Thần Kiếm Phục Quốc Thể loại: Kiếm Hiệp, Quân Sự, Lịch Sử, Dã Sử Tác giả: Đăng Nhân Văn án Truyện được viết theo văn dã sử, xen với một chút kiếm hiệp, lấy bối cảnh Mãn Châu & Mông Cổ. Ta viết bộ này thấy ưng ý và tay viết cứng cáp sẽ viết một bộ bối cảnh Việt Nam. Vị huynh đài nào là fan của thể loại kiếm hiệp cứ tự nhiên đưa ra nhận xét để tại hạ có thể sửa đổi và viết tốt hơn nhé. Đa tạ các đồng hữu. Kim triều-tự xưng chính tộc Trung Nguyên-sau một trăm năm huy hoàng, cũng phải đứng trước bờ vực diệt vong dưới vó ngựa người Hung Nô phương Bắc. Đội quân của Thành Cát Tư Hãn đánh trăm trận trăm thắng, vua Tuyên Tông kinh hãi phải bỏ cả kinh đô mà chạy, quyền hành trong triều rơi hết vào tay vây cánh thái tử Thủ Trung. Thủ Trung tính tình hung bạo, sát hại cả hoàng huynh, tống giam cả phụ thân, bày ra bao trò đại nghịch. Kim triều diệt vong tưởng chỉ là việc sớm chiều. Trong cơn bĩ cực, Tuyên Tông sai con gái đi mời anh trai Thủ Trung là Thủ Tự, vốn người chính trực, liêm khiết về tranh ngôi báu, ổn định giang sơn. Phò tá Thủ Tự là một thiếu hiệp mang tên Hoàn Thừa Lân, với tài điều binh khiển tướng đã chặn đứng đại quân của Thành Cát Tư Hãn không biết bao nhiêu lần. Thừa Lân được truyền thụ bí pháp Hạc kiếm của phái Ni Kham, cùng với các võ hiệp Dã Nhân và Nga quốc đẩy lùi tam đại võ phái hàng đầu Hung Nô. Thế nhưng, khi Thành Cát Tư Hãn đích thân lâm trận, Kim triều mới hiểu được sức mạnh bá vương của Khả hãn bách trận bách thắng là như thế nào. Liệu Thủ Tự và Hoàn Thừa Lân có thể dẹp cả giặc trong lẫn giặc ngoài, vực dậy nhà Kim khỏi nạn diệt vong? Mời các đồng hữu đón đọc. [Thảo luận] Các tác phẩm của Đăng Nhân
Chương 1: Kim chủ mất nước Kim Tuyên Tông Bấm để xem Phàm trong thiên hạ, giang sơn chuyển tay từ kẻ này sang kẻ khác, dẫu không phải chuyện sớm chiều, cũng chẳng phải điều dị biệt. Nội trong Trung Nguyên, vốn cũng chia năm xẻ bảy chẳng biết bao lần. Tam Quốc Ngụy Thục Ngô tranh bá, khi Tư Mã Viêm quy về một mối, lập ra nhà Tấn thì vì quá đỗi kinh sợ ngoại tộc mà để xảy ra nạn Bát Vương. Tấn sụp đổ, toàn cõi lại chia ra tới chục phe phái, thủ tiêu lẫn nhau lập ra không biết bao nhiêu tiểu quốc lắt nhắt. Các tộc người Hồ xâm nhập vào Trung Nguyên, các tiểu vương cũng mở cửa cho mà vào, trợ lực cho người Hán tự diệt người Hán. Để các tộc phương Bắc thâu tóm quyền lực trong Trung Nguyên, tội của Tư Mã Viêm ắt chẳng kém gì các vương thập lục quốc cõng rắn cắn gà nhà. Ngay cả khi triều Đường cực thịnh, các tộc từ tận Hồi Hột xa xôi vẫn đâm được gốc rễ vào sâu bản triều. Vì lẽ đó nên khi đất nước chia năm xẻ bảy, rồi lại về một mối lần nữa, Tống triều hòa hoãn, bạc nhược sao có thể ngăn Bắc tộc lộng hành? Liêu triều lấy đất của nhà Tống phương Bắc, dẫu lấy tập tục người Trung Nguyên, nhưng nguồn cội vẫn là người Khiết Đan. Đất Trung Nguyên mất vào tay Khiết Đan từ tận thời Tấn, Tống triều chẳng thể nào thu hồi, thế là lại nhờ ngoại tộc Nữ Chân. Nữ Chân lật đổ triều Liêu, lập nên nhà Kim, tự gọi mình là chính tộc Trung Nguyên, âu cũng chỉ là vòng quay của thế sự. Vì lẽ đó mà, chưa đầy một trăm năm sau, tới lượt Kim triều-tự xưng chính tộc Trung Nguyên-đứng trước bờ vực diệt vong trước người Hung Nô phương Bắc. Mầm mống diệt vong đã hiển hiện từ thời Tuyên Tông. Năm 1215, Hung Nô bức bách tới tận kinh thành, vua phải bỏ Yến Kinh, dời đô về Biện Kinh; không bao lâu sau gần như toàn bộ Hà Bắc rơi vào tay người Mông. Hung Nô đánh tới đâu, Kim chủ chạy tới đó. Trấn Bắc tướng quân Minh An tay trắng xin hàng, đốt đuốc trong đêm dẫn Hung Nô đánh cả vào Trung Đô. Cả vua cả tôi, không chạy thì phản quốc, không chút phản kháng, quan dân đều nhục nhã ê chề. Phải tới khi Mông Cổ nội tình rối ren, ngưng việc tiến quân, sự tình mới tạm lắng. Ở phía Nam, Tống triều khinh Kim chủ ra mặt. Tống chủ sai Trần Tường tới dâng sớ hạch tội Kim chủ làm mất ba châu Trung Nguyên vào tay ngoại tộc, ngưng nộp thuế, Kim chủ tức xua quân đánh cũng bị bọn Trần Tường, Mạnh Tông Chính đánh dẹp cả. Vốn vua có con trai thứ ba là Quang Tâm vương Thủ Tự nhã nhặn khôi ngô, được phò tá bởi mãnh tướng Hoàn Thừa Lân, nhưng Trang Hiến thái tử Hoàn Thủ Trung ghen ghét kiềm chế binh quyền, đuổi lên Hà Đông phòng Mông Cổ, lại cho bọn Ô Cổ Tóa bất tài cầm binh, thành ra đánh Trần Tường mười trận thua quá nửa. Chiến sự ròng rã tám năm, Kim không phá nổi Tống, phải chiêu dụ cả đạo tặc Lý Toàn dẫn quân Hồng Áo mới đánh xuống được Dương Châu. Lý Toàn thân cao tám thước, tay cầm thương sắt trăm cân, sức khỏe dẫu vô địch nhưng lại là phường hữu dũng vô mưu, trúng kế mai phục bị quân Tống vằm thây thành trăm mảnh. Kim chủ từ đó cũng không dám thảo phạt nữa, chỉ biết ngày nào cũng tới lui cung cấm, than ngắn thở dài, biết ngày vong quốc chẳng còn xa. Kim chủ mỗi lúc quá buồn rầu lại ngự điện Đoản Đức. Khi nào vua ngự điện, Thủ Trung cũng đi theo dìu dắt. Kim chủ lần nào chán đàn hát thì chơi cờ với Thủ Trung, chán cờ thì ngồi câu cá, chán câu cá thì chăm chim cảnh, tới khi nào Thủ Trung chán cảnh hầu hạ mới kiếm cớ đuổi đi. Thủ Trung đi rồi, vua mới dám đuổi bọn tùy tùng ra, thở dài, ngồi sụp xuống ghế tràng kỷ mà lẩm bẩm, "bọn nghịch tử này lúc nào mới thôi kề dao vào cổ ta!" Thủ Trung vốn con trưởng, theo lệ thì truyền ngôi, nhưng vua biết y hạng nịnh hót, ngày nào cũng cùng hội Ô Cổ Kinh và Toàn Tuân, vốn là dân du mục, không màng chính sự mà chăm chăm ca kịch thâu đêm suốt sáng, chỉ khi nào có vua cha thì mới giả bộ hỏi han chuyện triều chính. Nhưng ngặt nỗi khi vua bỏ cả áo mũ mà chạy khỏi Yến Kinh, chính Toàn Tuân nắm ấn tín của vua điều hành đội Cấm quân, khi vua về Biện Kinh cũng không thèm trả. Từ đó quyền hành về tay vây cánh Thái tử bằng sạch. Năm ngoái con trai út mà Kim chủ hết mực yêu thương là Chí vương Huyền Linh nhập cung thăm cha, đương dưng lại trúng độc chết. Vua kinh hãi, ngờ là Thủ Trung nhúng tay mà chẳng dám nói ra, chỉ biết cắn răng đợi tới lượt mình. Con hoàng ly cầm vua ưng cũng vừa bệnh chết; Thủ Trung lệnh thay chim khác cho vua. Con chim sẻ mới của vua màu nâu bẩn, vừa thấp bé vừa gầy, trong lồng không mấy động đậy, vua lấy rất làm sầu. Kim chủ ngồi đối mặt chim sẻ, thở dài đườn đượt mà than, "Nay ta bỏ chạy về Biện Kinh, chẳng biết bao lâu nữa phải rời đô, mà phường bất hiếu còn giam lỏng ta ở đây. Là vua mà tôi tớ không bảo được, có chết cũng không dám nhìn mặt tiên tổ. Nỗi nhục này biết ai gánh giúp ta." Bỗng dưng, chim sẻ nhảy vào sát lồng, nói tiếng người lánh lót, "Mất nước là do thế địch vô song, là do ngươi nhu nhược, nhưng muốn phục quốc nhất định ngươi không thể ngu si nữa." Vua thất kinh ngã cả xuống đất. "Vua không ra dáng vua. Mau đứng dậy xem nào," con chim mới hắng giọng. Vua mới bình tâm, phủi long bào đứng dậy, sụp lạy trước mặt chim. "Thần có mắt không thấy Thái Sơn, không biết Ngài là thần linh phương nào?" "Ta chính là Hỗ Thanh Nghi, một tộc trưởng của Thái Tổ các ngươi đó. Cả đời ta chinh nam dẹp bắc, nay nước nhà tiên tổ nhà ngươi dày công xây dựng sắp mất. Số nhà Kim cũng đã tận rồi, việc vong quốc cũng khó tránh khỏi. Nhưng ta không cam lòng. Chi bằng khi vận khí Hoàn gia còn chưa mất, ta hiến kế cho ngươi. Đại cục có khi vẫn còn có thể cứu vãn." Vua hỏi làm sao có thể cứu nước. Chim đáp, "Ngươi có mắt như mù. Mãnh hổ còn ở trên núi không vời xuống núi, hà cớ gì lại để bọn linh cẩu xiềng xích, nhìn mình hau háu như miếng thịt kho." "Mãnh hổ là ai?" Vua hỏi. "Quang Tâm vương Thủ Tự là người hiền đức, có thể phủ dụ người tài. Thủ Tự về được Biện Kinh toàn vẹn thì may ra số nhà Kim chưa tận." Vua toan hỏi thêm, nhưng chim sẻ đã sổ lồng bay mất. *Sơ lược về nước Kim: Nhà Kim (1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu, thủ lĩnh Hoàn A Cốt Đả sau khi thống nhất các bộ lạc Nữ Chân, vào năm 1115 dựng nước đặt đô tại Hội Ninh phủ (nay thuộc A Thành, Hắc Long Giang), quốc hiệu là Đại Kim. Sau khi triều Kim lập quốc, cùng Bắc Tống định "Liên minh trên biển" nhằm giáp công Liêu, đến năm 1125 thì Kim diệt Liêu. Bắc Tống tiến đánh Liêu hai lần song đều thua, Kim thấy vậy liền xé bỏ hẹn ước với Bắc Tống, hai lần nam hạ Trung Nguyên, đến năm 1127 thì tiêu diệt Bắc Tống. Khi dời đô đến Trung Đô (nay thuộc Bắc Kinh), lãnh thổ Kim bao trùm Hoa Bắc, cùng khu vực Hoa Trung ở phía bắc Tần Lĩnh-Hoài Hà, khiến cho Tây Hạ cùng các bộ lạc Mạc Bắc như Tháp Tháp Nhi, Khắc Liệt phải thần phục, Nam Tống phải nhận là nước cháu (Tống gọi Kim là nước chú), xưng bá tại Đông Á. Đến thời kỳ Kim Thế Tông và Kim Chương Tông, chính trị và văn hóa của Kim đạt đến đỉnh cao, song vào trung hậu kỳ Kim Chương Tông thì dần xuống dốc. Sức chiến đấu của quân Kim không ngừng suy giảm, thậm chí khi người thống trị tiến hành trao bổng lộc ở mức cao cho binh lính cũng không thể vãn hồi. Quan hệ giữa người Nữ Chân và người Hán mãi không thể tìm được con đường thích hợp. Thời kỳ Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế và Kim Tuyên Tông, Kim bị Đại Mông Cổ Quốc mới nổi lên ở phía bắc xâm lược, trong khi nội bộ cũng có tranh đấu, vùng Sơn Đông, Hà Bắc có dân biến không dứt, cuối cùng buộc phải nam thiên Biện Kinh (nay là Khai Phong, Hà Nam). Sau đó, nhằm khôi phục thế lực, Kim lại giao chiến với Tây Hạ và Nam Tống, các bên đều tiêu hao thực lực. Năm 1234, do bị Mông Cổ và Nam Tống bắc nam hợp đánh, Đại Kim diệt vong. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 2: Ôn quốc công chúa Ôn Quốc công chúa Hoàn Dĩ An Bấm để xem Chim vừa rời tổ chưa bao lâu, Thủ Trung đã quay lại điện. Y thấy lồng trống trơn bèn hỏi, "Hoàng thượng vừa thả chim ra sao?" "Chim có cánh là để bay, hà cớ nhốt trong cũi." Thủ Trung mới đáp, "Chim có cánh nhưng cũng gãy cánh, giống như vậy có bay đâu cũng chết. Chi bằng ngoan ngoãn ở trong cũi, an hưởng cuộc đời an yên, nhàn cư hưởng thái bình." "Thiên hạ loạn lạc, đi đâu để hưởng thái bình?" "Chuyện ngoài kia, chim trong lồng cả đời cũng đâu bao giờ biết?" Tuyên Tông hiểu ý Thủ Trung, trong lòng rầu rĩ nhưng không nói thêm lời nào. Thủ Trung dẫn vua về nội điện, rồi hớt hải chạy sang điện Nam Phòng để ăn tiệc với Ô Cổ Kinh. Thư cấp báo của tướng giữ ải Hoàn Nhan Hợp gửi về, báo quân Mông Cổ đã hành quân tới gần Thiểm Tây, Trung cũng không đọc, giấu nhẹm các quan viên trong triều vì sợ mất cuộc vui. Tuyên Tông sức khỏe vốn đã yếu dần, thường xuyên mắc bệnh cảm, mới truyền cho con gái út là Ôn quốc công chúa Hoàn Dĩ An tới chăm sóc. Ai tới chầu vua cũng bị gia nhân của Thủ Trung dò hỏi lí do muốn gặp, chỉ riêng với công chúa, Thủ Trung nghĩ là phận đàn bà, không có gì phải đề phòng, nên không dò hỏi gì cả. Lần này vua cho triệu con gái tới, dặn con chỉ mang theo người thân tín nhất. Dĩ An tới cùng một cung nữ mang tên La Mạc Huệ vốn đã chăm sóc nàng từ tấm bé, quan hệ khăng khít. Khi Mạc Huệ lấy nước rửa lưng cho vua, vua mới dùng ánh mắt hỏi dò công chúa, đại ý người này có tin tưởng được không. Công chúa gật đầu, vua mới nói, "Hôm nay trẫm gọi con đến đây, thực ra là có đại sự muốn bàn." Công chúa cúi đầu, hỏi vua rằng việc gì. Vua ôm lấy vai công chúa mà rằng, "Ta nay như cá trong bể, muốn nhảy khỏi bể cũng chết khô trên cạn. Trước anh con Thủ Tự còn trong cung, ta dại dột nghe lời Thủ Trung đuổi nó lên biên ải. Giờ biên cương đang nhiễu nhương, chuyện trong cung tới thời cấp bách nhưng không ai biết. Tâm phúc trong triều hoặc Thủ Trung đã thủ tiêu, hoặc cho từ quan hết rồi. Chỉ còn Vương Diệu là bô lão, Thủ Trung nó không dám đụng, nhưng nó cũng đề phòng cẩn mật lắm, không cho ra khỏi kinh đô. Nên trẫm đã viết mật chỉ này, nếu con không ngại khó khăn, thì con hãy đem giúp trẫm tới huynh con." Công chúa đáp nhỏ, "Phụ thân đã dặn, nhi thần không dám trái lời. Nhưng bốn cổng Cấm quân đều canh phòng cẩn mật, ra vào phải có lý do chính đáng. Nhi thần muốn đi xem hoa cũng phải xin phép quan nội chính. Nếu nhi thần có ra khỏi thành, không bị giữ lại tại cổng thì hoàng huynh cũng xua quân đi bắt phải về." "Con gái ta gan dạ chẳng kém một ai. Huynh con trước giờ không tiếp xúc với con, sẽ lơ là không phòng bị. Ngoài cổng Tây thành có Lăng Mỗ hầu Vương Xán, con trai Vương Diệu, đóng cách đó năm mươi dặm, rèn đội Trung Hiếu Binh, bọn Toàn Tuân khống chế không nổi mới phải sai đóng trại ở xa. Ta không còn giữ ấn tín hoàng gia, nhưng nội trong gia tộc mình vẫn còn một nội tộc cổ vật nữa, đây chính là nguồn sinh khí của đại tộc họ Hoàn. Con tới được đó, đưa ấn tín này cho Xán xem, hắn ta nhất định sẽ tin lời," nói rồi, Tuyên Tông mới lấy từ dưới gối một tổ vật; một viên ngọc bích khảm ba con hạc cổ quấn vào nhau. "Nhi thần đi rồi, hoàng huynh biết chuyện ắt sẽ bắt nhốt cha. Nhi thần sợ có chuyện không hay." "Trẫm sống thế này chẳng khác gì chết. Thủ Trung vô đạo, nhưng giết cha cướp ngôi nó nào đã dám. Con tới được Hà Đông suôn sẻ, vời anh con về đây, cũng sẽ là đại phúc của họ nhà ta, con cũng sẽ được rạng rỡ với tiên tổ vậy. Giang sơn này trăm sự vạn sự nhờ con." Ôn quốc công chúa mới tuổi mười lăm nhưng đã lanh lợi, ăn nói đĩnh đạc. Dung nhan nàng thanh tú, hai má bầu bĩnh, mắt sáng như ngọc, đôi mày tơ như lá liễu. Nàng là ái nữ của vua, được vua cha chiều chuộng, cho ăn học chẳng kém gì các hoàng tử, nên tình cảm với Tuyên Tông sâu nặng. Chuyện mạt quốc chưa biết tới đâu, nhưng tính mạng vua cha như treo trước thòng lọng thì rõ ràng lắm. Công chúa mắt ngấn lệ, không biết nói lời nào cho hay. Vua cũng khóc, ôm con mà rằng, "Đừng lo cho trẫm. Chúng nó không dám làm gì ta đâu." La Mạc Huệ phải khuyên nhủ mãi công chúa mới thôi khóc. Dĩ An cất ấn tín và mật thư vào trong chiếc túi vải đeo bên mình, lau mặt ráo hoảnh rồi mới bước ra, cười nói với lính gác cổng như không có chuyện gì xảy ra. Về tới tư phòng, Dĩ An mới hốt hoảng vò đầu bứt tai, đi qua đi lại, gõ chân xuống mặt đất tanh tách. "Ta phải làm gì bây giờ? Việc lớn như thế này, ta chưa bao giờ làm." Rồi quay ra nhìn Mạc Huệ. "A di nhập cung từ hồi tổ phụ của ta còn sống, hẳn phải biết nhiều con đường xuất cung ít người qua lại. Liệu có đường nào có thể giúp ta an toàn ra khỏi thành không?" La Mạc Huệ đáp, "Công chúa trước giờ đều hay tự ý ra ngoài, không phải để ngao du thì cũng đi săn bắn. Cớ sao lần này phải tìm đường khác mà đi? Chi bằng ta cứ bước ra khỏi thành môn như bình thường, vậy là ít sinh nghi nhất. Thần và công chúa giả đò đi săn, mỗi người một ngựa, nếu Thái tử có sai người đuổi thì ta cũng chạy được." Công chúa ngẫm là phải, y lời mà làm. Sáng hôm sau, nàng giấu mật thư trong giày da thuộc, Mạc Huệ khoét một lỗ dưới đáy ống đựng tên, nhét ấn tín vào trong rồi lấy vải khâu giấu đi. Để tránh sinh nghi kị, nàng không mang gì theo, chỉ có cây Thiên Lệ Cung là bảo khí do Hoàn Nhan Hợp tặng cho là khư khư giữ bên mình. Hai người bước ra khỏi Tây thành môn từ tờ mờ sáng, gặp các quan viên đều dừng ngựa, cười nói chào hỏi, với lính canh cũng bắt chuyện như thường, không ai mảy may nghi ngờ. Khi bước khỏi nội môn, viên quan gác cổng nhận ra công chúa, cung kính chào hỏi rồi nói, "Nay trong kinh thành có yến tiệc, hạ thần đứng đây đón quan khách chỉ thấy người đi vào thành, chứ không thấy ai đi ra." Công chúa đáp, "Yến tiệc tuần nào Lục Kháng Vương chẳng cho tổ chức. Mùa này sơn dương về nhiều, tháng trước ta đã không đi săn, giờ không thể bỏ lỡ được." Viên quan nói, "Công chúa nói phải. Nhưng Toàn thượng thư đã có lệnh, ai ra khỏi nội môn đều phải có giấy thông hành." "Trước giờ ta chưa bao giờ nghe tới luật này." "Bẩm, Thái tử mới ban lệnh từ đầu tháng." Công chúa khoanh tay trước ngực, lắc đầu. "Tự ngươi nghĩ mà xem. Cứ cách nhật lại có yến tiệc, quan viên vào ra phải trăm nhân khẩu. Người nào là thân tín của Toàn thượng thư đều ra vào, không bẩm báo với ai, tới Hoàng thượng còn không hay biết. Vậy cớ sao ta từ trong ra ngoài lại phải có giấy thông hành? Hay ý nhà ngươi là ta không đáng tin bằng quan viên từ Hứa Xương hay Bộc Dương?" Viên quan lắp bắp, gãi tai không biết đáp sao, mới bẩm, "Công chúa nói phải. Nhưng là chỉ thị của Toàn thượng thư, thần chỉ biết làm theo chứ không dám trái lời." "Vậy thì chỉ thị của ta là hãy cho ta qua cổng. Nếu ngươi có gặp rắc rối gì thì cứ bảo Toàn Tuân tìm tới ta." Viên quan hết lí, đành phải cho công chúa qua. Dĩ An và La Mạc Huệ cười thầm trong bụng, biết rằng qua được nội môn thì đường ra ngoài thành sẽ dễ dàng hơn hẳn, liền dong ngựa thong thả đi. Nhưng đi chưa được chục bước thì có tiếng gọi với lại từ phía trong, "Xin công chúa chớ vội!" Công chúa tay nắm chặt cương ngựa, biết giọng nói khàn đặc đó chẳng mang lại gì ngoài rắc rối. Quay lại thì thấy kẻ vừa gọi mình chính là Toàn Tuân. *Thiên Lệ Cung: Thiên Lệ Cung là bảo khí của Ôn Quốc công chúa Hoàn Dĩ An. Cây cung này mang vận khí Hoàn gia, có thể hấp thụ kình lực từ xạ thủ sở hữu nó, lực bắn ra nhanh và mạnh hơn cây cung thông thường. Khi mũi tên chạm mục tiêu không chỉ gây thương tích tại một điểm, mà đầu cung còn vỡ tan ra như giọt lệ, gây thương tổn chia đều diện tích rộng như một đường quyền phóng đến. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 3: Nội tình biên ải Hoàn Thủ Trung Bấm để xem Toàn Tuân dung mạo khắc khổ, đôi mắt thâm sâu mạt trắc, nhưng công chúa nghĩ bẩm hành tung chẳng khác gì phường vô lại. Công chúa trong lòng hoảng hốt, chôn chân vài giây không biết nói gì. La Mạc Huệ sợ hai người họ trông khả nghi, vỗ lên ngựa công chúa. Nàng mới bừng tỉnh mà dong ngựa lại gần Toàn Tuân. Nàng nói, "Toàn thượng thư bận việc công vẫn thân hành ra nội môn, không biết là có việc gì?" Toàn Tuân đôi mắt dò xét hai nữ nhi lên xuống, không nói một lời. Không khí ngột ngạt khiến Ôn quốc công chúa càng lo sợ. Nàng tự nhủ bằng mọi giá không đặt tay lên ống đựng tên. Nếu Toàn Tuân cho lục soát giỏ tên và tìm thấy ấn tín, kể cả còn lớn số lắm thì hai người họ cũng bị bắt nhốt ngục. Toàn Tuân rảo bước tới gần, lôi từ trong áo mạo ra một túi vải rồi hai tay dâng lên công chúa. "Thái tử có chút quà muốn gửi, nhưng công chúa mới sáng sớm đã đi vội vàng. Mong công chúa nhận lấy rồi hãy đi." "Ta biết rồi. Phiền thượng thư bẩm lại với hoàng huynh rằng ta cảm kích tấm lòng thành này." Toàn Tuân đưa quà xong rồi lại lui vào trong. Công chúa thở phào nhẹ nhõm, dong ngựa đi thẳng, tới khi ra khỏi thành môn không gặp trắc trở, nhưng tuyệt nhiên không dám dừng lại mở túi vải ra xem. Toàn Tuân bước vào trong thì gặp Thủ Trung vừa bước ra. Thủ Trung hỏi thì Tuân nói công chúa cùng một cung nữ đã rong ngựa lên núi Ban Thạch rồi. Thủ Trung mới nổi giận lôi đình. "Trong túi vải là chiếu chỉ của hoàng thượng yêu cầu công chúa bất chấp không được xuất cung! Nhà ngươi để cô ta đi như vậy là hỏng rồi!" Nói đoạn lập tức sai kỵ binh chia hai đạo đuổi bắt, một đạo tới chân núi Ban Thạch, một đạo theo chính lộ tới trấn Thành Quan nơi Vương Xán đóng quân. Đội kỵ binh do Toàn Thạch, cháu Toàn Tuân tới Thành Quan, đích thân Vương Xán ra nghênh đón. Toàn Thạch hỏi Vương Xán liệu có thấy Ôn quốc công chúa nhập thành. Vương Xán đáp không thấy. Toàn Thạch không tin, đòi mở cổng thành rà soát. Vương Xán cả giận, tím mặt mà mắng, "Ngươi thân tiểu tướng, xua quân tới đây không có lệnh bài của hoàng thượng, mà dám cản trở việc luyện binh sao? Biên cương vừa gửi thư yêu cầu tiếp ứng, Trung Hiếu Binh sẽ xuất phát nội trong tuần, việc đã bẩm báo về kinh đô rồi. Vậy ngươi có đến đây để cứu viện không?" "Không có," Toàn Thạch đáp. "Vậy có đến để cấp lương thảo không?" "Cũng không." "Thế nhờ ngươi về tâu hoàng thượng, gấp rút tăng cường binh khí và lương thảo. Nếu đến đây để tìm công chúa, chẳng há là trách Trung Hiếu Binh cả ngày rảnh rỗi không có gì làm sao?" Toàn Thạch xấu hổ lui quân. Vương Xán vào trong thành, mới gặp Ôn quốc công chúa đã ngồi trong đó từ sớm. Dong được ngựa chạy thoát được kỵ binh, quả tài cưỡi ngựa của Dĩ An không phải dạng vừa. Công chúa đưa ấn tín và mật thư cho Xán đọc. Họ Vương cầm lấy ấn tín, lập tức cảm nhận được dòng huyết mạch hoàng gia chảy trong tổ vật, nguyên khí vô cùng mạnh mẽ mà lại quái gở, không thể nào dung hợp được với nguyên khí trong kinh mạch của y. Đây quả nhiên là nguyên khí của họ Hoàn, kẻ ngoại tộc dù nội lực có dồi dào đến đâu cũng chỉ cảm nhận được khí tức, chứ không thể nào tiếp nhận. Xán giở mật thư ra đọc xong mới nói, "Công chúa phải đi ngay. Nay Hoàn Nhan Bác lĩnh quân tiên phong lên Thiểm Tây, công chúa và nữ nhân đây cài trang làm lính. Việc này không được trễ nải. Thần chỉ giúp được tới đây. Nếu Thủ Trung bắt được công chúa, đầu thần cũng sẽ rơi, không thể giúp gì thêm được." Rồi truyền Hoàn Nhan Bác dắt theo một vạn quân, cùng Dĩ An và La Mạc Huệ rời đi ngay trong buổi sáng. Toàn Thạch trở về báo với Thủ Trung. Thái tử giận tím mặt, lớn giọng quát, "Hoàng thượng quả là hạng hồ đồ! Biết thế ta đã lấy ấn tín của phụ thân từ lâu rồi." Một mặt sai Toàn Tuân, Toàn Thạch hai người ngay lập tức tới điện của Kim chủ để xem vua còn giữ ấn tín không. Một viên lang trung tên Húc Tiến mới can, "Thái tử xin chớ làm điều kinh động. Thái tử lấy ấn tín của vua cha là việc đại kị. Sau này nhiều người gièm pha, đại sự bất lợi." Thủ Trung đáp, "Ngươi khinh ta không đủ nhân đức?" Nói rồi sai quân lôi Húc Tiến ra giữa sân điện, cắt lưỡi. Không ai dám can gì nữa. Thủ Trung giắt dao găm bên người, đích thân cùng các cận vệ tới tận điện vua cha làm cho ra nhẽ. Ở Thành Quan, Hoàn Nhan Bác đã xuất quân rồi. Cùng lúc đó thì ở Thiểm Tây, Hoàn Nhan Hợp vừa đón đạo quân tiếp ứng, đội hổ kỵ binh do Quang Tâm vương Thủ Tự dẫn đầu. Nhân đây xin nhắc lại về chuyện biên ải. Sau khi Kim chủ chạy không Yến Kinh, Tể tướng nước Kim là Truật Hổ Cao Kỳ giao chiến với Hung Nô, năm trận thua cả năm. Hoàn Thừa Huy đem năm vạn quân tới Bá Châu ứng cứu, bị danh tướng Mông Cổ là Mộc Hoa Lê đánh úp, tuyệt đường cấp lương, vô cùng nguy cấp. Quá tuyệt vọng, Hoàn Thừa Huy trấn thủ quyết xua quân đánh một trận phá vòng vây, nhưng các tướng không tuân lệnh. Ông lấy máu viết biểu tố cáo việc này lên Kim chủ, phân phát tài vật cho thuộc hạ, rồi uống thuốc độc tự tận. Ông chết rồi, đang đêm viên tướng trấn thủ mở cửa thành, cùng người ái thiếp bỏ trốn. Quân trong thành không tướng chỉ huy. Các tướng coi binh đoàn tranh quyền, đánh lẫn nhau, không ai giữ cửa thành. Một vài toán quân bị bại, mở toang cửa thành ra hàng Mông Cổ. Mộc Hoa Lê xua một vạn rưỡi kị binh, dẫn theo ba mươi binh đoàn thân binh tràn vào thành. Kỵ binh Mông Cổ xông vào tàn sát quân lính và dân chúng, đốt phá khắp nơi. Tám vạn quân Kim bị giết với khoảng năm mươi vạn dân chúng chết trong loạn quân. Mười vạn phụ nữ lên thành nhảy xuống tự tử vì sợ bị hãm hiếp. Trong ba tháng, thành Yến Kinh vẫn còn bốc cháy. Truật Hổ Cao Kỳ quá hổ thẹn vì thất bại, mới tiến đánh Nam Tống hòng lập công chuộc tội nhưng lại bất thành, bị xử tử năm 1218. Kể từ đó, việc chống giữ biên ải được giao lại cho Hoàn Nhan Hợp. Hoàn Nhan Hợp là em họ vua Chương Tông, Tuyên Tông gọi bằng bác, tuổi đã thất tuần nhưng kiếm thuật đã đạt cảnh giới tầng thứ tư, sức vóc vẫn cân được trăm người. Mộc Hoa Lê xua quân đánh Thiểm Tây, Hoàn Nhan Hợp cầm thiết chùy đập tướng tiên phong Mông Cổ chết tươi, kỵ binh Mông Cổ buộc phải lui quân. Mộc Hoa Lê chuyển sang bao vây thành trì, Nhan Hợp dựa vào địa thế bốn bề núi non cho quân liên tục quấy phá, quân Mông Cổ không đêm nào ngủ yên giấc, phẫn uất phải tạm lui binh. Trên đường về Hoa Lê bị chính quân của Quang Tâm vương Thủ Tự tập kích, giết mất ái nữ nhi Đồ Anh Quy, khiến hắn nổi xung, lần này mang đại quân tới ba chục vạn kỵ binh quyết san phẳng tới gọng cỏ cuối cùng. Quân Mông Cổ đã thắng hơn chục trận thông, nhưng kể từ giờ phút này trở đi thế trận sẽ thay đổi khó lường. Đó là bởi vì Hoàn Nhan Hợp gửi thư tới khắp các trấn, yêu cầu chi viện để quyết tử chống Mông. Trong hàng ngũ tướng Kim, có một vị tướng trẻ với tài năng cực hạn, là đối trọng lớn không chỉ với Mộc Hoa Lê, mà thậm chí với cả Thành Cát Tư Hãn, đại hãn vĩ đại nhất trong lịch sử. Đó chính là cánh tay phải của Thủ Tự-Hoàn Thừa Lân. *Ấn tín Hoàn tộc (xuất hiện chương 1) : Ngoài ấn tín mà vua dùng để truyền vương lệnh, Kim Tuyên Tông còn giữ một tổ vật đặc biệt, chính là một trữ vật chứa nguyên khí Hoàn gia trong đó. Nguyên khí này kẻ nào không hòa hợp mà cố chấp hấp thụ dễ thường tẩu hỏa nhập ma, nhưng người nội tộc họ Hoàn có thể hấp thụ để tạm thời khuếch đại trữ lượng nội công trong cơ thể, đặc biệt thích hợp để bày trận pháp cho quân số lớn. Tuy nhiên, nguyên khí từ ấn tín chỉ là vay mượn, không phải tự thân sinh ra, nên sử dụng hết cũng sẽ mất đi, không có tác dụng luyện công. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 4: Thừa Lân luyện Hạc Kiếm Hoàn Thừa Lân Bấm để xem Hoàn Thừa Lân là đứa con duy nhất của đại tướng quân Hoàn Thừa Ngạn, trước từng đóng quân bên kia Vạn Lý Trường Thành, cùng Hồ Sa Hổ cự chiến với Mông Cổ, lập nhiều công trạng. Thành Cát Tư Hãn đích thân mang đại binh tới Trung Đô, gặp quân của Thừa Ngạn bố trí dày đặc, hàng lối chỉnh tề, không phá được mà than, "Vách thành sừng sững như vách núi, trải dài đến tận đường chân trời. Quân Kim đông như kiến cỏ, vô số vũ khí hạng nặng, gươm giáo sáng lòa. Quân ta như bị lọt thỏm vào biển người, không thể dành uy phong." Dứt lời thì rút quân, kinh đô Yến Kinh mới tạm yên ổn. Chẳng may Thừa Ngạn bị Hồ Sa Hổ e sợ mình cậy công lũng đoạn triều chính, nên tước binh quyền, đuổi về Liêu Dương. Chính sau đó Hồ Sa Hổ bị Thủ Trung nghi kị, áp bức, ép mang một đội tiên phong tử chiến với Thành Cát Tư Hãn, chẳng khác gì tự sát. Hồ Sa Hổ chết rồi, quân Kim không còn tướng tài, Mộc Hoa Lê đánh một trận tan tác. Âu cũng là lẽ trớ trêu. Thừa Lân lọt lòng đúng tết Đoan Ngọ, trong sân vườn nhà Thừa Ngạn có cây bạch dương nhỏ bỗng cao lên vài trượng. Thừa Ngạn mời pháp sư đến xem điềm lạ này tức là làm sao. Pháp sư nói, "Đây ắt hẳn là điềm lành, cậu quý tử nhà đại quan được ban phước lành từ thần linh." Thừa Ngạn cả mừng, liền gọi chính thê của mình vào trong, trong mặc áo lụa, ngoài mặc áo da hươu, tóc chít vải tím, cổ đeo vòng nanh rắn, theo đúng tập tục làm lễ cảm tạ thần linh. Thừa Lân lên một tuổi đã nói sõi, lên năm tuổi đã tập đánh trận giả, ở trong nhà thường tay cầm kiếm gỗ, sai gia nhân giả bộ làm quân Mông, rượt khắp nhà, Thừa Ngạn thấy ưng thuận vô cùng, mới mời đại kiếm sư A Hạp Lợp về truyền thụ kiếm giáo. A Hạp Lợp thấy Thừa Lân tuy dáng người mảnh khảnh nhưng tâm pháp vô cùng uyển chuyển, liền khuyên Thừa Ngạn đưa con trai lên duyên hải Hồ Lý Cải lạnh lẽo xa xôi, thỉnh cầu lão sư Ni Kham Gia Tịnh để học Hạc Kiếm pháp. Khi ấy, Thừa Lân mới mười hai tuổi. Chính thê của Thừa Ngạn, cũng tức mẹ Thừa Lân, thấy con thân hình mảnh mai như liễu, da trắng môi đỏ, phải bắc chinh lạnh lẽo thì thương tiếc vô cùng, nhất mực khuyên con ở nhà. Thừa Ngạn cũng nói, "Lần này ta không thể đi với con. Con đi một mình lên phương Bắc, ban ngày mặt trời chẳng chiếu sáng, ban đêm tuyết dày quá khuỷu chân, con thì thủ túc như con hươu con, chưa chắc đã chịu được lãnh hàn. Chi bằng hãy cứ ở đây, vài năm nữa thân thể cường tráng, đi cũng chẳng muộn." Thừa Lân đáp, "Bẩm thưa cha, Khả hãn đã tràn quân tiến sát Vạn Lý Trường Thành, chính cha ở đó tận mắt chứng kiến. Khả hãn hung bạo, lòng tham vô đáy, giờ còn nhăm nhe chiếm lấy kinh đô. Chuyến này con phải đi, đi để còn về kịp góp chút sức mọn đánh đuổi lũ giặc. Nếu con ở đây, đợi tới khi thân thủ cứng cáp thì quốc gia khéo cũng chẳng còn." Thừa Ngạn thấy phải, không cản con nữa, bèn cử gia nhân đoàn hai chục người cùng một viên gia tướng đi cùng. Thừa Lân xin phép chỉ mang theo một đoàn ba người, Thừa Ngạn cũng phải chiều ý con. Thừa Lân lên tới vùng duyên hải thì Ni Kham Gia Tịnh không tiếp. Thừa Lân quỳ rạp trước cửa nhà Gia Tịnh ba ngày ba đêm, tuyết rơi kín đầu cũng không di dịch. Gia Tịnh thấy lạ lùng, bèn sai con trai là Gia Khảm ra đuổi đi. Gia Khảm nói, "Kiếm pháp họ Ni Kham không truyền cho người ngoài. Xin các hạ hãy đi cho." Thừa Lân đáp, "Vó ngựa Mông Cổ đã tới kinh đô, đây là chuyện cấp bách. Nếu họ Ni Kham không định ra tay cứu giúp thì ít nhất hãy giúp tại hạ một tay." "Chuyện trong thiên hạ hãy để thiên hạ tự giải quyết, bọn ta không can dự." "Nếu như quân Mông Cổ tới tràn tới nhà các người, phanh thây hài nhi các người, hãm hiếp thê thiếp các người, lúc đó kiếm pháp các người không những phải dùng đến, mà còn bị ép truyền thụ lại cho chúng nó. Các người muốn vậy sao?" Gia Khảm thấy lời lẽ hùng hồn, muốn phản biện cũng không cam tâm, bèn đáp. "Để ta vào nói chuyện với phụ thân ta." Gia Khảm vào trong một hồi. Khi trở ra, Khảm chỉ gật đầu một cái, khoát tay ra hiệu cho Thừa Lân vào trong. Thừa Lân cả mừng, chắp tay cảm tạ một hồi rồi mới bước vào. Hạc Kiếm pháp ung dung, uyển chuyển, kiếm khí như sương tuyết, đối với nội tại của Thừa Lân là vô cùng phù hợp. Kiếm pháp mà Gia Khảm học trong hàng chục năm, Thừa Lân chỉ mất năm năm để thấm nhuần. Chỉ có điều là cơ thể vẫn chưa cao lớn hơn là bao, và quan trọng hơn cả là nội công vẫn chưa thể khai mở. Đã nhiều lần Thừa Lân sốt ruột hỏi sư phụ làm thế nào để khai mở nội công, sức một địch mười như cha là Thừa Ngạn, nhưng Gia Khảm chỉ đơn giản đáp, "Cứ để thuận theo tự nhiên. Nếu con gượng ép vận nội công thì e rằng khi có phản ứng tiêu cực, thân thể của con sẽ không chịu được." Thế nên chàng mới kiên nhẫn chờ đợi, chỉ nhập tâm vào cải thiện kiếm thuật. Tuy nhiên, khi kiếm đạo chưa đạt tới cực hạn thì hung tin Yên Kinh thất thủ tới tai. Thừa Lân vội từ biệt sư phụ mà trở về miền Nam. Trước khi đi, Gia Tịnh gửi gắm cho Thừa Lân một cuốn sách mỏng, trong đó ghi Hàn Cầm Kiếm Phổ. Gia Tịnh khuyên nhủ, "Trong đây chính là tất cả tinh hoa chiêu thức của Hạc Kiếm pháp, ta chưa bao giờ truyền thụ lại cho ai, kể cả Gia Khảm. Nay ta không còn có thể truyền dạy cho con, nên con hãy đọc lấy, nếu tự ngộ ra được thì con chính là có tư chất, còn không được thì kiếm thuật cũng sẽ chỉ tới đó mà thôi." Nói đặng, lại truyền lại cho Thừa Lân thanh Không Ngưng Kiếm. Đốc kiếm dài gần ba thước, lưỡi kiếm mảnh mà sắc lẹm, phản quang sắc trời xanh dương biêng biếc. Thừa Lân cầm kiếm lên, thanh kiếm tưởng nhẹ mà nặng không tưởng, chuôi kiếm lại khảm gỗ bạch dương sần sùi, kể cả cầm hai tay vẫn thấy khó chịu. Thừa Lân vốn nhỏ người, vừa cầm kiếm vừa cưỡi ngựa chắc chắn không thể sử dụng dễ dàng. Gia Tịnh nhìn nét mặt của đồ đệ, biết ý mà nói, "Kiếm thuật không chỉ nằm ở sức mạnh thể chất, mà còn ở nội lực khai tỏa tới đâu. Khi nào một tay con đốc ngựa, tay kia múa được kiếm, ấy mới là vận dụng được tâm lực." Thừa Lân hiểu ý sư phụ, nhưng vẫn chưa biết làm thế nào để lĩnh hội. Nhưng thời gian quá cấp bách, đành phải từ tạ mà rời đi, một mình một ngựa một mạch về Liêu Dương đoàn tụ với gia đình. Trên đường đi, Thừa Lân cứ có phút nào nghỉ ngơi là lại mang sách ra đọc, vừa đọc vừa luyện kiếm pháp theo chỉ dẫn. Tuy nhiên, Không Ngưng Kiếm thì khó điều khiển, chiêu thức thì không cho phép dùng hai tay, Thừa Lân không thể thoải mái ra chiêu. Sử dụng đoản kiếm thông thường thì lại không cảm thấy chút sát thương nào. Thừa Lân trong lòng không vui, nhưng tự dặn mình không được nản lòng. "Từ giờ về tới Liêu Dương, vẫn còn cả một tuần đường. Tới đó thế nào cũng lĩnh hội được chút ít," Thừa Lân nhẩm trong đầu. Nhưng khi vừa mới vượt qua Điệu Binh Sơn, tới gần ải Thiết Lĩnh, Thừa Lân không còn thấy quốc kì nước Kim nữa. Chỉ thấy xác chết la liệt bên đường, mùi hôi tanh bốc lên nồng nặc. Thừa Lân cẩn trọng men sơn lộ đi thêm một dặm nữa thì thấy một trại lính ở xa, cắm cờ nheo hình tam giác, mép đỏ răng cưa bao bọc lấy màu xanh bên trong. Khi đó, Thừa Lân mới nhận ra một sự thật kinh hoàng. Cả Liêu châu đều đã rơi vào tay Mông Cổ. *Hạc kiếm pháp: Hạc kiếm pháp, hay còn gọi là Ni Kham Gia Hạc Kiếm, là kiếm thuật gia truyền của Ni Kham gia. Kiếm thuật này chú trọng vào sự biến thiên của đường kiếm, sự uyển chuyển của kiếm hình, sự vô định của kiếm ảnh. Kiếm nhân tập trung vào nhu nhuyễn nhiều hơn cương mãnh, những bước di chuyển cần phải thật nhịp nhàng để mở ra cơ hội tấn công, đường kiếm thay đổi đột ngột thường xuyên, liên miên bất tuyệt, bộ pháp cần chú trọng nhanh lẹ và thân thể cần dẻo dai. Dòng dõi Ni Kham vốn không phải tộc Dã Nhân, nhưng vì bất mãn với chính sách bành trướng xuống phương Nam của các triều vua Kim nên di cư lên miền viễn Bắc. Ni Kham Gia Đồng, tức thân phụ của lão sư Ni Kham Gia Tịnh, thành danh vào thời kì hoàng kim của Kim quốc, ngay cả khi cao thủ Kim quốc nhan nhản như kê ngoài đồng vẫn đứng trong hàng thập đại tuyệt nhân, có kẻ đồn đại đã đột phá cảnh giới thứ năm trước khi khước từ giao du với triều đình, trở về hùng bá một cõi Hồ Lý Cải. Về sau Gia Tịnh không kế thừa được toàn bộ tinh hoa của Gia Đồng, tuy vậy cũng kịp lưu giữ Hàn Cầm Kiếm Phổ, trong đó có đầy đủ hướng dẫn luyện chiêu thức Hạc kiếm pháp lên tới thức cuối cùng. Có những chiêu thức trong quyển sách chỉ những kẻ phải đạt nội công ít nhất tứ tầng trung cấp mới có thể luyện được, vậy nên hiện tại không còn truyền lại trong giang hồ. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 5: Ô Di Đạo bất phục Ô Di Hà Bấm để xem Trầm tư một hồi, chàng thanh niên cho rằng gia đình mình đã di tản về Hà Bắc. Muốn xuống Nam, nếu không vượt qua trại lính này thì phải đi đường vòng ven duyên hải, sẽ mất thêm tối thiểu hai tuần trời. Nhưng bất tiện thế nào cũng phải cắn răng chịu. Thừa Lân biết chắc chỉ một mình mình chưa chắc đã địch được ba kỵ binh Mông Cổ, chứ chưa nói đến việc san bằng được cả trại, bèn lui sâu vào cánh rừng thông ven núi ẩn nấp. Vừa mới xuống ngựa ngồi nghỉ bên gốc thông, Thừa Lân đã nghe tiếng động sột soạt bên tai. Chàng lập tức cầm đoản đao bật dậy, xem xét xung quanh, nhưng không thấy một bóng người nào. Chỉ khi nhìn lên trên, mới nhận ra một đôi mắt lấp ló sau rặng lá kim, chăm chăm nhìn mình. Nhảy xuống từ trên cành cây cao chục thước là một vị đại hán không rõ danh tính. Mình hổ vai gấu mắt diều hâu, râu rậm dài xuống ngực, thân hình vững chãi như bàn thạch đứng trước mặt Thừa Lân mà như che phủ mặt trời, nhưng khi tiếp đất thì tuyệt nhiên không một tiếng động. Chỉ một chi tiết đó thôi, Thừa Lân cũng nhận ra đây là hạng người thân thủ bất phàm. Nếu không phải hắn mặc áo choàng da hươu, tay lăm lăm đoản kiếm đính lông đỏ của người Nữ Chân, thì Thừa Lân đã một phen khốn đốn rồi. Kẻ lạ mặt phủi tuyết khỏi áo, "Giác quan cũng bén nhạy đó, nhưng tại sao lại khinh suất thế?" Thừa Lân chưa kịp đáp thì đại hán đó đã tiếp lời. "Trại giặc cách đây chưa đầy một dặm, ngươi vẫn còn ngồi đây rung đùi, lại còn dắt cả ngựa theo, tiếng kêu lộc cộc khắp rừng đều nghe thấy, chẳng lẽ là chán sống rồi sao?" Thừa Lân cung kính chào hỏi, xưng tên tuổi và lí do tới Thiết Lĩnh. Kẻ lạ mặt đáp, "Ta đã nghe tới danh Đại tướng quân, nhưng không ngờ lại gặp con trai danh tướng ở đây. Ta tên Ô Di Hà, người dòng dõi Ô Di tộc Dã Nhân. Nay Hung Nô phạm vào bờ cõi tổ tiên, tàn sát hết các huynh đệ của ta rồi." Nói rồi, Ô Di Hà nắm chặt nắm đấm, răng nghiến lại, mắt long sòng sọc. "Già, trẻ, lớn, bé, chúng giết sạch. Em trai ta cũng bị chúng đâm chết; ta ngay sau lưng mà không sao ngăn cản. Ta cùng hai mươi tám vị huynh đệ chạy thoát khỏi đại quân, rút lên Điệu Binh Sơn, tổ chức mai phục. Ngày bọn ta ẩn nấp, cứ đêm bọn ta tập kích, quấy rầy không cho chúng ngơi nghỉ. Giờ chúng chỉ còn vài trại nhỏ ở Thiết Lĩnh thôi, ta liệu sức mình có thể giải quyết. Thiếu hiệp đây muốn đánh giặc, chúng ta cùng chung chí hướng, chi bằng hãy giúp chúng ta một tay." "Tại hạ là đệ tử lão sư Ni Kham, nhưng quả thực kiếm pháp còn nhiều thiếu sót, không biết sẽ có hữu dụng gì với đại hiệp?" "Nếu lão sư đã truyền lại thần khí cho thiếu hiệp, hẳn tư chất cũng không phải tồi." Ô Di Hà liếc nhìn thanh Không Ngưng Kiếm sau lưng Thừa Lân. "Nhưng thiếu hiệp đã biết sử dụng chưa?" "Quả thực, tại hạ vẫn chưa biết." "Ta không biết môn phái thiếu hiệp theo học, nhưng nếu thiếu hiệp muốn khai mở nội lực, ta có thể chỉ dạy." Thừa Lân lấy làm kinh ngạc. Chàng chưa nói gì với Ô Di Hà rằng chàng chưa khai mở được nội lực, nhưng chỉ nói chuyện có một chút mà họ Ô Di đã tự biết. Chàng đáp, "Nếu được vậy thì tốt quá." Ô Di Hà ra hiệu cho Thừa Lân lên ngựa, dặn bước lên tuyết đi có chậm hơn nhưng sẽ không ồn ào. Nói rồi thi triển khinh công, di chuyển từ ngọn cây này sang ngọn cây khác, tốc độ vượt trội so với Thừa Lân trên lưng ngựa, nhưng tuyệt nhiên không gây ra tiếng động gì. Thừa Lân lấy làm phục. Di chuyển không lâu thì họ tới trại của người Kim, lưng nép vào quả núi, trước mặt nhìn ra sình lầy. Ngựa của Thừa Lân không di chuyển được, chàng đành phải xuống ngựa dắt bộ lội qua. Sình lầy phía dưới thì bùn ngập tới mắt cá chân, toàn những cây cỏ tùm lum bao bọc, phía trên lại toàn cây rủ lá xuống tận mặt bùn, trông thật gớm ghiếc. Bình thường không có chiến sự sẽ chẳng ai ở đây cả, nhưng đang nước sôi lửa bỏng, nếu có bị tấn công thì đường vào trại vừa hẹp vừa khó đi, kẻ địch quân số đông tới bao nhiêu cũng gặp bất lợi. Ô Di Hà giới thiệu Thừa Lân tới các vị huynh đệ. Họ Ô Di nói tổng cộng hai mươi tám vị, nhưng Thừa Lân chỉ thấy có hai mươi hai. Chàng không muốn biết số phận của sáu người kia ra sao rồi. Người Thiết Lĩnh phần lớn đều từ tộc Dã Nhân, thân thể họ đồ sộ, ai cũng đều cao tối thiểu hơn Thừa Lân một cái đầu, sức vóc mỗi người phải bằng hai thanh niên người phàm hợp lại. Thừa Lân chào họ một lượt, đi tới người thứ tám-kẻ với cặp lông mày rậm như hổ và chiếc mũ lông da sói trên đầu-thì bị hắn siết chặt tới cánh tay, tới mức chàng thấy đau nhức. "Ngươi kiếm đâu ra thanh kiếm đó?" Hắn hục hặc hỏi. "Sư phụ tôi là Ni Kham Gia Tịnh truyền lại cho tôi," Thừa Lân đáp. "Tiểu tử dối trá! Ô Di Đạo ta đây nửa đời tầm sư học võ đạo, Bắc du lên Hồ Lý Cải thỉnh sư không dưới ba lần, chưa bao giờ được chấp thuận. Ngươi như nhành cây khô, ta bẻ một cái là gãy làm đôi, mà dám vỗ ngực tự nhận mình là đệ tử Ni Kham?" Nói rồi, hắn mới quay sang bốn bề mà lớn tiếng, "Tên tiểu tử này là kẻ ăn cắp! Hắn là dòng dõi Kim chủ, ắt cũng là lời xảo quyệt. Nay tất cả huynh đài đều ở đây, ta sẽ cho hắn lộ bộ mặt thật." Trong đám đông huynh đệ xung quanh có tiếng xì xào bàn tán. Nói rồi, hắn rút ra một cây đoản kiếm, sừng sững đứng trước mặt Thừa Lân. "Ta và ngươi tỉ thí ngay bây giờ. Nếu ngươi trụ nổi năm hiệp, ta sẽ rút lại lời ta nói. Còn nếu không, ta sẽ tước thanh kiếm báu của ngươi khỏi tay ngươi." Ô Di Hà quát, "Thế đệ (em họ), cấm có vô lễ!" Ô Di Đạo nạt lại, "Nếu không vì ta cần nhân lực, đệ đã giẫm nát tên tiểu tử này ngay tại đây rồi. Nếu hắn ta thực sự là đồ đệ Ni Kham, hắn không có gì phải sợ cả. Chẳng phải huynh cũng muốn biết sao?" Rồi lại quay ra Thừa Lân. "Ngươi sợ rồi chứ gì? Hãy ngoan ngoãn giao nộp thanh kiếm ra đây, và ta sẽ không khiến ngươi tử thương. Dù gì thì ngươi cũng không vung nổi nó đâu." Thừa Lân nhắm mắt, hít một hơi thật sâu. Khi chàng mở mắt, chàng rút thanh Không Ngưng Kiếm ra. Thanh kiếm đi trong không khí, kêu vút một tiếng tinh gọn. "Ta đồng ý tỉ thí," chàng đáp. *Không Ngưng Kiếm: Không Ngưng Kiếm là một thanh kích kiếm lưỡi mảnh làm từ trọng thiết, có lõi bạch kim được luyện thành trong dung nham hàng chục năm, nặng tới trăm cân, vô cùng khó sử dụng. Khi kẻ sử dụng có thể truyền nội công vào thần khí, Không Ngưng Kiếm trở nên nhẹ hơn tương đối, dù vẫn gây ra nhiều khó khăn cho kiếm nhân. Kẻ chưa biết dùng hay sử dụng kiếm để chém, nhưng Không Ngưng Kiếm được sinh ra dành cho việc đâm thẳng, ép chết đối thủ với sức nặng trăm cân của mình. Một thanh trọng kiếm như Không Ngưng Kiếm tưởng như khó bề dung hòa với Hạc kiếm pháp, nhưng do kẻ nội công càng thâm hậu kiếm càng nhẹ, lại thêm việc khi thanh kiếm va chạm với thanh kiếm khác, trọng lực từ nó truyền qua vũ khí của đối phương, lại có thể khiến đối phương nặng nề chậm chạp hơn. Kẻ thành thục Hạc kiếm pháp mà sử dụng Không Ngưng Kiếm, nếu kéo dài trận tỉ thí lâu, sẽ có thể khiến bản thân càng thanh thoát mà đối phương càng mệt mỏi. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 6: Kiếm bất tuân chủ Bấm để xem Ô Di Hà xen vào giữa hai người, trong giọng nói chứa đầy bực dọc, "Không có tỉ thí nào hết. Chúng ta cần phải giữ sức cho kẻ địch, không phải dùng sức lực đó làm những việc vô bổ." Thừa Lân mới nói, "Nếu tại hạ không chấp nhận, ắt các vị huynh đài đây sẽ sinh nghi kỵ. Chi bằng giải quyết một lần này." Ô Di Hà nhìn Thừa Lân một hồi rồi đáp, "Được. Nhưng sẽ không được phép có gì đi quá giới hạn." Ô Di Hà quay sang thế đệ của mình, đôi mắt chim ưng nhìn chằm chằm lấy Đạo như một mũi tên rực lửa. "Và không gây đòn chí mạng." "Huynh cứ yên tâm. Đệ tự kiểm soát được. Đệ đã bao giờ khiến huynh phải phiền muộn chưa?" "Lần trước đệ bảo ngươi chỉ ăn một miếng đùi hươu thôi, nhưng đệ ăn dám ăn thêm miếng nữa của ta. Ta rất không tin tưởng khả năng tự chủ của đệ." Họ Ô Di vỗ ngực. "Có vấn đề gì, huynh tự vác kiếm vào mà ngăn chặn. Đệ mà làm sai gì, sẽ ngưng uống rượu cả tuần. Nhường hết lại cho các anh em!" "Đây không phải là chuyện để đùa." "Rượu với đệ mới không phải chuyện để đùa!" Nói rồi, Đạo mới đi ra chỗ một người khác ngồi gần đó, giật phắt bầu rượu trên tay người đó mà tu, xong cười khà khà. "Người anh em cho ta làm nốt một nhấp, cho ta nhớ vị rượu, kẻo sau này ta không còn được uống nữa." Ô Di Hà nắm tay thành nắm đấm, đấm nhẹ lên ngực Đạo. "Ta không đùa giỡn. Hãy nhớ lời ta." "Không có gì để huynh phải lo lắng cả." Họ tìm một khoảng đất trống có đủ chỗ di chuyển, trong khi các huynh đệ xung quanh tụm lại thành một vòng tròn có đường kính vài trượng. Đạo và Lân đứng cách nhau năm thước, tay nắm chặt vũ khí, nhìn nhau trong chốt lát, không ai động đậy. Không gian xung quanh yên ắng tới nỗi có thể nghe thấy những tiếng thở sâu của cả Đạo lẫn Lân. Ô Di Đạo ra chiêu đầu tiên. Đôi mắt Thừa Lân di chuyển theo chuyển động kiếm, chột dạ nhận ra Đạo nhắm thẳng nơi hiểm yếu yết hầu, kiếm thể lộ liễu nhưng vô cùng hung bạo. Thừa Lân đã luyện tập chiêu thức phòng thủ Nhu Ưng Trảo không biết bao nhiêu lần; trước với Gia Khảm tỉ thí lần nào cũng chỉ cần thanh thoát gảy nhẹ đường kiếm của Khảm là tự khắc điều hướng chiêu thức kẻ địch vào không gian, trở nên vô hại. Nhưng lần này dùng Nhu Ưng Trảo với Ô Di Đạo cảm thấy thật khó khăn. Phải tập trung cực độ, Thừa Lân mới chạm được thân kiếm vào ngay dưới mũi đoản kiếm của Đạo, khiến mũi kiếm của hắn xiên lệch. Thừa Lân muốn nâng kiếm lên tung chiêu thức phản đòn, nhưng cổ tay nhói lên một lần, khiến chàng phải nghiến răng lui lại. Tác động của Ô Di Đạo không quá mạnh, cũng chẳng gây ra nội thương nào, nhưng Thừa Lân cảm giác bắp tay đau nhức, hô hấp đình trệ. Đạo chẳng nói chẳng rằng, không cho Thừa Lân cơ hội nghỉ ngơi, đã ra chiêu thứ hai. Thừa Lân lăn sang một bên, nhưng thanh Không Ngưng Kiếm nặng nề khiến chàng di chuyển khó nhọc. Chỉ chậm chạp một chút nữa thôi đã không tránh được rồi. Đạo đợi Thừa Lân đứng dậy mới cười lớn một tiếng, múa đoản kiếm thoăn thoắt. "Đệ tử Ni Kham mà chậm chạp yếu đuối vậy sao? Thật mất vui quá. Nghe đây. Ta sẽ cho ngươi xuất hai chiêu, ta chỉ chống đỡ. Xem bản lĩnh của phường trộm cắp thực sự tới đâu." "Kiếm của ta so với hắn ắt có lợi thế ở cự ly xa. Kinh Vân Ảnh sẽ là hiệu nghiệm nhất," Thừa Lân nhẩm trong đầu. Kinh Vân Ảnh của Ni Kham gia đường kiếm mượt mà, gây ảo ảnh, xuất chiêu một nơi nhưng kết thúc lại ở nơi khác. Khi lão sư cho thị phạm kiếm pháp, đường kiếm của ông luân chuyển liên hồi, Thừa Lân không thể nào theo dõi nổi, như trước mặt có ba bốn đường kiếm khác nhau. Khi bàng hoàng tỉnh ra thì kiếm đã gần đến cổ rồi. Thừa Lân có thể sử dụng Kinh Vân Ảnh, nhưng chiêu thức mới mở đến thức thứ ba, không rõ sẽ hiệu nghiệm đến đâu. Chàng không tập trung ngoại lực lên tay cầm, mà phân chia đều sức lực ra toàn bộ cơ thể. Toàn bộ thân thể phải nhu nhuyễn thì kiếm thức mới mềm mại, khó đoán định; đó chính là bản chất của Hạc Kiếm pháp. Chàng hạ trọng tâm, xuất chiêu dưới thấp, lợi dụng ảo ảnh để đột ngột đổi hướng lưỡi kiếm lên mạn sườn. Tuy nhiên, Không Ngưng Kiếm vẫn nặng trịch như khối chì, bất tuân mệnh lệnh của Thừa Lân. Đường kiếm của chàng thành thử không đủ nhanh nhẹn. Ô Di Đạo dễ dàng đỡ chiêu, đẩy Thừa Lân loạng choạng lui lại hai bước. "Còn một chiêu," Đạo nói. Thừa Lân đang gặp quá nhiều trở ngại. Làm thế nào có thể điều khiển được thanh kiếm này? Làm sao để chuyển động mượt mà được với sức nặng khủng khiếp thế này? Liệu mình nên xuất chiêu ở phía trên, lợi dụng đà mà lia kiếm xuống cho dễ dàng hơn? Đường kiếm thứ hai của chàng đã đổi phương hướng, nhưng vẫn quá dễ đoán. Ô Di Đạo chống đỡ xong xuôi, lập tức gầm lên, "Hết hai chiêu rồi. Giờ ngươi hãy đỡ lấy!" Tình cảnh thật ngặt nghèo. Hàng trăm suy nghĩ chạy qua đầu Thừa Lân, chồng chéo lên nhau, cố gắng đoán định xem Ô Di Đạo sẽ làm gì, xuất hiện ở đâu, dụng chiêu như nào mới đối phó được. Đạo dùng đoản kiếm, đáng lẽ bất lợi về khoảng cách, nhưng trong tích tắc sơ hở thôi, Thừa Lân đã để hắn áp sát. Ô Di Đạo vung kiếm; Thừa Lân nhìn thấy phản quang của lưỡi kiếm lóe lên ngay trước mắt mình. Khi chàng kịp định thần thì mới nhận ra đường kiếm đã đi không chính xác. Nhưng Thừa Lân đã đánh hơi được sát khí. Ô Di Đạo thực sự không trêu đùa! Chàng có thể vong mạng ngay tại đây. "Ta phải làm gì, ta phải làm gì, ta phải làm gì?" Thừa Lân nhẩm, hoang mang tột độ. Trong hàng nghìn dòng suy nghĩ, lời dặn của lão sư vang lên trong đầu Thừa Lân, "Nghĩ quá ít là kẻ vô năng, nhưng nghĩ quá nhiều là kẻ vô hướng. Chỉ khi đầu óc thật quang đãng, không một dòng suy nghĩ, lúc đó ta mới đủ tinh thông. Chừng nào ngươi còn phải nghĩ xem làm sao để thi triển nổi công, chừng đó ngươi vẫn sẽ không vận công được. Nội năng tự trong tâm mình. Không cần phải nghĩ. Ngươi sẽ biết." Thừa Lân lui một bước, hít một hơi dài. Ô Di Đạo áp sát một lần nữa, đặt chàng vào thế bất lợi. Lần này, sát khí đã rõ mồn một. "Dừng lại ngay!" Từ phía xa, Ô Di Hà hô lớn, rút đại đao xông vào ngăn trở. Nhưng chiêu đã xuất, làm sao có thể dừng? Không có ai có thể ứng cứu kịp. Chàng bình tĩnh quan sát chuyển động của y. Không trù tính gì. Chỉ quan sát. Chàng cảm nhận thanh kiếm trên tay mình. Không vận lực gì. Chỉ quan sát. Tập trung vào nhịp thở. Quan sát. Đường kiếm của Đạo, chàng đã nhìn ra. Chỉ cần một bước hoán đổi chân trụ, né tránh đường kiếm, bước hai ra chiêu phản đòn. Chàng có thể làm được. Chàng chỉ cần nội công. Ô Di Đạo đâm đoản kiếm phương thẳng đứng. Thừa Lân một bước né tránh nhẹ tênh. Đạo xoay thân mình, vung một đường kiếm sắc sảo, tưởng chừng với khoảng cách hẹp không trường kiếm nào có thể thu mình chống đỡ. Tiếng kim loại va chạm kim loại vang lên. Đám đông xung quanh nhất loạt 'ồ' lên một tiếng. Ô Di Đạo bị đẩy ngược lại hai bước, đôi mắt mở to nhìn Thừa Lân đầy kinh ngạc. Thanh đoản kiếm trên tay y suýt chút nữa bị hất tung. *Kinh Vân Ảnh: Kinh Vân Ảnh là một chiêu thức trung phẩm trong Hạc kiếm pháp, đặc biệt hữu dụng khi sử dụng đồng thời cùng Không Ngưng Kiếm. Kẻ thành thạo Kinh Vân Ảnh có thể thay đổi đường kiếm khi đang ra chiêu, nhưng vẫn giữ kiếm ảnh ở vị trí cũ, khiến kẻ địch không biết đâu là đường kiếm thật, đâu là đường kiếm giả. Kẻ thuần thục kiếm thuật có thể thay đổi đường kiếm nhiều lần, tạo ra hình thù hư ảnh như lốc xoáy, vũ bão. Người luyện thành Kinh Vân Ảnh thì đường kiếm phải tinh, chuẩn, đẹp, bởi vì chiêu thức này không chỉ là chiêu thức chiến đấu, mà còn là tinh hoa mĩ học được truyền thụ lại nhiều đời. Đạt tới cảnh giới cao nhất của mĩ thuật, Kinh Vân Ảnh có thể họa nên những bức họa lụa là gấm vóc, trời xanh mây trắng qua từng đường kiếm, khiến kẻ thưởng mãn phải trầm trồ thán phục. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái vote để ủng hộ truyện nhé! ~ ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 7: Khai mở nội công tầng thứ nhất Ô Di Đạo Bấm để xem Ức chế trong lòng Thừa Lân tiêu biến. Trong khoảnh khắc, Thừa Lân cảm thấy mọi xúc cảm khác nhau. Do dự rồi kiêu căng, khát máu rồi trắc ẩn, u uất rồi minh mẫn. Dòng nội công-nguồn năng lượng huyết mạch mà lão sư Gia Tịnh luôn giảng giải mà Thừa Lân chưa bao giờ cảm nhận được-chạy xuyên suốt cơ thể chàng, một cơn buốt lạnh dọc sống lưng. Sức mạnh mới khai phá được truyền vào thanh Không Ngưng Kiếm, khiến nó mờ tỏa ánh sáng xanh dương như hỏa lân tinh. Tới cả Ô Di Hà đang xông tới cũng phải dừng lại để chiêm ngưỡng. "Quả nhiên là đồ đệ của Ni Kham gia," Hà trầm trồ. Ô Di Đạo hoàn hồn rất nhanh. "Ta chưa tin. Phải để ta cảm thấy lần nữa!" Hắn hô lớn, xông pha lần nữa, đổi phương hướng tiếp cận. Nhưng đường kiếm của hắn sức mạnh dù lớn nhưng nhiều cử động thừa thãi, có thể nhìn ra ngay. Thừa Lân vung kiếm ngang không trung, thanh kiếm lả lướt như ngòi bút của họa sĩ, gọn gàng tinh giản chặn đứng. Ô Di Đạo 'hừm' một tiếng. Vừa lúc Ô Di Hà tiếp cận, hắn mới tiến lại gần, ném cây đoản kiếm của mình xuống đất mà bảo, "Huynh cho đệ mượn cây đại đao." "Ta không cho ngươi động vào vũ khí nào hết," Hà giận dữ đáp. "Ngươi không thể kiềm chế bản thân." "Đệ sẽ không động tới một sợi tóc của tên tiểu tử kia." Ô Di Đạo cười cợt, huých khuỷu tay rồi vỗ vai Hà. "Cả tháng trời này, đệ không khiêu khích một tên lính Mông Cổ nào. Hôm nọ, có con chuột lẻn vào trại ăn cắp hạt gạo, đệ nhìn thấy nó còn tươi cười chào hỏi, còn cho nó một hạt gạo nữa. Tâm đệ tĩnh lặng như Bồ Tát vậy. Huynh cứ đưa đại đao đây xem nào." Đám đông xung quanh cười phá lên. Thừa Lân xem chừng Ô Di Đạo vốn là kẻ cợt nhả, đây cũng không phải lần đầu, vậy mà khi cần thiết cũng thấy sát khí rất mạnh. Hà giơ ngón trỏ lên. "Một sơ suất nữa. Một sơ suất nữa là ta sẽ dừng cuộc tỉ thí này ngay lập tức." "Huynh cứ lo xa. Tới cả con chuột hôm nọ chào hỏi nó vẫn còn đang ngồi góc vui vẻ gặm gạo kia kìa." Đạo nhận lấy đại đao từ tay Hà, cởi bỏ mũ lông, mái tóc thẳng thớm hoang dại bung tỏa, xuống tận ngang thắt lưng. Hắn múa đao vài đường, động tác thoăn thoắt nhưng gãy gọn, hung mãnh như cú vồ của sư tử. Đạo nói, "Đao là vũ khí yêu thích của ta. Khá khen cho nhà ngươi cũng khiến ta phải sử dụng tới sở trường." Nói rồi, Đạo xung trận lập tức. Vừa khôi phục giao chiến mà Ô Di Đạo đã kiểm soát được tình hình. Hắn vung đao, Thừa Lân đỡ được một lần nữa, nhưng tay chàng run lên bần bật. Quả nhiên mới khai mở nội công, chàng vẫn chưa đủ sức tay đôi với một địch thủ sung cường thế này. Thừa Lân nhận thức rõ nội công của mình mới ở tầng thứ nhất mà thôi. Đạo liên tục chiếm thượng phong, khiến Thừa Lân né tránh sang hai bên, cố gắng để không bị dồn vào vách núi, không có chỗ cơ động. Mọi đường đao của Đạo đều có ngoại lực dồi dào, rất khó chống đỡ, chứ chưa nói tới chuyện phản kích. Thừa Lân chỉ chăm chăm bộ pháp, đặt bản thân vào vị trí thuận lợi, rốt cuộc sau năm chiêu mà hai vũ khí còn chưa chạm nhau thêm lần nào. "Đừng hèn nhát như vậy!" Đạo quát lớn. "Mau phản đòn đi chứ?" Thực ra thì Thừa Lân chỉ đang chờ cơ hội. Ô Di Đạo như mãnh hổ, nếu không khiến hắn khinh suất thì khó lòng Thừa Lân có thời cơ. Thừa Lân mới cố tình để một khoảng không, giả bộ quay sang bên, cho Ô Di Đạo áp sát. Ô Di Đạo thấy sơ hở lập tức vung đao chém vào nơi hiểm yếu bên mạn sườn. Nhưng Thừa Lân đã trù tính cả. Trong đầu chàng nhớ lại cách Ô Di Hà khinh công trên những ngọn cây, chỉ chạm có nửa gan bàn chân trên mà thôi. Chàng thử bắt chước cử động như trong trí nhớ của mình. Không ngờ ngay lần đầu tiên, tốc độ di chuyển đã tăng lên. Đường đao của Ô Di Đạo chỉ chém được không khí, tiếng kêu vun vút. Thừa Lân lẻn ra phía sau, lia thanh bảo kiếm, mục tiêu ngay sau lưng Đạo. Nhưng Đạo giật gót chân đạp lấy đầu gối Thừa Lân, khiến chàng khuỵu xuống. Lúc chàng ngước mắt lên thì đã nhìn thấy Ô Di Đạo hai tay cầm đại đao chém xuống. Trong tích tắc, chàng chỉ kịp đưa kiếm lên đỡ lấy. Tiếng vũ khí va vào nhau kêu loảng xoảng, kẻ nào tâm lý yếu tất phải sởn gai ốc. Thừa Lân tính chừng sức mình không lại được Ô Di Đạo, nếu cứ bị ép ghì xuống mặt đất sẽ thất bại. Nhưng khi chàng đang suy nghĩ cách thoát thân, Ô Di Đạo mới lùi lại, hạ đao xuống. Sát khí đột ngột biến mất, thay vào đó là tiếng cười vang vọng. "Khá lắm. Đó là hiệp thứ năm. Ngươi chưa có kinh nghiệm thực chiến, nhưng quả nhiên là đồ đệ Hạc Kiếm pháp. Ta rất xin lỗi vì đã lỗ mãng." Nói rồi tiến lại gần, đỡ Thừa Lân dậy, miệng vẫn khề khà. "Thế này mới là tỉ thí chứ!" Rồi lại quay sang Ô Di Hà và hai mươi vị huynh đệ. "Hà huynh, huynh nhất thiết phải thiết đãi thành viên mới của chúng ta thật long trọng." Ô Di Hà thở dài. "Nếu ngươi cứ phí phạm, ta sẽ không còn-" "Rượu trong kho hôm nay là phải khui ra hết. Chúng ta sẽ có một bữa hăng say!" Rồi chỉ luôn con chuột trong góc. "Mày cũng có phần luôn, Tiểu Thử!" "Tên vô lại này rõ là chỉ kiếm cớ uống rượu mà!" Ô Di Hà mắng. Nhưng nói dứt lời thì Đạo cùng mấy tay khác, cũng là hạng rượu chè, khiêng từ trong hang núi ra một hũ bằng đồng to bằng cả một hình nhân rồi. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái vote để ủng hộ truyện nhé! ~ ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 8: Ngũ huynh đệ kết giao Bấm để xem Sương đêm về nặng nề, quắc mắt nhìn kỹ càng nhất cũng không thấy nổi hàng cây tùng xà ở cánh rừng cách chưa đầy một dặm. Ô Di Đạo cùng các huynh đài một bọn hai mươi ba người quây quần, đánh chén một bữa no say, nhưng lửa đốt cũng phải bịt sỏi đá kín mít để khói không bốc lên nhiều. "Mấy hôm nay chúng ta đi săn còn phải hạn chế," Ô Di Hà nói với Hoàn Thừa Lân, "Quân Mông Cổ đã biết vị trí của chúng ta ở đâu, bọn chúng đang cử trinh sát ráo riết, nếu không vì đại quân phải tiếp tục chinh chiến thì chúng ta đã vong mạng hết rồi. Kì thực là may mắn lắm mới gặp được thiếu hiệp." Rồi tiếp lời, "Xin thiếu hiệp đừng khách sáo. Ni Kham kiếm pháp không thuộc chính tông nào, số lượng môn đệ thu nhất chỉ đếm trên đầu ngón tay, cũng tự cổ chí kim chưa bao giờ tham gia vào tranh chấp môn phái, nhưng không vì thế mà bọn ta khinh miệt. Giờ đây quốc gia lâm nguy, dù là người từ tông phái nào cũng có chung một kẻ thù. Nếu thiếu hiệp không chê bọn ta hạng tiểu tướng vô danh, thì xin cứ gọi bọn ta là huynh." Thừa Lân vội vàng tạ lễ, gật đầu đồng ý lập tức. Nghi thức kết huynh đệ của họ vô cùng đơn giản: Với người Dã Nhân, mọi chuyện kết thân đều từ những bình túy tửu. Hai người họ tu hết một âu rượu, thế là thành huynh đệ. Ô Di Hà trọng vọng Thừa Lân vô cùng, cho ngồi chung mâm với tứ chủ Thiết Lĩnh, gồm nhất ca Ô Di Hà, nhị ca Kiều Sinh Nhai, tam ca Cổ Mạnh Ninh và tứ ca Ô Di Đạo. Phần lớn người trong bọn Ô Di Hà đều xuất thân bần nông hoặc du mục, thậm chí có cả hai ba kẻ vốn phường sơn phỉ, nay cũng góp sức vì đại nghĩa. Khác với những người kia, bốn người này không từng làm tướng lĩnh triều đình thì cũng xuất thân từ Tắc Kỷ tông giáo từng tiếu ngạo khắp bình nguyên Bắc cực. "Bọn ta đều theo Tắc Kỷ phải của tộc Dã Nhân. Kiếm, thương, cung, mâu, kích, bọn ta đều thành thục. Nhưng bản thân ta ưa thích nhất cây chiến phủ này." Kiều Sinh Nhai khư khư cây rìu sắt bên mình, một cây rìu bằng bạc nặng trăm cân, trên cán khắc chữ Quần Nghi Phủ. "Tại hạ nghe danh Tắc Kỷ đã lâu, quả nhiên tông môn Tắc Kỷ phái đều dũng mãnh, cầm trọng khí mà nhẹ bẫng như đoản kiếm, sức mạnh vô song," Lân đáp. "Thiếu hiệp cứ quá khen," Cổ Mạnh Ninh hồ hởi đáp. "Tắc Kỷ phái chúng ta tuyệt đại đa số chỉ rèn luyện ngoại công thể chất. Nội công của thiếu hiệp ta xem chừng mới ở tầng thứ nhất mà đã đáng gờm như vậy rồi, ắt hẳn là hạng có linh căn." Ô Di Hà ngoài mặt không nói một lời, nhưng bên trong còn nhiều điều suy xét. Thuấn bộ của Hà-thứ mà giúp cho đôi chân của Hà giảo hoạt khôn cùng dù cho thân thể to lớn-không phải là võ công tộc Dã Nhân, cũng chẳng phải là bộ pháp của chính tông nào cả. Pho sách mà Hà tiếp nạp bộ pháp này, hắn cá chắc rằng trong thiên hạ số người đã đọc qua chỉ có trên đầu ngón tay. Vậy mà Thừa Lân chỉ mới nhìn qua hắn khinh công trên ngọn cây mà đã có thể bắt chước, mười phần giống năm, sáu phần. Ngồi trong góc, Ô Di Đạo khề khà lấy tay không lau rượu trên môi. "Tiểu tử này tư chất khá, nhưng Cổ huynh nói như vậy thật quá lời! Nội công thì có gì mà cao siêu chứ? Ta ngồi nhà săn hươu bắt sói cũng khai mở tầng thứ hai rồi!" Thừa Lân không cho là vậy. Chàng phải khổ cực năm năm trời mới đả thông được kinh mạch. Để luyện lên tầng thứ hai, nếu dễ dàng tới vậy, chẳng phải nội tộc Dã Nhân ai cũng phải khai mở được rồi sao? Thừa Lân hồi tưởng lại lời giảng giải của lão sư khi chàng mới nhập môn. "Khai phá nội công cũng có năm tầng. Khai mở tầng thứ nhất, con có thể sử dụng luân xa để khuếch đại ngoại lực, đả bại hai người cùng lúc. Khai mở tầng thứ hai, nội lực của con dồi dào hơn thập phần, con có thể đánh bại năm người. Khai mở tầng thứ ba, con có thể hoán chuyển nội công thành nguyên khí, dùng tay không thôi mà cả chục người cũng không lại được. Khai mở tầng thứ tư, nguyên khí của con có thể triệu hồi nội linh thú, ba chục người bao vây con cũng có thể phá vây. Khai mở tầng thứ năm, kinh mạch của con liên hợp với ngũ khí trời đất, một trăm tinh binh cũng khó lòng cản nổi." Chàng thắc mắc làm thế nào để một mình có thể đối đầu được cả một binh đoàn. Gia Tịnh nhấp chèn trà, lắc đầu khoan thai. "Một người diệt vạn quân chỉ có trong tiểu thuyết tu tiên mà thôi. Sinh thời ta chưa từng thấy ai sức mình đọ được vài trăm quân, chứ chưa nói tới một binh đoàn. Cả phụ thân ta cũng chưa thấy. Cả tổ phụ ta cũng chưa. Nếu Thành Cát Tư Hãn có thể tự lực diệt vạn địch, hắn đã không cần đến đặc chủng kỵ binh." Thừa Lân tỉnh khỏi dòng suy nghĩ thì bốn vị kia đã uống sạch một âu rượu rồi. Cổ Mạnh Ninh thấy Ô Di Đạo hống hách, mới nói, "Nếu Ô Di đệ tài năng vậy thì sao khi tướng Mông Cổ Húc Đồ Cung tới Liêu Dương, đệ mới đánh năm hiệp đã phải quay ngựa chạy?" Nghe tới cái tên Húc Đồ Cung, Ô Di Đạo đã giật mình, đánh rơi cả chén rượu. "Huynh đi mà giáp chiến với hắn! Lúc đó rồi biết." "Cái tên Húc Đồ Cung ta mới nghe lần đầu, nhưng nghe nói hắn là một trong số Lục Đại Sát Khuyển của Mộc Hoa Lê," Kiều Sinh Nhai phân bua. "Thực sự võ công của hắn không thể xem thường. Nghe đâu Chu Nhậm bị Húc Đồ Cung chặn đánh, chỉ chưa đầy mười hiệp đã bị hắn xả làm đôi." "Chỉ mới là phó tướng của Mộc Hoa Lê mà đã lợi hại như vậy, thế thì chủ tướng sẽ dũng mãnh tới nhường nào?" Cổ Mạnh Ninh trầm mặc đáp. "Chu Nhậm sao?" Thừa Lân cả kinh. "Liệu có phải huynh đang nhắc tới Liêu Dương Đệ Nhất Kích Chu Nhậm?" "Chính hắn," Cổ Mạnh Ninh đáp. Ô Di Đạo phủi tay. "Chu Nhậm tự xưng độc cô cầu bại xứ Liêu Dương, nhưng cả đời chưa bao giờ dám tỉ thí với danh tướng nào của triều đình, chứ chưa nói tới cao thủ võ lâm thiên hạ. Vậy thì thực sự trình độ của Nhậm là tới đâu?" "Chắc chắn là hơn tiểu đệ rồi," Cổ Mạnh Ninh nhún vai. "Đệ nói cho huynh biết! Đệ mà lì lợm nghênh chiến, chắc chắn cũng phải đỡ được hơn mười chiêu của Đồ Cung!" Ô Di Hà khoát tay cho tất cả dừng lại. "Không bàn chuyện đó nữa. Giờ đại quân của Húc Đồ Cung đã rút lui, chỉ còn hai tiểu trại đóng ở đây, không chịu rời đi. Trại của chúng quân số phải gấp bốn lần chúng ta, lại còn đã biết ta ở đâu, e rằng không ra tay trước tất tử. Giờ trong bốn người các đệ, có ai có ý kiến gì không?" Ô Di Đạo ủng hộ nghênh chiến trực diện, Cổ Mạnh Ninh cho rằng nên rút lui lên Hồ Lý Cải. Ô Di Hà đều cho là hạ sách. Rốt cuộc không ai đưa ra được cao kiến. Thừa Lân quan sát một hồi, rồi mới đặt chén rượu xuống, chắp tay cung kính, "Nếu các huynh không chê, đệ có một quyết sách." ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~
Chương 9: Phá trại Hung Nô Bấm để xem Ô Di Hà hỏi kế là gì. Thừa Lân đáp, "Tiểu đệ đã kịp quan sát cách bài trí trại của chúng. Ban ngày chúng còn không bố trí canh phòng, tất ban đêm sẽ không có, ta có thể tiếp cận. Xung quanh trại chính là một loạt các lều tròn bọc da hoặc nỉ, lều nào đặt san sát lều đó. Chỉ cần một mồi lửa là các lều đó sẽ nối tiếp nhau bắt lửa, ta không cần đánh cũng tự phá. Tả hữu đã bắt lửa thì kẻ địch chỉ còn hai lối ra vào. Trong khi địch hỗn loạn, ta tập kích hai huyết mạch giữa quả núi và khu rừng, ắt sẽ thắng lợi." Hà cho là kế hay, liền sai các huynh đệ gom mồi lửa. Lũ Nhai, Ninh còn nghi ngờ kế sách, nhưng Ô Di Hà đã quyết thì hai người họ cũng không dám trái lời. Canh ba đêm đó, cả hội Ô Di Đạo, hai mươi ba người, chia làm hai đạo chính, chặn hai chính lộ ra vào của trại. Cổ Mạnh Ninh cùng năm nỏ thủ từ xa bắn tên tẩm bùi nhùi phóng hỏa, trúng cả ba trại chính. Khi quân Hung Nô ra dập lửa thì đã quá muộn. Ở phía xa, Kiều Sinh Nhai chỉ huy các đồ đệ khua chiêng múa trống, khuếch trương thanh thế, chỉ có năm người mà địch tưởng như hàng chục quân Kim chính thống ứng cứu. Quả nhiên, quân Hung Nô trúng kế, tản ra hai đường mà bỏ chạy. Trong cơn hoảng loạn, lính Mông Cổ chen chúc vào lối nhỏ, bị toán quân của Ô Di Hà và Kiều Sinh Nhai mai phục sẵn, giết tất thảy năm chục người ngựa. Ô Di Hà chỉ mất tổng cộng năm binh sĩ. Ô Di Hà thu thập được bao nhiêu chiến khí, lương thực, hội quân lại với Kiều Sinh Nhai và Cổ Mạnh Ninh. Lũ Nhai, Ninh thấy Thừa Lân còn trẻ mà đa mưu túc trí, không ghen tị mà thấy bội phục ba bốn phần. Chủ trại Mông Cổ là Thốc Mãn Lai, nhân thời cơ hỗn loạn mà dắt hai kỵ binh thân tín men đường mòn phía Nam bỏ trốn. Ai ngờ đi một đoạn, tới gần rừng tùng, hai kẻ đã ám phục sẵn trên ngọn cây cao nhảy xuống, một chém giết chết hai kỵ binh đi cùng. Thốc Mãn Lai vội vàng quay ngựa lại thì thấy hai kẻ mặc phệ phong (áo choàng) da hươu, rõ ràng là người Nữ Chân. "Ai?" Hắn hỏi. Người có thân thể cao lớn hơn đáp, "Ngươi sắp chết rồi, không cần biết danh tính bọn ta." Kì thực, hai người mai phục họ Thốc chính là Hoàn Thừa Lân và Ô Di Đạo. Thừa Lân đã tiên liệu chủ trại của quân Mông sẽ theo đường nhanh nhất phóng về Liêu Dương để tẩu thoát, y rằng ứng nghiệm. Thốc Mãn Lai mặc áo giáp phiến mỏng, tay cầm một cây kích cán đỏ son, nhuộm từ rễ cây thiến thảo, mũi kích đúc từ bạc sáng loáng, cán gắn lông đuôi ngựa hung. Ô Di Đạo nhận ra cây kích đó, mới hô lớn, "Đó là Huyết Tiễn Kích của Chu Nhậm. Tì tướng nhà ngươi sao dám cướp lấy, vấy bẩn nó trên tay ngươi?" "Chặn đường Thốc Mãn Lai mà chỉ có hai người, quả thực là hôm nay muốn chết rồi." Thốc Mãn Lai múa kích, động tác đơn giản nhưng nhuần nhuyễn. "Ta chính là em trai của Thốc Mãn Quần, liệp khuyển (chó săn) tiên phong của Húc Đồ Cung. Ngươi là hạng tôm tép nào mà dám chặn đường ta?" Đạo ngẩng mặt lên trời, cười lớn. "Trông nhà ngươi dong ngựa phủi áo, ta cứ tưởng gặp phải vĩ nhân nào cơ! Hóa ra chỉ là hạng tôm tép. Phó tướng của phó tướng của phó tướng mà cứ ra vẻ như Nhạc Phi cái thế!" Thốc Mãn Lai giận tím mặt, múa kích thúc ngựa xông vào chém Ô Di Đạo. Hắn đinh ninh hắn trên lưng ngựa, hai kẻ kia chỉ đi chân trần, dù có hai đấu một hắn cũng có lợi thế rõ ràng. Hoàn Thừa Lân tay nắm một vốc cát, đợi ngựa tiến lại gần thì ném vốc cát đó vào mắt ngựa. Ngựa bị hoảng hồn, đổi hướng, kích của Mãn Lai không tới được Ô Di Đạo. Nhân thời cơ đó, Đạo vật Mãn Lai ngã khỏi lưng ngựa. Đạo lấy đại đao chém Lai, nhưng Lai đã lộn hai vòng tránh được. "Nghĩ giết ta mà dễ vậy sao?" Lai nói. "Ta không cần ngựa để đánh bại hai kẻ vô danh các ngươi." "Ngươi nói nhiều quá rồi đấy," Đạo cười khẩy. "Giỏi thì tiếp chiêu!" Ô Di Đạo mới xông vào. Mãn Lai giương kích trực chiến, thì bỗng dưng trước mặt hiện ra ảo ảnh, như thể gió lớn, cát bụi nổi lên ngay trước mặt. Mãn Lai kinh ngạc không biết gió từ đâu ra, dù cho xung quanh hắn chẳng cảm thấy nhiệt độ thay đổi. Thực tình, Hoàn Thừa Lân đã áp sát hắn, múa Kinh Vân Ảnh, tạo ra ảo ảnh đánh lạc hướng. Kinh Vân Ảnh của Thừa Lân còn sơ cấp, nên chỉ vài giây Mãn Lai đã nhìn thấu. "Ngươi!" Mãn Lai vung kích đẩy lùi Thừa Lân, nhưng ảo ảnh đã khiến hắn quên mất đòn đao của Ô Di Đạo. Đạo vung đao, nhưng Mãn Lai chẳng phải tay vừa. Hắn giương kích đỡ được đòn đao. Thừa Lân tung kiếm bên mạn sườn, nhưng Mãn Lai thúc cán kích phòng bị. Một mình hắn múa kích, dù Đạo Lân liên hợp vẫn đỡ được mười hiệp. Mọi đòn đỡ của Mãn Lai dù ở thế bất lợi vẫn đều dồi dào nội công, Đạo và Lân dùng hết sức bình sinh cũng không thể công phá. Thừa Lân biết không thể giằng co vậy mãi, bèn giả đò loạng choạng một bước. Mãn Lai mắc bẫy, đâm kích tiến công. Nào ngờ bộ pháp Thừa Lân bắt chước thuấn bộ của Ô Di Hà, khoan thai dễ dành né tránh. Mãn Lai giật mình nhận ra sai lầm thì Ô Di Đạo đã áp sát từ sau lưng. Đạo vung đao lần nữa. Đầu Mãn Lai đứt làm đôi. Hắn ngã sấp mặt xuống đất, máu xối ra như đài phun nước. Đạo cắt thủ cấp của Mãn Lai, mang về làm chiến lợi phẩm, tay kia thu hồi Huyết Tiễn Kích từ tay Lai. Xong xuôi hắn nói với Thừa Lân, "Hoàn đệ quả thực thông minh, chưa thực chiến mà như đã vào sinh ra tử cả chục lần. Năm huynh đệ ta liên thủ, có khi Húc Đồ Cung cũng chẳng phải đối thủ đâu!" Thừa Lân từ tốn đáp, "Huynh quá khen. Kì thực võ công của đệ so với Húc Đồ Cung hẳn còn cách xa nhau lắm." Đạo cười ha hả. "Việc đó cứ lo gì vội? Ta còn nhiều thời gian chuẩn bị trước khi gặp Đồ Cung. Ta cứ phải ăn mừng chiến thắng hôm nay đã. Giờ hai ta về, ta sẽ cho đệ chiêm ngưỡng tuyệt kĩ vo gạo, nướng hươu của ta. Người ta không gọi ta là đệ nhất đầu bếp Thiết Lĩnh không vì lý do gì cả đâu." Chưa một ai gọi Ô Di Đạo là đệ nhất đầu bếp Thiết Lĩnh cả. Thừa Lân mong lời của Đạo thành sự thực, bởi chàng cho rằng bản thân mình cần ít nhất năm, mười năm nữa để bắt kịp trình độ của Đồ Cung. Tuy nhiên, duyên phận sẽ sắp đặt cho Hoàn Thừa Lân và Húc Đồ Cung chạm trán nhau sớm hơn chàng định liệu. Bởi cách đó vài trăm dặm, một trận chiến kịch liệt cũng đang diễn ra tại ấp Trường Chinh, quận Hoành Vĩ, thành trì cuối cùng của Kim triều tại Liêu Dương. *Huyết Tiễn Kích: Huyết Tiễn Kích là cây trường kích mũi bạc của Chu Nhậm. Đây là một thanh kích nung chất lượng cao, đao kiếm thông thường va chạm phải không những không gây tổn hại cho trường kích mà còn có thể gây sứt mẻ. Kiếm vừa bền vừa đủ nhẹ, thích hợp ra đòn nhanh và đổi hướng liên tục, nhưng khiến đối thủ dễ dàng đỡ được và điều hướng tấn công hơn. ~Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái like để ủng hộ truyện nhé! ~