Đoàn Văn Cừ từng giữ nhiều chức vụ cao trong các hiệp hội thơ văn. Từ 1959, ông từng là cán bộ biên tập Nhà xuất bản Phổ Thông (Bộ Văn hóa) ; được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. Ông còn có các bút danh khác là Kẻ Sỹ, Cư sỹ Nam Hà, Cư Sỹ Sông Ngọc và ngoài thơ cũng sáng tác văn xuôi. Đoàn Văn Cừ là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới với bút pháp và phong cách rất riêng: Tả chân, sở trường viết về cảnh trí và đời sống thôn quê. Cảnh vật trong thơ của Đoàn Văn Cừ sống động và nhộn nhịp với màu sắc và âm thanh tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới sinh động về nông thôn là làng quê. Các tác phẩm tiêu biểu như: Thôn ca I (1944) ; Thơ lửa (1947) ; Việt Nam huy hoàng (1948) ; Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu (1953) ; Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc (1958) ; Thôn ca II (1960) ; Dọc đường xuân (1979) ; Đường về quê mẹ (1987) Nhà nghiên cứu văn học Tâm Dương (tức Văn Tâm) từng nhận xét: "Cùng tái hiện cảnh trí nông thôn, thơ Đoàn Văn Cừ là những nhạc họa – phẩm hoàn chỉnh rung động giai điệu sắc màu cảm xúc, còn thơ Anh Thơ thường mới là những mảng ký họa – tuy già đặn và cũng đáng quý. Có lẽ đó là điểm khác nhau chủ yếu giữa thơ của người ghi những" bức tranh quê "với người soạn những khúc" thôn ca "(Thơ Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, 1992, tr. 144). Và cũng giống như nhà thơ Vũ ˆ Đình Liên đi vào lịch sử văn học hiện đại Việt Nam với bài thơ Ông đổ, còn nhà thơ Đoàn Văn Cừ thì góp mặt với bài thơ Chợ rét bất hủ. Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa, như bài chợ tết. Ông thật sự đã đi vào ký ức người đọc Việt Nam khá đậm với cảnh sắc của mọt Chợ tết đặc sắc. Bài thơ in trên báo Ngày nay từ trước năm 1939. Hay bài Yản đồ nước Việt với niềm ngợi ca nòi giống rồng tiên và tự hào về lãnh thổ chủ quyền quốc gia.. Dưới đây là tuyển tập những bài thơ hay của Đoàn Văn Cừ. Mời các bạn đọc! Bản đồ nước Việt 0O0 Tôi sẽ giữ suốt đời trong trí nhớ Quãng ngày xanh học tập tại quê hương Trong căn nhà nho nhỏ dưới cây bàng Có tấm biển đề" An thôn học hiệu " O00 Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê Chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai nghe Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử Thầy tôi bảo:" Các em nên nhớ rõ Nước chúng ta là một nước vinh quang Bao anh hùng thủa trước của giang san Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc. Các em phải đêm ngày chăm chỉ học Để đêm ngày nối được chí tiền nhân Ta chắc rằng sau một cuộc xoay vần Dân nước Việt lại là dân hùng liệt Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam Bên những trang lịch sử bốn nghìn năm Đầy chiến thắng vinh quang, đầy máu thắm Ta sẽ phải suốt đời đau uất hận Nếu Việt Nam địa giới phải chia rời, Dân Việt Nam huyết mạch rẽ đôi nơi Người Nam, Bắc không cùng chung cội rễ Ta nhất định không bao giờ chịu thế Núi sông nào cũng của nước Việt Nam!" O00 Tiếng thầy tôi suốt buổi học vang vang Trên án sách, bên những hàng cửa kính Giờ tôi tưởng như đương ngồi dự thính Thầy tôi đương hùng biện giữa thanh niên Đương quyết vì quyền lợi giống Rồng Tiên Đòi giữ vững bản đồ non nước Việt. >> Bài thơ này được đăng trên báo Cứu quốc số ngày 6-4-1946.
Làng 0O0 Làng tôi: Mươi chục nóc nhà tranh Một ngọn chùa cao, một nóc đình Một rặng tre già vươn chót vót Một dòng sông trắng chảy vòng quanh O00 Thôn tôi: Cạnh một chiếc cầu tre Chiếc miếu con con quạt gió hè Những buổi trưa nào cao tiếng sáo Trâu bò nằm nghỉ lắng tai nghe O00 Vào dạo đầu xuân lá dệt cành Quanh làng lúa biếc phủ mông mênh Dừng chân người khách đằng xa ngỡ Hòn đảo con nào giữa biển xanh O00 Trăng chìm, tiếng trống đánh vang ngân Trời đỏ như son đã hiện dần Tiếng chó sủa luồn qua giậu trúc Tiếng gà báo sáng gáy trong sân O00 Cổng xóm sau đêm mở gió đồng Tiếng xa chim gáy vẳng bên sông Người làng nhộn nhịp ra đồng sớm Tiếng nói cười trong ánh nắng hồng O00 Những tối trăng vàng đỗ ngọn tre Đèn thôn xa ngọn ánh xanh lè Tiếng gầu tát nước bên đường cái Lẫn tiếng ai cười nhí nhảnh đi O00 Đêm hè giã gạo tiếng chày chân Trời biếc trăng sao gội xuống trần Đường ngõ ra vào chen những bóng Chiếc diều lơ lửng dưới sông Ngân O00 Ngày mùa kéo lúa dưới trăng khuya Công việc vừa yên ngủ bốn bề Sao Nhác lên dần soi lấp lánh Tiếng gà thức giấc gáy te te O00 Đông về xếp ải chạy mưa rơi Người chúi vào nhau nắc nẻ cười Trẻ nghịch bên chùa vơ lá úa Vun vào thành đống đốt, reo chơi O00 Tết: Bánh chưng xanh xếp chật nồi Con Vàng sợ pháo chạy cong đuôi Cô nào đi lễ khăn vuông mới Chiếc yếm đào trông đến đẹp tươi O00 Ngày hội đầu xuân, một ít bà Bu gà, quả gạo trẩy chùa xa Đường về về xe sắt nghiêng đôi bánh Người chất lên nhau ngủ gật gà O00 Cứ thế, làng tôi tháng lại năm Sống bên ruộng lúa, cạnh ao đầm Đời như mặt nước ao tù lắng Gió lạ không hề thổi gợn tăm (1943)
Bữa cơm quê 0O0 Cơm ngày hai bữa dọn bên hè Mâm gỗ, muôi dừa, đũa mộc tre Gạo đỏ, cà thâm, vừng giã mặn Chè tươi nấu đặc nước vàng hoe O00 Cảnh nhà dẫu túng vẫn êm đềm Ngày khó nhọc nhưng tối ngủ yên Mái rạ trăng vàng, lơ lửng bóng Vòi cau mưa chảy nước bên hiên (1944)
Ngày mùa 0O0 Lúa trải vàng như bể kén tơ Từng đôi chim sẻ tới nô đùa Mổ từng bông một trong khi gió Bốc nhẹ mùi thơm phảng phất đưa O00 Trên cồn cỏ biếc nắng hồng tuôn Dây thắt lưng xanh nón nghệ tròn Cô chủ khuyên vàng đeo lấp lánh Miệng cười đen nhánh, áo nâu non O00 Trời biếc long lanh nắng dội tràn Đường trưa cát nóng bỏng da chân Hàng người gánh lúa vào trong xóm Dưới mặt trời hôm bốc đỏ dần (1940)
Đêm trăng xanh 0O0 Con đường dưới trăng lên như trải nhẹ Một lượt tơ cát bạc trắng phau phau Xe vượt đêm từng topps nối đuôi nhau Đường lộng gió, trăng sao đầy trời biếc Ngôi trường trắng lập loè như tráng thiếc Bên dòng sông nước trổ bóng cây đề Vừng trăng ngà như chiếc đĩa pha lê Treo lơ lửng giữa bầu trời xanh ngắt Đàn chim nhỏ được giờ không khí mát Chúi nhau vào bóng lá ngủ say sưa Sông Ngân Hà như một dải băng tơ Vắt lơ đãng bên vành trăng rực rỡ Hàng sao sáng quanh trời trông giống tựa Muôn ngàn con mắt biếc đắm say cười Đêm trăng xanh, dòng nước dát vàng trôi Cây nạm ngọc, mây giăng màn trắng tuyết Hạt sao cháy sáng loè trong khoảng biếc Vỡ thành chùm hoa lửa cuối trời khuya Trăng tà dần, làng xóm lặng như mê Bóng tre sậy thêu mờ trên bãi cỏ Tiếng gà gáy tàn canh trong xóm nhỏ Báo bình minh cháy đỏ rực bên trời O0o Đường Vàng - mùa trăng
Cuối thu 0O0 Cuối thu, trời biếc, lúa vàng bông Cỏ nhạt màu xanh, lá úa hồng Hôm tối chân trời sương tím phủ Gió đưa hương lúa bốc thơm lừng (1943)
Đám cưới mùa xuân 0O0 Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng, Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh. Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh, Đàn cò trắng giăng hàng bay phấp phới. O00 Trên cành cây, bỗng một con chim gọi Lũ người đi lí nhí một hàng đen Trên con đường cát trắng cỏ lam viền Họ thong thả tiến theo chiều gió thổi, Dưới bầu trời trong veo không mảy bụi, Giữa cánh đồng phơn phớt tựa màu nhung. Một cụ già râu tóc trắng như bông, Mặc áo đỏ, cầm hương đi trước đám. Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm, Quần nâu hồng, chống gậy bước theo sau. Hàng ô đen thong thả tiến lên sau. Kế những chiếc mâm đồng che lụa đỏ. Bọn trai tơ mặt mày coi hớn hở, Quần lụa chùng, nón dứa áo sa huê. Một vài bà thanh lịch kiểu nhà quê, Đầu nón nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ. Bà lão cúi lom khom bên cháu nhỏ, Túi đựng trầu chăm chăm giữ trong tay. Thằng bé em mẹ ẵm, má hây hây, Đầu cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm. Cô bé để cút chè người xẫm mẫm, Đi theo bà váy lĩnh, dép quai cong. Một chị sen đầu đội chiếc khăn hồng, Đặt trên cái hòm da đen bóng lộng. Người cô dâu hôm nay coi choáng lộn. Vành khuyên vàng, áo mớ, nón quai thao. Các cô bạn bằng tuổi cũng xinh sao, Hai má thắm, ngây thơ nhìn trời biếc. Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc Áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh. O00 Một lúc sau đi tới chỗ vòng quanh, Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm, Thì cả bọn dần đần cùng khuất lẩn Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân. Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng. (1940)
Quê mẹ vào xuân 0O0 Quê mẹ vào xuân bao chuyện lạ: Tàu cuốc lòng sông nạo cát vàng Biển biếc mọc lên làng đất mới, Xóa đồng chiêm trũng, phá cồn hoang. O00 Bão lật, lũ trào, đê vẫn vững, Hạn thiêu nước ruộng chẳng hề khan. Lúa khoai dệt gấm trùm bom đạn, Bốn vụ thâm canh, đất nhả vàng. O00 Hội cấy thêm nhiều tay cấy giỏi, Rợp đồng khăn đỏ, thắt lưng son. Chủ tịch, bí thư cùng xuống ruộng, Dăng hàng cấy lúa với bà con. - Hết -