Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn, cô đọng, gây ấn tượng sâu sắc. Kết cấu tác phẩm mạch lạc, chặt chẽ, chứng cứ cụ thể, xác thực;lập luận sắc bén, giàu tính thuyết phục. Ngôn ngữu tác phẩm chính xác, gợi cảm, tác động mạnh mẽ vào tình cảm, nhận thức của người nghe, người đọc. Một tác phẩm chạm đến triệu triệu trái tim người đọc thể hiện tinh thần yêu nước của dân tộc. Hãy cùng Thư viện ngôn từ phân tích tác phẩm này nhé! TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH Theo chiều dài bốn ngàn năm lịch sử dân tộc có nhiều dấu mốc đáng nhớ gắn liền với sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm. Một trong những mốc lịch sử quan trọng ấy là sự kiện lịch sử Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, khai sinh ra nước VNDCCH. Để tuyên bố với nhân dân cả nước và thế giới biết Việt Nam từ nay độc lập. Hồ Chí Minh đã viết nên "Tuyên ngôn độc lập". Một văn kiện vừa mang tính lịch sử và cũng vừa mang tính văn học. Hồ Chí Minh – vị cha già của dân tộc, người là vị lãnh tụ tài ba, vĩ đại, danh nhân thế giới. Người sinh ra ở Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong một gia đình nhà nho nghèo. Hồ Chí Minh là nhà yêu nước nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc. Cùng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người còn để lại hậu thế một sự nghiệp văn học đồ sộ. Người coi văn học là một vũ khí chiến đấu lợi hại, phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Người luôn coi trọng tính chân thực và tính dân tộc của văn học. Khi cầm bút, Người luôn chú ý đến mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm. Vì lẽ đó những tác phẩm của Người, chẳng những có tư tưởng sâu sắc, nội dung thiết thực mà còn có hình thức nghệ thuật sống động, đa dạng. Các tác phẩm của Người đều lớn lao về tầm vóc, tư tưởng; phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách nghệ thuật. Ở văn chính luận, từng câu từng chữ đều ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến đã được kết hợp nhuần nhuyễn mạch luận lý với mạch cảm xúc cùng giọng điệu đầy uyển chuyển. Điều đó đã được thể hiện rõ nét trong bản "Tuyên ngôn độc lập". Tác phẩm được ra đời lúc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Trong nước, cả nước giành chính quyền thắng lợi. Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh về tới Hà Nội. Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Bác soạn thảo "tuyên ngôn độc lập" tại tầng 2, căn nhà số 48, phố Hàng ngang, Hà Nội. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hàng vạn đồng bào, Người ta đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam. Đây là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn. Nó không chỉ tuyên bố xóa khỏi chế độ thực dân phong kiến mà còn đánh dấu kỷ nguyên độc lập tự do của nước Việt Nam. Tuyên ngôn không chỉ tuyên bố độc lập tự do chủ quyền của một đất nước mà còn hướng tới nhân dân toàn thế giới với lập luận chặt chẽ, lý lẽ đánh thép, ngôn ngữ hùng hồn. Tác phẩm không chỉ vừa tố cáo tội ác của thực dân Pháp mà còn bộc lộ tình cảm yêu nước thương dân khát vọng độc lập tự do. Bản tuyên ngôn như hồi chuông vang lên đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, 5 năm cướp bóc giày xéo của phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến. Trước quốc dân, đồng bào cả nước và còn cả thế giới, Người đã đọc bản Tuyên ngôn và đã mở đầu bằng việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của hai cường quốc Pháp và Mỹ. Đó là tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 "tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được trong những quyền ấy có quyền được sống quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đó là tuyên ngôn của Pháp về nhân quyền và dân quyền năm 1791 "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Mỹ và Pháp đều là những quốc gia lớn có nền độc lập đã được cả thế giới công nhận với việc đưa ra bản tuyên ngôn của hai nước, tác giả đã tạo ra một tiền đề vững chắc cho dân tộc Việt Nam, là cơ sở lý luận bởi đó là "những lý lẽ không phải ai chối cãi được". Nó là một lời khẳng định hùng hồn đanh thép, vừa tràn đầy tự hào vừa mạnh mẽ lòng quyết tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi quyền độc lập của dân tộc Việt Nam là một lẽ phải, một chân lý khách quan đã được thừa nhận. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nghệ thuật "gậy ông đập lưng ông" khá sắc sảo và khéo léo. Đây là cách lấy lý lẽ của dân tộc họ để ràng buộc họ. Những dân tộc đã từng giương cao lá cờ "tự do, bình đẳng, bác ái" vậy mà những dân tộc ấy lại đi ngược lại những điều mà họ đã đề ra. Bằng việc làm này, Bác muốn cảnh tỉnh ý đồ xâm chiếm nước ta của đế quốc thực dân, đánh thức một bài học về chủ quyền về độc lập dân tộc của mỗi quốc gia trên thế giới. Bác vô cùng tinh tế khi đặt ngang hàng của cách mạng và giá trị bản tuyên ngôn của nước ta với hai cường quốc như một sự ngầm khẳng định cách mạng Việt Nam ngang hàng cách mạng Pháp, Mỹ, quyền bình đẳng của Việt Nam ngang hàng với Pháp, Mỹ. Đồng thời đã thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Câu "tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng" và bác "suy rộng ra" có nghĩa là: Tất cả mọi người sinh ra trên trái đất đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người đã nâng vấn đề nhân quyền, dân quyền lên tầm vóc cao hơn, rộng hơn. Đó không là quyền cá nhân mà là quyền dân tộc. Với cách dẫn dắt tài tình, Người đã khẳng định được chủ quyền dân tộc và qua đó đã thể hiện được vẻ đẹp văn chương chính luận. Để tăng sức thuyết phục cho tiền tệ lý luận ở trên tác giả đã đưa ra một loạt dẫn chứng và lý lẽ cụ thể, xác thực để tố cáo tội ác của kẻ thù đồng thời khẳng định quyền độc lập tất yếu của dân tộc Việt Nam. Qua bản Tuyên ngôn, người đọc nhận ra bản cáo trạng hùng hồn đanh thép ghi lại tội ác của kẻ thù. Người vạch trần bản chất công cuộc "khai hóa" của thực dân Pháp với những chứng cứ xác thực. Về chính trị, chúng tước sự tự do, dân chủ. Chúng thi hành luật pháp dã man. Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học và tắm các cuộc khởi nghĩa trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận khi thi hành những chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cần làm nòi giống ta suy nhược. Về kinh tế, chúng bóc lột và cướp không ruộng đất khiến dân nghèo nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý. Chúng đè nén các nhà tư sản và bóc lột công nhân. Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả đã lột tả được tội ác chồng chất của kẻ thù. Bên cạnh đó, cách sử dụng điệp từ "chúng" trong ý nghĩa của mỗi câu văn ta tạo ra được sắc thái biểu cảm mạnh mẽ đối với người đọc. Ở đó, người ta nhận ra lòng căm thù ngút trời của dân ta với kẻ thù. Mỗi một lời kể tội là một lời căm phẫn ; mỗi câu văn lại rất chú ý chí quyết tâm diệt thù mạnh mẽ. Có lẽ đối với tội ác chồng chất như thế thì chiêu bài "khai hóa bảo hộ" của người Pháp cùng với lá cờ tự do bình đẳng bác ái đã bị lật tẩy. Tác giả đã đưa ra một loạt bằng chứng xác đáng của pháp khi đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Đó là mùa thu năm 1940, Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật" vì lẽ đó mà "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói". Đó là năm 1945, Nhật tước khí giới, Pháp "bỏ chạy", "đầu hàng". Với dẫn chứng và lý lẽ cụ thể như vậy, người Pháp không thể chối cãi được hành động xâm lược Việt Nam. Với nghệ thuật điệp cấu trúc "chúng" đã nhấn mạnh tội ác không thể tha thứ của Pháp. Nhân dân ta đã giành được chính quyền từ tay Nhật chứ không phải Pháp. Bản Tuyên ngôn còn ca ngợi cuộc đấu tranh chính nghĩa và tinh thần nhân đạo của dân tộc ta. Tác giả đưa ra câu văn lập luận "Sự thật là" lặp lại hai lần. Chiến thắng của dân tộc ta là một tất yếu lịch sử một chân lý không thể chối cãi được. Chỉ một câu văn ngắn "Pháp chạy Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị" cùng một lúc nhân dân ta đã phá tan được ba xiềng xích trói buộc của thực dân, Phát xít, phong kiến -một sự thất bại tất yếu. Những lời lẽ của người trong bản Tuyên ngôn không chỉ lật tẩy tội ác của kẻ thù mà khẳng định được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chưa bao giờ hai tiếng "nhân dân" được vang lên một cách tự hào và kiêu hãnh như thế. Chữ "dân" được lặp lại nhiều lần. Chính quyền về tay nhân dân, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Những chữ "Việt Nam độc lập", "dân chủ", "cộng hòa" thể hiện sự tôn vinh kiêu hãnh của một quốc gia độc lập. Một bước ngoặt của lịch sử được mở ra. Tuyên bố với thế giới về việc thành lập của một đất nước mới nhưng đã phải chịu nhiều đau thương, tác giả đã rất đanh thép và triệt để khi dùng những cụm từ "thoát ly hẳn", "xóa bỏ hết", "xóa bỏ tất cả" để nhấn mạnh sự phủ định tuyệt đối mọi lệ thuộc, để đất nước này đứng lên trong tự do hoàn toàn xây dựng một cuộc đời mới. Ấy thế mà vẫn còn bao nhiêu thế lực thù trong giặc ngoài lúc bấy giờ đang lăm le bóp chết sự sống mới hình thành của nước Việt Nam non trẻ. Hiểu được điều đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nêu lên là tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt nhất "Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Đó chính là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hy sinh tất cả để giữ lấy độc lập tự do. Cụm từ "tự do và độc lập" được lặp lại ba lần như khắc sâu vào tâm trí muôn triệu người dân Việt Nam, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng kèn xung trận hào hùng. Là tuyên bố như một lời thề sắt đá và thiêng liêng vừa khích lệ nhân dân ta vừa cảnh cáo kẻ thù. Tác phẩm với lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn, vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của Pháp cũng như các thế lực thù địch vừa bộc lộ tình cảm yêu nước thương dân và khát vọng độc lập tự do cháy bỏng của tác giả và toàn dân tộc. Giọng điệu khi nồng nàn, tha thiết ;khi xót xa, thương cảm; khi hừng hực căm thù ;khi hào sảng khích lệ. Tất cả đã tạo nên một áng văn vào thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Mặc dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng "Tuyên ngôn độc lập" vẫn là một áng văn kiện lịch sử có giá trị to lớn đồng thời là một tác phẩm chính luận xuất sắc, mẫu mực. Cũng giống như "Bình Ngô đại cáo", "Tuyên ngôn độc lập" đã gióng lên hồi trống thiêng liêng, tự hào là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Tác phẩm xứng đáng là một văn kiện lịch sử vô giá. Từ "Tuyên ngôn độc lập" ta thấy ngời sáng tư thế vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh. Hy vọng bài viết trên của Thư viện ngôn từ đã cung cấp cho bạn kiến thức hữu ích. Trân trọng cảm ơn bạn đọc đã quan tâm theo dõi!