Phân tích chuyên sâu Đất nước

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Yang Lee, 3 Tháng một 2022.

  1. Yang Lee

    Bài viết:
    6
    "Có mối tình nào hơn Tổ quốc?"

    (Trần Mai Ninh)

    Đất Nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 – 1975, trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Đối với những người con đất Việt họ luôn mang trong mình một tình yêu Tổ Quốc thiết tha nhất. Mang hết ca một dáng hình Việt Nam vào một bài thơ Đất Nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về Đất Nước của tuổi trẻ thành thị miền Nam trong thời chống Mỹ. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, tác giả đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như lịch sử, địa lý, phong tục.. để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân và gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm viết:

    Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể

    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

    Tóc mẹ thì bới sau đầu

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó..

    * * * sông xuôi..


    Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích "Đất Nước" thuộc chương V của "Trường ca mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.

    Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng "Đất nước là của nhân dân", do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: Chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi:

    "Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?"

    Để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước. 9 câu thơ đầu đó là sự lý giải Đất nước có từ bao giờ:

    "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.."

    Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.

    Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi". Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào "Đất Nước đã có rồi". Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước. Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:

    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc


    Tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái "ngày xửa ngày xưa". Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ.

    Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:

    Tôi yêu truyện cổ nước tôi

    Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

    Thương người rồi mới thương ta

    Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần


    (Truyện cổ nước mình)

    Đến với câu thơ thứ hai nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong "miếng trầu bây giờ bà ăn". Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Đất nước không đâu xa ngay trong những ước vọng, phẩm chất của con người Việt Nam chúng ta "bắt đầu" sự xuất phát điểm, miếng trầu rất cụ thể gần gũi nhưng cũng rất xa xưa, tục ăn trầu, nhưng cũng không thể nhận biết chính xác từ bao giờ. Khẳng định về quá khứ xa xưa. Đó là tục lệ trong cưới hỏi, ma, chay.. các lễ hội, gợi cho ta nhớ đến sự tích trầu cau, bài ca về tình nghĩa vợ chồng, anh em yêu thương nhau, tình cảm thủy chung. Bắt đầu và bây giờ, cách nhau 3 từ nhưng cho thấy quá trình phát triển của đất nước, bền bỉ theo thời gian, chưa bao giờ mất đi và mãi mãi tồn tại. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:

    Những cô hàng xén răng đen

    Cười như mùa thu tỏa nắng


    (Hoàng Cầm)

    Đất nước phát triển, trưởng thành qua cụm từ "lớn lên" trong quá trình bảo vệ và chống giặc ngoại xâm. Tác giả mượn lại truyền thuyết Thánh Gióng, nằm trong tín ngưỡng tôn kính của người Việt về chàng trai làng Phù Đổng và truyền thống yêu nước chống quân xâm lược.

    Đất nước còn hiện lên qua những thói quen, tập tục lâu đời, tóc mẹ bới sau đầu, hình ảnh người phụ nữ miền Nam, nhưng hóa ra cách làm đẹp ấy lại là cả một quá trình. Nét đẹp đảm đang, khéo léo, chăm chỉ giỏi giang của người phụ nữ. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:

    Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

    Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân

    Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt

    Chí căm thù ta rèn thép thành roi

    Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

    Lũ sát nhân cướp nước hại nòi

    (Tố Hữu)


    Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu thơ: "Tóc mẹ thì bới sau đầu" nhắc đến chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ VN truyền thống.

    Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa giãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.

    Câu thơ "Cái kèo, cái cột thành tên" nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ 8 "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo - một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.

    Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: "Đất Nước có từ ngày đó..", ta không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước. Đất nước có trong hạt gạo ta ăn hàng ngày, vẻ đẹp hạt gạo và nghệ thuật liệt kê chỉ ra đó là biểu tượng của đất nước với nền văn minh lúa nước. Một hình ảnh đơn sơ ta cũng thấy được quá trình lao động của người nông dân ta. Cũng là Tác giả đang thể hiện quá trình hình thành phát triển của đất nước. Đất nước có từ ngày đó như một lời khẳng định đất nước có từ xa xưa nhưng không xa xôi trừu tượng mà hiện hữu thân thương gần gũi, trong cuộc sống của chúng ta. Khi trả lời câu hỏi đất nước có từ bao giờ, nhà thơ đã vận dụng các yếu tố của văn học dân gian như truyện cổ tích, truyền thuyết, thành ngữ, tục ngữ, ca dao nhằm tái hiện hình ảnh đất nước thân thương dễ hình dung dễ tưởng tượng, khác hẳn cái nhìn về đất nước của các nhà thơ xưa và nay.

    Đất Nước không phải ở đâu xa, mà nó gắn với những kỉ niệm riêng tư của mỗi chúng ta:

    Đất là nơi anh đến trường,

    Nước là nơi em tắm.


    Nhà thơ dùng phép chiết tự tách đôi khái niệm đất nước thành hai vật thể hữu tình "Đất là..", "Nước là..". Bằng cách ấy, cái khái niệm trừu tượng xa xôi kia trở thành cụ thể và gần gũi. Thì ra đất nước gắn bó với máu thịt của từng con người. Đất là con đường hàng ngày anh vẫn đến trường, Nước là thứ hàng ngày em vẫn tắm ở bến quê. Đất Nước làm cho tình yêu của anh và em đẹp hơn. Ngược lại tình yêu của anh và em làm cho đất nước thêm sinh sôi nảy nở.

    Cứ như thế, từ cái riêng, nhà thơ nâng lên thành cái chung:

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.


    Đất Nước là nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Tất cả đều bình dị, cụ thể gần gũi đáng yêu với anh, và em, với mỗi chàng trai cô gái. Nó thấm vào máu vào hồn của mỗi chúng ta. Tình yêu của con người Việt Nam trong sáng như đất và nước. Họ chọn đất nước làm nơi hò hẹn gặp gỡ của tình yêu. Đất nước chứng kiến cho tình yêu của con người và con người hóa tình yêu của mình vào đất nước.

    Đất Nước, không chỉ là nơi nảy sinh tình yêu đôi lứa "anh" và "em", mà đó còn núi sông rừng bể bao la:

    Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

    Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"


    Nhà thơ tiếp tục tách Đất và Nước ra làm hai để ông suy ngẫm và khẳng định không gian lãnh thổ của Đất Nước.

    Linh hồn của Đất Nước được kết tinh trong chiều sâu của thời gian và không gian

    Thời gian đằng đẵng

    Không gian mênh mông


    Hai câu thơ ngắn gọn, cô đọng kết hợp 2 từ láy "đằng đẵng, mênh mông", nhà thơ đã bao quát được chiều dài, chiều sâu thăm thẳm của thời gian và chiều rộng vô cùng của không gian. Để từ đó ông khẳng định từ khi hình thành, phát triển cho đến nay, Đất Nước là nơi dân minh đoàn tụ. Đất nước chính là nơi sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt Nam.

    Không gian lãnh thổ ấy được tạo lập từ thuở sơ khai với những truyền thuyết về nguồn góc tổ tiên. Theo mạch suy tưởng ấy, nhà thơ tiếp tục cảm nhận đất nước

    Đất là nơi chim về

    Nước là nơi rồng ở

    Lạc Long Quân và Âu Cơ

    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng


    Nếu như Nguyễn Trãi phát hiện ra đất nước qua các triều đại phong kiến hùng mạnh:

    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền Độc lập

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên xưng đế một phương


    Thì Nguyễn Khoa Điềm lại đưa ta trở về với cội nguồn rất xa xưa của dân tộc qua huyền thoại chim về rồng ở. Đất nước này đã trở thành đất nước rồng tiên. Mẹ Âu Cơ lấy cha Lạc Long Quân đẻ ra bọc trứng từ đó sinh ra khái niệm đồng bào. Và sự nghiệp mở mang bờ cõi được bắt đầu từ cuộc chia li lịch sử đầu tiên của dân tộc: "Âu Cơ mang năm mươi người con lên núi, Lạc Long Quân mang năm mươi người con xuống biển". Chia li mà vẫn gắn bó thủy chung vì bổn phận với non sông đất nước, đây là một nét đẹp tạo nên bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. Để từ đó, tất cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều là anh em trong quan hệ máu thịt. Tư tưởng nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một được gợi ra chính từ cái tình yêu nguyên thủy ấy. Khổ thơ như một lời thầm thì về tình non nước, về cội nguồn truyền thống ông cha.

    Lần thứ ba Nguyễn Khoa Điềm sử dụng biện pháp chiết tự, tách đôi khái niệm đất nước thành hai vật thể hữu tình để nói về tổ tiên người Việt, khẳng định những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Và chính nhữngtruyền thống văn hóa vững bền ấy, tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ nối liền với hiện tại và tương lai.

    Trên cơ sở đó, nhà thơ đã thức dậy lòng yêu nước, niềm tự hào về dòng máu Lạc Hồng, dòng máu con rồng cháu tiên, nhắc nhở thế hệ trẻ phải biết kế tục truyền thống của cha ông, của Đất Nước.

    Những ai bây giờ

    Yêu nhau và sinh con đẻ cái

    Gánh vác phần người đi trước để lại

    Dặn dò con cháu chuyện mai sau


    Yêu nước, lớp lớp con cháu người Việt nối bước cha ông, gánh vác trên vai trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước.

    Cảm xúc và suy tư, trữ tình và chính luận khiến những câu thơ trên có sức lay động lớn đến tâm hồn người đọc về ý thức trách nhiệm của mỗi chúng ta: Dù người mất hay còn thì truyền thống dân tộc, đạo đức cha ông, các thế hệ con cháu phải có trách nhiệm kế thừa và phát huy.

    Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lý giải qua những hình tượng thơ giàu tính thẩm mỹ:

    Hàng năm ăn đâu làm đâu

    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ


    Hai chữ "cúi đầu" thể tình cảm thành kính, thiêng liêng, chạm vào tình cảm cội nguồn, khơi dậy trong lòng người truyền thuyết va Hùng dựng nước. "Tổ" là cội nguồn, giống nòi của dân tộc, là tổ tiên là nhân dân thuở trước. Xúc động và đáng trân trọng biết bao thái độ thành kính của nhà thơ hướng về quá khứ, cội nguồn của dân tộc. Cúi đầu để hướng về lịch sử về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng.

    Trong anh và em hôm nay

    Đều có một phần Đất Nước


    Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, Tổ quốc, dân tộc.. luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong ca dao, dân ca có không ít những câu hát như thế:

    Anh đi anh nhớ quê nhà

    Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

    Nhớ ai dãi nắng dầm sương

    Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao


    Quê hương là tất cả những gì gắn bó, ruột rà với con người. Đó là người ta yêu tha thiết. Đó là buổi sáng làm đồng. Đó cũng là từng miếng ăn quê kiểng mỗi ngày.. Song, cái mới ở khổ thơ Nguyễn Khoa Điềm là đất nước ở trong mỗi một con người, đất nước ở trong ta chứ không ở ngoài ta (Trong anh và em hôm nay.. / Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.. / Đất Nước là máu xương của mình). Đó là một nhận thức mới về đất nước. Nhận thức ấy được nêu ra để dẫn dắt đến một ý tứ khác của những dòng thơ ở cuối khổ này (từng cá nhân phải làm gì cho đất nước).

    Bốn dòng thơ kế tiếp mở rộng ý ban đầu:

    Khi hai đứa cầm tay

    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

    Khi chúng ta cầm tay mọi người

    Đất Nước vẹn tròn to lớn


    Hai câu thơ (bốn dòng) được câu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của câu có điều kiện trong văn xuôi hay lời nói thông thường: Khi.. Đất Nước. Hai câu thơ cũng là những lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức) về một chân lý. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: Cầm tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ (hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa thứ hai, tác giả không trực tiếp nói ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng không phải là một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sự sống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ ràng ra, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con người với đất nước. Nhưng như thế thì còn gì là thơ nữa!

    Từ câu chuyện hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về đất nước ở tương lai:

    Mai này con ta lớn lên

    Con sẽ mang Đất Nước đi xa

    Đến những tháng ngày mơ mộng


    Đất nước không chỉ có ngày hôm qua và hôm nay. Đất nước của ngày mai. Từng thế hệ kế tiếp sẽ làm cho đất nước trường tồn mãi mãi.

    Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến khốc liệt thời bấy giờ, phải thấy ở những câu thơ trên còn là một khát vọng: Đất nước sẽ hòa bình, đất nước sẽ tươi đẹp và còn nhiều hơn thế nữa.

    Những khổ thơ cuối, nhà thơ nêu lên trách nhiệm của cá nhân đối với Đất Nước:

    Em ơi em đất nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời..


    Câu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất Nước là.. nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, phải biết.. / phải biết.. để làm nên.. Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết, ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: Máu xương, gắn bó, san sẻ, hóa thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định Đất Nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì với máu xương, bởi nó biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hy sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ gắn bó ấy mới có thể san sẻ, san sẻ về trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau.

    Đất nước do ai làm nên Nguyễn Khoa Điềm từng viết:

    "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.

    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh[9]

    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

    Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..

    Em ơi em

    Hãy nhìn rất xa

    Vào bốn ngàn năm Đất Nước

    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

    Cần cù làm lụng

    Khi có giặc người con trai ra trận

    Người con gái trở về nuôi cái cùng con

    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

    Nhiều người đã trở thành anh hùng

    Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

    Những em biết không

    Có biết bao người con gái, con trai

    Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

    Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

    Họ chuyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

    Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

    Có nội thù thì vùng lên đánh bại

    Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

    Dạy anh biết" yêu em từ thuở trong nôi "

    Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

    Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

    Đi trả thù mà không sợ dài lâu

    Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

    Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.."

    Chính những con người vô danh bình thường làm nên.


    Tất cả hình sông thế núi đều là do những con người bình thường làm nên, thậm chí vô danh. (cảm nhận qua hai phương diện là địa lý và lịch sử)

    Theo tư tưởng của những người am hiểu về địa lý, đất nước là những địa danh, dân cư, vùng miền, dân tộc. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm lại khác, ông quan niệm đất nước là do nhân dân làm ra không phải do thiên tạo.

    (trầm tích, huyền thoại của người dân Việt Nam)

    Tác giả lựa chọn 8 địa danh, 8 tên gọi nổi tiếng mang tính chất biểu tượng. 1 là yêu thương tình nghĩa, 2 tinh thần hiếu học, 3 là cần cù chăm chỉ.

    Những danh lam thắng cảnh được sắp xếp theo trình tự từ bắc vào nam đại diện cho ba phẩm chất.

    Hình ảnh của nàng Tô Thị ở Lạng Sơn, chờ chồng hóa đá, trong cuộc sống đời thường có nhiều những người mẹ, người chị, em gái, người yêu chờ chồng, chờ người yêu trở về. Trong 4000 năm ấy là 4000 năm giữ nước với những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm (núi Vọng Phu).

    Những ao đầm để lại không phải do thiên tạo, do tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm của Thánh gióng năm nào. Đất nước còn được tạo nên bởi lao động xây dựng xóm làng và tinh thần hiếu học. Hóa ra núi hình bút non, non nghiên không phải do tạo hóa mà là do những người học trò nghèo về vật chất nhưng lại chăm chỉ cần cù, kiên trì học tập hóa thân thành những núi bút non nghiên ở Quảng Ngãi. Hạ Long một trong những kì quan của thế giới hóa ra được hình thành bởi những con người vô danh và con vật bé nhỏ. Con cóc con gà, những con vật đầu tiên họ nhìn thấy khi khai hoang, cũng có thể hiểu những hòn đảo nhỏ này mang hình ảnh con cóc con gà.

    Cũng có những tên gọi được tạo bởi lao động, người đặt tên cho đất: Núi bà Đen, núi bà Điểm, huyện Châu Đốc..

    Ở góc nhìn lịch sử, tư duy của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khác với thơ ca xưa. Trong thơ xưa, Nguyễn Trãi nhìn về lịch sử theo hướng của những người nghiên cứu về lịch sử, sự tiếp nối của các triều đại phong kiến:

    "Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần

    Bao đời gây nền độc lập

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"

    Còn với Nguyễn Khoa Điềm ông nhìn về 4000 năm dựng nước và giữ nước. Đó là biết bao những thế hệ người Việt Nam ra trận và ngã xuống để biết bao những thế hệ lại vùng đứng lên mà ta không hề nhớ mặt đặt tên (cũng không đề cập tới những anh hùng dân tộc) Chính nhân dân vô danh đã bảo vệ quê hương bằng máu xương của mình.

    Với 5 câu thơ bắt đầu với một chủ ngữ duy nhất là từ "Họ"

    Một lần nữa tác giả chỉ ra những cống hiến thầm lặng của nhân dân trong quá trình bảo vệ, gìn giữ và phát triển đất nước.

    Từ hạt gạo dẻo thơm ta ăn hàng ngày là nhân dân truyền lại, cho đến ngọn lửa ẩn dụ cho nền văn minh mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam được lặng lẽ gửi gắm từ thời kì này qua thời kì khác. Tiếng mẹ đẻ là đặc điểm của một dân tộc, là đặc trưng của quốc gia cũng được nhân dân bảo vệ và gìn giữ. Đất đai dịa lý có được cũng do nhân dân đi khai hoang mà thành. Tất cả đều là sự đóng góp, cống hiến thầm lặng của nhân dân, bảo vệ quê hương trong suốt 4000 năm chống thù trong giặc ngoài.

    Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân dân.

    Tiếp đến, câu thơ thứ ba: "Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy" sử dụng thán từ "Ôi" – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nối lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân. Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số "bốn ngàn năm". Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:

    Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


    Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày

    Và trong suốt cuộc đời họ:

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

    Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

    Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

    Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

    Có nội thù thì vùng lên đánh bại

    Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: Vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

    Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã "nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp" để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hóa, "Đất nước này là của nhân dân", sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi liệu văn hóa văn học dân gian.

    Nhận định văn học 9+ ĐẤT NƯỚC - Nguyễn Khoa Điềm

    1. "Điều may mắn với tôi là được sống trong những năm tháng hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu cả mình hơn.." (Nguyễn Khoa Điềm)

    2. "Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo một hình tượng đất nước thân quen mà mới lạ trong thi ca Việt Nam.. Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa nên một Đất nước toàn vẹn, là sự thống nhất của lãnh thổ và văn hóa, của lịch sử và sự sống, một Đất nước trong không gian tinh thần của người Việt Nam.

    3." Một Đất nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà văn như phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất nước trong chính tâm hồn họ. "(Trần Đình Sử)

    4. Những sợi ngang dọc dệt nên hình tượng thơ Nguyễn Khoa Điềm đều óng ánh một màu sắc đặc trưng của chất liệu văn hóa dân gian- đó là một lực hút nữa của đoạn thơ Đất nước.. để rồi người đọc lặng đi xúc động trước một cách định nghĩa thật bất ngờ của Nguyễn Khoa Điềm (Nguyễn Quang Trung).

    5. Nhận định về đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Sách giáo khoa Ngữ văn 12 viết:" Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân".
     
    Admin thích bài này.
    Last edited by a moderator: 23 Tháng mười một 2023
  2. Đăng ký Binance
  3. Yang Lee

    Bài viết:
    6
    Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân.

    Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm.

    Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

    Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

    Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.

    "Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái ngày xửa

    Ngày xưa mẹ thường hay kể

    Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc."

    Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người.

    Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ.. gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược.

    Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.

    Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giầu truyền thống văn hóa, giầu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn.

    Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào: Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

    Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:

    "Cái kèo cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó."

    Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm "Đất nước của nhân dân".

    Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:

    "Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm."

    Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương.

    Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.

    Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu.

    Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất..", một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.

    Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả.

    Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.

    Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ.

    Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

    Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:

    "Những ai đã khuất

    Những ai bây giờ

    Yêu nhau và sinh con đẻ cái

    Gánh vác phần người đi trước để lại

    Dặn dò con cháu chuyện mai sau"

    Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện: Trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.

    Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.

    Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:

    "Trong anh và em hôm nay

    Đều có một phần đất nước"

    Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước.

    Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.

    Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.

    Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước.

    Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên.. không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi: "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái", "Người học trò thắng cảnh".

    Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc:

    "Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông ch

    Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta" cũng thấ

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. "

    Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó.

    " Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm

    Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất nước "

    Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo

    " Đất nước này là Đất nước nhân dân

    Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại"

    Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

    Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui..

    Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng.

    Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.
     
    AdminLiên Phúc thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...