Nguyễn Trãi không chỉ là nhà văn hóa vĩ đại mà còn là nhà thơ tài năng của dân tộc. Ông đã được UNESCO tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới nhờ những đóng góp xuất sắc. Bộ 'Quốc âm thi tập' sáng tác bằng chữ Nôm của ông đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của thơ ca tiếng Việt, trong đó có tác phẩm nổi bật 'Ngôn chí' (bài 10) là một giai phẩm. Đây là một tác phẩm có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện nhân cách và tư tưởng tốt đẹp của nhà thơ Nguyễn Trãi. "Ngôn chí bài 10" cũng như bao tác phẩm khác trong tập "Quốc âm thi tập", được sáng tác sau khi Nguyễn Trãi hoàn thành sự nghiệp Bình Ngô, trở về sống ở Côn Sơn. Với thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú Đường luật, bài thơ đã cho thấy cuộc sống chốn quê nhà và vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Trãi. Mở đầu bài thơ là hoàn cảnh và quan niệm sống của Nguyễn Trãi: "Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy Có thân chớ phải lợi danh vây" "Cảnh chùa chiền" được nhắc đến là cảnh tĩnh lặng, trong sạch, linh thiêng, thoát tục, không vướng bụi trần. Lựa chọn từ quan lui về quê nhà, lánh xa phàm tục, thị phị của Nguyễn Trãi cũng là lựa chọn của các bậc hiền nhân như Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Khuyến sau này. Chọn về nhàn để di dưỡng tinh thần, để giữ gìn nhân cách, tìm được cõi an yên cho tâm hồn. "Thầy" là người tu hành. Lòng người nhẹ nhàng, trong sạch cũng như bậc chân tu. Dường như tấm lòng con người đã được khung cảnh thiên nhiên gột rửa để quên đi những lo toan, tính toán, những nỗi buồn, chỉ còn lại sự thư thái, thanh thản, thảnh thơi. Câu thơ đầu có sự kết hợp giữa cảnh thiên nhiên và con người hòa hợp trong trạng thái yên tĩnh, trong sạch, tránh xa những ồn ào của cuộc sống bên ngoài. Câu thơ thứ hai như một lời chiêm nghiệm của nhà thơ. Người quân tử phải coi thường danh lợi, tránh xa sự cám dỗ của vật chất tầm thường, không bị vây hãm, chi phối bởi tiền tài, địa vị. Người quân tử cần có đạo đức, có nhân cách, tuyệt đối không để bản thân bị lệ thuộc vào danh vị. Chỉ có như thế con người mới giữ vững được đạo đức nhân cách và sự thoải mái trong tâm hồn. Điều này cho thấy trí tuệ tỉnh táo, coi thường những danh lợi tầm thường của NT và ta cũng bắt gặp điều này trong bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm "Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao". Hai câu thơ tiếp theo không chỉ diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện được vẻ đẹp của cuộc sống: "Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén Ngày vắng xem hoa bơ cây" Những câu thơ lục ngôn với hình ảnh thiên nhiên thơ mộng đã làm nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống chốn quê nhà. Ngoài ra, biện pháp đối (đêm thanh – ngày vắng) cùng phép liệt kê (đêm, ngày, hoa, nguyệt) cũng được thi nhân sử dụng trong hai câu thơ này. Nhân vật trữ tình hiện lên với những thú vui thanh cao, tao nhã chốn quê nhà: Uống rượu, thưởng trăng, ngắm hoa, chăm cây, vui đùa với chim với cá. Thời gian được nhắc đến qua hai thời điểm "đêm", "ngày", vậy là lúc nào, dù đêm hay ngày Nguyễn Trãi cũng có những niềm vui riêng. Hai câu thực viết bằng thể thơ sáu chữ, ngắt nhịp 2/2/2 tạo giọng điệu khoan thai, nhịp nhàng, kết hợp với phép đối "đêm thanh" – "ngày vắng", "nguyệt" – "hoa", "nghiêng chén" – "bợ cây".. vừa tạo nên bức tranh thôn quê đẹp, yên bình, vừa tạo ấn tượng về niềm vui say của Nguyễn Trãi với cảnh đẹp đất trời. Hai câu thơ không chỉ miêu tả khung cảnh thiên nhiên đẹp thơ mộng, trữ tình mà đó còn là cuộc sống thanh bình của NT khi hưởng thụ thú thanh nhàn. "Hớp nguyệt nghiêng chén" là hình ảnh người uống rượu dưới trăng, trăng và rượu là người bạn tri kỉ của thi nhân. Điều này đã thể hiện sự thư thái của thi nhân khi nhìn ngắm, đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên. Qua đó, ta có thể thấy sự trân trọng, nâng niu, muốn tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của đêm trăng của tác giả: Khi uống rượu thì nghiêng chén để ánh trăng soi vào, như vậy sẽ được uống cả ánh trăng – vẻ đẹp tinh túy vĩnh hằng của thiên nhiên. Và điều đó đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, giao cảm và bầu bạn với thiên nhiên của Nguyễn Trãi. Hai câu luận trong bài thơ đã thể hiện được vẻ đẹp về sức sống của vạn vật: "Cây rợp chồi cành chim kết tổ Áo quang mấu âu cá nên bầy" Cây thì đâm chồi nảy lộc, tươi tốt, xum xuê, chim ríu rít kết tổ trên cành, đầm ao trong xanh, cá vui bầy bên mầm ấu. Hình ảnh "ao quang", "mấu ấu" là không gian thuận lợi cho vạn vật sinh sôi, nảy nở, phát triển. Nhà thơ đã đưa vào bức tranh của mình những hình ảnh vô cùng quen thuộc, gần gũi nhưng lại không đi theo khuôn sáo, lối mòn nào. Hình ảnh câu thơ trên, câu thơ dưới nhịp nhàng trong phép đối như phụ họa cho nhau tạo nên bức tranh thôn quê nhiều tầng bậc, có cây cối, chim chóc trên cao và cá lội từng đàn dưới nước. Cảnh động chứ không tĩnh, đó là hình ảnh của cuộc sống đấy sinh động chốn quê nhà. Đây là nơi đất lành chim đậu, đem đến niềm vui không chỉ cho thiên nhiên mà còn cho cả con người. Phải chăng, điều này muốn diễn tả niềm vui, niềm lạc quan của thi nhân vào cuộc sống ấm no, yên bình? Kết lại bài thơ là thái độ sống tích cực của thi nhân: "Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế Năng một ông này đẹp thú này." Hai câu kết cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi: Nội dung HOT bị ẩn: Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem Bài thơ "Ngôn chí 10" đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, vẻ đẹp nhân cách đạo đức của Nguyễn Trãi với phẩm chất của người quân tử xa lánh sự cám dỗ của danh lợi và hết mực coi trọng cốt cách nhân phẩm. Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh thiên nhiên và nghệ thuật đối sử dụng khá độc đáo thể hiện cái tôi sáng tác của tác giả. Những vần thơ đẹp đó cho mỗi độc giả chúng ta thấy được Nguyễn Trãi là một vị thi nhân với tình yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu quê hương đất nước qua những hình ảnh giản dị mà ấm áp. Ông là tấm gương cho biết bao thế hệ về tấm lòng nhân hậu, thanh cao, không ham danh lợi.