Phân tích các tác phẩm văn học lớp 9 - Ôn thi THPT

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Mdlh Mạn, 6 Tháng mười hai 2020.

  1. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nếu Nguyễn Du đã để vầng trăng làm nhân chứng cho mối lương duyên của Thúy Kiều - Kim Trọng, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng coi trăng như một người bạn tri kỉ "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". Cũng viết về vầng trăng, hình tượng vốn bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng của thi ca, nhưng bài thơ "Ánh trăng" vẫn khơi gợi trong tâm hồn người đọc những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.

    Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ, chiến sĩ đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tập thơ "Ánh trăng" là một trong những tập thơ quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. "Ánh trăng" được sáng tác vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng toàn miền Nam thống nhất đất nước. Ba năm sống trong hòa bình không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong quá khứ. Để rồi khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra..

    Mở đầu bài thơ là hình ảnh vầng trăng gắn liền với kỉ niệm của tuổi thơ và là hình tượng thiên nhiên tươi đẹp vĩnh hằng.

    "Hồi nhỏ sống với đồng

    Với sông rồi với bể"​

    Tuy hai câu thơ không nhắc đến vầng trăng, nhưng những hình ảnh giản dị, gần gũi thân quen của "đồng", "sông", "bể" cùng với cách gieo vần độc đáo đặc sắc đã mở ra trước mắt chúng ta một không gian bao la. Cánh đồng, dòng sông, mặt bể là nơi chôn dấu biết bao kỉ niệm tuổi thơ, ta hình dung ra tâm trạng vui sướng của đứa trẻ đang ngụp lặn chan hòa trong cái mát lạnh của thiên nhiên và chắc chắn có cả vầng trăng. Như vậy, vầng trăng đã gắn liền với kỉ niệm tuổi thơ. Đứa trẻ lớn lên trở thành người lính và vầng trăng cũng theo người vào tận chiến trường, trở thành biểu tượng của tri âm tri kỉ.

    "Hồi chiến tranh ở rừng

    Vầng trăng thành tri kỉ"​

    Tri kỉ là đỉnh cao của tình bạn gắn bó thân thiết với nhau, hiểu rõ về nhau, đó là tình bạn thiêng liêng cao cả. Và trăng được xem là người tri âm tri kỉ của người lính bởi trăng chia sẻ mọi niềm vui, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu nhưng đau thương nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu. Bốn câu thơ mở đầu với giọng kể thủ thỉ tâm tình "hồi nhỏ", 'hồi chiến tranh "đã gợi lên một khoảng thời gian dài từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành, và nhất là những năm tháng gian lao của chiến tranh. Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ với vầng trăng được làm rõ qua mấy câu thơ:

    " Trần trụi với thiên nhiên

    Hồn nhiên như cây cỏ

    Ngỡ không bao giờ quên

    Cái vầng trăng tình nghĩa "​

    Cuộc sống của tác giả từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn bó mật thiết và" trần trụi "với thiên nhiên, không che dấu bất kì điều gì, tác giả sống một cách đơn giản, bình yên và hôn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mãnh liệt, deo dai. Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, trăng trở thành người bạn tri kỉ với nhân vật trữ tình. Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ" ngỡ ", cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt mấy mươi năm cuộc đời kia.

    " Từ hồi về thành phố

    Quen ánh điện cửa gương

    Vầng trăng đi qua ngõ

    Như người dưng qua đường "​

    Thế nhưng những cái" ngỡ "thường khó có thể duy trì vì cuộc đời vốn biến đổi không ngừng, bởi vật chất xưa nay luôn quyết định ý thức. Rời chiến trường, rời quê hương với những đồng ruộng, sông bể quê mùa, nhà thơ vào giữa phố thị, được sống trong một cuộc sống dư dả, xa hoa.

    Nếu buổi trước kia phải vật vạ, mai phục nơi rừng sâu rậm rạp, phải chân lấm tay bùn với ánh đèn dầu mờ ảo thì nay cuộc sống đã đổi thay," ánh điện cửa gương ", đều là những thứ mới mẻ, dễ khiến người ta ham thích và sống sung sướng mãi rồi cũng quen đi. Bất chợt nhà thơ chẳng biết từ lúc nào đã quên đi cái ánh sáng nhàn nhạt dịu nhẹ đến từ thiên nhiên, đến từ vầng trăng mà mình vẫn luôn coi là tri kỷ.

    Không biết là do cuộc sống quá tất bật, bộn bề, hay lòng người vô tâm, bỏ quên kỷ niệm son sắt xưa cũ mà nay thấy vầng trăng ngự trên trời, cũng chẳng còn trân quý, chỉ là" người dưng qua đường ".

    " Thình lình đèn điện tắt

    Phòng buyn-đinh tối om

    Vội bật tung cửa sổ

    Đột ngột vầng trăng tròn "​

    Giữa sự trớ trêu và buồn tủi như thế, bỗng một tình huống bất ngờ xảy đến – mất điện, căn phòng tối om, khiến người lính vốn quen với ánh điện sáng trưng sửng sốt và hoang mang. Ông buộc phải tìm một nguồn sáng khác, cánh cửa mở ra, vầng trăng tròn" đột ngột "chiếu thẳng vào căn phòng tăm tối, chiếu thẳng vào tâm hồn của nhà thơ khiến ông giật mình.

    " Ngửa mặt lên nhìn mặt

    Có cái gì rưng rưng

    Như là đồng là bể

    Như là sông là rừng "​

    Vầng trăng và nhà thơ dường như đối diện với nhau một cách trực tiếp và thẳng thắn nhất, mặt đối mặt, bao kỷ niệm ùa về ùa về trong tâm trí của tác giả như bão tố khiến đôi mắt này" rưng rưng "nước mắt, nào là vầng trăng tri kỷ vẫn một lòng một dạ sắt son giữa trời xanh, xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bờ biển thuở ấu thơ, con sông xanh mát. Và có lẽ nhớ nhất chính là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ nhưng giàu những kỷ niệm không thể nào quên. Mà chỉ duy nhất một vầng trăng tri kỷ, vẫn bầu bạn, vẫn sẻ chia, vẫn dõi theo bước chân người lính chiến không rời.

    " Trăng cứ tròn vành vạnh

    Kể chi người vô tình

    Ánh trăng im phăng phắc

    Đủ cho ta giật mình "​

    Đối diện với trăng, nhà thơ dường như bị lép vế, bởi sự xấu hổ vì lỗi lầm vô tâm, nỡ bỏ quên những ân tình trong quá khứ, để chạy theo cuộc sống xô bồ tấp nập, theo" ánh điện cửa gương ", tách biệt với thiên nhiên, quên cả tri kỷ mà người đã từng" gỡ không bao giờ quên ". Trăng không hờn trách, không chỉ trích, trăng vẫn im lặng soi sáng, phủ lên nhà thơ thứ ánh sáng đẹp đẽ và nhân hậu. Điều ấy càng khiến con người ta thêm" giật mình ", thêm ngỡ ngàng, thậm chí là bàng hoàng về bản thân, sự im lặng đôi lúc chính là liều thuốc hữu hiệu, khiến chúng ta phải tự soi xét lại.

    Sự bao dung, dịu dàng và thủy chung của vầng trăng khiến nhà thơ hiểu ra được nhiều điều, có lẽ cái" giật mình "ấy chính là sự tỉnh ngộ. Tỉnh ngộ để tìm lại bản thân, để sống tốt hơn, để nhớ lại và trân quý những gì tốt đẹp trong quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa, vầng trăng chính là một tấm gương sáng về lòng thủy chung của người tri kỷ, để người lính soi vào và suy ngẫm lại về bản thân mình suốt những năm qua đã sống thực sự nhân nghĩa hay chưa.

    Vầng trăng xưa nay vốn đã rất quen thuộc với con người, trăng chiếu rọi xuống những ánh sáng nhàn nhạt, dịu nhẹ như người bạn, người thân, người tri kỷ sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp và đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.

    Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng" ánh trăng"đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.

    By: Mdlh Mạn
     
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  2. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12
    BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

    "Đường ra trận mùa này đẹp lắm

    Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây."​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những câu hát rộn ràng, mà vẫn đầy tha thiết được phổ từ bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng đến với thơ ca ông ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" với chất ngang tàng, khí thế, vô cùng dũng cảm kiên cường của những người lính, họ là đại diện tiêu biểu cho người lính Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ hào hùng. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, mất năm 2007, ông là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ra đời vào năm 1969 trong những năm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra gay go và quyết liệt nhất. Ở khắp nơi các thanh niên gác lại chuyện học tập lên đường đánh giặc, xung phong vào chiến trường. Lúc này con đường Trường Sơn là con đường huyết mạch, nối liền hậu phương và tiền tuyến nên bị bom Mỹ bắn phá ác liệt.

    Nhưng bằng sự dũng cảm, lòng quyết tâm những chiếc xe đã vượt qua mưa bom bão đạn lên đường ra trận. Bằng ngòi bút chân thật, âm điệu khỏe khoắn, hào hùng Phạm Tiến Duật đã đem đến cho người đọc cái nhìn đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của người lính lái xe. Ngay từ câu thơ mở đầu, người lính đã giới thiệu về người bạn đồng hành của mình – những chiếc xe không kính:

    "Không có kính không phải vì xe không có kính

    Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi."​

    Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì "bom giật bom rung" cho nên "kính vỡ đi rồi". Giọng điệu tếu táo dường như đang tranh cãi lí sự, giải thích nguyên nhân kết hợp với các điệp từ, động từ mạnh "bom giật", "bom rung" làm cho người đọc hiểu được thêm phần nào sự tàn ác, chết chóc của chiến trường ngày ấy. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đi vào thơ thường "mĩ lệ hóa", "lãng mạn hóa" và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, chiếc xe đưa Thúy Kiều ra đi cùng với Mã Giám Sinh cũng được nói đến một cảnh rất ước lệ:

    "Đùng đùng gió giục mây vần

    Một xe trong cõi hồng trần như bay."​

    Hay với Huy Cận trong bài "Đoàn thuyền đánh cá" :

    "Thuyền ta lái gió với buồm trăng

    Lướt giữa mây cao với biển bằng"​

    Còn bài thơ này, những chiếc xe không kính là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Hai câu thơ mở bài đã thu hút sự chú ý của người đọc vì cái giọng thản nhiên rất lạ của nó để rồi người đọc nhận ra chất thơ rất đẹp từ hình ảnh ấy. Bom đạn khốc liệt của chiến tranh cũng chỉ đủ cho những chiếc xe mất kính và những chiếc xe như vậy vẫn ngang tàn băng ra chiến trường. Chính chất thơ ấy làm cho những chiếc xe không kính trở thành hình ảnh độc đáo. Tất cả những hình ảnh đó gợi lên sự khốc liệt của chiến tranh

    Từ câu thơ thứ ba trở đi, hình ảnh người chiến sĩ lái xe là nhân vật chính và những chiếc xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm chất đẹp đẽ của họ. Khi người lái xe mở máy cho xe lăn bánh đồng nghĩa với việc bắt đầu trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc, nhưng họ vẫn giữ được tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có.

    "Ung dung buồng lái ta ngồi

    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng."​

    Tính từ "ung dung" đặt ở vị trí đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động ấy, khắc họa lên tư thế ung dung hiên ngang tự tại của người lính. Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, mở rộng "nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng". Cái nhìn trực diện, nhìn vào khó khăn gian khổ hi sinh mà không hề run sợ né tránh. Xe bắt đầu chuyển bánh với những chi tiết chân thật hơn bao giờ hết. Không có kính chắn gió, người lính phải đối mặt với bao gian lao nguy hiểm, nào là "gió", "cánh chim", "sao trời". Tất cả "như sa", "như ùa" rơi rụng va đập vào buồng lái, vào mặt mũi của người lái xe. Trong hoàn cảnh ấy dễ gây cảm giác căng thẳng nhưng các anh không hề run sợ, không hề hoảng hốt. Xe không kính đó là sự gian khổ, là sự thiếu thốn phương tiện nhưng họ đã biến những cái thiếu thốn ấy thành sự hưởng thụ. Điệp từ "nhìn", "thấy" được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc bé lại, thu vào đôi mắt của người lính, tạo nên cảm giác chân thật hơn. Đó là cái nhìn đậm chất lãng mạn, chỉ có những con người can đảm, vượt lên những thử thách khốc liệt của cuộc sống chiến trường. Đó là những thanh niên Việt Nam ngày ấy luôn sẵn sàng ý chí hi sinh tuổi xuân cho Tổ quốc.

    Ở hai khổ thơ tiếp theo, vẻ đẹp của người lính tiếp tục được khắc họa khi đối mặt với khó khăn, gian khổ ấy chính là khói bụi Trường Sơn:

    "Không có kính, ừ thì có bụi.

    Bụi phun tóc trắng như người già".

    Chưa cần rửa phì, phèo châm điếu thuốc

    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

    "Không có kính, ừ thì ướt áo

    Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

    Chưa cần thay lái trăm cây số nữa

    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi"​

    Hai đoạn thơ tả thực đến từng chi tiết, từng hình ảnh và thật cả trong cách diễn tả. Câu thơ đậm chất văn xuôi, mộc mạc như lời nói thường ngày. Xe không kính, bụi phun tóc trắng như người già. Xe không kính, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Điệp từ "chưa cần", hình ảnh "phì phèo châm điếu thuốc", giọng cười "ha ha" sảng khoái.. làm nổi bật chất bình dị mà anh hùng của những chiến sĩ lái xe trong chiến tranh. Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bậc. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam.

    Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính. Trong gian lao, thử thách, tình đồng đội, đồng chí càng trở nên thiêng liêng hơn, máu thịt hơn. Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình yêu thương đồng đội thắm thiết:

    "Những chiếc xe từ trong bom rơi

    Đã về đây họp thành tiểu đội

    Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

    Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi."​

    Từ trong bom rơi, trong hiện thực ác liệt của chiến tranh, người lính trở về cùng với những chiếc xe không còn nguyên vẹn. Với tinh thần lạc quan bất chấp khó khăn thách thức, người lính không chỉ vượt qua bụi đường mưa gió, mà đã biến những khó khăn thành thuận lợi để thắt chặt tình đồng chí. Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh "bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi" đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công.

    "Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

    Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

    Võng mắc chông chênh đường xe chạy

    Lại đi, lại đi trời xanh thêm."​

    Sinh hoạt của người lính được tóm lược vào hai hình ảnh "bếp Hoàng Cầm" và "võng mắc chông chênh". Cái gì cũng tạm bợ, cũng cơ động và gian khổ. Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn tả hết tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng trong hoàn cảnh ấy. Bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừng Trường Sơn, giấc ngủ chập chờn trên cánh võng chông chênh đường xe chạy đã đủ nói lên tất cả. Đó là cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí đoàn kết của tình đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt. Từ giã gia đình, quê hương lên đường đi chiến đấu, người lính có được một gia đình thứ hai với tình cảm thiêng liêng và sâu nặng. Điệp ngữ "lại đi" đã khắc họa đậm nét đoàn xe không kính vẫn không ngừng tiến tới, không một sức mạnh tàn bạo nào có thể ngăn được dòng xe. Để rồi một hình ảnh giàu chất thơ được mở ra "trời xanh thêm", là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời, chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống, của cách mạng.

    "Không có kính, rồi xe không có đèn,

    Không có mui xe, thùng xe có xước,

    Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

    Chỉ cần trong xe có một trái tim."​

    Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: Xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước.. Điệp ngữ "không có" nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách khốc liệt.

    "Chỉ cần trong xe có một trái tim."​

    Với biện pháp ẩn dụ "trái tim", Phạm Tiến Duật đã khẳng định được cội nguồn sức mạnh của đoàn xe. Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim người lính, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn chạy. "Tất cả cho tiền tuyến", đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên mọi khó khăn gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước. Đối lập với tất cả những thứ "không có" là một thứ "có". Đó là trái tim người lính, trái tim nồng cháy, tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chưa đựng bản lĩnh hiên ngang dũng cảm với tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc và Nam.

    Ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ là một sáng sạo nghệ thuật độc đáo góp phần khắc họa hình ảnh người lính. Ngôn ngữ giản dị, gần với đời sống thường ngày, giọng điệu ngang tàn, tinh nghịch hóm hỉnh phù hợp với tính cách của người chiến sĩ lái xe. Tất cả làm nên một bài thơ với dấu ấn đặc trưng – in sâu trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng trong những năm kháng chiến chống Mỹ gian khổ, ác liệt.

    By: Mdlh Mạn
     
    Ngudonghc thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  3. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12
    CHIẾC LƯỢC NGÀ

    Bấm để xem
    Đóng lại
     Phân tích bé Thu

    Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. "Chiếc lược ngà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của ông. Truyện được sáng tác năm 1966 tại chiến trường miền Đông Nam Bộ khi nhân dân miền Nam đang kiên cường chống Mĩ. Tác phẩm ca ngợi tình cha con sâu nặng, thiêng liêng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Bé Thu, nhân vật chính trong truyện, hiện lên là một cô bé gan lì, bướng bỉnh, có cá tính nhưng cũng rất yêu thương cha.

    Hình ảnh bé Thu hiện lên ngây thơ mà cũng đầy bản lĩnh được nhà văn khắc tạc một cách chân thực. Ngay từ lúc chưa đầy một tuổi, em đã sống xa vòng tay yêu thương của ba bởi ba em đi kháng chiến. Giữa sự chở che của bà, của mẹ. Em vẫn khao khát được gặp ba. Nét hồn nhiên của lứa tuổi khiến em tin rằng ba phải là người giống với cái hình chụp chung với má. Hình ảnh cô bé tám tuổi chơi ở nhà chòi cho thấy Thu là cô bé ngoan, biết nghe lời.

    Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà. Đến khi Thu lên tám tuổi hai cha con mới được gặp lại nhau. Cô bé tóc ngang vai, mặc quần đen, áo hoa đỏ, hồn nhiên, xinh đẹp, mới nhìn ông Sáu đã nhận ra ngay con gái mình. Nhưng niềm vui sau bao năm xa cách là được gặp lại con thì thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập ấy của người cha, bé Thu tỏ ra ngờ vực lảng tránh. Bé Thu "tròn mắt ngơ ngác, lạ lùng", "mặt bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má!" trước sự sững sờ của ông Sáu. Tất cả những hành động đó của bé Thu đều trái với niềm mong mỏi của ông Sáu nhưng lại phù hợp với tâm lý trẻ thơ. Bé Thu không nhận ba vì em chờ đợi một người cha khác, một người cha anh hùng, trẻ đẹp giống như trong tấm hình của má.

    Tưởng như đó chỉ là những phản ứng ban đầu của em, rồi sau đấy Thu sẽ vô cùng quấn quýt bên ông Sáu ba mình. Vậy mà mấy ngày sau, bé Thu luôn nhìn ông Sáu với cặp mắt xa lạ, cảnh giác. Ông Sáu càng vỗ về thì cô bé càng đẩy ra xa. "Anh mong một tiếng" ba "của con bé nhưng nó chẳng bao giờ chịu gọi". Sự ngang ngạnh được thể hiện một cách trực tiếp khi má kêu mời ba vô ăn cơm thì cô bé nói trống không: "Vô ăn cơm", "Cơm chín rồi". Ngay cả khi bị dồn vào thế bí: Nồi cơm sôi, mẹ dặn nó ở nhà phải chắt nước nếu không cơm nhão, nhưng cái nồi to quá mà con bé nhất quyết không gọi anh Sáu là ba để anh chắt nước giùm như lời gợi nhắc của anh Ba. Cô bé "luýnh quýnh, loay hoay, nhón lấy cái vá múc từng vá nước", giúp ta hình dung bé Thu không chỉ khéo léo, đáo để mà còn dũng cảm luôn giữ vững lập trường của mình. Những tưởng tình cảm yêu thương, sự săn sóc của anh Sáu bộc lộ

    Rõ nét trong bữa cơm, khi anh gắp cho nó một cái trứng cá to vàng. Bé Thu "lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất tung cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe cả mâm", sự đối kháng quyết liệt đẩy mâu thuẫn giữa hai cha con lên đỉnh điểm. Con bé bị anh Sáu đánh có lẽ anh hoàn toàn bất lực nhưng bé Thu không giãy nảy lăn ra khóc mà một loạt động từ "ngồi im, đầu cúi gằm xuống, gắp lại cái trứng cá để vào chén, lặng lẽ đứng dậy, lấy dầm bơi qua sông sang bên ngoại". Hành động của cô bé phần nào phản ánh tính cách của tuổi nhỏ và cá tính mạnh mẽ, rắn rỏi.

    Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường.

    Chính thái độ ngang ngạnh, quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Câu chuyện dường như rơi vào bế tắc, ba ngày về phép của ông Sáu tưởng như vô nghĩa vì bé Thu bỏ về nhà ngoại. Nhưng đúng lúc ông Sáu lên đường, bé Thu bất ngờ nhận ba. Đêm hôm trước, nghe bà giảng giải về vết thẹo trên mặt ba, Thu nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.

    Trong buổi sáng chia tay, nó đứng lặng yên nơi góc nhà quan sát. Trong mắt nó chứa đựng bao nhiêu điều suy nghĩ, ba của nó giờ đây không chỉ đẹp mà còn anh hùng, hiên ngang, dũng cảm. Nó không chỉ tự hào mà còn kiêu hãnh vì người ba của mình. Giờ phút chia tay, ông Sáu khoác ba lô lên vai đứng từ xa chào con nhưng đó lại là lúc hành động và thái độ của bé Thu thay đổi đột ngột. Lân đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba: "Ba.. a.. a.. ba!". "Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa". Tiếng kêu đó là tiếng gọi thiêng liêng cao cả khi bị dồn nén bảy, tám năm nay, là sự mong ước của ông Sáu và bé Thu.

    "Nó vừa kêu vừa chãy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó", "nó hôn khắp cùng, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài trên mặt của ba nó nữa", nó quyết không cho ba đi. Trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát từ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược ngà - món quà nhỏ mà bất cứ bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một nhân chứng cho tình cha con thiêng liêng bất tử.

    Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của ông Sáu trước lúc hi sinh nhờ bác Ba trao chiếc lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba" là một kỉ vật chứa đựng tình thương nỗi nhớ, hình bóng tấm lòng của người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu, khi bác Ba gặp lại Thu và trao cây lược thì cô bé cá tính, bướng bỉnh ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm, là nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu tình yêu ba và tình yêu đất nước.

    Bé Thu là một nhân vật gấy ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta súc động khi đọc "Chiếc lược ngà". Thông qua câu chuyện ông sáu và bé Thu, tác giả muốn ca ngợi vẻ đọe về tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong tình cảm mỗi con người, đồng thời ta càng biết thêm về những đau thương của người dân Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

     Phân tích ông Sáu

    Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. "Chiếc lược ngà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của ông. Truyện được sáng tác năm 1966 tại chiến trường miền Đông Nam Bộ khi nhân dân miền Nam đang kiên cường chống Mĩ. Tác phẩm ca ngợi tình cha con sâu nặng, thiêng liêng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Ông Sáu, nhân vật chính trong truyện, hiện lên là vẻ đẹp của người lính các mạng.

    Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những gì thân thương nhất, gác lại tình riêng vì ngiã lớn để rồi ngày kháng chiến thắng lợi, ông được nghỉ phép về thăm nhà, thăm con. Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc hình ảnh người chiến sĩ ấy là tình phụ tử thiêng liêng sâu đậm, tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái của mình.

    Mở đầu tác phẩm là tâm trạng sung sướng hồi hộp khi được về thăm nhà sau tám năm xa cách, khao khát được gặp lại con. Tình yêu thương con, nỗi khao khát được gặp con đã khiến cho linh tính của người cha mách bảo, giúp cho anh nhận ra con gái của mình sau 8 năm xa cách. Vì thế về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con, không chờ xuồng cập bến, "anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra". "Thấy đứa bé khoảng độ tám tuổi tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đò đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà", anh nóng lòng bước từng bước dài, vui mừng tột độ, khom người xuống, dang sẵn vòng tay chờ đợi con. Trong nỗi xúc động nghẹn ngào, cái tiếng mà ông dồn nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động làm người đọc thấy nghẹn ngào: "Thu! Con." Tiếng xưng "ba" sau bao ngày nhớ mong, mòn mỏi, vừa muốn vỡ òa, vừa lại như bị dòng cảm xúc quá lớn kìm xuống, khiến nó nghẹn lại trong "giọng run run" : "Ba đây con". Nhưng chính nỗi mong mỏi, niềm hạnh phúc, mong chờ quá lớn ấy lại khiến ông đau đớn bội phần khi đứa con gái không đáp lại sự vồ vập của ông, "mặt nó tái đi, rồi vụt chạy". Cả bầu trời như sụp xuống trước mắt người cha. Niềm đau, sự hụt hẫng bóp nghẹt trái tim ông. Ông "đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy".

    Không nản lòng, trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dành hết tình cảm cho bé Thu. Ông ân cần, nhẹ nhàng chăm chút con bé. Trước sự cự tuyệt, bướng bỉnh của cô con gái, người cha ấy vẫn hết sức bền bỉ, nhẫn nại. Đó là sự bao dung của một người làm cha, của nỗi niềm khao khát "mong được nghe một tiếng gọi ba của con gái". Và rồi, khi tình cảm quá lớn lại gặp phải sự cự tuyệt kiên quyết của bé Thu, nó như bị thúc ép, khiến ông không giữ được bình tĩnh "vung tay đánh mạnh vào mông" con bé và hét lên: "Sao mày cứng đầu quá vậy?".

    Ông Sáu đánh con vì tức giận, đau đớn và bất lực. Thời gian ông có thể ở bên con không còn nhiều, vậy mà con bé vẫn không chịu thừa nhận ông. Hành động đánh con của ông là một sự kìm nén của nỗi lòng mong mỏi quá lớn. Nhưng cũng chính điều đó đã giày vò tâm trí ông, trở thành mối khổ tâm suốt những năm tháng sau này khi phải xa con.

    Trong giờ phút chia tay, ông Sáu vỡ òa trong niềm hạnh phúc khi bé Thu bất ngờ nhận ba và cất tiếng gọi ba. Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ôm con nhưng lại sợ con không nhận đành phải nhìn từ xa. Ông khoác ba lô lên bài không dám lại gần, đứng từ xa chào con: "Thôi! Ba đi nghe con". Anh sợ nó bỏ chạy, anh lại càng đau đớn nhưng chính lúc anh đau đớn tuyệt vọng nhất lại là lúc anh bất ngờ đón nhận tiếng ba. Tiếng gọi ông Sáu khao khát, trông chờ, tưởng chừng mòn mỏi bao lâu đã vang lên, khiến tim ông như muốn vỡ ra vì hạnh phúc. Người đọc như cũng lạc nhịp tim trong giây phút âm thanh yêu thương ấy cất lên. Ông Sáu "không ghìm được xúc động", "một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt". Những dòng nước mắt tuôn trào từ trái tim yêu thương cháy bỏng của người cha. Anh đón nhận tình yêu thương mãnh liệt của con, sung sướng hạnh phúc vô bờ nhưng rồi lại ngẹn ngào xúc động, ngậm ngùi vì phải ra đi. Đó là sự khốc liệt của chiến tranh, là sự hi sinh thầm lặng mà người lính phải trải qua.

    Tình cảm yêu thương của ông Sáu được thể hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông Sáu trở lại chiến tranh. Sau khi chia tay với gia đình, ông Sáu vô cùng nhớ con. Những lúc ấy ông lại thấy dằn vặt day dứt vì đã đánh con trong lúc nóng giận, rồi lời dặn của con: "Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba!" đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà để tặng cho con.

    Khi kiếm được khúc ngà voi ông đã vô cùng vui mừng sung sướng "mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà". Vậy đấy, khi người ta "hóa thành" trẻ con lại chính là lúc người ta đang hiện lên cá tư cách người cha cao quý của mình, rồi ông Sáu dồn hết tâm sức và tình yêu thương và chiếc lược "những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố gắng như một người thợ bạc".

    Trên sống lưng lược có khắc một chữ nhớ mà ông gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét "yêu nhớ tặng Thu con của ba" chiếc lược ngà trở thành kỉ vật thiêng liêng của ông Sáu là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc đằm thắm sâu lặng. Nó làm dịu đi lỗi ân hận và chứa đựng bao tình cảm yêu mến nhớ thương mong đợi của người cha đến với đứa con xa cách "cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con nhưng như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh". Những đêm nhớ con anh anh mang chiếc lược ngà ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Lòng yêu thương con được kết tinh trong cây lược ngà ấy đã khiến cho người cha - người đã trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tác ra một tác phẩm duy nhất của cuộc đời.

    Nhưng rồi trong tình cảnh đau thương lại đến với ông Sáu, ông bị trúng đạn của giặc. Trong giờ phút cuối cùng không kịp trăng trối lại điều gì, "ông đưa tay vào túi, móc cây lược" đưa cho ông Ba - người bạn chiến đấu và nhìn bạn một hồi lâu, cái nhìn như một lời trăng trối ủy thác thiêng liêng là ước nguyện giữ gìn tình phụ tử muôn đời. Ông Sáu đã hi sinh nhưng tình cha con ở ông thì không thể nào chết được, tình cha con mãi thiêng liêng bất diệt.

    Người đọc đã không cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc thét của đứa con gọi ba buổi chia tay hồi nào, giờ bỗng không thể cầm được lòng khi chứng kiến cái cử chỉ cầm lược và ánh mắt của người cha vào giây phút lâm chung. Cũng từ hình ảnh này, nhà văn đã khẳng định: "Bom đạn và chiến tranh có thể hủy diệt sự sống nhưng tình cha con, tình phụ tử thiêng liêng thì không gì có thể giết chết được".

    Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống, đề từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao khung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt nhà văn đã chọn một số chi tiết nghệ thuật rất đắt như lời dặn của bé Thu, của ông Sáu khi nhận được khúc ngà.. Tất cả góp phần tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng, của người cha yêu thương con nồng thắm.

    By: Mdlh Mạn
     
    Ngudonghc thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  4. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12
    ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông tên thật là Cù Huy Cận, sinh năm 1919 và mất năm 2005, quê ở Hà Tĩnh. Sau cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được sáng tác vào năm 1958, in trong tập "Trời mỗi ngày lại sáng" nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh.

    Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn trong không khí vui tươi, tấp nập, lạc quan và tràn đầy hi vọng.

    "Mặt trời xuống biển như hòn lửa

    Sóng đã cài then, đêm sập cửa."​

    Nếu như đoàn thuyền trong bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh ra khơi trong sắc màu bao la của bình minh thì "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận lại ra khơi khi hoàng hôn buông xuống. Câu thơ mở đầu miêu tả cảnh mặt trời như hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống dưới đáy đại dương để lại trên biển và phía chân trời một màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh "Mặt trời như hòn lửa" gợi tả cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ. Trong khoảng khắc bao sắc màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm.

    Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ, những con sóng giống như chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa. Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà trong trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng cam đảm của con người. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy ta lại bắt gặp hình ảnh:

    "Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

    Câu hát căng buồm cùng gió khơi."​

    Từ "lại" chỉ sự lặp đi lặp lại nhiều lần liên tục đã trở thành thói quen. Đó là tinh thần lao động hăng say quên cả mệ mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của những con người lao động mới của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư dân cất lên. Câu hát hòa cùng với làn gió mát của biển khơi thổi căng cánh buồm để đưa con thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp khoa trương "Câu hát căng buồm" tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Câu hát hòa cùng với gió khơi là muốn nói đến sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng hộ con người. Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp:

    "Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng

    Cá thu biển Đông như đoàn thoi

    Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

    Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"​

    Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá: Cá bạc, cá thu.. Phép tu từ so sánh "cá thu như đoàn thoi" vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. "Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi" câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời.

    "Thuyền ta lái gió với buồm trăng

    Lướt giữa mây cao với biển bằng

    Ra đậu dặm xa dò bụng biển

    Dàn đan thế trận lưới vây giăng."​

    Nhà thơ trìu mến gọi thuyền là "thuyền ta", thuyền của ta, con thuyền của người miền Bắc đang sôi nổi với không khí làm ăn tập thể. Đó không phải là con thuyền mang theo khát vọng mưu sinh như trong "Quê hương" của Tế Hanh mà là con thuyền mang theo sức mạnh của đất nước. Bằng hình ảnh nói quá, con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao kì vĩ ngang tầm vũ trụ. Một con thuyền đặc biệt, có gió cầm lái, còn trăng là cánh buồm gợi sự nhịp nhàng hòa quyện của đoàn thuyền với biển trời. Hình ảnh được đặt trong mối quan hệ hài hòa với thiên nhiên "buồm", "trăng", "mây cao", "biển bằng" diễn tả con thuyền tung hoành giữa biển trời mênh mông và đang làm chủ biển khơi. Người lao động ra khơi đề "dò bụng biển" và "dàn đan thế trận" nhằm chinh phục biển khơi.

    "Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

    Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

    Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,

    Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long."​

    Từ trên mạn thuyền ngắm biển, những bức tranh đa sắc màu rực rỡ lộng lẫy như sơn mài hiện ra. Với nghệ thuật liệt kê, tác giả đã gợi lên sự giàu có của biển cả bằng tên của các loài cá khác nhau, đó là những loài cá quý của vùng biển nước ta mang giá trị kinh tế lớn. Biển không chỉ giàu mà còn rất đẹp, biển đẹp một cách thơ mộng. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống, trời khuya dần, trăng bắt đầu lên, chúng ta có thể hình dung giữa không gian bao la sông nước, giữa ánh sáng dịu dàng mờ ảo của ánh trăng trên biển, lúc ấy biển mang màu sắc thật nên thơ, nó lấp lánh dịu dàng và thanh toát. Vẻ đẹp đó hòa cùng với màu sắc muôn loài của cá trên biển, với một loạt tính từ chỉ màu sắc: Đen, hồng, vàng chóe lấp lánh. Tất cả tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và đầy chất lãng mạn.

    "Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long."

    Là một hình ảnh nhân hóa đẹp. Biển đêm được miêu tả như một sinh vật, tiếng thở của biển đêm chính là ánh sao lùa sóng nước, hòa với tiếng gọi thuyền trên nhịp điệu hối hả của đêm tàn. Những tưởng tượng của nhà thơ là hình ảnh sáng tạo nghệ thuật khiến cho thiên nhiên thêm sinh động. Tất cả là một bức tranh hòa nhịp kì diệu giữa thiên nhiên với con người. Biển không chỉ đẹp, mà còn giàu có với tài sản vô tận, đã ban tặng cho con người món quà vô giá, hinh vì thế mà Huy Cận đã ví biển như lòng mẹ bao la.

    "Ta hát bài ca gọi cá vào,

    Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,

    Biển cho ta cá như lòng mẹ

    Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"​

    Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại được tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hò dô của con người khi kéo được mẻ cá nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để gọi cá, vừa có lời bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta như một đoàn hợp xướng chuyên nghiệp trên sân khấu. Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất giản dị mà lại rất gần gũi. Tác giả so sánh biển như lòng mẹ, người mẹ bao giờ cũng mang đến cho người con những gì là của con nhất, mang đến cho người con những gì mà người con cần nhất. Mẹ đã nuôi lớn ta từ khi ta còn trong lòng mẹ, cũng giống như biển cả cho con người lao động những mẻ cá để nuôi lớn con người, rồi cứ thế hệ này tới thế hệ khác.

    "Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

    Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

    Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

    Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng"​

    Hình ảnh lao động của người ngư dân hiện lên với vẻ đẹp tươi vui, rạng rỡ và phấn khởi. Huy Cận rất tài tình khi sử dụng hình ảnh thơ giàu chất tạo hình với một động từ "xoăn". Dù chỉ là một động từ miêu tả động tác kéo lưới nhưng hình ảnh người ngư dân hiện lên với vóc dáng cường tráng vạm vỡ, khỏe mạnh của những con người quen với sóng gió đại dương. Không những thế, từ "xoăn" còn diễn tả tư thế lao động khẩn trương, nhịp nhàng nhưng cũng đầy gian khổ và hiểm nguy.

    "Câu hát căng buồm cùng gió khơi

    Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

    Mặt trời đội biển nhô màu mới,

    Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi."​

    Đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ. Và đó là kết quả của một đêm lao động miệt mài, là những chùm cá nặng khép lại cảnh đánh cá trên biển và mở ra cảnh trở về. Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay mỗi từ "với", tạo nên kết cấu đầu đuôi tương ứng, ra đi khi mặt trời xuống biển và trở về khi mặt trời đội biển nhô màu mới, ra đi trong câu hát và trở về trong câu hát. Cảnh biển đêm luôn rực rỡ, tráng lệ, nguy nga, kì vĩ dù là bình minh hay lúc hoàng hôn. Niềm vui tươi phấn khởi, niềm lạc quan phơi phới tràn ngập cả không gian dù là thời khắc đoàn thuyền ra khơi hay trở về.

    Hình ảnh "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời" Là hình ảnh nhân hóa đặc sắc thể hiện khát vọng ước mơ tầm vóc của con người, sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên vũ trụ. Khát vọng chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước, đó là vẻ đẹp của người dân mới trong đời sống mới.

    Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ làm cho người đọc như đang chứng kiến cảnh lao động của người dân vùng chài. Hình ảnh đẹp mà giản dị, giọng văn tinh tế mà lôi cuốn, bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" là động lực giúp cho người lao động vươn lên chính mình, vươn lên trong cuộc sống, xây dựng cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc và gặt hái được nhiều thành công.

    By: Mdlh Mạn
     
    Ngudonghc thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  5. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12
    ĐỒNG CHÍ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngôn từ cảm xúc, giản dị. Bài thơ "Đồng chí" là một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu tiên trên một tờ báo đại hội ở chiến khu Việt Bắc năm 1948, dựa trên những trải nghiệm của Chính Hữu cùng đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947) đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.

    Ngòi bút tài hoa của Chính Hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:

    "Quê hương anh nước mặn đồng chua

    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"​

    Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, khác nhau về địa giới nhưng giống nhau ở cái nghèo lam lũ. Hai câu thơ trên vừa như đối nhau vừa như song hành, thể hiện tình cảm của người lính. Việc vận dụng thành ngữ "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" đã nhấn mạnh hoàn cảnh, xuất thân của những người lính cùng chung giai cấp, họ hiểu nhau yêu thương nhau với tình cảm tương thân tương ái. Đó là vẻ đẹp truyền thống của người Việt Nam. Bên cạnh vẻ đẹp truyền thống, người lính còn tỏa sáng với vẻ đẹp thời đại, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn. Hính ảnh sóng đôi như một chất keo vô hình gắn kết "anh-tôi", cùng đứng trên một dòng thơ, kề vai sát cánh trong hàng ngũ, cùng chung một lòng yêu tổ quốc nồng nàn. Khi tổ quốc gọi, họ lại tập hợp dưới lá cờ chính nghĩa đề từ xa lạ hóa thân quen. Anh với tôi là đôi người keo sơn gắn bó không thể tách rời.

    "Anh với tôi đôi người xa lạ

    Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

    Súng bên súng, đầu sát bên đầu

    Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

    Đồng chí!"​

    Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các anh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen. Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến trường vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau:

    "Súng bên súng, đầu sát bên đầu

    Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"​

    Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: "Súng bên súng, đầu sát bên đầu" đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. "Súng bên súng" là chung nhiệm vụ, chung hành động. "Đầu sát bên đầu" là chung chí hướng, chung lí tưởng.

    Chính Hữu đã dùng các từ "sát, bên, chung" gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh "đêm rét chung chăn" là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ thân thiết của nhau mà đã trở thành những người "đồng chí".

    "Đồng chí!"​

    Đến đây, nhà thơ hạ xuống một dòng thơ đặc biệt với hai tiếng "Đồng chí" cùng một dấu chấm than như một tiếng reo vui, như một phát hiện, một lời khẳng định về tình cảm thiêng liêng cao đẹp giữa những anh bộ độ cụ Hồ. "Đồng chí!" Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: Khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính.

    Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Trải qua những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau. Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:

    "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

    Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

    Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"​

    Cách mạng tháng Tám thành công đưa đến cho người nông dân mảnh ruộng gian nhà. Đó là tài sản quý giá mà họ mơ ước bao đời. Vậy mà khi kháng chiến, vì lí tưởng họ sẵn sàng từ giã quê hương, lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, để lại sau lưng những gì yêu quý nhất, để lại cả tình yêu của nỗi nhớ quê hương. Ngoài ra tác giả còn dùng biện pháp tu từ nhân hóa kết hợp với ẩn dụ và hai tiếng "mặc kệ" đã diễn tả chính xác, tư thế của người ra đi với một thái độ dứt khoát, quyết tâm. Đó cũng là thái độ của cả một thế hệ, một dân tộc, một thời đại.

    "Người ra đi đầu không ngoảnh lại

    Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"

    - Nguyễn Đình Thi -​

    Nhưng sâu xa trong lòng họ vẫn nhớ về quê hương, với nỗi nhớ cồn cào da diết, để rồi sau mỗi chặng đường hành quân hay trong khoảng lặng giữa hai trận đánh, họ lại kể cho nhau nghe về nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tình đồng chí, đồng đội cũng làm nên sức mạnh để giúp người lính nương tựa vào nhau, cùng nhau trải qua những gian lao thiếu thốn.

    "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

    Rét run người vầng trán ướt mồ hôi

    Áo anh rách vai

    Quần tôi có vài mảnh vá

    Miệng cười buốt giá

    Chân không giày

    Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"​

    Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng "anh - tôi", "áo anh - quần tôi" tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan "miệng cười buốt giá", bằng tình yêu thương gắn bó "thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Hình ảnh "miệng cười buốt giá" gợi lên một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng. Các anh nắm tay nhau để truyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!

    "Đêm nay rừng hoang sương muối

    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

    Đầu súng trăng treo."​

    Ba câu thơ là sự kết hợp hài hòa đến mức tuyệt diệu giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn phản ánh được tâm hồn lạc quan của người lính trong chiến đấu gian khổ và ác liệt. Điều kì diệu ấy là vẻ đẹp tâm hồn của người lính, là nơi phát ra quầng sáng lung linh của tình đồng chí, đồng đội. Ba câu thơ ngắn gọn như một hiện thực khốc liệt được mở ra, đó là "rừng hoang sương muối", đó là khoảnh khắc hồi hộp chờ giặc tới. Hình ảnh con người trong tình cảnh ác liệt ấy vẫn nên thơ, với một hình ảnh vầng trăng treo trên đầu mũi súng "đầu súng trăng treo". Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya. Suốt đêm, vầng trăng từu bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Nhưng đó còn là hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú, sâu xa. "Súng", biểu tượng cho vẻ đẹp bình yên mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính, chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến, một nền thơ giàu chất hiện thực và dào dạt cảm hứng lãng mạn. Vì vậy câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả tập thơ, "Đầu súng trăng treo".

    Bài thơ "Đồng chí" với những chi tiết, hình ảnh giản dị chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.

    By: Mdlh Mạn
     
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  6. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12
    MÙA XUÂN NHO NHỎ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông dã diễn đạt cảm hứng đón nhận thanh sắc, đất trời mùa xuân, cảm nhận đầy tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước. Đồng thời, bài thơ cũng là một tâm nguyện dâng hiến sức xuân trong cuộc sống cách mạng của đất nước. Thanh Hải sinh năm 1930, mất năm 1980, quên ở Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế. Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" ra đời vào tháng 11 năm 1980, lúc này đất nước đã thống nhất, đang xây dựng cuộc sống mới với muôn vàn khó khăn gian khổ. Đây cũng là một hình ảnh đặc biệt của Thanh Hải, khi ông đang bị bệnh nặng và một tháng sau ông qua đời.

    Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế tươi mát đẹp đẽ để từ đó bộc lộ những cảm hứng say đắm, đón nhận thanh sắc đất trời mùa xuân:

    "Mọc giữa dòng sông xanh

    Một bông hoa tím biếc"​

    Chỉ bằng một vài nét phác họa, bức tranh mùa xuân quê hương đã hiện lên với một khoảng không gian khoáng đãng, cao rộng, êm dịu và đầy chất thơ. Bức tranh ấy được mở ra bằng chiều dài của dòng sông, chiều cao của bầu trời và chiều sâu của cảm xúc. Bức tranh là một sự pha trộn đặc biệt của màu sắc, màu xanh của dòng sông, màu tím của hoa.

    Bằng việc sử dụng đảo ngữ từ "mọc" lên đầu cùng với việc sử dụng lượng từ một tác giả đã nhấn mạnh sự xuất hiện đột ngột, bất ngờ cùng với sức sống mạnh mẽ căng tràn của sức xuân thể hiện qua hình ảnh bông hoa. Màu tím biếc như có sức lan tỏa cả mặt sông xanh, hòa quyện với nhau tạo cảm giác dịu mát hài hòa, vừa là tín hiệu của mùa xuân, vừa là vẻ đẹp tinh túy của đất trời. Hơn thế nữa, bức tranh mùa xuân còn ghi vào lòng người những âm thanh lảnh lót của con chim chiền chiện, khiến cho niềm xúc động bồi hồi, xôn xao chợt bật thành tiếng hỏi:

    "Ơi con chim chiền chiện

    Hót chi mà vang trời

    Từng giọt long lanh rơi

    Tôi đưa tay tôi hứng."​

    Cảm xúc của tác giả say sưa, ngây ngất, rạo rực trước cảnh đất trời vào xuân. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến trong không gian mà ngưng tụ lại thành từng giọt âm thanh, từng giọt ấy long lanh ánh sáng và sắc màu. Bằng biện pháp ẩn dụ, chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác rồi đến xúc giác. Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác đón nhận, trân trọng và tha thiết, trìu mến của mùa xuân. Đưa tay "hứng" từng giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. "Giọt long lanh" có thể hiểu là những giọt mưa xuân, giọt sương của mùa xuân trong sáng rơi xuống từng nhành cây, kẻ lá. Cũng có thể hiểu là từng giọt âm thanh của tiếng chim. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa ngây ngất của nhà thơ trước cảnh đất trời xứ Huế khi mùa xuân.

    Cả đoạn trên đã không chỉ lột tả được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn diễn tả được sự say đắm, ngỡ ngàng và thái độ đón nhận trân trọng, nâng niu của tác giả. Sau những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, khổ thơ thứ hai trong bài là những cảm nhận thật hơn về sức xuân nảy nở nơi những con người chiến đấu và lao động - hai mẫu người gắn liền với chiều dài lịch sử phát triển của đất nước.

    "Mùa xuân người cầm súng

    Lộc giắt đầy trên lưng

    Mùa xuân người ra đồng

    Lộc trải dài nương mạ"​

    Bốn câu thơ lặp lại từng cặp cấu trúc sánh đôi cùng điệp ngữ mùa xuân xuất hiện đầu hai câu 1 - 3 đã gợi ra những hình ảnh về đoàn quân cầm súng và đoàn người ra đồng. Bên cạnh đó, tác giả dùng thêm từ "lộc" để nói tới sức xuân đang nảy nở. Hình ảnh "lộc" không chỉ là hình ảnh tả thực mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. "Lộc" là nhành non chồi biếc, cỏ cây của mùa xuân. Đối với người chiến sĩ, "lộc" là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc đầy cam go và ác liệt. Đối với người nông dân "một nắng hai sương", "lộc" là những mầm xuân tươi non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Nhưng đặc biệt hơn cả, "lộc" là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lý tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm kiên cường nơi lửa đạn bom rơi, tâm hồn của người nông dân cần cù hăng say tham gia sản xuất.

    Họ đã mang cả mùa xuân, sức xuân ra đồng, ra chiến trường và hơn thế nữa, họ đang mang cả mùa xuân về cho đất nước. Từ hai hình ảnh của hai lớp người này tác giả đã đi tới một khái quát cao hơn đối với tất cả.

    "Tất cả như hối hả

    Tất cả như xôn xao.."​

    Cả dân tộc đang hừng hực sức sống mới trước mùa xuân nhiệm màu. Tất cả đang vội vã, khẩn trương trong công việc để cống hiến, xây dựng đất nước. Và thêm nữa, từ "xôn xao" như diễn đạt một sự thay đổi, một sự biến chuyển trong tâm hồn mỗi con người trước mùa xuân. Đây cũng chính là tâm trạng của tác giả, là cái náo nức trong tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả như náo nức, reo vui trước tinh thần lao động của con người. Mùa xuan của đất nước được làm nên từ cái hối hả ấy, sức sống của đất nước, của dân tộc cũng được tạo nên từ "người cầm súng" và "người lao động".

    Tất cả mọi người đang đóng góp những mùa xuân nhỏ bé của mình cho mùa xuân của đất nước:

    "Đất nước bốn nghìn năm

    Vất vả và gian lao

    Đất nước như vì sao

    Cứ đi lên phía trước."​

    Mùa xuân của đất nước được cảm nhận trong sự tổng kết chiều dài lịch sử bốn nghìn năm với bao vất vả, gian lao và đất nước được so sánh với vì sao, nguồn sáng kì diệu của thiên hà, vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên vũ trụ. Đất nước ấy như một bà mẹ tảo tần, vất vả, qua bao gian lao thử thách vẫn kiêu hãnh, ngoan cường cứ đi lên phía trước không chỉ bằng sức mạnh của hôm nay mà bằng sức mạnh của bốn nghìn năm lịch sử. Câu thơ như là một điểm nhấn, lời tổng kết về sức sống mãnh liệt của đất nước đồng thời ẩn chứa niềm tự hào, niềm tin của tác giả vào cuộc đời và đất nước.

    Khổ thơ thứ tư, năm là hai khổ thơ bộc lộ rõ nhất chủ đề của bài thơ đó là ước nguyện thiết tha muốn hòa đồng cùng mùa xuân đất nước, ước nguyện dâng hiến tài sức cho đời. Và trước tiên, ước nguyện của nhà thơ là ước nguyện muốn hòa đồng cùng thiên nhiên đất nước:

    "Ta làm con chim hót

    Ta làm một cành hoa

    Ta nhập vào hòa ca

    Một nốt trầm xao xuyến."​

    Điệp từ "ta làm" thể hiện ước nguyện chân thành tha thiết. Là một mùa xuân nho nhỏ, cống hiến một phần tốt đẹp của mình vào mùa xuân lớn của đất nước, với cuộc đời chung. Sự chuyển đổi cách xưng hô từ "tôi" – cái riêng sang "ta" – cái chung, chính là thể hiện khát vọng hòa nhập ấy.

    Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời để bày tỏ ước nguyện: Con chim, một cành hoa, một nốt trầm. Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân, còn gì vui hơn khi được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời, một nốt trầm trong một bản hòa ca. Điệp từ "một" diển tả sự ít ỏi, nhỏ bé. Tất cả đều là hình ảnh ẩn dụ, khiêm nhường, thể hiện xúc động và tâm niệm chân thành của nhà thơ. Không ồn ào, cao rộng, nhà thơ chỉ muốn làm "một nốt trầm" nhưng phải là một nốt trầm làm xao xuyến lòng người. Những ước muốn giản dị để thành những vật nhỏ bé nhưng chính những vật nhỏ bé này lại góp phần quan trọng không thể thiếu để tạo nên mùa xuân, tạo nên sắc xuân.

    Những ước muốn tưởng như giản dị ấy lại có một ý nghĩa lớn lao đó là phải đóng góp những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất nước, dù đó là sự cống hiến khiêm nhường, giản dị. Điều đó không chỉ ước muốn của riêng tác giả mà là của tất cả mọi người, tất cả chúng ta. Trong bài "Một khúc ca xuân" của Tố Hữu đã từng viết:

    "Nếu là con chim, chiếc lá

    Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.

    Lẽ nào vay mà không trả

    Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?"​

    Sau ước nguyện hòa đồng, tác giả đã đi tới khát vọng cống hiến bền bỉ của mình. Trong cảm hứng trữ tình, nhân vật trữ tình bỗng biến thành mùa xuân nho nhỏ, một mùa xuân không chỉ mang ý nghĩa mà là một mùa xuân nhỏ bé, có hình khối hữu hạn nhập vào mùa xuân rộng lớn của đất nước:

    "Một mùa xuân nho nhỏ

    Lặng lẽ dâng cho đời

    Dù là tuổi hai mươi

    Dù là khi tóc bạc."​

    Khổ thơ như là một lời nhắn nhủ, một lẽ sống. Sống là để cống hiến. Mùa xuân nho nhỏ còn là quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa mỗi con người giữa cuộc đời chung của dân tộc. Thanh Hải đã chọn cho mình một cách cống hiến riêng không phô trương, không ồn ào, cống hiến một cách âm thầm lặng lẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi.

    Bài thơ ít nói đến Huế nhưng người đọc vẫn nhận ra một điều, bài thơ vẫn đậm đà chất Huế. Chất Huế nằm trong cảnh sắc nên thơ trong tâm hồn dịu dàng, đằm thắm trong những bài thơ ngũ ngôn, trong những bài dân ca Huế. Và đặc biệt chất Huế đậm đà ở khổ cuối trong tiếng hát, tình yêu nước non, tình yêu quê hương đất nước:

    "Mùa xuân - ta xin hát

    Câu Nam ai, Nam bình

    Nước non ngàn dặm mình

    Nước non ngàn dặm tình

    Nhịp phách tiền đất Huế."​

    Nếu những khổ thơ trên là những suy ngẫm cảm động về ước nguyện dâng hiến thì khổ thơ cuối nhà thơ lại muốn được cất lên tiếng hát thiết tha dựa trên lời ca buồn bã của câu Nam ai Nam bình, Thanh Hải đã chuyển thành một nội dung đằm thắm chất Huế, vừa hòa chung cùng nước non.

    Lời ca như vang vọng, gợi mở ra một cái tình nhỏ bé trong cái ngàn dặm rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn rất gần gũi, tràn đầy yêu thương và ấm áp. Tiếng hát đằm thắm hiền hòa xen với những tiếng phách giòn giã, tươi vui đã kết lại bài thơ. Bài thơ khơi lên là dòng sông là tiếng chim hót vang trời xứ Huế. Kết thúc lại là nước non và tiếng hát tươi vui cả tình yêu nước non ngàn dặm, tình yêu quê hương đất nước.

    Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Thanh Hải đã góp cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. Ngôn ngữ thơ trong sáng và biểu cảm, hàm súc và hình tượng. Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, song hành đối xứng, điệp ngữ.. được vận dụng sắc sảo, tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

    By: Mdlh Mạn
     
    Ngudonghc thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  7. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12
    NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI

    Phân tích Phương Định

    "Đêm đã về khuya, sương rơi ướt áo

    Tiếng hát em vang vọng núi rừng

    Mặc bom rơi pháo sáng mịt mùng

    Em vẫn mở đường để xe đi tới."

    (Cô gái mở đường – Xuân Giang)​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Công việc phá bom của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn là một công việc thật vinh quang những cũng đầy hi sinh gian khổ. Không phải ai cũng có đủ dũng khí và can đảm để đảm đương công việc nguy hiểm này. Thế nhưng họ - những cô gái mở đường đã dám làm những điều không tưởng thật khiến cho chúng ta khâm phục và cảm kích cho sự hi sinh đầy cao cả ấy. Bằng tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã khắc họa rõ nét về những cô gái thanh niên xung phong trong thời kig kháng chiến chống Mĩ năm 1971. Nhân vật chính trong tác phẩm là Phương Định, một nữ thanh niên xung phong đẹp cả ngoại hình lẫn tâm hồn

    Phương Định, Nho và Thao là ba cô gái còn rất trẻ làm thành một tổ trinh sát mặt đường. Họ ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa vùng trọng điểm đánh phá của địch. Công việc của cô và đồng đội là "đo khối lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom" để bảo vệ con đường cho những đoàn xe băng băng về phía trước, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Công việc đầy hi sinh gian khổ nhưng chính hoàn cảnh ấy đã làm sáng ngời lên những phẩm chất đáng quý của chị.

    Phương Định là một cô gái Hà Nội vào chiến trường. Ấn tượng đầu tiên về cô là vẻ bề ngoài đáng yêu, trẻ trung, xinh xắn và đầy sức sống. Cô có "hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa lòa kèn". Đặc biệt, cô có đôi mắt với ánh nhìn sao mà xa xăm. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm cô, hay "viết những thư dài gửi đường dây", "mặc dù có thể chào nhau hằng ngày". Phương Định cảm nhận được điều đó, cô cảm thấy vui và tự hào nhưng chưa dành tình cảm cho một ai. Cô chỉ thích ngắm mình trong gương và làm điệu hoặc có vẻ kiêu kì một cách đáng yêu khi thấy các đồng đội của mình tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đó.

    Phương Định vừa bước qua tuổi học trò hồn nhiên, vô tư lự. Cô mang theo vào chiến trường Trường Sơn đầy ác liệt cả những nét đáng yêu của một cô gái tuổi mới lớn, mang theo cả một tâm hồn mơ mộng, rất hồn nhiên, yêu đời. Cô thích hát, mê hát, "thường thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa lời mà hát". Cô thích nhiều bài, thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng, thích "Ca-chiu-sa" của Hồng quân Liên Xô, thích ngồi bó gối mơ màng. Cô hát để động viên đồng đội và cũng là để động viên chính bản thân mình, để gửi vào trong tiếng hát nỗi khát khao của tuổi trẻ, của người chiến sĩ, mong được trở về quê hương yêu dấu, được gặp lại người yêu sau bao nhiêu nhớ nhung, chờ đợi. Phương Định sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư giữa gia đình và thành phố Hà Nội thân yêu. Gặp một trận mưa đá, cô chợt nhớ tới mẹ, nhớ cái cửa sổ, nhớ tiếng rao của bà bán xôi có cái mũng trên đầu, nhớ những ngôi sao xa xăm trên bầu trời thành phố. Cơn mưa đã qua nhanh nhưng lại mang dòng kí ức của tuổi thơ về cho Phương Định. Chính những kỉ niệm đó đã làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.

    Cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác, ở Phương Định nổi bật lên tinh thần dũng cảm, thái độ bình tĩnh vượt lên mọi hiểm nguy. Điều đó được thể hiện cụ thể qua một lần phá bom trên cao điểm ở Trường Sơn. Mặc dù đã quen với công việc nguy hiểm này, thậm chí có ngày còn phá đến năm quả bom nhưng mỗi lần phá bom vẫn là một lần thử thách với thần kinh cho tới từng cảm giác. Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một vùi xuống đất. Khung cảnh và không khí chứa đầy căng thẳng, vắng lặng đến phát sợ, cây còn lại xơ xác, đất nóng, khói đen vật vờ từng cụm trong không trung. Nhưng cô không hề sợ hãi. Cô có cảm giác như các chiến sĩ đang dõi theo mình, vì vậy mà cô cảm thấy an tâm hơn. Cô quyết định không đi khom, bởi một lý do rất đơn giản "Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới." Cảm giác ấy vừa thể hiện lòng tự trọng, vừa là ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm vượt qua mọi hiểm nguy.

    Phương Định dùng xẻng nhỏ đào đất có quả bom, một tiếng động sắc đến gai người vang lên, cứa vào da thịt cô "Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành". Cách miêu tả của tác giả thật tài tình, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được âm thanh của hai vật bằng sắt chạm vào nhau rồi lại cảm thấy rùng mình như Định, càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, gan dạ của cô. Những lúc đối mặt với quả bom sắt lạnh lùng, cô cũng có nghĩ đến cái chết "như một cái chết rất mờ nhạt, không cụ thể". Đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Tất cả nhường chỗ cho suy nghĩ "liệu mìn có nổ không, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?" Trong suy nghĩ của Phương Định, cô luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ thật tốt dù có phải hi sinh. Cảm xúc, suy nghĩ chân thật ấy của cô đã truyền sang người đọc nhiều đồng cảm, yêu mến, trân trọng và kính phục. Chính nhờ sự gan góc, dũng cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã giúp cô thực hiện tốt công việc của mình. Một cô gái như muôn ngàn cô gái khác trên tuyến đường Trường Sơn, đang hàng giờ dệt nên những kì tích cho Tổ quốc thân thương: Những con đường bằng phẳng để các chuyến xe vượt Trường Sơn tiến vào Nam.

    Công việc "chọc giận thần chết" đã trở nên quen thuộc với cô, là công việc hàng ngày, nhưng nó không làm cho tâm hồn cô trở nên chai lì, khô cứng. Ở Phương Định, ta còn thấy thường trực một tình cảm đồng đội, đồng chí nồng ấm. Cô quan tâm và lo lắng cho chị Thao, Nho như người thân của mình, hết lòng chăm sóc cho Nho khi bị thương, lo lắng sốt ruột khi đồng đội trên cao điểm chưa về. Cô yêu thương, gắn bó với bạn bè nên đã kể mà miểu tả về Nho và chị Thao đầy trìu mến, có những nhận xét tốt đẹp khi phát hiện ra vẻ đẹp dễ thương "nhẹ mát như que kem" của Nho. Phương Định hiểu sâu sắc về những sở thích và tâm trạng của chị Thao, hiểu từng nụ cười và vẻ đẹp lúng túng của chị. Đặc biệt cô còn dành tình cảm trân trọng, yêu mến của mình cho những người chiến sĩ đang trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường. Trong suy nghĩ của cô, "những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ." Tình đồng đội, đồng chí của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý. Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để cô làm tốt nhiệm vụ của mình. Có được trang viết này cũng một phần xuất phát từ tâm hồn giàu tình cảm của cây bút Lê Minh Khuê.

    Thành công nhất trong truyện là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Truyện được miêu tả theo ngôi thứ nhất, cũng là nhân vật chính, tạo điều kiện để tác giả tập trung miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật chính, làm cho câu chuyện diễn tả một cách chân thật, tự nhiên cảm xúc, tâm trạng của những người chiến sĩ. Nhan đề truyện xuất phát từ ánh nhìn của Phương Định, những ngôi sao xa xăm trên bầu trời gợi nhiều cảm xúc. Bên cạnh đó, vẻ đep tâm hồn của ba cô gái thật lấp lánh, lãng mạn giữa hiện thực khắc nghiệt như những ngôi sao xa xôi, lấp lánh trên bầu trời cao rộng. Ngôn ngữ và giọng điệu tự nhiên, trẻ trung có chất nữ tính, những chi tiết trọng truyện hết sức sinh động qua ngòi bút miêu tả của Lê Minh Khuê. Nhịp kể linh hoạt, có khi nhịp nhanh sâu lắng tạo không khí khẩn trương, có khi nhịp chậm lại gợi lên kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên vô tư. Những đặc sắc về nghệ thuật cùng với tấm lòng chân thành của tác giả đã tạo nên sức bền vững cho tác phẩm và đọng lại trong lòng mỗi người.

    Tóm lại, truyện "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong mọi người hình ảnh tuyệt đẹp của những cô gái thanh niên xung phong thời kháng chiến chống Mỹ với tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan. Phương Định, tuy chỉ là một ngôi sao bé nhỏ, nhưng sẽ luôn tỏa sáng, sáng lấp lánh trên bầu trời Việt Nam. Các cô mãi là những hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến.

    By: Mdlh Mạn
     
    Ngudonghc thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  8. Mdlh Mạn

    Bài viết:
    12
    VIẾNG LĂNG BÁC

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca của Việt Nam. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng trong các tác phẩm của mình. Có thể nói, Bác chính là hình ảnh đẹp nhất, ngời sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Không ít tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng có lẽ, cảm xúc nhất trong những tác phẩm đó là "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là nỗi niềm của một người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.

    Viễn Phương là một nhà thơ xuất hiện khá nhiều trong dòng văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày còn trong thời gian chiến đấu. Nhưng tác phẩm "Viếng lăng Bác" có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chứa đựng trong đó là nỗi niềm đau xót, là sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả đã mở lời chào giới thiệu với chúng ta, với Bác Hồ kình yêu rằng:

    "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

    Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

    Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

    Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".​

    Mở đầu là lời xưng hô con-Bác thật thân mật gần gũi như người thân trong gia đình, giữa cha với con. Lời xưng hô ấy là lời chào giới thiệu đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Ở đây, nhà thơ rõ ràng không dùng từ "viếng" như mục đích thực sự của chuyến đi này mà lại dùng từ "thăm". Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác ra đây để thăm lại nhà, thăm lại vị Cha già của mình. Cũng bởi vì, miền Nam là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là một phần "nhà" mà Bác Hồ luôn đau đáu vào thăm mà chưa có dịp, như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

    "Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà

    Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha"​

    Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy mà ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng tác giả lại là "hàng tre". Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh lăng Bác là hàng tre xanh.

    Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên "bát ngát".

    Không phải bất cứ từ nào khác mà lại là "bát ngát" tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán.

    "Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

    Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".

    Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua "bão táp mưa sa" nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy "xanh xanh" được sử dụng ở đây như để biểu đạt, để diễn tả rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn "xanh" màu xanh bất diệt.

    "Xanh xanh" tức là lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng một màu xanh như thế. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc ta. Cả khổ thơ thứ nhất bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó, có nỗi đau xót mất đi Bác, nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc.

    Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời.

    "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

    Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"​

    Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ - Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ - mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi đường dẫn lối cho dân tộc thoát khỏi vòng nô lệ tối tăm. Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:

    "Người rực rỡ một mặt trời cách mạng

    Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng"​

    Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên.

    Không chỉ tự hào về sự nghiệp của Người, Viễn Phương còn bày tỏ lòng sâu sắc của nhân dân đối với Bác. Điệp từ "ngày ngày" là dòng thời gian liên tục, kể từ đó tác giả liên tưởng "dòng người" vao viếng lắng Bác thành một tràng hoa lớn. Con người là hoa của đất, cả dân tộc kết thành tràng hoa lớn dâng lên Bác, tỏ lòng thành kính biết ơn.

    Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên "bảy mươi chín mùa xuân" của Người. "Bảy mươi chín mùa xuân" là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình.

    "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

    Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

    Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

    Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"​

    Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp theo đây, nhà thơ lại tiếp tục cuộc hành trình vào viếng thăm lăng Bác. Và giờ đây, ông đã được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:

    "Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

    Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

    Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

    Mà sao nghe nhói ở trong tim"​

    Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình. Ngày nào nước nhà còn chia cắt thì ngày đó Bác không thể ngủ được, như câu thơ mà Bác đã từng viết:

    "Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

    Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà"​

    Một lần nữa, Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Bác Hồ đang nằm đó, giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.

    Thứ ánh sáng đó có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác, cũng có thể là nói tới vầng trăng thiên nhiên ngoài kia. Bởi sinh thời, Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một thế giới khác, yên bình hơn, Người muốn được hòa mình cùng với vầng trăng của thiên nhiên, luôn luôn sáng tỏ, đẹp đẽ, trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy. Và tiếp theo, sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào:

    "Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

    Mà sao nghe nhói ở trong tim"​

    Một lời trách cứ mới đau đớn làm sao! Lời trách cứ ấy là lời trách trời xanh kia. Bầu trời thì vẫn vậy, bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc sao đã phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn "nghe nhói ở trong tim".

    Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác "nghe nhói" khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.

    Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:

    "Mai về miền Nam thương trào nước mắt"​

    Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:

    "Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

    Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây

    Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"​

    Điệp từ "muốn" lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm "một con chim hót", "một đóa hoa", "một cây tre trung hiếu". Tất cả chỉ đều là những vật vô cùng nhỏ bé, tầm thường, nhưng lại là mong ước của tác giả.

    Bởi vì chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu với nơi đây. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.

    Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đó, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.

    Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.

    Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Chỉ một cuộc viếng thăm thôi, nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bài thơ được cấu tứ theo lối tám chữ. Lối thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với mạch văn chậm rãi khiến cho người đọc cảm nhận được hết tất cả những tình cảm mà nhà thơ muốn diễn tả.

    Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà nhiều nhất là nói giảm nói tránh, "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương đã làm sống dậy trong lòng bạn đọc sự yêu kính dành cho Bác, và cũng từ đó hòa chung vào niềm đau xót cũng như ước muốn mà tác giả muốn thể hiện.

    "Hồ Chí Minh - Người ở khắp muôn nơi". Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự hiện diện của Bác. Bác tuy đã đi xa nhưng sự hiện diện của Người thì còn mãi trong mỗi người con Việt Nam. Người là vị cha già đáng kính là "hồn của muôn hồn". Sự ra đi của Người có đau xót, có xót xa, nhưng lý tưởng của Người để lại, ý chí và phẩm chất của Người sẽ mãi là tấm gương soi tỏ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở về. Đó cũng là lời mà Viễn Phương muốn ngỏ qua bài thơ "Viếng lăng Bác".

    By: Mdlh Mạn
     
    Ngudonghc thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 7 Tháng mười hai 2020
  9. Tuyêtb65

    Bài viết:
    29
    Phân tích bài thơ: Ánh trăng của Nguyễn Duy theo hướng: Bài thơ giống như một câu chuyện nhở..

    A. Kiến thức cơ bản

    1. Tác giả:

    - Nguyễn Duy (1948) quê ở Thanh Hóa.

    - Ông thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc chiến chống Mỹ cứu nước.

    - Sau chiến tranh, Nguyễn Duy vẫn say sưa và tiếp tục con đường thơ của mình. Thơ ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu "quen thuộc mà không nhàm chán".

    - Thơ Nguyễn Duy có giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư.

    - Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ 1973), ánh trăng (1978), Mẹ và em (thơ 1987)..

    - Tác giả đã được nhận các giải thưởng: Giải nhất thơ tuần báo "Văn nghệ (1973) ; Giải A về thơ của hội nhà văn Việt Nam (1985).

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. (Ba năm sau ngày kết thúc chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước).

    b. Khái quát nội dung, nghệ thuật:

    * Nội dung:

    - Bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu.

    - Từ đó, gợi nhắc người đọc thái độ sống" uống nước nhớ nguồn ", ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.

    * Nghệ thuật:

    - Giọng điệu tâm tình, tự nhiên kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự.

    - Hình ảnh giàu tính biểu cảm: Trăng giàu ý nghĩa biểu tượng.

    c. Thể thơ - Phương thức biểu đạt: Thể thơ 5 chữ - phù hợp với phương thức biểu đạt kết hợp hài hòa giữa biểu cảm (trữ tình) và tự sự.

    d. Bố cục của bài thơ:

    * Mạch vận động cảm xúc: Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng được bộc lộ theo mạch tự sự . Theo dòng tự sự ấy mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái" giật mình "cuối bài thơ.

    * Bố cục: Bài thơ chia làm 4 phần:

    - 2 khổ thơ đầu: Hình ảnh con người với thiên nhiên, với vầng trăng trong kí ức.

    - Khổ 3: Con người với vầng trăng khi cuộc sống thay đổi

    - Khổ 4: Tình hướng con người gặp lại vầng trăng

    - 2 khổ cuối: Cảm xúc của con người khi đối diện với vầng trăng.

    e. Nhận xét về sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ:

    - Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một lời tâm tình kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm hứng trữ tình của nhà thơ men theo mạch tự sự đó. Ở quãng thời gian quá khứ đã có một sự biến đổi, một sự thực đáng chú ý: Bắt đầu từ hồi ức về" hồi nhỏ "," hồi chiến tranh "sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng:" ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng tình nghĩa ". Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn cảnh hiện tại:" Từ hồi về thành phố ", con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên đi vầng trăng:" vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường ".

    - Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư:" Thình lình đèn điện tắt "chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên kia đối lập với" phòng buyn-đinh tối om ". Chính vì xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên đã gợi ra bao kỷ niệm nghĩa tình.

    B. Phân tích bài thơ:

    1. Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng:

    a. Hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi lại những kỷ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ.

    - Bốn câu thơ gắn với giọng kể thủ thỉ, tâm tình" hồi nhỏ "," chiến tranh "đã gợi lại một quãng thời gian dài từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành và nhất là trong những năm tháng gian lao thời chiến tranh . Cả một quãng thời gian dài có biết bao kỷ niệm đẹp với trăng. Khổ thơ mở ra một khoảng không gian, thời gian bao la:

    " Hồi nhỏ sống với đồng

    Với sông rồi với bể

    Hồi chiến tranh ở rừng

    Vầng trăng thành tri kỷ "

    - Cuộc sống vất vả gian lao nhưng gần gũi với thiên nhiên:" Với đồng "," với sông "," với bể "," ở rừng ".

    - Trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuộc sống bình dị, vô tư, hồn nhiênkhẳng định tình cảm gắn bó bền chặt của con người với vầng trăng là" tri kỷ "," tình nghĩa ".

    + Trăng là người ban chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những đau thương, nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu..

    + Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hòa tình nghĩa..

    " Trần trụi với thiên nhiên

    hồn nhiên như cây cỏ

    ngỡ không bao giờ quên

    cái vầng trăng tình nghĩa "

    - Ở đây vầng trăng được nhân hóa để trở thành người bạn tri kỷ với nhân vật trữ tình của bài thơ. Với sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm" không bao giờ quên ". Giọng thơ hồi tưởng đều đặn nhưng từ" ngỡ "như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ.

    b. Khổ thơ thứ ba đưa người đọc trở về hiện tại với những đổi thay trong mối quan hệ của nhà thơ với vầng trăng:

    " Từ hồi về thành phố

    quen ánh điện, cửa gương

    vầng trăng đi qua ngõ

    như người dưng qua đường "

    - Tác giả đã tạo ra sự đối lập về hoàn cảnh sống của con người trong hiện đại với quá khứ ." ánh điện của gương "là cách nói hoán dụ tượng trưng cho cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên. Trước đây con người sống với sông, đồng, bể, rừng, thiên nhiên, còn giờ đây lại sống với những tiện nghi đầy đủ: Ánh điện, cửa gương, phòng puyn-đinh.

    - Từ đó nhà thơ diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người lãng quên vầng trăng từng một thời là tri kỷ. Cái bạc bẽo vô tình đến với người ta từ từ, kín đáo, khó nhận ra:" Vầng trăng tri kỷ, tình nghĩa "trở thành" người dưng qua đường ". Vầng trăng vẫn" đi qua ngõ "nhưng con người hờ hững, thờ ơ, không còn nhận ra trăng đã từng là người tri kỷ, tình nghĩa một thời. Con người trong cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc, ấm êm dễ vô tình hay cũng có thể là cố tình quên đi quá khứ gian khổ, đau thương . Tâm lý ấy không phải là cá biệt. Thế nên người ta vẫn thường nhắc nhở nhau:" ngọt nbùi nhớ lúc đắng cay ", để không bao giờ quay lưng lại với quá khứ cao đẹp đầy tình người.

    - Câu chuyện tâm tình được kể rất giản dị, mộc mạc, giọng thơ thì thầm như đang trò chuyện, giãi bày tâm sự, lời thơ trữ tình, sâu lắng, qua đó tác giả đã thể hiện những cảm xúc hết sức chân thành. Nhịp thơ chậm, những chữ đầu câu thơ không viết hoa diễn tả dòng suy nghĩ miên man của nhà thơ.

    c. Khổ thơ thứ tư là một tình huống bất ngờ xảy ra làm chuyển mạch cảm nghĩ của tác giả:

    - Lãng quên vô tình có thể là mãi mãi nếu không có một bất ngờ . Hoàn cảnh bài thơ được đẩy đến bước ngoặt mới khi" thình lình đèn điện tắt - phòng buyn-đinh tối om ". Đây là một tình huống rất quen thuộc, rất thực nhưng cũng tình huống ấy đã tạo nên bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm.

    " Thình lình đèn điện tắt

    phòng buyn-đinh tối om

    vội bật tung cửa sổ

    đột ngột vầng trăng tròn "

    - Bốn câu thơ với hai từ" thình lình, đột ngột "được đảo trật tự, tạo nên nhịp thơ nhanh, nhấn mạnh sự việc bất thường:" đèn điện tắt, phòng tối om "> <" Vầng trăng tròn "tỏa sáng. Tình huống bất ngờ đã tạo nên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối . Nơi thành phố hiện đại với ánh điện, cửa gương khiến người ta chẳng mấy khi cần và ít chú ý đến ánh trăng, chỉ đến khi tắt điện thì mới lại có dịp đối diện với" vầng trăng tròn ". Và trong khoảnh khắc bất ngờ từ bóng tối bước ra ánh sáng, người ta không khỏi ngỡ ngàng, bàng hoàng khi nhận ra vầng trăng vẫn tròn như xưa, đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn nguyên không mảy may sứt mẻ. Việc" bật tung cửa sổ "chỉ là một việc làm theo thói quen. Nhưng khi người và trăng mặt nhìn mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng trào lên trọn vẹn, đủ đầy - một sự tình cờ mà như được sắp đặt. Dường như vầng trăng" tròn vành vạnh "vẫn luôn đứng bên cửa sổ chờ đợi. Trăng xuất hiện đột ngột đã có sức rung động mạnh mẽ làm thức tỉnh những cảm xúc và đánh thức lương tâm con người .

    - Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài . Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ .

    - Trăng thiên nhiên không phải chỉ khi đèn tắt mưới" đột ngột "xuất hiện." Đột ngột "diễn tả trạng thái cảm xúc thảng thốt, bất ngờ của nhà thơ khi nhận ra trăng vẫn tròn, vẫn tỏa sáng, vẫn đồng hành cùng con người.

    2. Hình tượng vầng trăng và cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ

    a. Khổ thơ thứ năm diễn tả sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.

    " Ngửa mặt lên nhìn mặt

    có cái gì rưng rưng

    như là đồng về bể

    như là sông là rừng "

    - Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính:" Ngửa mặt lên nhìn mặt ". Từ" mặt "cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng nghĩa của ý thơ.

    + Nhà thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỷ mình đã lãng quên, vầng trăng đối diện với con người hay nói cách là quá khứ đối diện với hiện tại ; thuỷ chung tình nghĩa đối diện với bạc bẽo, vô tình và lãng quên để tự thú về sự bội bạc của mình .

    + Đối diện với trăng nhà thơ làm thức tỉnh tình cảm, lương tâm con người: Như nhìn thấy cả mặt trong đó và tư vấn lương tâm, hổ thẹn, ân hận về sự thay đổi của mình .

    - Cuộc sống đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã làm nhà thơ" rưng rưng "xúc động vì quá khứ vất vả gian lao nhưng tràn ngập niềm vui cùng với trăng, với thiên nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng ùa về trong nỗi nhớ ." Rưng rưng "nhưng muốn khóc mà cứ nghẹn ngào..

    - Cuộc sống hiện tại như ngừng lại để con người soi vào quá khứ, vào một thời họ đã lãng quên - soi vào chính mình . Có quá khứ xa và gần, đất nước và quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, lao động và chiến đấu, tập thể và cá nhân . Trăng còn gợi lên hình ảnh của hiện tại, sự giàu đẹp, nỗi gian lao vất vả còn phải phấn đấu, niềm tin và hy vọng, sự hùng vĩ của thiên nhiên và sức mạnh của con người trong cuộc sống thông qua một loạt các điệp từ" như là "cùng nhịp thơ dồn dập, các hình ảnh liệt kê:" như là đồng là bể – như là sông là rừng ". Tất cả làm cho người đọc thực sự xúc động và hòa chung cảm xúc với trữ tình của bài thơ.

    b. Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm sâu sắc và triết lý nhân sinh của nhà thơ qua hình tượng trăng.

    " Trăng cứ tròn vành vạnh

    kể chi người vô tình

    ánh trăng im phăng phắc

    đủ cho ta giật mình "

    - Trong cuộc gặp lại không lời này trăng và người như có sự đối lập . Trăng đã trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không thay đổi." Trăng cứ tròn vành vạnh "biểu tượng cho sự tròn đầy, thuỷ chung, trọn vẹn của thiên nhiên, quá khứ, dù cho con người đổi thay" vô tình ".

    - Ánh trăng còn được nhân hóa" im phăng phắc "không một lời trách cứ, gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng của người bạn thuỷ chung, tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: Con người có thể vô tình quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt .

    - Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng chính là tình cảm của những người đồng chí đồng đội, của đồng bào, của nhân dân. Sự im lặng ấy làm nhà thơ" giật mình "thức tỉnh, cái" giật mình "của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng, nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. Giật mình để không chìm vào lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người giật mình trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp.

    - Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt.

    - Qua đó Ngutyễn Duy muốn gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lý ân nghĩa thuỷ chung.

    " Ánh trăng "của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ.

    " Ánh trăng "của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ.

    " Ánh trăng "có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bởi lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho những người lính chống Mỹ mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có chúng ta.

    II. Kết cấu và giọng điệu của bài thơ

    " Ánh trăng "không chỉ thành công ở triết lý sâu xa của nhân vật trữ tình mà còn thành công ở nghệ thuật kết cấu, giọng điệu:

    - Là sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Sự việc trong tự sự dẫn mạch cho cảm xúc trữ tình, làm cho cảm xúc chân thành, tha thiết.

    - Thể thơ 5 chữ phù hợp với chất tự sự được thể hiện bằng giọng điệu tâm tình, thấm thía. Cách trình bày các chữ đầu dòng thơ làm cho các sự việc diễn ra liền mạch về ý tưởng cũng như về hình ảnh thơ.

    - Nhịp thơ khi trôi chảy, tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể; khi ngân nga thiết tha cảm xúc; lúc lại trầm lắng đầy ắp suy tư.

    Kết cấu, giọng điệu thơ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm tạo nên tính chân thực, chân thành sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh với người đọc.

    III. Chủ đề bài thơ, chủ đề ấy có liên quan đến đạo lý, lẽ sống của dân tộc Việt Nam ta:

    * Chủ đề: Từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất nước bình dị.

    * Gợi lên những suy nghĩ về đạo lý, lẽ sống của người Việt Nam ta: Bài thơ như một câu chuyện riêng nhưng có sức khái quát rất lớn. Nó không chỉ là câu chuyện của riêng nhà thơ, riêng một người mà là của cả một thế hệ đã trải qua những năm dài chiến tranh gian khổ, mất mát, đã từng sống giữa thiên nhiên, sống giữa nhân dân tình nghĩa. Giờ đây sống trong cảnh hòa bình với những tiện nghi đầy đủ, hiện đại, người ta có thể thay đổi, đánh mất quá khứ, đánh mất nghĩa tình để rồi một lúc nào đó lại phải ân hận, ăn năn. Câu chuyện nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ, đừng bao giờ trở thành những kẻ vô tình, vô nghĩa, bạc bẽo, vô ơn." Ánh trăng "nằm trong mạch cảm xúc" Uống nước nhớ nguồn"gợi lên đạo lý sống thuỷ chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.



     
  10. Tuyêtb65

    Bài viết:
    29
    Một số bài tập liên quan đến bài thơ: Ánh trăng của Nguyễn Duy

    Câu 1: Ánh trăng là một nhan đề đa nghĩa. Hãy phân tích.

    Gợi ý trả lời:

    - "Ánh trăng" chỉ một thứ ánh sáng dịu hiền, ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng con người ta đến với những giá trị đích thực của cuộc sống.

    - "Ánh trăng" như ánh sáng của hàng nghìn nến đã thắp sáng lên một góc tối của con người, thức tỉnh sự ngủ quên của con người về nghĩa tình thủy chung với quá khứ, với những năm tháng gian lao nhưng rất hào hùng của cuộc đời người lính.

    - Trước hết, ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Ánh trăng gần với tuổi ấu thơ của tác giả (d/c). Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời (d/c).

    - Cũng giống như trăng của người bạn tù, vầng trăng của Nguyễn Duy đã thành "tri kỷ", người bạn tình nghĩa. Ánh trăng thời chiến như chia sẻ những thử thách của chiến tranh, như cùng nhà thơ và đồng đội trải qua những kỷ niệm của thời "ở rừng". Vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa ấy: Dấu ấn của một thời gian khó: "Ngỡ không bao giờ quên".

    - Nhưng nhan đề "ánh trăng" còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình - ký ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cam go mà hào hùng.

    - Cuộc sống hòa bình "ánh điện của gương, buyn đinh" đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng như một "người dưng qua đường". Con người từng một thời chiến đấu, từng ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ. Nhưng rồi thình lình đèn điện tắt.. "đột ngột vầng trăng tròn". Vầng trăng ấy đã đánh thức ký ức của tác giả, của thế hệ trẻ Việt Nam trong những ngày đánh Mỹ, tháng Mỹ.

    - Ánh trăng lặng lẽ tỏa sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng, không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hy sinh, những tôn thất thời đánh Mỹ ác liệt mới có cuộc sống hòa bình ngày hôm nay.

    Câu 2: Phân tích, so sánh hình ảnh "Trăng" (vầng trăng, mảnh trăng, ánh trăng.) trong các bài thơ "Đồng chí", "Đoàn thuyền đánh cá", "ánh trăng".

    Gợi ý:

    Giống: Trăng trong cả ba bài thơ đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, người bạn tri kỷ của con người trong cuộc sống lao động và chiến đấu, trong sinh hoạt hàng ngày.

    - Trăng trong "Đồng chí" là biểu tượng của tình đồng chí, gắn bó keo sơn trong cuộc sống chiến đấu gián khổ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, biểu tượng của hiện thực và lãng mạn, trở thành nhan đề của cả tập thơ "Đầu súng trăng treo".

    - Trăng trong "Đoàn thuyền đánh cá" là cánh buồm chuyên chở và nâng bổng niềm vui hào hứng trong lao động làm chủ tập thể của những ngư dân đi đánh cá đêm, vẽ nên bức tranh sơn mài biển vàng biển bạc.

    "Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

    Đêm thở sao lùa nước Hạ Long"

    - Trăng trong "ánh trăng" là vầng trăng tròn vành vạnh, im phăng phắc đột ngột ùa vào phòng buyn-đinh tối om trong đêm hòa bình mất điện ở thành phố Hồ Chí Minh đã khiến nhà thơ giật mình, ân hận, day dứt về suy nghĩ và cách sống hiện tại của mình. Ánh trăng như người bạn thân nhắc nhở, lay tính lương tâm của tác giả: Không được vô ơn với quá khứ, với đồng đội đã hy sinh với thiên nhiên nhân hậu và bao dung.
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...