1 người đang xem
3803 10
Phân tích, cảm nhận bài thơ Nam Quốc Sơn Hà

Dàn Ý

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, bài thơ


- Lòng yêu nước, chủ quyền dân tộc luôn là cảm xúc dạt dào xuyên suốt dòng chảy văn học Việt Nam từ hàng ngàn năm nay.

- Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học.

- Bài thơ tương truyền do Lý Thường Kiệt sáng tác được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, khẳng định ý chí và quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ông cha ta..

53395251146_678a9dde4e_o.jpg


2. Thân bài

*Giới thiệu chung

- Hoàn cảnh sáng tác:

+Bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống của dân tộc ta vào năm 1077. Khi đó, quân Tống xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh giặc trên sông Như Nguyệt.

+Một đêm, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát, tiếng đọc bài thơ này vang lên như sấm. Vì thế người ta còn gọi bài thơ này là thơ thần..

+Bài thơ "Sông núi nước Nam" có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc..

*Phân tích chi tiết

- Câu khai: Khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở lãnh thổ và chủ quyền

+Cách dùng từng chữ đã thể hiện rất đắt ý tưởng và cảm xúc thơ.

+Hai từ Nam quốcNam đế được coi là nhãn tự của câu thơ và của cả bài thơ, giúp lời thơ trở thành lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc ta..

+ Chữ "đế" vang lên đầy hào sảng, tự hào, kiêu hãnh về dân tộc độc lập, chủ quyền của dân tộc.

=>Sông núi của nước Nam là do người dân nước Nam ở.

- Câu thừa: Phân định núi sông, bờ cõi của dân tộc không chỉ được minh chứng bằng lý lẽ thực tiễn mà đã được quy định ở sách trời.

+Dựa vào sách trời để khẳng định chủ quyền của đất nước rất phù hợp niềm tin của con người ngày xưa..

+ Hai chữ "tiệt nhiên" được thốt lên chắc nịch, mạnh mẽ, đanh thép..

=> Câu thơ mang màu sắc thần linh khiến cho chân lí về độc lập, chủ quyền thêm phần thiêng liêng và có giá trị hơn.

- Câu chuyển: Tác giả đã vạch trần tính chất phi nghĩa của bọn xâm lược

+Hình thức câu hỏi mạnh mẽ, dứt khoát đi kèm với đó là những từ ngữ mang ý nghĩa kinh miệt "nghịch lỗ", nghĩa là quân mọi rợ, kẻ xâm lược

+ Câu thơ đã thể hiện rõ thái độ giận dữ, uất hận của tác giả đối với kẻ thù ngang tàng đi ngược lại chân lí, phạm phải ý trời.

- Câu kết: Ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ xâm lược

+Câu thơ vừa có tính chất khẳng định, vừa như là lời răn đe, cảnh báo trước hành động xâm lược của chúng.

=> thể hiện sự tự tin vào sức mạnh của dân tộc ta, thể hiện niềm tin vào chiến thắng tất yếu của phe chính nghĩa.

3. Kết bài: Khẳng định giá trị bài thơ

53395568389_15e4018078_o.png


Bài làm chi tiết

(Đề bài viết Tập làm văn, môn ngữ văn, phần NLVH, Phân tích, Cảm nhận TPVH)


Lòng yêu nước, chủ quyền dân tộc luôn là cảm xúc dạt dào xuyên suốt dòng chảy văn học Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học. Bài thơ tương truyền do Lý Thường Kiệt sáng tác được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, khẳng định ý chí và quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ông cha ta trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.

Nói về sự ra đời của bài thơ, có rất nhiều ghi chép khác nhau, nhưng chúng đều có điểm chung đó là bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống của dân tộc ta vào năm 1077. Khi đó, quân Tống xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh giặc trên sông Như Nguyệt. Một đêm, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát, tiếng đọc bài thơ này vang lên như sấm. Vì thế người ta còn gọi bài thơ này là thơ thần. Sự ra đời của bài thơ gắn với niềm tin tâm linh khiến cho bài thơ không chỉ hào hùng mà còn thiêng liêng.

Bài thơ Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam) có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, mang hai nội dung lớn: Khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất nước và nêu cao ý chí bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược.

Ở lời thơ đầu tiên, tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở lãnh thổ và chủ quyền:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

(Sông núi nước nam vua Nam ở)


Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư . Đặc biệt, cách dùng từng chữ đã thể hiện rất đắt ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốcNam đế được coi là nhãn tự của câu thơ và của cả bài thơ, giúp lời thơ trở thành lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc ta. Nước ta là một nước độc lập, có lãnh thổ, chủ quyền riêng không chịu phụ thuộc bởi bất cứ thế lực nào; và vua ta cũng là những bậc đế vương anh minh, tài giỏi không thua kém vua bất cứ nước các khác.

Bởi trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay, chỉ có hoàng đế Trung Quốc là hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Nên ba tiếng "Nam đế cư" không chỉ có nghĩa là hoàng đế nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa. Chỉ bằng cách gọi tên ấy, tác giả đã đưa nước Nam sánh ngang hàng với vua của Trung Quốc; không hề thua kém gì, hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào vua của Trung Quốc. Chữ "đế" vang lên đầy hào sảng, tự hào, kiêu hãnh về dân tộc độc lập, chủ quyền của dân tộc.

Sông núi của nước Nam là do người dân nước Nam ở. Chân lý này đã được đánh đổi bằng bao mồ hôi, xương máu, nước mắt và cả sự hi sinh của cha ông ta. Chính vì thế Nam quốc là mảnh đất thiêng liêng, anh hùng mà không một ai được phép xâm phạm tới. Đó là sự thật hiển nhiên. Mặt khác phân định núi sông, bờ cõi của dân tộc không chỉ được minh chứng bằng lý lẽ thực tiễn mà đã được quy định ở sách trời:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

(Vằng vặc sách trời chia xứ sở)


Dựa vào sách trời để khẳng định chủ quyền của đất nước rất phù hợp với tâm lý, niềm tin của con người ngày xưa (tin vào số phận, mệnh trời) bởi vậy càng có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. Bởi đây ranh giới lãnh thổ, độc lập, chủ quyền đâu phải là ý muốn chủ quan của một số người mà do "Trời" định đoạt. Hai chữ "tiệt nhiên" được thốt lên chắc nịch, mạnh mẽ, đanh thép mà không ai có thể lên tiếng phản bác.

Bởi thế, kẻ nào dám chống đối với "sách trời", dám có ý đồ đặt gót chân dơ bẩn vào bờ cõi nước Nam cũng có nghĩa là đang đi ngược lại ý trời, kẻ đó ắt sẽ bị trừng phạt thích đáng. Câu thơ mang màu sắc thần linh khiến cho chân lí về độc lập, chủ quyền thêm phần thiêng liêng và có giá trị hơn.

Sau lời khẳng định hùng hồn về độc lập, chủ quyền dân tộc, tác giả đã đưa ra lời cảnh cáo đanh thép đối với kẻ thù ở 2 câu cuối:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

(Giặc dữ cớ sao phạm đến đây)


Để vạch trần tính chất phi nghĩa của bọn xâm lược, tác giả đã đưa ra câu hỏi mạnh mẽ, dứt khoát hướng tới bọn giặc xâm lược. Đi kèm với đó là những từ ngữ mang ý nghĩa kinh miệt "nghịch lỗ", nghĩa là quân mọi rợ, kẻ xâm lược dám làm trái lại với ý trời.

Coi chúng là "nghịch lỗ" nghĩa là tác giả đã phân định rõ rệt tính chất chính nghĩa và phi nghĩa của cuộc chiến. Câu thơ đã thể hiện rõ thái độ giận dữ, uất hận của tác giả đối với kẻ thù ngang tàng đi ngược lại chân lí, phạm phải ý trời.

Càng căm hận kẻ xâm lược thì ý chí quyết chiến quyết thắng càng tăng cao. Câu thơ cuối cùng như một lời cảnh tỉnh lớn với lũ giặc bất nhân:

[HIDETHANKS=1]Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Chúng mày nhất định phải tan vỡ


Ta chiến đấu vì chính nghĩa ắt sẽ gặt hái được thành quả thắng lợi, còn bọn giặc dữ, làm điều phi nghĩa tất yếu sẽ chuốc lấy bại vong hoàn toàn khi xâm lược Đại Việt. Câu thơ cuối vừa có tính chất khẳng định, vừa như là lời răn đe, cảnh báo trước hành động xâm lược của chúng. Lời thơ thể hiện sự tự tin vào sức mạnh của dân tộc ta, thể hiện niềm tin vào chiến thắng tất yếu của phe chính nghĩa.

Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một bài thơ thể hiện khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ dâng trào mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận xúc động, hào hùng khiến người đọc rưng rưng! Ngàn đời sau, bài thơ mãi là hồn thiêng sông núi.

Tác phẩm chỉ có hai mươi tám chữ nhưng lại ẩn chứa những tư tưởng và tình cảm lớn: Khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc và nêu lên quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập đó. Bài thơ xứng đáng được coi là bài thơ thần, tuyên ngôn độc lập đầu tiên, một áng thơ văn bất hủ. Tác phẩm còn tạo niềm tin, sức mạnh chính nghĩa cho nhân dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.[/HIDETHANKS]
 
Last edited by a moderator:

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back