Tác giả (Tô Hoài) [*] Là nhà văn có biệt tài kể chuyện, lối kể chuyện có duyên [*] Cây viết văn xuôi hàng đầu của nền Văn Học Việt Nam hiện đại [*] Vốn hiểu biết phong phú về đời sống sinh hoạt và phong tục ở làng quê ngoài thành Hà Nội và miền núi Tây Bắc [*] Lối trần thuật tự nhiên, sinh động, hóm hỉnh, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú đậm chất dân gian & giàu chất thơ Tác phẩmHoàn cảnh sáng tác: 1952 – Kết quả của chuyến đi dài 8 tháng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc Rút ra từ tập truyện "Truyện Tây Bắc (1953)" Nội Dung 1. NHÂN VẬT MỊ (Sức sống tiềm tàng) Lai lịch, ngoại hình: Cô gái Hmông xinh đẹp, trẻ trung; Tài năng: Thối lá hay như thổi sáo; Chăm chỉ lao động / có một tình yêu đẹp Số phận: Vì món nợ truyền kiếp, tiền kiếp từ cha mẹ mới lấy nhau để lại => Trở thành con dâu gạt nợ không công cho nhà Thống Lý Bi kịch khi trở thành con dâu nhà Thống Lý Bị chà đạp về thể xác, bóc lột sức lao động. Làm việc quần quật như trâu ngựa, ngày này qua ngày khác Bị áp chế về tinh thần: Một tháng đêm nào cũng khóc, cầm lá ngón về xin cha đi chết; Sống trong căn phòng kín mít => ngôi mộ nổi; Câm lặng như con rùa, chiếc bóng => Áp chế về cường quyền, thần quyền và bạo quyền Khái niệm sức sống tiềm tàng: Khả năng sống mãnh liệt của con người dù trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Dám sống và dám chết thể hiện ở: Khóc một tháng – sự phản kháng đầu tiên Cầm lá ngón về xin cha được chết – dám chết khi cuộc đời không còn ý nghĩa Quay về - dám sống ngay cả khi cuộc sống không còn ý nghĩa Đêm tình mùa xuân + Tác nhân: Mùa xuân đến sớm; Tiếng sáo (Xuất hiện nhiều lần) ; Men rượu + Tạo ra những biến chuyển trong Mị: Uống "ực" từng bát, say, nhớ lại những ngày tuổi xuân của mình; Nghe tiếng sáo vọng lại, nhẩm thầm theo lời bài hát, cất lên những lời thì thầm đầu tiên; Mị trở lại phòng, cảm thấy mình còn trẻ, muốn đi chơi, chỉn chu ;ại bản thân thắp sáng căn phòng; A sử về thấy Mị định đi chơi, đánh Mị trói đứng Mị, tắt đèn, đóng sập cửa lại; Tiếng sáo văng vẳng trong đầu Mị, đưa Mị theo những cuộc chơi những đám chơi. Tâm hồn Mị đang trở về ngày trước; Cứ như thế hết đêm nghe thấy tiếng xôn xao, Mị cựa mình, sợ chết (Nghĩ lại về người đàn bà bị trói đứng đến chết trong nhà này) ; Biểu hiện cao nhất của lòng ham sống 2. NHÂN VẬT MỊ (đêm mùa đông cắt dây trói cho A Phủ) Hoàn cảnh không gian: Đêm mùa đông trên núi cao dài và lạnh lẽo, Mị có thói quen sưởi lửa và vô tình bắt gặp A Phủ đang bị trói ở nhà kho Ban đầu khi nhìn thấy A Phủ: Mị dửng dưng, thờ ơ vì đây là chuyện thường xuyên xảy ra Mị đã quá khổ để hiểu được cho nỗi khổ của người khác Đêm định mệnh: A Phủ đã bị trói ba bốn ngày, có lẽ chỉ đêm nay thôi hắn sẽ chết Nhờ vào ánh lửa bập bùng, Mị nhìn thấy giọt nước mắt lăn trên má của A Phủ Mị Nhớ lại đêm mùa xuân, Mị cũng bị trói đứng, nước mắt lăn xuống mặt, xuống cổ không lau đi được Thương chính mình, thương người, thương mình cảm thấy thắc mắc: Người kia vì việc gì mà phải chết thế? Cảm thấy cha con Thống Lý thật là độc ác Bùng nổ thành suy nghĩ: Mình cắt dây trói cho người kia, mình sẽ bị trói đứng vào đó => KHÔNG SỢ Ý nghĩa: Bủng nổ thành hành động giải thoát cho người và cũng chính là giải thoát cho chính mình Vượt qua nỗi sợ hãi: Cường lực, bạo lực, thần quyền Vẻ đẹp của người lao động: Sức sống tiềm tảng của người lao động miền núi Bài làm chi tiết Mở bài Tô Hoài là một nhà văn lớn có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam (để lại gần 209 đầu sách, nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, kịch phim). Là nhà văn của hai đề tài: Về cuộc sống của những người dân miền núi và cuộc sống vùng quê ngoại, hai mảnh đất đó đều gắn bó và nhận được tình yêu tha thiết của nhà văn. Vì vậy tác phẩm sinh động, chân thực và hấp dẫn. Trong đó phải kể đến tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Sáng tác năm 1952. Là tác phẩm xuất sắc trong tập truyện, là câu chuyện có thực, nhân vật lấy nguyên mẫu ở ngoài đời một câu chuyện "để thương, để nhớ cho tôi quá nhiều, tôi không bao giờ quên. Tôi phải đem lại cho người thường ở Tây Bắc tấm lòng mình". Thân bài: Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác "ai ở xa về, có việc vào nhà Thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa". Một cô con dâu nhà thống lí quyền thế giàu sang phú quý, "nhiều vàng, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng nhưng lúc nào cũng cúi mặt" mặt buồn rười rượi "(hình ảnh đối ngược). Sự xuất hiện của Mị âm thầm, lẻ loi gần như lẫn vào vật vô tri, vô giác, un lùn, nặng nề tạo ra một mảng sống riêng, mảng sống tăm tối cực nhọc, nhẫn nhục, chịu đựng. Có lẽ đó là những tháng ngày cuộc sống của Mị diễn ra nặng nề, vô nghĩa, là một con người bị vật hóa. Sự xuất hiện của Mị hoàn toàn tương phản với gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy có tác dụng gợi trí tò mò cho người đọc. Thấy được cuộc đời không bằng phẳng, một số phận uẩn khúc, 1 bi kịch cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc. Tạo ra sự băn khoăn, thắc mắc của người đọc phải đi tìm kím lý giải khám phá câu trả lời. Mị là một cô gái xinh đẹp. Tô Hoài không miêu tả cụ thể vẻ đẹp của Mị nhưng chỉ cần qua một chi tiết đậm tính phong tục tập quán của người miền núi" trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị "đỉ cho ta thấy được vẻ ngoài xinh xắn của Mị. Mị là niềm mơ ước khao khát của nhiều chàng trai Tây Bắc. Mị còn là một cô gái tài năng. Cô thổi sáo rất giỏi đến nỗi" có biết bao nhiêu người say mê ngày đêm thổi sáo theo Mị ". Mị vén chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mị còn có những phẩm chất đáng quý. Cô chăm chỉ lao động, đảm đang thu vén mọi công việc gia đình" con nay đã biết cuốc nương làm ngô ". Con phải làm ngô giả nợ cho bố mẹ. Mị là một cô gái hiếu thảo. Cô sẵn sàng lao động vất vả để trả món nợ truyền kiếp cho bố mẹ. Nếu chỉ sống riêng cho Mị, Mị đã chết. Nhưng vì thương cha nên Mị đã ném nắm lá ngón xuống đất quay lại nhà Thống lý Pá Tra chấp nhận cuộc sống mà cô không hề mong muốn, sống mà như đã chết. Điều đặc biệt, đáng quý, đáng trân trọng là cô luôn khao khát sống mãnh liệt, yêu đời, yêu cuộc sống tự do, giàu lòng tự trọng. Cô đã từng xin bố đừng bán cô cho nhà giàu. Khi bị bắt về nhà Thống lý Pá Tra cô phản kháng quyết liệt, đêm nào cô cũng khóc. Cô đã định ăn lá ngón để chết hòng thoát khỏi cuộc sống tù túng, thiếu tự do và không có tình yêu đích thực. Cô đã có một tình yêu, có người yêu, có hạnh phúc. Như vậy trước khi về làm dâu cho nhà Thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái con nhà nghèo nhưng Mị đang sống một cuộc sống thực sự hạnh phúc, có tình yêu dành cho cuộc sống, có tình yêu lứa đôi, có đời sống tinh thần phong phú, có một khát vọng mãnh liệt về tương lai và cô xứng đáng nhận được cuộc sống hạnh phúc nếu sống trong cuộc sống bình thường. Một trong những thành công lớn của tác phẩm" Vợ chồng A Phủ "là nghệ thuật miêu tả tâm lý và phân tích tâm lý nhân vật. Cái tâm của nhà văn Tô Hoài đã cho Mị ngỡ như chết về cả tinh thần và thể xác và sống lại sau những giai đoạn của cuộc sống, giành lại tự do, khát vọng sống. Bản chất của Mị không phải là một con người vô cảm với cuộc đời. Ngay từ những ngày đầu tiên mới về làm dâu nhà Thống Lý Lá Tra Mị đã khóc ròng và có ý định ăn lá ngón tự tử. Đó là một phản ứng cho dù là tiêu cực. Nhưng nhà văn đã thể hiện được khát vọng tự do của lòng ham sống. Mị đã không chấp nhận cuộc sống địa ngục trần gian đó. Đêm tình mùa xuân trên nẻo cao đã góp phần đánh thức con người đó. Những tác nhân làm thức dậy trong lòng Mị sự ham sống và khát khao hạnh phúc. Khung cảnh mùa xuân tươi vui tràn đầy sức sống, đầy màu sắc" cỏ gianh vàng ửng "." Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ ". Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Tiếp theo là" Tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi "," từng lời hát giản dị, mộc mạc có sức gợi lớn lao đối với nhân vật Mị. Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới, rộn rã "chiêng đánh ầm ĩ, vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa". Những yêu tố ngoại cảnh ấy đã tác động không nhỏ đến Mị đặc biệt là tiếng sáo hòa cùng men rượu. Bởi vì ngày trước, Mị thổi sáo giỏi bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đó theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình là tiếng ca của lứa đôi hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa đã tác động vọng vào niềm sâu thẳm trong tâm hồn Mị. Đánh thức sức sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái. Ban đầu trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng "Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay". Phản ứng này của Mị cũng là hiển nhiên vì những cảnh trói người đến chết của nhà Thống Lý Pá Tra là chuyện bình thường vả lại có lẽ do "ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi" nên cái khổ của người khác cũng thế thôi. Ngay cả bản thân mình Mị cũng không thương chấp nhận mình chỉ là con trâu, con ngựa thì làm sao có thể thương người. Khi ngọn lửa bừng sáng, Mị nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ thì Mị có những biến chuyển về cảm xúc, tình cảm. Giọt nước mắt đau khổ, bất lực, tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức dậy quá khứ đau khổ của cô. Cô nhớ lại đêm năm trước, cô cũng từng bị trói đứng thế kia nhiều lần khóc, nước mắt, nước mũi chảy xuống cổ, xuống mặt không biết làm sao mà lau đi được. Như vậy Mị thương mình, đồng cảm với người và thương mình. Nhận thức rõ được tội ác của cha con nhà Thống Lý Pá Tra "chúng nó thật độc ác, cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". Đặc biệt Mị nhận thức rất rõ sự yếu đuối rất đàn bà của bản thân và sự phi lý bất công trong số phận của A Phủ "ta là thân đàn bà nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết thế". Dòng nội tâm ấy có thể coi là sự nổi loạn đỉnh cao của khát vọng sống mãnh liệt cho ta thấy những chuyển biến dữ dội trong nội tâm của nhân vật. Một người đàn bà yếu đuối đã ném một câu hỏi lớn về thân phận con người, về sự phi lý bất công trong số phận con người vào xã hội đen tối lúc bấy giờ. Đó chính là dấu hiệu của một cuộc nổi loạn sắp sửa. Mị tưởng tượng đến một lúc nào đó, A Phủ sẽ trốn thoát được và cha con nhà Thống Lý Pá Tra sẽ cho rằng Mị là người cởi trói cho A Phủ và liền bắt Mị trói thế vào đấy. Nghĩ đến cảnh đó Mị cũng "không sợ". Tình thương người trong Mị lớn dần và lấn át cả sự sợ hãi. Lúc này Tô Hoài đưa Mị đi đến một hành động táo bạo quyết liệt: Cắt dây trói cứu A Phủ. Điều này tưởng như phi lý nhưng lại rất thống nhất và hợp lý. Mị thương người, tình thương lấn át cả nỗi sợ hãi khiến Mị đã dũng khí để đi đến hành động táo bạo để cứu người. Mị cũng là con người có khát vọng sống nên khi cứu người cảm súc thương mình trỗi dậy đó là lẽ tất yếu trong tâm lý con người. Giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối, đối mặt với nỗi sợ hãi, đối mặt với bản án tử hình thì bản năng sống, sức mạnh mãnh liệt giờ đây mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nó thôi thúc Mị đuổi theo A Phủ, bỏ trốn khỏi nhà Thống Lý Pá Tra, bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. Một đoạn văn cực ngắn nhưng động từ mạnh mẽ xuất hiện một cách dày đặc, "vút chạy, băng đi, đuổi kịp, lăn, chạy xuống.." đã tái hiện một cách rõ nét rất mạnh mẽ sức phản kháng táo bạo của nhân vật. Sức sống của Mị đã đạp đổ cả cường quyền và thần quyền hủ tục. Cái chết chập chờn trước mắt. Với bản năng, Mị vụt chạy theo A Phủ và thổn thức: "A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất". Tình huống diễn ra mau lẹ, bất ngờ, tự nhiên nhưng rất logic, phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật mà mùa xuân năm trước đã từng có khát vọng tự do mãnh liệt. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị kà hành động dứt khoát, đoạt tuyệt với quá khứ, khổ đau cho cả hai người. Như cánh chim xổ lồng tăm tối, họ băng xuống dốc, bay về phía tự do. Kết bài Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã thực sự trở thành "Kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường."
Đề bài: Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A phủ. (đoạn từ: "Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn.. Hai người thành vợ chồng rồi trốn sang Phiềng Sa") Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường. Trước cách mạng ông chủ yếu viết về mảng đề tài loài vật và cuộc sống của người dân nghèo vùng ngoại ô. Sau cách mạng ông viết nhiều về cuộc sống của người dân lao động miền núi. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" in trong tập "Truyện Tây Bắc" là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Tô Hoài sau cách mạng. Đọc tác phẩm để lại ấn tượng nhất trong lòng người đọc là tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Mị là người con gái miền núi xinh đẹp, nết na thùy mị, có tài thổi sáo, và đã có người yêu. Gia đình Mị rất nghèo, bố mẹ Mị khi cưới nhau không có tiền phải vay nhà Thống lí, không có tiền trả, Thống lí đã cho người đến bắt Mị về làm dâu (làm vợ A sử) để gạt nợ. Mị kiên quyết phản đối nhưng không được. Trong những ngày tháng đầu của cuộc đời làm dâu "có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc". Mị đã nghĩ đến việc ăn lá ngón để giải thoát. Nhưng vì thương cha, Mị đã chấp nhận quay trở về nhà thống lí sống cuộc đời làm dâu gạt nợ. Đời con dâu gạt nợ của Mị ở nhà thống lí là một quãng đời thê thảm, tủi cực nhất. Đối với Mị chỉ toàn là công việc. Mị trở thành công cụ lao động của nhà thống lí. Cái gia đình ấy đã bóc lột đến tận xương tận tủy sức lao động của Mị. Không những thế chúng còn bóc lột Mị cả về tinh thần. Sống trong nhà thống lí, Mị như một tù nhân ở chốn địa ngục trần gian. Nhưng rồi đến cái đêm mùa đông, đêm Mị chứng kiến cảnh A phủ bị trói thì khát vọng sống, khát vọng tự do trong Mị đã trỗi dậy mạnh mẽ, tạo thành một sức phản kháng mãnh liệt. Mị đã giải thoát cho A phủ và cho chính bản thân mình. A Phủ là người thanh niên khỏe mạnh, chăm chỉ làm ăn, tính tình cương trực. Trong một lần bất bình trước cảnh A sử bắt nạt đám trai làng, A phủ đã đánh A Sử để bảo vệ cho họ, thế là A phủ bị đưa về xử vạ làng. Không có tiền nộp vạ làng, A phủ phải vay tiền nhà thống lí. Từ đó trở đi, A phủ phải làm nô lệ cho nhà thống lí để trả món nợ trên. Trong một lần đi chăn bò, chẳng may để hổ vồ mất một con bò, thống lý đã sai người lấy dây mây trói đứng A phủ vào cột, bỏ đói, bỏ rét và tuyên bố chỉ khi nào bắt được hổ mới cởi trói cho A Phủ. Mấy đêm đầu Mị thức thổi lửa hơ tay, nhìn A Phủ bị trói mà lòng thản nhiên, dửng dưng. Mị nghĩ "Nếu AP có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi". Mị thản nhiên là vì sống trong nhà thống lí, Mị đã chứng kiến quá nhiều cảnh người ta bị trói. Vả lại chính Mị cũng đã từng bị trói như thế, có người bị trói cho đến chết mới thôi mà có ai làm gì nổi đâu. Nhưng rồi đến một đêm Mị không thể thản nhiên được nữa, đó là cái đêm "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Nước mắt A Phủ đã làm cho Mị liên tưởng đến cái đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị đã nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống má, xuống cổ không biết lau đi được. Hơn lúc nào hết, Mị càng hiểu rõ bản chất tàn bạo của bố con nhà thống lí "Chúng nó thật độc ác". Mị đã nhìn nước mắt của AP bằng sự đồng cảm, bằng tình thương, bằng ngọn lửa của tình yêu cuộc sống. Mị thương xót cho A phủ, Mị đã nghĩ "Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". Từ đó Mị suy tưởng về sự sống và cái chết. Mị nghĩ, mình chết đã đành, còn người kia việc gì mà phải chết. Dòng suy tưởng lại được ngọn lửa của tình thương thắp sáng đã đưa Mị tới một quyết định vô cùng quyết liệt: Cứu A Phủ, chịu trói thay vào đó cho đến chết. Như vậy người con gái đã từng trốn khỏi nhà thống lí với nắm lá ngón trong tay quyết chọn cái chết chứ không chịu sống nhục đang sống lại trong tâm hồn Mị. Chỉ có điều bây giờ Mị không phải sẵn sàng chết để giải thoát cho thân phận của mình mà sẵn sàng chết với một ý nghĩa lớn lao đó là chết để cứu sống một con người, cứu AP. Từ ý nghĩ dẫn tới hành động hết sức nhanh chóng. Mị đã đứng dậy lấy con dao và bước lại cắt dây trói cho AP. Khi sợi dây trói cuối cùng trên người AP được gỡ ra thì Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay" rồi nghẹn lại. Hành động của Mị là hành động của lòng nhân ái cao cả, là hành động hy sinh thân mình để cứu người. Lúc đầu khi thấy A phủ chạy, Mị chỉ đứng lặng trong bóng tối. Nhưng rồi càng ngày càng thấy A Phủ tránh xa được cái chốn địa ngục trần gian này, càng ngày càng gần tới chân trời tự do, thì khát vọng sống, khát vọng tự do trong Mị đã trỗi dậy mãnh liệt. Ngọn lửa khát vọng ấy giúp cho Mị đi đến một quyết định rất nhanh, nhanh như khi quyết định giải thoát cho A Phủ, Mị vụt chạy theo A Phủ. Đó chính là hành động Mị tự giải thoát, tự cứu mình, một hành động vô cùng dũng cảm, táo bạo. Với hành động ấy, Mị đã lật nhào được cả một trái núi bạo quyền để giải phóng cho mình, cho người là một hình ảnh đẹp. Mị và A Phủ đã cùng trốn sang Phiềng Sa, nên vợ nên chồng, được cán bộ cách mạng giác ngộ trở thành du kích. Bằng lối dẫn truyện tự nhiên, nghệ thuật miêu tả tâm lí và phát triển tính cách nhân vật đặc sắc, Tô Hoài đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị. Với diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân ở Hồng Ngài, là một hình tượng đẹp về người phụ nữ lao động miền núi Tây Bắc, điển hình cho một lớp người phụ nữ từ trong cảnh ngộ nô lệ tối tăm vươn ra ánh sáng tự do. Thông qua nhân vật Mị, nhà văn đã gửi tới người đọc bức thông điệp: Không một thế lực đen tối nào có thể vùi lấp được khát vọng của con người.