1 người đang xem
1731 62
Đoàn Văn Cừ từng giữ nhiều chức vụ cao trong các hiệp hội thơ văn. Từ 1959, ông từng là cán bộ biên tập Nhà xuất bản Phổ Thông (Bộ Văn hóa) ; được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Ông còn có các bút danh khác là Kẻ Sỹ, Cư sỹ Nam Hà, Cư Sỹ Sông Ngọc và ngoài thơ cũng sáng tác văn xuôi.

Đoàn Văn Cừ là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới với bút pháp và phong cách rất riêng: Tả chân, sở trường viết về cảnh trí và đời sống thôn quê. Cảnh vật trong thơ của Đoàn Văn Cừ sống động và nhộn nhịp với màu sắc và âm thanh tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới sinh động về nông thôn là làng quê.

Các tác phẩm tiêu biểu như: Thôn ca I (1944) ; Thơ lửa (1947) ; Việt Nam huy hoàng (1948) ; Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu (1953) ; Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc (1958) ; Thôn ca II (1960) ; Dọc đường xuân (1979) ; Đường về quê mẹ (1987)

Nhà nghiên cứu văn học Tâm Dương (tức Văn Tâm) từng nhận xét: "Cùng tái hiện cảnh trí nông thôn, thơ Đoàn Văn Cừ là những nhạc họa – phẩm hoàn chỉnh rung động giai điệu sắc màu cảm xúc, còn thơ Anh Thơ thường mới là những mảng ký họa – tuy già đặn và cũng đáng quý. Có lẽ đó là điểm khác nhau chủ yếu giữa thơ của người ghi những" bức tranh quê "với người soạn những khúc" thôn ca "(Thơ Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, 1992, tr. 144). Và cũng giống như nhà thơ Vũ ˆ Đình Liên đi vào lịch sử văn học hiện đại Việt Nam với bài thơ Ông đổ, còn nhà thơ Đoàn Văn Cừ thì góp mặt với bài thơ Chợ rét bất hủ.

Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa, như bài chợ tết. Ông thật sự đã đi vào ký ức người đọc Việt Nam khá đậm với cảnh sắc của mọt Chợ tết đặc sắc. Bài thơ in trên báo Ngày nay từ trước năm 1939. Hay bài Yản đồ nước Việt với niềm ngợi ca nòi giống rồng tiên và tự hào về lãnh thổ chủ quyền quốc gia..

Dưới đây là tuyển tập những bài thơ hay của Đoàn Văn Cừ. Mời các bạn đọc!

X1HILjH.jpg

Bản đồ nước Việt

0O0

Tôi sẽ giữ suốt đời trong trí nhớ

Quãng ngày xanh học tập tại quê hương

Trong căn nhà nho nhỏ dưới cây bàng

Có tấm biển đề" An thôn học hiệu "

O00

Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu

Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê

Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe

Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử

Thầy tôi bảo:" Các em nên nhớ rõ

Nước chúng ta là một nước vinh quang

Bao anh hùng thủa trước của giang san

Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.

Các em phải đêm ngày chăm chỉ học

Để đêm ngày nối được chí tiền nhân

Ta chắc rằng sau một cuộc xoay vần

Dân nước Việt lại là dân hùng liệt

Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt

Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam

Bên những trang lịch sử bốn nghìn năm

Đầy chiến thắng vinh quang, đầy máu thắm

Ta sẽ phải suốt đời đau uất hận

Nếu Việt Nam địa giới phải chia rời,

Dân Việt Nam huyết mạch rẽ đôi nơi

Người Nam, Bắc không cùng chung cội rễ

Ta nhất định không bao giờ chịu thế

Núi sông nào cũng của nước Việt Nam!"

O00

Tiếng thầy tôi suốt buổi học vang vang

Trên án sách, bên những hàng cửa kính

Giờ tôi tưởng như đương ngồi dự thính

Thầy tôi đương hùng biện giữa thanh niên

Đương quyết vì quyền lợi giống Rồng Tiên

Đòi giữ vững bản đồ non nước Việt.

>> Bài thơ này được đăng trên báo Cứu quốc số ngày 6-4-1946.
 
Làng

0O0

Làng tôi: Mươi chục nóc nhà tranh

Một ngọn chùa cao, một nóc đình

Một rặng tre già vươn chót vót

Một dòng sông trắng chảy vòng quanh

O00

Thôn tôi: Cạnh một chiếc cầu tre

Chiếc miếu con con quạt gió hè

Những buổi trưa nào cao tiếng sáo

Trâu bò nằm nghỉ lắng tai nghe

O00

Vào dạo đầu xuân lá dệt cành

Quanh làng lúa biếc phủ mông mênh

Dừng chân người khách đằng xa ngỡ

Hòn đảo con nào giữa biển xanh

O00


Trăng chìm, tiếng trống đánh vang ngân

Trời đỏ như son đã hiện dần

Tiếng chó sủa luồn qua giậu trúc

Tiếng gà báo sáng gáy trong sân

O00

Cổng xóm sau đêm mở gió đồng

Tiếng xa chim gáy vẳng bên sông

Người làng nhộn nhịp ra đồng sớm

Tiếng nói cười trong ánh nắng hồng

O00

Những tối trăng vàng đỗ ngọn tre

Đèn thôn xa ngọn ánh xanh lè

Tiếng gầu tát nước bên đường cái

Lẫn tiếng ai cười nhí nhảnh đi

O00

Đêm hè giã gạo tiếng chày chân

Trời biếc trăng sao gội xuống trần

Đường ngõ ra vào chen những bóng

Chiếc diều lơ lửng dưới sông Ngân

O00

Ngày mùa kéo lúa dưới trăng khuya

Công việc vừa yên ngủ bốn bề

Sao Nhác lên dần soi lấp lánh

Tiếng gà thức giấc gáy te te

O00

Đông về xếp ải chạy mưa rơi

Người chúi vào nhau nắc nẻ cười

Trẻ nghịch bên chùa vơ lá úa

Vun vào thành đống đốt, reo chơi

O00

Tết: Bánh chưng xanh xếp chật nồi

Con Vàng sợ pháo chạy cong đuôi

Cô nào đi lễ khăn vuông mới

Chiếc yếm đào trông đến đẹp tươi

O00

Ngày hội đầu xuân, một ít bà

Bu gà, quả gạo trẩy chùa xa

Đường về về xe sắt nghiêng đôi bánh

Người chất lên nhau ngủ gật gà

O00

Cứ thế, làng tôi tháng lại năm

Sống bên ruộng lúa, cạnh ao đầm

Đời như mặt nước ao tù lắng

Gió lạ không hề thổi gợn tăm

(1943)​
 
Bữa cơm quê

0O0


Cơm ngày hai bữa dọn bên hè

Mâm gỗ, muôi dừa, đũa mộc tre

Gạo đỏ, cà thâm, vừng giã mặn

Chè tươi nấu đặc nước vàng hoe

O00

Cảnh nhà dẫu túng vẫn êm đềm

Ngày khó nhọc nhưng tối ngủ yên

Mái rạ trăng vàng, lơ lửng bóng

Vòi cau mưa chảy nước bên hiên

(1944)
 
Ngày mùa

0O0

Lúa trải vàng như bể kén tơ

Từng đôi chim sẻ tới nô đùa

Mổ từng bông một trong khi gió

Bốc nhẹ mùi thơm phảng phất đưa

O00

Trên cồn cỏ biếc nắng hồng tuôn

Dây thắt lưng xanh nón nghệ tròn

Cô chủ khuyên vàng đeo lấp lánh

Miệng cười đen nhánh, áo nâu non

O00

Trời biếc long lanh nắng dội tràn

Đường trưa cát nóng bỏng da chân

Hàng người gánh lúa vào trong xóm

Dưới mặt trời hôm bốc đỏ dần

(1940)
 
Đêm trăng xanh

0O0

Con đường dưới trăng lên như trải nhẹ

Một lượt tơ cát bạc trắng phau phau

Xe vượt đêm từng topps nối đuôi nhau

Đường lộng gió, trăng sao đầy trời biếc

Ngôi trường trắng lập loè như tráng thiếc

Bên dòng sông nước trổ bóng cây đề

Vừng trăng ngà như chiếc đĩa pha lê

Treo lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt

Đàn chim nhỏ được giờ không khí mát

Chúi nhau vào bóng lá ngủ say sưa

Sông Ngân Hà như một dải băng tơ

Vắt lơ đãng bên vành trăng rực rỡ

Hàng sao sáng quanh trời trông giống tựa

Muôn ngàn con mắt biếc đắm say cười

Đêm trăng xanh, dòng nước dát vàng trôi

Cây nạm ngọc, mây giăng màn trắng tuyết

Hạt sao cháy sáng loè trong khoảng biếc

Vỡ thành chùm hoa lửa cuối trời khuya

Trăng tà dần, làng xóm lặng như mê

Bóng tre sậy thêu mờ trên bãi cỏ

Tiếng gà gáy tàn canh trong xóm nhỏ

Báo bình minh cháy đỏ rực bên trời

O0o

Đường Vàng - mùa trăng​
 
Đám cưới mùa xuân

0O0

Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng,

Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh.

Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh,

Đàn cò trắng giăng hàng bay phấp phới.

O00

Trên cành cây, bỗng một con chim gọi

Lũ người đi lí nhí một hàng đen

Trên con đường cát trắng cỏ lam viền

Họ thong thả tiến theo chiều gió thổi,

Dưới bầu trời trong veo không mảy bụi,

Giữa cánh đồng phơn phớt tựa màu nhung.

Một cụ già râu tóc trắng như bông,

Mặc áo đỏ, cầm hương đi trước đám.

Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm,

Quần nâu hồng, chống gậy bước theo sau.

Hàng ô đen thong thả tiến lên sau.

Kế những chiếc mâm đồng che lụa đỏ.

Bọn trai tơ mặt mày coi hớn hở,

Quần lụa chùng, nón dứa áo sa huê.

Một vài bà thanh lịch kiểu nhà quê,

Đầu nón nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ.

Bà lão cúi lom khom bên cháu nhỏ,

Túi đựng trầu chăm chăm giữ trong tay.

Thằng bé em mẹ ẵm, má hây hây,

Đầu cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm.

Cô bé để cút chè người xẫm mẫm,

Đi theo bà váy lĩnh, dép quai cong.

Một chị sen đầu đội chiếc khăn hồng,

Đặt trên cái hòm da đen bóng lộng.

Người cô dâu hôm nay coi choáng lộn.

Vành khuyên vàng, áo mớ, nón quai thao.

Các cô bạn bằng tuổi cũng xinh sao,

Hai má thắm, ngây thơ nhìn trời biếc.

Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc

Áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh.

O00

Một lúc sau đi tới chỗ vòng quanh,

Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm,

Thì cả bọn dần đần cùng khuất lẩn

Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân.

Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân

Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng.

(1940)​
 
Quê mẹ vào xuân

0O0

Quê mẹ vào xuân bao chuyện lạ:

Tàu cuốc lòng sông nạo cát vàng

Biển biếc mọc lên làng đất mới,

Xóa đồng chiêm trũng, phá cồn hoang.

O00

Bão lật, lũ trào, đê vẫn vững,

Hạn thiêu nước ruộng chẳng hề khan.

Lúa khoai dệt gấm trùm bom đạn,

Bốn vụ thâm canh, đất nhả vàng.

O00

Hội cấy thêm nhiều tay cấy giỏi,

Rợp đồng khăn đỏ, thắt lưng son.

Chủ tịch, bí thư cùng xuống ruộng,

Dăng hàng cấy lúa với bà con.

- Hết -​
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back