Bài viết: 291 



Vợ chồng A Phủ - Kiếp làm dâu Đề bài:
"Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi"
Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích sau đây. Từ đó, nhận xét về giá trị hiện thực trong đoạn trích
Văn chương là một loại hình nghệ thuật giàu ý nghĩa đối với cuộc sống con người. Văn chương khiến cho con người trở nên gần gũi với nhau hơn, biết chia sẻ, đồng cảm với những thân phận bất hạnh trong đời sống. Cũng chính vì quan tâm đến con người nên văn chương còn dạy cho chúng ta biết căm phẫn trước cái ác, cái đen tối. Đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc mà văn chương có được. Trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, những tác phẩm giàu giá trị nhân đạo như: "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, "Chí Phèo" của Nam Cao, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài, "Vợ nhặt" của Kim Lân.. đã để lại cho người đọc nhiều thế hệ những suy tư trăn trở. Trong những tác phẩm trên, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài được đánh giá là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về số phận bất hạnh của Mị - một cô gái bị bắt về làm dâu nhà giàu ở miền núi Tây Bắc trước giải phóng. Đoạn trích kể về cuộc sống của Mị ở nhà thống lí Pá Tra đã khiên người đọc không khỏi động lòng thương xót. Qua đoạn trích đó, chúng ta còn cảm nhận được sâu sắc giá trị hiện thực của truyện ngắn này.
"Vợ chồng A Phủ" in trong tập "Truyện Tây Bắc" - một tập truyện kế tiếp xuất sắc những tác phẩm của Tô Hoài như "Dế Mèn phiêu lưu kí", "O chuột". "Vợ chồng A Phủ" là kết quả của chuyến công tác tám tháng của Tô Hoài lên Tây Bắc. Trở về sau chuyến công tác ấy, Tô Hoài nói: "Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá". Viết "Truyện Tây Bắc", Tô Hoài mong muốn trả món nợ ân tình với vùng đất mà ông đã từng gắn bó, vùng đất đã cho ông những hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số làm nên phong cách sáng tác của ông. "Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn nhưng có dung lượng của một truyện dài gồm hai phần, trong đó phần đầu giàu giá trị hơn cả. Truyện viết về bi kịch của Mị sống kiếp làm dâu đầy tủi nhục ở nhà thống lí Pá Tra. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, nhiều người mê ngày đêm thổi sáo theo Mị. Nhà Mị nghèo, cha Mị không có tiền cưới mẹ Mị nên đã phải vay tiền của thống lí Pá Tra, mỗi năm trả lãi một nương ngô. Đến khi cả hai đã già, mẹ Mị mất món nợ vẫn còn chưa chả xong. Thống lí Pá Tra bảo bố bị cho Mị về làm dâu thì xóa nợ cho. Bố Mị thương con nhưng tiếc nương ngô nên không biết nói thế nào. Mị xin cha cho ở nhà cuốc nương, làm ngô trả nợ thay cho bố, xin bố đừng bán Mị cho nhà giàu. Tết đến, Mị bị A Sử lừa cướp về cúng trình ma nhà thống lí. Mấy tháng đầu đêm nào Mị cũng khóc, một lần Mị trốn về nhà quỳ lạy cha với nắm lá ngón trong tay. Nhưng vì thương cha, Mị vứt nắm là ngón xuống đất quay trở lại nhà thống lí tiếp tục sống với thân phận làm dâu nhà giàu.
Cuộc sống làm dâu nhà giàu đã khiến Mị thay đổi không còn ý thức phản kháng mà hoàn toàn tê liệt, buông xuôi. Đã mấy năm trôi qua, Mị không còn tưởng đến có thể ăn lá ngón nữa. Trước đây Mị đã hái là ngón rồi về quỳ lạy cha để đi tự tử lúc ấy Mị đau khổ, bế tắc, tuyệt vọng vì thế muốn chấm dứt sự sống. Tự tử chính là hành động thể hiện tinh thần phản kháng một cách tiêu cực. Nhưng vì thương cha nên Mị từ bỏ ý định. Thế nhưng, bây giờ cha Mị đã chết, không còn điều gì ràng buộc Mị phải sống mà Mị lại không còn nghĩ đến việc tự tử nữa. Mị đã hoàn toàn tê liệt tinh thần phản kháng, chấp nhận tồn tại. Đau xót hơn nữa, Mị còn thay đổi cả cảm xúc, ý nghĩ: "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Sau một khoảng thời gian dài, Mị không còn cảm thấy đau khổ, không còn thấy cuộc sống vất vả, khổ cực nữa. Mị đã quen, đã chấp nhận cuộc sống hiện tại, không suy nghĩ. Sự đày đọa về thể xác và sự áp chế về tinh thần đã khiến Mị trở nên nhẫn nhục, buông xuôi.
[HIDE-THANKS]Sống trong nhà thống lí, Mị không còn ý thức về thân phận làm người của mình: "Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí". Mị không còn ý nghĩ mình là con người mà tưởng mình là con trâu, con ngựa - loài vật nuôi trong nhà. Sự chịu đựng, nhẫn nhục kéo dài đã khiến ý thức của Mị dường như tê liệt không còn nhận thức sâu sắc về quyền làm người của mình. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh tương đồng, đồng nhất để miêu tả sự thay đổi về ý thức làm người ở Mị khiến người đọc xót xa thương cảm cho Mị. Mị còn cho rằng là con ngựa thì chỉ "đổi từ tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác". Mị đã coi việc mình ở nhà thống lí Pá Tra là lẽ đương nhiên giống như con ngựa. Mị đã không còn đau khổ vì bị ép buộc, bị lừa về làm dâu nhà thống lí. Chấp nhận điều đó nghĩa là Mị không còn phản kháng nữa. Mị còn nghĩ mình giống như con ngựa "chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Trong ý nghĩ này của Mị lúc này, con người chỉ có hai nhu cầu ăn và làm - giống như con ngựa. Tự bản thân Mị cũng quên đi những nhu cầu cơ bản của con người như ngủ, nghỉ ngơi, đi chơi, được vui vẻ, hạnh phúc.. Ý nghĩ này còn cho thấy Mị đã không còn ý thức sâu sắc về quyền con người. Chân dung Mị khi làm dâu nhà thống lí được khắc họa đậm nét: "Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau". Làm dâu nhà giàu nhưng lúc nào Mị cũng ở tư thế "cúi mặt" : Cúi đầu xuống, mặt luôn nhìn xuống đất, không dám ngẩng lên nhìn mọi người. Hình ảnh đó cho thấy cuộc đời Mị trĩu nặng buồn đau và vị thế thấp kém của Mị trong nhà thống lí, đó không phải vị thế của con dâu mà là tôi tớ, nô lệ.
Mị không còn tự tin, không còn niềm vui sống, không nghĩ ngợi điều gì nữa. Mị chỉ nghĩ đến nhưng công việc tiếp theo nhau: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp. Sử dụng cấu trúc câu ghép đẳng lập gồm 3 câu, tác giả đã cho thấy Mị phải làm việc quanh năm, liên tục, không ngơi nghỉ. Mị bị bóc lột sức là động thậm tệ, làm dâu nhưng thực chất làm tôi tớ không công cho nhà giàu. Dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Mị có khối lượng công việc đồ sộ nên Mị phải tranh thủ làm việc bất kể lúc nào, không được nghỉ ngơi, thư giãn "Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế" nhận thức được sự bế tắc, không thể thay đổi trong suốt cuộc đời mình về công việc, về áp lực, về sự trói buộc. Cuộc đời của cô gái được gọi là con dâu nhà thống lí, rút cục lại chỉ là những công việc triền miên, kế tiếp nhau, lao động khổ sai như một con vật, thậm chí không bằng con vật. Mị còn hiểu được rằng "con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn đứng giã chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Miêu tả ý nghĩ của Mị, tác giả đã dùng biện pháp so sánh hơn kém, qua đó nhấn mạnh được kiếp làm dâu nhà giàu còn không bằng con trâu, con ngựa. Ta có thể thấy chỉ qua vài câu văn Tô Hoài không những có thể khái quát thân phận làm dâu nhà giàu mà còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thống lí ở miền núi tàn bạo, áp bức, bóc lột sức lao động, hủy diệt ý thức về quyền con người ở những người làm dâu nhà giàu.
Cuộc sống ở nhà thống lí khiến Mị càng ngày càng thay đổi nhiều hơn. Niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc trong lòng Mị giờ đây đã nguội lạnh, đã thành ra băng giá. Cô Mị dường như không còn khả năng phản ứng, sống lay lắt vật vờ như cái bóng, không tư tưởng, không linh hồn, không cảm xúc. Thái độ sống buông xuôi, phó mặc của Mị được khắc họa sâu đậm qua các chi tiết trùng lặp: "Mỗi ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị trở nên câm lặng, như một cái bóng, sống mà như không sống, chỉ là tồn tại. Cuộc sống cô đọc, lầm lũi không người sẻ chia của Mị thật xót xa tới nhường nào. Làm dâu nhà thống lí - một gia đình lắm tiền nhiều của nhất Hồng Ngài mà Mị lại sống trong cái buồng "kín mít, có một chiếc cửa sổ..". Đó là một không gian sống u tối, kín mít, lạnh lẽo, không gian sống tách biệt với cuộc sống bên ngoài, con người như bị cầm tù nơi tăm tối, tù túng, mịt mùng. Không gian sống khiến Mị không phân biệt được màu trắng ngoài kia là sương hay là nắng, nghĩa là Mị không ý thức được về thời gian trong ngày thậm chí đã "mấy năm trôi qua" rồi Mị cũng không biết. Mị hoàn toàn không biết đến sự trôi chảy của thời gian. Đó đúng là một thứ địa ngục giữa chốn trần gian ngăn cách con người với cuộc sống bên ngoài, làm con người mất hết cảm quan về thời gian và ý thức sống. Đây là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc cho cuộc sống làm dâu ở nhà giàu - cuộc sống bị cầm tù đến hết cuộc đời.
Điều quan trọng là sống ở trong căn phòng đó, Mị nghĩ: "Cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi". Hình ảnh căn buồng Mị kín mít với một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay lúc nào cũng âm u có ý nghĩa như một biểu tượng về sự giam cầm cuộc đời Mị, về một cuộc sống tinh thần bức bối, ngột ngạt, tối tăm của những thân phận nô lệ, những kiếp trâu ngựa. Mị đã hoàn toàn bất lực, hoàn toàn buông xuôi, không còn muốn đấu tranh, không phản kháng. Ý nghĩ này vô cùng não nề, tuyệt vọng, không hé ra một chút tia hi vọng nào. Việc bị tước đoạt tự do, hạnh phúc, tuổi trẻ đã khiến cô Mị trẻ đẹp ngày nào giờ thành người đàn bà cam chịu, buông xuôi, chai sạn, vô cảm.
Tìm hiểu đoạn trích trên, ta thấy đoạn trích đã khắc họa rõ nét hình ảnh Mị mất đi ý thức làm người, tê liệt cảm xúc, buông xuôi trước số phận của mình. Bên cạnh đó, đoạn trích còn khắc họa hình ảnh Mị sống kiếp trâu ngựa vất vả, cực nhọc trong cái vỏ là làm dâu nhà giàu. Tác giả đã lên án, tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã bóc lột, áp bức, đày đọa khiến con người không còn ý thức về quyền làm người và bày tỏ niềm thương xót trước số phận cô Mị.. Về nghệ thuật, Tô Hoài đã thành công trong việc sử dụng giọng văn trần thuật trầm lắng, tràn đầy thương cảm; ngôn từ, hình ảnh giàu liên tưởng, giàu sức biểu cảm; nghệ thuật khắc họa nhân vật tinh tế, có chiều sâu. Qua cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích, chúng ta hiểu vì sao "Vợ chồng A Phủ" được đánh giá: "Đây đúng là một tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho thành tựu văn xuôi của văn học cách mạng." (giáo sư Trần Đình Sử).
Cảm nhận đoạn trích, chúng ta còn thấy được giá trị hiện thực sâu sắc của nó. Giá trị hiện thực là giá trị phản ánh hiện thực một cách chân thực, rõ nét, đầy đủ của văn chương. "Vợ chồng A Phủ" nói chung và đoạn trích nói riêng đã phản ánh rõ nét chế độ phong kiến miền núi Tây Bắc trước giải phóng 1954, đó là một chế độ tàn bạo, mất nhân tính. Tác phẩm cùng đoạn trích còn phản ánh số phận của những người phải làm dâu nhà giàu: Đau khổ, bất hạnh. Tác giả đã phản ánh hiện thực bằng cái nhìn khách quan, sâu sắc, tinh tế và bằng một nghệ thuật tài hoa, độc đáo với vốn hiểu biết tỉ mỉ, tường tận. Đánh giá về giá trị to lớn đó của tác phẩm, giáo sư Phan Cự Đệ đã khẳng định: "Truyện Tây Bắc (1953) đánh dấu một bước ngoặt quyết định của Tô Hoài trong quá trình chuyền biến từ chủ nghĩa hiện thực phê phán sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa".[/HIDE-THANKS]
[COLOR=rgb(179, 0, 89) ]* Một số bài phân tích khác[/COLOR]
- Chữ người tử tù - Phân tích nhân vật Huấn Cao
- Hai đứa trẻ - Phân tích bức tranh phố huyện nghèo
- Nghị luận xã hội - Lời cảm ơn
- Người lái đò Sông Đà - Sông Đà trữ tình
- Vợ chồng A Phủ - Đêm tình mùa xuân
[COLOR=rgb(179, 0, 89) ]Chúc các em học tốt nhé ^^[/COLOR]
"Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi"
Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích sau đây. Từ đó, nhận xét về giá trị hiện thực trong đoạn trích

Bài làm:
Văn chương là một loại hình nghệ thuật giàu ý nghĩa đối với cuộc sống con người. Văn chương khiến cho con người trở nên gần gũi với nhau hơn, biết chia sẻ, đồng cảm với những thân phận bất hạnh trong đời sống. Cũng chính vì quan tâm đến con người nên văn chương còn dạy cho chúng ta biết căm phẫn trước cái ác, cái đen tối. Đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc mà văn chương có được. Trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, những tác phẩm giàu giá trị nhân đạo như: "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, "Chí Phèo" của Nam Cao, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài, "Vợ nhặt" của Kim Lân.. đã để lại cho người đọc nhiều thế hệ những suy tư trăn trở. Trong những tác phẩm trên, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài được đánh giá là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về số phận bất hạnh của Mị - một cô gái bị bắt về làm dâu nhà giàu ở miền núi Tây Bắc trước giải phóng. Đoạn trích kể về cuộc sống của Mị ở nhà thống lí Pá Tra đã khiên người đọc không khỏi động lòng thương xót. Qua đoạn trích đó, chúng ta còn cảm nhận được sâu sắc giá trị hiện thực của truyện ngắn này.
"Vợ chồng A Phủ" in trong tập "Truyện Tây Bắc" - một tập truyện kế tiếp xuất sắc những tác phẩm của Tô Hoài như "Dế Mèn phiêu lưu kí", "O chuột". "Vợ chồng A Phủ" là kết quả của chuyến công tác tám tháng của Tô Hoài lên Tây Bắc. Trở về sau chuyến công tác ấy, Tô Hoài nói: "Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá". Viết "Truyện Tây Bắc", Tô Hoài mong muốn trả món nợ ân tình với vùng đất mà ông đã từng gắn bó, vùng đất đã cho ông những hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số làm nên phong cách sáng tác của ông. "Vợ chồng A Phủ" là một truyện ngắn nhưng có dung lượng của một truyện dài gồm hai phần, trong đó phần đầu giàu giá trị hơn cả. Truyện viết về bi kịch của Mị sống kiếp làm dâu đầy tủi nhục ở nhà thống lí Pá Tra. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, nhiều người mê ngày đêm thổi sáo theo Mị. Nhà Mị nghèo, cha Mị không có tiền cưới mẹ Mị nên đã phải vay tiền của thống lí Pá Tra, mỗi năm trả lãi một nương ngô. Đến khi cả hai đã già, mẹ Mị mất món nợ vẫn còn chưa chả xong. Thống lí Pá Tra bảo bố bị cho Mị về làm dâu thì xóa nợ cho. Bố Mị thương con nhưng tiếc nương ngô nên không biết nói thế nào. Mị xin cha cho ở nhà cuốc nương, làm ngô trả nợ thay cho bố, xin bố đừng bán Mị cho nhà giàu. Tết đến, Mị bị A Sử lừa cướp về cúng trình ma nhà thống lí. Mấy tháng đầu đêm nào Mị cũng khóc, một lần Mị trốn về nhà quỳ lạy cha với nắm lá ngón trong tay. Nhưng vì thương cha, Mị vứt nắm là ngón xuống đất quay trở lại nhà thống lí tiếp tục sống với thân phận làm dâu nhà giàu.
Cuộc sống làm dâu nhà giàu đã khiến Mị thay đổi không còn ý thức phản kháng mà hoàn toàn tê liệt, buông xuôi. Đã mấy năm trôi qua, Mị không còn tưởng đến có thể ăn lá ngón nữa. Trước đây Mị đã hái là ngón rồi về quỳ lạy cha để đi tự tử lúc ấy Mị đau khổ, bế tắc, tuyệt vọng vì thế muốn chấm dứt sự sống. Tự tử chính là hành động thể hiện tinh thần phản kháng một cách tiêu cực. Nhưng vì thương cha nên Mị từ bỏ ý định. Thế nhưng, bây giờ cha Mị đã chết, không còn điều gì ràng buộc Mị phải sống mà Mị lại không còn nghĩ đến việc tự tử nữa. Mị đã hoàn toàn tê liệt tinh thần phản kháng, chấp nhận tồn tại. Đau xót hơn nữa, Mị còn thay đổi cả cảm xúc, ý nghĩ: "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Sau một khoảng thời gian dài, Mị không còn cảm thấy đau khổ, không còn thấy cuộc sống vất vả, khổ cực nữa. Mị đã quen, đã chấp nhận cuộc sống hiện tại, không suy nghĩ. Sự đày đọa về thể xác và sự áp chế về tinh thần đã khiến Mị trở nên nhẫn nhục, buông xuôi.
[HIDE-THANKS]Sống trong nhà thống lí, Mị không còn ý thức về thân phận làm người của mình: "Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí". Mị không còn ý nghĩ mình là con người mà tưởng mình là con trâu, con ngựa - loài vật nuôi trong nhà. Sự chịu đựng, nhẫn nhục kéo dài đã khiến ý thức của Mị dường như tê liệt không còn nhận thức sâu sắc về quyền làm người của mình. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh tương đồng, đồng nhất để miêu tả sự thay đổi về ý thức làm người ở Mị khiến người đọc xót xa thương cảm cho Mị. Mị còn cho rằng là con ngựa thì chỉ "đổi từ tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác". Mị đã coi việc mình ở nhà thống lí Pá Tra là lẽ đương nhiên giống như con ngựa. Mị đã không còn đau khổ vì bị ép buộc, bị lừa về làm dâu nhà thống lí. Chấp nhận điều đó nghĩa là Mị không còn phản kháng nữa. Mị còn nghĩ mình giống như con ngựa "chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Trong ý nghĩ này của Mị lúc này, con người chỉ có hai nhu cầu ăn và làm - giống như con ngựa. Tự bản thân Mị cũng quên đi những nhu cầu cơ bản của con người như ngủ, nghỉ ngơi, đi chơi, được vui vẻ, hạnh phúc.. Ý nghĩ này còn cho thấy Mị đã không còn ý thức sâu sắc về quyền con người. Chân dung Mị khi làm dâu nhà thống lí được khắc họa đậm nét: "Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau". Làm dâu nhà giàu nhưng lúc nào Mị cũng ở tư thế "cúi mặt" : Cúi đầu xuống, mặt luôn nhìn xuống đất, không dám ngẩng lên nhìn mọi người. Hình ảnh đó cho thấy cuộc đời Mị trĩu nặng buồn đau và vị thế thấp kém của Mị trong nhà thống lí, đó không phải vị thế của con dâu mà là tôi tớ, nô lệ.
Mị không còn tự tin, không còn niềm vui sống, không nghĩ ngợi điều gì nữa. Mị chỉ nghĩ đến nhưng công việc tiếp theo nhau: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp. Sử dụng cấu trúc câu ghép đẳng lập gồm 3 câu, tác giả đã cho thấy Mị phải làm việc quanh năm, liên tục, không ngơi nghỉ. Mị bị bóc lột sức là động thậm tệ, làm dâu nhưng thực chất làm tôi tớ không công cho nhà giàu. Dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Mị có khối lượng công việc đồ sộ nên Mị phải tranh thủ làm việc bất kể lúc nào, không được nghỉ ngơi, thư giãn "Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế" nhận thức được sự bế tắc, không thể thay đổi trong suốt cuộc đời mình về công việc, về áp lực, về sự trói buộc. Cuộc đời của cô gái được gọi là con dâu nhà thống lí, rút cục lại chỉ là những công việc triền miên, kế tiếp nhau, lao động khổ sai như một con vật, thậm chí không bằng con vật. Mị còn hiểu được rằng "con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn đứng giã chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Miêu tả ý nghĩ của Mị, tác giả đã dùng biện pháp so sánh hơn kém, qua đó nhấn mạnh được kiếp làm dâu nhà giàu còn không bằng con trâu, con ngựa. Ta có thể thấy chỉ qua vài câu văn Tô Hoài không những có thể khái quát thân phận làm dâu nhà giàu mà còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thống lí ở miền núi tàn bạo, áp bức, bóc lột sức lao động, hủy diệt ý thức về quyền con người ở những người làm dâu nhà giàu.
Cuộc sống ở nhà thống lí khiến Mị càng ngày càng thay đổi nhiều hơn. Niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc trong lòng Mị giờ đây đã nguội lạnh, đã thành ra băng giá. Cô Mị dường như không còn khả năng phản ứng, sống lay lắt vật vờ như cái bóng, không tư tưởng, không linh hồn, không cảm xúc. Thái độ sống buông xuôi, phó mặc của Mị được khắc họa sâu đậm qua các chi tiết trùng lặp: "Mỗi ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị trở nên câm lặng, như một cái bóng, sống mà như không sống, chỉ là tồn tại. Cuộc sống cô đọc, lầm lũi không người sẻ chia của Mị thật xót xa tới nhường nào. Làm dâu nhà thống lí - một gia đình lắm tiền nhiều của nhất Hồng Ngài mà Mị lại sống trong cái buồng "kín mít, có một chiếc cửa sổ..". Đó là một không gian sống u tối, kín mít, lạnh lẽo, không gian sống tách biệt với cuộc sống bên ngoài, con người như bị cầm tù nơi tăm tối, tù túng, mịt mùng. Không gian sống khiến Mị không phân biệt được màu trắng ngoài kia là sương hay là nắng, nghĩa là Mị không ý thức được về thời gian trong ngày thậm chí đã "mấy năm trôi qua" rồi Mị cũng không biết. Mị hoàn toàn không biết đến sự trôi chảy của thời gian. Đó đúng là một thứ địa ngục giữa chốn trần gian ngăn cách con người với cuộc sống bên ngoài, làm con người mất hết cảm quan về thời gian và ý thức sống. Đây là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc cho cuộc sống làm dâu ở nhà giàu - cuộc sống bị cầm tù đến hết cuộc đời.
Điều quan trọng là sống ở trong căn phòng đó, Mị nghĩ: "Cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi". Hình ảnh căn buồng Mị kín mít với một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay lúc nào cũng âm u có ý nghĩa như một biểu tượng về sự giam cầm cuộc đời Mị, về một cuộc sống tinh thần bức bối, ngột ngạt, tối tăm của những thân phận nô lệ, những kiếp trâu ngựa. Mị đã hoàn toàn bất lực, hoàn toàn buông xuôi, không còn muốn đấu tranh, không phản kháng. Ý nghĩ này vô cùng não nề, tuyệt vọng, không hé ra một chút tia hi vọng nào. Việc bị tước đoạt tự do, hạnh phúc, tuổi trẻ đã khiến cô Mị trẻ đẹp ngày nào giờ thành người đàn bà cam chịu, buông xuôi, chai sạn, vô cảm.
Tìm hiểu đoạn trích trên, ta thấy đoạn trích đã khắc họa rõ nét hình ảnh Mị mất đi ý thức làm người, tê liệt cảm xúc, buông xuôi trước số phận của mình. Bên cạnh đó, đoạn trích còn khắc họa hình ảnh Mị sống kiếp trâu ngựa vất vả, cực nhọc trong cái vỏ là làm dâu nhà giàu. Tác giả đã lên án, tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã bóc lột, áp bức, đày đọa khiến con người không còn ý thức về quyền làm người và bày tỏ niềm thương xót trước số phận cô Mị.. Về nghệ thuật, Tô Hoài đã thành công trong việc sử dụng giọng văn trần thuật trầm lắng, tràn đầy thương cảm; ngôn từ, hình ảnh giàu liên tưởng, giàu sức biểu cảm; nghệ thuật khắc họa nhân vật tinh tế, có chiều sâu. Qua cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích, chúng ta hiểu vì sao "Vợ chồng A Phủ" được đánh giá: "Đây đúng là một tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho thành tựu văn xuôi của văn học cách mạng." (giáo sư Trần Đình Sử).
Cảm nhận đoạn trích, chúng ta còn thấy được giá trị hiện thực sâu sắc của nó. Giá trị hiện thực là giá trị phản ánh hiện thực một cách chân thực, rõ nét, đầy đủ của văn chương. "Vợ chồng A Phủ" nói chung và đoạn trích nói riêng đã phản ánh rõ nét chế độ phong kiến miền núi Tây Bắc trước giải phóng 1954, đó là một chế độ tàn bạo, mất nhân tính. Tác phẩm cùng đoạn trích còn phản ánh số phận của những người phải làm dâu nhà giàu: Đau khổ, bất hạnh. Tác giả đã phản ánh hiện thực bằng cái nhìn khách quan, sâu sắc, tinh tế và bằng một nghệ thuật tài hoa, độc đáo với vốn hiểu biết tỉ mỉ, tường tận. Đánh giá về giá trị to lớn đó của tác phẩm, giáo sư Phan Cự Đệ đã khẳng định: "Truyện Tây Bắc (1953) đánh dấu một bước ngoặt quyết định của Tô Hoài trong quá trình chuyền biến từ chủ nghĩa hiện thực phê phán sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa".[/HIDE-THANKS]
[COLOR=rgb(179, 0, 89) ]* Một số bài phân tích khác[/COLOR]
- Chữ người tử tù - Phân tích nhân vật Huấn Cao
- Hai đứa trẻ - Phân tích bức tranh phố huyện nghèo
- Nghị luận xã hội - Lời cảm ơn
- Người lái đò Sông Đà - Sông Đà trữ tình
- Vợ chồng A Phủ - Đêm tình mùa xuân
[COLOR=rgb(179, 0, 89) ]Chúc các em học tốt nhé ^^[/COLOR]