Bài viết: 1903 



Đoàn Văn Cừ từng giữ nhiều chức vụ cao trong các hiệp hội thơ văn. Từ 1959, ông từng là cán bộ biên tập Nhà xuất bản Phổ Thông (Bộ Văn hóa) ; được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ông còn có các bút danh khác là Kẻ Sỹ, Cư sỹ Nam Hà, Cư Sỹ Sông Ngọc và ngoài thơ cũng sáng tác văn xuôi.
Đoàn Văn Cừ là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới với bút pháp và phong cách rất riêng: Tả chân, sở trường viết về cảnh trí và đời sống thôn quê. Cảnh vật trong thơ của Đoàn Văn Cừ sống động và nhộn nhịp với màu sắc và âm thanh tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới sinh động về nông thôn là làng quê.
Các tác phẩm tiêu biểu như: Thôn ca I (1944) ; Thơ lửa (1947) ; Việt Nam huy hoàng (1948) ; Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu (1953) ; Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc (1958) ; Thôn ca II (1960) ; Dọc đường xuân (1979) ; Đường về quê mẹ (1987)
Nhà nghiên cứu văn học Tâm Dương (tức Văn Tâm) từng nhận xét: "Cùng tái hiện cảnh trí nông thôn, thơ Đoàn Văn Cừ là những nhạc họa – phẩm hoàn chỉnh rung động giai điệu sắc màu cảm xúc, còn thơ Anh Thơ thường mới là những mảng ký họa – tuy già đặn và cũng đáng quý. Có lẽ đó là điểm khác nhau chủ yếu giữa thơ của người ghi những" bức tranh quê "với người soạn những khúc" thôn ca "(Thơ Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, 1992, tr. 144). Và cũng giống như nhà thơ Vũ ˆ Đình Liên đi vào lịch sử văn học hiện đại Việt Nam với bài thơ Ông đổ, còn nhà thơ Đoàn Văn Cừ thì góp mặt với bài thơ Chợ rét bất hủ.
Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa, như bài chợ tết. Ông thật sự đã đi vào ký ức người đọc Việt Nam khá đậm với cảnh sắc của mọt Chợ tết đặc sắc. Bài thơ in trên báo Ngày nay từ trước năm 1939. Hay bài Yản đồ nước Việt với niềm ngợi ca nòi giống rồng tiên và tự hào về lãnh thổ chủ quyền quốc gia..
Dưới đây là tuyển tập những bài thơ hay của Đoàn Văn Cừ. Mời các bạn đọc!
Ông còn có các bút danh khác là Kẻ Sỹ, Cư sỹ Nam Hà, Cư Sỹ Sông Ngọc và ngoài thơ cũng sáng tác văn xuôi.
Đoàn Văn Cừ là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới với bút pháp và phong cách rất riêng: Tả chân, sở trường viết về cảnh trí và đời sống thôn quê. Cảnh vật trong thơ của Đoàn Văn Cừ sống động và nhộn nhịp với màu sắc và âm thanh tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới sinh động về nông thôn là làng quê.
Các tác phẩm tiêu biểu như: Thôn ca I (1944) ; Thơ lửa (1947) ; Việt Nam huy hoàng (1948) ; Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu (1953) ; Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc (1958) ; Thôn ca II (1960) ; Dọc đường xuân (1979) ; Đường về quê mẹ (1987)
Nhà nghiên cứu văn học Tâm Dương (tức Văn Tâm) từng nhận xét: "Cùng tái hiện cảnh trí nông thôn, thơ Đoàn Văn Cừ là những nhạc họa – phẩm hoàn chỉnh rung động giai điệu sắc màu cảm xúc, còn thơ Anh Thơ thường mới là những mảng ký họa – tuy già đặn và cũng đáng quý. Có lẽ đó là điểm khác nhau chủ yếu giữa thơ của người ghi những" bức tranh quê "với người soạn những khúc" thôn ca "(Thơ Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, 1992, tr. 144). Và cũng giống như nhà thơ Vũ ˆ Đình Liên đi vào lịch sử văn học hiện đại Việt Nam với bài thơ Ông đổ, còn nhà thơ Đoàn Văn Cừ thì góp mặt với bài thơ Chợ rét bất hủ.
Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa, như bài chợ tết. Ông thật sự đã đi vào ký ức người đọc Việt Nam khá đậm với cảnh sắc của mọt Chợ tết đặc sắc. Bài thơ in trên báo Ngày nay từ trước năm 1939. Hay bài Yản đồ nước Việt với niềm ngợi ca nòi giống rồng tiên và tự hào về lãnh thổ chủ quyền quốc gia..
Dưới đây là tuyển tập những bài thơ hay của Đoàn Văn Cừ. Mời các bạn đọc!

Bản đồ nước Việt
0O0
Tôi sẽ giữ suốt đời trong trí nhớ
0O0
Tôi sẽ giữ suốt đời trong trí nhớ
Quãng ngày xanh học tập tại quê hương
Trong căn nhà nho nhỏ dưới cây bàng
Có tấm biển đề" An thôn học hiệu "
O00
Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử
Thầy tôi bảo:" Các em nên nhớ rõ
Nước chúng ta là một nước vinh quang
Bao anh hùng thủa trước của giang san
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các em phải đêm ngày chăm chỉ học
Để đêm ngày nối được chí tiền nhân
Ta chắc rằng sau một cuộc xoay vần
Trong căn nhà nho nhỏ dưới cây bàng
Có tấm biển đề" An thôn học hiệu "
O00
Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử
Thầy tôi bảo:" Các em nên nhớ rõ
Nước chúng ta là một nước vinh quang
Bao anh hùng thủa trước của giang san
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các em phải đêm ngày chăm chỉ học
Để đêm ngày nối được chí tiền nhân
Ta chắc rằng sau một cuộc xoay vần
Dân nước Việt lại là dân hùng liệt
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam
Bên những trang lịch sử bốn nghìn năm
Đầy chiến thắng vinh quang, đầy máu thắm
Ta sẽ phải suốt đời đau uất hận
Nếu Việt Nam địa giới phải chia rời,
Dân Việt Nam huyết mạch rẽ đôi nơi
Người Nam, Bắc không cùng chung cội rễ
Ta nhất định không bao giờ chịu thế
Núi sông nào cũng của nước Việt Nam!"
O00
Tiếng thầy tôi suốt buổi học vang vang
Trên án sách, bên những hàng cửa kính
Giờ tôi tưởng như đương ngồi dự thính
Thầy tôi đương hùng biện giữa thanh niên
Đương quyết vì quyền lợi giống Rồng Tiên
Đòi giữ vững bản đồ non nước Việt.
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam
Bên những trang lịch sử bốn nghìn năm
Đầy chiến thắng vinh quang, đầy máu thắm
Ta sẽ phải suốt đời đau uất hận
Nếu Việt Nam địa giới phải chia rời,
Dân Việt Nam huyết mạch rẽ đôi nơi
Người Nam, Bắc không cùng chung cội rễ
Ta nhất định không bao giờ chịu thế
Núi sông nào cũng của nước Việt Nam!"
O00
Tiếng thầy tôi suốt buổi học vang vang
Trên án sách, bên những hàng cửa kính
Giờ tôi tưởng như đương ngồi dự thính
Thầy tôi đương hùng biện giữa thanh niên
Đương quyết vì quyền lợi giống Rồng Tiên
Đòi giữ vững bản đồ non nước Việt.
>> Bài thơ này được đăng trên báo Cứu quốc số ngày 6-4-1946.