

ÁNH TRĂNG
Nếu Nguyễn Du đã để vầng trăng làm nhân chứng cho mối lương duyên của Thúy Kiều - Kim Trọng, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng coi trăng như một người bạn tri kỉ "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". Cũng viết về vầng trăng, hình tượng vốn bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng của thi ca, nhưng bài thơ "Ánh trăng" vẫn khơi gợi trong tâm hồn người đọc những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ, chiến sĩ đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tập thơ "Ánh trăng" là một trong những tập thơ quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. "Ánh trăng" được sáng tác vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng toàn miền Nam thống nhất đất nước. Ba năm sống trong hòa bình không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong quá khứ. Để rồi khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra..
Mở đầu bài thơ là hình ảnh vầng trăng gắn liền với kỉ niệm của tuổi thơ và là hình tượng thiên nhiên tươi đẹp vĩnh hằng.
Tuy hai câu thơ không nhắc đến vầng trăng, nhưng những hình ảnh giản dị, gần gũi thân quen của "đồng", "sông", "bể" cùng với cách gieo vần độc đáo đặc sắc đã mở ra trước mắt chúng ta một không gian bao la. Cánh đồng, dòng sông, mặt bể là nơi chôn dấu biết bao kỉ niệm tuổi thơ, ta hình dung ra tâm trạng vui sướng của đứa trẻ đang ngụp lặn chan hòa trong cái mát lạnh của thiên nhiên và chắc chắn có cả vầng trăng. Như vậy, vầng trăng đã gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ. Đứa trẻ lớn lên trở thành người lính và vầng trăng cũng theo người vào tận chiến trường, trở thành biểu tượng của tri âm tri kỉ.
Tri kỉ là đỉnh cao của tình bạn gắn bó thân thiết với nhau, hiểu rõ về nhau, đó là tình bạn thiêng liêng cao cả. Và trăng được xem là người tri âm tri kỉ của người lính bởi trăng chia sẻ mọi niềm vui, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu nhưng đau thương nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu. Bốn câu thơ mở đầu với giọng kể thủ thỉ tâm tình "hồi nhỏ", 'hồi chiến tranh "đã gợi lên một khoảng thời gian dài từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành, và nhất là những năm tháng gian lao của chiến tranh. Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ với vầng trăng được làm rõ qua mấy câu thơ:
Cuộc sống của tác giả từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn bó mật thiết và" trần trụi "với thiên nhiên, không che dấu bất kì điều gì, tác giả sống một cách đơn giản, bình yên và hôn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mãnh liệt, deo dai. Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, trăng trở thành người bạn tri kỉ với nhân vật trữ tình. Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ" ngỡ ", cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt mấy mươi năm cuộc đời kia.
Thế nhưng những cái" ngỡ "thường khó có thể duy trì vì cuộc đời vốn biến đổi không ngừng, bởi vật chất xưa nay luôn quyết định ý thức. Rời chiến trường, rời quê hương với những đồng ruộng, sông bể quê mùa, nhà thơ vào giữa phố thị, được sống trong một cuộc sống dư dả, xa hoa.
Nếu buổi trước kia phải vật vạ, mai phục nơi rừng sâu rậm rạp, phải chân lấm tay bùn với ánh đèn dầu mờ ảo thì nay cuộc sống đã đổi thay," ánh điện cửa gương ", đều là những thứ mới mẻ, dễ khiến người ta ham thích và sống sung sướng mãi rồi cũng quen đi. Bất chợt nhà thơ chẳng biết từ lúc nào đã quên đi cái ánh sáng nhàn nhạt dịu nhẹ đến từ thiên nhiên, đến từ vầng trăng mà mình vẫn luôn coi là tri kỷ.
Không biết là do cuộc sống quá tất bật, bộn bề, hay lòng người vô tâm, bỏ quên kỷ niệm son sắt xưa cũ mà nay thấy vầng trăng ngự trên trời, cũng chẳng còn trân quý, chỉ là" người dưng qua đường ".
Giữa sự trớ trêu và buồn tủi như thế, bỗng một tình huống bất ngờ xảy đến – mất điện, căn phòng tối om, khiến người lính vốn quen với ánh điện sáng trưng sửng sốt và hoang mang. Ông buộc phải tìm một nguồn sáng khác, cánh cửa mở ra, vầng trăng tròn" đột ngột "chiếu thẳng vào căn phòng tăm tối, chiếu thẳng vào tâm hồn của nhà thơ khiến ông giật mình.
Vầng trăng và nhà thơ dường như đối diện với nhau một cách trực tiếp và thẳng thắn nhất, mặt đối mặt, bao kỷ niệm ùa về ùa về trong tâm trí của tác giả như bão tố khiến đôi mắt này" rưng rưng "nước mắt, nào là vầng trăng tri kỷ vẫn một lòng một dạ sắt son giữa trời xanh, xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bờ biển thuở ấu thơ, con sông xanh mát. Và có lẽ nhớ nhất chính là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ nhưng giàu những kỷ niệm không thể nào quên. Mà chỉ duy nhất một vầng trăng tri kỷ, vẫn bầu bạn, vẫn sẻ chia, vẫn dõi theo bước chân người lính chiến không rời.
Đối diện với trăng, nhà thơ dường như bị lép vế, bởi sự xấu hổ vì lỗi lầm vô tâm, nỡ bỏ quên những ân tình trong quá khứ, để chạy theo cuộc sống xô bồ tấp nập, theo" ánh điện cửa gương ", tách biệt với thiên nhiên, quên cả tri kỷ mà người đã từng" gỡ không bao giờ quên ". Trăng không hờn trách, không chỉ trích, trăng vẫn im lặng soi sáng, phủ lên nhà thơ thứ ánh sáng đẹp đẽ và nhân hậu. Điều ấy càng khiến con người ta thêm" giật mình ", thêm ngỡ ngàng, thậm chí là bàng hoàng về bản thân, sự im lặng đôi lúc chính là liều thuốc hữu hiệu, khiến chúng ta phải tự soi xét lại.
Sự bao dung, dịu dàng và thủy chung của vầng trăng khiến nhà thơ hiểu ra được nhiều điều, có lẽ cái" giật mình "ấy chính là sự tỉnh ngộ. Tỉnh ngộ để tìm lại bản thân, để sống tốt hơn, để nhớ lại và trân quý những gì tốt đẹp trong quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa, vầng trăng chính là một tấm gương sáng về lòng thủy chung của người tri kỷ, để người lính soi vào và suy ngẫm lại về bản thân mình suốt những năm qua đã sống thực sự nhân nghĩa hay chưa.
Vầng trăng xưa nay vốn đã rất quen thuộc với con người, trăng chiếu rọi xuống những ánh sáng nhàn nhạt, dịu nhẹ như người bạn, người thân, người tri kỷ sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp và đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.
Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng" ánh trăng"đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.
By: Mdlh Mạn
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ, chiến sĩ đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tập thơ "Ánh trăng" là một trong những tập thơ quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. "Ánh trăng" được sáng tác vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng toàn miền Nam thống nhất đất nước. Ba năm sống trong hòa bình không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong quá khứ. Để rồi khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra..
Mở đầu bài thơ là hình ảnh vầng trăng gắn liền với kỉ niệm của tuổi thơ và là hình tượng thiên nhiên tươi đẹp vĩnh hằng.
"Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể"
Với sông rồi với bể"
Tuy hai câu thơ không nhắc đến vầng trăng, nhưng những hình ảnh giản dị, gần gũi thân quen của "đồng", "sông", "bể" cùng với cách gieo vần độc đáo đặc sắc đã mở ra trước mắt chúng ta một không gian bao la. Cánh đồng, dòng sông, mặt bể là nơi chôn dấu biết bao kỉ niệm tuổi thơ, ta hình dung ra tâm trạng vui sướng của đứa trẻ đang ngụp lặn chan hòa trong cái mát lạnh của thiên nhiên và chắc chắn có cả vầng trăng. Như vậy, vầng trăng đã gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ. Đứa trẻ lớn lên trở thành người lính và vầng trăng cũng theo người vào tận chiến trường, trở thành biểu tượng của tri âm tri kỉ.
"Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"
Vầng trăng thành tri kỉ"
Tri kỉ là đỉnh cao của tình bạn gắn bó thân thiết với nhau, hiểu rõ về nhau, đó là tình bạn thiêng liêng cao cả. Và trăng được xem là người tri âm tri kỉ của người lính bởi trăng chia sẻ mọi niềm vui, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu nhưng đau thương nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu. Bốn câu thơ mở đầu với giọng kể thủ thỉ tâm tình "hồi nhỏ", 'hồi chiến tranh "đã gợi lên một khoảng thời gian dài từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành, và nhất là những năm tháng gian lao của chiến tranh. Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ với vầng trăng được làm rõ qua mấy câu thơ:
" Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa "
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa "
Cuộc sống của tác giả từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn bó mật thiết và" trần trụi "với thiên nhiên, không che dấu bất kì điều gì, tác giả sống một cách đơn giản, bình yên và hôn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mãnh liệt, deo dai. Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, trăng trở thành người bạn tri kỉ với nhân vật trữ tình. Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ" ngỡ ", cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt mấy mươi năm cuộc đời kia.
" Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường "
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường "
Thế nhưng những cái" ngỡ "thường khó có thể duy trì vì cuộc đời vốn biến đổi không ngừng, bởi vật chất xưa nay luôn quyết định ý thức. Rời chiến trường, rời quê hương với những đồng ruộng, sông bể quê mùa, nhà thơ vào giữa phố thị, được sống trong một cuộc sống dư dả, xa hoa.
Nếu buổi trước kia phải vật vạ, mai phục nơi rừng sâu rậm rạp, phải chân lấm tay bùn với ánh đèn dầu mờ ảo thì nay cuộc sống đã đổi thay," ánh điện cửa gương ", đều là những thứ mới mẻ, dễ khiến người ta ham thích và sống sung sướng mãi rồi cũng quen đi. Bất chợt nhà thơ chẳng biết từ lúc nào đã quên đi cái ánh sáng nhàn nhạt dịu nhẹ đến từ thiên nhiên, đến từ vầng trăng mà mình vẫn luôn coi là tri kỷ.
Không biết là do cuộc sống quá tất bật, bộn bề, hay lòng người vô tâm, bỏ quên kỷ niệm son sắt xưa cũ mà nay thấy vầng trăng ngự trên trời, cũng chẳng còn trân quý, chỉ là" người dưng qua đường ".
" Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn "
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn "
Giữa sự trớ trêu và buồn tủi như thế, bỗng một tình huống bất ngờ xảy đến – mất điện, căn phòng tối om, khiến người lính vốn quen với ánh điện sáng trưng sửng sốt và hoang mang. Ông buộc phải tìm một nguồn sáng khác, cánh cửa mở ra, vầng trăng tròn" đột ngột "chiếu thẳng vào căn phòng tăm tối, chiếu thẳng vào tâm hồn của nhà thơ khiến ông giật mình.
" Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng "
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng "
Vầng trăng và nhà thơ dường như đối diện với nhau một cách trực tiếp và thẳng thắn nhất, mặt đối mặt, bao kỷ niệm ùa về ùa về trong tâm trí của tác giả như bão tố khiến đôi mắt này" rưng rưng "nước mắt, nào là vầng trăng tri kỷ vẫn một lòng một dạ sắt son giữa trời xanh, xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bờ biển thuở ấu thơ, con sông xanh mát. Và có lẽ nhớ nhất chính là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ nhưng giàu những kỷ niệm không thể nào quên. Mà chỉ duy nhất một vầng trăng tri kỷ, vẫn bầu bạn, vẫn sẻ chia, vẫn dõi theo bước chân người lính chiến không rời.
" Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình "
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình "
Đối diện với trăng, nhà thơ dường như bị lép vế, bởi sự xấu hổ vì lỗi lầm vô tâm, nỡ bỏ quên những ân tình trong quá khứ, để chạy theo cuộc sống xô bồ tấp nập, theo" ánh điện cửa gương ", tách biệt với thiên nhiên, quên cả tri kỷ mà người đã từng" gỡ không bao giờ quên ". Trăng không hờn trách, không chỉ trích, trăng vẫn im lặng soi sáng, phủ lên nhà thơ thứ ánh sáng đẹp đẽ và nhân hậu. Điều ấy càng khiến con người ta thêm" giật mình ", thêm ngỡ ngàng, thậm chí là bàng hoàng về bản thân, sự im lặng đôi lúc chính là liều thuốc hữu hiệu, khiến chúng ta phải tự soi xét lại.
Sự bao dung, dịu dàng và thủy chung của vầng trăng khiến nhà thơ hiểu ra được nhiều điều, có lẽ cái" giật mình "ấy chính là sự tỉnh ngộ. Tỉnh ngộ để tìm lại bản thân, để sống tốt hơn, để nhớ lại và trân quý những gì tốt đẹp trong quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa, vầng trăng chính là một tấm gương sáng về lòng thủy chung của người tri kỷ, để người lính soi vào và suy ngẫm lại về bản thân mình suốt những năm qua đã sống thực sự nhân nghĩa hay chưa.
Vầng trăng xưa nay vốn đã rất quen thuộc với con người, trăng chiếu rọi xuống những ánh sáng nhàn nhạt, dịu nhẹ như người bạn, người thân, người tri kỷ sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp và đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.
Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng" ánh trăng"đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.
By: Mdlh Mạn
Chỉnh sửa cuối: