn

Si tình nhi nữ khởi nguồn bi hoan

Tiếng xưa xa khuất mây ngàn

Về đâu bóng lẻ Thiên San tuyết chiều

Khúc nhạc "Lưu ba" vốn là khúc hoan ca, lời ca của Lý Mạc Sầu lại bi thương, ai oán, thanh điệu khác hẳn, tiếng ca càng lúc càng lên cao, Trình Anh tâm thần hơi loạn, khi Lý Mạc Sầu hát ba chữ "Hoan lạc thú" chuyển qua "Ly biệt khổ", giọng ngâm cao vút, âm điệu gấp gáp, tiếng tiêu của Trình Anh không lên theo nổi do tiêu vận thanh hòa, mà nội lực của nàng còn non. Nàng do dự một chút, rồi chạy vào phòng, bỏ cây tiêu xuống, ngồi gảy cây dao cầm. Dương Quá cũng lên cao giọng để trợ thế. Chỉ nghe tiếng ca của Lý Mạc Sầu càng vút lên, sợi dây đàn của Trình Anh cũng căng lên theo, "phựt" một tiếng, sợi dây "Chủy" đứt luôn.

Trình Anh sợ hãi, ngón tay hơi loạn, sợi thứ hai của cây đàn là dây "Vũ" đứt phựt. Tiếng ca của Lý Mạc Sầu ngân dài cùng tiếng khóc, sợi thứ ba của cây đàn là dây "Cung" đứt luôn.

Gảy đàn và thổi sáo, Trình Anh đều học ở Hoàng Dược Sư, tuy có minh sư truyền thụ, nhưng nàng còn ít tuổi, thành tựu có hạn. Lý Mạc Sầu vốn có thể thừa cơ đối phương bị đứt dây đàn, tâm ý hoảng loạn, mà xông thẳng vào, nhưng thấy thổ trận trước căn nhà tranh trông tưởng là lổn nhổn, kỳ thực ẩn tàng sự biến hóa Ngũ hành sinh khắc. Lý Mạc Sầu không am hiểu trận pháp loại này, trong "Hoạt tử nhân mộ" từng mấy lần bị mai phục trúng thương, không tránh khỏi lo ngại. Nàng ta chợt nảy ra một kế, liền vòng sang bên hông, vừa cao giọng ca, vừa đạp vách nhảy vào.

Thổ trận của Trình Anh đây một đống đất, kia một mô đất, hoàn toàn chỉ để giữ cổng, không nghĩ đến việc vách nhà tranh không kiên cố, Lý Mạc Sầu không vào lối cổng, mà vòng ra bên hông nhà, phá vách xông vào. Lục Vô Song cả kinh, vung kiếm chạy vào nhà.

Dương Quá đang bị thương, không thể đứng lên đối địch, đành nằm bất động. Trình Anh nghĩ rằng động thủ với Lý Mạc Sầu chỉ uổng mạng, bèn quyết ý bất chấp sinh tử, điều huyền chuyển luật, gảy khúc nhạc "Đào yêu". Khúc nhạc này hoa mỹ xán lạn, tràn ngập giai điệu hoan hỉ. Nàng nghĩ thầm: "Ta một đời cô khổ, hôm nay được chết bên cạnh Dương đại ca, kể cũng không uổng". Nàng liếc về phía Dương Quá. Dương Quá mỉm cười với nàng, Trình Anh cảm thấy trong lòng êm dịu, sung sướng, thầm ca:

Đào tơ mơn mởn xinh tươi,

Hoa hồng bát ngát dưới trời xuân trong

Tiếng đàn reo vui, nghe như có tiếng gió xuân, có hoa thơm đua nở.

Vẻ sầu khổ của Lý Mạc Sầu giảm dần, nàng ta hỏi Lục Vô Song:

– Quyển sách ấy đâu? Rốt cuộc là Cái Bang có lấy đi không?

Dương Quá đưa quyển "Ngũ độc bí truyền" cho Lý Mạc Sầu, nói:

– Hoàng bang chủ, Lỗ bang chủ Cái Bang đại nhân đại nghĩa, đời nào sử dụng cuốn tà thư này? Họ đã truyền ngay lệnh, bang chúng đệ tử không ai được giở xem một trang cuốn sách này.

Lý Mạc Sầu thấy cuốn sách còn nguyên vẹn, thì cả mừng, biết Cái Bang hành sự chính phái, luật lệnh nghiêm minh, chắc quả là họ chưa giở ra xem.

Dương Quá lại lấy trong túi ra hai nửa tấm khăn thêu, trải ở đầu giường, nói:

– Mời đạo cô hãy mang cả đi cho!

Lý Mạc Sầu biến sắc, dùng cây phất trần cuốn lấy hai mảnh khăn, ngẩn ngơ cầm trong tay, nhất thời bao nhiêu ý nghĩ dồn dập trong óc, tâm thần bất định. Trình Anh và Lục Vô Song đưa mắt nhìn nhau, cùng đỏ mặt, người này không ngờ người kia đưa khăn cho Dương Quá, để bây giờ chàng đưa ra.

Một phen người này nhìn người kia, ai nấy tâm sự trào dâng, thu ba dào dạt, sát khí trong căn nhà tranh tức thời hóa thành tình ý đậm đà. Khúc nhạc "Đào yêu" được Trình Anh gảy càng triền miên hoan hỉ.

Đột nhiên Lý Mạc Sầu xé hai mảnh khăn làm bốn, nói:

– Chuyện cũ đã quên, nhắc lại làm chi?

Rồi xé vụn bốn mảnh khăn, tung lên không, các mảnh vụn rơi lả tả như hoa lê rụng. Trình Anh giật mình, lại làm đứt thêm một sợi dây đàn.

Lý Mạc Sầu quát:

– Đứt nữa này!

Trong tiếng bi ca, quả nhiên dây "Giốc", sợi thứ năm của cây đàn, đứt luôn. Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Bây giờ ta muốn ba đứa ngươi sống không được, chết chẳng xong, phải ôm mặt mà khóc!

Lúc này cây đàn dao chỉ còn hai sợi, cầm nghệ của Trình Anh vốn chỉ vào loại tầm thường, tự nàng khó tạo nên khúc điệu. Lý Mạc Sầu nói:

– Mau gảy vài âm thê thảm! Thế gian đầy khổ não, có gì là lạc thú?

Trình Anh gảy hai tiếng, tuy không thành điệu, nhưng vẫn là âm luật của Đào chi yêu yêu. Lý Mạc Sầu quát:

– Được lắm, ta sẽ giết một đứa trước, xem bọn bay có đau buồn hay không?

Tiếng quát này làm cho tiếng hát ngừng bặt, làm đứt thêm một sợi dây đàn, Lý Mạc Sầu giơ cây phất trần định đánh xuống đầu Lục Vô Song.

Dương Quá cười, nói:

– Ba người bọn ta hôm nay được cùng chết với nhau thật là sướng bằng mấy cuộc sống cô đơn của đạo cô trên thế gian. Anh muội, Song muội, hai muội lại đây với huynh nào.

Trình Anh và Lục Vô Song đến bên giường. Dương Quá tay trái cầm tay Trình Anh, tay phải cầm tay Lục Vô Song, cười, nói:

– Ba đứa mình cùng chết với nhau, trên đường xuống suối vàng tha hồ cười đùa, chẳng thú hơn con mụ độc ác kia hàng chục lần hay sao?

Lục Vô Song cười, đáp:

– Đúng thế, Chàng Ngốc, chàng nói không sai chút nào.

Trình Anh mỉm cười hiền dịu. Hai thiếu nữ được Dương Quá nắm tay, đều ngây ngất trong lòng. Dương Quá nghĩ thầm: "Ôi, tiếc rằng không có cô cô ở bên ta", chàng tươi cười, kéo hai thiếu nữ sát lại, ngả vào người chàng.

Lý Mạc Sầu nghĩ bụng: "Tên tiểu tử này nói không sai, ba đứa chúng nó chết thế này, hóa ra sướng hơn ta sống. Hừ, thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng như thế? Ta phải làm cho các ngươi đau đớn khổ sở trước khi chết kia". Mặt sa sầm, nàng ta khe khẽ hát, âm điệu lúc nối lúc đứt, khi nghẹn ngào khi nức nở, như oan hồn nỉ non trong đêm.

Tình là chi hỡi thế gian

Câu thề sinh tử đa mang một đời..

Dương Quá và hai thiếu nữ tay trong tay, nghe một hồi, bất giác lòng dạ bi ai. Dương Quá nội lực cao hơn, ngưng thần bất động, vẻ mặt nửa như đang cười. Lục Vô Song cứng cỏi, không dễ bị kích động; Trình Anh thì không nhịn được, nước mắt rơi lã chã. Tiếng ca của Lý Mạc Sầu càng lúc càng thấp, cuối cùng chỉ như một sợi dây mảnh, như có như không. Lý Mạc Sầu chỉ đợi ba người cùng rơi nước mắt, là mụ sẽ vung cây phất trần đánh chết cả ba. Tiếng ca thê thảm đang rên rỉ, bỗng nghe có tiếng cười ha hả, rồi một người vừa vỗ tay vừa hát, đi vào nhà.

Giọng hát là của nữ nhân, tuổi đã không còn nhỏ, song lại hát bài đồng dao hồn nhiên vui vẻ của nhi đồng:

Cô dâu chú rể

Đội rế lên đầu

Đi qua đầu cầu

Đánh rơi mất rế..

Tiếng ca vui nhộn át hẳn tiếng ca bi thảm của Lý Mạc Sầu. Chỉ nghe người kia mỗi lúc một tới gần, từ ngoài cổng đã tiến thẳng vào, là một phụ nữ trung niên đầu bù tóc rối, áo quần xộc xệch, hai mắt mở to, cười như một kẻ ngớ ngẩn, tay cầm một chiếc que cời than.

Lý Mạc Sầu kinh ngạc: "Làm sao mụ kia có thể dễ dàng vượt qua thổ trận, đi thẳng qua cổng vào đây? Nếu không phải là đồng bọn của ba đứa này, thì mụ ta phải tinh thông thuật Kỳ môn độn giáp". Lý Mạc Sầu mải nghĩ sang chuyện khác, sức tác động người khác của tiếng ca bi thảm lập tức suy giảm.

Trình Anh nhìn thấy nữ nhân kia thì cả mừng, nói:

– Sư tỷ, người này muốn hại muội, sư tỷ mau giúp muội với.

Người phụ nữ kia là Khúc cô, vai vế ở dưới Trình Anh một bậc, nhưng tuổi hơn gấp đôi, nên Trình Anh mới gọi là sư tỷ.

Chỉ nghe Khúc cô lại vỗ tay, cao giọng hát hết bài "Một ông sao sáng, hai ông sáng sao" lại đến bài "Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa", có lúc nhớ lộn chữ này sang chữ kia. Lý Mạc Sầu muốn dùng tiếng ca sầu khổ át tiếng hát vui nhộn, đâu ngờ Khúc cô vốn không hề biết phiền não khổ sở là gì, trong đầu là một khối hỗn độn, tác động tinh thần từ bên ngoài có mạnh đến mấy, cũng chẳng làm gì được Khúc cô; Lý Mạc Sầu bị Khúc cô phá rối, thì cả giận, nghĩ thầm: "Phải đập chết mụ này đi đã", tiếng ca chưa dứt, đã vung cây phất trần đánh Khúc cô.

Năm xưa Hoàng Dược Sư hối hận vì mình hành sự thiếu sáng suốt, làm cho đệ tử Khúc Linh Phong bị địch giết hại, nên đã thu dưỡng nữ nhi của Khúc Linh Phong là Khúc cô, thề sẽ truyền thụ mọi bản sự cho Khúc cô. Nhưng Khúc cô chứng kiến cảnh phụ thân bị giết hại, quá kinh sợ mà mất trí, Hoàng Dược Sư tốn bao tâm huyết chữa trị và dạy bảo, song sức người vẫn không thắng nổi số trời, đừng nói học lấy một nửa võ công của Hoàng Dược Sư, mà ngay nhớ thêm vài chữ, biết sử vài pho võ công thô thiển, cũng là việc cực khó đối với Khúc cô. Tuy vậy, hơn mười năm trở lại đây, với sự kiên trì chỉ dẫn của minh sư, Khúc cô cũng luyện được một pho chưởng pháp, một pho xoa pháp (xoa: Chiếc que cời). Gọi là pho, kỳ thực mỗi môn chỉ gồm ba chiêu. Hoàng Dược Sư biết rằng dù biến hóa kỳ chiêu thế nào chăng nữa, thì Khúc cô cũng không nhớ nổi, thế nên nghĩ hết cách, sáng tạo ra ba chiêu chưởng pháp, ba chiêu xoa pháp. Sáu chiêu cứng nhắc, hoàn toàn không có biến hóa gì hết, uy lực chỉ dựa vào công kình mà thôi. Người thường luyện võ, ít cũng vài chục chiêu, nhiều thì ngàn chiêu biến hóa, đàng này Khúc cô chỉ luyện sáu chiêu, luyện mãi tự nhiên thành thạo, tinh thuần, chiêu số tuy ít, nhưng rất lợi hại.

Còn chuyện Khúc cô vượt qua thổ trận, thì đó là vì Khúc cô sống lâu năm ở Đào Hoa đảo, trận pháp mà Trình Anh bố trí chỉ là công phu thô thiển so với ở Đào Hoa đảo, Khúc cô chỉ nhìn qua đã hiểu, nên mới đi vào dễ dàng.

Lúc này Khúc cô thấy cây phất trần của Lý Mạc Sầu đánh tới, bèn đâm ngang chiếc que cời về phía đối phương. Lý Mạc Sầu nghe tiếng que cời đâm tới nhanh và mạnh khôn tả, không khỏi cả kinh: "Không ngờ mụ kia lại có công lực thâm hậu thế này", vội né người sang bên trái, vung cây phất trần đánh vào gáy Khúc cô. Khúc cô chẳng thèm để ý chiêu số của đối phương thế nào, chiếc que cời cứ đâm thẳng. Cây phất trần của Lý Mạc Sầu đã chuyển hướng, cuốn lấy đầu chiếc que cời. Khúc cô coi như không nhìn thấy, chiếc que cời vẫn cứ đâm thẳng. Lý Mạc Sầu vận kình giật mạnh, chiếc que cời không hề dao động, trong chớp mắt sẽ đâm tới giữa ngực Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu võ công cao cường đến mấy, cũng phải cuống quít sử chiêu "Đảo chuyển thất tinh bộ", nhảy lùi ra phía sau, làm thủng cả vách nhà, mới tránh được cú đâm kinh hồn táng đởm, song vẫn sợ vã mồ hôi hột. Lý Mạc Sầu định thần, lại xông vào nhà, tung mình lên, vung cây phất trần đánh xuống. Khúc cô lấy bất biến ứng vạn biến, lại đâm ngang chiếc que cời, nhưng lần này đối phương đã nhảy lên cao, nên Khúc cô chĩa đầu que cời vào bụng dưới của nàng ta. Lý Mạc Sầu thấy thế đến của chiếc que cời mạnh mẽ, vội chuyển cây phất trần, dùng cán gạt ngang, mượn thế nhảy tránh đi. Tránh xong rồi, Lý Mạc Sầu sững sờ nhìn Khúc cô, nghĩ thầm: "Ba chiêu công kích vừa rồi của ta, mỗi chiêu đều ẩn chứa chín cách biến hóa, mười hai hậu chiêu, dù mụ kia có là một vị cao thủ võ lâm, cũng quyết không thể coi như không thế được. Mụ ta chỉ có mỗi một chiêu đâm que cời ngang ngực, thế mà vô hình trung đã hóa giải cả sáu mươi ba chiêu biến hóa của ta. Mụ này võ công cao thâm khôn lường, mình phải chuồn thôi!"

Ai dè xoa pháp của Khúc cô vỏn vẹn chỉ có ba chiêu, chỉ cần đấu thêm một lát, Lý Mạc Sầu ắt sẽ thấy rõ cách xuất thủ của đối phương, dễ dàng thủ thắng. Người ta bảo Trình Giảo Kim chỉ có ba cái búa, thì Khúc cô cũng chỉ có ba chiêu que cời, mới sử dụng mỗi một chiêu xoa pháp, đã đánh đuổi được kẻ địch có võ công cực kỳ lợi hại, Đào Hoa đảo chủ kể cũng đáng tự hào.

Lý Mạc Sầu quay người, định nhảy qua chỗ vách thủng ra ngoài, thì bỗng thấy cạnh chỗ đó có một vị thanh y lão nhân đang ngồi vuốt chòm râu dài, chính là Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư, người đã cứu Trình Anh khỏi tay nàng ta. Hoàng Dược Sư đặt cây đàn dao mà Trình Anh ban nãy đã gảy trên một chiếc chõng thấp. Trong lúc giao chiến, Lý Mạc Sầu mắt nhìn sáu đường, tai nghe tám phía, nhưng Hoàng Dược Sư bước vào, cầm cây đàn, ngồi xuống, mà nàng ta hoàn toàn không hay biết, nếu Hoàng Dược Sư ám toán sau lưng, thì lấy mạng nàng ta có khác gì dễ như trở bàn tay?

Khi đối chiêu với Khúc cô, Lý Mạc Sầu sợ bọn Trình Anh liên thủ tham chiến, nàng vẫn cứ dùng khúc bi ca để làm rối loạn tâm thần của ba người, lúc này thấy Hoàng Dược Sư ngồi xuống gảy đàn, thì giật mình, lập tức ngừng hát.

Hoàng Dược Sư gảy một tiếng đàn, cất tiếng ca:

Tình là chi hỡi thế gian

Câu thề sinh tử đa mang một đời..

Vẫn là ca khúc mà Lý Mạc Sầu vừa hát. Cây dao cầm chỉ còn một sợi là dây "Vũ", nhưng trên một sợi dây đàn này, Hoàng Dược Sư vẫn gảy ra đủ năm âm luật Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ; mà cầm vận còn bi thiết hơn cả tiếng ca của Lý Mạc Sầu.

Khúc ca này Lý Mạc Sầu hát đã thuộc, Hoàng Dược Sư vừa biến điệu, cảm ứng sinh ra trong lòng nàng ta còn mạnh gấp hàng chục lần hơn bọn Dương Quá. Hoàng Dược Sư sớm biết Lý Mạc Sầu tác ác đa đoan, hôm nay rất muốn nhân cơ duyên này mà trừ khử nàng ta. Năm xưa Hoàng Dược Sư từng dùng một cây ngọc tiêu đấu với cái thiết tranh (cái diều) của Âu Dương Phong và tiếng hú của Hồng Thất Công, bất phân thắng bại. Bây giờ khí lực đã suy giảm vì tuổi tác, nội lực thì càng ngày càng thâm sâu, Lý Mạc Sầu làm sao địch nổi? Trong giây lát nàng ta đã bị nhiễm cảm, dao động không thể kiềm chế được.

Tiếng cầm ca của Hoàng Dược Sư hòa với nhau, chợt hoan lạc, chợt phẫn nộ, chợt vút lên hiên ngang, chợt hạ xuống quằn quại, khiến nàng ta cũng chợt vui chợt buồn, chợt nộ chợt sầu, ca khúc này kết thúc, Lý Mạc Sầu chắc chắn sẽ phát cuồng.

Giữa lúc đó Khúc cô ngoảnh đầu, bỗng nhìn thấy Dương Quá, dưới ánh đèn trông chàng giống hệt phụ thân chàng là Dương Khang. Khúc cô sợ nhất là hồn ma; cái cảnh tượng ngày xưa Dương Khang bị trúng độc mà chết, đã in sâu trong óc Khúc cô vĩnh viễn không quên, giờ bỗng nhìn thấy Dương Quá ngồi ngây chỗ kia, ngỡ là Dương Khang hiện hồn về, Khúc cô vội nhảy dựng lên, chỉ Dương Quá, kêu thất thanh:

– Dương.. Dương huynh đệ, huynh đệ đừng.. hại.. không phải ta sát hại huynh đệ, huynh đệ đừng.. hãm hại.. người khác.

Hoàng Dược Sư không ngờ Khúc cô ở bên cạnh phá rối, "tăng" một cái, sợi dây đàn cuối cùng đứt phựt. Khúc cô nấp vào sau lưng sư tổ, kêu to:

– Ma.. ma.. gia gia, là hồn ma của Dương huynh đệ kìa.

Lý Mạc Sầu thừa cơ, dùng cây phất trần thổi tắt ngọn đèn, chui qua chỗ vách thủng chạy đi. Hoàng Dược Sư không chế ngự buộc nàng ta bỏ mạng được, đành để cho nàng ta chạy thoát, do thân phận của mình, cũng không thể đuổi theo. Trong bóng tối Khúc cô càng sợ hãi, cứ kêu rú lên:

– Eo ôi, ác quỉ đấy, gia gia, đánh ma đi, đánh quỉ đi.

Hoàng Dược Sư quát bảo Khúc cô đừng kêu. Trình Anh thắp đèn sáng, quì xuống vái sư phụ, rồi đứng dậy, bẩm qua lai lịch của Dương Quá và Lục Vô Song.

Hoàng Dược Sư nhìn Dương Quá, cười, nói:

– Đồ tôn kiêm đồ nhi Khúc cô của lão phu hơi ngớ ngẩn. Nó biết mặt phụ thân ngươi. Ngươi quả nhiên rất giống phụ thân ngươi.

Dương Quá ngồi trên giường cúi rạp đầu, nói:

– Thứ cho đệ tử đang bị thương, không thể khấu bái.

Hoàng Dược Sư dịu dàng nói:

– Ngươi không quản hiểm nguy, cứu mạng nữ nhi và ngoại tôn nữ của lão phu, thật là một hảo hài tử.

Nguyên Hoàng Dược Sư đã gặp Hoàng Dung, biết chuyện vài ngày trước, nghe nói Trình Anh đã cứu Dương Quá mang đi, thế là bèn dẫn Khúc cô đi tìm.

Hoàng Dược Sư lấy linh dược trị thương cho Dương Quá uống, lại vận nội lực xoa bóp cho chàng. Dương Quá chỉ cảm thấy hai bàn tay của lão nóng rực, bất giác cơ thể sinh ra kháng lực. Hoàng Dược Sư chợt cảm thấy da thịt chàng chấn động một cái, rồi kinh mạch vận chuyển, nội công thực có thành tựu dị thường, thế là lão gia tăng kình lực vào hai tay, xoa bóp bằng thời gian ăn một bữa cơm, thì Dương Quá thấy tứ chi toàn thân khoan khoái vô cùng, mơ mơ hồ hồ ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau thức giấc, Dương Quá mở mắt ra, đã thấy Hoàng Dược Sư ngồi cạnh đầu giường, vội ngồi dậy hành lễ. Hoàng Dược Sư nói:

– Ngươi có biết trên giang hồ người ta gọi lão phu bằng danh hiệu gì chứ?

Dương Quá đáp:

– Tiền bối là Đào Hoa đảo chủ.

Hoàng Dược Sư hỏi:

– Còn gì nữa?

Dương Quá cảm thấy không tiện nói ra hai chữ "Đông Tà", nhưng lại nghĩ, ngoại hiệu của lão đã có chữ "Tà", hẳn là tính khí phải khác hẳn người thường, bèn bạo gan nói:

– Tiền bối là "Đông Tà".

Hoàng Dược Sư cười ha hả, nói:

– Không sai, lão phu nghe nói, ngươi võ công không kém, lòng dạ nhiệt thành, hành sự cũng có vài phần gian tà. Lại nghe đâu ngươi muốn lấy sư phụ ngươi làm thê tử, phải vậy không?

Dương Quá đáp:

– Thưa đúng vậy. Lão tiền bối, người người đều không cho phép đệ tử, nhưng đệ tử thà chết, nhất định sẽ lấy người ấy làm thê tử.

Hoàng Dược Sư nghe Dương Quá nói mấy câu này quả quyết như dao chém đá, thì chăm chú nhìn chàng một hồi, rồi ngửa mặt cười khanh khách, làm rung chuyển cả nếp nhà tranh. Dương Quá hơi bực, hỏi:

– Chuyện đó có gì tức cười kia chứ? Đệ tử tưởng lão tiền bối hiệu xưng "Đông Tà", chắc phải có cao kiến, ai dè cũng chẳng khác gì thường nhân cả.

Hoàng Dược Sư nói:

– Hảo, hảo, hảo!

Nói xong liền đi ra. Dương Quá ngồi lại, nghĩ thầm: "Mấy câu vừa rồi của mình chắc là đắc tội với lão tiền bối, nhưng sao không thấy lão tức giận?"

Chàng đâu biết Hoàng Dược Sư một đời tung hoành thiên hạ, chúa ghét các định kiến thế tục lễ giáo đương thời, hành sự nói năng toàn là ly kinh phản đạo cho nên mới bị gắn cho chữ "Tà". Lão suốt đời cô đơn, bình sinh thực không có tri kỷ, tuy có nữ nhi và nữ tế (con rể), nhưng họ không hợp với lão, Quách Tĩnh nghiêm trang hậu trọng, lão càng ghét hơn. Không ngờ lúc xế bóng, lão lại gặp Dương Quá. Dương Quá hành sự thế nào tại đại hội quần hùng vừa rồi, lão đã nghe kể, Hoàng Dung cũng đã thuật sơ qua lai lịch của chàng, nay trò chuyện vài câu với chàng, lão đã cảm thấy đại hợp tâm ý.

Gần tối, Hoàng Dược Sư trở vào phòng, nói:

– Dương Quá, nghe bảo ngươi phản xuất phái Toàn Chân, ẩu đả bản sư, cũng gian tà ghê gớm. Chi bằng ngươi lại phản xuất sư môn phái Cổ Mộ, bái lão phu đây làm sư phụ đi.

Dương Quá sửng sốt, hỏi:

– Để làm gì ạ?

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Ngươi trước hết không nhận Tiểu Long Nữ là sư phụ nữa, rồi lấy nàng ta làm thê tử, như thế có phải là danh chính ngôn thuận hay không?

Dương Quá nói:

– Cách đó cũng hay. Nhưng mà sư đồ không được kết thành phu thê, quy củ đó là do ai định ra vậy? Vãn bối muốn nàng ta vừa là sư phụ, vừa là thê tử của vãn bối kia.

Hoàng Dược Sư vỗ tay, cười:

– Hay lắm! Ngươi nghĩ thế, là còn cao hơn lão phu một bậc đấy.

Lão đưa tay xoa bóp trị thương cho Dương Quá, lại nói:

– Lão phu vốn định truyền y bát cho ngươi, để cho người đời biết rằng sau Hoàng lão tà còn có Dương tiểu tà. Ngươi không chịu làm đệ tử của ta, thế là hết cách.

Dương Quá nói:

– Cũng không nhất thiết phải là sư đồ mới có thể truyền lại chữ Tà của lão tiền bối. Lão tiền bối nếu không ngại vãn bối nhỏ tuổi, võ nghệ non kém, thì hai ta có thể kết làm bằng hữu, thậm chí làm huynh đệ kết nghĩa.

Hoàng Dược Sư nổi giận:

– Thằng nhãi ranh này có lá gan không nhỏ. Lão phu không phải là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông, làm sao có thể bằng vai phải lứa với ngươi kia chứ?

Dương Quá hỏi:

– Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông là ai vậy?

Hoàng Dược Sư bèn kể cho chàng nghe sơ qua Chu Bá Thông là người như thế nào, đã kết nghĩa huynh đệ với Quách Tĩnh ra sao.

Hai người chuyện trò vô cùng ý hợp tâm đầu, tục ngữ có câu "Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, thoại bất đầu cơ bán cú đa", Dương Quá ăn nói lưu loát, ngôn từ lanh lợi, tính nết lại gần giống Hoàng Dược Sư, mỗi câu nói ra đều hợp ý lão, hai người cứ như thể bạn cũ lâu ngày gặp lại, chỉ tiếc sao gặp nhau quá muộn. Hoàng Dược Sư ngoài miệng không chịu, nhưng trong bụng thì đã coi Dương Quá như người bạn vong niên, tối hôm ấy sai Trình Anh kê thêm một chiếc giường trong phòng Dương Quá, để hai người nằm cạnh nhau trò chuyện.

Mấy hôm sau Dương Quá đã khỏe hẳn, chàng và Hoàng Dược Sư hai người cứ như keo sơn, lưu luyến không rời. Hoàng Dược Sư vốn định dẫn Khúc cô xuống phương Nam, thế mà không thấy lão nhắc một câu ngày nào lên đường. Trình Anh và Lục Vô Song thấy hai người, một già một trẻ, ngày cùng ngồi uống trà, tối thắp đèn thâu đêm, cao đàm khoát luận, thao thao bất tuyệt, hai nàng không nhịn được cười, cảm thấy lão già thì bất chấp thân phận, chàng trai thì chẳng nể nang gì hết. Xét về học vấn, kiến thức mà nói, Dương Quá không bằng cái móng tay Hoàng Dược Sư, song Hoàng Dược Sư nói bất cứ chuyện gì, chàng cũng đều có thể chêm vào một hai chữ hoặc tán thưởng, hoặc rất đúng chỗ, khiến Hoàng Dược Sư bất giác xem chàng như đệ nhất tri kỷ của mình vậy.

Mấy ngày nay, ngoài thời gian trò chuyện với Hoàng Dược Sư, Dương Quá thường nhớ đến câu nói của Khúc cô buổi tối đầu tiên, khi nhận lầm chàng; khi đó, Khúc cô nói: "Không phải ta sát hại huynh đệ, huynh đệ đừng hãm hại.. người khác!" Chàng nghĩ Khúc cô hẳn là biết ai sát hại phụ thân chàng, người khác giấu chàng không nói, chứ Khúc cô ngớ ngớ ngẩn ngẩn, không chừng có thể qua miệng Khúc cô mà tìm ra chân tướng.

Chiều hôm sau, Dương Quá nói:

– Khúc cô, hãy lại đây, ta có điều muốn nói với Khúc cô.

Khúc cô thấy chàng quá giống Dương Khang, vẫn sợ hãi, lắc đầu nói:

– Ta không chơi với ngươi đâu.

Dương Quá nói:

– Ta biết làm trò ảo thuật, Khúc cô có muốn xem không?

Khúc cô lắc đầu:

– Ngươi lừa ta, ta không xem đâu!

Nói xong nhắm mắt lại. Dương Quá đột nhiên lộn người trồng cây chuối, như Âu Dương Phong đã dạy chàng, nói:

– Xem này!

Rồi chàng cứ thế di chuyển bằng hai tay về phía trước. Khúc cô mở mắt nhìn, thấy thế vui quá, vỗ tay hoan hô, đi theo sau.

Đến một chỗ có nhiều bụi cây, cách ngôi nhà tranh khá xa, Dương Quá mới đứng thẳng người lại, rủ:

– Hai ta chơi trò bịt mắt bắt dê nhé? Ai thua thì phải bị phạt.

Khúc cô bao năm nay đi theo Hoàng Dược Sư, làm gì được chơi đùa với ai? Nghe Dương Quá rủ chơi, thì mừng hết chỗ nói, cứ vỗ tay thích thú, không còn sợ gì Dương Quá nữa, nói:

– Hay quá, hay quá! Hảo huynh đệ, huynh đệ bảo nên phạt thế nào?

Khúc cô gọi phụ thân chàng là huynh đệ, bây giờ đối với chàng, cũng lại gọi là huynh đệ.

Dương Quá lấy ra một cái khăn, bịt mắt Khúc cô lại, nói:

– Khúc cô hãy đuổi bắt ta, nếu bắt được, Khúc cô hỏi câu gì, ta đều phải trả lời thật thà, không được giấu giếm. Nếu không bắt được ta, ta có hỏi câu gì, Khúc cô cũng phải trả lời thật thà.

Khúc cô rối rít nói:

– Được lắm, được lắm!

Dương Quá lên tiếng:

– Ta ở đây này, Khúc cô đuổi bắt ta đi!

Khúc cô dang hai tay, đuổi theo tiếng gọi. Dương Quá đã luyện khinh công phái Cổ Mộ, là môn tuyệt diệu nhất thiên hạ, đừng nói Khúc cô đang bị bịt mắt, cho dù nhìn thấy, cũng chẳng thể đuổi kịp. Khúc cô đuổi loanh quanh một hồi không được, lại đụng trán vào một thân cây, trán sưng to một cục, miệng xuýt xoa kêu đau.

Dương Quá sợ Khúc cô mất hứng, bèn cố ý đi chậm lại, ho khẽ một tiếng. Khúc cô chạy tới, tóm lấy lưng chàng, kêu to:

– Tóm được rồi, tóm được rồi!

Cởi cái khăn ra, vẻ mặt đầy vui thích.

Dương Quá nói:

– Được ta thua rồi, Khúc cô muốn hỏi gì thì hỏi đi.

Không ngờ đặt câu hỏi lại là chuyện khó đối với Khúc cô. Khúc cô cứ ngẩn ra nhìn Dương Quá, không biết nên hỏi cái gì, hồi lâu mới nói:

– Hảo huynh đệ, huynh đệ đã ăn cơm chưa?

Dương Quá thấy Khúc cô nghĩ chán chê, mới hỏi một câu không đáng hỏi, suýt nữa thì chàng phì cười, nhưng làm vẻ mặt thản nhiên, nghiêm trang đáp:

– Ta ăn cơm rồi.

Khúc cô gật gật đầu, không nói gì. Dương Quá nói:

– Khúc cô muốn hỏi thêm gì không?

Khúc cô lắc đầu:

– Không hỏi nữa, chơi tiếp nào.

Dương Quá nói:

– Được, Khúc cô mau đuổi bắt ta đi.

Khúc cô sờ sờ cục sưng trên trán, nói:

– Bây giờ đến lượt huynh đệ đuổi bắt Khúc cô.

Khúc cô bỗng nhiên không ngớ ngẩn, thật là điều bất ngờ đối với Dương Quá, song rất hợp ý định của chàng, chàng liền cầm khăn bị mắt lại.

Khúc cô tuy ngớ ngẩn, nhưng khinh công rất khá, Dương Quá bị bịt mắt, làm sao đuổi bắt được? Chàng nhảy nhót vài lần, len lén đưa tay làm rách khăn, nhìn thấy Khúc cô nấp sau bên phải một thân cây lớn, chàng cố ý sờ soạng mé bên trái, miệng hỏi:

– Khúc cô ở đâu? Khúc cô ở đâu thế?

Rồi đột nhiên xoay ngươi lại túm lấy cổ tay của Khúc cô tay trái chàng giật tấm khăn ra, nhét luôn vào túi để Khúc cô không phát hiện vết thủng, cười, nói:

– Lần này thì ta hỏi Khúc cô đây.

Khúc cô nói luôn:

– Ta ăn cơm rồi.

Dương Quá cười, nói:

– Ta đâu có hỏi Khúc cô câu ấy. Ta hỏi câu này: Khúc cô quen biết cha ta phải không?

Nói tới đây, vẻ mặt chàng rất trịnh trọng. Khúc cô đáp:

– Cha của huynh đệ là ai? Ta không quen biết đâu.

Dương Quá nói:

– Có một người tướng mạo giống hệt ta, người ấy là ai vậy?

Khúc cô nói:

– À, đó là Dương huynh đệ.

Dương Quá hỏi:

– Khúc cô nhìn thấy Dương huynh đệ bị người ta giết chết phải không?

Khúc đáp:

– Phải, lúc ấy nửa đêm, ở trong tòa miếu, có rất nhiều quạ kêu, quạc, quạc, quạc!

Khúc cô bắt chước tiếng quạ kêu. Cây lá xung quanh âm u, Khúc cô kêu lên như vậy, bất giác thấy hơi rờn rợn. Dương Quá rùng mình, hỏi:

– Dương huynh đệ chết như thế nào?

Khúc cô nói:

– Cô cô muốn ta nói, Dương huynh đệ không cho ta nói, Dương huynh đệ đánh cô cô một chưởng, rồi cười ha ha, hô hô, hi hi!

Khúc cô cố bắt chước tiếng cười của Dương Khang trước khi chết, cười đến nỗi chính Khúc cô cũng tái mặt hoảng sợ. Dương Quá nghe chẳng hiểu thế nào, hỏi:

– Cô cô là ai thế?

Khúc cô đáp:

– Cô cô là cô cô chứ còn ai.

Dương Quá biết bí mật về cái chết của phụ thân sắp được vén mở, máu nóng dồn lên ngực, đang định hỏi tiếp, bỗng nghe có tiếng người nói sau lưng:

– Hai đứa ngươi chơi đùa ở đây hả?

Đó là Hoàng Dược Sư. Khúc cô nói:

– Hảo huynh đệ chơi bịt mắt bắt dê với Khúc cô. Là hảo huynh đệ rủ Khúc cô đi chơi, chứ không phải Khúc cô rủ đâu, đừng mắng Khúc cô.

Hoàng Dược Sư mỉm cười, nhìn Dương Quá một cái, thần sắc đầy ngụ ý, tựa hồ đọc được tâm sự của chàng. Dương Quá động lòng, định nói vài câu che giấu, chợt phía ngoài rừng cây có tiếng bước chân, Trình Anh và Lục Vô Song hớt hải chạy tới, nói với Hoàng Dược Sư:

– Lão nhân gia đoán không sai, nàng ta quả nhiên còn ở đấy.

Nói rồi chỉ tay về phía sau mé núi phía Tây. Dương Quá hỏi:

– Ai thế?

Trình Anh đáp:

– Lý Mạc Sầu!

Dương Quá kinh ngạc, nghĩ bụng sao nữ ma đầu lại cả gan như thế, chàng nhìn Hoàng Dược Sư, chờ lão giải thích. Hoàng Dược Sư mỉm cười, nói:

– Chúng ta đến đó xem sao.

Mấy người có lão ở bên cạnh, chẳng sợ gì, thế là cả bọn kéo nhau ra sau núi.

Trình Anh biết Dương Quá lòng đầy nghi vấn, bèn nói nhỏ:

– Sư phụ bảo Lý Mạc Sầu biết sư phụ có thân phận đại tông sư; tối hôm ấy có ý lấy mạng mụ ta nhưng không thành, đánh một lần không trúng, lần sau ngượng không xuất thủ nữa.

Dương Quá bỗng đại ngộ, nói:

– Do vậy mụ ta mới không chút sợ hãi, ở lại đây chờ cơ hội thuận tiện sẽ lấy mạng ba chúng ta. Nếu Hoàng đảo chủ không nhắc nhở, ba đứa mình cứ tưởng mụ ta đã chuồn đi xa, không đề phòng, rất dễ sa vào tay mụ.

Trình Anh mỉm cười, gật đầu.

Lục Vô Song nói xen vào:

– Dương huynh tự phụ thông minh hơn người, so với Hoàng đảo chủ xem ra còn thua xa.

Dương Quá cười, nói:

– Huynh là Đồ Ngốc, là hảo huynh đệ của Khúc cô mà lại.

Chẳng mấy chốc năm người đã ra sau núi, thấy cạnh một cây đại thụ có một gian nhà tranh cũ, nhỏ, rất tuềnh toàng, hai cánh cửa đóng chặt, trên cánh cửa viết mười sáu chữ: "Đào Hoa đảo chủ, đệ tử quá đông, lấy năm đánh một, giang hồ chê cười!"

Hoàng Dược Sư cả cười, cúi nhặt dưới đất hai viên sỏi, dùng ngón tay cái và ngón trỏ búng đi, bộp bộp hai tiếng, hai cánh cửa ở cách xa mươi bước bị hai viên sỏi mở tung ra. Dương Quá hồi ở Đào Hoa đảo nghe Quách Phù kể rằng ông ngoại của nàng có bản lĩnh "Đạn chỉ thần thông", hôm nay chính mắt chứng kiến, không khỏi hết sức thán phục.

Cánh cửa mở tung, chỉ thấy Lý Mạc Sầu đang ngồi ngay ngắn trên tấm bồ đoàn, tay giữ cây phất trần, mắt lim dim, chính đang ngồi thiền, thần quang thu vào bên trong, trang nghiêm đúng như một đạo sĩ. Trong nhà chỉ có một mình Lý Mạc Sầu, không thấy Hồng Lăng Ba. Dương Quá hiểu ngay: "Lý Mạc Sầu châm biếm Hoàng đảo chủ đông đệ tử, cậy đông ăn hiếp một mình nàng ta, cho nên nàng ta đuổi cả Hồng Lăng Ba đi nơi khác, ra điều nàng ta chỉ có một mình, với thân phận Hoàng đảo chủ, Hoàng Dược Sư sẽ không động đến nàng ta".

Lục Vô Song nghĩ đến mối thù của cha mẹ, bao năm nay nhẫn nhục khổ sở, bèn rút kiếm, nói:

– Biểu tỷ, Dương huynh, không cần Hoàng đảo chủ ra tay, ba chúng ta hãy liều chết với mụ ta.

Khúc cô xoa xoa tay, nói:

– Có cả Khúc cô nữa!

Lý Mạc Sầu mở mắt, nhìn năm người một lượt, lộ vẻ khinh bỉ, rồi lại nhắm mắt, làm như không thèm để ý tới cường địch đang ở trước mặt. Trình Anh nhìn sư phụ, chờ lệnh. Hoàng Dược Sư thở dài:

– Hoàng lão tà đúng là đệ tử rất đông, nếu bốn đại đệ tử Trần, Mai, Khúc, Lục có một người ở đây, đâu có để cho nó lẻo mép?

Rồi lão phẩy tay, nói:

– Về thôi!

Bốn người không hiểu tâm ý của Hoàng Dược Sư, theo lão về căn nhà tranh, chỉ thấy lão cau có không vui bỏ bữa ăn tối, lẳng lặng nằm ngủ.

Dương Quá nằm giường bên cạnh, nhớ lại lời Khúc cô nói chiều nay, rồi thần tình của Lý Mạc Sầu, nghĩ thầm: "Mụ ta chê cười bên này cậy đông, lấy năm đánh một; hiện giờ thương thế của ta đã lành, dùng sức một mình ta, có khi cũng đủ địch nổi mụ; chi bằng ta kín đáo đi đấu với mụ một trận, trước là rửa nỗi nhục của cô cô ta, sau là để Hoàng đảo chủ đỡ bực mình". Tâm ý đã quyết, bèn nhẹ nhàng nai nịt quần áo gọn ghẽ. Chàng tuy nóng tính, nhưng hành sự rất cẩn thận, biết Lý Mạc Sầu đúng là cường địch, chỉ cần sơ suất một chút, sẽ mất mạng bởi tay mụ ta như chơi, bèn ngồi xếp bằng trên giường vận khí điều tức, dưỡng đủ tinh thần, rồi sẽ đi tử chiến một phen.

Vận khí chừng nửa canh giờ, đột nhiên trước mắt tựa hồ bừng sáng, toàn thân chỗ nào cũng tràn đầy khí, miệng tự dưng phát ra một âm thanh nghe như tiếng rồng hú ở vực lớn, hổ gầm trong rừng sâu, truyền đi rất xa. Hoàng Dược Sư phát hiện ngay từ lúc Dương Quá nai nịt quần áo, nghe chàng phát ra âm thanh kỳ lạ, không ngờ nội công của chàng tiến triển đến mức ấy, thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng.

Nguyên một người luyện nội công đến cảnh giới nhất định, thường sẽ tự dưng phát ra âm thanh lạ. Sau này vào thời nhà Minh, bậc đại nho Vương Dương Minh nửa đêm luyện khí trong binh doanh, đột nhiên hú lên một tiếng, toàn quân kinh hãi, điều này có chép rõ ràng trong sử sách. Hiện tại Dương Quá trung khí sung mãn, khó kìm giữ, phát ra tiếng hú vang xa mấy dặm. Trình Anh, Lục Vô Song cố nhiên kinh ngạc, ngay cả Lý Mạc Sầu ở sau núi nghe tiếng hú cũng kinh hãi, song nàng ta nghĩ rằng đấy là Hoàng Dược Sư thổ nạp canh khí, mà lão thì sẽ không xuất thủ, nên mụ chẳng lo. Không ngờ là Dương Quá từng được nằm giường hàn ngọc, lại được học "Ngọc nữ tâm kinh" và bí yếu của "Cửu Âm chân kinh", nội công tích lũy lâu dần, mấy hôm trước được Hoàng Dược Sư truyền lực trị thương, nhận sự kích thích của nguồn nội lực mạnh mẽ đó, tự dưng chàng phát ra tiếng hú.

Tiếng hú vang rền lâu gần bằng thời gian ăn một bữa cơm, mới lặng tắt dần. Hoàng Dược Sư nghĩ thầm: "Ta tự phụ là kỳ tài, cũng phải ngoài ba mươi tuổi mới đạt tới cảnh giới này. Gã thiếu niên này chín sớm hơn ta mười năm, không hiểu từng có sự kỳ ngộ gì đây?" Chờ Dương Quá hú xong, Hoàng Dược Sư hỏi:

– Ngươi bảo môn võ công lợi hại nhất của Lý Mạc Sầu là gì?

Dương Quá nghe câu hỏi, biết hành động của chàng đã bị lão phát giác, đáp:

– Là công phu "Ngũ độc thần chưởng" và cây phất trần.

Hoàng Dược Sư nói:

– Không sai. Nội công của ngươi đã có căn cơ như thế, muốn khắc chế nàng ta cũng không khó.

Dương Quá cả mừng, bất giác vái lão sát đất. Chàng vốn rất kiêu ngạo, tuy coi Hoàng Dược Sư là bậc tiền bối, có võ công cao thâm, huyền học thông thần, song vẫn chưa cúi đầu trước lão; lúc này nghe lão bảo có thể khắc chế được võ công hoành hành thiên hạ của Lý Mạc Sầu, làm sao chàng không bái phục?

Thế là Hoàng Dược Sư liền truyền thụ cho chàng công phu "Đạn chỉ thần thông" là cái có thể khắc chế "Ngũ độc thần chưởng", rồi dạy chàng một lộ kiếm pháp diễn xuất từ "Ngọc tiêu kiếm pháp", có thể phá hủy cây phất trần của Lý Mạc Sầu. Dương Quá nghe lão chỉ dẫn quyết khiếu, hỏi rõ những chỗ nghi nan, để bụng ghi nhớ; nhưng cảm thấy hai môn võ công này tinh thâm huyền diệu, xem ra muốn đạt tới mức tiểu thành, tối thiểu phải luyện một năm; muốn chắc thắng, cũng không thể dưới ba năm, bèn nói:

– Hoàng đảo chủ, muốn thắng mụ ta ngay, cũng không có cách gì hay sao?

Hoàng Dược Sư nói:

– Thời gian ba năm vèo một cái đã qua, lúc ấy ngươi mới hai mốt, hai hai tuổi, mà đã luyện thành hai môn võ công như thế, còn lo chưa đủ hay sao?

Dương Quá nói:

– Đệ tử.. đệ tử không phải là nghĩ cho đệ tử..

Hoàng Dược Sư vỗ nhẹ bên sườn chàng, ôn tồn nói:

– Ba năm nữa ngươi giết Lý Mạc Sầu cho ta, ta cũng chịu ơn ngươi rồi. Hồi trước ta tự hủy hoại mấy đệ tử hiền tài, bây giờ bị báo ứng cũng phải thôi.

Nói xong lão thở dài.

Dương Quá quì xuống, vái tám cái, kêu lên:

– Sư phụ!

Chàng biết Hoàng Dược Sư truyền thụ võ công cho chàng là muốn chàng thay lão rửa cái nhục mười sáu chữ Lý Mạc Sầu viết kia, không thể không có danh phận sư đồ.

Hoàng Dược Sư biết Dương Quá có tình nghĩa sâu xa với phái Cổ Mộ, không chịu nhận người khác làm minh sư, bèn đưa tay đỡ chàng dậy, nói:

– Khi nào ngươi động thủ với nữ ma đầu, thì ngươi là đệ tử của ta. Ngoài khi đó ra, ngươi là bằng hữu của ta. Dương huynh đệ, đã rõ chưa nào?

Dương Quá cười, nói:

– Được làm bằng hữu của sư phụ thì còn gì sướng hơn.

Hoàng Dược Sư cười, nói:

– Ta và ngươi tương ngộ, cũng hạnh ngộ ba sinh đó.

Hai người nắm tay nhau cả cười, làm rung chuyển cả bốn vách nhà. Hoàng Dược Sư lại giải thích tỉ mỉ quyết khiếu huyền diệu của "Đạn chỉ thần thông" và "Ngọc tiêu kiếm pháp". Dương Quá nghe tường tận, biết lão sắp đi xa, buồn bã nói:

– Quen biết chưa lâu, đã phải chia ly, không rõ ngày nào mới được tái ngộ?

Hoàng Dược Sư nói:

– Hai ta như tri kỷ, dù cách xa góc biển chân trời, cũng như đang ở bên nhau. Sau này nếu ta biết có kẻ ngăn cản hôn sự của ngươi, dù xa vạn dặm, ta cũng sẽ đến giúp ngươi.

Dương Quá thấy lão vỗ ngực hứa hẹn thì rất cảm động, cười, nói:

– Chỉ e người đầu tiên đứng ra ngăn cản, lại là lệnh ái.

Hoàng Dược Sư nói, giọng châm biếm:

– Hoàng Dung gặp được tình lang như ý, nên không hiểu nỗi khổ tương tư của người khác. Con gái rượu của ta chỉ biết xuất giá tòng phu, hì hì, tam tòng tứ đức, tốt quá đi thôi!

Nói rồi cười ha hả, rũ áo bước ra, tiếng cười đã ở ngoài xa mấy chục trượng, đúng là đi như thần long, không thể biết tung tích.

Dương Quá ngẩn ngơ một hồi, ngồi ôn lại quyết khiếu hai môn võ công vừa học. Không lâu thì trời sáng, bỗng thấy cửa mở ra, Trình Anh bước vào, cầm chiếc áo trường bào màu xanh, mỉm cười, nói:

– Dương huynh hãy mặc thử, xem có vừa hay không.

Dương Quá cảm kích, nhận tấm áo mà hai tay run run.

Chàng và Trình Anh ánh mắt nhìn nhau, thấy ánh mắt nàng dịu dàng đằm thắm vô cùng, bèn mặc thử chiếc áo mới, thấy tấm áo mới ôm khít lấy thân mình, chỗ nào cũng vừa vặn, thì nói:

– Huynh.. huynh.. đa tạ muội.

Trình Anh lại cười vui, nhưng chợt lộ vẻ buồn, thở dài:

– Sư phụ đi rồi, không biết bao giờ mới được gặp lại.

Nàng vừa ngồi xuống định trò chuyện, bỗng thấy có bóng áo vàng thấp thoáng ngoài cửa, biết là biểu muội ở ngoài đó, nghĩ thầm: "Biểu muội hay để ý, mình không nên ngồi lâu trong phòng chàng". Bèn đứng dậy, thong thả đi ra.

Dương Quá xem kỹ chiếc áo mới, thấy đường kim mũi chỉ rất chu đáo, bất giác cảm động: "Nàng đối với ta chu đáo thế này, Lục cô nương cũng thân ái với ta, nhưng ta đã sớm thuộc về người khác, không thể phụ nghĩa. Nếu ta không bỏ đi sớm, chỉ e gây phiền não cho mọi người". Nghĩ chán chê, lại sợ sau khi chàng đi, Lý Mạc Sầu mò tới tập kích, bèn một mình tìm ra sau núi, đến chỗ căn nhà tranh nọ thăm dò, thấy chỉ còn một đống tro tàn, Lý Mạc Sầu đã đốt trụi mà bỏ đi.

Đại địch đã bỏ đi, tối hôm nay chàng ngồi dưới đèn viết thư từ biệt, nghĩ đến tình ý của hai thiếu nữ, chàng không khỏi nao lòng, thấy lời văn nhạt nhẽo, chữ viết xấu xí, sợ Trình Anh chê cười, thư viết nửa chừng chàng lại vò nhàu. Đêm nay chàng cứ trằn trọc mãi vẫn chưa ngủ được.

Đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe có tiếng gõ cửa, rồi Lục Vô Song gọi:

– Chàng Ngốc, chàng Ngốc! Mau ra mà xem này.

Giọng nghe rất sợ hãi. Dương Quá ngồi dậy, mặc áo, mở cửa bước ra, chỉ thấy gió bấc ù ù khá lạnh, trời chưa sáng rõ. Lục Vô Song vẻ mặt sợ hãi, chỉ lên cánh cửa. Dương Quá nhìn theo, bất giác giật mình, trên cánh cửa in bốn bàn tay máu, hiển nhiên đêm qua Lý Mạc Sầu đã đến đây dò xét, biết Hoàng Dược Sư đi rồi, mụ ta liền thị ý là sẽ giết bốn người.

Hai người sững sờ một hồi, tiếp đó Trình Anh nghe tiếng chạy ra, hỏi:

– Biểu muội trông thấy từ lúc nào?

Lục Vô Song đáp:

– Trời chưa sáng, muội đã thấy nó rồi.

Nàng vừa nói liền đỏ mặt, bởi vì nàng nghĩ đến Dương Quá, mới tinh mơ đã lảng vảng bên ngoài cửa sổ phòng chàng. Trình Anh làm như không biết, nói:

– May muội không gặp mụ ta, bây giờ mặt trời đã mọc, hôm nay nữ ma đầu sẽ không đến nữa đâu, chúng mình thong thả bàn cách đối phó chưa muộn.

Ba người vào phòng Dương Quá thương nghị.

Lục Vô Song nói:

– Hôm nọ nữ ma đầu lĩnh giáo công phu cây que cời của Khúc cô, mụ ta không sợ hay sao?

Trình Anh nói:

– Chiêu số cây que cời của Khúc cô quanh đi quẩn lại chỉ có ba chiêu, mụ ta về ngẫm nghĩ, hẳn đã nghĩ ra cách hóa giải.

Lục Vô Song nói:

– Nhưng chàng Ngốc thương thế đã lành hẳn, hợp lực với Khúc cô, uy lực sẽ vô cùng mạnh mẽ.

Dương Quá cả cười, nói:

– Hai kẻ ngớ ngẩn, ngốc nghếch hợp lực với nhau, thành một bè đại ngu, uy lực nỗi gì?

Ba người bàn một hồi, chưa ra diệu kế, nhưng nghĩ bốn người liên thủ, dẫu không thắng, cũng đủ tự bảo vệ, ngày mai cố chống chọi với Lý Mạc Sầu thì được. Dương Quá nói:

– Ngu huynh và Khúc cô hợp bích, đối chiến chính diện với nữ ma đầu, biểu tỷ biểu muội hai người tả hữu giáp công. Chúng mình hãy gọi Khúc cô tới diễn tập trước với nhau cho quen.

Gọi Khúc cô thì không thấy tiếng thưa, tìm một hồi không biết Khúc cô đi đâu. Ba người lo lắng, chia nhau đi mấy ngả tìm kiếm. Trình Anh tìm một hồi, bỗng thấy Khúc cô nằm cạnh một đống đá, hơi thở chỉ còn thoi thóp, cả kinh, vội cởi áo xem thương thế, thấy ở giữa lưng lờ mờ một vệt bàn tay máu, quả nhiên Khúc cô đã trúng "Ngũ độc thần chưởng" của Lý Mạc Sầu, vội gọi Dương Quá, Lục Vô Song cùng đến, đem linh dược sư môn "Cửu hoa ngọc lộ hoàn" cho Khúc cô uống. Dương Quá nhớ lại cách trị liệu "Ngũ độc thần chưởng" chép trong sách "Ngũ độc bí truyền", vội vận nội kình xoa huyệt đạo cho Khúc cô.

Khúc cô cười nhăn nhở, nói:

– Ác nữ nhân, sau lưng, đánh Khúc cô. Khúc cô lật ngược tay, đánh nó.

Lật ngược tay ra đòn là một trong ba chiêu chưởng pháp mà Hoàng Dược Sư truyền thụ cho Khúc cô. Lý Mạc Sầu tuy đánh lén đắc thủ, nhưng cũng bị Khúc cô lật ngược tay đánh một chưởng trúng cánh tay, suýt nữa thì gãy xương, vừa sợ vừa đau liền bỏ chạy, không dám tiếp tục tiến chiêu lấy mạng Khúc cô.

Ba người cứu Khúc cô về rồi, ngồi nhìn nhau buồn bã, họ thiếu mất một hảo thủ, ngày mai càng khó cự địch hơn. Khúc cô bị trọng thương, nếu đưa Khúc cô đi trốn, ắt Lý Mạc Sầu sẽ đuổi kịp. Dương Quá nhìn Trình Anh, lại nhìn Lục Vô Song, thuận tay cầm cái kéo cắt đứt một sợi chỉ khâu thành nhiều đoạn. Khúc cô đang nằm trên giường đột nhiên kêu to:

– Mang kéo, cắt phăng cái chổi của ác nữ nhân! Cắt phăng cái chổi!

Khúc cô không biết cây phất trần, lại gọi là cái chổi. Dương Quá chợt nghĩ ra: "Cây phất trần của Lý Mạc Sầu là vật rất mềm, mụ ta lại sử dụng xuất thần nhập hóa, mình dùng bảo đao lợi kiếm cũng không đả thương nổi mụ ta; nếu có một chiếc kéo lớn cắt phăng cây phất trần, thì xong". Nghĩ đến đây, tay trái cầm sợi chỉ đánh ra theo lối cây phất trần, tay phải cầm kéo thì đưa ra cắt, hình dung thế đánh của cây phất trần và đòn cắt của chiếc kéo, sáng tạo ra chiêu thuật.

Trình Anh và Lục Vô Song nhìn nhìn một hồi, hiểu ý, đều vui mừng ra mặt. Trình Anh nói:

– Đi về hướng bắc, cách đây bảy tám dặm, có một cái lò rèn..

Lục Vô Song nói xen vào:

– Chúng ta đến đó thuê thợ rèn rèn cho một chiếc kéo lớn.

Dương Quá nghĩ thầm: "Thời gian cấp bách, khó lòng rèn xong một thứ binh khí. Khi tiếp chiến ta phải tùy cơ ứng biến, như thế dễ hơn hẳn trăm lần việc luyện" Ngọc tiêu kiếm pháp "nhưng hiện tại chưa có cách gì khác, thì cứ thử xem sao". Nghĩ nếu một mình chàng đi tìm lò rèn, Lý Mạc Sầu đến đây thì vô cùng nguy hiểm cho ba người ở lại, từ lúc này bốn người không được xa nhau nửa bước. Thế là Trình Anh và Lục Vô Song lót chăn lên lưng ngựa, dìu Khúc cô ra nằm vắt ngang trên đó, cùng đi tìm lò rèn.

Mông Cổ sau khi diệt nước Kim, quân thiết kỵ tiến vào biên cảnh nhà Tống, vùng này là biên thùy phía bắc của cương giới Đại Tống, nhiều thành trấn bị quân Mông Cổ chiếm đóng, cảnh tàn phá bày rõ nơi nơi. Lò rèn là một cái quán rất sơ sài, bước vào thấy chính giữa kê một cái đe lớn, than và sắt vụn vung vãi khắp quán, trên vách treo mấy cái lưỡi cày, lưỡi liềm, trong quán không thấy ai.

Dương Quá nhìn cảnh tượng này, nghĩ thầm: "Lò rèn thế này thì rèn được loại binh khí gì kia chứ? Nhưng đã cất công đến đây, cũng hỏi thử xem sao", bèn lớn tiếng gọi:

– Ông chủ có nhà không đấy?

Một lát từ gian trong có một lão nhân bước ra, râu tóc muối tiêu, trạc năm mươi tuổi, chắc là nhiều năm cúi mình quai búa nên lưng bị còng, hai mắt bị khói hun nên vừa đỏ vừa hấp háy, khóe mắt có dử, chân trái tàn phế, một cây quải trượng treo ở hõm vai. Lão nhân bước ra, nói:

– Quí vị có gì sai bảo?

Dương Quá đang định nói, bỗng nghe có tiếng vó ngựa, hai người cười ngựa phi đến trước quán, là một gã thập trưởng quân Mông Cổ và một gã người Hán, không biết là thông dịch hay địa bảo. Gã người Hán gọi to:

– Lão thợ rèn họ Phùng, mau ra nghe hiệu lệnh.

Lão nhân bước ra hành lễ, nói:

– Thưa có tiểu nhân đây ạ.

Gã người Hán nói:

– Trưởng quân có lệnh, thợ rèn toàn trấn, hạn trong ba ngày phải tề tựu ở huyện thành, gắng sức làm việc trong quân. Ngày mai lão phải có mặt tại huyện thành, nghe rõ chưa hả?

Lão nhân nói:

– Tiểu nhân tuổi đã già yếu..

Gã thập trưởng quân Mông Cổ vung roi ngựa quất vun vút mấy cái, xì xồ gì đó. Gã người Hán nói:

– Ngày mai lão không đến, người ta sẽ lấy đầu lão đặt sang chỗ khác đó.

Nói rồi hai gã phóng ngựa đi.

Phùng lão nhân thở dài, đứng ngây người. Trình Anh thấy lão già cả đáng thương, bèn lấy ra mười lạng bạc đặt lên bàn, nói:

– Phùng sư phó, sư phó đã nhiều tuổi, huống hồ đi lại không tiện, bị sung quân thì sống sao nổi? Sư phó hãy cầm chút bạc này mà trốn đi thì hơn!

Phùng lão nhân thở dài:

– Đa tạ cô nương hảo tâm, lão phu sống đến tuổi này, có chết cũng đáng rồi; chỉ buồn vì muôn vạn sinh linh Giang Nam lại gặp đại kiếp nạn mà thôi.

Ba người đều kinh ngạc, hỏi:

– Vì sao vậy?

Phùng lão nhân nói:

– Bọn Mông Cổ trưng tập thợ rèn, tức là để rèn binh khí. Quân Mông Cổ vốn đủ binh khí rồi, nay lại huy động hết thảy thợ rèn, có phải chúng sắp tiến đánh giang sơn Đại Tống hay không?

Ba người nghe Phùng lão nhân nói rất có lý, định hỏi thêm, thì lão đã hỏi trước:

– Ba vị muốn rèn cái gì nào?

Dương Quá nói:

– Phùng sư phó đang có việc, lẽ ra không dám làm phiền, ngặt nỗi quá cần, đành phiền lão nhân.

Rồi chàng miêu tả kiểu dáng, kích thước cái kéo lớn, vật này rất lạ, nào ngờ Phùng lão nhân nghe xong, gật gật đầu, kéo chiếc bễ ra thổi lửa, đặt hai thanh sắt vào lửa nung cho nóng đỏ. Dương Quá hỏi:

– Không biết tối nay có rèn xong được chăng?

Phùng lão nhân nói:

– Lão phu ráng sức thì xong.

Nói rồi kéo mạnh cái bễ quạt gió.

Khúc cô ngồi gục bên bàn, bọn Dương Quá ba người quê đều ở Giang Nam, tuy rời quê hương từ nhỏ, nhưng nghe quê hương sắp gặp kiếp nạn, đều không khỏi lo lắng. Cả ba nhìn ngọn lửa, nghĩ thầm giữa thời buổi loạn lạc này, mạng người chỉ như con sâu cái kiến, chốn nào cũng khổ sở khốn cùng, mình ngày mai có nạn, nhưng sự lo sợ cũng giảm đi vài phần.

Một canh giờ sau, hai thanh sắt đã đỏ lừ, Phùng lão nhân tay trái dùng kìm kẹp thanh sắt đặt lên đe, tay phải quai cây búa lớn, tuy lão đã già, nhưng động tác quai búa dường như không hề tốn sức, đập cây búa một hồi, hai vòng khuyên của chiếc kéo lớn đã dần dần thành hình. Lục Vô Song vui mừng nói:

– Dương huynh, hôm nay chắc làm kịp đó.

Bỗng nghe phía sau có tiếng nói lạnh lùng:

– Rèn chiếc kéo này để cắt cây phất trần của ta chứ gì?

Ba người giật mình, ngoảnh lại, thấy Lý Mạc Sầu rung rung nhẹ cây phất trần, đứng chắn ngay giữa cửa.

Thế là binh khí chưa rèn xong, cường địch đã tới. Trình Anh và Lục Vô Song cùng rút trường kiếm, Dương Quá nhắm sẵn một thanh sắt cạnh bễ lò rèn, chỉ cần thấy đối phương xuất thủ, chàng sẽ lập tức chộp lấy làm binh khí.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Mấy đứa nhãi ranh các ngươi đòi rèn chiếc kéo này để cắt cây phất trần của ta. Được, ta sẽ ngồi đây, chờ rèn xong chiếc kéo, động thủ cũng chưa muộn.

Nói đoạn Lý Mạc Sầu kéo một chiếc ghế, ngồi xuống, không coi ba người ra gì cả.

Dương Quá nói:

– Thế thì còn gì bằng. Ta đã nhìn kỹ cây phất trần của mụ rồi, nhất định sẽ bị chiếc kéo của ta cắt đứt.

Lý Mạc Sầu thấy Khúc cô gục đầu xuống bàn, lưng gồ lên, nghĩ thầm: "Mụ kia trúng một chưởng của ta, sao lại còn ngồi được, lạ nhỉ?" Bèn lạnh lùng hỏi:

– Hoàng Dược Sư đâu rồi?

Phùng lão nhân nghe ba tiếng "Hoàng Dược Sư" thì rùng mình một cái, ngẩng nhìn Lý Mạc Sầu, rồi lại cúi đầu quai búa. Trình Anh nói:

– Đạo cô thừa biết sư phụ của ta không có ở đây, còn hỏi làm gì? Đạo cô biết lão nhân gia chưa đi, gan có to bằng trời cũng chẳng dám đến.

Lý Mạc Sầu hừ một tiếng, lấy trong túi ra một tờ giấy, nói:

– Hoàng Dược Sư khinh đời mạo danh, toàn dựa vào việc thu nhận nhiều đồ đệ, cậy đông mà thắng. Hừ, trong đám đệ tử của lão, có tên nào làm nên trò trống gì đâu.

Nói xong tay trái vung tờ giấy ra, cánh tay hơi động, một cái ngân châm bay ra theo, đính tờ giấy vào cây cột nói:

– Để đây làm chứng, khi nào Hoàng lão tà trở về, sẽ biết hai đệ tử quí hóa của lão bị ai giết.

Rồi mụ ta quay sang quát giục Phùng lão nhân:

– Rèn mau lên, ta không ưa chờ lâu.

Phùng lão nhân đưa cặp mắt kèm nhèm nhìn tờ giấy đính trên cột, thấy mười sáu chữ "Đào Hoa đảo chủ, đệ tử quá đông, lấy năm đánh một, giang hồ chê cười". Rồi ngước lên mái nhà, ngẫm nghĩ. Lý Mạc Sầu quát:

– Còn không làm nhanh tay ư?

Phùng lão nhân cúi đầu, nói:

– Vâng, làm nhanh, làm nhanh.

Tay trái giơ cây kìm gắp tờ giấy cho luôn vào ngọn lửa, tờ giấy tức thời cháy thành tro. Tất cả rất đỗi kinh ngạc, Lý Mạc Sầu cả giận, giơ cây phất trần định đánh xuống đầu Phùng lão nhân, nhưng lại nghĩ thầm: "Một lão thợ rèn ở cái tiểu trấn này mà cũng to gan như thế, có lẽ lão ta không phải là nhân vật tầm thường?" Nàng ta đã nhổm lên, song lại thong thả ngồi xuống, hỏi:

– Các hạ là ai?

Phùng lão nhân nói:

– Đạo cô không nhìn thấy ư? Lão phu là thợ rèn.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Căn cớ gì các hạ đốt tờ giấy của ta?

Phùng lão nhân nói:

– Tờ giấy viết sai, tốt nhất là đừng đính ở quán của lão phu.

Lý Mạc Sầu gằn giọng, hỏi:

– Sai ở chỗ nào?

Phùng lão nhân nói:

– Đào Hoa đảo chủ có tài thông thiên thấu địa, đệ tử của người chỉ cần học thạo một nghề của người cũng đủ để tung hoành thiên hạ rồi. Đại đệ tử của người là Trần Huyền Phong xương sắt da đồng, đao thương bất nhập, đạo cô từng nghe danh chứ?

Phùng lão nhân vừa nói, vừa quai búa rèn sắt, tiếng búa đập xuống đe tăng thanh thế cho lời nói. Phùng lão nhân vừa nhắc đến Trần Huyền Phong, Lý Mạc Sầu kinh ngạc đã đành, bọn Dương Quá càng không thể ngờ một lão thợ rèn ở chốn khỉ ho cò gáy mà cũng rành rẽ nhân vật giang hồ.

Lý Mạc Sầu nói:

– Hừ, Đồng Thi Trần Huyền Phong, nghe đâu đã bị một đứa bé đâm chết, có quái gì là lợi hại? Nói đao thương bất nhập là nói khoác một tấc đến trời!

Phùng lão nhân nói:

– Hừm. Đệ tử thứ hai của Hoàng đảo chủ là Mai Siêu Phong, di chuyển như gió, xuất thủ nhanh như chớp.

Lý Mạc Sầu cười giễu, nói:

– Phải rồi, nữ đệ tử ấy xuất thủ quá nhanh, nên mới bị Giang Nam thất quái đánh mù mắt và bị Tây Độc Âu Dương Phong đánh vỡ tim phổi.

Phùng lão nhân ngẩn ra một hồi, buồn bã nói:

– Có chuyện như thế ư? Sao lão phu không biết. Đệ tử thứ ba của Hoàng đảo chủ là Khúc Linh Phong, khinh công thần diệu, phách không chưởng lợi hại tuyệt luân.

Lý Mạc Sầu nói:

– Giang hồ đồn rằng kẻ lẻn vào hoàng cung ăn cắp báu vật, bị Ngự tiền thị vệ đánh chết, chính là Khúc Linh Phong, phách không chưởng lợi hại tuyệt luân. Chưởng chưởng đánh ra, chưởng chưởng lạc không, ấy chính là phách không chưởng của Hoàng đảo chủ.

Phùng lão nhân cúi đầu, xèo xèo hai tiếng, hai giọt nước mắt rơi xuống tấm phôi sắt nóng đỏ, hóa thành hơi nước. Lục Vô Song ngồi bên cạnh, nhìn rõ mồn một hai giọt nước mắt từ mắt Phùng lão nhân rơi xuống, rất đỗi kinh ngạc. Chỉ thấy Phùng lão nhân giơ búa cao hơn, giáng xuống đe mạnh hơn.

Lát sau, Phùng lão nhân lại nói:

– Trong bốn đại đệ tử Trần, Mai, Khúc, Lục của Hoàng đảo chủ, thì Lục Thừa Phong không những võ công tinh thâm, lại giỏi thuật Kỳ môn độn giáp, đạo cô mà gặp vị đó, thì sẽ biết thế nào là lợi hại.

Lý Mạc Sầu cười khẩy:

– Kỳ môn độn giáp thì có tác dụng gì kia chứ? Y dựng tòa Qui vân trang ở Thái Hồ, hảo hán giang hồ khen là vô cùng huyền diệu, nhưng vẫn bị người ta thiêu thành tro bụi, từ đó y biến mất tăm, quá nửa là đã bỏ xác trong đám cháy rồi.

Phùng lão nhân ngẩng đầu lên, gằn giọng:

– Đạo cô hồ thuyết bát đạo. Các đệ tử thứ ba của Hoàng đảo chủ người người võ nghệ tinh thông, không lẽ đã bị giết hại hết cả rồi sao? Đạo cô khinh ta là dân quê không biết thế sự chắc?

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Lão cứ hỏi ba đứa nhãi ranh này thì biết.

Phùng lão nhân nhìn Trình Anh, ánh mắt dò hỏi. Trình Anh đứng dậy, buồn bã nói:

– Sư môn của vãn bối bất hạnh, nhân tài điêu linh. Vãn bối nhập môn chưa lâu, công phu non kém, không thể tranh tài cho sư phụ, thật là hổ thẹn. Lão nhân gia có quen biết gia sư chăng?

Phùng lão nhân không đáp, nhìn nàng từ đầu xuống chân, vẻ nghi ngờ, hỏi:

– Về già sức khỏe của Hoàng đảo chủ thế nào?

Trình Anh nhìn cái chân trái bị tàn phế của Phùng lão nhân, thấy ái ngại, nói:

– Gia sư về già cô đơn, có sai vãn bối đi theo hầu cận. Vãn bối tuổi nhỏ, võ công non nớt, thực không dám nói là đệ tử của Hoàng đảo chủ, hơn nữa vãn bối cũng chưa có duyên được đặt chân lên Đào Hoa đảo.

Nàng nói như thế cũng tức là đã thừa nhận mình là đệ tử của Hoàng đảo chủ.

Phùng lão nhân gật gật đầu, ánh mắt nhu hòa, thân tình, lại cúi đầu rèn kéo, tựa hồ đang suy tính điều gì. Trình Anh thấy chiếc búa trong tay Phùng lão nhân giơ lên nửa vòng, đánh xuống đe, thủ pháp hệt như "Lạc Anh thần kiếm chưởng pháp" bản môn, thì ngầm rõ thêm ba phần, nói:

– Lúc nhàn rỗi gia sư trò chuyện với vãn bối, nói hồi trước gia sư đuổi đệ tử rời khỏi đảo; Trần, Mai hai người ấy tự làm điều sai trái, đuổi đi đã đành. Khúc, Lục, Võ, Phùng bốn vị thì không dưng bị giận lây, nhất là Phùng Mặc Phong sư ca, là người ít tuổi nhất, hoàn cảnh lại hết sức đáng thương, sư phụ luôn thương nhớ vị ấy, hối hận đã phạt oan.

Thực ra Hoàng Dược Sư tính tình kiêu ngạo, trong lòng tuy có nghĩ như thế, nhưng quyết không khi nào nói ra. Trình Anh tinh tế, biết rõ ý người, khi nhàn rỗi trò chuyện cùng sư phụ, nghe giọng nói của Hoàng Dược Sư, nàng đoán ra được, bây giờ nàng nói thế, kể không phải là lời của Hoàng Dược Sư, song cũng không trái với nguyên ý của người.

Lý Mạc Sầu nghe hai người đối đáp, nhìn sắc diện, đã đoán ra tám chín phần; chỉ thấy Phùng lão nhân thở dài não nuột, nước mắt nhỏ như mưa xuống tấm phôi đang rèn, bốc thành khói trắng, bất giác cũng xúc động, nhưng lại mím môi, nghĩ thầm: "Dẫu bọn chúng thêm một đứa nữa, nhưng cái lão thợ rèn tàn phế này thì làm nổi trò gì?" Bèn cười khẩy, nói:

– Phùng Mặc Phong, cung hỉ sư huynh sư muội lão tương ngộ.

Lão thợ rèn này chính là Phùng Mặc Phong, đệ tử của Hoàng Dược Sư. Năm xưa Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong lấy cắp "Cửu Âm chân kinh" trốn đi, Hoàng Dược Sư cả giận, trút giận xuống đầu các đệ tử còn lại, đánh gãy đùi họ, đuổi khỏi Đào Hoa đảo. Khúc Linh Phong, Lục Thừa Phong, Võ Thiên Phong ba người đều bị đánh què cả hai chân, riêng đánh đến Phùng Mặc Phong, thì Hoàng Dược Sư thấy còn ít tuổi võ công còn thấp, bỗng thương tình, chỉ đánh gãy chân trái. Phùng Mặc Phong đau đớn tới vùng heo hút này, mở lò rèn mưu sinh, tuyệt giao với các nhân vật giang hồ, hơn ba mươi năm lẳng lặng mà sống, không ngờ hôm nay lại được tin sư môn. Tính mệnh của lão là do Hoàng Dược Sư cứu từ tay kẻ thù, đem về nuôi dưỡng từ nhỏ cho tới lúc trưởng thành, thật là ân đức sâu nặng, bất luận Hoàng Dược Sư đối với lão như thế nào, Phùng Mặc Phong cũng không hề oán trách; giờ này nghe Trình Anh nói, bất giác biết bao cảm xúc dâng trào.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 16: Sát Phụ Thâm Cừu

Dương Quá và Lục Vô Song nghe bảo lão thợ rèn họ Phùng là sư huynh của Trình Anh, thì kinh ngạc và vui mừng, nghĩ thầm đệ tử của Hoàng Dược Sư thì võ công quyết không kém, ai dè lúc nguy nan lại có cường trợ, thật mừng không để đâu cho hết.

Lý Mạc Sầu lạnh lùng nói:

– Lão đã bị sư phụ đuổi đi, sao còn lưu luyến nỗi gì? Hôm nay ta muốn giết ba đứa nhãi ranh với một mụ ngớ ngẩn kia, lão hãy đứng sang một bên mà xem cảnh nhiệt náo.

Phùng Mặc Phong chậm rãi nói:

– Lão phu tuy có học võ nghệ, nhưng cả đời chưa từng động thủ với ai, huống hồ một chân bị gãy, có muốn đánh nhau cũng chẳng được.

Lý Mạc Sầu nói:

– Như thế còn gì bằng, vậy là lão cũng giữ được cái mạng già của mình đó.

Phùng Mặc Phong lắc đầu, nói:

– Nhưng lão phu không cho phép đạo cô động tới một sợi tóc của sư muội lão phu; mấy vị kia là bằng hữu của sư muội lão phu, đạo cô cũng chớ có động tới họ.

Lý Mạc Sầu nổi sát khí, cười:

– Thế thì cả bốn đứa cùng nộp mạng, càng vui.

Nói rồi đứng dậy. Phùng Mặc Phong vẫn thản nhiên, tiếp tục quai búa rèn sắt, giống như người đánh trống nhịp theo điệu bộ diễn tuồng, nói vài tiếng lại nện xuống đe một cái, nói rành rọt từng tiếng:

– Lão phu rời sư môn đã hơn ba mươi năm, võ nghệ không luyện, chỉ còn nhớ mang máng trong đầu.

Lý Mạc Sầu cười hi hi, nói:

– Bần đạo nửa đời hành tẩu giang hồ, thật chưa gặp ai lâm trận mới mài gươm, nước đến chân mới nhảy như lão, hôm nay được mở rộng tầm mắt. Phùng Mặc Phong, cả đời lão chưa một lần động thủ với ai thật ư?

Phùng Mặc Phong nói:

– Lão phu chưa bao giờ đắc tội với người khác; có kẻ đánh chửi lão phu, lão phu cũng không thèm chấp, tất nhiên chưa động thủ với ai.

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Hoàng lão tà quả nhiên thu nhận một đám bị thịt làm đệ tử, rồi đẩy chúng ra trước mặt bàn dân thiên hạ.

Phùng Mặc Phong nói:

– Này đạo cô, không được nói xấu ân sư của lão phu.

Lý Mạc Sầu nhếch mép cười, nói:

– Người ta đã không nhận lão làm đệ tử từ lâu, lão còn cứ ân sư ân vãi, không sợ người đời chê cười hay sao?

Phùng Mặc Phong vẫn quai búa rèn sắt, thong thả nói:

– Lão phu một đời cô khổ, thân nhân trên thế gian chỉ có một mình ân sư, lão phu không kính yêu ân sư, thì còn nghĩ đến ai kia chứ? Này tiểu sư muội, lão nhân gia ân sư ngọc thể thế nào?

Trình Anh nói:

– Lão nhân gia người rất khoẻ.

Sắc mặt Phùng Mặc Phong lập tức lộ vẻ vui.

Lý Mạc Sầu thấy lão thợ rèn biểu lộ chân tình, nghĩ thầm: "Hoàng lão tà là tông sư một đời, quả nhiên có chỗ hơn người. Lão ta làm cho đệ tử tàn phế thế kia, mà đệ tử vẫn còn trung thành lưu luyến với lão ta".

Lúc này tấm phôi rèn đã nguội dần, Phùng Mặc Phong lẽ ra dùng kìm đưa nó vào bếp lửa, nhưng lão đang mải nghĩ chuyện khác, lại đưa cây búa lớn đang cầm bên tay phải vào lửa nung, chứ không phải đưa tấm phôi vào. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Này lão thợ rèn, lão cứ thong thả nhớ lại võ công mà sư phụ đã dạy lão cũng được, khỏi cần luống cuống chân tay như thế.

Phùng Mặc Phong không trả lời, lẳng lặng nhìn khối lửa đỏ trong lò, lát sau lại vùi một đầu cây quải trượng treo ở hõm vai vào trong lửa. Dương Quá và Lục Vô Song cùng kêu lên:

– Ô hay, ô hay, là cây quải trượng mà!

Trình Anh cũng kêu lên:

– Sư ca!

Phùng Mặc Phong vẫn im lặng nhìn lò lửa. Chỉ thấy lửa rừng rực thế kia, mà cây quải trượng không hề bị cháy, đang đỏ hồng dần, thì ra là một cây thiết trượng. Một hồi sau thì chiếc búa cũng đỏ hồng lên.

Lúc này Lý Mạc Sầu mới chuyển từ khinh miệt sang đề phòng, biết rằng lão thợ rèn diện mạo xấu xí trước mặt nàng ta là một nhân vật có điểm hơn người, chỉ sợ lão có độc chiêu, vội vung vung cây phất trần che chắn chỗ yếu hại đằng trước, nhảy ra khỏi cửa, gọi:

– Phùng Mặc Phong, ra đây coi!

Phùng Mặc Phong đi ra cửa, thân thủ hoàn toàn không giống một kẻ tàn phế, lão chống cây quải trượng đỏ hồng xuống đất, nói:

– Đạo cô, lão phu mong đạo cô đừng nhiếc móc ân sư của lão phu, đừng gây khó dễ với sư muội của lão phu, hãy tha cho cái lão thợ rèn khốn khổ này!

Lý Mạc Sầu rất đỗi ngạc nhiên: "Tại sao lâm trận lại đi cầu xin thế này?" bèn nói:

– Ta chỉ tha cho một mình lão thôi, nếu lão biết sợ rồi, thì đừng có xen vào việc của ta.

Phùng Mặc Phong nghiến răng, gằn giọng:

– Được, vậy đạo cô hãy lấy mạng ta trước đã!

Nói xong toàn thân run rẩy, vừa sợ hãi, vừa kích động.

Lý Mạc Sầu vung cây phất trần đánh tới đỉnh đầu lão, Phùng Mặc Phong vội tránh, nhảy sang bên rất nhanh nhẹn, nhưng cánh tay run run, chưa dám đánh trả. Lý Mạc Sầu tiến công ba chiêu liên tiếp, lão đều khéo léo tránh được, vẫn chưa trả đòn. Bọn Dương Quá ba người đứng một bên quan sát, chờ cơ hội trợ giúp, thấy Lý Mạc Sầu chiêu số mỗi lúc thêm dồn dập, Phùng Mặc Phong tựa hồ chưa hề động thủ với ai bao giờ, cộng với tính tình hiền hòa, chiếc búa đỏ hồng cầm tay vẫn chưa ra đòn. Dương Quá thấy không ổn, vị dị nhân võ lâm này võ công tuy cao, nhưng không có ý tranh đấu, phải kích động cho lão nổi giận mới được; thế là chàng nói lớn:

– Lý Mạc Sầu, vì lẽ gì mụ chửi Đào Hoa đảo chủ là kẻ bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa?

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: "Ta chửi thế bao giờ nhỉ?", tay vẫn xuất chiêu gấp hơn, không trả lời. Dương Quá lại nói:

– Mụ vu hãm Đào Hoa đảo chủ cưỡng dâm thê nữ người khác, bắt cóc tử đệ của người khác, mụ có tận mắt nhìn thấy việc đó hay không? Mụ bảo Đào Hoa đảo chủ lừa dối bằng hữu, bán rẻ ân nhân, có đúng thế không? Tại sao mụ tung tin đồn nhảm khắp chốn giang hồ để hủy hoại thanh danh của Hoàng đảo chủ?

Trình Anh ngớ ra không hiểu, Phùng Mặc Phong nghe vậy thì nổi cơn lôi đình, cây quải trượng và chiếc búa cùng ra đòn. Lão đứng một chân, thành thế "Kim kê độc lập", như chôn chân tại chỗ thật vững chắc, búa và trượng mang khí nóng của lửa tấn công trực diện Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu thấy khí thế của lão mãnh liệt, không dám chính diện tiếp chiến, vội nhảy tránh, thừa cơ mới phản kích. Dương Quá lại nói:

– Lý Mạc Sầu, mụ vu hãm Đào Hoa đảo chủ là hạng người xấu xa, ta thấy chính mụ mới là kẻ xấu xa!

Phùng Mặc Phong càng nghe càng giận, chiếc búa và cây quải trượng đỏ hồng bổ dọc phạt ngang cực mạnh, thoạt tiên chiêu thuật còn hơi vụng, sau một hồi, càng thấy quen tay dần.

Hai người công lực hơn kém nhau không xa, nhưng Lý Mạc Sầu ngang dọc giang hồ, từng trải vài trăm trận lớn nhỏ, dày dạn kinh nghiệm hơn Phùng Mặc Phong hàng trăm lần. Sau vài chục chiêu, Lý Mạc Sầu đã biết Phùng Mặc Phong nội công không yếu, nhưng hoàn toàn không có kinh nghiệm, hơn nữa chỉ có một chân, đấu lâu một chút, chắc chắn sẽ thua, bèn dùng lối du đấu, đợi lão nhụt bớt nhuệ khí, sẽ lại phản kích. Quả nhiên đấu một hồi nữa, nộ ý của Phùng Mặc Phong đã giảm hẳn, đấu chí nhụt đi, dần dần sa vào thế hạ phong, Lý Mạc Sầu cả mừng, vung cây phất trần đánh tới ngực lão.

Phùng Mặc Phong giơ chiếc búa gạt đi. Cây phất trần thừa thế đã cuốn lấy đầu chiếc búa, đây chính là tuyệt chiêu của Lý Mạc Sầu đoạt binh khí đối phương, chỉ cần giật một cái, chiếc búa của Phùng Mặc Phong sẽ bị văng tuột khỏi tay. Ai ngờ xèo xèo một hồi, khói xanh bốc lên, ai nấy ngửi thấy mùi khét, toàn bộ phần ngọn cây phất trần đã bị thiêu hủy.

Thế là Lý Mạc Sầu chẳng những không đoạt được binh khí của đối phương, mà chính binh khí của mình còn bị hủy hoại; nàng ta lâm nguy không rối loạn, ném cán cây phất trần đi, sử dụng Ngũ độc thần chưởng. Lộ chưởng pháp này tuy lợi hại, nhưng phải đánh gần mới có thể kiến hiệu, lúc này Phùng Mặc Phong múa búa và trượng ù ù, đắc tâm ứng thủ, chỉ thấy ở khoảng giữa hai người liên tục có tia khói xanh bay lên, nguyên y phục của Lý Mạc Sầu bị chiếc búa và quải trượng đỏ hồng chạm tới đốt cháy từng vệt. Lý Mạc Sầu cả giận, rõ ràng nàng sắp thủ thắng, rốt cuộc lại bị binh khí của lão thợ rèn giành mất lợi thế, thật tức không chịu nổi, quyết ý phải cho lão nếm một chưởng.

Phùng Mặc Phong lần đầu giao đấu, nếu liên tiếp thua kém, chắc đã co lại; nhưng lúc này đang thắng thế, lão sử búa và trượng càng thêm tinh diệu. Lý Mạc Sầu muốn giáng cho lão một chưởng, mấy lần suýt nữa thì dính đòn búa, đòn trượng của lão, may mà tránh kịp, chứ không thì đã bị bỏng nặng rồi. Đột nhiên Phùng Mặc Phong kêu lên:

– Không đánh nữa, không đánh nữa, đạo cô thế kia, trông chẳng còn ra thể thống gì cả!

Lão nhảy một chân về phía sau nửa trượng. Lý Mạc Sầu sững lại, một luồng gió mát thổi tới, áo xống trên người Lý Mạc Sầu lập tức bay đi từng mảnh, cánh tay, bờ vai, trước ngực, hai đùi, có rất nhiều chỗ hở hang cả da thịt. Nàng ta là một xử nữ, thế này thật là ngượng ngập hết chỗ nói, đang định quay đầu bỏ chạy, bỗng thấy lưng lại mát rượi, có một chiếc áo bay đến vắt lên vai nàng ta.

Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu áo quần tơi tả, bèn tháo dây lưng, cởi chiếc áo ngoài, vận nội lực ném áo khoác vào vai nàng ta. Lý Mạc Sầu vội mặc áo khép vạt vào, nàng ta từng trải trăm trận, lúc này cũng quá ngượng ngùng, mặt lúc đỏ lúc tái, không biết có nên tiếp tục động thủ nữa chăng, nghĩ thầm: "Nếu đấu tiếp, cái áo này sẽ lại bị cháy mất, thôi hãy tạm nuốt giận đã vậy". Bèn gật gật đầu với Dương Quá, cảm ơn chàng tặng áo, rồi quay sang nói với Phùng Mặc Phong:

– Binh khí quái đản của lão đúng là tà đạo đích truyền của Hoàng lão tà. Lão hãy nói thật xem, nếu đấu bằng võ công thật sự, lão có thắng nổi bần đạo hay không? Đệ tử của Hoàng lão tà nếu đơn đả độc đấu với bần đạo, có chiếm được thượng phong hay không?

Phùng Mặc Phong buồn bã nói:

– Nếu đạo cô không bị mất binh khí, thì đấu một hồi nữa, có thể thắng lão phu.

Lý Mạc Sầu nói:

– Lão biết thế thì được rồi. Lời bần đạo viết trên giấy, rằng đệ tử Đào Hoa đảo chủ cậy đông thủ thắng, là không hề sai.

Phùng Mặc Phong cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi nói:

– Cái đó chưa chắc! Nếu bốn vị sư huynh của lão phu Trần, Mai, Khúc, Lục có ở đây, thì riêng mỗi vị ấy đều thắng đạo cô. Không kể hai vị Trần sư huynh, Khúc sư huynh võ công trác tuyệt đã đành, ngay cả Mai Siêu Phong Mai sư tỷ tuy là nữ, song đạo cô cũng không địch nổi đâu.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Mấy người ấy chết cả rồi, không đối chứng được, còn nói làm chi? Võ công của Hoàng lão tà cũng chỉ đến thế mà thôi. Bần đạo cũng định lĩnh giáo thần kỹ của thân sinh nữ nhi lão ta là Quách phu nhân, nhưng suy ra thì khỏi cần.

Nói xong quay mình định đi.

Dương Quá chợt nói:

– Hãy khoan!

Lý Mạc Sầu nhướn mày, hỏi:

– Cái gì nữa?

Dương Quá nói:

– Đạo cô bảo võ công của Hoàng đảo chủ cũng chỉ đến thế mà thôi, là sai. Ta được nghe Hoàng đảo chủ giảng về "Ngọc tiêu kiếm pháp", thừa sức phá công phu cây phất trần của đạo cô.

Nói rồi nhặt một que sắt, vạch hình vẽ dưới đất, miệng giải thích:

– Đây, cây phất trần của đạo cô đánh thẳng tới trước mặt thế này, quả nhiên lanh lẹ lợi hại, nhưng trường kiếm của Hoàng đảo chủ chém ngang thế này, đạo cô thu về không kịp. Nếu đạo cô phản kích, thanh kiếm sẽ từ chỗ này đánh nhanh tới; nếu đạo cô điểm huyệt chính diện, Hoàng đảo chủ sẽ chộp lấy ngọn cây phất trần như cái vuốt hổ, rồi đảo cán kiếm điểm huyệt Kiên Trinh ở vai đạo cô, chiêu này đạo cô có thể ngờ được không?

Chiêu đó quả là không thể ngờ, một chiêu tinh diệu tuyệt luân; điểm huyệt chính diện vốn là một trong số tuyệt chiêu của cây phất trần Lý Mạc Sầu, song chiêu thức mà Dương Quá vạch ra sẽ khắc chế nó, khiến Lý Mạc Sầu không thể nào đánh trả, chỉ còn cách quẳng cây phất trần nhận thua.

Dương Quá lại vừa vạch vạch dưới đất, vừa nói:

– Còn về "Ngũ độc thần chưởng" của đạo cô, thì Hoàng đảo chủ có "Đạn chỉ thần thông" chế ngự, chờ một chưởng của đạo cô đánh tới, Hoàng đảo chủ búng vào lòng bàn tay đạo cô, thì bàn tay ấy chẳng phải bị hủy hoại ngay tại chỗ đó sao? Hoàng đảo chủ chỉ búng một viên sỏi, thần chưởng của đạo cô đã không thể với tới thân thể Hoàng đảo chủ.

Tiếp đó chàng còn kể ra mười mấy chiêu khắc chế võ công của Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nghe mà tái mặt, mỗi câu nói của chàng đều hợp tình hợp lý, mỗi chiêu số đưa ra đều vô cùng xảo diệu, nàng ta quả thật không thể địch nổi.

Dương Quá lại nói:

– Hoàng đảo chủ hận đạo cô nói năng vô lễ, Hoàng đảo chủ địa vị là một đại tông sư, không thèm động thủ với đạo cô, đã dạy cho ta mấy cách trên, lệnh cho ta thay lão nhân gia thu thập đạo cô. Nhưng ta nể tình đạo cô với sư phụ ta dẫu gì cũng là đồng môn, nên hôm nay ta nói cho đạo cô biết sự lợi hại của Hoàng đảo chủ. Từ rày đạo cô có gặp đệ tử của Hoàng đảo chủ thì hãy tránh xa là được.

Lý Mạc Sầu im lặng hồi lâu, rồi nói:

– Thôi được, thôi được!

Đoạn quay người đi, thoáng chốc đã khuất sau núi, thân pháp nhanh nhẹn hiếm thấy trong giang hồ.

Thực ra mấy chiêu thức kia Hoàng Dược Sư tuy đã truyền cho Dương Quá, nhưng muốn luyện tới mức thành thạo, đủ để chiến thắng kẻ địch, thì nhanh nhất cũng phải tốn vài năm. Dương Quá chỉ giải thích một phen, không cần động thủ, đã khiến Lý Mạc Sầu tâm phục khẩu phục, từ nay suốt đời sẽ không dám nói một lời xem thường Hoàng Dược Sư.

Lục Vô Song vốn chỉ nghe giọng nói của Lý Mạc Sầu đã run sợ, tim đập mạnh, bây giờ thấy sư phụ đã đi xa, thì như trút được gánh nặng, vỗ tay reo:

– Chàng Ngốc, ngay cả sư phụ của muội cũng sợ chàng quá, bỏ chạy rồi.

Trình Anh thấy Dương Quá đem tặng Lý Mạc Sầu tấm áo nàng may cho chàng, tình cảnh lúc ấy làm thế cũng phải, nhưng bên trong tấm áo mới, chàng vẫn mặc chiếc áo cũ rách, chỉ vì nó do Tiểu Long Nữ khâu cho chàng, chàng phân biệt thân sơ, không hề quên người cũ như thế, Trình Anh cảm thấy buồn, giả như không để ý. Bốn người liền vào trong quán xem Khúc cô thế nào.

Vừa bước vào, bỗng nghe ở phía trước núi có tiếng người ngựa huyên náo, ì ầm rùng rùng như tiếng sấm, bốn người cùng quay ra.

Dương Quá nói:

– Tại hạ đi xem sao.

Nói rồi nhảy lên ngựa, phóng ra khỏi thung lũng, đi vài dặm, ra đến đường cái thấy bụi tung mù mịt, tinh kỳ rợp trời, là đại quân Mông Cổ tiến xuống phía nam, thiết cung trường đao, thế như sóng trào.

Dương Quá chưa từng thấy đại quân hành binh bao giờ, nhìn cảnh tượng kinh tâm động phách, bất giác ngẩn người.

Hai tên lính vung đao quát:

– Thằng mọi kia, nhìn cái gì?

Chúng xông tới. Dương Quá quay đầu ngựa bỏ chạy. Hai tên kia lắp tên vào cung, pựt pựt hai tiếng, bắn tới sau lưng chàng. Dương Quá giơ tay tóm lấy mũi tên, cảm thấy hai mũi tên bay rất gấp, chàng mà không đầy mình võ công, thì đã bị mũi tên xuyên qua người mà chết. Hai tên kia thấy chàng bản lĩnh như thế, vội kìm ngựa lại, không dám đuổi theo.

Dương Quá trở về chỗ lò rèn, kể lại sự việc. Phùng Mặc Phong thở dài:

– Đại quân Mông Cổ quả nhiên tiến xuống phía nam. Bách tính Trung Quốc ta khốn khổ rồi!

Dương Quá nói:

– Thuật cưỡi ngựa bắn cung của người Mông Cổ, quân Tống thật không địch nổi. Tai họa phen này hẳn là không nhỏ.

Phùng Mặc Phong nói:

– Dương công tử chính đang tuổi anh niên, sao không về Nam đầu quân, chống lại ngoại xâm?

Dương Quá ngây ra, nói:

– Không, tại hạ muốn lên phía bắc tìm cô cô của tại hạ. Quân Mông Cổ thanh thế hùng hậu như vậy, sức một mình tại hạ, phỏng làm được trò gì?

Phùng Mặc Phong lắc đầu, nói:

– Sức một người tuy nhỏ, nhưng sức nhiều người sẽ mạnh. Nếu ai cũng nghĩ như công tử, thì có ai chịu đứng lên chống sự xâm nhập của dị tộc?

Dương Quá cảm thấy lời Phùng Mặc Phong nói không sai, nhưng trên đời bây giờ không có việc nào hệ trọng hơn việc đi tìm Tiểu Long Nữ. Từ nhỏ chàng lưu lạc giang hồ, đã phải khổ sở không ít vì bọn tiểu quan tiểu lại; nghĩ thầm bọn Mông Cổ cố nhiên tàn bạo, nhưng hoàng đế Tống triều chưa chắc đã là người tốt, chả tội gì xuất lực cho lão ta. Chàng nghĩ thế, mỉm cười, không nói gì.

Phùng Mặc Phong buộc kìm, búa, bễ quạt gió vào với nhau, đeo lên vai, nói với Trình Anh:

– Sư muội, sau này gặp lại sư phụ, sư muội hãy thưa với lão nhân gia người rằng đệ tử Phùng Mặc Phong không dám quên lời giáo huấn của lão nhân gia. Hôm nay ta đầu quân chống Mông Cổ, sống chết gì cũng phải giết cho được một, hai vương tử đại tướng xâm lược giang sơn chúng ta. Sư muội, nhớ bảo trọng. Hôm nay ta được gặp một vị truyền nhân của sư phụ, thực hoan hỉ vô cùng.

Nói xong chống quải trượng, đi luôn, cũng chẳng buồn nhìn Dương Quá một lần.

Dương Quá nhìn Trình Anh và Lục Vô Song, nói:

– Không ngờ ở nơi này lại gặp một vị dị nhân.

Lục Vô Song bênh Dương Quá, nói:

– Biểu tỷ, các nhân vật đệ tử của sư phụ biểu tỷ, trừ biểu tỷ ra, không ngớ ngẩn thì cũng điên điên khùng khùng.

Trình Anh mỉm cười, thản nhiên nói:

– Mỗi người một chí hướng, chẳng thể nài ép. Biểu muội bảo Phùng Mặc Phong điên điên khùng khùng, không chừng Phùng Mặc Phong lại bảo chúng ta là hạng người vô tình cũng nên. Hơn nữa, chính tỷ tỷ đây lại không có chút ngớ ngẩn, điên điên khùng khùng đó sao?

Dương Quá nghe chợt động lòng, liếc thấy thần sắc nàng ta vẫn như thường, không biết lời vừa rồi có ngụ ý cả chàng trong đó hay không.

Bỗng nghe huỵch một cái, Khúc cô ngã từ trên ghế xuống đất. Ba người vội dìu Khúc cô nằm lên giường, thấy Khúc cô mặt đỏ bừng bừng, hai mắt trợn ngược, biết là độc tính của Ngũ độc thần chưởng lại phát tác. Trình Anh liền cho uống thuốc, Dương Quá thì xoa bóp day ấn huyệt. Khúc cô trố mắt nhìn chàng, mặt lộ vẻ kinh sợ, nói:

– Dương huynh đệ, huynh đệ đừng tìm ta đòi mạng, không phải ta hại huynh đệ..

Trình Anh dịu dàng nói:

– Tỷ tỷ, đừng sợ, người này không phải là..

Dương Quá chợt nghĩ: "Lúc này Khúc cô thần trí mê loạn, chính là lúc nên buộc Khúc cô nói thật cả ra". Bèn nắm lấy hai cổ tay Khúc cô, gằn giọng, nói:

– Vậy ai hại chết ta? Ngươi không nói, ta sẽ bắt ngươi đền mạng.

Khúc cô cầu xin:

– Dương huynh đệ, không phải Khúc cô đâu mà.

Dương Quá tức giận:

– Ngươi không chịu nói hả? Được, ta sẽ bóp chết ngươi.

Chàng đưa tay bóp cổ Khúc cô. Khúc cô hoảng hốt kêu tướng lên.

Trình Anh và Lục Vô Song đâu biết dụng ý của Dương Quá, cùng ngăn lại:

– Dương đại ca, đại ca làm cho Khúc cô sợ hết hồn rồi kìa.

– Chàng Ngốc, lúc này còn đùa cợt được.

Dương Quá mặc kệ, tay hơi dùng sức một chút, mặt thì giả bộ hung thần ác sát, nghiến răng, nói:

– Ta là ác quỷ Dương huynh đệ đây. Ta chết khổ chết sở, ngươi biết không?

Khúc cô nói:

– Khúc cô biết mà, huynh đệ chết rồi, lũ quạ rỉa thịt huynh đệ.

Dương Quá lòng đau như cắt, chàng chỉ biết phụ thân chết vì tai nạn, không ngờ sau khi chết, thi thể lại không được mai táng, để cho quạ rỉa, liền gào to:

– Kẻ nào hại chết ta? Nói mau, nói mau!

Khúc cô nói lúng búng trong cổ họng:

– Là huynh đệ tự đến đánh cô cô, cô cô trên người có độc châm, cho nên huynh đệ bị chết.

Dương Quá gào to hơn:

– Cô cô là ai?

Khúc cô bị chàng bóp cổ, không thở được, sắp ngất đi, chỉ thều thào:

– Cô cô là cô cô.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô họ gì, tên là gì?

Khúc cô nói:

– Khúc cô không.. không biết đâu.. Huynh đệ hãy buông ta ra.

Lục Vô Song thấy tình hình như vậy, bèn kéo cánh tay Dương Quá. Dương Quá lúc này như một kẻ điên, hất mạnh một cái, sử đến mười thành lực, Lục Vô Song không trụ nổi, hịch một cái, nàng bị hất văng vào vách, may mà không đau. Trình Anh thấy Dương Quá thường ngày ôn hòa, từ tốn, bây giờ như con hổ điên, sợ quá đờ cả người ra.

Dương Quá nghĩ: "Hôm nay nếu không hỏi cho ra tính danh của kẻ giết phụ thân ta, ta sẽ lập tức hộc máu mà chết", liền hỏi dồn dập:

– Cô cô họ Khúc phải không? Hay là họ Mai?

Chàng đoán Khúc cô họ Khúc, thế thì cô cô của Khúc cô cũng là họ Khúc, cũng có thể là Mai Siêu Phong.

Khúc cô cố vùng ra, Khúc cô có thời gian luyện công lâu hơn hẳn Dương Quá, song võ công thua kém chàng, hơn nữa huyệt đạo ở cổ tay đang bị kiềm chế, chỉ ấp úng nói:

– Huynh đệ hãy đi lấy mạng cô cô, đừng.. đừng tìm Khúc cô.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô ở đâu?

Khúc cô nói:

– Khúc cô với gia gia đi ra. Cô cô và hán tử của cô cô ở trên đảo.

Dương Quá nghe câu ấy thì cảm thấy lạnh cả sống lưng, run run hỏi:

– Cô cô gọi gia gia của Khúc cô là gì?

Khúc cô đáp:

– Gọi là gia gia, chứ còn gọi là gì nữa?

Dương Quá tái mặt, còn sợ nghe nhầm, hỏi thêm một câu:

– Hán tử của cô cô tên là Quách Tĩnh phải không?

Khúc cô nói:

– Khúc cô không biết đâu, cô cô gọi "Tĩnh ca ca, Tĩnh ca ca".

Khúc cô bắt chước Hoàng Dung gọi Quách Tĩnh, rồi luống cuống chân tay, kêu rú lên như lợn bị chọc tiết:

– Cứu mạng, cứu mạng với! Ma.. ma..

Dương Quá lúc này không còn nghi ngờ gì nữa. Thời thơ ấu cô khổ, bao nhiêu chuyện bị người đời khinh rẻ trong giây lát cùng hiện ra, nghĩ: "Nếu phụ thân không bị giết hại, mẫu thân ta đâu đến nỗi khốn khổ, mất sớm, ta cũng đâu phải cực khổ như thế". Lại nghĩ: "Hồi ở đảo Đào Hoa, vợ chồng Quách Tĩnh đối với ta thiếu tự nhiên, có phần khách khí, có phần úy kỵ, khác hẳn thái độ mắng chửi tùy ý với huynh đệ họ Võ, bấy giờ ta không khó chịu; nào ngờ chỉ là vì họ đã giết phụ thân ta, nên trong lòng cảm thấy hổ thẹn. Họ không chịu dạy võ cho ta, đưa ta đến cho phái Toàn Chân hành hạ ta, đều là do đấy mà ra". Ngạc nhiên và tức giận, chân tay chàng bải hoải.

Khúc cô kêu to, nhảy ra khỏi giường. Trình Anh đến bên cạnh Dương Quá, dịu dàng nói:

– Khúc cô vốn ngớ ngẩn, Dương huynh đã biết. Sau khi Khúc cô bị thương, nói năng càng lung tung, Dương huynh chớ nên tin lời Khúc cô.

Trình Anh ngoài miệng nói thế, song trong bụng tin lời Khúc cô là thật, biết có an ủi Dương Quá cũng vô dụng, nhưng nhìn vẻ mặt quá đau khổ của chàng, nàng cũng hết sức đau lòng.

Mấy câu ấy Dương Quá không hề nghe thấy, chàng ngẩn người một lát, rồi lao ra cửa, nhảy lên lưng con ngựa gầy, kẹp mạnh hai chân, con ngựa lao vút đi, chớp mắt đã xa mấy chục trượng, chỉ nghe loáng thoáng sau lưng mấy tiếng gọi "Chàng ngốc", "Dương đại ca". Chàng đâu thèm để ý, trong đầu chỉ một ý nghĩ: "Ta phải trả thù. Ta phải trả thù!"

Chàng phi ngựa một mạch như điên, hơn một giờ đã đi mấy chục dặm, chợt cảm thấy môi đau xót, đưa tay sờ môi, thì máu đỏ hai ngón tay, thì ra trong cơn giận dữ chàng đã cắn môi đến bật máu. Chàng nghĩ: "Quách bá mẫu đối với ta không tốt, vừa rồi đột nhiên tỏ ra tử tế, chỉ là hoàn toàn giả nhân giả nghĩa, đã đành một nhẽ; nhưng còn Quách bá bá, Quách bá bá.."

Đối với Quách Tĩnh, chàng luôn luôn một lòng sùng kính, cảm thấy Quách Tĩnh võ công, đức hạnh đều siêu phàm tuyệt tục, tưởng là vẫn hết mực chân tình đối với chàng, nào ngờ rốt cuộc chàng bị lừa; con người ấy xem chừng còn gian ngoan hơn cả Hoàng Dung. Nghĩ đến đây Dương Quá tức muốn vỡ ngực vậy.

Chàng xuống ngựa, ngồi giữa đường, ôm đầu mà khóc rống lên. Tiếng khóc bi thương quả là trời sầu đất thảm, cơ hồ mọi đau khổ phiền não trên thế gian dồn vào một mình chàng. Chàng không biết mặt phụ thân, cũng chưa nghe ai kể, ngay mẫu thân cũng không chịu nói; chàng từ bé cứ nghĩ rằng phụ thân là người thập toàn thập mỹ, tốt nhất trần đời. Một vị hào kiệt anh hùng như thế lại bị Quách Tĩnh, Hoàng Dung dùng gian kế sát hại.

Dương Quá khóc một hồi, bỗng nghe tiếng vó ngựa, từ mạn bắc có bốn võ sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa chạy tới. Tên đi đầu tay cầm trường mâu, đầu mâu xâu vào một đứa bé hai, ba tuổi, tên ấy cứ cười hô hố. Đứa bé chưa chết, tiếng khóc đã yếu lắm. Bốn tên võ sĩ Mông Cổ thấy Dương Quá ngồi khóc giữa đường, cũng hơi lạ, nhưng loại thiếu niên người Hán lam lũ thế này chẳng thiếu gì, nên chúng cũng chẳng để tâm. Một tên quát:

– Tránh ra, tránh ra!

Và dùng ngọn giáo đâm tới. Dương Quá đang tức giận, chộp luôn ngọn giáo kéo tên kia xuống ngựa, tiện tay hất hắn văng ra xa hơn một trượng, ngã vỡ sọ chết liền. Ba tên còn lại thấy chàng thần dũng như thế, hô một tiếng, cùng quay ngựa chạy ngược về đường cũ. Nghe "bạch" một tiếng, đứa bé rơi xuống đường.

Dương Quá chạy tới ẵm đứa bé lên. Đó là một đứa bé người Hán, trắng mập đáng yêu, bị trường mâu đâm thủng bụng, nhất thời chưa chết ngay, nhưng cũng không thể cứu sống nó, miệng nó khóc như gọi mẹ. Dương Quá thương đứa bé quá, chảy cả nước mắt, chàng không nỡ nhìn nó đau đớn quá mức, bèn đánh nhẹ một chưởng cho nó chết hẳn, rồi dùng ngọn giáo của tên võ sĩ Mông Cổ đào một cái hố, định vùi đứa bé xuống.

Đào được một lát, bỗng nghe tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng tù và inh ỏi, cả đại đội lính Mông Cổ phóng tới. Dương Quá tay trái cắp đứa bé chết, tay phải cầm giáo, nhảy lên lưng ngựa; con ngựa gầy này vốn là chiến mã quen với sa trường, nay thấy chiến trận thì tinh thần hăng hái hẳn lên, nó hí dài một tiếng, xông về phía quân Mông Cổ. Ngọn giáo trong tay Dương Quá trong giây lát đánh ngã ba, bốn tên. Nhưng thấy quân địch quá đông, chàng bèn quay đầu ngựa, chạy xuống ruộng hoang. Đằng sau tên bắn theo như mưa, chàng vung giáo gạt đi hết. Con ngựa chạy cực nhanh, phút chốc bỏ xa bọn truy binh rồi, mà nó vẫn cứ phi như bay.

Trời gần tối, Dương Quá cho ngựa đi thong thả, nhìn bốn phía toàn là cỏ dày, đá cứng, không gian hết sức vắng lặng, không một bóng người, chim chóc cũng không.

Chàng xuống ngựa, đứa bé chết chàng cắp bên nách trông như vẫn sống, chỉ có vẻ đau đớn còn hằn trên mặt nó, Dương Quá buồn rầu nghĩ: "Đứa bé này chắc được cha mẹ nó yêu quí vô cùng, giờ nó chết rồi, cha mẹ nó có lẽ đứt từng khúc ruột. Đại quân Mông Cổ tàn bạo tiến xuống phía nam, không biết bao nhiêu trẻ thơ bị chúng sát hại dọc đường". Càng nghĩ càng buồn, chàng đào một cái hố cạnh một cây lớn, chôn đứa bé xuống đó, lại nhớ đến câu nói của Khúc cô, nghĩ: "Đứa bé này chết còn được ta chôn cất, phụ thân ta chết rồi còn bị quạ rỉa. Ôi các người giết cha ta xong, sao không vùi người xuống đất kia chứ? Lòng dạ các người thật độc ác quá chừng! Thù này không trả, Dương Quá ta thề chẳng làm người".

Tối hôm ấy chàng ngủ dưới gốc cây, sáng hôm sau lên ngựa, mặc cho con ngựa gầy muốn đi đâu thì đi; có lúc chàng muốn đi về tòa cổ mộ gặp Tiểu Long Nữ, có lúc lại nghĩ dẫu thế nào cũng phải giết Quách Tĩnh, Hoàng Dung để báo thù cho cha, bụng đói thì ăn quả dại cho đỡ đói lòng.

Đi đến ngày thứ tư, bỗng thấy phía xa có một người cứ từ dưới đất nhảy lên cao, giơ tay hái quả cây dại. Dương Quá phi ngựa lại gần, nhận ra đấy là đệ tử của Kim Luân pháp vương Đạt Nhĩ Ba. Mỗi lần Đạt Nhĩ Ba nhảy lên, chỉ hái được một quả, sau y không nhẫn nại nữa, lúc nhảy lên dùng tay rung mạnh cành cây, làm cho trái cây rụng lộp bộp; y nhặt các trái cây rụng ấy, cho vào trong túi.

Dương Quá nghĩ: "Không lẽ Kim Luân pháp vương đang ở gần đâu đây?" Chàng với Kim Luân pháp vương vốn chẳng thù oán gì, bây giờ chàng coi Quách Tĩnh, Hoàng Dung là kẻ thù giết cha, thành ra chàng ân hận vừa rồi đi giúp Quách Tĩnh, Hoàng Dung đánh bại Kim Luân pháp vương. Thế là chàng bèn kín đáo bám theo sau Đạt Nhĩ Ba, xem sự việc thế nào. Chỉ thấy Đạt Nhĩ Ba đi như bay, thẳng vào trong một thung lũng. Dương Quá xuống ngựa đi bộ theo sau một quãng xa. Đạt Nhĩ Ba đi sâu vào rừng, càng lúc càng cao, cuối cùng lên một ngọn núi.

Trên đỉnh núi có một mái nhà tranh nhỏ, bốn phía thông gió. Kim Luân pháp vương đang nhắm mắt ngồi trên chõng. Đạt Nhĩ Ba đặt số trái cây xuống đất, cạnh chõng, quay người lại, bất ngờ thấy Dương Quá đi tới gần, thì tái mặt, nói:

– Đại sư huynh, sư huynh định tới gia hại sư phụ phải không?

Y xông thẳng tới, giơ tay túm vạt áo của Dương Quá. Võ công của y vốn cao hơn Dương Quá, nhưng lúc này sư phụ đang ở tình trạng cực kỳ nguy hiểm, nếu bị ngoại cảm, lập tức tính mạng khó toàn, trong lúc lo sợ, thần trí thất thường, xuất chiêu sai hết chương pháp, phạm vào điều đại kỵ trong võ học, để Dương Quá vặn trái tay một cái, đẩy y ngã sóng soài.

Đạt Nhĩ Ba trong lòng cho rằng Dương Quá là đại sư huynh đầu thai, vừa rồi đánh y ngã gục; bèn lăn mấy vòng, đứng dậy, tiến lại trước mặt Dương Quá. Dương Quá tưởng y lại định động thủ, mới lùi một bước, không ngờ Đạt Nhĩ Ba đột nhiên quì xuống, khấu đầu nói:

– Đại sư huynh, mong sư huynh hãy nghĩ đến ân tình của sư phụ ở kiếp trước. Sư phụ bị trọng thương, đang tự hành công trị liệu, nếu sư huynh kinh động sư phụ, thì.. thì..

Nói đến đó, giọng y nghẹn ngào, nước mắt ứa ra. Dương Quá tuy không hiểu Tạng ngữ, nhưng nhìn thần tình của Đạt Nhĩ Ba, thấy Kim Luân pháp vương hình dung tiều tụy, thì chàng đoán được bảy, tám phần, vội đỡ Đạt Nhĩ Ba dậy, nói:

– Ta không gia hại tôn sư đâu, ngươi cứ yên tâm.

Đạt Nhĩ Ba thấy sắc diện chàng hiền hòa, thì mừng lắm, tuy không hiểu tiếng Hán, song đã không còn ý thù nghịch.

Lúc ấy Kim Luân pháp vương mở mắt ra, thấy Dương Quá, lão cả kinh, vừa rồi lão mải nhập định vận khí, hoàn toàn không nghe thấy lời đối đáp giữa Đạt Nhĩ Ba và Dương Quá; bây giờ bỗng thấy đại địch trước mặt, lão thở dài, thong thả nói:

– Ta uổng công tu luyện bao năm, không phá nổi danh quan, ai ngờ hôm nay bỏ mạng ở Trung Nguyên.

Nguyên lão bị hòn đá lớn rơi trúng, nội tạng bị trọng thương, mấy ngày vừa qua tới đây làm nhà tranh trị thương, không ngờ Dương Quá lần theo tung tích tìm thấy; hiện giờ lão không được phép dùng sức, chỉ có thể sai Đạt Nhĩ Ba đánh đuổi Dương Quá. Tình hình thế này, nội thương của lão khó lòng thuyên giảm. Nào ngờ Dương Quá cúi mình nói:

– Tại hạ tới đây, không định đối địch với đại sư, xin cứ yên tâm.

Kim Luân pháp vương lắc đầu, định nói, ngực bỗng đau nhói, vội nhắm mắt vận khí. Dương Quá bước vào trong nhà, giơ hữu chưởng đặt vào huyệt Chí Dương ở sau lưng lão ta. Huyệt này nằm ở phía dưới đốt sống thứ bảy, là đại huyệt của mạch Đốc trên cơ thể người. Đạt Nhĩ Ba thấy vậy cả kinh, vung quyền tấn công Dương Quá. Dương Quá xua xua tay trái, ra hiệu bằng mắt cho y. Đạt Nhĩ Ba thấy thần tình của sư phụ không có gì lạ, mặt còn có vẻ tươi cười, thì không đánh tới nữa.

Dương Quá tu vi chưa sâu, lại không biết gì về nội công của phái Tây Tạng, lòng bàn tay lờ mờ cảm thấy khí tức lưu động trong cơ thể Kim Luân pháp vương, chàng bèn ngầm vận nội lực truyền một luồng nhiệt khí giúp lão ta trên thì thông các huyệt Linh Đài, Thần Đạo, Thân Trụ; dưới thông các huyệt Cân Túc, Trung Khu, Tích Xung, Huyền Khu, cố gắng hết mức cũng chỉ có thể giúp lão ta bảo vệ mạch Đốc. Đạt Nhĩ Ba võ công tuy cao, nhưng chỉ luyện ngoại công, không thể giúp sư phụ trị liệu, những ngày vừa qua chỉ lo cuống quít. Bây giờ Kim Luân pháp vương đã không phải lo gì nữa, liền đẩy khí vào mạch Nhâm, toàn lực điều trị thương thế ở ngực và bụng dưới, sau hơn một canh giờ cơn đau giảm hẳn, mặt lộ sắc hồng nhuận, mở mắt nhìn Dương Quá gật đầu tạ ơn, chắp tay nói:

– Dương cư sĩ, tại sao cư sĩ tự dưng đến giúp lão nạp?

Dương Quá cũng chẳng giấu, đem việc chàng mới biết vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung giết hại phụ thân ra sao, nay chàng quyết ý báo thù, tình cờ gặp Đạt Nhĩ Ba thế nào, kể lại một lượt. Kim Luân pháp vương tuy biết gã thiếu niên này cực kỳ giảo hoạt, nói mười câu cũng chẳng thể tin một câu, nhưng hôm nay trong khi có thể giết lão dễ như trở bàn tay, Dương Quá lại giúp lão trị thương, quả thực không có ý thù nghịch, bèn nói:

– Thì ra cư sĩ mang nặng mối thâm cừu. Nhưng vợ chồng Quách Tĩnh võ công cao thâm, Dương cư sĩ muốn trả được mối thù này, chỉ e không dễ.

Dương Quá im lặng giây lát, rồi nói:

– Dù cha con tại hạ hai đời cùng phải chết bởi tay họ, cũng phải trả thù!

Kim Luân pháp vương nói:

– Lão nạp ban đầu tự phụ vô địch thiên hạ, định dùng sức một người đè bẹp quần hùng Trung Nguyên, giành chức vị minh chủ võ làm. Nhưng các võ sĩ Trung Nguyên không theo đúng qui củ đơn đả độc đấu, lại ùa cả vào mà ẩu đả, lão nạp đành tính kế khác vậy. Khi trị thương xong, lão nạp sẽ đi mời nhiều cao thủ giúp đỡ. Phe của lão nạp đông và mạnh, các võ sư Trung Nguyên sẽ không thể ỷ đông tranh thắng, mọi người quyết thắng bại một phen theo lẽ công bằng. Dương cư sĩ có muốn đứng về phe lão nạp hay không?

Dương Quá đã định trả lời có, nhưng chợt nghĩ thảm cảnh mà quân lính Mông Cổ gây ra, bèn nói:

– Tại hạ không thể giúp quân Mông Cổ.

Kim Luân pháp vương lắc đầu nói:

– Dương cư sĩ muốn đơn thương độc mã giết vợ chồng Quách Tĩnh, thì không xong được đâu.

Dương Quá trầm ngâm một hồi, nói:

– Được, tại hạ giúp đại sư giành chức vị minh chủ võ lâm, đại sư phải giúp tại hạ báo thù.

Kim Luân pháp vương giơ bàn tay ra, nói:

– Đại trượng phu nhất ngôn vi định, vỗ tay nhau ba cái để thề.

Hai người vỗ vào tay nhau ba cái đính ước. Dương Quá nói:

– Tại hạ chỉ giúp đại sư giành chức vị minh chủ, nếu đại sư giúp quân Mông Cổ tiến chiếm Giang Nam, sát hại bách tính, tại hạ sẽ không theo đâu.

Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Mỗi người một chí hướng, không nên ép nhau. Dương huynh đệ, võ công của huynh đệ đa tạp, lão nạp nói thật câu này, biết nhiều môn cố nhiên rất hay, nhưng cũng không tránh khỏi tạp loạn. Rốt cuộc thì huynh đệ có sở trường về môn nào? Phải sử dụng công phu gì đối phó với vợ chồng Quách Tĩnh đây?

Dương Quá nghe hỏi thế thì cứng lưỡi, khó trả lời. Đời chàng lắm cái ngẫu nhiên, tính chàng lại tham, nào phái Toàn Chân, nào Âu Dương Phong, nào phái Cổ Mộ, nào "Cửu Âm chân kinh", nào Hồng Thất Công, nào Hoàng Dược Sư, môn võ công nào của họ chàng cũng học qua. Mỗi môn võ công ấy đều vô cùng huyền diệu, dùng tinh lực tài trí cả đời nghiên cứu cũng khó đi tới chỗ tận cùng, nữa là tham học mỗi thứ một chút, làm sao có thể luyện tới cảnh giới cao siêu. Gặp đối thủ bình thường, đem ra thi triển cố nhiên làm cho người ta kính nể, nhưng chạm trán với cao thủ đích thực, sẽ bị người ta phát hiện ngay chỗ yếu, ngay đệ tử của Kim Luân pháp vương như Hoắc Đô, Đạt Nhĩ Ba, chàng cũng chưa địch nổi. Chàng cúi đầu suy nghĩ, cảm thấy câu hỏi của Kim Luân pháp vương như gậy đánh vào đầu chàng, nói trúng chỗ non kém cơ bản trong võ học của chàng.

Chàng lại nghĩ: "Mình đã quyết ý chung tình với cô cô suốt đời, tại sao đi đâu cũng vương vấn lưu tình? Nào Trình cô nương, nào Lục Vô Song, nào Hoàn Nhan Bình. Mình đã không có chân tình với họ, sao cứ đi đùa cợt? Thật là tham luyến quá chừng". Lại nghĩ: "Bất luận Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong hay Toàn Chân thất tử, Kim Luân pháp vương, phàm trở thành danh gia, đều là nhờ tinh tu công phu bản môn, chỉ biết gia số của võ công phái khác, chứ không tu luyện, vậy mình cần chuyên tu một môn công phu thôi chăng? Xét về tình về lý, phải chuyên tâm tu luyện" Ngọc nữ tâm kinh "của phái Cổ Mộ mới đúng, nhưng lại nghĩ môn Đả cẩu bổng pháp của Hồng Thất Công huyền diệu như thế, Ngọc Tiêu kiếm pháp của Hoàng Dược Sư tinh vi như thế, mà bỏ qua thì chẳng đáng tiếc lắm sao? Rồi Cáp mô công nghịch hành kinh mạch của nghĩa phụ," Cửu Âm chân kinh "và các môn công phu khác, chỉ cần giỏi một môn trong số đó cũng đủ dương danh thiên hạ, đâu dễ có dịp được học, sao nỡ bỏ qua?"

Chàng bước ra khỏi nhà tranh, đi tha thẩn trên đỉnh núi, nặng lòng suy tư, hết sức phiền muộn, nghĩ chán chê, chợt tự hỏi: "Tại sao ta không dám lấy sở trường của các môn phái, tự thành một nhà? Võ công thiên hạ đều do từng người sáng tạo ra, chẳng lẽ ta không sáng tạo nổi?" Nghĩ đến đây, lập tức thấy sáng bừng lên.

Chàng suy nghĩ từ sáng đến trưa, từ trưa đến đêm, ở trên đỉnh núi không ăn không uống, các môn võ công tinh diệu từng biết cứ lần lượt diễn ra trong óc chàng. Chàng từng thấy Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đấu võ miệng với nhau; chàng cũng từng miệng nói tay vẽ mà có thể làm cho Lý Mạc Sầu phải kinh sợ bỏ đi; bây giờ các môn võ công tranh hùng với nhau trong óc, xem ra còn nhanh mạnh hơn cả khẩu thuật. Mải nghĩ, bất giác hoa chân múa tay thi triển võ công. Ban đầu còn có thể phân biệt chiêu này là học của Hồng Thất Công, chiêu kia là học của Âu Dương Phong, sau thì rối loạn cả lên, không không trụ nổi nữa, ngã ngửa xuống đất ngất đi. Đạt Nhĩ Ba từ xa thấy Dương Quá hoa chân múa tay, không hiểu thế nào, bỗng thấy chàng ngã vật ra, thì kinh hãi định chạy lại cứu, Kim Luân pháp vương cười nói:

– Đừng làm rối tâm tư của hắn, chỉ tiếc là ngươi tài trí tầm thường, không hiểu đạo lý bên trong.

Dương Quá tỉnh lại lúc nửa đêm, sáng hôm sau thức dậy lại nghĩ. Trong bảy ngày, chàng ngất đi năm lần. Nói tổng hợp các môn, tự sáng tạo một nhà, nghe cứ tưởng là dễ. Với kiến văn, tu vi hiện thời của mình, chàng chưa thể làm nổi việc đó, càng không phải là chuyện mươi bữa nửa tháng. Nhưng sau cả tuần tập trung suy nghĩ, chàng cũng ngộ ra một điều, ấy là tất cả các môn võ công kia, chàng đều biết cách sử dụng, đã không thể hợp làm một, thì cũng đừng cưỡng cầu; sau này khi lâm địch, cần dùng thì dùng, khỏi cần nghĩ đến lai lịch xuất xứ, như thế coi như gần ngang với việc tự mình sáng tạo một nhà. Nghĩ được như vậy, trong lòng cảm thấy dễ chịu hẳn.

Kim Luân pháp vương qua mấy ngày trị thương, đã khỏi tám, chín phần, đã có thể hoạt động như thường; hôm nay thấy Dương Quá đột nhiên thần tình bình hòa, vẻ như đã tính toán đâu ra đó, biết chàng đã tiến thêm một bước về võ học, bèn nói:

– Dương huynh đệ, lão nạp đưa huynh đệ đi gặp một người, người này hùng tài vĩ lược, khoáng đạt đại độ, bảo đảm huynh đệ gặp rồi sẽ thán phục.

Dương Quá hỏi:

– Là ai vậy?

Kim Luân pháp vương nói:

– Vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, con trai thứ tư của Đà Lôi.

Dương Quá từng thấy sự bạo ngược của quân sĩ Mông Cổ, chàng rất căm ghét người Mông Cổ, nên cau mày nói:

– Tại hạ chỉ nóng lòng trả thù, không cần gặp vương tử Mông Cổ làm gì.

Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Lão nạp đã bằng lòng giúp huynh đệ, làm sao có thể thất tín? Nhưng lão nạp tới Trung Nguyên là theo lời mời của vương tử Hốt Tất Liệt, dẫu gì cũng phải bẩm cáo với vương tử một tiếng. Vương trướng của Hốt Tất Liệt cách đây không xa, đi một ngày là đến.

Dương Quá tự nghĩ mình hoàn toàn không phải là đối thủ của vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung, bất kể đấu trí đấu lực, đều không thể sánh, nếu không có sự trợ giúp của Kim Luân pháp vương, mối thù khó mà trả được, đành phải theo lão ta đi.

Kim Luân pháp vương được phong là đệ nhất hộ quốc đại sư của Mông Cổ, binh tướng Mông Cổ đối với lão cực kỳ tôn sùng, vừa thấy lão tới, liền phi báo vương gia. Người Mông Cổ đời đời ở trong lều bạt, tuy đến thành phố, họ cũng không quen cung thất, nên Hốt Tất Liệt ở trong một cái lều lớn.

Kim Luân pháp vương cầm tay Dương Quá bước vào vương trướng. Dương Quá thấy cái lều này to gấp mấy lều thông thường của người Mông Cổ, bên trong trần thiết hết sức đơn giản. Một thanh niên trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi đang ngồi đọc sách. Thấy khách vào, người ấy vội đứng dậy đón, tươi cười, nói:

– Lâu ngày không gặp quốc sư, ta vẫn thường nhớ.

Kim Luân pháp vương nói:

– Vương gia, lão nạp xin dẫn kiến vương gia một vị anh hùng thiếu niên. Vị Dương huynh đệ đây tuy ít tuổi nhưng là một vị nhân kiệt.

Dương Quá chỉ biết Hốt Tất Liệt là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, diện mạo nếu không tôn vinh quí thịnh, thì cũng cương mãnh uy vũ, không ngờ lại là một người khiêm hòa dễ gần, biết nói tiếng Hán, thì chàng lấy làm lạ.

Hốt Tất Liệt nhìn Dương Quá một cái, tay trái kéo Kim Luân pháp vương, nói với tả hữu:

– Mau mang rượu ra để ta uống với vị huynh đệ này.

Tả hữu bưng ra ba bát rượu to, rót đầy rượu sữa ngựa Mông Cổ. Hốt Tất Liệt bưng một bát uống cạn, Kim Luân pháp vương cũng uống cạn. Dương Quá thường ngày ít uống rượu, nhưng thấy chủ nhân tự nhiên như vậy, mình là khách không tiện làm khác, bèn nhận một bát cũng uống cạn, chỉ thấy rượu rất cay, vị chua.

Hốt Tất Liệt cười, hỏi:

– Tiểu huynh đệ, rượu này có ngon không?

Dương Quá đáp:

– Rượu này cay và chua, uống vào miệng như đao, vị tuy không ngon, nhưng thể hiện bản sắc nam tử hán đại trượng phu.

Hốt Tất Liệt cả mừng, gọi tiếp rượu, ba người ai cũng uống cạn ba bát. Dương Quá nhờ nội lực tinh thâm, nên uống nhiều mà vẫn giữ được vẻ thản nhiên. Hốt Tất Liệt mừng nói:

– Quốc sư tìm đâu được một nhân tài thế này. Thật may cho Đại Mông Cổ ta.

Kim Luân pháp vương thuật qua thân phận của Dương Quá, cố đề cao chàng như một đại nhân vật của võ lâm Trung Nguyên. Dương Quá nghe lão ca ngợi mình như thế, cũng không khỏi cảm thấy lâng lâng.

Hốt Tất Liệt nhận sứ mạng thôn tính giang sơn Đại Tống, ở Trung Nguyên đã lâu, lòng bị Hán hóa, thường ngày tiếp xúc với nho sinh, học kinh sách, mời các bậc cao nhân võ học, kết giao tân khách, hoạch địch việc tấn công xuống nhà Tống ở phía nam. Nếu là người khác, thấy Dương Quá ít tuổi như vậy, hẳn là không tin, nhưng Hốt Tất Liệt tài trí siêu quần, khí độ rộng lớn, lại rất tin tưởng Kim Luân pháp vương, nên vui mừng hạ lệnh mở tiệc khoản đãi.

Không lâu thì tiệc được bày ra, với nhiều rượu thịt, các món ăn một nửa của người Mông Cổ, một nửa của người Hán. Hốt Tất Liệt sai tả hữu:

– Mời mấy vị anh hùng ở Chiêu Hiền quán tới đây.

Tả hữu vâng lệnh bước ra. Hốt Tất Liệt nói:

– Mấy hôm rồi ở Chiêu Hiền quán có thêm vài vị tân khách, vị nào cũng có dị năng, thật là cái phúc của quốc gia, song cũng chưa bằng quốc sư và Dương quân văn võ toàn tài.

Đang trò chuyện thì tả hữu bẩm khách mời đã tới, cửa lều vén ra, bốn người bước vào. Đi đầu là một người cao gầy, mặt không hạt máu, thân hình khô đét như một cái xác, Hốt Tất Liệt dẫn kiến với Kim Luân pháp vương và Dương Quá, đấy là người Quảng Tây, tên Tiêu Tương Tử. Người thứ hai cực lùn và đen, đến từ Thiên Trúc, tên Ni Ma Tinh. Tiếp đến một người thân cao tám thước, chân tay to và thô, mặt mang nụ cười ngớ ngẩn, cặp mắt lờ đờ. Người cuối cùng mũi cao mắt sâu, tóc xoăn râu vàng, là người Hồ, trang phục theo lối người Hán, cổ đeo hạt ngọc, cổ tay đeo vòng ngọc long lanh.

Hốt Tất Liệt lần lượt dẫn kiến, người thứ ba cao lớn là người Hồi Cương, tên Mã Quang Tá. Gã người Hồ vốn người Ba Tư, tổ tông ba đời buôn bán ngọc quí ở đất Biện Lương, Tràng An, Thái Nguyên, lấy một cái tên người Trung Quốc là Doãn Khắc Tây.

Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh nghe nói Kim Luân pháp vương là đệ nhất hộ quốc đại sư của Mông Cổ, thì lạnh lùng nhìn lão từ đầu xuống chân, vẻ mặt không phục; thấy Dương Quá nhỏ tuổi, đoán là đồ tử đồ tôn gì đó của Kim Luân pháp vương, càng không coi chàng ra gì. Rượu qua ba tuần, Ni Ma Tinh không nhịn được, nói:

– Vương gia, Đại Mông Cổ đất đai rộng lớn, vị đại hòa thượng này là đệ nhất hộ quốc đại sư, võ công hẳn phải rất rất cao cường, chúng tại hạ mong được chiêm ngưỡng.

Hốt Tất Liệt mỉm cười không nói gì, Tiêu Tương Tử tiếp lời:

– Vị Ni Ma Tinh nhân huynh đây đến từ Thiên Trúc, võ công Tây Tạng truyền từ Thiên Trúc, chẳng lẽ thiên hạ quả nhiên có chuyện trò giỏi hơn thầy hay sao?

Kim Luân pháp vương thấy Ni Ma Tinh hai mắt long lanh như tia chớp, mặt Tiêu Tương Tử thì ẩn hiện khí xanh, biết hai người này nội công đều thâm hậu. Doãn Khắc Tây thì cười hi hi ha ha, cố tỏ vẻ là một gã lái buôn tầm thường, hắn càng tỏ vẻ bất tài, e rằng càng đáng ngại, không thể xem thường; còn gã Mã Quang Tá cao lớn thì chẳng đáng lo, bèn mỉm cười nói:

– Lão nạp được phong quốc sư, là nhờ ân điển của đại hãn và Tứ vương tử điện hạ, bản thân lão nạp hổ thẹn không dám nhận.

Tiêu Tương Tử nói:

– Thế thì đại sư nên tị vị nhượng hiền cho rồi.

Nói đoạn liếc về phía Ni Ma Tinh, nhếch khóe miệng cười khẩy.

Kim Luân pháp vương dùng đũa gắp giữ một miếng thịt bò to, cười, nói:

– Đây là miếng thịt to nhất trong bát, lão nạp vốn không định ăn nó, nhưng tình cờ gắp đũa trúng phải, cái đó nhà Phật gọi là duyên pháp. Vị cư sĩ nào có hứng, xin mời cứ gắp đi cho.

Rồi lão tiếp tục dùng đũa giữ miếng thịt trong bát, chờ người khác gắp đi.

Mã Quang Tá không hiểu Kim Luân pháp vương nói miếng thịt bò to nhất là ngụ ý chức vị đệ nhất hộ quốc đại sư Mông Cổ, thấy lão giữ miếng thịt bảo là để nhường khách, bèn giơ đũa gắp. Đũa của y vừa chạm vào miếng thịt, thì một chiếc đũa của Kim Luân pháp vương đột nhiên gạt ngang sang chiếc đũa của y, Mã Quang Tá cảm thấy cánh tay tê dại, không cầm nổi nữa, buông rơi cả đôi đũa xuống bàn. Chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại lập tức đưa về giữ miếng thịt. Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Mã Quang Tá còn chưa hiểu, cầm đôi đũa lên, năm ngón tay giữ đũa thật chặt, nghĩ: "Lần này lão đừng hòng gạt được nữa". Y lại gắp lấy miếng thịt. Một chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại gạt ngang sang, lần này Mã Quang Tá cầm chặt đũa, chỉ nghe "cách" một tiếng, đôi đũa của Mã Quang Tá gãy rời thành bốn, hai đoạn gãy rơi xuống bàn như bị dao chặt.

Mã Quang Tá cả giận, quát to một tiếng, nhoài sang định đánh Kim Luân pháp vương. Hốt Tất Liệt cười nói:

– Mã tráng sĩ đừng nóng vội, nếu muốn tỷ võ, đợi ăn xong cũng chưa muộn.

Mã Quang Tá sợ vương gia, đành hậm hực ngồi xuống, chỉ Kim Luân pháp vương, hỏi:

– Lão dùng yêu pháp gì làm gãy đôi đũa của người ta như vậy?

Kim Luân pháp vương cười, gắp miếng thịt, giơ lên trước mặt.

Ni Ma Tinh ban đầu không coi Kim Luân pháp vương ra gì, vừa thấy lão triển hiện nội lực thâm hậu, thì không dám xem thường nữa. Hắn là người nước Thiên Trúc, ăn cơm không dùng đũa. Hắn nói:

– Miếng thịt này, đại Hán tử gắp không được, bổn nhân muốn ăn.

Đột nhiên năm ngón tay hắn như năm cái móc sắt chộp lấy miếng thịt. Kim Luân pháp vương bật ngang chiếc đũa bên phải, nhanh như chớp điểm năm huyệt đạo ở lòng bàn tay, cổ tay, mu bàn tay, hổ khẩu và ngón giữa của hắn. Ni Ma Tinh vội lật bàn tay, chém vào cổ tay Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương cánh tay không động, bật chiếc đũa lên, lại bật bật mấy cái, Ni Ma Tinh cảm thấy đầu đũa chọc tới hổ khẩu của mình, phải vội co tay về. Chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại đưa về giữ miếng thịt, không để nó rơi xuống. Lão bật đũa điểm huyệt mấy lần nhanh như thế nào, Dương Quá và mọi người đều nhìn thấy rõ, trong giây lát hai người kia đã trao đổi mấy chiêu, Kim Luân pháp vương bật đũa cực nhanh, Ni Ma Tinh kịp thu tay về tránh đòn, võ công cũng thật cao siêu. Tiêu Tương Tử phải thốt lên:

– Hảo bản sự!

Hốt Tất Liệt biết hai người đã sử dụng công phu thượng thừa, nhưng đó là môn gì thì chưa rõ. Mã Quang Tá cũng trơ mắt ra nhìn hết người này người kia, chưa hiểu thế nào.

Doãn Khắc Tây cười hi hi, nói:

– Các vị khách sáo quá! Có miếng thịt mà cứ người này nhường người kia mãi, chả ai chịu ăn, để nguội mất rồi.

Nói đoạn thong thả giơ đôi đũa ra gắp miếng thịt. Hai chiếc vòng ở cổ tay gã, một bằng ngọc phỉ thúy, một bằng vàng, va vào nhau kinh coong. Đôi đũa của Doãn Khắc Tây chưa chạm đến miếng thịt, đôi đũa của Kim Luân pháp vương đã hơi rung rung, thì ra gã đã sử dụng nội kình để bức không cho Kim Luân pháp vương gạt đũa của gã. Kim Luân pháp vương bèn nhả đũa cho gã gắp miếng thịt, khi kình lực truyền sang đôi đũa của gã, liền dồn lực sang đánh cánh tay Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây vội vận kình phản kích. Nào ngờ nội kình của Kim Luân pháp vương vừa phát ra đã lập tức thu về, miếng thịt từng nhường cho Doãn Khắc Tây, giờ lại được hoàn trả về đôi đũa của lão. Kim Luân pháp vương cười, nói:

– Doãn huynh lại cũng nhường nốt, cũng là quá khách sáo đấy!

Doãn Khắc Tây trúng kế, đồng thời cũng đã thử, thầm biết nội lực của đối phương hơn hẳn mình, nhưng không lộ ra, chỉ mỉm cười, chuyển đũa gắp miếng thịt nhỏ hơn trong bát, cười, nói:

– Huynh đệ bình sinh chỉ mê các thứ châu ngọc, miếng thịt to không ưa lắm, tạm ăn miếng thịt nhỏ này thôi.

Nói xong đưa miếng thịt vào mồm, thong thả nhai.

Kim Luân pháp vương nghĩ: "Khí độ giả dối của dân Hồ nước Ba Tư cũng bất phàm", quay sang Tiêu Tương Tử, nói:

– Lão huynh đã khiêm nhường, thì lão nạp đành dùng vậy.

Nói rồi đôi đũa hơi kéo về phía mình, cách chừng nửa thước. Lão đoán nội lực của Tiêu Tương Tử không yếu chẳng dám sơ ý, sử dụng nội kình đưa miếng thịt gần về phía mình nửa thước, cách Tiêu Tương Tử cũng nửa thước. Tiêu Tương Tử cười khẩy, giơ đũa ra kẹp ngay lấy miếng thịt, kéo về phía mình.

Kim Luân pháp vương không ngờ thủ pháp của Tiêu Tương Tử mau lẹ như vậy, vội vận kình đoạt lại, miếng thịt chậm rãi xê dịch từng tấc một. Tiêu Tương Tử đứng dậy, tay trái tì xuống bàn khiến chiếc bàn kêu răng rắc, song vẫn không ngăn được cái thế miếng thịt vẫn di chuyển về phía Kim Luân pháp vương.

Nhìn sắc mặt nhàn nhã của Kim Luân pháp vương, trong khi Tiêu Tương Tử đã vã mồ hôi trán, đủ phân biệt mạnh yếu.

Bỗng nghe xa xa có tiếng gọi to:

– Quách Tĩnh, Quách huynh đệ, huynh đệ ở đâu? Mau ra đây, Quách Tĩnh, tên tiểu tử họ Quách!

Tiếng ban đầu phát ra từ mé đông, rồi bỗng nhiên lại phát ra từ phía tây. Hai phía đông tây phải cách xa mấy dặm, tưởng như một người gọi, một người nhắc lại, song tiếng gọi ấy chỉ là của một người, cứ liên tiếp vang vọng không ngừng ở khoảng cách như thế, đủ biết thân pháp mau lẹ và nội lực thâm hậu hiếm có trên thế gian.

Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Tiêu Tương Tử buông đũa, ngồi xuống. Kim Luân pháp vương cười ha ha, nói:

– Thừa nhượng, thừa nhượng!

Đang định đưa miếng thịt lên miệng, đột nhiên cửa lều vén ra, một bóng người vút vào, cướp miếng thịt khỏi đũa của Kim Luân pháp vương mà cho vào mồm nhai tóp tép thật to.

Mọi người đứng bật cả dậy kinh hãi; nhìn kỹ người kia, thì thấy đó là một lão nhân râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào, tươi cười dễ thân. Lão nhân ngồi trên một tấm chăn, tay trái vuốt chòm râu bạc, tay phải đưa miếng thịt bò vào miệng, nhai tóp tép thành tiếng. Kim Luân pháp vương nhớ lại lúc vị lão nhân kia đoạt lấy miếng thịt từ đôi đũa của lão, càng nghĩ càng kinh hãi.

Mấy võ sĩ canh cửa không chặn được vị lão nhân tóc bạc, quát to:

– Bắt lấy thích khách!

Bốn mũi giáo dài cùng đâm tới ngực vị lão nhân. Vị lão nhân kia giơ tay trái chộp giữ luôn cả bốn mũi giáo, nhìn Dương Quá, nói:

– Tiểu huynh đệ, lấy cho ta mấy miếng thịt nữa, ta đói bụng quá chừng.

Bốn võ sĩ Mông Cổ dùng sức đẩy tới không được, cố giằng giáo lại, nhưng cả bốn gắng sức đến đỏ cả mặt, các mũi giáo cũng không hề động đậy, y như thể chúng được đúc liền vào một quả núi sắt không bằng.

Dương Quá nhìn cảnh ấy thích chí, cầm cả bát thịt trên bàn quăng ngang về phía vị lão nhân, nói:

– Xin mời!

Vị lão nhân đưa tay phải đón lấy bát thịt, cầm ngang trước ngực, đột nhiên một miếng thịt từ trong bát tự bay lên miệng vị lão nhân như thể một vật sống động vậy. Hốt Tất Liệt thấy rất thú vị, nghĩ rằng vị lão nhân biết sử dụng ma thuật. Bọn Kim Luân pháp vương thì biết rằng vị lão nhân đã vận lực cục bộ ở lòng bàn tay để đẩy miếng thịt từ trong bát tự bay lên miệng. Người thường có thể dùng lực đẩy mạnh vào chiếc bát, làm cho thịt bay ra, nhưng cả các miếng thịt lẫn nước thịt sẽ cùng văng lên. Chứ không tài gì làm cho một miếng thịt từ trong bát tự bay lên miệng theo ý muốn như vị lão nhân này. Mọi người tự lượng không thể sánh nổi, bất giác đều kính phục.

Vị lão nhân không ngớt nhai thịt, hết miếng này đến miếng khác, chẳng mấy chốc đã hết sạch cả bát thịt. Vị lão nhân tay phải hất một cái, chiếc bát bay vòng vòng về phía Dương Quá và Doãn Khắc Tây.

Dương Quá và Doãn Khắc Tây sợ vị lão nhân ngầm sử quái kình vào chiếc bát, nên không dám giơ tay đón nó, vội né sang hai bên. Chiếc bát bay sát mặt bàn, va đúng vào bát đựng thịt cừu nướng, chiếc bát đựng thịt cừu nướng liền bay ngang về phía vị lão nhân, còn chiếc bát không kia thì xoay tròn tại chỗ vài vòng rồi đứng yên. Nguyên vị lão nhân sử dụng "Thái Cực kình", xoay vòng rồi trở lại tư thế ban đầu; nếu là ở ngoài chỗ trống trải, thì chiếc bát sau khi ném đi sẽ bay vòng quanh thân người ném. Kình lực phát ra không khó, người giỏi trò ảo thuật đều có thể làm được tuyệt kỹ này; cái khó là ở chỗ sử kình sao cho thích hợp, chiếc bát không thì bay đến kích vào chiếc bát đựng thịt rồi dừng lại, còn chiếc bát đựng thịt thì bay về phía vị lão nhân. Vị lão nhân cười ha hả đắc ý, tay cầm bát thịt cừu vận lực đẩy từng miếng thịt bay lên miệng, lại chén hết sạch.

Khi đó bốn võ sĩ Mông Cổ ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, cố sức đoạt lại cây giáo không nổi, mà buông tay ra cũng chẳng dám. Quân pháp của Mông Cổ rất nghiêm, lâm trận mà bỏ vũ khí sẽ bị khép tội chết, huống hồ bốn võ sĩ này có trọng nhiệm hộ vệ Tứ vương tử, nên đành dốc hết sức lực tranh đoạt. Vị lão nhân thấy bốn võ sĩ kia càng luống cuống thì lão càng thích thú, đột nhiên quát:

– Biến biến biến, hai đứa rập đầu, hai đứa ngã ngửa ta coi! Một, hai, ba!

Chữ "ba" vừa dứt, bốn cây trường mâu cùng gãy. Phương hướng sử lực của vị lão nhân khác nhau, đối với hai cây giáo thì đẩy ra, đối với hai cây còn lại thì kéo vào, chỉ nghe "huỵch huỵch" liên tiếp, quả nhiên hai võ sĩ ngã sấp, hai võ sĩ ngã ngửa. Vị lão nhân vỗ tay reo lên:

– Khéo khéo quá, hay hay quá, đứng lên nào, bé bé con!

Đấy là mấy câu hát người lớn sử dụng để an ủi đứa bé bị ngã.

Doãn Khắc Tây đứng bật dậy, hỏi:

– Lão tiền bối họ Chu phải không?

Vị lão nhân cười, nói:

– Phải, ha ha, ngươi nhận ra ta rồi.

Doãn Khắc Tây ôm quyền, nói:

– Thì ra là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông Chu lão tiền bối đã tới.

Tiêu Tương Tử đã nghe danh tiếng vị lão nhân, Kim Luân pháp vương và Ni Ma Tinh thì chưa biết Chu Bá Thông là ai, nhưng thấy vị lão nhân kia võ công cao siêu, hành sự tinh nghịch như trẻ con, quả nhiên tương xứng với ba chữ "Lão Ngoan đồng". Mọi người ai nấy giảm hẳn sự khó chịu, cùng mỉm cười.

Kim Luân pháp vương nói:

– Xin lượng thứ cho lão nạp chưa được biết tiền bối võ lâm. Xin mời lão tiền bối cùng vào bàn tiệc được chăng? Vương gia tha thiết cầu hiền, hôm nay được tiếp cao nhân, chắc là rất vui.

Hốt Tất Liệt ôm quyền, nói:

– Đúng vậy, xin mời Chu tiên sinh vào bàn.

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Ta ăn no rồi, không ăn nữa đâu. Còn Quách Tĩnh, hiện giờ y ở đâu?

Dương Quá từng nghe Hoàng Dược Sư kể về việc Chu Bá Thông kết nghĩa huynh đệ với Quách Tĩnh, bèn lạnh lùng hỏi:

– Lão tìm Quách Tĩnh để làm gì?

Chu Bá Thông hồn nhiên chất phác, thích nhất giao tiếp với trẻ con, thấy trong bàn tiệc Dương Quá là kẻ nhỏ tuổi nhất, đã có thiện cảm, lại nghe chàng hỏi trống không một chữ "lão", không gọi là "lão tiền bối", "Chu tiên sinh", thì càng khoái, nói:

– Quách Tĩnh là huynh đệ kết nghĩa của ta, ngươi quen y chứ? Y từ nhỏ đã thích ở với người Mông Cổ, cho nên ta thấy chỗ nào có lều của người Mông Cổ, thì ta đến tìm y.

Dương Quá cau mày, nói:

– Lão tìm Quách Tĩnh có chuyện gì?

Chu Bá Thông là người thành thật, không biết giấu giếm, nói:

– Y sai người gửi thư cho ta, mời ta đến dự đại yến anh hùng. Ta đi ngay, nhưng dọc đường mải chơi mấy chỗ, đến muộn mất vài ngày, mọi người đã ra về cả, chán quá đi mất.

Dương Quá hỏi:

– Họ không để lại thư từ gì cho lão à?

Chu Bá Thông trừng mắt, nói:

– Ngươi vì sao cứ tra vấn ta như thế? Rốt cuộc thì ngươi có quen biết Quách Tĩnh hay không?

Dương Quá nói:

– Sao lại không quen? Quách phu nhân tên là Hoàng Dung, đúng chưa nào? Con gái của vợ chồng họ là Quách Phù, đúng chưa nào?

Chu Bá Thông vỗ tay cười, nói:

– Sai rồi, sai rồi! Ả Hoàng Dung cũng là một cô bé gái, làm sao lại có con được?

Dương Quá ngớ ra, nhưng hiểu ngay, hỏi:

– Lão không gặp vợ chồng họ mấy năm rồi?

Chu Bá Thông bấm lần lượt tất cả các đốt ngón tay, chỉ còn thừa hai đốt, nói:

– Hai mươi hai năm rồi.

Dương Quá cười, nói:

– Phải rồi, cách đây hai mươi hai năm, Hoàng Dung còn là một cô bé. Thế trong hai mươi hai năm ấy không sinh con hay sao?

Chu Bá Thông cười lớn, rung cả chòm râu bạc, nói:

– Ngươi nói đúng, ngươi nói đúng! Hai vợ chồng Quách Tĩnh sinh đứa con gái, chắc cũng xinh xắn chứ?

Dương Quá nói:

– Diện mạo của con gái họ giống Quách phu nhân nhiều hơn là giống Quách Tĩnh, theo lão thì có xinh hay không?

Chu Bá Thông cười ha ha, nói:

– Thế thì xinh, chứ một đứa con gái mà mắt to mày rậm, da đen như Quách huynh đệ của ta thì không coi được.

Dương Quá biết Chu Bá Thông đã hết ngờ vực, bèn hỏi:

– Phụ thân của Hoàng Dung là Đào Hoa đảo chủ Hoàng Dược Sư huynh, là bạn vong niên của vãn bối, lão có quen biết hay không?

Chu Bá Thông sững sờ, nói:

– Một gã oắt con như ngươi cũng đòi xưng hô huynh đệ với Hoàng lão Đông Tà ư? Sư phụ của ngươi là ai?

Dương Quá nói:

– Sư phụ của vãn bối võ công cao siêu lắm, nói ra chỉ e lão quá run sợ.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Ta không khi nào run sợ.

Lão vung tay phải, chiếc bát không bay vù rất nhanh về phía Dương Quá.

Dương Quá đã biết Chu Bá Thông là sư thúc của Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, nhìn lão vung tay hất chiếc bát đi, cánh tay không gập vào phía trong, toàn dùng lực của ngón tay, chính là thủ pháp của phái Toàn Chân, mà chàng thì không hề sợ võ công của phái Toàn Chân, bèn giơ ngón tay trỏ bên trái đón lấy đáy chiếc bát, khiến chiếc bát xoay vòng vòng trên đầu ngón tay đó.

Việc đó làm cho Chu Bá Thông vô cùng thích thú, còn bọn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá, Doãn Khắc Tây thì vô cùng kinh ngạc. Tiêu Tương Tử thì ban đầu thấy Dương Quá ăn mặc lam lũ, tuổi còn nhỏ, không coi chàng ra gì; bây giờ y nghĩ: "Nhìn thế bay của chiếc bát, mình không dám giơ tay ra đón, thế mà hắn chỉ dùng một ngón! Chỉ cần đón thiếu chuẩn xác một chút, sẽ bị gãy cổ tay như chơi. Không biết gã thiếu niên này lai lịch thế nào?"

Chu Bá Thông khen: "Hay lắm, hay lắm!" và cũng đã nhận biết thủ pháp của Dương Quá đón chiếc bát là gia số của phái Toàn Chân, bèn hỏi:

– Ngươi quen biết Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ chứ?

Dương Quá nói:

– Hai gã mũi trâu ấy, sao vãn bối lại không quen biết?

Chu Bá Thông thích thú. Lão không ưa bọn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ lắm, vì cho rằng họ có quá nhiều thanh qui giới luật, quá ư cố chấp. Lão bình sinh thán phục nhất, ngoài sư huynh Vương Trùng Dương, có Cửu chỉ thần cái Hồng Thất Công; chứ đối với cái tà của Hoàng Dược Sư và cái khôn khéo của Hoàng Dung, thì lão không ưa. Lúc này nghe Dương Quá gọi Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ là "gã mũi trâu", thì cảm thấy rất hợp ý, lại hỏi:

– Bọn Hách Đại Thông thì sao?

Dương Quá vừa nghe ba tiếng "Hách Đại Thông" đã nổi giận, nói:

– Gã mũi trâu ấy là tên khốn kiếp nhất, thể nào cũng có ngày vãn bối làm cho gã khốn khổ một phen.

Chu Bá Thông càng thích thú hơn, hỏi:

– Ngươi định cho hắn khốn khổ bằng cách nào?

Dương Quá nói:

– Vãn bối sẽ trói chân tay hắn, giúi đầu hắn vào thùng phân nửa ngày.

Chu Bá Thông thích chí, dặn:

– Khi nào ngươi bắt được hắn, đừng vội giúi đầu hắn vào thùng phân, hãy báo cho ta biết, để ta đến xem lén một chút.

Đối với Hách Đại Thông, kỳ thực lão không hề có ác ý, chẳng qua tính lão ham đùa giỡn, thấy người ta giở trò tinh nghịch, quái ác, thì lão tham dự một phần vậy thôi. Dương Quá cười, nói:

– Được, vãn bối nhớ rồi. Nhưng tại sao lão phải xem lén? Lão sợ bọn mũi trâu phái Toàn Chân ư?

Chu Bá Thông thở dài:

– Ta là sư thúc của Hách Đại Thông, để hắn nhìn thấy ta, tất nhiên hắn kêu cứu. Ta không cứu thì áy náy, nên mới phải xem lén.

Dương Quá nghĩ thầm: "Người này võ công cực cao, tính nết thật thà khả ái, nhưng là người của phái Toàn Chân, lại là huynh đệ kết nghĩa của Quách Tĩnh. Đại trượng phu phải tàn bạo, phải tìm cách trừ khử lão ta mới được".

Chu Bá Thông đâu ngờ Dương Quá có ý tàn ác, lại hỏi:

– Bao giờ ngươi đi bắt Hách Đại Thông?

Dương Quá nói:

– Vãn bối sắp đi đây. Lão muốn xem nhiệt náo, thì hãy đi theo vãn bối.

Chu Bá Thông cả mừng, vỗ tay đứng dậy, nhưng lại buồn bã ngồi xuống, nói:

– Không được, ta phải đến thành Tương Dương mất rồi.

Dương Quá hỏi:

– Thành Tương Dương có trò gì vui mà đến đó?

Chu Bá Thông nói:

– Quách huynh đệ có để lại thư ở Lục gia trang cho ta, bảo là đại quân Mông Cổ đánh xuống phía nam, ắt công phá thành Tương Dương. Quách Tĩnh suất lĩnh hào kiệt Trung Nguyên đi cứu viện, dặn ta cũng nên góp sức. Ta tìm y chẳng thấy, đành đến thành Tương Dương vậy.

Hốt Tất Liệt và Kim Luân pháp vương đưa mắt nhìn nhau, nghĩ: "Thì ra phần lớn võ sĩ Trung Nguyên đến thành Tương Dương giúp việc giữ thành".

Vừa lúc ấy, có một hòa thượng trạc tứ tuần, dung mạo nho nhã bước vào trong lều, thần sắc cử chỉ như một thư sinh. Y tới bên Hốt Tất Liệt, hai người chụm đầu, ghé tai nói nhỏ với nhau vài câu. Hòa thượng này là người Hán, pháp danh Tử Thông, là mưu sĩ của Hốt Tất Liệt. Tên tục của y là Lưu Khản, hồi trẻ làm thư lại ở huyện nha, sau xuất gia, học vấn uyên nguyên, thẩm sự tinh tường, Hốt Tất Liệt rất tín nhiệm y. Vừa rồi y được vệ sĩ bẩm báo có dị nhân đến trướng của vương gia, nên y tới xem sao.

Chu Bá Thông vỗ vỗ bụng, nói:

– Này hòa thượng, đứng xê ra một chút để ta nói chuyện với tiểu huynh đệ. Này tiểu huynh đệ, họ tên ngươi là gì?

Dương Quá đáp:

– Vãn bối họ Dương tên Quá.

Chu Bá Thông hỏi:

– Sư phụ ngươi là ai?

Dương Quá đáp:

– Sư phụ của vãn bối là nữ nhân, tướng mạo xinh đẹp võ công cao siêu, nhưng không thích người khác nhắc đến tên mình.

Chu Bá Thông rùng mình, nghĩ đến tình nhân cũ của lão là Anh Cô, thì lập tức không dám hỏi thêm, đứng dậy, giũ giũ chiếc quần, tức thì bụi tung mù mịt trong lều. Tử Thông hắt hơi liền hai cái. Chu Bá Thông khoái chí, đập tay vào quần cho bụi càng bay mạnh hơn, cười to, nói:

– Ta đi đây!

Lão vung tay trái, bốn cái mũi giáo gãy liền bay về phía bốn gã Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá, Doãn Khắc Tây. Bốn cái mũi giáo bay vù vù cực nhanh, ở khoảng cách gần, trong chớp mắt đã bay tới trước mặt bốn người kia.

Bọn Tiêu Tương Tử cả kinh, thấy không thể tránh kịp, đành ai nấy vận kình đón lấy, nào ngờ cả bốn bàn tay giơ ra đều chụp không trúng, chỉ nghe phập phập, bốn cái mũi giáo gãy đã cắm xuống đất. Nguyên bốn cái mũi giáo gãy được phóng đi rất tài tình, khi bay tới trước mặt bốn người kia lập tức quành ngoặt, cắm xuống đất. Mã Quang Tá ngớ ngẩn, cảm thấy thú vị, cười to nói:

– Lão râu dài này diễn nhiều trò hay đáo để!

Tiêu Tương Tử và hai gã còn lại thì kinh hãi tái mặt, nghĩ vừa rồi giơ tay bắt không trúng cái mũi giáo gãy, nếu nó không cắm xuống đất mà cắm vào bụng mình, thì đã mất mạng vào tay đối phương rồi.

Chu Bá Thông đùa cợt thành công với bốn người, cực kỳ đắc ý, quay mình ra khỏi lều. Từ Thông nói:

– Chu lão tiên sinh, thần thông như lão tiên sinh, quả là hiếm có trong thiên hạ. Tiểu tăng xin thay vương gia kính lão tiên sinh một chén.

Nói đoạn y rót một chén rượu mời Chu Bá Thông. Chu Bá Thông uống cạn luôn. Tử Thông rót một chén rượu nữa, mời:

– Tiểu tăng cũng xin kính lão tiên sinh một chén.

Chu Bá Thông lại uống cạn. Từ Thông rót chén thứ ba định mời tiếp, thì Chu Bá Thông bỗng kêu to:

– Ối chao, không hay rồi! Ta đau bụng, buồn ỉa quá!

Lão ngồi xuống, cởi thắt lưng quần, định đại tiện luôn trong lều. Kim Luân pháp vương buồn cười hết nhịn nổi, quát không được ỉa. Chu Bá Thông sững lại, nói:

– Đau bụng quá chừng, song lại không ỉa được!

Dương Quá nhìn Tử Thông một cái, đã hiểu, thì ra trong rượu có độc. Chàng từng có ý tìm cách trừ khử Chu Bá Thông để Quách Tĩnh không có người tài giỏi giúp đỡ, nhưng ác ý đó chỉ thoáng qua, chàng với Lão Ngoan đồng không hề có thù oán, thấy lão hồn nhiên chất phác, rất dễ thân, giờ lão bị trúng kế gian, chàng lại không nỡ, đang định nhắc nhở lão, bảo lão hãy bắt giữ Hốt Tất Liệt để buộc Tử Thông đưa thuốc giải độc, bỗng nghe lão nói:

– Không được, không được, rượu pha ít chất độc quá, ta mới đau bụng thế này. Hòa thượng, mau mau rót cho ta ba chén nữa nào. Càng nhiều độc càng tốt!

Mọi người kinh hãi nhìn nhau. Từ Thông sợ lão ra oai lúc lâm chung, không dám tới gần.

Chu Bá Thông sải bước tới bàn, Kim Luân pháp vương đứng chắn để bảo vệ cho Hốt Tất Liệt, chỉ thấy Chu Bá Thông tay trái giữ cạp quần, tay phải cầm vò rượu độc, ngửa cổ tu ừng ực, không còn một giọt.

Mọi người thất sắc, Chu Bá Thông cười ha hả, nói:

– Ổn rồi, trong bụng bây giờ đầy chất độc, Lão Ngoan đồng hóa thành Lão độc vật rồi chăng? Lấy độc trị độc mà lại.

Đột nhiên lão há mồm, phun thẳng rượu vào mặt Tử Thông. Kim Luân pháp vương thấy thế nguy, vội dựng đứng cái bàn lên, tia rượu độc bắn vào mặt bàn phát ra tiếng rất mạnh.

Chu Bá Thông cười đi ra, đến cửa lều thì nảy ra ý tinh nghịch, cầm cái cột lều mà lay mấy cái, cây cột gãy nghe "rắc" một tiếng, cả khối da bò lợp lều đổ ụp xuống đầu tất cả mọi người. Chu Bá Thông khoái chí chạy qua chạy lại bên trên, giẫm lung tung vào mấy người bị trùm bên dưới. Kim Luân pháp vương ở bên trong vung chưởng đánh ra, trúng vào gan bàn chân Chu Bá Thông, lão cảm thấy một luồng lực cực mạnh đẩy lên, lão bèn lộn một vòng, nói:

– Thú vị, thú vị lắm!

Rồi ung dung bỏ đi.

Khi Kim Luân pháp vương hộ giá Hốt Tất Liệt đứng dậy, bảy tám vệ sĩ kịp dựng lều lên, thì Chu Bá Thông đã đi xa. Kim Luân pháp vương và bọn Tiêu Tương Tử cùng tạ tội với Hốt Tất Liệt, hổ thẹn đã không bảo vệ chu đáo, khiến vương gia bị kinh động.

Hốt Tất Liệt không trách cứ, chỉ không ngớt tán thưởng bản lĩnh của Chu Bá Thông, nói một dị nhân như thế mà không thu nạp được, thật đáng tiếc. Bọn Kim Luân pháp vương thảy đều hổ thẹn.

Bàn tiệc được dọn lại. Hốt Tất Liệt nói:

– Quân đội Mông Cổ mấy phen công thành Tương Dương, vẫn chưa hạ được. Hiện tại hào kiệt Trung Nguyên tập trung giữ thành, lão Chu Bá Thông kia lại tới đó giúp, thật là nan giải. Không biết các vị có diệu kế gì chăng?

Doãn Khắc Tây nói:

– Lão Chu Bá Thông võ công tuy mạnh, song chúng lão nạp cũng chưa hẳn đã yếu hơn lão ta. Vương gia cứ tấn công thành, chúng ta binh đối binh, tướng đối tướng, Trung Nguyên có anh hùng thì Tây Vực cũng có hào kiệt.

Hốt Tất Liệt nói:

– Nói không sai, nhưng cổ nhân có câu "Chưa đánh, số người cho là thắng bao giờ cũng nhiều hơn". Nhưng ta phải tính đến khả năng không thắng.

Tử Thông nói:

– Kiến giải của vương gia vô cùng anh minh..

Lời chưa dứt, bỗng nghe bên ngoài có tiếng người nói to:

– Ta đã bảo không đến là không đến, các ngươi có khẩn khoản mời mọc, cũng vô dụng.

Chính là giọng nói của Chu Bá Thông, không hiểu tại sao lão đã đi rồi, còn quay lại, đang nói với ai đó.

Mọi người nổi tính hiếu kỳ, đều muốn ra ngoài lều xem sao. Hốt Tất Liệt cười, nói:

– Mọi người hãy ra xem, Lão Ngoan đồng lại đùa giỡn với ai vậy.

Mọi người ra ngoài lều, thấy Chu Bá Thông đứng giữa một bãi trống ở phía tây, bốn người khác chia nhau đứng bốn phương vị nam, tây, tây bắc, bắc, vây lão thành hình bán nguyệt, chừa một lối thoát ở mé đông. Chu Bá Thông vung quyền, quát to:

– Không đi, không đi!

Dượng Quá lấy làm lạ: "Lão không muốn đi, thì ai bắt buộc lão được kia chứ? Hà tất phải tranh cãi?" Nhìn bốn người kia, họ đều mặc áo bào màu xanh lá cây, trang phục cổ lỗ, không theo kiểu đương thời, ba người là nam nhân trung niên, đội mũ cao, còn người đứng ở góc tây bắc là thiếu nữ, dải thắt lưng màu lục bay phất phơ trước gió.

Chỉ nghe nam nhân đứng ở mé bắc nói:

– Chúng vãn bối hoàn toàn không có ý gây khó dễ, chỉ vì tôn giá đạp đổ đan lô, giẫm nát linh chi, hủy hoại đạo thư, thiêu hủy kiếm phòng, nên buộc phải thỉnh đại giá tới nói rõ với gia sư; nếu không, gia sư trách cứ thì chúng vãn bối không đương nổi.

Chu Bá Thông cười hi hi, nói:

– Các ngươi cứ về bẩm là có một lão dã nhân đi qua, vô ý gây họa, không được hay sao?

Nam nhân kia nói:

– Tôn giá nhất định không chịu đi phải không?

Chu Bá Thông lắc đầu. Nam nhân kia chỉ tay về phía đông, nói:

– Được, được, gia sư tới đó.

Chu Bá Thông ngoảnh nhìn, không thấy ai. Nam nhân kia giơ tay ra hiệu, bốn người đột nhiên quăng ra một tấm lưới đánh cá màu xám cực lớn, chụp xuống người Chu Bá Thông. Thủ pháp của bốn người ấy hết sức thành thục, lại cổ quái vạn phần, Chu Bá Thông tuy võ công xuất thần nhập hóa, nhưng bị chụp trong lưới, chân tay vướng víu, chỉ biết kêu cha gọi mẹ, bốn người kia quấn lưới thật chặt, rồi một nam nhân vác lão lên vai, ba người kia cầm kiếm hộ vệ, chạy như bay về hướng đông.

Dương Quá lo cho sự an nguy của Chu Bá Thông, nghĩ: "Ta không thể không cứu", bèn đề khí đuổi theo, miệng kêu:

– Các người mang lão ta đi đâu vậy?

Bọn Kim Luân pháp vương thấy chuyện lạ, sao có thể bỏ qua. Họ liền từ biệt Hốt Tất Liệt, chạy đuổi theo. Chạy mấy dặm, đến một dòng mương, bốn người kia khiêng Chu Bá Thông lên một chiếc thuyền, hai người chèo ngược dòng. Mọi người bám theo trên bờ.

Chạy chừng một dặm, thấy có một con thuyền nhỏ, mọi người cùng xuống thuyền.

Mã Quang Tá to khỏe, cầm mái chèo chèo mạnh, phút chốc chỉ còn cách chiếc thuyền kia vài trượng. Nhưng dòng mương uốn khúc mấy chỗ liền, thoáng cái đã không thấy chiếc thuyền kia đâu nữa. Ni Ma Tinh từ dưới thuyền nhảy lên bờ, leo thoăn thoắt mười mấy trượng như khỉ leo vách núi, từ trên nhìn xuống, thấy chiếc thuyền kia rẽ vào một ngách mương rất hẹp ở mé tây, chỗ ấy có một bụi cây lớn um tùm che khuất, nếu không ở trên cao thế này, không thể đoán biết chỗ ấy có một cái hang động.

Ni Ma Tinh trở xuống thuyền, chỉ đường cho mọi người chèo tới chỗ bụi cây lớn, tới nơi thấy cửa động chỉ cao chưa đầy ba thước, mấy người phải cúi rạp xuống, chiếc thuyền mới bơi lọt vào. Chèo một hồi, chỉ thấy hai bên là vách núi dựng đứng, nhìn lên trời chỉ có một khe hẹp bằng đường chỉ. Non xanh nước biếc, cảnh sắc cực kỳ tĩnh mịch, bốn phía lặng ngắt như tờ, đầy vẻ hung hiểm. Lại chèo thuyền vài dặm nữa, trước mặt bỗng có chín tảng đá chắn ngang dòng mương như một tấm bình phong, ngăn không cho thuyền đi qua.

Mã Quang Tá kêu lên:

– Hỏng rồi, thuyền hết đường đi rồi.

Tiêu Tương Tử nói:

– Mã huynh khỏe như vâm, bưng chiếc thuyền qua là xong chứ gì.

Mã Quang Tá bực bội nói:

– Đệ khỏe như vâm, cũng chẳng bằng yêu pháp tử thi của Tiêu huynh.

Kim Luân pháp vương đang nghĩ cách, nghe hai người nói móc nhau, thì nói:

– Sức một người chẳng đưa thuyền qua nổi, nhưng hợp lực cả sáu chúng ta thì được. Dương huynh đệ, Doãn huynh và lão nạp một bên, Ni huynh, Mã huynh và Tiêu huynh ba vị một bên, sáu người cùng nhấc chiếc thuyền qua được chăng?

Mọi người khen phải, cùng lên bờ, tìm chỗ đứng vững chắc, may dòng mương chỗ này rất hẹp, đứng hai bên vươn tay cũng tới mạn thuyền, Kim Luân pháp vương nói:

– Hai, ba nào!

Sáu người cùng khiêng chiếc thuyền lên khỏi mặt nước, đưa qua tấm bình phong bằng đá kia. Mọi người lại xuống thuyền, vỗ tay cười. Sáu người vốn chia thành mấy nhóm, chẳng thân thiện gì với nhau, nhưng sau việc hợp lực khiêng thuyền vừa rồi, họ trở nên thân mật hơn.

Tiêu Tương Tử nói:

– Sáu người bọn ta, công phu tuy khác nhau, nhưng đều là hảo thủ trong võ lâm, cả sáu người hợp lực khiêng một chiếc thuyền, kể không khó, nhưng..

Ni Ma Tinh cướp lời:

– Bốn người kia, ba nam một nữ, võ công thế nào mà cũng khiêng nổi chiếc thuyền qua?

Trong sáu người thì năm người sớm đã thầm ngạc nhiên, chỉ có Mã Quang Tá là chưa hiểu ngụ ý bốn chữ "võ công thế nào". Ni Ma Tinh nói:

– Bốn người ấy khiêng nổi chiếc thuyền qua.. thì họ cũng khỏe đấy.

Doãn Khắc Tây nói:

– Ba nam nhân thì có thể, chứ cô nương mười bảy, mười tám tuổi ấy thì khỏe làm sao được. Vậy tấm bình phong bằng đá kia hẳn có cơ quan, chúng ta nhất thời chưa đoán biết đó thôi.

Kinh Luân pháp vương mỉm cười, nói:

– Không thể chỉ nhìn bề ngoài, như vị Dương huynh đệ của chúng ta đây chẳng hạn, mới chút tuổi đầu đã mang võ công tuyệt đỉnh; nếu chúng ta không tận mắt chứng kiến, chắc chẳng ai tin.

Dương Quá khiêm tốn nói:

– Tiểu đệ mạt học hậu tiến, đâu có gì đáng kể. Bốn người kia có thể bắt trói Chu Bá Thông, hẳn có chỗ hơn người.

Chàng lời lẽ thì khiêm tốn, nhưng giọng nói như thể ngang hàng với bọn Tiêu Tương Tử. Mọi người từ lúc thấy chàng dùng một ngón tay đón chiếc bát Chu Bá Thông quăng tới, đã không dám coi thường chàng nữa, bây giờ nghe lời chàng có lý, đều cùng suy đoán.

Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá ba người luôn ở Tây Vực, Tiêu Tương Tử thì độc tu ở hoang sơn, ít giao thiệp với người bên ngoài; chỉ có Doãn Khắc Tây am hiểu sâu rộng về môn phái, nhân vật, võ công của võ lâm Trung Nguyên; nhưng đối với lai lịch của bốn người áo xanh kia, Doãn Khắc Tây cũng không biết gì. Mải nói chuyện, họ đã đi đến đầu dòng mương. Sáu người nhảy lên bờ, theo con đường mòn đi sâu vào thâm cốc.

Con đường độc đạo càng lúc càng lên cao, trời sắp tối vẫn chưa thấy bóng bốn người kia đâu. Đang nóng lòng sốt ruột, bỗng thấy phía xa có mấy đống lửa, mọi người vui mừng, cùng nghĩ: "Giữa chốn hoang sơn cùng cốc, có ánh lửa tức là có nhà ở, ngoài mấy người áo xanh kia, ít ai chui vào sống ở chốn này".

Họ liền chạy vội, thầm biết thân nhập hiểm địa, cần tự phòng bị. Nhưng ai cũng từng ngang dọc giang hồ, từng trải hung hiểm, bây giờ sáu cao thủ cùng đi với nhau, thiên hạ ai dám ngăn? Tuy họ đề phòng, nhưng không hề run sợ.

Đi một lúc, thì đến một chỗ đất rộng trên đỉnh núi, thấy có một đống lửa cực lớn cháy rừng rực; lại gần vài chục trượng, mọi vật đã nhìn rõ như ban ngày; phía sau đống lửa là một tòa thạch thất.

Ni Ma Tinh gọi to:

– Này, có khách tới đó! Các người mau ra đón.

Cửa thạch thất từ từ mở, từ phía trong bước ra ba nam một nữ, chính là bốn người áo xanh đã bắt Chu Bá Thông. Họ cúi mình hành lễ, người ở mé bên phải nói:

– Quý khách từ xa lặn lội đến, chưa kịp nghênh tiếp thật áy náy.

Kim Luân pháp vương nói:

– Nói hay, nói hay.

Người kia tiếp:

– Mời các vị vào nhà.

Bọn Kim Luân pháp vương sáu người bước vào thạch thất, thấy bên trong rộng rãi, trừ vài bộ bàn ghế, không có trần thiết gì khác. Bốn người áo xanh ngồi ở vị trí chủ nhà. Một người nói:

– Không dám thỉnh vấn quý tính đại danh các vị.

Doãn Khắc Tây mau miệng, cười hi hi, giới thiệu thân phận năm người, cuối cùng nói:

– Tại hạ là Doãn Khắc Tây, là người Hồ ở Ba Tư, bản sự của tại hạ, ngoài ăn uống ra, còn biết phân biệt báu vật châu ngọc, chứ không có tuyệt kỹ như năm vị huynh đệ đồng hành.

Người kia nói:

– Tệ xứ hoang dã vắng vẻ, chưa từng có ai tới đây; hôm nay quý khách giáng lâm, quá ư hân hạnh. Không rõ sáu vị có việc gì?

Doãn Khắc Tây cười, đáp:

– Bọn ta thấy bốn vị bắt Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông thì nổi tính hiếu kỳ, đến xem thế thôi. Nơi này cảnh sắc u nhã, được ngắm một phen, không uổng công lặn lội.

Một người áo xanh nói:

– Thì ra kẻ phá rối đó là lão già họ Chu, kể mang tên Lão Ngoan đồng cũng phải.

Người áo xanh thứ hai nói:

– Các vị đồng hành với lão ta chăng?

Kim Luân pháp vương nói:

– Bọn ta hôm nay gặp lão ấy lần đầu, không hề có giao tình.

Người áo xanh thứ nhất nói:

– Lão Ngoan đồng tự tiện xông vào tuyệt cốc, ngang ngược phá phách vô lối.

Kim Luân pháp vương hỏi:

– Lão Ngoan đồng phá phách những gì? Nghe các vị nói, thì là xé sách, đốt nhà phải không?

Người áo xanh nói:

– Đúng vậy. Vãn bối vâng lệnh gia sư trông coi đan lô (lò luyện thuốc), tự dưng lão già đó lọt vào phòng, nói huyên thuyên đủ chuyện, lại đòi đánh cuộc với vãn bối, cứ như một kẻ điên điên khùng khùng. Mẻ thuốc trong lò đang hồi quyết định, vãn bối không thể lơ là, chỉ chăm chú vào công việc, không nghe lão ta dông dài; ai ngờ đột nhiên lão ta tung chân đá đổ đan lô. Phải cả năm mới hái được ngần ấy vị thuốc, lão ta đạp đổ trong giây lát.

Giọng nói và sắc mặt đầy vẻ bực bội.

Dương Quá cười, nói:

– Lão ta còn trách các hạ không tiếp chuyện lão chứ gì?

Thiếu nữ áo xanh nói:

– Đúng vậy. Tiểu nữ đang ở phòng Linh chi, nghe tiếng ầm ĩ bên phòng luyện đan, đoán là có chuyện, đang định qua đó xem sao, thì lão quái ấy vọt sang, giơ tay đánh gãy cây nấm linh chi đã hơn bốn trăm tuổi.

Dương Quá thấy thiếu nữ trạc mười bảy, mười tám, da trắng nõn trắng nà, mắt đen láy, bên miệng có một cái nốt ruồi đen nhỏ, bèn nói:

– Lão Ngoan đồng đúng là làm loạn, cây nấm linh chi hơn bốn trăm tuổi của người ta là vật quí như thế mà đem đánh gãy.

Thiếu nữ thở dài:

– Phụ thân của tiểu nữ định để dành sẽ uống vào hôm tân hôn với kế mẫu của tiểu nữ, ai ngờ bị Lão Ngoan đồng hủy hoại, khỏi nói cũng biết phụ thân của tiểu nữ tức giận tới mức nào. Lão Ngoan đồng bẻ gãy cây nấm, nhét vào trong túi, nói thế nào cũng không chịu trả lại, còn cười hô hố. Tiểu nữ không hề đắc tội với lão ta, không hiểu tại sao lão ta bỗng dưng vô cớ lại gây rắc rối với tiểu nữ.

Nói rồi nước mắt lưng tròng, có vẻ rất oan ức.

Dương Quá nghĩ: "Lão Ngoan đồng lẽ ra không nên bắt nạt một thiếu nữ như nàng".

Doãn Khắc Tây nói:

– Xin hỏi danh hiệu của lệnh tôn. Bọn ta vô ý xông vào, ngay họ tên của chủ nhân cũng chưa biết, thật là vô lễ.

Thiếu nữ chần chừ chưa đáp. Người áo xanh thứ nhất nói:

– Chưa được phép cốc chủ, không tiện nói ra, mong quí khách lượng thứ.

Dương Quá nghĩ: "Những người này ẩn cư chốn hoang cốc, hành tung kỳ bí, không chịu tiết lộ thân phận với người ngoài". Chàng hỏi:

– Lão Ngoan đồng lấy nấm linh chi đi, rồi sao?

Người áo xanh thứ ba nói:

– Lão già họ Chu gây sự ở phòng đan lô và phòng linh chi, sau đó nhảy sang thư phòng, cướp một quyển sách giở xem. Tại hạ trông coi ở đó, đành xuất thủ ngăn cản. Lão ta nói: "Mấy đứa con nít này không biết đùa gì cả, chán mớ đời!" Lão xé nát liền ba quyển sách đạo. Bấy giờ đại sư huynh, nhị sư huynh và sư muội cùng tới, bốn chúng tôi hợp lực cũng không ngăn nổi lão.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Lão Ngoan đồng tính nết quái dị, võ công cao cường, đâu dễ ngăn cản.

Người áo xanh thứ hai nói:

– Lão ta gây sự ở phòng đan lô, phòng linh chi, thư phòng rồi, lại xông vào kiếm phòng, nơi cất giữ rất nhiều loại binh khí, lão ta phóng hỏa, làm cháy rụi mất bức họa trên tường. Chúng tôi bận lo cứu hỏa, lão ta thừa cơ chuồn mất. Chúng tôi nghĩ việc này không nhỏ, nên phải đuổi theo ra khỏi tuyệt cốc, bắt về giao cho cốc chủ phát lạc.

Dương Quá nói:

– Không biết cốc chủ xử trí ra sao, nhưng mong rằng đừng làm hại đến tính mạng lão ta.

Người áo xanh thứ ba nói:

– Gia sư sắp đến ngày tân hôn, chắc sẽ không giết người. Nhưng nếu lão già đó cứ tiếp tục nói năng bậy bạ, nói những lời chướng tai đắc tội với gia sư, thì lão ta không thể trách người khác.

Doãn Khắc Tây cười, nói:

– Không biết Lão Ngoan đồng nói điều gì nghịch ý gây khó dễ với tôn sư vậy? Ta thấy lão tuy ngang ngược tinh nghịch, nhưng tính nết đâu đến nỗi nào.

Thiếu nữ áo xanh nói:

– Lão ta bảo phụ thân của tiểu nữ đã nhiều tuổi, mà còn đi cưới..

Vị đại sư huynh của nàng vội xen vào:

– Lão Ngoan đồng ấy nói năng vớ vẩn, chẳng có gì đáng nghe. Các vị từ xa đến, chắc đã đói bụng, để vãn bối gọi cơm.

Mã Quang Tá nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Mặt y tươi tỉnh hẳn lên.

Bốn người áo xanh vào bếp, lát sau bưng mâm cơm ra, có bốn món là rau cải xanh, đậu phụ trắng, giá vàng và nấm đông cô đen, không có gì là chất tanh.

Mã Quang Tá từ bé đến giờ, bữa ăn nhất thiết phải có thịt, nhìn bốn món không có chút dầu mỡ gì thì rất thất vọng. Người áo xanh thứ nhất nói:

– Ở đây chúng tôi hoàn toàn ăn chay, mong quí khách lượng thứ cho, xin mời dùng bữa.

Rồi bưng ra một bình nước trắng, rót đầy vào từng bát trước mặt mỗi người. Mã Quang Tá nghĩ: "Đã không có thịt, uống vài ngụm rượu cũng được". Bèn bưng bát lên uống, thấy nhạt nhẽo vô vị, bèn nói to:

– Chủ nhà keo kiệt quá chừng, một ngụm rượu cũng chẳng có.

Người áo xanh thứ nhất nói:

– Ở đây không được phép uống rượu, đấy là tổ huấn đã mấy trăm năm nay, mong quí khách lượng thứ.

Thiếu nữ nói:

– Chúng tôi cũng chỉ thấy hai chữ "mỹ thư" trong thư phòng, còn "mỹ tửu" là thế nào, chưa ai được nhìn thấy. Trong sách viết rằng rượu có thể gây loạn tính, thiết tưởng không phải là món hay.

Bọn Kim Luân pháp vương, Doãn Khắc Tây thấy bốn người áo xanh cử chỉ nói năng cổ hủ, hơn nữa từ đầu tới giờ chưa thấy họ cười lần nào, nhìn diện mạo của họ không có gì đáng ghét, nhưng lời lẽ hết sức vô vị. Quả là "nói chuyện không hợp, nửa câu đã nhiều" ai nấy không nói nữa, cúi đầu ăn cơm. Bốn người áo xanh lui ra, không thấy trở vào.

Ăn xong, Mã Quang Tá muốn trở về ngay. Nhưng năm người còn lại thấy ở đây có nhiều chỗ bí hiểm, muốn tìm biết ngọn nguồn. Doãn Khắc Tây khuyên:

– Mã huynh, chúng ta đã tới được đây, ngày mai còn gặp cốc chủ cái đã, sao lại bỏ về giữa chừng?

Mã Quang Tá càu nhàu:

– Không có rượu thịt gì, chẳng phải là định hành hạ nhau hay sao? Sống kiểu này, nửa ngày ta cũng chả thiết.

Tiêu Tương Tử nói:

– Mọi người đều ở lại, một mình ngươi định làm trái hả?

Mã Quang Tá nhìn diện mạo đáng sợ của Tiêu Tương Tử, không dám nói gì thêm.

Đêm ấy sáu người ngủ lại trong thạch thất. Dưới đất có mấy cái chiếu cỏ; cảm thấy mọi thứ ở đây đều bất cận nhân tình, so ra còn nghiêm lạnh hơn cả miếu mạo. Ở miếu mạo tuy ăn chay, song không lạnh nhạt với khách như ở đây. Chỉ có Dương Quá đã quen ở trong tòa cổ mộ, quen với thái độ lạnh nhạt của Tiểu Long Nữ, là không thấy lạ mà thôi. Ni Ma Tinh lẩm bẩm:

– Lão Ngoan đồng đốt nhà của bọn họ đi là phải lắm!

Lời này được Mã Quang Tá tán đồng ngay. Ni Ma Tinh nói:

– Kim Luân lão huynh, lão huynh đứng đầu sáu người chúng ta, theo lão huynh thì cốc chủ là người như thế nào, có tử tế hay không? Ngày mai chúng ta sẽ khách sáo với hắn, hay là nện cho hắn một trận.. nên thân?

Kim Luân pháp vương nói:

– Lộ số của cốc chủ thế nào, lão nạp cũng như các vị thôi, khó đoán biết. Ngày mai chúng ta cứ tùy cơ hành sự.

Doãn Khắc Tây nói nhỏ:

– Bốn kẻ áo xanh võ công không kém, ở đây hẳn có cao thủ. Mọi người hãy thận trọng, sơ ý một chút, sáu người bọn ta bị hãm thân chốn này thì nguy đấy.

Mã Quang Tá vẫn còn lẩm bẩm về chuyện cơm rau khó nuốt, không để ý đến lời người khác. Dương Quá nói với y:

– Ngày mai các hạ không cẩn thận, để họ bắt nhốt suốt đời e rằng chỉ cơm rau nước lã cũng không được no đâu..

Mã Quang Tá giật mình, nói:

– Hảo huynh đệ, ta nghe, ta nghe mà.

Đêm ấy mọi người thân lâm hiểm địa, giấc ngủ chập chờn, chỉ một mình Mã Quang Tá ngáy như sấm, đôi lúc nói mơ rất to:

– Nào, nào, cạn chén! Món thịt bò này ngon tuyệt!

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 17: Tuyệt Tình cốc

Sáng hôm sau Dương Quá tỉnh dậy sớm, ra khỏi thạch thất. Tối qua không nhìn rõ, nguyên nơi này bốn bề thảo mộc hoa lá xanh tươi, đường tới đây cảnh vật đã đẹp, nơi này phong cảnh lại càng mỹ lệ hiếm có. Chàng thả bộ mà đi, thấy bên đường mấy con hạc tiên tha thẩn, lũ hươu trắng từng đàn, lũ thỏ nhởn nhơ không hề sợ người. Qua hai khúc quành, thấy thiếu nữ áo xanh đang hái hoa bên đường, gặp chàng, nàng ta giơ tay vẫy, nói:

– Các hạ dậy sớm thế, hãy lại đây dùng món điểm tâm đã nào.

Rồi nàng hái mấy bông hoa đưa cho chàng.

Dương Quá nhận hoa, nghĩ: "Không lẽ hoa cũng ăn được ư?" Thấy thiếu nữ ngắt các cánh hoa cho vào miệng, chàng cũng bắt chước làm theo, nhai vài cái, miệng vừa thơm vừa ngọt như mật ong, hơi có vị hăng hăng của rượu, cảm thấy lâng lâng khoan khoái. Nhưng nuốt xuống thì chợt thấy đắng chát, nửa muốn nhổ đi, nửa tiếc rẻ, nếu nuốt vào bụng, e khó trôi.

Chàng nhìn kỹ bông hoa, thấy cành và lá đầy gai, màu sắc của cánh hoa thì đẹp vô ngần, tựa như phù dung nhưng thơm hơn, như sơn trà nhưng đẹp hơn, hỏi:

– Là hoa gì vậy? Tại hạ chưa từng gặp.

Thiếu nữ đáp:

– Cái này gọi là hoa Tình, nghe đâu hiếm có trên thế gian. Các hạ thấy ăn có ngon không?

Dương Quá nói:

– Thoạt đầu cực ngọt, sau lại đắng. Gọi là hoa Tình ư? Cái tên nghe lạ quá.

Nói đoạn giơ tay ngắt hoa. Thiếu nữ nói:

– Cẩn thận! Cây có nhiều gai, khéo kẻo bị gai đâm!

Dương Quá tránh gai nhọn ở cành, thận trọng thò tay vào, nào ngờ phía sau đài hoa cũng có gai, đâm ngay vào ngón tay chàng. Thiếu nữ nói:

– Thung lũng này gọi là Tuyệt Tình cốc, hoa Tình mọc ở khắp nơi.

Dương Quá nói:

– Vì sao gọi là Tuyệt Tình cốc? Tên gọi quả là.. quả là bất phàm.

Thiếu nữ lắc đầu, nói:

– Tiểu nữ cũng không biết vì sao. Cái tên ấy do tổ tông truyền lại, có lẽ phụ thân của tiểu nữ biết lai lịch.

Hai người sánh vai nhau, vừa đi vừa trò chuyện. Dương Quá ngửi thấy mùi hoa thơm từng đợt từng đợt thoảng tới, lại nhìn đàn hươu, bầy thỏ trắng nhởn nhơ khả ái, cảm thấy vô cùng khoan khoái, tự nhiên nhớ đến Tiểu Long Nữ: "Ước gì có cô cô ở bên cạnh ta, thì ta nguyện vĩnh viễn ở chốn này, không ra khỏi Tuyệt Tình cốc". Vừa nghĩ đến đó, chỗ bị gai đâm đột nhiên đau nhói, buốt lên tận óc, còn ngực thì như bị ai giáng mạnh một chùy vậy. Chàng không nén được, buột miệng kêu ối một tiếng và đưa ngón tay đau lên miệng mà mút chặt.

Thiếu nữ hững hờ hỏi:

– Vừa nghĩ đến ý trung nhân phải không?

Dương Quá bị nàng đoán trúng tâm sự, thì đỏ mặt, ngạc nhiên, hỏi:

– Sao cô nương biết?

Thiếu nữ nói:

– Thân thể bị trúng gai hoa Tình, trong vòng mười hai canh giờ không được nhớ thương ai cả, nếu không sẽ khổ sở vô cùng.

Dương Quá kinh ngạc, nói:

– Thiên hạ lại có chuyện kỳ lạ thế ư?

Thiếu nữ nói:

– Phụ thân tiểu nữ bảo, ái tình là thế, ban đầu ngọt ngào, sau đó cay đắng; hơn nữa, toàn những gai là gai như thế này, người ta có cẩn thận mấy cũng khó tránh bị gai đâm. Loại hoa Tình chắc rất đặc biệt, mới được đặt tên như vậy.

Dương Quá hỏi lại:

– Như thế là trong vòng mười hai canh giờ không được.. không được.. động tình tương tư?

Thiếu nữ nói:

– Phụ thân bảo trong gai hoa Tình có độc. Phàm người nào nghĩ đến ái tình, tình dục, huyết mạch không chỉ tăng nhanh, mà trong máu còn sinh ra chất gì đó. Chất độc của gai hoa Tình lúc bình thường thì vô hại, nhưng gặp chất kia trong máu sẽ lập tức làm cho người ấy đau đớn không chịu nổi.

Dương Quá nghe nàng nói vài phần có lý, nên bán tín bán nghi.

Hai người thong thả đi tới sơn dương, chỗ này ánh nắng chan hòa, địa khí ấm áp, hoa Tình nở sớm hơn, hiện giờ đã kết trái. Chỉ thấy trái Tình hoặc xanh hoặc đỏ, hoặc nửa xanh nửa đỏ, trái nào cũng đầy lông, trông như sâu róm. Dương Quá nói:

– Hoa Tình đẹp thế, mà kết thành trái thì lại khó coi quá chừng.

Thiếu nữ nói:

– Quả Tình đúng là không ai muốn ăn, có trái chua, có trái chát, có trái rất hôi, ngửi đã buồn nôn.

Dương Quá cười, nói:

– Chẳng lẽ không có trái nào ngọt như đường hay sao?

Thiếu nữ nhìn chàng, nói:

– Kể cũng có, nhưng nhìn vỏ thì không thể đoán biết. Có trái nhìn bên ngoài xấu xí vô cùng, nhưng bên trong lại ngọt. Nói chung mười trái, thì chín đắng chát, cho nên mọi người không ăn.

Dương Quá nghĩ: "Gọi là hoa Tình, thực ra là ví von ái tình nam nữ. Chẳng lẽ nỗi tương tư mới đầu ngọt ngào, sau đó nhất định đắng chát hay sao? Chẳng lẽ một đôi nam nữ luyến ái nhau, rốt cuộc đẹp ít xấu nhiều hay sao? Chẳng lẽ nỗi nhớ cô cô của ta, sau này.."

Chàng vừa nhớ đến Tiểu Long Nữ, đột nhiên ngón tay lại đau buốt, bất giác phải vẩy vẩy mấy cái, nghiệm ra lời thiếu nữ nói quả không sai. Thiếu nữ nhìn bộ dạng của chàng, khóe miệng như sắp cười, song lại thôi. Lúc này ánh ban mai chiếu chênh chếch vào khuôn mặt nàng, thấy rõ đôi mắt đen láy, nước da trắng hồng, trông thật kiều diễm. Dương Quá cười, nói:

– Tại hạ từng nghe kể, xưa có một vị quốc vương đem đại binh đi chinh phục chư hầu, chẳng qua chỉ để thấy được nụ cười của một giai nhân tuyệt thế. Đủ biết khó có được nụ cười đến chừng nào, hóa ra thời nay cũng vậy.

Thiếu nữ bị Dương Quá trêu chọc, không nhịn được, phải bật cười một tiếng.

Dương Quá thấy nàng vốn lạnh lùng, nên ba phần e ngại; giờ thấy nàng cười, sự ngăn cách giữa hai người chỉ còn phân nửa. Chàng lại nói:

– Thiên hạ đều biết khó thấy được nụ cười của mỹ nhân, còn bảo cười một tiếng nghiêng thành, cười tiếng nữa nghiêng nước, song tại hạ chưa thấy mỹ nhân nào có được nụ cười như vừa rồi.

Thiếu nữ tròn mắt nhìn nhìn Dương Quá, nói:

– Thật vậy ư?

Dương Quá tiếp:

– Được gặp mỹ nhân đã là có duyên phận rất lớn, muốn được thấy nàng cười, tổ tông phải tích đức, bản thân cũng phải tu hành ba kiếp..

Chàng chưa nói xong, thiếu nữ đã cười khanh khách. Dương Quá nghiêm trang nói:

– Nếu được mỹ nhân thổ lộ phương danh, thì tổ tông phải mười tám đời tích âm công.

Thiếu nữ nói:

– Tiểu nữ không phải là mỹ nhân, ở đây chưa một ai bảo tiểu nữ là mỹ nhân cả, các hạ chẳng nên chế giễu như thế.

Dương Quá thở dài, nói:

– Ồ, chẳng trách sơn cốc gọi là Tuyệt Tình cốc, tại hạ cho rằng nên đổi tên đi thì hơn.

Thiếu nữ hỏi:

– Đổi tên là gì?

Dương Quá nói:

– Phải gọi là Manh Nhân cốc.

Thiếu nữ ngạc nhiên nói:

– Vì sao?

Dương Quá nói:

– Cô nương xinh đẹp thế này, mà người ta không tán thưởng cô nương, chẳng phải là người ở đây mù cả rồi sao?

Thiếu nữ lại cười khanh khách. Thực ra, dung mạo nàng tuy rất đẹp, nhưng so với Tiểu Long Nữ thì còn thua xa; so với sự dịu dàng của Trình Anh và sự uyển chuyển của Lục Vô Song cũng chưa bằng; có điều là nàng tú nhã thoát tục, đặc biệt trong trắng. Cả đời nàng quả thật chưa nghe ai khen nàng xinh đẹp; bởi lẽ mọi người ở đây dường như chuyên luyện thiền môn, tất cả nhìn nhau bằng con mắt lạnh lùng thản nhiên, người bên cạnh dù có cảm thấy nàng xinh đẹp, cũng chẳng dám mở miệng tán dương. Hôm nay nàng gặp Dương Quá, một người tinh nghịch, nàng càng nghiêm trang càng bị trêu chọc thêm. Nàng nghe lời nói của chàng, trong bụng vui thích, nhưng ngoài miệng lại nói:

– Chỉ sợ các hạ mới là người mù, đi gọi người xấu xí là mỹ nhân.

Dương Quá nghiêm mặt, nói:

– Có thể lắm. Nhưng tại hạ muốn sửa câu "nghiêng nước nghiêng thành" thành "nghiêng cả sơn cốc".

Thiếu nữ hơi cúi người, cười nói:

– Đa tạ các hạ, đừng trêu tiểu nữ nữa, được chăng?

Dương Quá nhìn cử chỉ của nàng đáng yêu, trong lòng chợt xúc động, không ngờ lòng vừa động theo hướng kia, thì ngón tay gai đâm lại buốt nhói.

Thiếu nữ thấy chàng vẩy vẩy ngón tay thì hơi khó chịu, nói:

– Tiểu nữ nói chuyện với các hạ, mà các hạ lại chỉ nhớ đến ý trung nhân của mình.

Dương Quá nói:

– Oan quá chừng! Tại hạ bị đau tay vì cô nương, thế mà cô nương còn trách cứ.

Thiếu nữ đỏ mặt; đột nhiên bỏ chạy.

Dương Quá nói xong liền hối hận: "Ta đã một lòng với cô cô, sao cái tính ấy vẫn không chịu sửa kia chứ? Dương Quá ơi là Dương Quá, mi chớ có nói nhăng nói cuội nữa". Chàng đúng là có ba phần cái tính khinh bạc vô lại của kẻ nam tử, tuy không có ý xấu nhưng hễ gặp thiếu nữ là lại cười nói mấy câu lả lơi, làm cho người ta ý loạn tình mê, tưởng chàng thích họ.

Thiếu nữ chạy đi mấy trượng, dừng lại cạnh một cây hoa Tình, đứng cúi đầu ngơ ngẩn hồi lâu, rồi ngoảnh đầu lại, mỉm cười, nói:

– Nếu một người xấu xí nói cho các hạ biết tên, chắc hẳn tổ tông mười tám đời của các hạ làm nhiều việc tồi tệ nên con cháu phải gánh hậu họa.

Dương Quá bước lại gần, cười, nói:

– Cô nương quả ưa nói ngược. Tổ tông mười tám đời của tại hạ làm rất nhiều việc tốt, nên tại hạ mới được hưởng đó.

Câu này lại tán dương cái đẹp của đối phương. Thiếu nữ hơi đỏ mặt, nói nhỏ:

– Thì tiểu nữ nói cho các hạ biết, nhưng các hạ không được nói lại cho người thứ hai, càng không gọi tên tiểu nữ trước mặt người khác đấy.

Dương Quá thè lưỡi, nói:

– Vô lễ với mỹ nhân, tại hạ sẽ bị tuyệt tự.

Thiếu nữ lại mỉm cười, nói:

– Phụ thân của tiểu nữ họ Công Tôn..

Thiếu nữ vẫn chưa chịu nói tên của mình ra luôn, lại vòng vo. Dương Quá liền chen vào:

– Thế cô nương tên là gì?

Thiếu nữ mỉm cười, nói:

– Tiểu nữ không biết đâu. Phụ thân tiểu nữ từng đặt cho đứa con gái độc nhất cái tên Lục Ngạc.

Dương Quá tán dương:

– Quả nhiên tên cũng đẹp như người.

Công Tôn Lục Ngạc nói tên ra rồi, hai người lại thân mật thêm vài phần. Nàng nói:

– Khi phụ thân tiểu nữ tiếp các hạ, các hạ chớ có nhìn tiểu nữ mà cười đấy.

Dương Quá nói:

– Cười thì sao?

Công Tôn Lục Ngạc thở dài:

– Ôi, nếu phụ thân tiểu nữ biết tiểu nữ cười vui với các hạ, lại biết tiểu nữ nói tên cho các hạ, thì không rõ phụ thân sẽ trách phạt tiểu nữ thế nào?

Dương Quá nói:

– Chưa nghe có người cha nào nghiêm khắc như vậy, con mình cười một tiếng với người khác cũng không được. Một người con gái như hoa như ngọc, chẳng lẽ người cha cũng không thương yêu hay sao?

Công Tôn Lục Ngạc nghe chàng nói vậy, bất giác rưng rưng lệ, nói:

– Hồi tiểu nữ còn bé, phụ thân rất yêu tiểu nữ, nhưng sau khi mẫu thân tiểu nữ mất đi, phụ thân đối với tiểu nữ ngày càng nghiêm khắc. Không hiểu sau khi phụ thân lấy người vợ mới, phụ thân sẽ đối với tiểu nữ ra sao đây?

Nói xong, hai giọt lệ ứa ra. Dương Quá an ủi:

– Phụ thân cô nương cưới vợ mới xong sẽ vui sướng, nhất định sẽ đối xử tốt hơn với cô nương.

Công Tôn Lục Ngạc lắc đầu:

– Thà phụ thân đối xử tệ, cũng còn hơn là đi cưới vợ mới.

Dương Quá sớm mồ côi cha mẹ, không hiểu tâm trạng này lắm, cố ý nói đùa cho nàng ta vui:

– Kế mẫu của cô nương chắc là chẳng đẹp bằng một nửa cô nương.

Công Tôn Lục Ngạc vội nói:

– Các hạ nhầm rồi, kế mẫu của tiểu nữ mới đúng là mỹ nhân. Phụ thân vì nàng ta.. vì nàng ta.. nên đêm qua.. nếu không vì bận lo hôn sự, đời nào phụ thân để cho cái Lão Ngoan đồng kia trốn thoát.

Dương Quá vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, hỏi:

– Lão Ngoan đồng trốn thoát rồi ư?

Công Tôn Lục Ngạc hơi nhíu mày, nói:

– Còn không phải thế sao?

Hai người trò chuyện một hồi, mặt trời lên cao dần, Công Tôn Lục Ngạc chợt giật mình, nói:

– Các hạ mau về đi, đừng để các sư huynh thấy hai ta nói chuyện với nhau, họ sẽ mách phụ thân.

Dương Quá cảm thấy thương hại cho hoàn cảnh của nàng, tay trái nắm tay nàng, tay phải vỗ nhẹ lưng nàng vài cái tỏ ý an ủi. Ánh mắt Công Tôn Lục Ngạc lộ vẻ cảm kích, nàng cúi đầu, đột nhiên đỏ mặt. Dương Quá chỉ sợ nhớ đến Tiểu Long Nữ, ngón tay sẽ đau, vội trở về thạch thất.

Dương Quá chưa bước vào cửa đã nghe tiếng Mã Quang Tá lớn tiếng phàn nàn, rằng chỉ có ăn chay uống nước lã làm sao no bụng, rồi mấy bông hoa ngọt chẳng ra ngọt, đắng chẳng ra đắng, cũng bảo người ta ăn, thật chẳng ra sao. Doãn Khắc Tây cười, nói:

– Mã huynh, có bảo bối gì thì thu vén lại đi, đệ cho rằng cốc chủ không có chút thiện ý nào đâu.

Mã Quang Tá không biết y trêu chọc, cứ gật gù khen phải. Dương Quá bước vào, thấy có mấy bát hoa Tình để trên cái bàn đá, mấy người kia vừa ăn vừa nhăn nhăn nhó nhó, ngay cả đại hòa thượng Kim Luân pháp vương cũng phải xơi món hoa Tình, thì không khỏi buồn cười.

Chàng uống hai chén nước trắng, nghe ngoài cửa có tiếng bước chân, rồi một người áo xanh tiến vào, chắp tay cúi mình nói:

– Cốc chủ thỉnh sáu vị quí khách tương kiến.

Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh đều là tông sư một phái, bất kể đến đâu, chủ nhân cũng phải đích thân nghênh tiếp, ngay cả vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt cũng hết mực kính trọng, không ngờ đến chốn thâm sơn cùng cốc này, chủ nhân lại đối đãi vô lễ, ai nấy đều tức giận, nghĩ thầm: "Lát nữa gặp lão cốc chủ khốn kiếp, sẽ cho hắn biết tay".

Sáu người theo gã áo xanh đi ra sau núi, đi hơn một dặm, bỗng thấy trước mặt một rừng trúc xanh mướt. Trúc ở phương bắc hiếm gặp, nơi đây là cả một cánh rừng, thật hiếm có. Họ đi xuyên qua rừng trúc, ngửi từng đợt hương hoa thoang thoảng, cảm giác phiền tục tan biến hết. Qua rừng trúc, trước mắt trải ra một rừng hoa thủy tiên thơm mát, thì ra có một cái hồ sâu chưa đến một thước, mọc đầy hoa thủy tiên. Loài hoa này vốn của phương nam, không hiểu sao lại có mặt trên đỉnh núi này. Kim Luân pháp vương nghĩ: "Bên dưới núi này phải có suối nước nóng, địa khí mới đặc biệt ấm áp".

Trên hồ cứ cách bốn, năm thước lại cắm một cái cọc gỗ. Gã áo xanh dẫn đường nhảy trên các cọc gỗ mà qua. Sáu người làm theo. Riêng Mã Quang Tá thân xác nặng nề, khinh công lại kém, nhảy được vài cái cọc rồi thì lội phắt xuống hồ mà đi.

Đi hết một đoạn đường lát đá xanh, thấy một tòa thạch thất cực lớn. Bảy người tới gần thấy có hai tiểu đồng tay cầm cây phất trần đứng trước cửa. Một tiểu đồng đi vào bẩm báo, một tiểu đồng mở cửa đón khách. Dương Quá nghĩ: "Không biết cốc chủ có ra đón hay không?" Vừa lúc đó từ trong bước ra một lão nhân râu dài mặc áo xanh.

Lão nhân quá lùn, thân cao chưa đến bốn thước, ngũ nhạc hếch lên trời, tướng mạo kỳ quái, lạ nhất là bộ râu dài chấm đất, mặc chiếc áo màu xanh sẫm, thắt cái dây lưng bện bằng cỏ, diện mạo cực kỳ cổ quái. Dương Quá nghĩ: "Cốc chủ quái mạo thế này mà lại sinh được một cô con gái xinh đẹp". Lão nhân vái dài sáu người, nói:

– Quí khách quang lâm, thật là hân hạnh, mời vào trong dùng trà.

Mã Quang Tá nghe chữ "trà", liền cau mày, nói to:

– Uống trà à? Chỗ nào chẳng có trà? Hà tất phải đến đây uống?

Lão nhân không hiểu ý, nhìn y, cúi mình nhường khách.

Ni Ma Tinh nghĩ: "Mình đã lùn, lão ta còn lùn hơn. Cùng lùn, nhưng để xem võ công ai mạnh hơn". Ni Ma Tinh bước lên trước, chìa tay, nói:

– Hân hạnh, hân hạnh.

Y bắt tay lão nhân, sử hai phần kình lực. Mọi người thấy họ bắt tay nhau, đều lui lại mấy bước, nên biết hai đại cao thủ đấu lực với nhau không phải chuyện thường.

Ni Ma Tinh thoạt tiên sử hai phần kình lực, cảm thấy đối phương không chống cự, cũng không hoàn kích, hơi lấy làm lạ, thêm hai phần kình lực, chỉ cảm thấy như nắm vào một khúc gỗ cứng. Y bèn tăng thêm hai phần kình lực nữa, thấy mặt lão nhân thoáng qua một lớp khí màu xanh, bàn tay kia cứng như sắt. Y kinh dị, còn mấy phần kình lực không dám sử nốt, sợ đối phương đột nhiên phản kích, mình không kịp chống đỡ, miệng cười ha ha, buông tay lão nhân ra.

Kim Luân pháp vương đi thứ hai, nhìn bộ dạng Ni Ma Tinh, biết y chưa phát hiện được bản lĩnh nông sâu của lão nhân, nghĩ mình không nên mù quáng xuất thủ, bèn chắp hai tay vào nhau, bước đi ngay ngắn. Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử nối nhau bước vào. Tiếp đến Mã Quang Tá. Gã thấy lão nhân râu dài quét đất, thật lạ kỳ. Sáng nay gã không được ăn, chỉ nhấm vài bông hoa Tình, bụng thêm cồn cào; bây giờ vừa đói vừa tức, lúc bước vào gã bèn giẫm chân lên mút bộ râu của lão nhân mà di di.

Lão nhân thản nhiên như không, nói:

– Quí khách cẩn thận cho.

Mã Quang Tá giẫm nốt chân kia xuống đầu mút bộ râu của lão nhân, nói:

– Cái gì?

Lão nhân hơi lắc đầu, Mã Quang Tá đứng không vững, ngã ngửa ra sau. Một thân hình hộ pháp thế này mà ngã xuống, quả là chuyện lớn. Dương Quá đi cuối cùng, vội sải bước, giơ tay đẩy mạnh vào mông Mã Quang Tá, hất gã lên. Mã Quang Tá đứng thẳng lại được, giơ tay sờ mông.

Lão nhân làm như không thấy, mời sáu người ngồi ở phía tây trong đại sảnh, nói:

– Quí khách đã tới, thỉnh cốc chủ ra tiếp.

Bọn Dương Quá ngạc nhiên: "Thì ra lão lùn không phải là cốc chủ".

Chỉ thấy từ hậu đường có mười nam nữ áo xanh bước ra, đứng thành một hàng ở bên trái, Công Tôn Lục Ngạc ở trong số đó. Một lát nữa, từ sau bình phong bước ra một người, vái chào khách, rồi ngồi ngay xuống chiếc ghế ở mé đông. Lão nhân râu dài buông tay đứng một bên. Nhìn cung cách ấy, biết người vừa ra là cốc chủ. Người đó trạc bốn mươi lăm, bốn mươi sáu tuổi, mặt mũi anh tuấn, cử chỉ phóng khoáng, vừa bước ra sảnh, vái chào là ngồi xuống ngay, da mặt màu vàng nến, dung mạo khô khan, không giống như người võ công cao cường.

Người đó vừa ngồi xuống, các đồng tử áo xanh liền bưng trà ra. Trong đại sảnh, mọi thứ đều màu xanh; chiếc áo bào của cốc chủ bằng đoạn màu lam, nổi bật hẳn lên. Cốc chủ vén ống tay áo, bưng tách trà lên, nói:

– Mời quí khách dùng trà.

Mã Quang Tá thấy trong chén trà nguội ngắt có hai ba lát trà nổi trên mặt nước, đoán là nhạt thếch, liền nói:

– Này chủ nhân, các hạ thịt chẳng chịu ăn, trà không chịu uống, làm gì mà sắc diện chẳng ốm yếu thế này.

Cốc chủ thản nhiên uống một ngụm trà, nói:

– Bổn cốc mấy trăm năm nay vốn chỉ ăn chay.

Mã Quang Tá hỏi:

– Như thế thì có gì hay? Tưởng được trường sinh bất lão chăng?

Cốc chủ nói:

– Từ thời Đường Huyền Tông, khi tổ tiên tới đây ẩn cư đã giới định ăn chay, con cháu không dám phá giới.

Kim Luân pháp vương chắp tay nói:

– Thì ra tôn phủ đã di cư đến đây từ thời Thiên Bảo, quả là lâu đời.

Cốc chủ chấp tay nói:

– Không dám!

Tiêu Tương Tử đột nhiên lên tiếng bằng một giọng rất lạ:

– Vậy là tổ tông các hạ từng gặp Dương quí phi cơ đấy?

Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây đã nghe quen giọng y, nay thấy lạ, đều quay nhìn mặt y, vừa nhìn đã giật mình, vì thấy sắc mặt y thay đổi hẳn, trông rất kỳ bí. Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh đều thầm lo ngại, nghĩ: "Thì ra người này nội công rất lợi hại, có thể đổi hẳn dung mạo. Y ngầm vận công, chắc là muốn gây khó dễ với cốc chủ". Mấy người nghĩ vậy, đều ngầm phòng bị.

Chỉ nghe cốc chủ nói:

– Tệ tộc quả từng làm quan trong triều thời Đường Huyền Tông, khi thấy Dương Quốc Trung làm loạn triều chính, mới phẫn chí tới đây ẩn cư.

Tiêu Tương Tử cười hô hố, nói:

– Thế thì tổ tông các hạ từng uống nước rửa chân Dương quí phi rồi.

Câu này nói ra, mọi người cùng biến sắc. Câu nói hiển nhiên thách thức cốc chủ, đôi bên sắp động thủ đến nơi. Bọn Kim Luân pháp vương kinh ngạc, nghĩ: "Tiêu Tương Tử vốn thâm hiểm, mọi việc đều để kẻ khác đương đầu, sao hôm nay y lại xông ra trước thế này?"

Cốc chủ hoàn toàn không lý đến, lão lùn râu dài đứng bên cạnh nói to:

– Cốc chủ nể các vị là khách, dùng lễ đối đãi, sao các hạ lại nói năng bất nhã như vậy?

Tiêu Tương Tử lại cười hô hố, giọng quái dị, nói:

– Tổ tông các người nhất định từng uống nước rửa chân Dương quí phi, nếu không uống, ta sẽ cắt đầu nộp cho các người.

Mã Quang Tá lấy làm lạ, hỏi:

– Tiêu Tương huynh, sao huynh biết? Chẳng lẽ ngày ấy huynh cũng cùng uống với họ hay sao?

Tiêu Tương Tử cười hô hố, giọng nói lại thay đổi:

– Nếu không uống nước rửa chân để bị đau bụng, thì làm gì phải kiêng chất tanh?

Mã Quang Tá vỗ tay cười lớn, reo lên:

– Đúng, đúng lắm, thật là chí lý.

Bọn Kim Luân pháp vương cau mày, cảm thấy lời lẽ của Tiêu Tương Tử có phần quá đáng, chuyện ăn uống của mỗi người là thói quen riêng, không nên lấy ra giễu cợt. Huống hồ sáu người tự tiện xông vào u cốc, có định động thủ với đối phương, cũng chẳng nên cạn tàu ráo máng.

Lão lùn râu dài không thể nhịn thêm, bước ra giữa sảnh, nói:

– Tiêu Tương tiên sinh, chúng tôi ở đây không hề đắc tội với tiên sinh, tiên sinh muốn động thủ, thì mời lại đây.

Tiêu Tương Tử nói:

– Hay lắm!

Chỉ thấy thân hình y mang theo cái ghế bay qua chiếc bàn, hịch một tiếng, đã đáp xuống giữa sảnh, nói:

– Gã râu dài kia, tên ngươi là gì? Ngươi biết tên ta, ta vẫn chưa biết tên ngươi, động thủ như thế chẳng công bằng chút nào.

Câu này tựa hồ nửa có lý, nửa phi lý, càng khiến lão lùn râu dài tức giận, có điều thấy Tiêu Tương Tử nhấc ghế bay đổi chỗ vừa rồi quá linh hoạt phiêu dật, thật là phi phàm, thì tăng thêm sự đề phòng.

Cốc chủ nói:

– Thì cứ cho y biết tên, không sao.

Lão lùn râu dài nói:

– Ta họ Phàn, tên Nhất Ông, mời tiên sinh đứng dậy ban chiêu.

Tiêu Tương Tử nói:

– Ngươi sử dụng binh khí gì? Lấy ra cho ta coi cái đã.

Phàn Nhất Ông nói:

– Tiên sinh muốn xem binh khí ư, được thôi.

Bèn giậm chân phải xuống nền nhà, nói:

– Mang ra đây!

Hai đồng tử áo xanh liền chạy vào nội thất, khiêng ra một cây cương trượng đầu rồng dài chừng trượng mốt. Bọn Dương Quá kinh ngạc, nghĩ: "Binh khí dài và nặng thế kia, lão lùn râu dài làm sao sử dụng nổi kia chứ?" Tiêu Tương Tử chẳng buồn để ý, rút từ trong bọc ra một cái kéo to, nói:

– Ngươi có biết ta dùng cây kéo này làm gì không?

Mọi người thấy cái kéo thì lấy làm lạ, riêng Dương Quá cả kinh, chàng không cần sờ vào bọc, cũng biết là cái kéo của mình cất trong túi đã bị mất, chàng nghĩ: "Cái kéo kia là do lão thợ rèn họ Phùng rèn cho ta để chống lại cây phất trần của Lý Mạc Sầu, đêm qua Tiêu Tương Tử đã lấy trộm mà ta không hay biết có chết không?"

Phàn Nhất Ông nhận cây cương trượng, dộng xuống nền một cái, đại sảnh rất rộng, vậy mà một cái dộng ấy cũng gây chấn động mạnh, quả thực thanh thế phi phàm.

Tiêu Tương Tử tay phải cầm cái kéo, các ngón tay cử động mạnh mới có thể đóng mở hai lưỡi kéo, nói:

– Này gã râu dài, ngươi có biết cái kéo quí này của ta có tên là gì hay không?

Phàn Nhất Ông tức giận, nói:

– Thứ binh khí bàng môn tả đạo ấy, làm sao có tên gọi tao nhã được kia chứ.

Tiêu Tương Tử cười ha ha, nói:

– Không sai, cái tên đúng là không tao nhã, gọi là cái kéo cắt lông chó đấy.

Dương Quá hơi khó chịu, nghĩ bụng: "Cái kéo tử tế của ta, ai khiến hắn gán cho nó một cái tên khó nghe như vậy".

Chỉ thấy Tiêu Tương Tử nói tiếp:

– Ta sớm biết ở đây có con quái vật lông dài, nên mới chế ra cái kéo cắt lông chó này để xén râu của ngươi đấy.

Mã Quang Tá và Ni Ma Tinh cười ồ lên, Doãn Khắc Tây và Dương Quá cũng không nhịn được, bật cười, chỉ riêng Kim Luân pháp vương ngồi đối diện với cốc chủ là thản nhiên. Hai người ấy coi như không thấy.

Phàn Nhất Ông giơ cây cương trượng, nói:

– Râu của ta cũng đã quá dài, tiên sinh muốn làm thợ cạo thì không còn gì hay bằng, xin mời!

Tiêu Tương Tử ngẩng nhìn cây xà ngang của đại sảnh, ngẩn ngơ xuất thần, tựa hồ không để ý đến lời Phàn Nhất Ông, đột nhiên cánh tay phải giơ ra nhanh như chớp, xoẹt một tiếng, cái kéo lớn chĩa tới bộ râu của Phàn Nhất Ông mà cắt. Phàn Nhất Ông không thể ngờ đối phương đang ngồi trên ghế mà lại xuất chiêu, trong lúc nguy cấp, vội chống cây trượng, tung người lộn một vòng lên cao hơn một trượng. Tiêu Tương Tử phát động tấn công cực nhanh, Phàn Nhất Ông cũng né tránh thần tốc, một cắt một né, hai cao thủ đã bộc lộ võ công thượng thừa. Phàn Nhất Ông bị đối phương xuất thủ bất ngờ, không kịp trở tay, tuy né được nhưng cũng bị Tiêu Tương Tử cắt mất ba sợi râu.

Tiêu Tương Tử đắc ý, tay trái giơ ba sợi râu, há miệng thổi phù một cái, ba sợi râu bay tới chén trà của y ở trên bàn, "choang" một tiếng, chén trà rơi xuống nền vỡ tan. Bọn Dương Quá thừa biết Tiêu Tương Tử thổi ba sợi râu chỉ là động tác giả, chén trà rơi vỡ là do luồng hơi mà y thổi tới. Mã Quang Tá thì không hiểu điều đó, cứ ngỡ ba sợi râu thổi đi mà có sức mạnh như thế, bèn reo to:

– Tiêu Tương Tử, huynh thổi râu lợi hại quá chừng!

Tiêu Tương Tử cười ha ha, đánh kéo tanh tách, nói:

– Ngươi có muốn thử cái kéo cắt lông chó của ta một lần nữa hay không?

Mọi người thấy Tiêu Tương Tử cười ha ha mà da mặt không hề rung động, thì càng kinh ngạc, nghĩ: "Nội công luyện tới cảnh giới thượng thừa, thì hỉ nộ không thể hiện ra sắc mặt. Hiện tại y cười vui mà vẻ mặt lại lầm lì đáng sợ thì quả là hiếm thấy!" Diện mạo như xác chết của y quả khó coi, mọi người chỉ nhìn qua lại quay mặt đi ngay.

Phàn Nhất Ông liên tiếp bị giễu cợt, thì cả giận, quay về phía cốc chủ, cúi mình nói:

– Sư phụ, đệ tử hôm nay không thể giữ lễ kính khách được nữa rồi.

Dương Quá lấy làm lạ: "Lão lùn này nhiều tuổi hơn hẳn cốc chủ, sao lại gọi cốc chủ là sư phụ?" Cốc chủ khẽ gật đầu, tay trái phẩy nhẹ. Phàn Nhất Ông vung cây cương trượng quét ngang qua cái ghế, lão tuy lùn, nhưng thần lực kinh người, cây trượng nặng hơn trăm cân tạo nên tiếng gió ù ù.

Bọn Dương Quá tuy đồng hành với Tiêu Tương Tử, nhưng chưa biết công phu đích thực của y thế nào, bèn ngưng thần quan sát hai người tỷ thí. Thấy cây trượng cách chân ghế chưa đầy nửa thước, thì Tiêu Tương Tử giơ tay trái chụp lấy cây trượng, tay phải lại chĩa kéo cắt râu. Phàn Nhất Ông cả giận, nghĩ: "Ngươi dám coi thường ta đến thế ư?" bèn hất đầu, quăng bộ râu dài sang một bên, cây trượng quật mạnh, trúng vào bàn tay của Tiêu Tương Tử. Mọi người cùng ồ lên, đứng dậy, những tưởng bàn tay của Tiêu Tương Tử thể nào cũng bị trọng thương. Phàn Nhất Ông cảm thấy cây trượng như đánh xuống nước, trôi đi tuồn tuột, thầm biết không ổn, vội rút cây trượng về, nào ngờ Tiêu Tương Tử lật cổ tay một cái, đã chộp lấy đầu cây trượng.

Phàn Nhất Ông cảm thấy đối phương kéo cây trượng đi, bèn tống mạnh về đàng trước; lực tống cực mạnh, chắc chắn Tiêu Tương Tử phải rời khỏi cái ghế. Không ngờ Tiêu Tương Tử kẹp luôn cả cái ghế xê dịch sang bên trái, cây trượng đẩy vào chỗ trống không, nhưng Tiêu Tương Tử cũng phải buông tay ra. Phàn Nhất Ông xoay tay trái qua đầu, đưa cây trượng xoay một vòng, đánh tới đầu đối phương. Tiêu Tương Tử cố ý đùa giỡn, kẹp cái ghế tung người lên cao hơn trượng, cây trượng phạt qua hạ bàn. Mọi người thấy công phu của Tiêu Tương Tử nhẹ nhàng lạ lùng, thân mình kẹp chiếc ghế mà cứ thanh thoát như không, thì bất giác reo lên.

Phàn Nhất Ông thấy đối phương bản lĩnh cao cường, phải toàn thần tiếp chiến, thầm biết muốn đánh trúng thân thể đối phương chẳng dễ chút nào; nhưng nếu đập nát được chiếc ghế của y, thì coi như chiếm lĩnh tiên cơ. Nào ngờ Tiêu Tương Tử võ công thần xuất quỷ nhập, tay phải cầm kéo cứ đánh tanh tách, đe dọa cắt xén bộ râu dài của Phàn Nhất Ông, tay phải thì sử thủ pháp cầm nã, mong đoạt lấy cây trượng. Hai người xoay tròn trong đại sảnh, phút chốc đã đấu mấy chục hiệp, tựa hồ ngang sức ngang tài, bất phân thắng bại. Kỳ thực Tiêu Tương Tử thân không rời ghế, chẳng coi đối phương ra gì. Bọn Kim Luân pháp vương thầm kinh hãi: "Ai ngờ cái gã quái vật giống xác chết này lại có bản sự như thế?"

Lại đấu vài hiệp, cây trượng của Phàn Nhất Ông quét ngang liên tiếp, Tiêu Tương Tử kẹp ghế vọt tránh lên xuống cứ như con choi choi, mỗi lúc một nhanh. Cốc chủ bỗng nói:

– Đừng đánh vào cái ghế, nếu không ngươi chẳng đối phó nổi đâu!

Phàn Nhất Ông ngẩn người, nghĩ: "Hắn ngồi ghế, mình còn cố đấu ngang ngửa với hắn. Nếu để hắn đứng dậy, e rằng chỉ sau vài chiêu, mình đã bị hắn cắt mất bộ râu". Đột nhiên lão thay đổi trượng pháp, xoay như điên cây trượng xung quanh mình.

Cốc chủ thấy Tiêu Tương Tử cố ý đùa giỡn, đấu thêm một chút, Phàn Nhất Ông nhất định đại bại, bèn chậm rãi rời bàn, nói:

– Nhất Ông, ngươi không phải là đối thủ của vị cao nhân này đâu, hãy lui ra.

Phàn Nhất Ông nghe lệnh sư phụ, đáp:

– Vâng!

Lão định thu chiêu, lui ra, thì Tiêu Tương Tử kêu to:

– Không được, không được!

Rồi thân hình rời cái ghế, bay lên, tính chộp lấy thân cây trượng. Chỉ nghe "bộp" một tiếng, cái ghế bị cây trượng đánh vỡ nát, song thân cây trượng đã bị Tiêu Tương Tử dùng tay trái giữ chặt, rồi lấy chân trái đè lên, đồng thời cái kéo chĩa ra, chỉ cần bập hai lưỡi kéo vào nhau, là bộ râu dài của Phàn Nhất Ông sẽ tiêu ma.

Ai ngờ Phàn Nhất Ông nuôi bộ râu dài là để sử dụng nó như một loại binh khí mềm lợi hại, cách dùng giống như nhuyễn tiên, vân trửu, liên tử chùy. Chỉ thấy Phàn Nhất Ông hơi lắc đầu, bộ râu dài đã cuốn lại, không chỉ thoát ra khỏi lưỡi kéo, mà còn quấn lấy nó, cái đầu ngửa ra phía sau, cái kéo đã bị đoạt đi rất mạnh. Tiêu Tương Tử kêu to:

– Úi chao, lão lùn râu dài, bộ râu của ngươi lợi hại quá chừng, ta phục ngươi đó!

Một tay y giữ cái kéo đang bị kéo đi, một tay giữ cây trượng, nhất thời do dự chưa quyết, miệng cười hô hô, nói:

– Thú vị thật, thú vị thật!

Đột nhiên có một cái bóng xám từ cửa sảnh vụt vào cực nhanh, song chưởng cùng đánh tới sau lưng Tiêu Tương Tử. Cốc chủ quát:

– Ai đó?

Nhìn kẻ đánh lén vừa nhanh vừa mạnh, thế tất đắc thủ, Tiêu Tương Tử tay trái buông cây trượng, đánh bên dưới cùi chỏ, hóa giải ngay chưởng lực của kẻ đánh lén. Kẻ đó giận dữ nói:

– Tên quái tặc, ta quyết sống mái với ngươi!

Bọn Dương Quá nhìn kẻ đó, cùng sửng sốt kêu lên:

– Tiêu Tương Tử!

Thì ra người tiến vào đánh lén cũng chính là Tiêu Tương Tử. Tại sao một gã Tiêu Tương Tử lại hóa thành hai? Tại sao gã lại tấn công hóa thân của mình? Mọi người nhất thời chưa hiểu ra sao.

Nhìn kỹ lại, người vừa tỷ thí với Phàn Nhất Ông rõ ràng trang phục hệt như Tiêu Tương Tử, bộ mặt tuy cũng ngay đơ như xác chết, nhưng tướng mạo thì không giống Tiêu Tương Tử. Kẻ vừa tiến vào mặt mũi đúng là Tiêu Tương Tử, nhưng lại mặc bộ đồ màu xanh như người trong sơn cốc. Hai tay gã như hai bộ vuốt chim, chộp tới bối tâm của Tiêu Tương Tử, miệng quát:

– Giở trò ám toán có đáng mặt anh hùng hảo hán hay không?

Phàn Nhất Ông thấy người tới giúp tuy mặc quần áo như người trong sơn cốc, nhưng không quen mặt, thì lấy làm lạ, xách cây trượng lùi sang một bên, nhìn hai người như hai tử thi kia đấu với nhau ù ù ào ào.

Dương Quá lúc này đoán rằng người sử dụng chiếc kéo kia chắc hẳn đã lấy trộm cái mặt nạ của chàng mà đeo lên mặt, lại đánh tráo bộ quần áo của Tiêu Tương Tử để lọt vào đại sảnh. Vì mặt mũi của Tiêu Tương Tử bình thường trông như xác chết, nên thoạt đầu không ai nhận biết. Dương Quá cũng có lần mang mặt nạ, khi ấy diện mạo của mình ra sao, chàng không thể biết; còn khi Trình Anh mang mặt nạ, thì chàng cũng không để ý, không dám nhìn kỹ, nên đã bị lừa.

Chàng chăm chú quan sát một lát, nhận ra võ công của người sử dụng chiếc kéo, liền gọi:

– Chu Bá Thông, hãy trả lại cho vãn bối cái mặt nạ và chiếc kéo.

Nói rồi chàng nhảy ra giữa sảnh, giơ tay đoạt lại chiếc kéo.

Người kia chính là Chu Bá Thông. Lão đã sơ ý, để bốn đệ tử của Tuyệt Tình cốc dùng lưới đánh cá bắt giữ. Nhưng lão thần thông quảng đại, bốn người kia chỉ sơ ý một chút, đã bị lão phá lưới thoát đi. Lão nấp sau mái đá, định gây náo loạn sơn cốc một phen, vừa hay thấy bọn Dương Quá sáu người tới đây. Đợi đêm khuya, lão mò vào điểm huyệt Tiêu Tương Tử, vác y ra khỏi thạch thất, cởi lấy quần áo của y mặc vào người mình. Khinh công của Chu Bá Thông cao siêu, nên bọn Kim Luân pháp vương cố nhiên không hay biết gì. Mặc quần áo xong, Chu Bá Thông mò vào thạch thất nằm cạnh Dương Quá, tiện tay thó luôn chiếc kéo và cái mặt nạ của chàng. Sáng nay mọi người tỉnh dậy, cố nhiên không ai phát giác được gì.

Tiêu Tương Tử bị điểm huyệt, vội vận nội lực tự thông, nhưng thủ pháp điểm huyệt của Chu Bá Thông lợi hại, sau ba canh giờ tứ chi mới có thể vận động như ý. Lúc ấy trên người y chỉ có độc chiếc quần lót. Y cả giận, chờ khi có một đệ tử của Tuyệt Tình cốc đi qua, y đánh ngã người đó, lấy quần áo mặc vào, chạy đi tìm, tới đây thì thấy kẻ mặc quần áo của y đang tỷ thí với Phàn Nhất Ông, y tức quá liền xông vào tung cả hai chưởng một lúc.

Chu Bá Thông thấy Dương Quá nhảy ra đoạt cái kéo, bèn vận dụng tuyệt kỹ hai tay đánh hai phía khác nhau, tay trái lúc co lúc duỗi đối phó với Dương Quá; tay phải cầm kéo đánh tanh tách, không cho Tiêu Tương Tử lại gần. Cái kéo to, khi hai lưỡi kéo mở ra, phải rộng đến hai thước; để cái đầu lọt vào đó, lưỡi kéo bập vào, thì đầu lìa khỏi cổ như bỡn, vì vậy Tiêu Tương Tử không dám mạo hiểm tới gần.

Công Tôn cốc chủ thấy Chu Bá Thông đấu với Phàn Nhất Ông, đã thầm kính phục; lúc này thấy Chu Bá Thông hai tay đấu riêng với hai người, như thể một người phân thân thành hai, cảm thấy gần giống với công phu "Âm dương song nhẫn" sở học của mình, nhưng quả thật làm sao có thể cùng lúc làm hai việc khác nhau kia chứ? Lại thấy Tiêu Tương Tử song trảo như hai cái móc sắt, xuất chiêu tàn độc; Dương Quá thì xuất chiêu ung dung nhàn nhã, động tác tay chân phiêu diêu thoát tục, nghĩ thầm: "Thiên hạ rộng lớn, quả lắm nhân tài. Hai lão nhân cố nhiên quá giỏi, gã thiếu niên kia công lực tuy nông, song thân pháp quyền cước thật uyển chuyển thanh thoát". Bèn cao giọng nói:

– Thỉnh ba vị dừng tay.

Dương Quá và Tiêu Tương Tử cùng nhảy về phía sau, Chu Bá Thông lột mặt nạ ra, ném luôn cùng với cây kéo về phía Dương Quá, nói:

– Đùa thế đủ rồi, ta đi đây!

Nói xong lão nhún chân, vọt ngay lên cái xà nhà. Các đệ tử sơn cốc thấy lão để lộ bản lai diện mục, đều kinh ngạc. Công Tôn Lục Ngạc kêu lên:

– Cha ơi, lão già ấy đấy!

Chu Bá Thông ngồi ngang trên xà nhà, cười ha hả, cái xà nhà cách mặt đất hơn ba trượng, trong đại sảnh có nhiều hảo thủ, nhưng ai nấy tự thẹn không thể vọt lên trên đó. Phàn Nhất Ông là đại đệ tử của chưởng môn ở Tuyệt Tình cốc, võ công chỉ đứng sau Công Tôn cốc chủ, hôm nay liên tiếp bị Chu Bá Thông đùa cợt, bảo sao không tức? Phàn Nhất Ông thấp lùn, giỏi thuật leo trèo, lão bám cột mà leo lên thoăn thoắt như một con vượn. Chu Bá Thông khoái nhất khi có người đùa giỡn với lão. Thấy Phàn Nhất Ông leo lên, rất hợp ý mình, không đợi lão ta leo đến cây xà ngang, bèn chìa tay đón lên.

Phàn Nhất Ông đâu biết thiện chí của Chu Bá Thông, thấy lão nhân chìa tay, lại búng ngón tay vào huyệt Đại Lăng ở cổ tay Chu Bá Thông. Chu Bá Thông hơi có cảm giác tưng tức ở cổ tay, bèn lập tức bế huyệt, thả lỏng các cơ. Phàn Nhất Ông ngón tay như búng vào lớp bông mềm, vội thu tay về. Chu Bá Thông vỗ vào mu bàn tay Phàn Nhất Ông "bộp" một cái, miệng hát:

– Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa..

Phàn Nhất Ông cả giận, hất đầu một cái, bộ râu dài quất tới ngực Chu Bá Thông. Chu Bá Thông nghe tiếng gió quạt mạnh, bèn đạp chân trái, tay trái ôm xà ngang, toàn thân treo lơ lửng, đưa người đánh đu như đưa võng.

Tiêu Tương Tử biết Phàn Nhất Ông không phải là đối thủ của Chu Bá Thông, y có liên thủ với lão lùn râu dài, cũng khó lòng đánh thắng, bèn quay sang nói với Ni Ma Tinh và Mã Quang Tá:

– Ni, Mã nhị huynh, hắn ta không coi sáu huynh đệ chúng ta ra gì, thật là khinh người quá đỗi.

Ni Ma Tinh tính thô bạo, dễ bị kích động; Mã Quang Tá thì đầu óc đần độn, không phân phải trái, nghe câu "hắn ta không coi sáu huynh đệ chúng ta ra gì", liền cho là đúng, gầm gừ, nhún mình nhảy lên tóm chân Chu Bá Thông. Chu Bá Thông đá từng chân vào bàn tay của hai gã Ni, Mã.

Tiêu Tương Tử lạnh lùng nhìn Doãn Khắc Tây, nói:

– Doãn huynh, huynh cứ khoanh tay đứng nhìn thôi sao?

Doãn Khắc Tây mỉm cười, nói:

– Tiêu Tương huynh cứ lên trước, tiểu đệ sẽ theo sau.

Tiêu Tương Tử gầm một tiếng lạ, rung chuyển bốn bức tường, đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân thẳng đuột, toàn thân dưới thẳng như khúc gỗ, hai tay thúc lên bụng Chu Bá Thông.

Chu Bá Thông thấy vậy, hơi co mình, thân cong cong thành hình cầu, đổi tay ôm xà ngang từ tay trái sang tay phải. Tiêu Tương Tử chộp không được, rơi xuống, thân hình vẫn cứng đơ như một khúc gỗ, chân chạm đất lại bật lên. Phàn Nhất Ông ở trên xà ngang quăng râu qua, Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh và Mã Quang Tá ba người cứ thay nhau nhảy lên rơi xuống, liên tiếp tấn công.

Doãn Khắc Tây cười, nói:

– Chu lão quả nhiên thân thủ bất phàm, tại hạ cũng phải góp vui một chút.

Gã thò tay vào túi, đột nhiên trong sảnh loang loáng ánh sáng vàng bạc. Tay Doãn Khắc Tây cầm một cây nhuyễn tiên tết bằng các sợi vàng sợi bạc, đính theo nhiều hạt ngọc. Thứ binh khí hoa mỹ đắt đỏ thế này, e rằng trong võ lâm là độc nhất vô nhị. Cây nhuyễn tiên ấy cứ đánh tới tấp vào bắp chân của Chu Bá Thông.

Dương Quá nhìn rất thú vị, nghĩ: "Năm người kia ai nấy hiển lộ thần thông vây Lão Ngoan đồng, mình cũng phải xuất kỳ chế thắng mới được". Nghĩ vậy, bèn đeo mặt nạ vào, bắt chước Tiêu Tương Tử cũng gầm lên một tiếng, nhặt cây trượng mà Phàn Nhất Ông quẳng dưới đất, dùng nó làm cây chống, đu mình lên cao ngang đầu Chu Bá Thông, nói to:

– Lão Ngoan đồng, nhìn kéo đây!

Chàng giơ kéo cắt râu Chu Bá Thông.

Chu Bá Thông cả mừng, nghiêng đầu tránh lưỡi kéo, nói:

– Tiểu huynh đệ, trò chơi của ngươi rất thú vị.

Dương Quá nói:

– Lão Ngoan đồng, vãn bối không hề đắc tội với lão, tại sao lão giễu cợt vãn bối?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Có đi có lại, ngươi không thiệt chút nào, còn được lợi cơ đấy.

Dương Quá ngẩn người, hỏi:

– Có đi có lại là thế nào?

Chu Bá Thông cười:

– Hiện tại ta có một trò chơi, chưa thể cho ngươi biết được.

Thấy ngọn nhuyễn tiên của Doãn Khắc Tây đánh tới, Chu Bá Thông bèn giơ tay chộp. Ngọn nhuyễn tiên của Doãn Khắc Tây cuộn lại, định quất vào mu bàn tay của lão, nhưng thân hình gã đã rơi xuống đất.

Chu Bá Thông nói:

– Món đồ chơi như con rắn cạp nong cạp nia này cũng thú đấy.

Lúc ấy bộ râu dài của Phàn Nhất Ông quăng tới, lão ta hai tay giữ xà ngang, dùng bộ râu của mình tấn công.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Bộ râu dài hóa ra cũng đắc dụng!

Lão bắt chước, cũng dùng bộ râu của mình quất đi, nhưng bộ râu của lão ngắn hơn hẳn bộ râu của Phàn Nhất Ông, lại chưa từng luyện công phu, nên vô dụng; chỉ nghe "bạch" một tiếng, bộ râu của Phàn Nhất Ông đánh trúng vào một bên má lão, má lập tức đỏ bừng thành vết rát bỏng; nếu nội lực không thâm hậu, thì lão đã ngất xỉu rồi.

Lão Ngoan đồng bị đòn nhưng không tức giận, lại còn thán phục, nói:

– Gã râu dài kia, râu ta không bằng ngươi, ta chịu thua rồi, hai ta khỏi cần đấu thêm.

Phàn Nhất Ông một chiêu đắc thủ, tưởng ngon không lui, lại quăng râu đánh tới. Chu Bá Thông không dám dùng râu đối chiến, tay trái sử chiêu "Không Minh quyền" tung ra một quả đấm, quyền phong đẩy bộ râu của Phàn Nhất Ông sang bên phải, vừa hay Mã Quang Tá nhảy lên, bộ râu quất trúng luôn mặt hắn.

Mã Quang Tá hai tay chộp lấy bộ râu, Phàn Nhất Ông cố giằng lại, Mã Quang Tá cứ tóm chặt không buông, thế là cả hai cùng rơi xuống đất.

Mã Quang Tá da thịt thô dày, bị ngã cũng không đau lắm. Phàn Nhất Ông nằm đè bên trên, giận dữ nói:

– Ngươi làm trò gì vậy, còn chưa buông tay?

Mã Quang Tá ngã tuy không đau, nhưng bị hai chân Phàn Nhất Ông đạp lên bụng, rất khó chịu, cũng tức giận quát:

– Ta không buông đấy, lão làm gì được nào?

Nói rồi dùng cánh tay lực lưỡng quấn luôn mấy vòng bộ râu. Phàn Nhất Ông đánh một chưởng, Mã Quang Tá né đầu tránh, ai ngờ đó chỉ là hư chiêu, Phàn Nhất Ông tay trái giáng ngay một quyền trúng sống mũi đối phương. Mã Quang Tá khịt mũi ầm ĩ, đánh trả một quyền. Nói về võ công, Phàn Nhất Ông vốn cao hơn hẳn, nhưng bộ râu bị quấn vào cánh tay đối phương, khó bề di chuyển, nên bị trúng quyền của đối phương vào mặt. Hai người một cao một lùn, nằm dưới đất mà đánh nhau; Phàn Nhất Ông tuy nằm trên, nhưng bộ râu bị vướng vào tay đối phương, không thoát ra được.

Kim Luân pháp vương nhìn cảnh hỗn loạn trong đại sảnh, sáu người đồng hành thì năm người đã xuất thủ, nếu không hạ nổi một mình Lão Ngoan đồng, thì mất cả thể diện, liền rút từ trong bọc ra một cái ngân luân, một cái đồng luân, nghe kính coong kính coong, một cái đánh từ trái sang phải, một cái đánh từ phải sang trái, tạo thành hai hình vòng cung tập kích Chu Bá Thông. Song luân xé gió bay đi, nghe rợn người.

Chu Bá Thông không biết lợi hại, nói:

– Vật gì thế nhỉ?

Lão giơ tay bắt. Dương Quá kêu to:

– Đừng bắt!

Chàng lẳng cây cương trượng đón đầu, choang một tiếng lớn, chiếc đồng luân đụng vào cương trượng, bay vào góc tường đá, các tia lửa và vụn đá văng ra tung tóe. Chiếc đồng luân bay vòng trở lại, Kim Luân pháp vương hất tay trái một cái, chiếc đồng luân lại bay về phía xà nhà.

Chu Bá Thông đã biết lão hòa thượng kia không đùa, thiết nghĩ cả bọn liên thủ với nhau, một mình lão khó địch nổi, bèn lộn một vòng xuống đất, nói:

– Các vị, Lão Ngoan đồng thất bồi, ngày mai chúng ta hãy lại chơi tiếp.

Nói xong lão chạy ra cửa sảnh, chỉ thấy bốn gã áo xanh đã chăng sẵn lưới bên ngoài. Chu Bá Thông đã nếm mùi lưới hôm qua, kêu lên:

– Nguy rồi!

Lão xoay người phóng ra cửa sổ phía đông, thấy mấy cái bóng xanh chao động, một tấm lưới khác sắp chụp tới. Chu Bá Thông vội nhảy trở vào giữa sảnh, thấy bốn phía đông nam tây bắc đều có lưới đón sẵn, bèn nhảy trở lên xà nhà, một chiêu "Xung thiên chưởng" làm cho mái nhà thủng một lỗ lớn, vừa nhô đầu định vọt lên, thấy trên đó cũng có lưới chăng sẵn. Lão không còn đường thoát, nhảy xuống đất, chỉ mặt cốc chủ cười, nói:

– Lão mặt vàng kia, ngươi giữ chân ta làm gì, muốn ta chơi đùa với ngươi ư?

Công Tôn cốc chủ thản nhiên nói:

– Chỉ cần lão để lại bốn thứ đã lấy, sẽ lập tức cho lão ra khỏi sơn cốc.

Chu Bá Thông ngạc nhiên:

– Ơ hay, ta lấy mấy thứ thối tha của nhà ngươi làm gì? Dẫu có luyện được cái bản lĩnh như nhà ngươi, tưởng đã hiếm lắm sao?

Công Tôn cốc chủ thong thả bước ra giữa sảnh, dùng tay phải phẩy phẩy bụi trên áo, lại dùng tay trái phẩy phẩy bụi, nói:

– Không phải hôm nay là ngày đại hỉ của ta, thì ta đã lĩnh giáo lão vài chiêu. Lão hãy để lại mấy thứ của sơn cốc, rồi rút đi cho thì hơn.

Chu Bá Thông cả giận, cao giọng:

– Nói thế, tức là nhà người bảo ta lấy trộm đồ vật của ngươi. Hừ, cái xó cùng cốc này có bảo bối quái gì kia chứ?

Nói xong lão cởi bỏ quần áo ra, động tác chân tay cực lẹ, trong giây lát đã trần như nhộng. Công Tôn cốc chủ luôn miệng quát dừng, nhưng Chu Bá Thông chẳng thèm nghe, cứ cởi tuốt tuột. Mấy nữ đệ tử trong sảnh xấu hổ ngoảnh cả đi, không dám nhìn lão.

Hành động ấy cũng thật bất ngờ đối với cốc chủ. Bốn thứ của hắn bị mất trong đan phòng, thư phòng, kiếm phòng và phòng Linh Chi đều là những vật quan trọng, không thể không truy tìm, chẳng lẽ Lão Ngoan đồng không lấy trộm thật sao?

Công Tôn cốc chủ đang ngẫm nghĩ, Chu Bá Thông đã vỗ tay, nói:

– Ta thấy nhà ngươi đã ngần này tuổi, sao lại không biết tôn kính lão nhân? Nói năng không lựa lời, hành sự lỗ mãng, trước mặt bao nhiêu người mà cứ phô cái xấu ra, chẳng để cho thiên hạ chê cười hay sao?

Mấy câu này lẽ ra dùng để trách chính lão mới phải, không ngờ lão lại cướp lời nói trước, khiến Công Tôn cốc chủ cũng phải phì cười, chả biết đối đáp thế nào. Nhìn Phàn Nhất Ông vẫn đang đánh nhau với Mã Quang Tá ở dưới đất, Công Tôn cốc chủ quát:

– Nhất Ông, đừng gây náo loạn với khách nhân nữa.

Chu Bá Thông cười, nói:

– Gã râu dài kia, tính nết ngươi ta đây rất khoái; hai ta kết giao với nhau được đấy.

Kỳ thực Phàn Nhất Ông một đời đoan trang ổn trọng, hôm nay đánh lộn với Mã Quang Tá thật là bất đắc dĩ, đã mấy lần định chấm dứt, ngặt nỗi bộ râu dài bị đối phương quấn vào tay mấy vòng rồi, lão muốn thoát ra cũng chẳng xong.

Công Tôn cốc chủ hơi cau mày, chỉ Chu Bá Thông, nói:

– Nói về chuyện trước mặt bao nhiêu người mà cứ phô cái xấu ra, để cho thiên hạ chê cười, chỉ e là chính các hạ đó.

Chu Bá Thông nói:

– Ta ở trong bụng mẹ chui ra như thế nào, thì bây giờ vẫn trong trắng y nguyên như thế, có gì là xấu? Còn nhà ngươi, đã già rồi lại còn lấy một thiếu nữ xinh đẹp làm vợ, hì hì, mới đáng bị chê cười!

Mấy câu này như búa giáng vào ngực cốc chủ, sắc mặt vàng vọt của y hơi đỏ lên, hồi lâu y vẫn chưa nói nên lời.

Chu Bá Thông bỗng kêu:

– Ối chao, quên mất, không mặc quần áo, lạnh quá.

Đột nhiên lão phóng ra cửa sảnh.

Bốn gã áo xanh thấy một bóng người vụt đi, vội di động phương vị, bốn góc lưới cùng nhấc bổng lên, hốt lão vào trong lưới. Chỉ cảm thấy kẻ sa lưới giãy giụa rất mạnh, bốn người gộp lại, kết lưới, khiêng đến trước mặt cốc chủ. Loại lưới này đan bằng các sợi kim loại dẻo cực bền, đao kiếm chặt không đứt. Thủ pháp chăng lưới, kéo lưới của bốn người vô cùng lanh lẹ, cao thủ giỏi mấy cũng khó bề đối phó. Bốn người vừa kéo lưới thành công, hết sức đắc ý nhưng thấy cốc chủ đang chăm chú nhìn vào trong lưới đột nhiên nhăn mặt, cũng nhìn vào đấy, thì lập tức vã mồ hôi lạnh, cuống quít gỡ lưới thả hai người ra, chính là Phàn Nhất Ông và Mã Quang Tá.

Nguyên Chu Bá Thông cởi hết quần áo rồi, chẳng ai ngờ lão chưa mặc lại quần áo mà đã phóng đi. Thân pháp của lão quá nhanh, lão đã ôm xốc Phàn, Mã hai người nằm dưới đất mà quăng vào lưới, bốn đệ tử kia vội nhấc lưới lên, lão liền thừa cơ thoát ra.

Hành động nửa thực nửa hư, dương đông kích tây, đúng là xuất quỉ nhập thần.

Lão Ngoan đồng gây náo loạn, Công Tôn cốc chủ quả thật mất mặt, ngay cả bọn Kim Luân pháp vương cũng có phần ngượng ngùng, đều nghĩ: Cũng đòi là nhất lưu hảo thủ trong võ lâm, hợp lực từng ấy người vẫn chẳng làm gì nổi một lão già điên điên khùng khùng. Chỉ riêng Dương Quá mừng thầm. Đối với Chu Bá Thông, chàng hết sức thán phục, nghĩ nếu lão bị bắt, chàng nhất định sẽ tìm cách cứu ra; bây giờ lão tự thoát đi rồi, thì không còn gì hay bằng.

Kim Luân pháp vương vốn định tra tìm lai lịch cốc chủ, nhưng sau một phen Chu Bá Thông gây náo loạn, cảm thấy có ở đây thêm cũng chỉ vô nghĩa, lão bàn riêng đôi câu với Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây, rồi đứng dậy, chắp tay nói:

– Đa tạ thịnh tình tiếp đãi của cốc chủ, cũng định học hỏi thêm, nhưng chúng tại hạ ai cũng có việc, vậy xin cáo biệt.

Công Tôn cốc chủ vốn nghi sáu người cùng phe cánh với Lão Ngoan đồng, sau thấy Tiêu Tương Tử ác đấu sống còn với Lão Ngoan đồng, rồi Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây, Mã Quang Tá và Dương Quá cùng hợp lực thi triển tuyệt kỹ công kích lão ta, có ý giúp mình, bèn chắp tay nói:

– Tiểu đệ có một thỉnh cầu, không biết sáu vị có đáp ứng cho chăng?

Kim Luân pháp vương nói:

– Nếu vừa sức, chúng tại hạ chẳng từ nan.

Công Tôn cốc chủ nói:

– Chiều nay, tiểu đệ làm lễ tục huyền, kính mời các vị đại giá tham dự. Nơi đây xa lánh quạnh hiu, mấy trăm năm hiếm có người ngoài đặt chân, hôm nay được cả sáu vị quí khách cùng giáng lâm, thật là tam sinh hữu hạnh cho tiểu đệ.

Mâ Quang Tá hỏi:

– Có rượu uống chứ?

Công Tôn cốc chủ định trả lời, bỗng thấy Dương Quá cứ nhìn trân trân ra bên ngoài sảnh, vẻ mặt kỳ quái, nửa như cả mừng, nửa như đau khổ. Ai nấy kinh ngạc, nhìn theo ánh mắt chàng, chỉ thấy có một bạch y thiếu nữ đang thong thả đi ngoài hành lang, ánh nắng nhạt chiếu vào khuôn mặt trắng xanh của nàng, lạnh lùng như thể ánh nắng đã biến thành ánh trăng. Mắt nàng long lanh ngấn lệ, đi được vài bước thì có hai giọt lệ lăn trên má. Nàng bước đi nhẹ nhàng, thân hình như lướt trên mặt nước, trước sau không hề nhìn vào trong đại sảnh.

Dương Quá như người bị điểm huyệt, toàn thân đờ đẫn, đột nhiên chàng gọi to:

– Cô cô!

Bạch y thiếu nữ đã đi tới cuối hành lang, nghe tiếng gọi, thân hình chấn động, nói nhỏ:

– Quá nhi, Quá nhi, Quá nhi ở đâu? Quá nhi gọi ta phải không?

Nàng ngoảnh đầu, tựa hồ tìm cái gì, nhưng ánh mắt mơ hồ xa xăm như thể đang mơ.

Dương Quá từ trong sảnh chạy bổ ra, nắm lấy tay Bạch y thiếu nữ, nói:

– Cô cô, cô cô cũng đến đây ư? Ta tốn bao công sức tìm kiếm cô cô!

Rồi chàng kêu "Ối!" một tiếng, đầu ngón tay bị gai hoa Tình đâm chợt đau nhói lên ghê gớm.

Bạch y thiếu nữ thốt lên một tiếng "Ôi", người run rẩy, phải ngồi bệt xuống đất, nhắm hai mắt lại như bị ngất đi. Dương Quá gọi:

– Cô cô, cô.. cô cô sao thế?

Lát sau, bạch y thiếu nữ từ từ mở mắt, đứng dậy, nói:

– Các hạ là ai? Các hạ gọi tôi là gì vậy?

Dương Quá cả kinh, nhìn nàng chằm chằm, chính là Tiểu Long Nữ đây chứ ai? Vội nói:

– Cô cô, Quá nhi đây mà, tại sao.. sao cô cô lại không nhận ra ta kia chứ? Cô cô vẫn khỏe chứ? Trên người có chỗ nào bị đau hay không?

Bạch y thiếu nữ nhìn chàng lần nữa, lạnh lùng nói:

– Ta không quen biết các hạ.

Nói xong đi vào đại sảnh, ngồi xuống bên cạnh Công Tôn cốc chủ. Dương Quá ngỡ ngàng, hoang mang đi vào theo, một tay phải tựa vào lưng ghế.

Công Tôn cốc chủ sắc diện vốn lãnh đạm, lúc này bất giác hoan hỉ, chìa tay về phía các vị khách, nói:

– Đây là tân hôn phu nhân của tiểu đệ, chiều nay sẽ làm lễ thành thân.

Nói đoạn liếc một cái về phía Dương Quá, tựa hồ trách chàng vừa rồi hành sự thô lỗ, nhận lầm người, làm cho tân phu nhân của y hoảng sợ.

Dương Quá càng kinh hãi hết mức, nói to:

– Cô cô, chẳng lẽ cô cô.. cô cô không phải là Tiểu Long Nữ ư? Chẳng lẽ cô cô không phải là sư phụ của ta ư?

Bạch y thiếu nữ chậm rãi lắc đầu, nói:

– Không phải! Tiểu Long Nữ là ai?

Dương Quá hai tay nắm chặt lại, móng tay hằn sâu vào lòng bàn tay, đầu óc rối loạn, nghĩ: "Cô cô giận ta, không chịu nhận ta ư? Chỉ vì chúng ta lâm vào hiểm địa, cô cô phải giả bộ thế chăng? Hay là nàng cũng bị bệnh như nghĩa phụ ta, quên hết mọi việc rồi? Nhưng nghĩa phụ vẫn biết nhận ra ta kia mà. Không lẽ trên thế gian lại có người giống nàng như đúc thế sao?" Chàng chỉ biết nói:

– Cô cô.. cô cô.. cô cô.. ta là Quá nhi đây!

Công Tôn cốc chủ thấy Dương Quá thất thần, thì hơi cau mày, nói khẽ với Bạch y thiếu nữ:

– Liễu muội, hôm nay thật lắm người kỳ quái.

Bạch y thiếu nữ chẳng nói gì, lẳng lặng rót nước trắng, thong thả uống, mắt nhìn lướt qua Kim Luân pháp vương, tránh không nhìn Dương Quá. Mọi người thấy ống tay áo của nàng run run, nước trong chén sóng sánh rơi xuống vạt áo mà nàng không biết.

Dương Quá bàng hoàng thảng thốt, quay sang nói với Kim Luân pháp vương:

– Sư phụ tại hạ từng tỷ thí với đại sư, đại sư nhất định còn nhớ. Đại sư thử nói coi, tại hạ có nhận lầm người hay không?

Khi bạch y thiếu nữ bước vào sảnh, Kim Luân pháp vương đã nhận ngay ra nàng là Tiểu Long Nữ, song thấy nàng chẳng lý gì tới Dương Quá, lão đoán đôi nam nữ thiếu niên này có chuyện không ổn với nhau, bèn mỉm cười, nói:

– Lão nạp cũng không nhớ lắm.

Tiểu Long Nữ từng liên thủ với Dương Quá sử "Ngọc nữ kiếm pháp" khiến lão bị đại bại chưa từng thấy trong đời. Lão nghĩ nếu đôi trai gái này không nhìn mặt nhau nữa, sẽ chỉ có lợi cho lão, tội gì giúp họ làm lành với nhau?

Dương Quá kinh ngạc, chợt hiểu, thầm nổi giận: "Lão hòa thượng này quá thâm độc. Khi lão đang dưỡng thương trên đỉnh núi, ta đã dốc sức giúp lão, bây giờ lão trở mặt hại ta". Chàng căm hận muốn giết chết lão ta.

Kim Luân pháp vương thấy Dương Quá thất thần lạc phách, ánh mắt lộ rõ vẻ căm hận, thì nghĩ: "Hắn căm tức ta, để tên tiểu tử này sống chỉ lưu hậu họa. Hôm nay hắn rối loạn tâm trí, đúng là dịp tốt để trừ khử hắn". Lão chắp tay vui vẻ nói với Công Tôn cốc chủ:

– Hôm nay may gặp ngày đại hỉ của cốc chủ, tất nhiên lão nạp ở lại dự lễ chúc mừng; chỉ hiềm lão nạp và nấy vị bằng hữu đây không kịp sửa lễ chúc mừng, nghĩ thật áy náy.

Công Tôn cốc chủ thấy lão chịu ở lại dự lễ, thì rất mừng, nói với bạch y thiếu nữ:

– Các vị đây đều là cao nhân trong võ lâm, chỉ cần mời được một vị đã đại vinh hạnh, huống hồ mời được những.. những..

Y định nói "những sáu vị", nhưng cảm thấy Dương Quá ít tuổi non nớt, ban nãy nhìn chàng động thủ với Chu Bá Thông, tư thế tuy đẹp, nhưng công lực tầm thường, nghĩ tu vi võ học non kém, chưa thể xếp hạng "cao nhân võ lâm"; nhưng nếu gạt chàng ra, nói rõ "năm vị", thì không khỏi lộ liễu, sau một lát trù trừ, bèn tiếp:

– Những mấy vị anh hùng.

Kim Luân pháp vương nghĩ: "Gã cốc chủ khá lợi hại, cứ xem gã bày trận chăng lưới bắt Lão Ngoan đồng, đủ biết võ công và mưu trí của gã đều cao siêu, nhưng độ lượng lại hẹp hòi. Dương Quá nói vài câu với Tiểu Long Nữ, gã đã để bụng".

Công Tôn cốc chủ nói:

– Liễu muội, vị này là Kim Luân pháp vương..

Y dẫn kiến lần lượt từng người, cuối cùng đến Dương Quá. Bạch y thiếu nữ nghe họ tên, danh hiệu từng người đều gật đầu nhẹ, sắc mặt thản nhiên, cơ hồ không lưu tâm; nghe tên Dương Quá, nàng chẳng buồn gật đầu, mắt thì lơ đãng nhìn ra ngoài sảnh.

Dương Quá đỏ bừng cả mặt, trong lòng ngổn ngang, Công Tôn cốc chủ nói gì, chàng đều không hiểu. Bọn Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây không biết nội tình, ngỡ chàng nhận lầm người nên xấu hổ.

Công Tôn Lục Ngạc đứng sau lưng phụ thân, mọi cử chỉ lời lẽ của Dương Quá, nàng không hề bỏ sót, nghĩ: "Sáng sớm nay ngón tay chàng bị gai hoa Tình; nhìn bộ dạng này, không lẽ kế mẫu của ta lại là ý trung nhân của chàng hay sao? Thiên hạ sao lại có sự tình cờ lạ lùng đến thế? Không lẽ chàng cùng mấy người kia đến sơn cốc là để tìm kế mẫu của ta?" Nàng liếc nhìn "kế mẫu" thì thấy người ấy chẳng có gì vui mừng hoặc e thẹn như một cô dâu, nên nàng càng nghi ngờ.

Dương Quá đau đớn trong lòng, nhưng lại nghĩ: "Cô cô đã cố ý không nhận ta, chắc hẳn nàng có mưu đồ gì đó, ta cần tìm cách nắm được chân tướng". Thế là chàng bèn đứng dậy, vái cốc chủ một vái, nói:

– Tiểu tử có một người bà con diện mạo rất.. rất giống vị cô nương này, vừa rồi nhận lầm người, mong lượng thứ cho.

Công Tôn cốc chủ nghe câu nói lễ độ, liền thay đổi ngay vẻ mặt, cũng vái đáp lễ, nói:

– Nhận lầm người là chuyện thường, không có gì đáng trách. Có điều..

Y dừng giây lát, rồi cười, nói tiếp:

– Thiên hạ lại có một người giống hệt như nàng, thì thật quái lạ.

Ngụ ý của y là khắp thiên hạ không thể có thiếu nữ nào xinh đẹp như tân nương của y.

Dương Quá nói:

– Đúng thế. Tiểu tử cũng thấy thật là quái lạ. Tiểu tử mạo muội, thỉnh vấn quý tính đại danh của cô nương?

Công Tôn cốc chủ mỉm cười, nói:

– Nàng họ Liễu. Người bà con của tiểu huynh đệ cũng họ Liễu chứ?

Dương Quá nói:

– Không, họ khác.

Trong bụng nghĩ: "Sao cô cô lại đổi thành họ Liễu? Phải rồi, vì ta họ Dương". Vừa nghĩ thế, ngón tay lại đau buốt. Công Tôn Lục Ngạc nhìn vẻ đau đớn của chàng, cảm thấy thương hại, ánh mắt vẫn không rời mặt chàng.

Công Tôn cốc chủ chăm chú nhìn Dương Quá một lát lại nhìn bạch y thiếu nữ, thấy nàng cúi đầu nhìn xuống, không nói gì, thì y lại nghi ngờ, nghĩ: "Ban nãy hình như ta nghe nàng gọi Quá nhi, Quá nhi, Quá nhi ở đâu? Quá nhi gọi ta phải không? Chẳng lẽ nàng chính là người thân của gã thiếu niên này? Nhưng vì sao nàng không nhận hắn?" Y định căn vặn, nhưng lại nghĩ chỗ này đông người, đợi sau hôn lễ hỏi cũng không muộn, nên lại thôi.

Dương Quá lại nói:

– Liễu cô nương chắc không sống ở sơn cốc này, không biết cốc chủ quen biết nàng ta như thế nào?

Thời xưa, nữ nhân vốn không dễ gì tiếp xúc với người ngoài, ngày thành hôn càng không ra tiếp khách; nhưng bọn Kim Luân pháp vương hoặc là người Hồ ở Tây Vực, hoặc bôn ba giang hồ, không câu nệ lễ tiết, thấy bạch y thiếu nữ ra đây ngồi, cũng không cho là kỳ, nhưng vào ngày hôn lễ mà nàng lại mặc đồ tang, thì không tránh khỏi quái dị; nghe Dương Quá vặn hỏi cốc chủ quen biết bạch y thiếu nữ thế nào, đi sâu vào chuyện riêng tư, thì đều cảm thấy bất nhã.

Công Tôn cốc chủ cũng đang muốn biết lai lịch vị hôn thê của mình, nghĩ: "Tên tiểu tử này quả thực quen biết Liễu muội cũng không chừng", bèn nói:

– Dương huynh đệ đoán không sai. Nửa tháng trước, tại hạ đi hái thuốc ở rìa núi, thấy nàng nằm ở chân núi, bị trọng thương, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Tại hạ thăm dò, biết nàng bị tẩu hỏa nhập ma nhân luyện nội công, bèn cứu mang về cốc, dùng linh dược gia truyền giúp nàng điều dưỡng. Nói về nhân duyên quen biết, thì quả thật là chuyện ngẫu nhiên.

Kim Luân pháp vương góp lời:

– Cái đó gọi là "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ", chắc Liễu cô nương cảm ân đồ báo, mới tính chuyện nâng khăn sửa túi. Đúng là lang tài nữ mạo, giai ngẫu thiên thành.

Câu nói của gã tựa hồ vừa nịnh cốc chủ, vừa đánh Dương Quá.

Dương Quá nghe câu đó quả nhiên tái mặt, toàn thân run rẩy, đột nhiên thấy cổ họng ngòn ngọt, miệng hộc ra một ngụm máu.

Bạch y thiếu nữ thấy vậy, thốt lên, giọng run run:

– Ngươi.. ngươi..

Nàng đứng bật dậy, định giơ tay đỡ Dương Quá, nhưng lại kìm được, song cũng hộc ra một ngụm máu tươi, làm đỏ loang cả vạt áo.

Liễu cô nương chính là Tiểu Long Nữ đổi tên. Đêm nọ tại khách điếm, sau khi nghe Hoàng Dung nói, nàng nghĩ nếu kết thành phu phụ với Dương Quá, sẽ làm cho chàng liên lụy, suốt đời bị thóa mạ khinh bỉ; nàng sẽ không thể yên lòng; mà nếu cứ giữ chàng sống trong tòa cổ mộ, lâu ngày chàng sẽ phiền muộn, nàng trăn trở suy tính suốt đêm, cuối cùng dằn lòng lẳng lặng bỏ đi. Đối với Dương Quá, nàng đúng là tình thâm ái trọng, việc đoạn tuyệt này quả thực xuất phát từ ái tình sâu nặng với chàng. Nghĩ nếu trở về cổ mộ, Dương Quá ắt sẽ tìm gặp; thế là nàng một mình lang thang nơi khoáng dã cùng cốc; một hôm ngồi vận công, đột nhiên tình cảm dâng trào, khó bề kìm nén, nội tức xung đột kinh mạch, làm cho vết thương cũ tái phát, nếu không được Công Tôn cốc chủ tình cờ ngang qua cứu chữa, chắc đã bỏ mạng giữa hoang sơn.

Công Tôn cốc chủ góa vợ đã lâu, thấy Tiểu Long Nữ tú lệ kiều mỹ, bình sinh chưa từng thấy, bên cạnh cái ý cứu người lại càng ân cần bội phần. Tiểu Long Nữ thì chán ngán tất cả, nghĩ sau này sống độc thân, chắc khó kìm lòng, lại sẽ đi tìm Dương Quá, làm cho chàng bị liên lụy. Thấy Công Tôn cốc chủ tình ý triền miên, ngỏ lời cầu hôn, nàng bèn đáp ứng, nghĩ rằng từ nay đã thành vợ người, tự thị chấm dứt nghiệt duyên với Dương Quá, hơn nữa chốn này người ngoài hiếm tới, hẳn sẽ không bao giờ còn gặp mặt chàng.

Nào ngờ Lão Ngoan đồng đột nhiên tìm đến phá rối, dẫn lối cho chàng đến đây.

Tiểu Long Nữ đột nhiên gặp lại Dương Quá, thật quả ngổn ngang trăm mối bên lòng, nghĩ thầm: "Mình đã đáp ứng lấy người khác, vậy phải giả bộ không quen biết chàng, để cho chàng tức giận bỏ đi, hận mình suốt đời. Tài mạo như chàng, lo gì không gặp giai nhân xứng đôi? Mình tuy đau lòng cả đời, nhưng sẽ tránh cho chàng khỏi bị đau khổ". Vì thế, nhìn Dương Quá khổ sở đấy, song nàng cứ làm ngơ. Tuy nhiên lòng đau như cắt, càng lúc càng khó chịu đựng, vừa rồi thấy chàng thổ huyết, nàng bất giác nôn nao, cũng hộc máu ra.

Mặt nàng tái nhợt, nàng chệnh choạng đi vào nội thất, Công Tôn cốc chủ vội nói:

– Đừng cử động, mau ngồi xuống, kẻo chấn động kinh mạch.

Rồi y quay sang bảo Dương Quá:

– Ngươi hãy ra khỏi đây ngay, vĩnh viễn đừng tới đây nữa.

Dương Quá nước mắt lưng tròng, nói với Tiểu Long Nữ:

– Cô cô, nếu ta làm gì sai trái, cô cô cứ việc đánh chửi ta, rút kiếm giết ta, ta cũng cam lòng. Sao cô cô nỡ không nhận ta kia chứ?

Tiểu Long Nữ cúi đầu không nói, húng hắng ho.

Công Tôn cốc chủ thấy Dương Quá làm cho Tiểu Long Nữ bị thổ huyết, đã tức giận dị thường, phải nói là công phu hàm dưỡng của y rất cao, mới không phát tác, chỉ gằn giọng nói:

– Ngươi không xéo đi, đừng trách ta thủ hạ vô tình.

Dương Quá trân trân nhìn Tiểu Long Nữ, chẳng lý gì đến cốc chủ, giọng van nài:

– Cô cô, ta bằng lòng suốt đời ở trong cổ mộ với cô cô quyết không hối hận; hai ta cùng về đi.

Tiểu Long Nữ ngẩng đầu, gặp ánh mắt của chàng, chỉ thấy vẻ mặt thâm tình vô hạn, sầu khổ vạn phần, bất giác trong lòng dao động, nghĩ: "Mình đi theo chàng thôi!" Nhưng lại nghĩ: "Mình bỏ chàng đi đâu phải chuyện giây lát. Đã suy đi tính lại mọi mặt. Bây giờ không cố nén lòng, sẽ làm cho chàng đau khổ suốt đời". Thế là nàng bèn ngoảnh mặt đi, thở dài, nói:

– Ta không quen biết ngươi mà. Ngươi nói gì, ta không hiểu đâu. Ngươi hãy đi đi cho yên lành!

Mấy câu này nói ra có khí vô lực, song ẩn chứa biết bao nhu tình luyến ý, trừ Mã Quang Tá thô kệch không hiểu, còn hết thảy mọi người trong sảnh đều biết nàng có thâm tình với Dương Quá, những lời này trái với lòng nàng.

Công Tôn cốc chủ không khỏi ghen tức, nghĩ: "Nàng tuy bằng lòng lấy ta, song chưa từng nói với ta nửa lời thâm tình chừng ấy". Y trừng mắt nhìn Dương Quá, thấy chàng mi thanh mục tú, anh khí tràn trề, với Tiểu Long Nữ quả xứng đôi vừa lứa, nghĩ bụng: "Xem chừng hai người này hẳn là một đôi tình lữ. Chỉ vì có chuyện bất hòa gì đây, Liễu muội mới bằng lòng lấy ta, song hoàn toàn chưa quên tên tiểu tử này. Hắn lớn hơn Liễu muội vài tuổi, sao lại gọi nàng là" cô cô "với chả" sư phụ ". Nghĩ đến đây, ánh mắt của y lộ vẻ hết sức tức giận.

Phàn Nhất Ông rất trung thành với sư phụ, thấy sư phụ bao năm vò võ cô đơn, thường mong có cách gì giải sầu cho y; nửa tháng trước sư phụ mang về một thiếu nữ xinh đẹp, thiếu nữ ấy lại bằng lòng làm vợ sư phụ, thì lão vui mừng cơ hồ chẳng kém gì sư phụ; bây giờ bỗng thấy Dương Quá xuất hiện ngăn trở, khiến sư mẫu phải thổ huyết, sư phụ vẫn nín nhịn, lão bèn đứng ra, xẵng giọng nói:

– Tên tiểu tử họ Dương kia, ngươi khôn hồn thì xéo đi! Cốc chủ của bọn ta không thích hạng tân khách vô lễ như ngươi.

Dương Quá nghe mà không thấy, lại dịu dàng nói với Tiểu Long Nữ:

– Cô cô, cô cô quên hẳn ta rồi ư?

Phàn Nhất Ông cả giận, giơ tay túm sau lưng chàng để quẳng chàng ra khỏi sảnh. Dương Quá toàn tâm toàn ý nói với Tiểu Long Nữ, không để mắt đến mọi việc khác, đến lúc ngón tay của Phàn Nhất Ông chạm tới lưng, chàng mới vội thu mình, soạt một tiếng, năm ngón tay Phàn Nhất ông làm rách một lỗ thủng to ở chiếc áo của chàng.

Dương Quá van nài, thấy Tiểu Long Nữ trước sau vẫn chẳng lý đến chàng, thì càng lo cuống, giá ở trong cổ mộ hoặc chỗ không người, còn có thể thong thả cầu xin; đàng này giữa đại sảnh đông người, vừa rồi còn bị Phàn Nhất Ông quát tháo, động thủ, thì bao nhiêu uất ức muốn trút xuống đầu Phàn Nhất Ông, chàng quay lại quát:

– Ta nói chuyện với cô cô ta, can hệ gì tới lão, hả lão lùn kia?

Phàn Nhất Ông quát to:

– Cốc chủ bảo ngươi xéo đi, vĩnh viễn không cho phép ngươi đặt chân tới đây nữa. Ngươi không nghe lệnh, thì đừng trách ta hạ thủ vô tình.

Dương Quá nổi giận:

– Ta không đi đấy, cô cô ta không đi, thì ta sẽ ở đây suốt đời. Dẫu ta có chết, xương cốt hóa thành tro, ta cũng ở bên nàng.

Mấy câu này cốt nói cho Tiểu Long Nữ nghe. Công Tôn cốc chủ nhìn trộm nét mặt Tiểu Long Nữ. Thấy nàng nước mắt lưng tròng, thì y không nhịn nổi nữa, máu nóng dâng lên ngực. Y lại cố nuốt giận, ra hiệu bằng mắt cho Phàn Nhất Ông, phẩy nhẹ mấy ngón tay, ngụ ý bảo lão hạ sát thủ, giết quách Dương Quá để Tiểu Long Nữ khỏi tơ tưởng, tránh hậu họa.

Phàn Nhất Ông thấy sư phụ ra hiệu như vậy thì không ngờ; lão vốn chỉ định đuổi Dương Quá ra khỏi sơn cốc, để chàng khỏi gây rắc rối là được rồi; nào ngờ sư phụ lại hạ lệnh giết người, bèn nói to:

– Hôm nay tuy là ngày đại hỉ của sư phụ, chẳng lẽ ta không dám giết người hay sao?

Lão quát và nhìn sư phụ. Công Tôn cốc chủ lại ra hiệu phẩy tay, ngụ ý khỏi cần ngại ngày đại hỉ gì cả, cứ giết luôn gã thiếu niên này đi. Phàn Nhất Ông cầm cây cương trượng lên, dộng mạnh xuống nền, làm chấn động cả đại sảnh, quát:

– Tên tiểu tử, ngươi không sợ chết thật ư?

Dương Quá mới bị hộc một ngụm máu, lúc này lại cảm thấy máu nóng dâng lên trong ngực, như muốn ộc ra. Nội công phái Cổ Mộ chú trọng khắc kỷ tiết dục, sư phụ của Tiểu Long Nữ khi truyền thụ tâm pháp cho nàng, đã dặn kỹ phải đoạn tuyệt mọi hỉ nộ ai lạc; sau đó Tiểu Long Nữ từng đôi phen thổ huyết vì không nén được tâm tình. Dương Quá được Tiểu Long Nữ truyền thụ, nội công cùng một lộ với nàng, lúc này chàng lạnh lùng nghĩ:" Ta phải hộc máu trước mặt nàng mà chết, xem nàng có chịu ngó đến ta hay không? "Nhưng lại nghĩ:" Cô cô thường ngày đối với ta rất thân ái, chuyện hôm nay, chắc bên trong có ẩn tình gì đây, quá nửa là bị lão tặc cốc chủ kia khống chế, mới không dám nhận ta. Nếu ta tự hành hạ thể xác mình, thì làm sao còn sức kháng cự? "Nghĩ vậy, lập tức hùng tâm đại chấn, chàng quyết ý liều mạng phá vây, cứu Tiểu Long Nữ thoát hiểm, vội trấn tĩnh, đưa khí xuống đan điền, máu nóng xuôi dần. Chàng mỉm cười, chỉ Phàn Nhất Ông, nói:

– Cái sơn cốc chết tiệt này, ta muốn tới, lão chẳng ngăn nổi ta; muốn đi, lão cũng đừng hòng giữ lại.

Mọi người thấy chàng phút chốc thay đổi hẳn, tưởng sắp phát điên, thế mà lại thần định khí nhàn, thì rất kinh ngạc.

Phàn Nhất Ông ban đầu thấy chàng thổ huyết, cũng ái ngại cho chàng, thực không nỡ lấy mạng chàng. Lão vung cương trượng, tạo thành luồng gió làm bay bay vạt áo của Dương Quá, quát:

– Rốt cuộc ngươi có xéo đi hay không?

Công Tôn cốc chủ cau mày, nói:

– Nhất Ông, sao người lắm lời mãi vậy?

Phàn Nhất Ông biết sư phụ đã hạ nghiêm lệnh, đành quật mạnh cây trượng ngang ống chân Dương Quá. Công Tôn Lục Ngạc biết đại sư huynh võ nghệ kinh nhân, tuy thân hình thấp lùn, nhưng trời phú cho thần lực, võ công đã được phụ thân nàng truyền thụ bảy, tám phần mười; cây cương trượng này đã đánh chết không ít mãnh thú. Nàng nghĩ Dương Quá trẻ tuổi, nhất định không địch nổi chín chín tám mốt lộ trượng pháp của đại sư huynh; đợi lúc hai người đã giao đấu, sẽ càng khó cứu chàng hơn; tuy nàng thấy sắc mặt nghiêm lạnh, cực nộ của phụ thân, nàng cũng đánh bạo bước ra nói với Dương Quá:

– Dương công tử, công tử ở lại đây cũng vô ích, tội gì uổng phí sinh mạng đi như vậy?

Giọng nói của nàng ấm áp, đầy vẻ quan hoài.

Bọn Kim Luân pháp vương cùng nhìn về phía nàng, thầm ngạc nhiên, nghĩ:" Dương Quá cùng vào đây với cả bọn, không hiểu làm cách nào hắn đã kịp lẻn đi kết giao với cô nương kia? "

Dương Quá gật đầu, mỉm cười, nói:

– Đa tạ hảo ý của cô nương. Cô nương có muốn lấy bộ râu dài kia tết đuôi sam chơi chăng?

Công Tôn Lục Ngạc ngẩn người, hỏi:

– Cái gì cơ?

Dương Quá nói:

– Ta sẽ cắt bộ râu của lão lùn cho cô nương làm đồ chơi, được chứ?

Công Tôn Lục Ngạc cả kinh thất sắc, nghĩ thầm chàng đùa cợt kiểu đó thì đúng là chán sống rồi. Ở Tuyệt Tình cốc này qui củ rất nghiêm, nàng khuyên Dương Quá vài câu, chắc chắn sẽ bị phụ thân phạt nặng; ai ngờ lại còn khiến chàng nói nhăng nói cuội, nàng đỏ mặt, vội lùi về chỗ cũ.

Phàn Nhất Ông thấp lùn, vốn rất tự phụ về bộ râu của mình, nghe Dương Quá xuất ngôn khinh bạc, bèn quẳng cây trượng xuống đất, quát:

– Hảo tiểu tử, hãy cho ngươi nếm đòn râu của ta trước.

Lời chưa dứt, bộ râu dài đã quất tới. Dương Quá cười, nói:

– Lão Ngoan đồng không xén được bộ râu của lão, ta sẽ cắt thử.

Chàng rút cây kéo lớn trong bọc ra, chĩa nhanh đón bộ râu. Bộ râu dài của Phàn Nhất Ông quất thẳng tới đỉnh đầu Dương Quá, đòn thế rất lợi hại. Dương Quá hơi rùn người xuống, tránh sang một bên, chĩa lưỡi kéo ra đón, tách một tiếng, hai lưỡi kép bập lại, Phàn Nhất Ông cả kinh, vội hất ra, chậm chút nữa thì bộ râu đã bị cắt mất. Lão hoảng sợ, những người đứng xem không hẹn nhau, cùng kêu" ôi ".

Nên biết Dương Quá nhờ Phùng Mặc Phong rèn chiếc kéo này là để đối phó với cây phất trần của Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu tung hoành giang hồ nhờ đôi Ngũ độc thần chưởng và một cây phất trần; Dương Quá muốn hóa giải công phu sử dụng cây phất trần của nàng ta, đã suy tính rất kỹ cách dùng chiếc kéo này; không ngờ chưa phải đấu với Lý Mạc Sầu, thì ở đây chàng lại gặp lão lùn Phàn Nhất Ông dùng bộ râu dài làm binh khí. Dương Quá nghĩ:" Công phu sử dụng bộ râu của lão có lợi hại mấy, cũng chẳng thể bằng cây phất trần của Lý Mạc Sầu ". Thế là không chút sợ hãi, cầm kéo xông tới.

Phàn Nhất Ông đã có hơn mười năm luyện tập với bộ râu, chỉ dùng đầu mặt điều khiển bộ râu, cùng với song chưởng cấp công đối phương. Ban nãy Chu Bá Thông dùng kéo cắt râu, không ngờ lại bị bộ râu của Phàn Nhất Ông quấn lấy cái kéo, đành nhận thua.

Mọi người đã biết tài nghệ của Chu Bá Thông, tự thẹn không bằng lão; nào ngờ Dương Quá cũng dùng chiếc kéo này, song thủ pháp lại thành thạo hơn hẳn Lão Ngoan đồng, thì ai cũng kinh ngạc. Nói về công lực võ kỹ, Dương Quá thua xa Lão Ngoan đồng; nhưng vì chàng đã luyện kỹ cách đối phó với cây phất trần của Lý Mạc Sầu, mà công phu sử dụng bộ râu thì đại để cũng tương tự chiêu số của cây phất trần, cho nên quả nhiên Dương Quá đắc tâm ứng thủ; chiếm hẳn thượng phong, khác hẳn lối dụng kéo tùy tiện, vô chương pháp của Lão Ngoan đồng. Bọn Kim Luân pháp vương thấy Lão Ngoan đồng trao cái kéo cho Dương Quá, cứ tưởng đấy là thứ binh khí độc đáo kỳ quái do lão chế ra. Dương Quá quen sử kiếm thế nào, thì Kim Luân pháp vương đã biết; không ngờ chàng lại giỏi sử kéo thế này.

Phàn Nhất Ông mấy lần suýt bị cắt mất bộ râu, không dám coi thường gã thiếu niên này nữa; chiêu pháp cũng thay đổi, lão múa bộ râu từ bốn phương tám hướng đánh tới tấp, quất dọc quét ngang, vẫn thành chiêu số hẳn hoi. Dương Quá chĩa kéo cắt mấy lần đều không trúng; lại thấy chưởng phong lợi hại, có lúc bộ râu là hư chiêu, chưởng lực mới đánh thực; có lúc chưởng pháp dẫn dụ, để bộ râu thừa cơ công kích, thực thực hư hư, quả nhiên là thứ công phu kỳ diệu chưa từng gặp trong võ lâm. Đấu mấy chục chiêu rồi, Dương Quá nghĩ:" Cốc chủ nham hiểm, võ công hẳn cao hơn lão lùn; ta không thắng đệ tử, làm sao đương đầu với sư phụ của lão ta? "Chàng hơi nôn nóng. Bộ râu của Phàn Nhất Ông vừa dài vừa dày hơn hẳn cây phất trần của Lý Mạc Sầu, thành thử chàng chưa tìm ra cách hóa giải.

Lại đấu thêm mấy chiêu, Dương Quá chăm chú quan sát đối phương, thấy Phàn Nhất Ông lúc lắc đầu trông rất hoạt kê, bộ râu chuyển động càng lúc càng gấp, chàng chợt nảy ra cách hóa giải, bèn nhảy lùi nửa trượng, nói:

– Hượm đã!

Phàn Nhất Ông không đuổi theo, hỏi:

– Tiểu huynh đệ, ngươi đã chịu thua, thì nên rời khỏi sơn cốc cho mau!

Dương Quá cười, lắc đầu, nói:

– Này, bộ râu của lão nếu bị cắt cụt, phải bao lâu sau mới nuôi dài bằng nửa thế kia?

Phàn Nhất Ông nổi giận:

– Việc đó can hệ gì đến ngươi? Bộ râu của ta chưa cắt ngắn bao giờ.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Đáng tiếc, đáng tiếc!

Phàn Nhất Ông hỏi:

– Đáng tiếc cái gì?

Dương Quá nói:

– Trong vòng ba chiêu, ta sẽ cắt cụt bộ râu của lão.

Phàn Nhất Ông nghĩ:" Ngươi và ta đấu mấy chục chiêu, vẫn đôi bên ngang ngửa; nội trong ba chiêu đòi thủ thắng, hừ, đừng có nằm mơ! "Lão gầm lên:

– Tiếp chiêu!

Hữu chưởng đánh ra; Dương Quá dùng tay trái chặt xéo, cây kéo trong tay phải đánh xuống trán mé trái của đối phương. Chàng cao hơn, nên khi ra đòn thì mũi kéo xỉa từ trên xuống dưới. Phàn Nhất Ông nghiêng đầu né tránh, không ngờ tả chưởng của Dương Quá cũng đánh thẳng xuống trán mé bên phải của lão, chưởng thế cực kỳ hung mãnh. Phàn Nhất Ông vội nghiêng đầu né sang bên trái; chiêu đánh tới của đối phương rất nhanh, lão né tránh cũng cực lẹ, bộ râu dài của lão hất sang; chiếc kéo của Dương Quá đã chờ sẵn ở mé phải, xoẹt một tiếng, cắt mất hơn hai thước bộ râu của lão.

Mọi người cùng ồ lên, vô cùng kinh ngạc, thấy quả nhiên nội trong ba chiêu, Dương Quá đã cắt cụt bộ râu dài của Phàn Nhất Ông.

Nguyên Dương Quá đấu hồi lâu, cuối cùng phát hiện khi bộ râu của Phàn Nhất Ông quất sang trái, thì trước đó đầu lão ta tất hất sang bên phải; bộ râu quất từ dưới lên trên, thì trước đó đầu lão ta tất hất xuống dưới; chàng tự mắng mình ngu xuẩn:" Râu mọc từ cằm ra, muốn điều khiển bộ râu dài, đầu lão ta tất phải chuyển động trước. Mình chẳng chú ý đến cái gốc của đòn địch, cứ chăm chăm nhìn bộ râu, thật quá ngu ". Trong bụng định sẵn kế nhìn đầu mà cắt râu rồi, mới nói nội trong ba chiêu sẽ cắt được bộ râu của đối phương.

Phàn Nhất Ông sững sờ, nhìn bộ râu nửa đời nuôi dưỡng của mình rơi lả tả xuống đất, vừa tiếc nuối, vừa tức giận, cúi nhặt cây cương trượng lên, quát:

– Hôm nay ta quyết sống mái với ngươi, ngươi đừng hòng thoát khỏi chốn này.

Dương Quá cười, nói:

– Thì ta đâu có định bỏ đi!

Phàn Nhất Ông quật cây cương trượng ngang lưng Dương Quá.

Mã Quang Tá ẩu đả hồi lâu với Phàn Nhất Ông, bị lép vế, bây giờ đắc ý, reo to:

– Này lão lùn, tướng mạo lão đã không đẹp, nay mất bộ râu, trông càng xấu xí dị dạng.

Phàn Nhất Ông nghe vậy, nghiến răng, dồn thêm ba phần kình lực vào cây trượng.

Dương Quá giao đấu với bộ râu của Phàn Nhất Ông hồi lâu, chưa rõ lực cánh tay của lão ta thế nào; thấy cây trượng quật tới, chàng giơ kéo ra chặn; choang một tiếng rất lớn, tay chàng tê dại, cái kéo đã cong queo, không còn hình thù gì nữa.

Một chiêu ấy đã loại bỏ cái kéo. Mọi người thấy Dương Quá vừa đắc thắng, không ngờ đổi sang thứ binh khí khác, ưu thế đôi bên cũng đổi hẳn: Phàn Nhất Ông tay nắm cây trượng to nặng lợi hại, Dương Quá thì chỉ cầm cái kéo phế thải trong tay. Công Tôn Lục Ngạc không nén được, lên tiếng:

– Dương công tử, công tử không có sức lực bằng đại sư huynh của tiểu nữ đâu, hà tất còn tái đấu?

Công Tôn cốc chủ thấy con gái mình lại đi bênh người ngoài, thì tức giận trừng mắt với nàng, chỉ thấy mặt nàng đầy vẻ quan tâm lo lắng; y lại nhìn Tiểu Long Nữ, thấy nàng thần sắc thản nhiên, hững hờ trước sự an nguy của Dương Quá, thì y đổi giận thành vui nghĩ:" Thì ra nàng chẳng có tình ý gì với tên tiểu tử kia, nếu không, trước cảnh hắn lâm nguy hiểm, nàng đã lo sợ ". Y đâu ngờ Tiểu Long Nữ thừa biết Dương Quá rất mưu trí, võ công cũng cao hơn Phàn Nhất Ông; hai bên giao đấu, Dương Quá chỉ có thắng mà thôi, nên không có gì đáng lo.

Dương Quá quẳng cái kéo cong queo xuống đất, nói:

– Này lão Phàn, lão không phải là đối thủ của ta, hãy mau buông trượng đầu hàng.

Phàn Nhất Ông tức giận, nói:

– Ngươi thắng được cây trượng này của ta, ta sẽ đập đầu mà chết.

Dương Quá nói:

– Đáng tiếc, đáng tiếc!

Phàn Nhất Ông quát:

– Tiếp chiêu!

Lão sử chiêu" Thái Sơn áp đỉnh ", bổ cây trượng xuống đầu Dương Quá. Chàng né nhanh sang bên, chân trái đã đè lên đầu cây trượng. Phàn Nhất Ông hai tay hất cây trượng lên. Dương Quá bay lên theo cây trượng, chân trái vẫn đè lên đầu cây trượng. Phàn Nhất Ông hất hất mấy lần, vẫn không đẩy được chàng ra khỏi cây trượng, đã thế Dương Quá còn đặt cả bàn chân phải lên thân cây trượng.

Quái chiêu của chàng, dưới con mắt mọi người và Phàn Nhất Ông, là không thể hiểu nổi; kỳ thực chỉ là thường pháp của phái Cổ Mộ dùng khinh công tuyệt đỉnh vô hiệu hóa binh khí dài và lớn của đối phương.

Năm nào Lý Mạc Sầu đấu với Võ Tam Thông trước cửa hầm rượu, đứng đè lên cái cây lớn mà Võ Tam Thông dùng làm binh khí, chính là môn công phu này.

Phàn Nhất Ông đang sững sờ, Dương Quá bước chân trái lại một bước, chân phải tung cước đá vào mũi lão. Lúc này tình thế của Phàn Nhất Ông vô cùng khó khăn: Đối phương đè trên cây trượng, hai tay lão phải giữ nó, không lấy gì đối phó, bộ râu thì đã bị cắt, mất lợi khí phòng thân, trong lúc nguy cấp, đành buông cây trượng, nhảy lùi tránh cước. Keng một tiếng, cây trượng rơi xuống đất, một đầu của nó chưa tới đất đã bị Dương Quá chộp lấy.

Bọn Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá, Tiêu Tương Tử cùng reo lên khen ngợi. Dương Quá dộng cây trượng xuống nền một cái, cười, hỏi:

– Thế nào?

Phàn Nhất Ông đỏ mặt, nói:

– Ta nhất thời sơ ý, trúng quỷ kế của ngươi, trong lòng chưa phục.

Dương Quá nói:

– Cho đấu lại đấy.

Chàng tung nhẹ cây trượng sang. Phàn Nhất Ông giơ tay đón. Nào ngờ cây trượng bay ngang đến cách lão hơn hai thước thì đột nhiên hất lên trên, Phàn Nhất Ông chộp hụt, Dương Quá phi thân tới, giơ cánh tay dài ra tóm lại được. Bọn Ni Ma Tinh, Mã Quang Tá reo to hơn, Phàn Nhất Ông thì tím mặt lại.

Kim Luân pháp vương và Doãn Khắc Tây nhìn nhau cười, trong bụng thầm khen Dương Quá thông minh. Hôm qua Chu Bá Thông chộp mũi giáo và bẻ gãy, kình lực thu phát tùy ý, lúc này Dương Quá học theo cách ấy chỉ khác hôm qua bốn mũi giáo, bây giờ chỉ có một; cây trượng rất nặng, truyền kình không khó, động tác của Dương Quá dễ hơn nhiều so với Chu Bá Thông. Nhưng Công Tôn cốc chủ và mọi người không biết duyên do, nên không khỏi kinh dị.

Dương Quá cười, hỏi:

– Thế nào? Có muốn thử lại một lần nữa không?

Phàn Nhất Ông đã bị cắt râu, bị đoạt mất cây trượng, toàn là do đối phương dùng trí thủ thắng, đời nào lão chịu thua? Lão nói to:

– Nếu ngươi dùng bản lĩnh đích thực thắng ta, ta mới phục.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Đạo của võ học, lấy trí xảo làm đầu. Sư phụ của lão đầu óc mù mờ, thì đệ tử làm sao giỏi được. Ta khuyên lão đi tìm minh sư thì hơn.

Câu này chẳng khác gì nhổ vào mặt Công Tôn cốc chủ.

Phàn Nhất Ông nghĩ:" Mình học nghệ không tinh, để nhục cho sư tôn; nếu quả thực không thắng được hắn, hôm nay chỉ còn cách tự vẫn để tạ tội với sư phụ ". Lão nghiến răng, nhận cây trượng mà Dương Quá trao ngang tận tay lão. Chàng nói:

– Lần này phải cẩn thận hơn, nếu để ta đoạt mất, thì chớ oán trách người khác.

Phàn Nhất Ông không nói, tay phải nắm chặt cây trượng, nghĩ:" Ngươi muốn đoạt được cây trượng này, trừ phi phải chém đúng cánh tay của ta ". Dương Quá nói:

– Cẩn thận!

Thân chàng nhào tới, tay trái cầm lấy đầu cây trượng, hai ngón trỏ và giữa tay phải thì móc mắt đối phương, đồng thời chân trái giơ lên đè thân cây trượng, chính là tuyệt chiêu" Ngao khẩu đoạt trượng "trong Đả cẩu bổng pháp.

Hai lần trước Dương Quá đoạt trượng, người ngoài tuy cảm thấy thủ pháp của chàng kỳ lạ, nhưng họ nhìn thấy rõ ràng; lần này ngay cả Phàn Nhất Ông cũng không hiểu nổi sự ảo diệu, chỉ nhoáng một cái, cây trượng đã ở trong tay đối phương. Chỉ có Kim Luân pháp vương võ học uyên thâm, từng chứng kiến Đả cẩu bổng pháp, mới biết thủ pháp vừa rồi của chàng.

Mã Quang Tá nói to:

– Này lão râu dài cụt râu, lần này đã phục chưa?

Phàn Nhất Ông nói:

– Hắn sử dụng yêu thuật, không phải là võ công chân thực, làm sao ta chịu phục?

Dương Quá hỏi:

– Phải thế nào lão mới phục?

Phàn Nhất Ông nói:

– Trừ phi ngươi dựa vào bản lĩnh chân thực đánh ngã ta, ta mới chịu thua.

Dương Quá lại trao cây trượng cho lão, nói:

– Được chúng ta thử thêm vài chiêu.

Phàn Nhất Ông thấy chàng vừa tay không đoạt trượng, quá ngán ngại, nghĩ:" Mình có chiếm thượng phong, hắn hết cách chống đỡ, hắn lại giở yêu thuật ra, thì mình khó lòng thắng nổi ", hắn bèn nói:

– Ta dùng binh khí lớn, ngươi lại tay không, ta có thắng, ngươi cũng không phục.

Dương Quá cười, nói:

– Lão sợ ta sử dụng công phu tay không đoạt binh khí chứ gì. Được thôi, vậy ta cũng sẽ dùng binh khí.

Chàng đưa mắt nhìn khắp sảnh, bốn bức tường chẳng treo thứ binh khí gì, ngoài sân có hai cây dương liễu lớn, cành lá la đà; chàng nhìn Tiểu Long Nữ một cái, nghĩ:" Cô cô muốn mang họ Liễu, thì ta lấy cành liễu làm binh khí vậy!"Bèn chạy ra sân, bẻ một cành liễu to hơn một tấc, dài độ bốn thước, giống như cái gậy đánh chó, nhưng không tuốt lá, mang vào.

Tiểu Long Nữ tâm trạng rối bời, đã hoàn toàn không còn chủ kiến gì về tương lai nữa. Dương Quá ở trước mặt nàng càng lâu, nàng càng khó xa rời chàng. Khi chỉ có một mình suy nghĩ, tuy đau lòng vì phải chia tay với Dương Quá, nhưng suy đi nghĩ lại, vẫn còn chịu nổi. Bây giờ con người ấy sống động ngay trước mắt, nhất cử nhất động, nhất tiếu nhất nộ đều tác động đến nàng; nàng đã định đi vào bên trong để khỏi nhìn và nghe thấy, song lại không thể, đành cúi đầu im lặng, tưởng chừng có nhiều mũi dao đang đâm vào tim.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
34,434 ❤︎ Bài viết: 2241 Tìm chủ đề
Hồi 18: Công Tôn Cốc Chủ

Phàn Nhất Ông thấy Dương Quá bẻ cành liễu làm binh khí, chẳng khác gì trò đùa của trẻ con, không coi lão ra gì, thì cả giận, không biết rằng cành liễu tuy mềm nhưng dẻo dai, dùng để thi triển Đả cẩu bổng pháp, tuy không bằng cây gậy trúc truyền đời của Cái Bang, nhưng lợi hại thật chẳng thua gì bảo đao lợi kiếm.

Mã Quang Tá nói:

– Dương huynh đệ, hãy dùng cây đao này!

Nói rồi rút soạt cây đao ra khỏi vỏ, ánh thép loang loáng, đúng là một cây đao sắc bén. Dương Quá chắp tay, cười nói:

– Đa tạ! Lão già lùn này là người không tệ, ngặt nỗi lão ta bái nhầm sư phụ, võ nghệ non kém, một cành liễu cũng đủ đối phó với lão ta rồi.

Chàng rung rung cành liễu, dứ dứ tới cây trượng.

Phàn Nhất Ông nghe lời lẽ chàng làm nhục sư tôn, nghĩ bụng phen này giao thủ đúng là một mất một còn, hết chỗ dung tình, liền thi triển chín chín tám mươi mốt lộ bát thủy trượng pháp. Môn trượng pháp này mang tên "bát thủy" (hắt nước, giội nước), đủ biết nó nghiêm mật tới mức nào.

Trượng pháp thi triển, ban đầu nghe ù ù lợi hại, nhưng chỉ sau mấy chiêu, phương vị công kích cứ dần dần chệnh choạng, đầu cây trượng hơi chếch, khiến tiếng gió tạo ra cũng yếu dần. Thì ra Dương Quá đang sử tự quyết chữ "Triền" trong Đả cẩu bổng pháp, cành liễu cứ bám riết đầu cây trượng, cây trượng sang đông, cành liễu theo sang đông, cây trượng hất lên, cành liễu cũng theo lên, đồng thời cứ đẩy nhẹ sang ngang, làm cho cây trượng buộc phải đổi hướng. Tự quyết chữ "Triền" trong Đả cẩu bổng pháp chính là bắt nguồn từ công phu thượng thừa trong võ học "bốn lạng bạt ngàn cân" ảo diệu tinh vi hơn cả phép "mượn lực đánh lực", "thuận nước đẩy thuyền".

Mọi người càng xem càng lạ, không ngờ Dương Quá còn ít tuổi, mà lại có võ công thần diệu như thế, chỉ thấy lực đạo trên cây trượng của Phàn Nhất Ông yếu dần, còn kình lực trên cành liễu của Dương Quá thì càng lúc càng gia tăng.

Sau ba mươi chiêu, toàn thân Phàn Nhất Ông đã bị cành liễu khống chế, lão càng dùng lực thì càng lảo đảo, khó bề đứng vững; sau đó giống như bị cuốn vào trong một luồng gió lốc, lão cứ xoay tròn như cái chong chóng, tối tăm mặt mũi, không còn phân biệt phương hướng gì nữa.

Công Tôn cốc chủ đập mạnh tay xuống bàn, quát to:

– Nhất Ông, lui ra!

Tiếng đập bàn mạnh làm cho Dương Quá cũng giật mình, chàng nghĩ: "Lúc này há để cho ngươi lui về". Liền đổi sang tự quyết chữ "Chuyển", thân hình bất động tại chỗ, cổ tay xoay nhanh một vòng tròn nhỏ, khiến Phàn Nhất Ông xoay tròn y như một con quay. Dương Quá chuyển động cổ tay càng nhanh, thì Phàn Nhất Ông xoay càng nhanh, cây trượng trong tay lão giống như cái cán dài của con quay, cũng cứ xoay tròn. Dương Quá nói, giọng sang sảng:

– Lão mà đứng vững không ngã, mới đúng là anh hùng hảo hán. Chỉ sợ sư phụ của lão nhầm lẫn, lại đi dạy đồ đệ lâm trận phải ngã quỵ mà thôi.

Nói rồi chàng hất mạnh cành liễu lên cao, nhảy lùi hơn một trượng.

Phàn Nhất Ông lúc này tâm thần và thân xác đã hoàn toàn không còn tự chủ, hai chân loạng choạng, chỉ xoay vài vòng nữa ắt ngã quỵ. Công Tôn cốc chủ đột nhiên tung mình nhảy lên cao, vỗ mạnh một chưởng xuống đầu cây trượng, rồi nhẹ nhàng đáp xuống đất. Cái vỗ trông bình thường, mà lực đạo cực mạnh, khiến cây trượng cắm xuống đất hơn hai thước, không xoay tròn nữa. Phàn Nhất Ông hai tay ôm chặt cây trượng, mới không bị ngã quỵ, nhưng thân hình lảo đảo như kẻ say rượu, nhất thời không đứng vững được.

Bọn Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây nhìn Dương Quá, lại nhìn Công Tôn cốc chủ, nghĩ rằng hai người này khó tránh một phen ác đấu, mình cứ việc đứng xem kẻ thắng người thua, chỉ có Mã Quang Tá nhất mực bênh vực Dương Quá, kêu to:

– Dương huynh đệ, hảo công phu! Lão lùn thua rồi!

Phàn Nhất Ông hít một hơi dài, trấn tĩnh tâm thần, quay người lại, đột nhiên quì vái sư phụ mấy cái, rập đầu bốn lần, không nói một lời, lao thẳng tới cái cột đá. Mọi người cả kinh, không ngờ đấu võ thua, lão lại đâm đầu tự vẫn như thế. Công Tôn cốc chủ kêu lên:

– Ôi chao!

Vội nhảy theo, giơ tay túm lưng Phàn Nhất Ông, nhưng còn cách xa, Phàn Nhất Ông lại lao đi rất nhanh, thành thử Công Tôn cốc chủ túm hụt. Phàn Nhất Ông nhắm mắt đâm đầu vào thạch trụ, đột nhiên cảm thấy trán mình chạm vào một chỗ mềm như bông, ngẩng nhìn, thì ra là Dương Quá giơ hai bàn tay đứng chắn thạch trụ, nói:

– Phàn huynh, huynh có biết điều đau khổ nhất trên thế gian là gì hay chăng?

Nguyên Dương Quá thấy Phàn Nhất Ông quỳ vái sư phụ, đoán lão sắp có hành động bất thường, đã chăm chú đề phòng, chàng đứng gần chỗ Phàn Nhất Ông, nên kịp thời xuất chưởng ngăn lão ta lại.

Phàn Nhất Ông ngẩn ra, hỏi:

– Là việc gì vậy?

Dương Quá rầu rĩ nói:

– Đệ cũng không biết. Có điều là lòng đệ đau đớn gấp mười lần huynh, đệ cũng không tự tận, huynh hà tất phải làm như thế?

Phàn Nhất Ông nói:

– Ngươi tỷ võ thắng rồi, trong lòng sao lại phải đau đớn?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Tỷ võ thắng bại, đâu có đáng gì. Trong đời đệ, không biết đã bao lần đệ bị người ta đánh bại. Huynh định tự vẫn, sư phụ của huynh lo cho huynh như vậy. Nếu đệ tự tận, sư phụ của đệ chẳng thèm quan hoài đôi chút, đấy mới là điều đau lòng nhất trên đời.

Phàn Nhất Ông còn chưa hiểu ý, Công Tôn cốc chủ liền quát:

– Nhất Ông, ngươi còn hành động ngu ngốc như thế, tức là coi thường mệnh lệnh của sư phụ. Ngươi hãy lui sang một bên, xem sư phụ ngươi thu thập tên tiểu tử kia.

Phàn Nhất Ông không dám trái lệnh sư phụ, lùi ra một góc, trân trân nhìn Dương Quá, tự mình cũng không biết là căm hận hay thán phục chàng.

Công Tôn cốc chủ nhìn Tiểu Long Nữ, theo dõi thần tình của nàng, thấy nàng lại ứa hai giọt nước mắt, thì vừa đố kỵ vừa tức giận, vỗ tay ba cái, nói:

– Tóm cổ tên tiểu tử lại cho ta.

Y tự đề cao thân phận, không thèm động thủ với Dương Quá. Đệ tử áo xanh ở hai bên dạ ran, mười sáu người chia nhau đứng bốn phía, đột nhiên hô lên một tiếng, cứ bốn người chăng một tấm lưới, cùng thi triển vây quanh Dương Quá.

Dương Quá cùng đi với bọn Kim Luân pháp vương tới đây, Kim Luân pháp vương mặc nhiên là thủ lĩnh, đến bước này nên hòa hay chiến, về lý lẽ ra lão ta phải đứng ra chủ trì; song lão ta chỉ lạnh lùng mỉm cười tụ thủ bàng quan.

Công Tôn cốc chủ không biết dụng ý của Kim Luân pháp vương, lại tưởng lão ta cười y không đối phó nổi với Dương Quá. Y nghĩ: "Phải để cho các người thấy thủ pháp của Tuyệt Tình cốc mới được". Y lại vỗ tay ba tiếng, mười sáu đệ tử áo xanh thay đổi vị trí, thu hẹp vòng vây thêm vài bước. Bốn tấm lưới cái ngang cái dọc, cái nghiêng cái bằng, không ngừng biến đổi.

Dương Quá từng hai lần chứng kiến các đệ tử áo xanh chăng lưới bắt Chu Bá Thông, đúng là biến ảo vô phương, khó bề chống đỡ. Trận pháp này, so với Thiên Cang Bắc Đẩu trận của phái Toàn Chân, có thể nói mỗi thứ có cái hay riêng. Chàng nghĩ: "Võ công cao siêu như Lão Ngoan đồng mà còn bị sa lưới, thì ta làm sao đối phó đây? Huống hồ Lão Ngoan đồng chỉ cần thoát thân, đem quẳng Phàn, Mã hai người vào lưới thế chỗ, nhờ vậy thoát đi; chứ ta thì chưa thể rời khỏi chốn này".

Mỗi tấm lưới chăng ra chiếm hơn một trượng vuông, người cầm lưới giấu mình sau lưới; muốn phá trận pháp, trước tiên phải tấn công tới chỗ gã đệ tử áo xanh cầm lưới, nhưng nếu lại gần, khó thoát bị lưới chụp bắt, hết bề cựa quậy. Chỉ thấy mười sáu đệ tử áo xanh càng lúc càng áp sát, Dương Quá nhất thời chưa biết đối phó cách nào, đành thi triển khinh công của phái Cổ Mộ, lướt chạy trong đại sảnh, khiến đối phương khó xác định phương vị xuất thủ.

Chàng chạy nháo nhào, song mười sáu đệ tử áo xanh không di chuyển theo chàng, chỉ lẳng lặng thu hẹp dần vòng vây. Dương Quá vừa chạy, vừa đưa mắt tìm chỗ sơ hở của trận pháp, thấy bốn tấm lưới di chuyển rất nhanh, song không để lộ kẽ hở nào, nghĩ thầm: "Trừ sử dụng ám khí đả thương chúng, không còn cách nào khác", bèn thò tay vào túi lấy ra một số chiếc "Ngọc phong châm", thấy bốn người phía tây xáp lại gần, chàng liền vung tay trái, bảy tám chiếc "Ngọc phong châm" bắn về phía bốn người ở mạn bắc.

Những tưởng cả bốn người kia đều sắp trúng "Ngọc phong châm", ai ngờ nghe "tạch tạch" mấy tiếng rất khẽ, tất cả "Ngọc phong châm" đều bị hút vào lưới. Thì ra một số mắt lưới có gắn miếng nam châm nhỏ, mọi thứ ám khí bằng kim loại của đối phương ném tới sẽ đều bị hút vào đó.

Dương Quá không ngờ tấm lưới đa dụng như vậy, trừng mắt nhìn Công Tôn cốc chủ, biết có phóng thêm ám khí cũng vô dụng. Chàng đang nghĩ cách khác, thì tấm lưới phía đông đưa tới gần, kẻ chỉ huy hô một tiếng, tấm lưới chụp xuống vai bên phải của chàng. Dương Quá lạng người đi, định né về phía tây bắc, thì hai tấm lưới phía bắc và phía tây bắc cùng chụp tới.

Dương Quá nghĩ: "Thôi nguy rồi, tiêu rồi! Mình sa vào tay cốc chủ, không biết sẽ bị làm nhục đến mức nào đây?" Bỗng người giữ mép lưới phía nam rên lên "Ối chao!" Dương Quá ngoảnh lại, thấy Công Tôn Lục Ngạc ngã dưới đất, một góc lưới xẹp lại.

Đây chính là chỗ hở của trận thế, Dương Quá khỏi cần nghĩ, thân hình đã vọt ra khỏi vòng vây, nghe Công Tôn Lục Ngạc rên rỉ kêu đau và nháy mắt với chàng, ngụ ý bảo chàng hãy mau rời khỏi sơn cốc. Dương Quá nghĩ thầm: "Nàng xả mệnh cứu ta, tình ý đã rõ. Nhưng nếu ta rời khỏi chốn này, cô cô sẽ bị gã tặc cốc chủ ép phải thành hôn; hôm nay dẫu có bị y bắt giữ, bị hành hạ khổ sở, ta cũng không thể bỏ đây mà đi". Chàng đứng ở một góc sảnh, chằm chằm nhìn Tiểu Long Nữ, nghĩ bụng: "Ta vừa bị nguy hiểm quá chừng, chẳng lẽ cô cô vẫn thản nhiên được sao?"

Chỉ thấy Tiểu Long Nữ vẫn cúi đầu nhìn xuống, không nói một lời.

Công Tôn cốc chủ vỗ tay hai tiếng, bốn tấm lưới tản ra. Y lạnh lùng nói với Công Tôn Lục Ngạc:

– Ngươi làm sao vậy?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Hài nhi đột nhiên bị trẹo chân, đau quá đi mất.

Công Tôn cốc chủ sớm biết con gái y đã có tình với Dương Quá, đến mức vào thời khắc khẩn yếu đã mở đường sống cho gã thiếu niên, hiềm vì có người ngoài ở đây, y không tiện phát tác, chỉ cười nhạt, nói:

– Được, ngươi lui ra. Số mười bốn thế chỗ.

Công Tôn Lục Ngạc cúi đầu lui ra. Một gã thiếu niên áo xanh được lệnh vào thay, gã chỉ độ mười bốn, mười lăm tuổi là cùng.

Công Tôn Lục Ngạc liếc trộm Dương Quá, ánh mắt nàng đầy vẻ trách móc. Dương Quá áy náy, nghĩ: "Thịnh tình hậu ý của cô nương, chỉ e kiếp này ta khó báo đáp".

Công Tôn cốc chủ lại vỗ tay bốn tiếng, mười sáu đệ tử đột nhiên đi nhanh vào nội đường; Dương Quá ngạc nhiên, nghĩ: "Chẳng lẽ hắn chịu thua rồi sao?" Chàng lấy làm lạ, ngoảnh nhìn lại Công Tôn Lục Ngạc, thì thấy thần sắc của nàng hết sức kinh hoàng, nàng lại đưa mắt ra hiệu bảo chàng mau mau rời khỏi sơn cốc, kẻo đại họa sắp giáng xuống đầu. Dương Quá mỉm cười, lại kéo một chiếc ghế mà ngồi xuống. Chỉ nghe trong nội đường vang lên tiếng tinh tang dồn dập, rồi mười sáu đệ tử lại tiến ra, kéo theo các tấm lưới. Mọi người nhìn các tấm lưới, thảy đều biến sắc.

Thì ra bốn tấm lưới đã được đổi. Bốn tấm lưới mới gắn nhiều móc câu và chuỷ thủ sắc nhọn loang loáng, nó mà chụp xuống người nào, thì kẻ ấy sẽ bị đả thương toàn thân, không có hi vọng gì sống sót.

Mã Quang Tá kêu lên:

– Này cốc chủ lão huynh, lão huynh dùng trò độc ác thế kia để đối đãi với tân khách ư?

Công Tôn cốc chủ chỉ Dương Quá, nói:

– Không phải là ta muốn hại ngươi, ta đã hai phen khuyên ngươi rời khỏi chốn này, ngươi vẫn cứ cố ý làm loạn. Lần cuối cùng ta khuyên ngươi, hãy mau xéo đi.

Mã Quang Tá nhìn bốn tấm lưới, người bạo gan như gã cũng không khỏi lo sợ; nghe tiếng hung khí gài trên các tấm lưới va chạm nhau, càng kinh tâm động phách, gã bèn tới kéo tay Dương Quá, nói:

– Dương huynh đệ, mấy thứ kia nguy hại vô cùng, ta hãy bỏ quách chúng mà đi, ăn thua làm gì với bọn chúng kia chứ?

Dương Quá nhìn Tiểu Long Nữ, xem nàng có nói gì hay không.

Tiểu Long Nữ thấy cốc chủ cho mang loại lưới gớm ghiếc kia ra, thì trong bụng đã nghĩ đến chữ "chết". Nàng chỉ chờ Dương Quá bị tấm lưới chụp xuống, nàng sẽ lao đầu vào đó cùng chết với chàng.

Nghĩ tới đó, nàng cảm thấy thanh thản, bao nỗi đau khổ trên thế gian sẽ tan biến, nên bất giác mỉm cười. Tâm sự uẩn khúc của Tiểu Long Nữ, Dương Quá làm sao biết được; chàng cứ tưởng mình bị nguy nan thế này, mà nàng thản nhiên cười cợt, thì vừa đau đớn, vừa bi phẫn, một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc, chàng không nghĩ ngợi gì nữa, bước tới trước mặt Tiểu Long Nữ, hơi cúi mình, nói:

– Cô cô, Quá nhi hôm nay gặp nạn, xin được mượn sợi dây chuông, dải lụa và đôi bao tay của cô cô.

Tiểu Long Nữ chỉ nghĩ sẽ rất vui được cùng chết với chàng, không nghĩ chuyện gì khác, nghe chàng nói vậy, liền lấy trong túi ra mấy thứ kia đưa cho chàng.

Dương Quá thong thả nhận lấy, chăm chú nhìn mặt nàng, nói:

– Bây giờ cô cô đã nhận ra Quá nhi hay chưa?

Tiểu Long Nữ nhu tình vô hạn, mỉm cười:

– Lòng ta đã nhận ra Quá nhi ngay từ đầu!

Dương Quá vô cùng phấn chấn, run run hỏi:

– Vậy cô cô quyết ý cùng đi với Quá nhi, không thành hôn với cốc chủ nữa chứ?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, gật đầu, nói:

– Ta quyết ý đi theo Quá nhi, tất nhiên sẽ không lấy ai khác. Ta đương nhiên là thê tử của Quá nhi.

Mấy chữ "quyết ý đi theo Quá nhi", nghĩa là sẽ cùng chết với Dương Quá, ngay Dương Quá còn chưa hiểu, nói gì những người khác; song câu "Ta đương nhiên là thê tử của Quá nhi" thì không còn gì rõ ràng hơn. Công Tôn cốc chủ mặt tái nhợt đi, hai tay vỗ mạnh bốn tiếng, giục các đệ tử áo xanh động thủ.

Mười sáu đệ tử bắt đầu di động các tấm lưới. Dương Quá nghe lời nói vừa rồi của Tiểu Long Nữ thì như kẻ chết được sống lại, đúng là dũng khí tăng gấp bội, dù trước mặt có là rừng đao biển lửa, chàng cũng không coi ra gì, vội đeo đôi bao tay đao kiếm không làm gì nổi, tay phải điều khiển dải lụa trắng phóng ra như một con rắn đeo chuông.

Chiếc chuông vàng ở đầu dải lụa phát tiếng kinh coong, đã đánh trúng huyệt Âm Cốc của gã đệ tử ở phía nam, lúc thu về lại đánh trúng huyệt Khúc Trạch của gã đệ tử đứng mé đông. Huyệt Âm Cốc ở eo gối, gã kia đứng không vững, khuỵu ngay xuống; huyệt Khúc Trạch thì ở chỗ khuỷu tay, kẻ bị đánh trúng huyệt đó cánh tay tê dại, buông rơi một góc lưới.

Dải lụa vừa đánh ra, ngư võng trận thế lộ ngay chỗ sơ hở; bốn đệ tử ở phía tây hoảng hốt, lúc tấn công hơi chậm, dải lụa với chiếc chuông của Dương Quá lại đánh tới thêm hai đệ tử ngã quỵ. Nhưng cũng lúc ấy tấm lưới phía bắc đã chụp xuống, hung khí trên tấm lưới chỉ còn cách đầu Dương Quá chưa đến nửa thước, việc sử dụng dải lụa đối phó đã không kịp nữa. Dương Quá giơ tay trái lên túm tấm lưới, mượn lực hất mạnh. Tay chàng đụng vào móc câu và chuỳ thủ sắc bén, song không hề hấn gì nhờ đôi bao tay. Tấm lưới bị chàng hất mạnh, lại chụp xuống người bốn gã đệ tử áo xanh.

Các đệ tử khi luyện tập trận pháp chăng lưới, chỉ lo đối phương thoát lưới, tìm cách bủa lưới thật kín, chứ không hề tính đến việc tấm lưới bị hất ngược lại đầu mình. Thấy móc câu, chuỳ thủ lao tới, họ kinh hãi rú lên, quẳng lưới mà chạy. Gã thiếu niên thế chỗ Công Tôn Lục Ngạc chậm và yếu hơn, bị chuỳ thủ chém vào đùi máu tươi chảy ra xối xả, cậu ta khóc tướng lên.

Dương Quá cười, nói:

– Tiểu huynh đệ, đừng sợ, ta không giết ngươi đâu.

Chàng tay trái cấm mép lưới rung rung, tay phải thì múa sợi dây chuông, tiếng tinh tang, kinh coong hòa với nhau nghe cũng vui tai. Các đệ tử không dám xáp tới, lùi xa ra sát tường, chỉ vì chưa có hiệu lệnh của sư phụ nên chưa dám nhận thua rút đi.

Mã Quang Tá vỗ tay, giậm chân reo vui, trong đám đông, chỉ một mình gã reo hò, không tránh khỏi đơn độc. Gã bèn quay sang hỏi Kim Luân pháp vương:

– Dương huynh đệ bản lĩnh cao thế, sao đại sư không khen ngợi?

Kim Luân pháp vương mỉm cười, nói:

– Cao thì có cao, nhưng chưa đến mức kinh thiên động địa.

Mã Quang Tá hỏi:

– Vì sao?

Kim Luân pháp vương thấy Công Tôn cốc chủ lông mày dựng ngược, thong thả bước ra giữa sảnh, bèn chăm chú quyết định động tĩnh, không lý gì đến Mã Quang Tá.

Công Tôn cốc chủ nghe Tiểu Long Nữ nói "Ta đương nhiên là thê tử của Quá nhi", hiểu rằng giấc mộng ngọt ngào suốt nửa tháng nay rốt cuộc đã tan biến, tuy vừa thất vọng, vừa tức giận, nhưng nghĩ bụng: "Ta dẫu không chinh phục được trái tim nàng, song cũng phải làm chồng nàng. Ta đánh chết tên súc sinh kia, nàng không muốn cũng phải lấy ta; lâu ngày rồi nàng sẽ hồi tâm chuyển ý".

Dương Quá thấy lông mày, lông mi của Công Tôn cốc chủ dựng ngược cả lên mỗi lúc một cao, chưa biết đó là thứ võ công lợi hại của phái nào, trong bụng không khỏi lo ngại, tay phải cầm dải lụa, tay trái giữ mép lưới, chăm chú đề phòng, biết sự sinh tử tồn vong của mình và Tiểu Long Nữ là ở trận này, thực không dám khinh suất.

Công Tôn cốc chủ chậm rãi đi một vòng xung quanh Dương Quá, Dương Quá đứng tại chỗ, thong thả xoay đầu, mục quang chăm chú theo dõi ánh mắt của y, thấy y càng chậm động thủ, hẳn là sẽ càng lợi hại; chỉ thấy y hai tay giơ ngang ra phía trước ba lần, rồi vỗ vào nhau, choang một tiếng, như thể là tiếng kim loại va nhau vậy. Dương Quá giật mình, lùi lại một bước, tay phải của Công Tôn cốc chủ đột nhiên vươn dài, chộp lấy mép lưới, giật một cái. Dương Quá chỉ cảm thấy lực giật quá mạnh, năm ngón tay chàng đau nhói, đành buông lưới ra. Công Tôn cốc chủ quẳng tấm lưới về phía góc sảnh có bốn đệ tử đang đứng, quát:

– Lui ra!

Dương Quá bị giật lưới, không để cho Công Tôn cốc chủ ra tay trước, liền phóng dải lụa, cái chuông nhằm đánh hai huyệt Cự Cốt ở vai và Thiên Đỉnh ở gáy đối phương. Công Tôn cốc chủ dang rộng hai tay, hoàn toàn để hở ngực, song Dương Quá không dám tấn công đại huyệt ở ngực, trước tiên đánh thử tiểu huyệt để thăm dò. Võ công của Công Tôn cốc chủ hóa ra là một phái riêng, y chẳng thèm chú ý đến lối điểm huyệt của Dương Quá, tay cứ vươn ra trảo tới tay chàng. Chỉ nghe hai tiếng "binh binh", hai huyệt Cự Cốt và Thiên Đỉnh bị trúng đòn, nhưng Công Tôn cốc chủ coi như không, trảo biến thành chưởng, vỗ vào ngực trái của Dương Quá. Dương Quá cả kinh, vội né người tránh, may mà chàng giỏi khinh công, nếu không đã trúng chưởng của đối phương.

Dương Quá từng nghe các đại cao thủ võ lâm như Âu Dương Phong, Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư đàm luận võ công, biết một người luyện nội công đến cảnh giới thượng thừa, khi chiêu số của đối phương đánh tới, có thể tạm thời phong bế huyệt đạo. Lại như võ công dị phái của Âu Dương Phong, luyện tới mức kinh mạch đảo ngược, các đại huyệt toàn thân đểu thay đổi vị trí, nhưng đấy là lúc Âu Dương Phong trồng cây chuối, nhìn vào thấy ngay. Đàng này kẻ địch trước mặt chàng hoàn toàn không phản ứng đối với việc điểm huyệt, tựa hồ trên người không có huyệt đạo vậy; môn công phu này quả hiếm thấy; chàng giật mình, trong bụng có ba phần khiếp sợ. Thấy Công Tôn cốc chủ song chưởng đẩy ra, lòng bàn tay ẩn hiện một luồng hắc khí, lúc vỗ vào nhau kình phong ập tới hết sức lợi hại, Dương Quá không dám chính diện tiếp chưởng, tay phải điều khiển cái chuông tấn công, tay trái thì che đỡ các vị trí yếu hại trên thân thể.

Phút chốc đã đấu hơn mười chiêu, Dương Quá toàn thần chống đỡ, bỗng thấy tả chưởng của đối phương nhẹ nhàng đặt trước ngực, theo lối thiết chưởng của Hoàn Nhan Bình, vội nhảy tránh vài thước. Công Tôn cốc chủ vọt tới trước mặt Dương Quá, người ta xuất quyền phát chưởng thường thường sử dụng cánh tay; đằng này y lấy thân mình phát chưởng, bàn tay bất động, lấy sức mạnh của thân hình công kích đối phương. Dương Quá đã không thể tránh, đành đưa tả chưởng tiếp chiêu. "Bốp" một tiếng, hai chưởng đụng nhau, Dương Quá bị đẩy lùi ba bước, Công Tôn cốc chủ vẫn đứng bất động tại chỗ, thân hình hơi đung đưa.

Công Tôn cốc chủ rõ ràng đại chiếm thượng phong, song lực phản kích của Dương Quá cũng làm cho y đau tức bên sườn, y thầm kinh dị, nghĩ: "Một chiêu công phu thiết chưởng của ta sử đến mười thành công lực, mà tên tiểu tử này vẫn tiếp nổi. Xem chừng ta khó lòng đánh chết hắn. Nếu để cho hắn đấu ngang ngửa với mình, thì chẳng còn ra thể thống gì".

Y vỗ tay liên tiếp, nghe chói cả tai, nói:

– Gã họ Dương kia, bổn cốc chủ chưởng hạ lưu tình, ngươi hiểu chứ?

Nếu là tỷ võ thông thường, phần thắng bại đã rõ, đánh tiếp, Dương Quá chỉ thua mà thôi. Công Tôn cốc chủ nói thế, Dương Quá lẽ ra phải thừa nhận võ công thua kém, nhưng chuyện hôm nay, chàng thầm biết đối phương không đời nào để cho chàng cùng Tiểu Long Nữ yên lành ra khỏi sơn cốc, trừ việc liều chết, không còn đường nào khác. Giữa lúc nguy khốn này, Dương Quá vẫn không từ bỏ cái lối bỡn cợt đối phương của chàng; huống hồ Tiểu Long Nữ đã nhận chàng, chàng vui sướng vô bờ, liền cười ha ha, nói:

– Ngươi mà đánh chết ta, cô cô ta há chịu lấy ngươi? Ngươi không đánh chết ta, cô cô ta cũng không thể lấy ngươi. Ngươi mà chưởng hạ lưu tình ư? Ngươi nhẹ không được, nặng chẳng xong, chẳng biết làm cách nào, chân tay luống cuống quá chừng!

Dương Quá nói thế là nghĩ tâm địa của đối thủ quá lương thiện. Công Tôn cốc chủ hận không thể một chiêu đánh chết chàng, diệt trừ hậu họa, y đâu nghĩ gì đến chuyện Tiểu Long Nữ oán trách hay không. Y quay sang sai con gái:

– Mang binh khí cho ta.

Công Tôn Lục Ngạc chần chừ không đáp. Công Tôn cốc chủ gằn giọng:

– Ngươi nghe thấy chưa?

Công Tôn Lục Ngạc tái mặt, vội thưa "Vâng", rồi đi vào nội đường.

Dương Quá quan sát thần tình của hai cha con Công Tôn cốc chủ, nghĩ: "Hắn tay không, mình đã đối phó chẳng nổi, nếu hắn lại sử dụng thứ binh khí cổ quái gì đó, thì mình làm sao còn đường sống? Lúc này chưa rút đi, còn chờ khi nào?" bèn tới bên Tiểu Long Nữ, giơ tay, dịu dàng nói:

– Cô cô hãy theo Quá nhi đi nào!

Công Tôn cốc chủ hai tay thủ thế, chỉ cần Tiểu Long Nữ đứng dậy, chìa tay cho Dương Quá, y sẽ lập tức dùng thiết chưởng đánh tới sau lưng chàng, y đã định bụng: "Dù Liễu muội trách cứ, ta cũng quyết đập chết tên tiểu tử này. Nếu Liễu muội bỏ đi theo hắn, nửa đời còn lại của ta còn gì là lạc thú?"

Ai ngờ Tiểu Long Nữ không đứng dậy, chỉ bình thản nói:

– Ta đương nhiên muốn đi theo Quá nhi. Có điều là Công Tôn cốc chủ đã cứu mạng ta, chúng ta cần nói rõ duyên do với cốc chủ, để cốc chủ nguyên lượng cho đã.

Dương Quá sốt ruột, nghĩ: "Cô cô chả hiểu gì cả. Cô cô nói rõ với hắn rồi, chẳng lẽ hắn chịu bỏ qua cho hay sao?"

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Quá nhi, những ngày qua Quá nhi sống thế nào?

Dương Quá nghe giọng nói, nhìn vẻ mặt đầy tình ý của Tiểu Long Nữ, thì dù trời có sập xuống, chàng cũng bất cần, đâu còn nghĩ đến việc bỏ chạy, bèn nói:

– Cô cô, cô cô có giận Quá nhi hay không?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Sao ta lại giận Quá nhi? Ta chưa bao giờ giận Quá nhi cả. Quá nhi hãy quay lưng lại nào.

Dương Quá nghe lời quay lưng, chưa rõ dụng ý của nàng.

Tiểu Long Nữ lấy trong túi ra hộp kim chỉ, xâu chỉ vào kim, ướm vết rách ở lưng áo chàng do Phàn Nhất Ông làm rách, thở dài:

– Ta vốn định khâu cho Quá nhi cái áo mới, nhưng nghĩ từ nay không bao giờ gặp lại nữa, thì khâu áo mà làm gì? Nào ngờ Quá nhi lại tìm đến tận đây.

Vẻ mặt nàng từ thê lương chuyển sang hoan hỉ, nàng dùng chiếc kéo nhỏ cắt vạt áo của mình lấy mảnh vải, rồi thong thả vá áo cho Dương Quá.

Hồi hai người sống trong tòa cổ mộ, mỗi khi quần áo của Dương Quá bị rách, Tiểu Long Nữ vẫn kéo chàng lại bên mình mà khâu vá cho chàng. Mấy năm trời, việc đó xảy ra không biết bao nhiêu lần. Lúc này hai người chẳng chú ý gì đến chuyện sinh tử, coi xung quanh như chốn không người, trước bao nhiêu con mắt trong đại sảnh, hai người cứ làm như đang ở trong tòa cổ mộ vậy.

Dương Quá hoan hỉ vô hạn, nước mắt rưng rưng, nghẹn ngào nói:

– Cô cô, ban nãy Quá nhi làm cho cô cô phải thổ huyết, Quá nhi.. thật quá tệ.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Không phải lỗi của Quá nhi đâu, Quá nhi biết bệnh cũ của ta mà. Không gặp ít ngày, võ công của Quá nhi tiến bộ rất nhanh. Ban nãy Quá nhi cũng thổ huyết, có sao không?

Dương Quá cười:

– Không sao đâu. Trong bụng Quá nhi nhiều máu quá đó mà.

Tiều Long Nữ mỉm cười:

– Quá nhi chỉ nói năng lung tung.

Hai người cứ thế trò chuyện với nhau, lời lẽ tuy không có gì lạ, nhưng ai ai nghe rõ, cũng biết hai người tình thâm ái thiết, dĩ vãng từng có uyên nguyên cực sâu với nhau. Bọn Kim Luân pháp vương ngơ ngác nhìn nhau. Công Tôn cốc chủ vừa kinh ngạc vừa ghen tức, đứng ngẩn ra đó, chưa biết nên làm thế nào.

Dương Quá nói:

– Những ngày qua Quá nhi gặp mấy người lý thú lắm. Cô cô, cô cô thử đoán, tại sao Quá nhi lại có chiếc kéo to tướng ấy nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta cũng lấy làm lạ, làm như Quá nhi sớm biết ở đây có người râu dài, nên thuê rèn sẵn chiếc kéo đó vậy. Quá nhi hơi tệ đấy, người ta tốn mười mấy năm nuôi dưỡng bộ râu, Quá nhi đem cắt phăng đi, không tiếc hay sao?

Nói rồi mỉm cười, đôi mắt long lanh nhìn Dương Quá.

Công Tôn cốc chủ không nhịn được nữa, đưa tay chộp ngực Dương Quá, quát:

– Tiểu tạp chủng, ngươi chớ khinh người quá đáng!

Dương Quá không chống đỡ, nói:

– Đừng vội, đợi cô cô của ta vá xong áo cho ta, ta sẽ đấu với ngươi.

Ngón tay của Công Tôn cốc chủ cách ngực chàng vài tấc, thân phận y dẫu sao cũng là một đại tông sư võ học, dù tức giận cách mấy, cũng không tiện thực hiện chiêu này. Chợt nghe tiếng nói của Công Tôn Lục Ngạc ở sau lưng:

– Cha ơi, binh khí đây ạ.

Công Tôn cốc chủ không ngoảnh lại, nhún vai một cái, lùi liền mấy thước, nhận lấy binh khí.

Mọi người thấy tay trái Công Tôn cốc chủ cầm cây đao to bản lưng dày, lưỡi hình răng cưa, kim quang lấp lánh, tựa hồ làm bằng vàng; tay phải thì cầm một thanh kiếm đen vừa mảnh vừa dài. Thanh trường kiếm rung rung, thân kiếm cực kỳ nhu nhuyễn, lưỡi kiếm tỏa ra một đạo lam quang, chứng tỏ sắc bén dị thường.

Hai thứ binh khí tương phản nhau, một cực nặng và cứng, một cực nhẹ và mềm.

Dương Quá nhìn đôi binh khí quái dị của cốc chủ một cái, nói:

– Cô cô, ít ngày trước Quá nhi có gặp một nữ nhân, người đó có nói cho Quá nhi biết kẻ giết phụ thân của Quá nhi là ai.

Tiểu Long Nữ hỏi, vẻ quan tâm:

– Kẻ đó là ai?

Dương Quá nghiến răng căm hận nói:

– Cô cô có đoán cả đời cũng không ra đâu, Quá nhi còn cứ nghĩ là họ đối xử rất tử tế với mình.

Tiểu Long Nữ nói:

– Họ ư? Họ đối xử rất tử tế với Quá nhi ư?

Dương Quá nói:

– Phải, đó là..

Chỉ nghe âm thanh "uông uông" ngân hồi lâu, ấy là kim đao và hắc kiếm của Công Tôn cốc chủ chạm nhẹ vào nhau. Công Tôn cốc chủ cổ tay phải rung động, đâm liền ba kiếm, một đâm tới đỉnh đầu, một đâm gáy phía bên trái, một đâm gáy phía bên phải, nhát nào cũng chỉ sướt qua, cách da thịt chưa đến nửa tấc. Công Tôn cốc chủ tự trọng thân phận, kẻ địch chưa xuất thủ chống đỡ, thì y cũng chưa đả thương. Độ chuẩn xác của ba nhát kiếm cho thấy thần kỹ của y.

Tiểu Long Nữ nói:

– Vá xong rồi.

Nàng vỗ nhẹ sau lưng chàng. Dương Quá ngoảnh lại mỉm cười, rồi cầm dải lụa bước ra giữa sảnh.

Trong võ công của Công Tôn cốc chủ, có ba môn gia truyền, là công phu bế huyệt, ngư võng trận pháp và Âm dương song nhẫn kim đao hắc kiếm, do mấy trăm năm chỉ sống trong sơn cốc, không giao lưu với người bên ngoài, cho nên ba môn võ công ấy tuy kỳ lạ nhưng thế gian không hay biết. Cả ba môn võ công này đều có chỗ sơ hở lớn, nếu bị cao thủ phát hiện, khó tránh thảm họa sát thân. Gia huấn nhà họ Công Tôn rất nghiêm, không cho trình năng tranh hùng trên chốn giang hồ, cho nên bản thân họ cũng không nhận ra chỗ sơ hở đó. Hơn hai mươi năm trước Công Tôn cốc chủ từng học môn Thiết chưởng. Người truyền thụ võ nghệ cho y tuy không phải là đại cao thủ, nhưng kiến thức quảng bác, tâm tư chu đáo đã giúp y bổ khuyết các thiếu sót của võ công gia truyền, bởi vậy chiêu số của "Âm dương song nhẫn" được cải tiến rất nhiều. Người ấy từng nói với y: "Môn Âm dương song nhẫn này bây giờ coi như đã hoàn bị, đối thủ dẫu thông minh tuyệt đỉnh, cũng không thể trong vòng năm chục chiêu hóa giải cơ quan bên trong. Mà một khi ngươi đã sử dụng cùng lúc đôi đao kiếm này, có lý nào trong vòng năm chục chiêu chưa giết được địch thủ?"

Công Tôn cốc chủ thấy Dương Quá đã sẵn sàng tiếp chiến, liền quát:

– Nhìn đây!

Thanh hắc kiếm rung rung, đâm tới ngực, song mũi kiếm không chọc thẳng, mà cứ xoay vòng tròn trước mặt đối phương. Dương Quá chưa biết hướng đâm của thanh hắc kiếm, vội kinh hãi nhảy lùi. Công Tôn cốc chủ xuất thủ mau lẹ, Dương Quá nhảy lùi né tránh, nhưng mũi kiếm của y lại đã xoay tròn trước mặt chàng, vòng xoay mỗi lúc rộng dần, ban đầu chỉ xoay tròn trước ngực, sau đó vài chiêu đã bao quanh vùng bụng dưới, thêm vài chiêu nữa, đã khống chế tới đỉnh đầu. Các điểm yếu hại từ mặt xuống bụng của Dương Quá đều bị mũi kiếm đe dọa. Bọn Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây bình sinh chưa từng thấy thứ kiếm pháp xoay vòng bức nhân kiểu này, thảy đều kinh hãi.

Công Tôn cốc chủ sử một chiêu, Dương Quá lập tức né tránh; y sử mười mấy chiêu, Dương Quá né tránh mười mấy lần, vẫn chưa có cách gì trả đòn.

Chàng thấy kiếm chiêu của đối phương càng lúc càng lợi hại, mà thanh đao răng cưa bên tay trái của y vẫn chưa động tới; chờ lúc thanh kim đao cũng động, hẳn sẽ khó bề đối phó vô cùng, bèn không nghĩ nhiều nữa, nhảy sang bên trái, phóng quả chuông ở đầu dải lụa, nghe kinh coong, bay tới đánh vào mắt trái kẻ địch. Công Tôn cốc chủ nghiêng đầu tránh, chĩa hắc kiếm phản kích. Dương Quá cả mừng, hất cái chuông quấn vào bắp chân bên phải của y, đang định giật mạnh, thì thanh kiếm đen của Công Tôn cốc chủ chém xuống, phựt một tiếng nhẹ, dây dẫn chuông đã đứt, thanh kiếm kia quả sắc bén dị thường.

Mọi người kêu ồ lên, chỉ nghe tiếng gió ù ù, Công Tôn cốc chủ đã vung kim đao chém Dương Quá. Dương Quá lăn vội xuống đất một vòng, bỗng "choang" một tiếng, chấn động cả bốn bức tường đá, thì ra chàng đã chộp cây cương trượng của Phàn Nhất Ông mà chống đỡ, đao trượng đụng nhau, đôi bên đều cảm thấy cánh tay tê dại. Công Tôn cốc chủ thầm kinh dị: "Tên tiểu tử lợi hại thực, hắn tiếp nổi mười mấy chiêu của mình". Tả đao phạt ngang, hữu kiếm đâm chếch. Vốn đao pháp lấy cương mãnh làm chính, kiếm pháp lấy khinh linh làm đầu, hai thứ binh khí này đặc tính trái ngược nhau, một người sử dụng cả đao lẫn kiếm cùng lúc, cơ hồ là điều không thể xảy ra, vậy mà đao kiếm trong hai tay Công Tôn cốc chủ càng lúc càng dồn dập, đao pháp kiếm pháp vẫn đâu ra đấy, âm dương cương nhu hỗ trợ lẫn nhau, quả là tuyệt kỹ hiếm có trong võ lâm.

Dương Quá quát to một tiếng, vung cây trượng lên, sử tự quyết chữ "Phong" trong Đả cẩu bổng pháp, che kín môn hộ. Công Tôn cốc chủ đao kiếm cùng tấn công, song nhất thời chưa lọt vào được. Chỉ có điều môn Đả cẩu bổng pháp lấy sự biến hóa tinh vi làm chính, cây gậy trúc nhẹ nhàng mới dễ sử dụng như ý, đằng này thay bằng cây trượng nặng nề, chỉ sau vài chiêu đã không thể biến hóa linh hoạt.

Công Tôn cốc chủ chợt nhận ra chỗ sơ hở của đối phương, kim đao chắn trên, hắc kiếm chém dưới, "kịch" một tiếng, hắc kiếm đã chém gãy cây cương trượng. Dương Quá reo lên:

– Hay quá! Ta đang ngán cây trượng quá nặng nề!

Chàng múa nửa cây trượng bây giờ linh động vô cùng. Công Tôn cốc chủ hừ một tiếng, nói:

– Hay hay không, lát nữa sẽ biết!

Cây kim đao bên tay trái y bổ thẳng xuống đầu Dương Quá.

Chiêu này nhìn rất vụng về, Dương Quá chỉ cần hơi né người là dễ dàng tránh được; nhưng thanh hắc kiếm của Công Tôn cốc chủ xoay tròn khống chế trước sau tả hữu, khiến chàng hoàn toàn không có lối thoát nào hết, chàng chỉ còn cách giơ cây trượng lên, sử chiêu "Chích thủ kình thiên" chống đỡ cây đao. Chỉ nghe "choang" một tiếng lớn, đao chém vào trượng, tia lửa tung tóe, Dương Quá cảm thấy hai tay tê dại. Công Tôn cốc chủ lại bổ nhát đao thứ hai xuống đầu chàng, chiêu pháp hệt như nhát đao thứ nhất. Dương Quá hiểu rộng về võ học, khi lâm trận lại hết sức linh hoạt, nhưng không thể phá giải cái chiêu thô thiển này, trừ việc giơ trượng chống đỡ, chẳng còn cách nào tốt hơn. Đao lại chém vào trượng, tia lửa tung tóe, Dương Quá cảm thấy hai tay càng thêm tê dại, thiết nghĩ đỡ hai ba nhát nữa, chắc đứt hết gân tay. Đang nghĩ thế, thì Công Tôn cốc chủ lại bổ nhát đao thứ ba xuống đầu chàng. Chàng đỡ hai ba nhát nữa, cây trượng bị lõm mấy chỗ, hổ khẩu tay phải của chàng bật máu.

Công Tôn cốc chủ thấy chàng trong cơn nguy cấp vẫn mỉm cười, thì đao tay trái chém xuống, kiếm tay phải đâm vào bụng dưới đối phương.

Lúc này Dương Quá bị dồn tới một góc sảnh, thấy mũi kiếm đâm tới, vội giơ bàn tay chống đỡ; mũi kiếm đâm vào lòng bàn tay chàng, thân kiếm cong thành hình vòng cung, bật trở lại. Nguyên cái bao tay của Tiểu Long Nữ rất chắc chắn, hắc kiếm tuy sắc bén, cũng không đâm thủng được.

Dương Quá thấy bao tay vô hiệu hóa được mũi kiếm, bèn đột nhiên lật bàn tay chộp lấy mũi kiếm của địch, bắt chước thủ pháp của Tiểu Long Nữ năm xưa bẻ gãy kiếm của Hách Đại Thông. Nào ngờ Công Tôn cốc chủ chỉ hơi bị chấn động cổ tay, thanh kiếm cong đi, bật lại, mũi kiếm đâm trúng phía trong bắp tay Dương Quá, máu tươi tức thì trào ra. Dương Quá giật mình, nhảy vội về phía sau. Công Tôn cốc chủ chưa truy kích ngay, cười khẩy mấy tiếng, rồi mới thong thả bước tới. Giả dụ trong tay Công Tôn cốc chủ chỉ có một thanh kim đao, hoặc một thanh hắc kiếm, Dương Quá còn có thể chống đỡ; đằng này hai thứ binh khí, một cương một nhu, cùng đánh tới, Dương Quá lập tức luống cuống chân tay.

Công Tôn cốc chủ đao chém kiếm đâm, Dương Quá lại trúng đòn vào vai, máu loang ướt áo. Công Tôn cốc chủ gằn giọng:

– Ngươi đã phục chưa?

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Ngươi hoàn toàn chiếm lợi thế khi tỷ võ với ta, sao còn hỏi ta có phục hay không?

Công Tôn cốc chủ thu đao kiếm lại, hỏi:

– Ta chiếm lợi thế gì, ngươi nói nghe coi?

Dương Quá nói:

– Ngươi đầy mình vũ khí, tay trái cầm quái đao, tay phải có kỳ kiếm, đôi đao kiếm ấy chỉ sợ tìm khắp thiên hạ không đâu có, phải không nào?

Công Tôn cốc chủ nói:

– Cái dây chuông và đôi bao tay của ngươi cũng đâu phải vật tầm thường.

Dương Quá ném cây trượng xuống đất, cười:

– Cái này là ta mượn của đệ tử ngươi.

Chàng tháo đôi bao tay và dải lụa đưa trả Tiểu Long Nữ, nói:

– Cái này là của cô cô ta.

Chàng vỗ tay, phủi bụi, chẳng buồn để ý đến ba vết thương máu chảy, cười, nói:

– Ta tay không đến sơn cốc này, há có ý thù địch? Ngươi muốn giết thì cứ việc, hà tất nhiều lời.

Công Tôn cốc chủ thấy chàng ung dung nhàn nhã, mặt mày tuấn tú, cơ thể bị thương mấy chỗ mà vẫn cười nói như không, so ra y tự thẹn thua kém, nghĩ: "Ta không bằng người này, để hắn sống trên thế gian, Liễu muội nhất định sẽ mê hắn". Y gật đầu, nói "Được!" rồi chĩa kiếm đâm tới ngực chàng.

Dương Quá sớm đã có chủ ý: "Mình đánh không lại hắn, để hắn đâm chết cho rồi". Thấy kiếm đâm tới, chàng cũng không tránh, chỉ quay đầu nhìn Tiểu Long Nữ, nghĩ: "Ta được ngắm cô cô mà chết, như thế cũng sung sướng". Chỉ thấy Tiểu Long Nữ mỉm cười dịu dàng, thong thả bước về phía chàng, bốn mắt gặp nhau, không thèm nhìn thanh hắc kiếm của Công Tôn cốc chủ.

Công Tôn cốc chủ không quen biết Dương Quá, đâu có cừu oán gì? Y sở dĩ dồn chàng vào tử địa, hoàn toàn chỉ là vì Tiểu Long Nữ; cho nên kiếm đâm đi rồi, mắt còn bất giác nhìn Tiểu Long Nữ một cái. Y thấy Tiểu Long Nữ đắm đuối nhìn Dương Quá, ngó về phía Dương Quá, y thấy thần sắc của Dương Quá đối với nàng cũng như vậy. Lúc này mũi kiếm đã chạm tới áo, y chỉ cần nhấn một chút, mũi kiếm sẽ đâm ngập ngực chàng; song Tiểu Long Nữ không hề kinh hoàng, mà Dương Quá cũng chẳng tìm cách chống đỡ. Hai người đắm đuối nhìn nhau, tâm ý tương thông, quên hết mọi sự trên đời. Công Tôn cốc chủ căm tức, nghĩ bụng: "Bây giờ nếu ta giết tên tiểu tử, không chừng Liễu muội sẽ tự vẫn theo hắn. Ta phải bức nàng thành hôn với ta, sau đêm động phòng hoa chúc, hãy giết tên tiểu tử cũng chưa muộn". Bèn nói:

– Liễu muội, muội muốn ta giết hắn, hay tha cho hắn?

Tiểu Long Nữ từ nãy chỉ nhìn Dương Quá, không nghĩ gì đến Công Tôn cốc chủ, đột nhiên nghe y nói to, mới sực tỉnh, nói:

– Cốc chủ thu kiếm lại đi, động tới ngực người ta rồi kìa.

Công Tôn cốc chủ nhếch mép cười, hỏi:

– Liễu muội muốn ta tha mạng cho hắn không khó, muội chỉ việc bảo hắn lập tức rời khỏi sơn cốc, không ngăn cản ngày đại hỉ của hai ta.

Tiểu Long Nữ khi chưa gặp lại Dương Quá, đã quyết định sẽ vĩnh viễn không gặp chàng, đành chịu đau khổ suốt đời, để cho chàng được bình an sung sướng; bây giờ gặp lại rồi, làm sao nàng chịu thành thân với Công Tôn cốc chủ? Tự biết chủ ý của mình vừa qua không thể làm được, nàng thà chết cũng không lấy kẻ khác, bèn quay sang nói với cốc chủ:

– Công Tôn tiên sinh, đa tạ tiên sinh đã cứu mạng tiểu nữ, nhưng tiểu nữ không thể thành thân với tiên sinh được.

Công Tôn cốc chủ thừa biết lý do, vẫn hỏi:

– Vì sao?

Tiểu Long Nữ khoác tay Dương Quá, đúng bên chàng, mỉm cười, nói:

– Tiểu nữ quyết ý kết thành phu phụ với người này, suốt đời bên nhau, lẽ nào tiên sinh không hiểu?

Công Tôn cốc chủ rùng mình, nói:

– Bữa nọ nếu nàng kiên quyết không đáp ứng, ta há thừa cơ đi ép buộc nàng; đàng này chính nàng tự bằng lòng thành thân với ta kia mà.

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng thế, nhưng tiểu nữ không nỡ bỏ người này. Hai chúng tôi phải đi rồi, mong tiên sinh đừng phiền lòng.

Nói rồi nàng kéo tay Dương Quá mà đi ra cửa sảnh.

Công Tôn cốc chủ vội nhảy tới chắn cửa sảnh nói:

– Muốn ra khỏi sơn cốc, trừ phi hãy giết ta trước đã.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Tiên sinh có đại ân cứu mạng đối với tiểu nữ, làm sao tiểu nữ nỡ sát hại tiên sinh? Hơn nữa, tiên sinh võ công cao cường, tiểu nữ có muốn cũng đánh không lại.

Nàng vừa nói vừa xé vạt áo băng bó vết thương cho Dương Quá.

Kim Luân pháp vương bỗng nói to:

– Công Tôn cốc chủ, hãy để cho họ ra đi thì hơn.

Công Tôn cốc chủ hừ một tiếng, sầm mặt im lặng.

Kim Luân pháp vương nói tiếp:

– Hai người họ liên thủ song kiếm với nhau, kim đao hắc kiếm của Công Tôn tiên sinh không địch nổi đâu. Đừng để như Đông Ngô, vừa mất phu nhân lại mất quân; chi bằng lấy được tình người, để họ đi cho rồi.

Lão từng chiến bại bởi "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" của Tiểu Long Nữ và Dương Quá liên thủ, lão dày công suy nghĩ vẫn chưa biết cách hóa giải; nay thấy "Âm dương song nhẫn" cực kỳ lợi hại, chẳng thua gì kim luân của lão, lão bèn nói khích để ba người đấu với nhau; một là để thừa dịp tìm ra sơ hở của "Ngọc nữ kiếm pháp", khi nào có dịp sẽ trả thù; hai là cũng muốn để ba người tam bại câu thương.

Thực ra, Kim Luân pháp vương không nói khích, thì Công Tôn cốc chủ cũng không đời nào để cho Tiểu Long Nữ và Dương Quá khoác tay nhau rời khỏi chốn này, y ngoảnh nhìn Kim Luân pháp vương bằng ánh mắt tức tối, nghĩ: "Ngươi dám mở miệng nói những lời lẽ như thế trước mặt ta ư? Bây giờ ta đang bận, rồi sẽ có lúc ta tính sổ với ngươi". Y quay lại, nghiến răng nhìn Tiểu Long Nữ, nghĩ: "Trái tim nàng không trao cho ta, nhưng thể xác nàng phải thuộc về ta. Nàng sống không chịu thành thân với ta, thì nàng có chết ta cũng phải thành thân với nàng". Ban đầu y chỉ định dùng tính mạng Dương Quá để uy hiếp, buộc Tiểu Long Nữ phải khuất phục; bây giờ thấy hai người không hề sợ chết, thì y nghĩ dù phải giết cả hai, y cũng không cho họ đi, thế là đôi lông mày lại dựng ngược, sát khí bừng bừng trên mặt.

Bỗng nghe Mã Quang Tá nói, giọng ồm ồm:

– Ê, cái lão Công Tôn kia, người ta đã bảo không muốn thành thân với lão, sao lão còn ngăn cản người ta? Định mặt dày mày dạn vậy sao?

Tiêu Tương Tử nham hiểm tiếp lời:

– Mã huynh đừng nói thế, Công Tôn cốc chủ đã trót bày đại yến mời bọn ta thưởng thức một bữa rồi mà.

Mã Quang Tá nói:

– Mấy món rau dưa với nước lã của lão ta mà gọi là yến với chả tiệc cái nỗi gì? Ta mà là cô nương kia, ta cũng chẳng đời nào lấy lão. Mỹ mạo như nàng, làm hoàng đế nương nương cũng được, tội gì làm vợ cái lão già hung tợn kia, để suốt đời phải ăn dưa với đậu phụ. Như thế chỉ nghĩ cũng đã tức mà chết!

Tiểu Long Nữ ngoảnh lại, nhẹ nhàng nói:

– Mã đại gia, Công Tôn tiên sinh có ơn cứu mạng với tiểu nữ. Tiểu nữ.. tiểu nữ mãi mãi không quên cốc chủ.

Mã Quang Tá nói:

– Được thôi, này lão Công Tôn kia, nếu lão là người đại nhân đại nghĩa, thì chi bằng hôm nay để cho đôi thiếu niên nam nữ này làm lễ bái đường thành thân, động phòng hoa chúc ở đây. Còn nếu lão cứu một cô nương, rồi đi bá chiếm thân thể nàng ta, thì có khác gì thổ phỉ, đạo tặc?

Mã Quang Tá trực tính, nghĩ sao nói vậy, mỗi lời nói ra tuy nghịch nhĩ, nhưng người nghe khó lòng phản bác.

Công Tôn cốc chủ nổi sát cơ, quyết ý bắt giữ cả đám khách, thản nhiên nói:

– Tuyệt Tình cốc của ta tuy không phải là chốn thần tiên, nhưng các vị muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, chẳng hóa ra dòng họ Công Tôn ta kém cỏi quá ư. Liễu cô nương..

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Tiểu nữ nói mình họ Liễu là nói dối tiên sinh đấy. Tiểu nữ họ Long, vì chàng đây họ Dương, nên tiểu nữ mới bảo mình họ Liễu.

Công Tôn cốc chủ càng ghen tức, làm như không nghe thấy mấy câu vừa rồi của nàng, vẫn nói:

– Liễu cô nương, ta..

Mã Quang Tá ngắt lời y:

– Cô nương đã nói rõ nàng họ Long, sao lão còn gọi Liễu cô nương?

Tiểu Long Nữ nói:

– Công Tôn tiên sinh gọi quen miệng rồi, chỉ tại tiểu nữ ban đầu đánh lừa cốc chủ, thôi cứ để Công Tôn tiên sinh gọi sao cũng được.

Công Tôn cốc chủ chẳng lý gì đến lời hai người, vẫn nói:

– Liễu cô nương, gã họ Dương chỉ cần thắng được "Âm dương song nhẫn" trong tay ta, thì ta sẽ để cho gã yên lành ra khỏi sơn cốc. Chuyện riêng giữa ta với cô nương, hai ta bàn định với nhau, không can hệ tới người ngoài.

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Công Tôn tiên sinh, tiểu nữ hoàn toàn không muốn động thủ với tiên sinh, song một mình chàng đánh không lại tiên sinh, nên tiểu nữ đành phải giúp chàng.

Công Tôn cốc chủ lông mày dựng ngược, nói:

– Cô nương không sợ mình vừa thổ huyết, cũng đòi tham chiến hay sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tiểu nữ và chàng đều không có binh khí, tay không đấu với đao kiếm của tiên sinh thì cầm chắc sẽ thua. Tiên sinh là người đại lượng, hãy để hai chúng tôi đi thì hơn.

Kim Luân pháp vương xen vào:

– Công Tôn cốc chủ, nơi đây bao la vạn tượng, chẳng lẽ không có được hai thanh trường kiếm hay sao? Ta đã nhắc tiên sinh ban nãy, hai người ấy song kiếm liên thủ, chỉ e tiên sinh khó giữ nổi mạng sống.

Công Tôn cốc chủ chỉ tay về phía tây, nói:

– Đi sang gian thứ ba đằng kia là kiếm thất, các vị muốn thứ binh khí gì, cứ việc tới đó mà chọn. Chỉ sợ các thứ lợi khí ta cất giữ, quí khách vị tất đã sử dụng được.

Y nói và cười nham hiểm.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ nhìn nhau, cùng nghĩ: "Hai ta được ở riêng một chỗ, trong tĩnh thất một lát, rồi chết cũng cam lòng". Bèn dắt tay nhau đi về phía tây, qua cửa hông, đi qua hai gian phòng, đến trước cửa sang gian thứ ba.

Tiểu Long Nữ mắt không rời mặt Dương Quá, thấy cửa phòng đóng kín, không nhìn kỹ, giơ tay đẩy cửa, định bước vào liền, Dương Quá bỗng nghĩ ra điều gì, vội kéo nàng lại, nói:

– Cẩn thận.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sao kia?

Dương Quá dùng chân trái đạp vào bậu cửa, chân phải đặt trên khung cửa giây lát, rồi lui ra ngay, không thấy có gì lạ. Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi sợ cốc chủ muốn ám toán chúng ta ư? Cốc chủ là người tốt, chẳng đến nỗi..

Lời chưa dứt, có hai tiếng lịch kịch, rồi tám thanh kiếm sắc từ trên dưới, hai bên cửa phòng nhất tề lao ra, đan kín khuôn cửa trống, vừa rồi nếu có ai bước vào phòng, võ công cao mấy, cũng khó thoát bị kiếm đâm nát thân.

Tiểu Long Nữ hít một hơi dài, nói:

– Quá nhi, cốc chủ hóa ra độc ác quá chừng, ta đã nhìn lầm hắn rồi. Hai ta khỏi cần tỷ kiếm với hắn làm gì nữa, đi thôi.

Bỗng có tiếng nói sau lưng:

– Cốc chủ mời hai vị vào phòng chọn kiếm.

Hai người ngoảnh lại, thấy tám đệ tử áo xanh chăng lưới gài hung khí chặn hậu, tức là cốc chủ đề phòng hai người bỏ chạy, đã sai người bám theo. Dải lụa có cái chuông của Tiểu Long Nữ đã bị đứt mất dây, không thể dùng để điểm huyệt đám đệ tử áo xanh.

Tiểu Long Nữ nói với Dương Quá:

– Quá nhi bảo trong phòng này còn có gì cổ quái nữa hay không?

Dương Quá hai tay nắm tay nàng, nói:

– Cô cô, lúc này hai ta ở bên nhau, cô cô cảm thấy thế nào? Dẫu ngàn đao vạn kiếm, hai ta cũng được chết bên nhau.

Tiểu Long Nữ cũng lòng đầy trìu mến. Hai người cùng bước vào phòng để kiếm. Dương Quá giơ tay khép cửa lại.

Chỉ thấy nơi đây, trên tường, trên bàn, trên giá, trong tủ, có đủ các kiểu các loại kiếm. Tám chín phần mười là kiếm cổ, hoặc dài bảy thước, hoặc ngắn vài tấc; có thanh han gỉ, có thanh sáng loáng, hai người thoạt nhìn hoa cả mắt, chưa nhìn rõ thế nào.

Tiểu Long Nữ chăm chăm nhìn Dương Quá, rồi đột nhiên nép vào người chàng. Dương Quá ôm chặt nàng, thơm vào môi nàng. Tiểu Long Nữ được chàng hôn, tâm hồn ngây ngất, hai tay đưa lên ôm cổ chàng.

Cửa phòng bỗng mở ra, một đệ tử áo xanh nói to:

– Cốc chủ có lệnh, chọn kiếm xong phải ra khỏi đây không được chần chừ.

Dương Quá đỏ mặt, vội buông hai tay. Tiểu Long Nữ yêu thích Dương Quá, cho rằng việc hai người ôm hôn nhau không có gì quan ngại, nhưng bị người bên cạnh cản trở, mất cả hứng thú. Nàng thở dài, nói khẽ khàng:

– Quá nhi, đợi khi nào đánh bại gã cốc chủ rồi, Quá nhi lại hôn ta nghe.

Dương Quá mỉm cười, gật đầu, đưa tay ôm eo nàng, âu yếm nói:

– Quá nhi hôn cô cô suốt đời cũng không chán. Cô cô chọn kiếm đi nào.

Tiểu Long Nữ nói:

– Binh khí ở đây xem ra quả nhiên đều là dị vật, thứ nào cũng lợi hại, tòa cổ mộ của chúng ta không có nhiều thế này.

Thế là nàng bắt đầu xem các thanh kiếm treo trên tường, muốn chọn hai thanh kiếm sắc, có độ dài và sức nặng thích hợp, để khi liên thủ cùng Dương Quá đấu với kẻ địch sẽ thu hiệu quả cao nhất. Xem đi xem lại, các thanh kiếm đều khác nhau. Nàng vừa xem, vừa hỏi Dương Quá:

– Lúc sắp bước vào đây, sao Quá nhi biết nơi này có ám khí?

Dương Quá nói:

– Quá nhi nhìn sắc diện và ánh mắt của cốc chủ mà đoán. Hắn vốn muốn lấy cô cô làm vợ, nhưng khi nghe cô cô bảo sẽ liên thủ cùng Quá nhi đấu với hắn, thì hắn tính giết luôn cô cô. Một kẻ như hắn, Quá nhi không tin rằng hắn có thiện chí để cho chúng ta dễ dàng chọn binh khí.

Tiểu Long Nữ khe khẽ thở dài, hỏi:

– Chúng mình sử "Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp" liệu có thắng nổi hắn hay không?

Dương Quá nói:

– Hắn võ công tuy cao cường, nhưng cũng không thể cao hơn Kim Luân pháp vương. Hai ta liên thủ đã đánh bại Kim Luân pháp vương, chắc cũng sẽ thắng hắn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng vậy. Kim Luân pháp vương cứ khích hắn đấu với hai chúng mình là có dụng ý đấy.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Lòng người nham hiểm, cô cô cũng đã bắt đầu hiểu phần nào rồi đấy.

Rồi chàng nói tiếp:

– Quá nhi chỉ lo sức khỏe của cô cô thôi, ban nãy cô cô mới bị thổ huyết.

Tiểu Long Nữ cười tươi như hoa, nói:

– Quá nhi biết không, khi nào đau buồn ta mới bị thổ huyết; bây giờ ta vui lắm, một chút nội thương không đáng ngại. Quá nhi cũng bị thổ huyết, không mệt lắm chứ?

Dương Quá nói:

– Quá nhi được ở bên cô cô thì không còn sợ bất cứ gì nữa.

Tiểu Long Nữ dịu dàng nói:

– Ta cũng thế.

Ngừng một chút, nàng tiếp:

– Gần đây võ công của Quá nhi đại tiến, dạo trước chúng mình đấu với Kim Luân pháp vương còn thắng, huống hồ hôm nay!

Dương Quá cũng cảm thấy trận đấu này mình nhất định thắng, bèn cầm tay nàng, nói:

– Quá nhi muốn cô cô đáp ứng cho một điều, không biết cô cô có chịu hay không?

Tiểu Long Nữ dịu dàng hỏi:

– Quá nhi hà tất phải hỏi ta? Từ lâu ta đã không còn là sư phụ của Quá nhi, mà đã là thê tử của chàng. Chàng bảo sao, thiếp nghe vậy.

Dương Quá nói:

– Thế thì.. còn gì bằng.. Vậy mà Quá nhi lại không biết.

Tiểu Long Nữ nói:

– Từ cái đêm nọ ở núi Chung Nam, khi chàng và thiếp ân ái với nhau, thiếp đâu còn là sư phụ của chàng? Chàng tuy không chịu lấy thiếp làm vợ, thiếp cũng sớm đã thành vợ của chàng.

Dương Quá không biết đêm nọ ở núi Chung Nam có chuyện gì, nghe nàng đột nhiên nhắc tới, có lẽ lúc này nàng quá xúc động mà nói vậy, chứ chàng hoàn toàn không biết đến trò quái ác của Doãn Chí Bình, nghĩ bụng: "Hôm ấy nghĩa phụ Âu Dương Phong truyền thụ võ công cho ta, đã điểm huyệt nàng, để nàng nằm một chỗ, ta và nàng đâu có ân ái với nhau". Nhưng nghe giọng nói đầy âu yếm của nàng, chàng như người say rượu, nhất thời không nói nên lời.

Tiểu Long Nữ ngả vào ngực chàng, hỏi:

– Chàng muốn thiếp đáp ứng điều gì?

Dương Quá vuốt tóc nàng, nói:

– Sau khi đánh bại cốc chủ, chúng ta sẽ lập tức trở về tòa cổ mộ, sau đó bất luận có chuyện gì, cô cô cũng vĩnh viễn không xa rời Quá nhi.

Tiểu Long Nữ ngẩng đầu lên, nhìn vào mắt chàng, nói:

– Chẳng lẽ thiếp muốn xa rời chàng hay sao? Chẳng lẽ sau khi xa chàng, thiếp không đau khổ lắm hay sao? Thiếp dĩ nhiên đáp ứng chàng, dù trời có sập xuống, thiếp cũng không xa rời chàng nữa.

Dương Quá cả mừng, định nói, thì có tiếng quát to của một đệ tử áo xanh:

– Đã chọn xong binh khí hay chưa?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói với Dương Quá:

– Mình chọn nhanh lên thôi.

Nàng xoay người lại, định lấy phắt hai thanh kiếm nào cũng được, bỗng thấy bức tường phía tây và mấy chiếc bàn có vệt cháy sém, thì không khỏi ngạc nhiên.

Dương Quá cười, nói:

– Lão Ngoan đồng từng xông vào gian này, phóng hỏa, vệt cháy sém là vết tích của Lão Ngoan đồng đấy.

Thấy dưới một bức tranh cháy một nửa lộ ra hai bao kiếm, Dương Quá chợt nghĩ: "Hai bao kiếm kia vốn bị bức tranh che lấp, vì bức tranh bị cháy, mới lộ bao kiếm ra. Chủ nhân bố trí như vậy, hắn đó phải là hai thanh kiếm quí!

Chàng bèn gỡ hai bao kiếm trên tường xuống, đưa cho Tiểu Long Nữ một cái, một cái mình cầm và rút thanh kiếm ra khỏi bao. Kiếm vừa ra khỏi bao, hai người đều cảm thấy lành lạnh. Thân kiếm đen đen, trông như miếng gỗ lim. Tiểu Long Nữ cũng rút thanh kiếm thứ hai ra khỏi bao, thanh này cũng hệt như thanh kiếm thứ nhất. Hai thanh kiếm làm cho hơi lạnh trong phòng tăng hẳn lên, cả hai mũi kiếm không nhọn, cũng không có lưỡi sắc, trông từa tựa một cái roi bằng gỗ. Dương Quá lật lật thân kiếm, thấy khắc hai chữ" Quân tử ", còn thanh kiếm Tiểu Long Nữ đang cầm thì khắc hai chữ" Thục nữ ". Dương Quá ban đầu không thích hình dạng hai thanh kiếm, nhưng tên của chúng thì thành đôi, nghe quá hay, chàng nhìn Tiểu Long Nữ xem ý nàng thế nào. Tiểu Long Nữ hài lòng, nói:

– Thanh kiếm này không nhọn không sắc, dùng để đấu với cốc chủ rất hợp, hắn từng cứu mạng thiếp, thiếp vốn không muốn đả thương hắn.

Dương Quá cười, nói:

– Tên kiếm" Quân tử Thục nữ "thế này, ta không xứng. Chữ" Quân "phải đổi thành chữ" Lãng "thì hợp với ta hơn.

Nói đoạn giơ kiếm đâm nhứ hai cái, cảm thấy sức nặng rất vừa tay, cực kỳ thuận tiện, bèn nói:

– Được, chúng ta dùng hai thanh kiếm này.

Tiểu Long Nữ tra kiếm vào bao, đang định bước ra khỏi phòng, bỗng thấy lọ hoa trên bàn có những bông hoa cực đẹp, có điều là các bông hoa được cắm lộn xộn không thành kiểu cách gì, nàng bên tiện tay sửa lại. Dương Quá kêu lên:

– Ấy chết, đừng động tới.

Nhưng đã không kịp. Ngón tay của Tiểu Long Nữ đã bị mấy cái gai đâm phải, nàng kinh ngạc ngoảnh lại, hỏi:

– Tại sao vậy?

Dương Quá nói:

– Đây là hoa Tình, cô cô ở sơn cốc mấy tuần, vẫn chưa biết ư?

Tiểu Long Nữ đưa ngón tay lên miệng, hút chỗ bị gai đâm mấy lần, lắc đầu nói:

– Thiếp không biết. Hoa Tình ư? Là loại hoa quái quỉ gì vậy?

Dương Quá định giải thích, thì nghe đám đệ tử áo xanh luôn mồm thúc giục, thế là hai người trở ra đại sảnh. Công Tôn cốc chủ chờ đã sốt ruột, hầm hầm nhìn đám đệ tử áo xanh, rõ ràng chê trách chúng biện sự bất lực, dành cho đôi thiếu niên nam nữ nhiều thời gian như vậy. Bọn đệ tử đều sợ xanh mặt.

Công Tôn cốc chủ đợi hai người tới gần, nói:

– Liễu cô nương, cô nương chọn được kiếm rồi chứ?

Tiểu Long Nữ rút thanh kiếm" Thục nữ "ra, gật đầu nói:

– Chúng tôi sử dụng hai thanh kiếm cùn này, không dám đấu thật với cốc chủ, chỉ chạm đến người là dừng, như thế được chăng?

Công Tôn cốc chủ giật mình, gằn giọng, hỏi:

– Kẻ nào chỉ dẫn Liễu cô nương chọn kiếm vậy?

Nói rồi y đưa mắt nhìn Công Tôn Lục Ngạc một cái, rồi lại nhìn Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ hơi lạ, nói:

– Không ai hướng dẫn chúng tôi cả. Hai thanh kiếm này không được dùng hay sao? Vậy thì chúng tôi đi đổi thanh kiếm khác cũng được.

Công Tôn cốc chủ gườm gườm nhìn Dương Quá, nói:

– Định đi đổi để rề rà hàng nửa ngày nữa chắc? Không đổi nữa, động thủ đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Công Tôn tiên sinh, chúng tôi xin nói rõ trước, hai chúng tôi đơn đả độc đấu với tiên sinh, đều không phải là đối thủ, bây giờ hai đánh một, hóa ra chúng tôi chiếm lợi thế. Chúng tôi thực tình không muốn đối địch với tiên sinh, cũng không muốn tranh thắng bại với tiên sinh để làm gì cả. Chỉ mong tiên sinh đừng ngăn cản, chúng tôi nhận thua và đa tạ tiên sinh.

Công Tôn cốc chủ cười khẩy, nói:

– Thắng được đao kiếm trong tay ta, ta sẽ để cho hai ngươi xử trí; còn nếu các ngươi thua, thì hôn ước cứ làm như đã định.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Chúng tôi thua, hai chúng tôi sẽ bỏ mạng ở sơn cốc này.

Công Tôn cốc chủ không nói thêm, cây kim đao trong tay trái tức thì vung chém về phía Dương Quá. Dương Quá giơ kiếm sử chiêu" Bạch hạc lượng xí "là kiếm pháp chính tông của phái Toàn Chân. Công Tôn cốc chủ nghĩ:" Chiêu này tuy pháp độ nghiêm cẩn, cũng chỉ là bình ổn mà thôi ". Thanh hắc kiếm bên tay phải đâm thẳng tới đầu vai chàng, như thế là đao kiếm cùng tấn công Dương Quá, chưa lý đến Tiểu Long Nữ. Dương Quá ngưng thần ứng chiến, nghiêm thủ môn hộ, tiếp liền ba chiêu.

Tiểu Long Nữ đợi cốc chủ sử xong ba chiêu, mới chĩa kiếm tiến lên. Công Tôn cốc chủ không dùng kim đao đối phó với nàng, thấy lai thế quá nhanh, mới dùng thanh hắc kiếm đỡ gạt, chiêu số rõ ràng có ý nhường nhịn.

Kim Luân pháp vương xem bảy, tám chiêu, mỉm cười, nói:

– Công Tôn cốc chủ, cứ thương hoa tiếc ngọc như thế, chỉ e sẽ nguy to đấy.

Công Tôn cốc chủ nói:

– Đại hòa thượng, nếu lão còn xem thường tại hạ, thì cứ đợi cuối trận hãy hay, bây giờ chớ phí công chỉ điểm.

Nói đoạn vung đao kiếm, tạo tiếng gió mạnh dần trong sảnh.

Lại đấu vài hiệp, Dương Quá sử chiêu" Hoành hành mạc bắc "trong kiếm pháp phái Toàn Chân, Tiểu Long Nữ sử chiêu" Thái bút họa mi "của" Ngọc nữ kiếm pháp ", chiêu số của hai người hợp thành một chiêu" Liêm hạ sơ trang "thuộc" Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp ". Công Tôn cốc chủ hơi lạ, dùng hắc kiếm gạt trường kiếm của DươngQuá, dùng kim đao thu ngang trước mặt. Kiếm của Tiểu Long Nữ chém tới trán cốc chủ, choang một tiếng, đao kiếm đụng nhau, lưỡi kim đao bị mẻ một miếng.

Người xem thảy đều kinh ngạc, không ngờ thanh kiếm cùn bình thường lại lợi hại như vậy. Dương Quá và Tiểu Long Nữ cũng bất ngờ, họ chọn hai thanh kiếm này chỉ vì thích tên gọi của nó, ai ngờ lại vớ được bảo kiếm; thế là tinh thần đại chấn, song kiếm ào ạt tấn công.

Công Tôn cốc chủ cũng thầm kinh ngạc:" Liễu muội và tên tiểu tử võ công đều không bằng ta, hai người hợp lực, ta chẳng ngại gì; tại sao song kiếm hợp bích, lại lợi hại như thế; xem chừng lão hòa thượng kia nói không sai. Nếu hôm nay bị hai ngươi đánh bại.. Nếu hôm nay bị hai ngươi đánh bại.. "Nghĩ tới đây, kim đao hữu công, hắc kiếm tả kích, Công Tôn cốc chủ sử dụng đến tuyệt học bình sinh" Âm dương đảo loạn nhẫn pháp ". Hắc kiếm vốn âm nhu; lúc này đột nhiên chém mạnh, biến thành đao pháp dương cương; còn cây kim đao lưỡi cưa nặng nề lại đánh nhứ chọc nhẹ theo kiểu kiếm pháp linh động, đao thành kiếm, kiếm biến đao, thật là kỳ ảo muôn phần.

Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây ba người đều kiến thức quảng bác, nhưng cái môn đảo ngược Âm dương song nhẫn về đao pháp và kiếm pháp thế này thì họ chưa từng thấy, chưa từng nghe. Mã Quang Tá kêu lên:

– Chà, lão cốc chủ già đời gớm thật, có công phu cổ quái gì thế này? Lão già.. lão đúng là gừng càng già càng cay.

Công Tôn cốc chủ bất quá bốn mươi tuổi, chưa gọi là già, hôm nay định bái đường thành thân với Tiểu Long Nữ, bây giờ cứ bị kẻ khác gọi lão này lão nọ, trong bụng làm sao không tức? Nhưng hiện tại chưa có thời gian đối phó với Mã Quang Tá, phải dốc toàn lực thi triển môn võ công y đã khổ luyện hơn hai chục năm nay, quyết ý đánh bại Dương, Long hai người, rồi sẽ tính sau.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ song kiếm hợp bích, đang dần dần chiếm thượng phong, nhưng đối phương bỗng nhiên đao kiếm thác loạn, chiêu số kỳ dị, hai người không khỏi chân tay luống cuống, lập tức liên tiếp gặp hiểm chiêu. Dương Quá thấy uy lực của thanh hắc kiếm mạnh hơn kim đao, bèn đón đỡ các đòn kiếm, để Tiểu Long Nữ chống đỡ kim đao, nghĩ thầm thanh kiếm của nàng chiếm được lợi thế, kim đao không dám đụng vào kiếm" Thục nữ ", thì nàng không bị nhiều nguy hiểm.

Nhưng làm thế, hai người thành ra độc lập tác chiến," Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp "giảm hẳn uy lực. Công Tôn cốc chủ cả mừng, vung kiếm chém mạnh ba nhát, cây đao bên tay trái cũng sử bốn chiêu" Định dương châm "," Hư tức phân kim "," Kinh Kha thích Tần "," Cửu phẩm liên đài ". Bốn chiêu phiêu dật lưu chuyển, phối hợp với ba nhát chém của thanh kiếm theo lối đao pháp, Dương Quá chỉ gắng gượng chống đỡ; Tiểu Long Nữ thì tâm ý rối loạn, muốn vung kiếm chém kim đao, nhưng cây kim đao thế như phượng bay, kiếm chém không tới.

Dương Quá biết không ổn, liều mạng sử chiêu" Mã tựu lạc hoa "trong kiếm pháp Toàn Chân, đưa mũi kiếm chếch lên, tiếp đỡ cả đao lẫn kiếm của đối phương. Tiểu Long Nữ liền thu kiếm về che ngực cho Dương Quá, thế là hai người lại trở về" Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp ". Điều cốt yếu của bộ kiếm pháp này là hai người sử kiếm phải một lòng như nhau, vì nhau. Chiêu của Dương Quá là xả thân cứu người, chính là tâm pháp tối cao của kiếm thuật. Tiểu Long Nữ thấy chàng lăn xả cứu nàng, không thủ môn hộ, sợ chàng bị hại, vội giơ kiếm bảo vệ thay cho chàng, thế là hai người tuy không thủ mà đều là thủ, uy thế của song kiếm lại tăng lên.

Đấu thêm mấy chiêu, Công Tôn cốc chủ trán lấm tấm mồ hôi, đao kiếm chống đỡ lúng túng, bại trận đã rõ. Tiểu Long Nữ và Dương Quá thì càng đánh càng thuận tay. Dương Quá tay trái miết kiếm quyết, tay phải đâm kiếm vào sườn bên trái của địch; Tiểu Long Nữ hai tay giữ chuôi kiếm, giơ kiếm lên, chiêu này gọi là" Cử án tề mi ". Lòng nàng tràn đầy nhu tình mật ý, âu yếm ngoảnh nhìn Dương Quá, đột nhiên ngực như bị chùy sắt giáng mạnh, ngón tay bên phải nhức buốt, tưởng chừng không cầm nổi kiếm được nữa, bất giác tái mặt, nhảy lùi ba bước.

Công Tôn cốc chủ cười khẩy, nói:

– Ô, hoa Tình, hoa Tình!

Y mừng thầm, song cũng ghen tức. Tiểu Long Nữ không hiểu ý, Dương Quá thì biết chất độc của hoa Tình phát tác, ban nãy trong kiếm thất nàng bị gai hoa Tình đâm vào ngón tay, bây giờ động tình, lập tức bị đau đớn. Chàng đã bị khổ tương tự, nên rất thương Tiểu Long Nữ, dịu dàng hỏi:

– Đau lắm phải không?

Công Tôn cốc chủ thừa cơ gấp gấp tấn công Dương Quá một trận. Tiểu Long Nữ đã bớt đau, giơ kiếm tiến lại. Dương Quá bảo nàng:

– Cô cô cứ nghỉ thêm chút nữa đi!

Đâu ngờ vừa động nhu tình, ngón tay chàng cũng lại đau nhói.

Công Tôn cốc chủ thừa dịp chàng sơ hở, hắc kiếm chém gấp, keng một tiếng, thanh kiếm" Quân tử "của Dương Quá bị văng xuống đất, Công Tôn cốc chủ tức thì chĩa mũi kiếm tới trước ngực chàng. Tiểu Long Nữ cả kinh, lao tới cứu, nhưng kim đao của y không để cho nàng tiếp cận. Công Tôn cốc chủ quát:

– Tóm cổ tên tiểu tử cho ta!

Bốn đệ tử áo xanh vâng lệnh, tung lưới chụp xuống người Dương Quá, quấn lại mấy vòng. Công Tôn cốc chủ hỏi:

– Liễu muội, muội định thế nào?

Tiểu Long Nữ biết một mình nàng đã không thể địch nổi y, bèn quăng kiếm" Thục nữ "xuống đất, chỉ nghe" cạch "một cái, kiếm" Thục nữ "và kiếm" Quân tử "tự nhảy lại gần, rồi hút dính vào nhau; thì ra hai thanh kiếm đều có nam châm cực mạnh. Tiểu Long Nữ nói:

– Kiếm còn như thế, người há không bằng kiếm? Cốc chủ cứ việc giết hai chúng tôi đi.

Công Tôn cốc chủ nói:

– Hừ, muội hãy theo ta.

Y chắp tay nói với bọn Kim Luân pháp vương:

– Xin chờ cho!

Rồi y đi vào nội đường, Bốn đệ tử khiêng Dương Quá nằm trong lưới theo sau. Tiểu Long Nữ cũng đi theo họ.

Mã Quang Tá nói:

– Đại hòa thượng, Tiêu huynh, chúng ta hãy tìm cách cứu người.

Kim Luân pháp vương mỉm cười không đáp. Tiêu Tương Tử cười khẩy, nói:

– Mã huynh liệu có địch nổi lão ta không?

Mã Quang Tá vò đầu bứt tai, chưa nghĩ ra cách gì, chỉ nói:

– Địch không nổi cũng phải đánh, địch không nổi cũng phải đánh!

Công Tôn cốc chủ hiên ngang đi vào một gian thạch thất nhỏ hẹp, nói:

– Ngắt hoa Tình mang vào đây.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã quyết ý cùng chết, hai người nhìn nhau mỉm cười, chẳng buồn để tâm đến việc Công Tôn cốc chủ làm gì, nói gì. Lát sau, từ cửa phòng tràn vào mùi hoa thơm ngây ngất, hai người nhìn ra, thấy mười mấy đệ tử áo xanh mang vào những bông hoa Tình ngũ sắc, nổi bật màu đỏ tươi và màu vàng chanh. Họ đeo các bao tay bằng da bò để khỏi bị gai hoa Tình đâm vào tay. Công Tôn cốc chủ hất tay phải, lạnh lùng nói:

– Ném cả xuống người tên tiểu tử!

Lập tức toàn thân Dương Quá như bị hàng ngàn con ong đốt, tứ chi bách hạch đau nhức khó chịu, phải kêu rống lên. Tiểu Long Nữ vừa thương chàng, vừa căm tức, quát với Công Tôn cốc chủ:

– Ngươi giở trò gì vậy?

Nàng bước tới định hất các bông hoa Tình ra khỏi người Dương Quá.

Công Tôn cốc chủ giơ tay cản lại, nói:

– Liễu muội, hôm nay lẽ ra là ngày ta với muội động phòng hoa chúc, bị tên tiểu tử này xông vào phá đám. Ta và hắn vốn không quen biết, không thù oán gì; hơn nữa hắn là người quen cũ của muội; chỉ cần hắn giữ phép tắc tân khách, đương nhiên ta sẽ dùng lễ đãi hắn. Bây giờ việc đến nước này..

Y hất tay, các đệ tử lui cả ra ngoài, y nói tiếp:

– Là phúc hay họa, hoàn toàn tùy muội.

Dương Quá bị gai hoa Tình vây quanh đâm vào người, đau đớn vô cùng, nhưng không muốn để Tiểu Long Nữ phải khổ sở vì chàng, nên chỉ nghiến răng im lặng, không để ý nghe Công Tôn cốc chủ nói gì.

Tiểu Long Nữ nhìn thần tình khổ sở của chàng, vừa cảm thấy thương chàng quá đỗi, thì ngón tay lại nhức buốt vì chất độc của hoa Tình phát tác, nàng nghĩ:" Mình bị gai hoa Tình đâm hai, ba chỗ, đã đau như thế, chàng bị hàng trăm cái gai đâm, làm sao chịu nổi? "

Công Tôn cốc chủ đoán biết tâm ý nàng, nói:

– Liễu muội, ta thành tâm thành ý muốn kết mối lương duyên trăm năm với muội, đối với muội, ta chỉ có lòng ái mộ, tuyệt không tà ý, điều đó hẳn muội biết rõ.

Tiểu Long Nữ gật đầu, buồn bã nói:

– Tiên sinh đối với tiểu nữ rất tốt, chưa nói chuyện có ơn cứu mạng, hai tuần qua tiên sinh lúc nào cũng tỏ ra ân cần chu đáo, chỉ sợ làm cho tiểu nữ không vui lòng.

Nàng cúi đầu, thở dài não nuột, nói:

– Công Tôn tiên sinh, hôm ấy giá như tiên sinh đừng gặp tiểu nữ ngoài hoang sơn, không cứu mạng tiểu nữ, cứ để tiểu nữ chết đi không ai hay biết, có phải là cả ba chúng ta đều dễ chịu hơn không. Tiên sinh cưỡng ép tiểu nữ thành thân với tiên sinh, thừa biết tiểu nữ sẽ suốt đời buồn khổ, thế thì có hay ho gì cho tiên sinh kia chứ?

Công Tôn cốc chủ hai lông mày lại từ từ dựng ngược, nói gằn giọng, rành mạch từng lời:

– Ta xưa nay nói một là một, nói hai là hai, quyết không cho phép kẻ nào khinh thường vũ nhục. Muội đã đáp ứng thành thân với ta, thì phải thành thân. Còn chuyện sướng hay khổ, thế sự vốn khó đoán, việc ngày mai ai biết thế nào? Chờ đó sẽ biết sau.

Y phẩy tay áo, nói:

– Kẻ này bị gai hoa Tình đâm khắp người, cứ sau mỗi canh giờ, cái đau lại tăng một phần, ba mươi sáu ngày sau toàn thân sẽ đau nhức mà chết. Trong vòng mười hai canh giờ, ta có diệu dược bí truyền chữa khỏi, chứ sau một ngày đêm thì thần tiên khó cứu. Hắn sống hay chết, là tùy ở Liễu muội.

Nói xong, y thong thả đi ra, mở cửa, ngoảnh đầu lại nói:

– Nếu muội thà để cho hắn đau đớn rồi chết, thì muội cứ ở đây mà xem hắn ra sao trong ba mươi sáu ngày, muội có thể yên tâm là ta quyết sẽ không gia hại muội. Trong vòng mười hai canh giờ, nếu muội hồi tâm chuyển ý, chỉ cần nói một tiếng, ta sẽ đem giải dược cứu sống hắn.

Nói đoạn định bước ra khỏi phòng.

Tiểu Long Nữ thấy Dương Quá toàn thân run rẩy, cắn môi đến bật máu, đôi mắt vốn sáng long lanh giờ đây đờ dại hẳn đi, nghĩ đến nỗi đau nhức đang ghê gớm, vậy mà cứ sau mỗi canh giờ, cái đau lại tăng một phần, phải chịu đựng ba mươi sáu ngày, thì chỉ e dưới địa ngục cũng không có hình phạt nào khủng khiếp hơn thế, nàng bèn nghiến răng, nói:

– Công Tôn cốc chủ, tiểu nữ đáp ứng thành thân với tiên sinh. Tiên sinh mau thả chàng ra, đưa thuốc cứu chàng.

Công Tôn cốc chủ một mực truy bức, chỉ cốt Tiểu Long Nữ nói câu vừa rồi; nhưng nghe nàng nói, y vừa mừng vừa ghen tức, biết rằng từ nay trở đi, thiếu nữ này đối với y chỉ có lòng oán hận, chứ không có nửa phần tình ý, bèn gật đầu, nói:

– Liễu muội biết hồi tâm chuyển ý, là tốt cho mọi người. Đêm nay hai ta động phòng hoa chúc, sáng mai ta sẽ đem giải dược cứu hắn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Tiên sinh hãy cứu người đi đã.

Công Tôn cốc chủ thở dài, nói:

– Liễu muội, muội coi thường ta quá. Dễ gì được muội đáp ứng kia chứ? Muội không hề chân tâm tình nguyện, ta có ngu mấy cũng thừa biết. Tội gì ta phải trị thương cho hắn trước?

Nói rồi y quay người đi ra khỏi phòng.

Tiểu Long Nữ và Dương Quá nhìn nhau ảm đạm, không nói gì. Dương Quá chậm rãi nói:

– Cô cô, Quá nhi được cô cô khuynh tâm tương ái, dẫu ở nơi chín suối, cũng sung sướng vô cùng. Cô cô hãy đánh cho Quá nhi một chưởng chết luôn đi thôi.

Tiểu Long Nữ nghĩ:" Mình đánh chết chàng, rồi tự tận theo ". Thế là giơ tay lên, tiềm vận nội kình.

Dương Quá mỉm cười, mục quang nhu hòa, âu yếm nhìn nàng, nói nhỏ:

– Đây có khác gì lúc hai ta động phòng hoa chúc kia chứ.

Tiểu Long Nữ nhìn thần thái thanh thản của chàng, nghĩ:" Một lang quân tuấn tú thế này, sao ông trời nỡ tàn nhẫn, bắt chàng phải chết oan chết uổng? "Ngực đột nhiên nong nóng, cổ họng ngòn ngọt, tựa hồ sắp thổ huyết, kình lực ở cánh tay lập tức tiêu tan. Nàng đột nhiên sà xuống ôm lấy Dương Quá, để cho hàng trăm chiếc gai hoa Tình đâm vào người nàng, nàng nói:

– Quá nhi, hai ta cùng chịu khổ với nhau.

Chợt nghe có tiếng kêu của Công Tôn cốc chủ ở sau lưng:

– Ối, muội.. muội..

Rồi y lạnh lùng nói:

– Tội gì chịu khổ như thế? Muội bị đau đớn, nỗi đau trên người hắn có giảm bớt được chút nào đâu kia chứ?

Tiểu Long Nữ âu yếm nhìn Dương Quá, quay người đi ra cửa, không ngoảnh lại nữa. Công Tôn cốc chủ nói với Dương Quá:

– Dương huynh đệ, cố chịu mười canh giờ nữa, ta sẽ mang linh dược tới cứu. Trong mười canh giờ, chỉ cần ngươi đừng khởi động tình dục, thì tuy đau đớn, cũng vẫn chịu được.

Nói xong y bước ra khỏi phòng, đóng cửa lại, bỏ đi.

Dương Quá thể xác và tinh thần đều đau đớn khổ sở, nghĩ:" Mọi đau khổ từ trước tới giờ, so với nỗi khổ này, đều chẳng là gì. Gã cốc chủ tàn bạo thế này, ta làm sao chịu chết, để cho hắn tùy ý hành hạ cô cô? Huống hồ mối thù giết cha chưa trả, há có thể để cho hai kẻ Quách Tĩnh, Hoàng Dung giả nhân giả nghĩa hành ác mà không bị báo ứng hay sao? "Chàng nghĩ tới đây bất giác nhiệt huyết dâng lên, tinh thần hăng hái" Không thể chết, bất kể thế nào cũng không được chết! Dẫu cô cô có thành phu nhân của cốc chủ, ta cũng sẽ cứu nàng ra. Ta còn phải khổ luyện võ công, trả thù cho cha mẹ nữa chứ ". Thế là chàng nghiến răng, ngồi dậy, xếp bằng tròn, tuy vướng tấm lưới không thể ngồi đúng tư thế, song vẫn đưa khí xuống đan điền, bắt đầu dụng công.

Sau hơn hai canh giờ, đã sang buổi chiều, một đệ tử áo xanh bưng đĩa trên có bốn chiếc bánh bao tới, nói:

– Hôm nay là ngày đại hỉ tân hôn của cốc chủ, ngươi cũng được một bữa no nê đây.

Gã đặt đĩa bánh bên cạnh tấm lưới, tay hắn mang bao tay bằng vải thô dày để khỏi bị gai hoa Tình đâm phải. Dương Quá thò tay ra ngoài lưới, ăn hết cả bốn cái bánh, nghĩ:" Ta phải đấu với gã tặc cốc chủ đến cùng, không thể hủy hoại thân mình ". Gã đệ tử cười, nói:

– Xem ra ngươi vẫn ăn ngon miệng lắm!

Bỗng cửa phòng thoáng bóng áo xanh, thêm một đệ tử áo xanh nữa, người ấy lẳng lặng tới sau lưng gã thứ nhất, giáng mạnh một quyền vào bối tâm gã; gã chưa biết ai vào, đã bị đòn ngất đi.

Dương Quá thấy người kia chính là Công Tôn Lục Ngạc, thì ngạc nhiên, nói:

– Cô nương.. cô nương..

Công Tôn Lục Ngạc quay ra đóng cửa lại, rồi nói nhỏ:

– Công tử thấp giọng thôi, muội đến cứu công tử đây.

Nàng cởi nút buộc lưới, gỡ các bông hoa Tình, giúp Dương Quá ra khỏi lưới. Tay nàng mang bao bằng vải thô. Dương Quá nói:

– Nếu lệnh tôn biết việc này..

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Muội nhận hình phạt là cùng.

Nàng nhét một bông hoa Tình vào miệng gã đệ tử kia, để khi tỉnh lại hắn không thể kêu cứu, rồi trùm tấm lưới lên người hắn, rải hoa Tình lên trên, rồi mới nói:

– Dương đại ca, nếu có ai vào đây, đại ca hãy tạm nấp sau cánh cửa. Bây giờ muội tới đan phòng lấy thuốc giải độc cho đại ca.

Dương Quá cảm kích, biết việc làm này của nàng là phạm vào nguy hiểm lớn, chàng mới quen nàng chưa đầy một ngày, vậy mà nàng dám phản lại cha, tới cứu chàng, bèn nói:

– Cô nương, tại hạ.. tại hạ..

Chàng xúc động, nghẹn ngào, nói không nên lời.

Công Tôn Lục Ngạc mỉm cười, nói:

– Đại ca chờ cho một chút, muội sẽ trở lại ngay.

Nói đoạn bước ra khỏi phòng.

Dương Quá ngẩn ngơ xuất thần:" Vì sao nàng lại đối tốt với ta? Ta tuy gặp bất hạnh, từ nhỏ bị người khinh khi, nhưng số người chân tâm tử tế với ta cũng không ít. Cô cô thì khỏi nói. Nào Tôn bà bà, nào Hồng lão bang chủ, nào nghĩa phụ Âu Dương Phong, nào Hoàng đảo chủ; rồi còn Trình Anh, Lục Vô Song, bây giờ là Công Tôn Lục Ngạc, toàn là những người chân tình thương mến ta. Số phận ta chắc kỳ lạ lắm, nếu không tại sao có người đối tốt với ta thì cực tốt, có kẻ đối ác với ta thì cực ác? "Chàng không nghĩ rằng đó là vì tính nết của chàng mà ra; chàng thấy ai nói không hợp, thì coi họ như kẻ thù; thấy ai hợp ý thì hết mực chân thành với họ, nên càng được họ đối xử tử tế hơn.

Đợi hồi lâu, vẫn không thấy Công Tôn Lục Ngạc trở lại, Dương Quá càng lúc càng nóng ruột. Ban đầu còn đoán, đan phòng có người, nhất thời chưa tiện lấy trộm giải dược, sau đó càng lâu, chàng nghĩ nếu nàng không lấy được thuốc, thì cũng quay lại báo cho biết, xem chừng có chuyện chẳng lành rồi, nàng vì ta xông pha nguy hiểm, lẽ nào ta không tìm cách cứu nàng?

Thế là chàng hé cửa nhìn ra ngoài, bên ngoài yên ắng không một bóng người, chàng bèn lẻn ra, nhưng chưa biết Công Tôn Lục Ngạc bị hãm thân ở chỗ nào.

Đang hoang mang, bỗng nghe tiếng bước chân ở một góc nhà, chàng vội nép mình nấp vào một góc khác, thấy hai đệ tử áo xanh sánh vai nhau mỗi gã cầm một cây gậy là công cụ hành hình. Dương Quá cả giận, nghĩ:" Cô cô thà chết không khuất phục, lão cốc chủ lại định dùng hình phạt cưỡng bức nàng! "Bèn nhẹ bước bám theo hai đệ tử kia. Hai gã đó không hề phát giác, cứ đi vòng qua mấy dãy hành lang dài, tới trước cửa một thạch thất, nói to:

– Khải bẩm cốc chủ, kinh trượng đã được mang tới.

Rồi cả hai bước vào trong.

Dương Quá trống ngực đập dồn, chàng thấy ở mé đông thạch thất có cửa sổ, bèn tới đó, ghé mắt nhìn vào, thấy Công Tôn Lục Ngạc đang đứng cúi đầu trước mặt cha nàng, có hai đệ tử áo xanh cầm kiếm kèm hai bên. Công Tôn cốc chủ ngồi ghế, nhận hai cây kinh trượng, lạnh lùng nói:

– Ngạc nhi, ngươi là cốt nhục thân sinh của ta, sao lại phản bội ta?

Công Tôn Lục Ngạc cúi đầu không trả lời. Công Tôn cốc chủ nói:

– Ngươi thích tên tiểu tử họ Dương, ta há không biết sao? Ta đã bảo sẽ tha cho hắn, ngươi hà tất lo cuống lên? Ngày mai để ta bảo hắn, ta sẽ gả ngươi cho hắn, thế được chưa?

Dương Quá làm gì chẳng biết Công Tôn Lục Ngạc có tình ý với chàng, nhưng lúc này nghe người khác công khai nói ra, cũng cảm thấy xốn xang.

Công Tôn Lục Ngạc cúi đầu im lặng, lát sau ngẩng đầu nói rành rọt:

– Gia gia, gia gia bây giờ chỉ nghĩ đến hôn lễ của mình, đâu còn nhớ gì đến hài nhi?

Công Tôn cốc chủ hừ một tiếng, không trả lời.

Công Tôn Lục Ngạc nói tiếp:

– Đúng thế, hài nhi ngưỡng mộ Dương công tử là người chính phái, có tình có nghĩa. Nhưng hài nhi biết trong lòng chàng ta chỉ có một người là Long cô nương. Sở dĩ hài nhi cứu chàng ta, là vì thấy gia gia làm những điều không nên làm, chứ không có ý gì khác.

Dương Quá hết sức cảm động, nghĩ:" Tặc cốc chủ xấu xa tàn bạo, không ngờ lại có được cô con gái nhân nghĩa đến thế ".

Công Tôn cốc chủ lạnh lùng nói:

– Vậy ngươi thử nói xem, ta là người không chính phái, vô tình vô nghĩa phải không?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Hài nhi làm sao dám bảo gia gia như vậy. Có điều.. có điều là..

Công Tôn cốc chủ hỏi:

– Có điều là sao?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Dương công tử bị ngần ấy cái gai hoa Tình đâm vào người, đau đớn chịu sao nổi? Gia gia đại ân đại đức, hãy cứu chàng ta đi.

Công Tôn cốc chủ cười khẩy, nói:

– Cứu hắn, tha cho hắn, ta tự biết, không cần ngươi đa sự.

Công Tôn Lục Ngạc cúi đầu ngẫm nghĩ, tựa hồ cân nhắc xem nên nói câu gì, cuối cùng nói với vẻ mặt kiên nghị:

– Gia gia, hài nhi chịu đại ơn sinh thành dưỡng dục của gia gia, Dương công tử chỉ là người ngoài mới quen, khi nào hài nhi lại đi giúp chàng ta? Nếu quả thật ngày mai gia gia cho chàng giải dược và thả chàng đi, thì hà tất hài nhi phải mạo hiểm đột nhập đan phòng?

Công Tôn cốc chủ gằn giọng, hỏi:

– Vậy ngươi lẻn vào đó làm gì?

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Hài nhi biết gia gia không có thiện ý với chàng ta; sau khi cưỡng bức Long cô nương thành thân với mình, gia gia sẽ dùng độc kế hại chết Dương công tử, để Long cô nương không còn nghĩ đến chàng ta nữa.

Công Tôn cốc chủ đôi lông mày dần dần dựng ngược, lạnh lùng nói:

– Hừ, đúng là nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà. Nuôi cho người lớn ngần này, không ngờ hôm nay ngươi lại cắn ta. Đưa ra đây!

Nói đoạn y chìa tay ra. Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Gia gia muốn cái gì?

Công Tôn cốc chủ nói:

– Đừng có vờ vịt không biết." Tuyệt Tình đơn "giải độc hoa Tình ngươi đã lấy đâu rồi, đưa cho ta!

Công Tôn Lục Ngạc nói:

– Hài nhi không hề lấy.

Công Tôn cốc chủ đứng dậy, hỏi:

– Thế thì thuốc đi đâu?

Dương Quá nhìn trong nhà, chỉ thấy trên bàn, trong tủ bày đầy các bình dược, trên tường treo vô số thảo dược khô, ở phía tây có ba lò luyện thuốc đặt thành một hàng, gian này gọi là đan phòng. Nhìn thần tình của Công Tôn cốc chủ, thì hôm nay Công Tôn Lục Ngạc khó thoát bị phạt nặng. Chỉ nghe nàng nói:

– Gia gia, hài nhi vào đan phòng đúng là để lấy" Tuyệt Tình đơn "cứu Dương công tử, nhưng tìm chán chê cũng không thấy, nếu thấy, đã chẳng để gia gia phát giác.

Công Tôn cốc chủ gằn giọng, nói:

– Nơi cất giấu thuốc cực kỳ cơ mật, người ngoài đều ở đại sảnh, không rời đó nửa bước," Tuyệt Tình đơn "đột nhiên biến mất tiêu, chẳng lẽ nó có chân tự đi hay sao?

Công Tôn Lục Ngạc quì xuống, khóc, nói:

– Gia gia, xin gia gia tha mạng cho Dương công tử, dặn chàng sau khi rời khỏi sơn cốc vĩnh viễn không được phép trở lại, thì được rồi.

Công Tôn cốc chủ cười nhạt, nói:

– Nếu tính mạng ta bị nguy cấp, ngươi vị tất chịu cầu xin kẻ khác như thế.

Công Tôn Lục Ngạc không nói, chỉ ôm lấy hai đầu gối của cha. Công Tôn cốc chủ nói:

– Ngươi đã lấy trộm" Tuyệt Tình đơn "lại còn xin ta tha mạng cho hắn ư? Được, ngươi không chịu nhận, cái đó tùy ngươi. Ngươi sẽ bị nhốt tại đây một ngày. Ngươi tuy lấy trộm giải dược của ta, song không đưa vào miệng tên tiểu tử ấy được, thì chỉ uổng công vô ích. Mười hai canh giờ sau, ta sẽ thả ngươi!

Nói đoạn y đi ra cửa. Công Tôn Lục Ngạc nghiến răng, gọi:

– Gia gia!

Công Tôn cốc chủ hói:

– Ngươi còn muốn gì?

Công Tôn Lục Ngạc chỉ bốn đệ tử áo xanh, nói:

– Gia gia hãy bảo họ ra ngoài.

Công Tôn cốc chủ nói:

– Trong sơn cốc của ta, tất cả một lòng, không có chuyện gì phải giấu họ.

Công Tôn Lục Ngạc đỏ mặt, rồi tái mặt, nói:

– Được, gia gia không tin con gái của gia gia, thì hãy nhìn xem trên người hài nhi có đơn dược hay không.

Nói rồi nàng cởi áo, cởi luôn cả quần ra. Công Tôn cốc chủ vội hất tay đuổi bốn đệ tử ra ngoài.

Trong giây lát, trên người Công Tôn Lục Ngạc chỉ còn đồ lót, quả nhiên không giấu vật gì cả.

Dương Quá ở ngoài cửa sổ nhìn thấy toàn thân nàng trắng ngần, trong lòng bồi hồi. Chàng là thiếu niên nam tử, Công Tôn Lục Ngạc thân hình nảy nở, đầy đặn, dung mạo xinh xắn, vừa nhìn nàng, chàng cảm thấy huyết mạch rộn ràng, nhưng lập tức nghĩ:" Nàng vì muốn cứu mạng ta, mới không ngần ngại cởi bỏ y phục; Dương Quá ơi là Dương Quá, nếu ngươi còn nhìn nàng, thì không bằng loài cầm thú". Chàng vội nhắm mắt lại, nhưng tâm thần hơi bấn loạn, vô ý để trán cụng nhẹ vào cửa sổ một cái. Tiếng cụng phát ra rất nhẹ, cũng đủ để Công Tôn cốc chủ nhận biết; y đến bên ba lò thuốc, kéo chiếc lò ở giữa ra, đẩy chiếc lò ở phía đông vào giữa, đẩy chiếc lò ở phía tây sang phía đông, rồi đẩy chiếc lò vốn ở giữa sang phía tây, nói:

– Đã thế, ta cho phép ngươi cứu mạng tên tiểu tử ấy vậy!

Công Tôn Lục Ngạc cả mừng, quì xuống vái, run run nói:

– Gia gia!

Công Tôn cốc chủ trở lại ngồi xuống chiếc ghế sát tường, nói:

– Qui củ trong sơn cốc thế nào, ngươi biết rồi. Tự tiện lẻn vào đan phòng, sẽ bị phạt thế nào?

Công Tôn Lục Ngạc cúi đầu, nói:

– Phải bị xử tử.

Công Tôn cốc chủ thở dài, nói:

– Ngươi tuy là thân sinh nữ nhi của ta, nhưng cũng không thể vi phạm qui củ được.

Nói đoạn y rút kiếm, giơ lên, nói:

– Ngạc nhi, nếu từ giờ ngươi không cầu xin cho tên tiểu tử họ Dương, thì ta sẽ tha mạng cho ngươi. Ta chỉ được phép tha mạng cho một người, vậy tha cho ngươi hay là tha cho hắn thì bảo?

Công Tôn Lục Ngạc thấp giọng đáp:

– Tha cho chàng!

Công Tôn cốc chủ nói:

– Được, con gái của ta đại nhân đại nghĩa, hơn hẳn cha của nó nhiều đấy.

Nói xong vung kiếm chém xuống đầu nàng.

Dương Quá cả kinh, kêu to:

– Hãy khoan!

Chàng từ ngoài cửa sổ vừa phi thân vào, vừa nói:

– Hãy giết ta đi!

Chân phải của chàng vừa chạm đất, đang định giơ tay chộp lấy cổ tay của Công Tôn cốc chủ, không cho thanh kiếm chém xuống, thì đột nhiên cảm thấy dưới chân hẫng hụt như đạp vào chỗ trống. Chàng thầm biết có chuyện, vội đề chân khí, cố rướn người lên trên. Công Tôn cốc chủ dùng tay đẩy mạnh vào vai Công Tôn Lục Ngạc, khiến nàng loạng choạng lùi về phía sau, đụng vào người Dương Quá.

Dương Quá đang đáp xuống, vừa lúc Công Tôn Lục Ngạc đụng vào chàng, thế là hai người cùng rơi thẳng xuống, chỉ thấy dưới chân trống không, rơi mấy chục trượng vẫn chưa chạm đất.

Dương Quá tuy kinh hoàng, vẫn muốn cứu mạng Công Tôn Lục Ngạc, liền dùng hai tay ôm ngang lưng nàng đỡ lên, trước mắt tối om, không biết rơi đi đâu, bên dưới là rừng đao biển kiếm, hay loạn thạch cự nham? Đang nghĩ, thì ùm một tiếng, hai người rơi xuống nước, chìm nhanh. Thì ra bên dưới đan phòng có một cái vực sâu.

Comments

0 comments

Trước Tiếp
 
Từ khóa: Sửa

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back