Nguyễn Trãi không chỉ là nhà văn hóa lớn mà còn là nhà thơ đại tài của dân tộc. Ông đã được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới bởi những đóng góp to lớn của mình. Tập "Quốc âm thi tập" do ông sáng tác bằng chữ Nôm đã đánh dấu sự hình thành cho thơ ca Tiếng Việt, một trong số đó là "Ngôn Chí" (bài 3). Đây là tác phẩm có ý nghĩ quan trọng, thể hiện được nhân cách, tư tưởng cao cả, tốt đẹp của nhà thơ Nguyễn Trãi. Ngôn Chí là chùm thơ gồm 21 bài trong "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi. Ở đây nhan đề Ngôn Chí không giới hạn "nói chí" trong phạm vi hẹp (ý chí, chí khí, chí nam nhi) mà hàm chứa chí lẫn tình nhà thơ. Bài thơ được sáng tác khi tác giả về ở ẩn tại Côn Sơn. Trước hết, nổi bật trong văn bản là vẻ đpej của bức tranh thiên nhiên. Các hình ảnh gắn liền với thiên nhiên có thể kể đến trong tác phẩm là "am trúc hiên mai", "nước", "ao", "nguyệt", "đât cày", "hoa", "đêm tuyết". Ở hai câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được không gian sống yên bình, thanh tĩnh qua hìn ảnh mái hiên và cây mai. Từ "yên hà" ngoài việc chỉ nơi ở yên tĩnh còn diễn tả vẻ đẹp của bầu trời lúc bình minh hoặc hoàng hôn. Khói sương, khói sóng ngập tràn khắp đất trời, hòa cùng với ánh rực rỡ của bầu trời khi ngày mới sang hay lúc chiều tà. Dường như, nơi ở của nhà thơ tách biệt hoàn toàn với sự ồn ào, xô bồ của thế giới náo nhiệt bên ngoài. Ở dó chỉ có thi nhân cùng vẻ đẹp ngây ngất của trời đất. Ở những câu thơ tiếp theo, thiên nhiên trong cảm nhận của nhân vật chữ tình thật nên thơ. Trong thơ ca cổ, ánh trăng không chỉ là ánh sáng tự nhiên xua tan đêm tối mà còn là nguồn cảm hứng vô tận để lòng người bật ra ý thơ. Câu thơ "nước dưỡng cho thanh, trì hưởng nguyệt" vùa diễn tả được độ trong của nước ao, vừa khắc họa được sự huyễn hoặc, lung linh của ánh trăng. Vào đêm thanh vắng, bóng trăng in xuống mặt nước trong xanh. Bức tranh thiên nhiên ấy còn hiện lên 1 cách sinh động và chân thực với hình ảnh của "đất" và "hoa" ở dòng "đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa". Đất đã được cày quốc vun xới kĩ càng nên rất khô, tơi và bở. Đây là môi trường sống thuận lợi của cỏ cây. Từ "ương" được hiểu là ấp ủ, làm cho một vật gì đó sinh sôi, nảy nở. Như vậy, đất ươm mầm những loài hoa, giúp hoa tỏa hương thơm ngát. Dòng thơ gợi ra sự tốt tươi, trù phú của vạn vật. Thiên nhiên hiện lên đầy sức sống, vừa yên bình, vừa thơ mộng, trữ tình trong đôi mắt của một con người tràn ngập tình yêu dành cho tự nhiên. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên, ta còn thấy được tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trước cuộc sống hiện tại, chủ thể trữ tình bày tỏ sự hài lòng, mãn nguyện: "Am trúc hiên mai ngày tháng qua Thị phi nào đến cõi yên hà" Cụm từ "ngày tháng qua" gợi ra sự chảy trôi của thời gian. Thời gian đi qua một cách êm đềm từ ngày này qua tháng nọ cũng như cuộc sống an yên của nhân vật trữ tình. Lui về ở ẩn, những đàm tiếu, dị nghị của thiên hạ không thể đến được chỗ ở của thi nhân "thị phi nào đến cõi yên hà". Nhân vật trữ tình sống ở chốn thanh tĩnh cách xa cuộc sống xô bồ, bỏ lại bên ngoài những thị phi, đúng sai, phải trái của người đời. Dường như, chủ thể trữ tình đã đạt đến sự tự do, tự tại trong tâm hồn. Đến câu 3, 4 ta thấy thể thơ đã có sự thay đổi khi câu lục xen giữ câu thất. Tác giả bày tỏ sự hài lòng với cuộc sống hiện tại: "Cơm ăn dầu có dưa muối Áo mặc nài chi gấm là" Vải gấm là một loại vải có nguồn gốc từ thiên nhiên, được dệt từ sợi tơ tằm. Đây được coi là loại vải thượng hạng vì có họa tiết cầu kỳ, bắt mắt cũng như đem đến cho người mặc cảm giác mềm mịn, mượt mà. Bởi lẽ đó, gấm chỉ dành cho các vị vua chúa, quan lại thuở xưa. Từ bỏ quan trường để lui về ở ẩn, nhân vật trữ tình không cần đến áo gấm lụa là, cơm ăn dù chỉ có dưa muối nhưng vẫn cảm thấy vui vẻ, mãn nguyện. Đó là cốt cách của một con người đường hoàng, cao cả, không màng vinh hoa, phú quý. "Nước dưỡng cho thanh, trì hưởng nguyệt Đất cày ngõ ải, lảnh ương hoa" Câu thơ "nước dưỡng cho thanh, trì hưởng nguyệt" mang vẻ đẹp chữ tình, thơ mộng của thiên nhiên nhưng cũng chất chứa suy nghĩ tâm tư của tác giả. Đây là một lối nói ẩn dụ của nhà thơ. Nước giữ gìn sụ thanh khiết để thưởng thức anh trăng, cũng như con người phải giữ gìn, nuôi dưỡng sự niêm khiết để đón nhận những điều tốt đẹp. Cuộc sống hằng ngày diễn ra trong êm đềm, thông thả không còn là một cij quan oai phong, lẫm liệt mà trở về sống như người nông dân ngày ngày cuốc đất trồng trọt. Đó là cộc sống hết sức bình dị, thảnh thơi. Trong hai câu thơ cuối cùng, dường như cảm xúc đã đạt đến sự thăng hoa, hưng phấn. Cảm hứng cỉa thi nhân được khơi dậy vào một đêm tuyết rơi: "Trong khi hứng đọng vừa đem tuyết, Ngâm được câu thần dặng dặng ca." "Câu thần" nghĩa là câu thơ hay. Cảm xúc tràn đầy lại ngẫm nghĩ được câu thơ hay khiến nhân vật trữ tình không thể kiềm được mà cất tiếng ngâm ca. Như vậy, với câu lục xen lẫn câu thất cùng hình ảnh thơ ước lệ, giản dị, gần guic và ngôn ngứ mộc mạc, mang giọng điệu của lời ăn tiếng nói hằng ngày. Nhà thơ đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên và sự hài lòng, thảnh thơi khi cáo quan về ở ẩn. Bài thơ đã tô đậm vẻ đẹp tư tưởng, tâm hồn của tác giả Nguyễn Trãi. Đó là 1 con người vĩ đại với nhân cách cao cả, lớn lao. Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Trãi lại được các bậc anh minh trọng dụng và hậu thế ngàn đời coi trọng tôn vinh. "Ngôn Chí" (bài 3) nói riêng và các sáng tác của ông đã cho thấy tư tưởng vượt thời đại, luôm gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước và con người. Bởi vậy, các tác phẩm của ông luôn sống mãi ttong lòng của người dân Việt Nam.