2495
9
Bài làm
Việt Bắc là một trong những thành tựu xuất sắc, đỉnh cao nhất trong nền thi ca thời bấy giờ, nằm trong tập thơ kháng. Chiến của Tố Hữu. Sau chiến thắng Điện Biên oai hùng gây chấn động năm châu, nước ta kí kết hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Tháng 10/1954, sau chín năm khói lửa, Hồ Chủ Tịch cùng đoàn quân thắng trận tiến về thủ đô Hà Nội. Bài thơ "Việt Bắc" được sáng tác vào tháng năm lịch sử hào hùng ấy.
Tố Hữu sinh năm 1920 và mất năm 2002, được sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế - là cái nôi của văn học dân gian. Ông là nhà thơ lớn với những đóng góp không hề nhỏ trong nền thi ca Việt Nam. Cùng những vần thơ trữ tình chính trị mang đậm tính dân tộc, Tố Hữu đã thể hiện tiếng nói của con người, trong tâm hồn của những người luôn gắn bó với cách mạng, với quê hương và đất nước. Trong những vần thơ ấy, ta bắt gặp tình cảm quyến luyến, chân thành, trữ tình của người chiến sĩ cách mạng và tiêu biểu hơn là trong bài thơ Việt Bắc.
Bài thơ có 150 câu với thể thơ lục bát quen thuộc, thường gặp trong các câu ca dao thời ông cha ta. Ở đoạn một là nỗi nhớ trải dài suốt bốn mươi hai câu thơ đầu. Tuy nhiên, khác với bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là nỗi nhớ về tình đồng đội, tình đồng chí mến thương trong đoàn quân Tây Tiến thì với "Việt Bắc", đây là nỗi nhớ của tình quân nhân, là nỗi nhớ giữa người chiến sĩ cách mạng với nhân dân vùng Việt Bắc, là thứ tình cảm đáng quý giữa bộ đội với con người nơi này, là những ân tình thủy chung mà họ đã có được với nhau trong suốt khoảng thời gian này.
Ngoài những ân tình thủy chung ấy, bài thơ "Việt Bắc" còn ngợi ca thiên nhiên, đất nước mình, ngợi ca núi rừng Việt Bắc, ngợi ca những điều đẹp đẽ mà thiên nhiên đã ban tặng cho người trai thời chiến quả cảm và một lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết. Bên cạnh mái ấm gia đình, chúng ta không chỉ riêng các anh lính, đều được sống dưới sự bảo trợ, sự chở che, bảo bọc và thương yêu của thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên ưu ái ban cho ta thức ăn đồ uống, cung cấp sự sống để ta tiếp tục được sống, được tồn tại và phát triển. Thiên nhiên đâu chỉ mang đến những khó khăn, khắc nghiệt, không có thiên nhiên thì con người sẽ chẳng tồn tại được nổi và rồi cũng bị thời gian "vùi lấp" vĩnh viễn. Thực tế, con người và thiên nhiên luôn đồng hành cùng nhau, không thể tách rời. Trong văn học cũng vậy, song song với con người luôn là thiên nhiên, làm cái nền để nổi bật lên giá trị của con người.
Ở trong bài thơ này, Tố Hữu cũng đã diễn tả bốn mùa đông, xuân, hạ thu trong 10 câu thơ tiếp theo. Bốn mùa tương ứng với bốn loài hoa khác nhau và mỗi mùa tượng trưng cho nhiều cảnh vật khác nhau, cảnh vật thay đổi theo mùa như để làm nổi bật lên từng mùa ấy. Thế nên, khi nhìn vào đoạn thơ này, chúng ta lại liên tưởng đến ngay bức tranh tứ bình với bốn mùa đặc trưng. Thông thường, bức tranh tứ bình thường được treo trong nhà để cầu mong an khang, thịnh vượng cho gia chủ nhưng trong bài thơ này, đó chỉ là cách gọi của một bức tranh được "treo" vào lòng độc giả của nhiều thế hệ, được "treo" trên thi đàn Việt Nam, sống mãi với nền thơ ca đậm chất trữ tình. Nó như mang đến sự hạnh phúc, ấm no, an yên và tràn đầy nhựa sống. Trải qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ của chiến tranh; qua bao vần thơ bi tráng và hào hùng thì đến đây, chúng ta như lặng người lại để ngắm nhìn chốn "chôn rau cắt tốn" của ta. Tự nhiên lại thấy đất nước mình sao mà đẹp đến thế, lại thấy yêu non sông Việt Nam ta đến thế, hóa ra thiên nhiên có rất nhiều thứ để ta trải nghiệm và khám phá, thấy được vẻ đẹp con thiên nhiên hùng vĩ mà thơ mộng, một vẻ đẹp mà văn chương thường bỏ sót lại. Hai câu thơ đầu của đoạn hai mở màn cho một bức tranh tứ bình trong 8 câu thơ sau:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Trong hai câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu "ta về" cho một câu hỏi được lặp lại. Chữ "ta" trong câu thơ này là của người ra đi. Nếu ở đoạn thơ đầu, chữ "ta" là của người ở lại hỏi người ra đi thì ở đoạn thơ này, tác giả đóng vai trò là người ra đi hỏi người ở lại. Câu thơ "Ta về, mình có nhớ ta" vốn là một câu hỏi, nhưng lại không có dấu chấm hỏi ở cuối câu như những câu hỏi bình thường khác. Phải chăng, nhà thơ đã gửi gắm ngụ ý của mình vào trong câu thơ này? Quả thật, Tố Hữu muốn chúng ta hiểu rằng, đây như một câu hỏi bâng quơ, nhà thơ như tự hỏi bản thân mình và cũng như hỏi người ở lại chứ không có ý hỏi rõ ràng về một đối tượng cụ thể nào cả.
Chỉ với hai câu thơ đầu mà ta đã thấy xuất hiện từ "ta" đến bốn lần. Chữ "ta" với âm "a" được điệp lại tạo ra tiếng ngân vang, là tiếng ngân vang của sự lưu luyến, là tiếng ngân vang của sự xao xuyến được vọng ra từ cõi nhớ và của những băn khoăn, trăn trở. Đó giống như một sợi dây nối kết đã níu họ lại với nhau, không muốn đi nhưng cũng không thể ở lại.
Từ đây, ta thấy được bút pháp tinh tế của nhà thơ cách mạng - Tố Hữu. Chỉ với hai câu thơ đầu đã hiện ra trước mắt người đọc là tiếng vọng lại từ trong sâu thẳm của cõi nhớ thương. Với tiếng vang ngân dài, vọng
Lại từ khắp bốn phương, người đọc có cảm tưởng như đang đứng trước núi rừng hoang vu, xung quanh là tiếng ca vang bật ra từ tận đáy lòng của nhà thơ, tiếng vọng của người chiến sĩ cách mạng, của người ở lại khi nhớ về những đồng đội "vào sinh ra tử" cùng mình.
"Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Câu thơ này, nhà thơ như tự trả lời chính mình, tự khẳng định rằng: Dù người ra đi có đi đâu về đâu, có ở nơi nào thì họ vẫn một lòng hướng về Tổ quốc thân yêu, vẫn luôn nhớ về vùng đất tuy hứng nhiều bom đạn nhưng chứa nhiều tình cảm ấm áp giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Cụm từ "những hoa cùng người" trong câu thơ này chính là sự kết hợp mạnh mẽ, đẹp đẽ nhất của bài, được kết tinh trong đoạn thơ này. Đó là sự hòa quyện giữa thiên nhiên núi rừng ở chiến khu Việt Bắc và với con người nơi đây. Hình ảnh "những hoa" là chỉ cây cối, thiên nhiên ở vùng này, "cùng người" là cùng nhân dân, cùng những người đồng đội, cùng người ra đi và cả người ở lại.
Trên cái nền của thiên nhiên, con người như được nâng cao giá trị của bản thân và con người cũng hài hòa cùng thiên nhiên, làm cho thiên nhiên ngày càng phát triển tốt đẹp. Con người và thiên nhiên hòa mình vào nhau, không thể tách rời. Nơi nào có thiên nhiên là nơi xuất hiện của sự sống, là nơi in những dấu chân của con người, là nơi bắt nguồn của niềm vui, của tiếng cười. Con người chẳng cô đơn, dẫu rừng núi có hoang vắng, vắng lặng, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng động sột soạt của lá cây khi có ngọn gió nhè nhẹ thổi qua, có tiếng bước chân chầm chậm của thú dữ đang rình rập con mồi.. Nhưng ta cũng không thể phủ nhận một sự thật rằng, con người dù là ở thế hệ nào, dù là ở vùng đất nào, vẫn nhận được sự chở che, sự bao bọc và nâng niu của thiên nhiên, của đất nước mình. Chính vì thế nên dù có đi đâu về đâu, người chiến sĩ cách mạng yêu nước vẫn không bao giờ quên nhớ thương non sông ta, thiên nhiên và con người Việt Nam với lòng bác ái, nhân đạo.
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Hai câu thơ tiếp theo mở ra bức tranh tứ bình với mùa đông trong khung cảnh ngát xanh của núi rừng Việt Bắc, được điểm xuyến bằng màu "đỏ tươi" của hoa chuối. Điểm nhìn của Tố Hữu bắt đầu bằng thị giác. Thông qua lăng kính của thi nhân, chúng ta được cảm nhận, được nhìn thấy màu xanh của hi vọng, màu xanh của sự sống mơn mởn, một màu xanh đặc trưng của núi rừng ở chiến khu Việt Bắc. Có nơi nào đẹp như cánh rừng xanh bất tận; không chỉ ở Việt Nam, mỗi quốc gia trên thế giới đều xem thiên nhiên, rừng núi tượng trưng cho sự tồn tại, tượng trưng cho sự sống, là nguyên khí, là nguồn mạch của mỗi quốc gia ấy. Tuy có những lúc cánh rừng mang đến những căn bệnh khó chữa như sốt rét, chấy rận hay những con thú ăn thịt đang đói, là những khó khăn, khắc nghiệt đến đáng sợ nhưng rừng cũng mang cho chúng ta nhiều hơn thế nữa. Trong mỗi cuộc chiến, chính cánh rừng xanh ngát bạt ngàn kia đã che chở, nuôi nấng bộ đội ta, đã che nắng che mưa, cho họ trú ngụ qua bao tháng ngày mưa gió, đi qua những cuộc chiến đẫm máu, khốc liệt; cho họ ẩn mình dưới những tán lá lớn, giúp họ giấu mình khi phía trên là máy bay của giặc, đạn bay vèo vèo, dưới đất lại phải đối diện với sự truy lùng của kẻ thù.
Như chúng ta đã biết, hoa chuối thường được dùng đề làm món ăn. Nó không phải là loài hoa dại mọc ven đường mà nó chính là một phần trong bữa cơm của con người nơi này. Với hai gam màu xanh và đỏ, màu xanh của cánh rừng và màu đỏ của hoa chuối hài hòa với nhau, làm dịu nhẹ cái không khí lạnh giá của mùa đông. Nhắc đến mùa đông, chúng ta thường liên tưởng đến sự lạnh lẽo, giá rét là điểm đặc trưng của mùa đông, là những cành cây, lá rừng héo úa, ủ rũ vì không đủ độ ấm, một mùa đông với cánh rừng điêu tàn, xơ xác, lá rụng xào xạc. Thế nhưng, Tố Hữu đã vô cùng tinh tế khi hòa quyện hai màu xanh và đỏ át lên cái khí hậu khắc nghiệt ấy, để chúng ta nhìn nhận ra rằng, ngoài những điều khó khăn ấy, thiên nhiên núi rừng nơi đây cũng rất thương tình khi cho mang đến cho ta sự sống, giúp ta đủ sức chống chọi với cơn lạnh, nâng niu ta và bảo hộ ta khỏi cái nhìn của giặc ngoại xâm lúc bấy giờ.
Hoa chuối trong câu thơ này mang một màu đo đỏ, không phải là màu đỏ bình thường mà là màu "đỏ tươi". Chữ "tươi" trong câu thơ này không chỉ là diễn trạng thái của hoa chuối đỏ mà còn là sự tươi tắn, tràn đầy nhựa sống của thiên nhiên và con người ở núi rừng Việt Bắc. Nhưng trong bài thơ "Cảnh ngày hè" của đại thi nhân => thường thì sẽ dùng đại văn hào với chữ "đại", ở đây mình gọi là nhà thơ Nguyễn Trãi:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Màu đỏ của hoa chuối và màu đỏ của "thạch lựu" bắt gặp nhau, như Tố Hữu và Nguyễn Trãi cùng nhau một ý thơ, còn giao cảm với nhau. Màu "đỏ tươi" còn tượng trưng cho sự sống của con người, cho chiến thắng, là niềm tự hào của dân tộc. Đọc những vần thơ được điểm xuyến màu đỏ nhẹ trên nền xanh của cánh rừng, ta như được sống lại thời kháng chiến hào hùng, cảm nhận được niềm vui được lan tỏa, cảm giác hân hoan, phấn khởi đến khó tả. Bằng bút pháp trữ tình tài hoa của mình, nhà thơ Tố Hữu đã khơi gợi cảm xúc ấy trong lòng chúng ta, đưa chúng ta đến với một miền đất nước đang từng ngày đấu tranh giành lại độc lập, khiến ta cảm được khí thế hào hùng, dũng mãnh của người chiến sĩ cách mạng. Hình ảnh trong hai câu thơ gợi hình, gợi cảm; gợi lên cảm xúc của độc giả, làm sự diễn đạt càng thêm mãnh liệt.
Một điểm đặc biệt nữa của bài thơ này là, trong tám câu thơ miêu tả bức tranh tứ bình, câu đầu miêu tả thiên nhiên thì đến câu sau là miêu tả con người:
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Điểm đặc trưng của vùng núi là "đèo cao", là những trường dốc cao vời vợi. "Nắng ánh" là sự ánh lên của nắng mặt trời buổi sớm mai, ánh nắng nhè nhẹ, không quá gay gắt. Đến đây, người đọc có cảm tưởng như nhìn thấy con người nơi đây đi thành một nhóm, một đoàn người để lên ngọn đèo cao, làm nương, làm rẫy. Dưới ánh nắng ban mai của Mặt Trời, con người như được hứng trọn nắng sớm buổi bình minh ấy, như được thiên nhiên đón chào trong sự niềm. Nở và hân hoan. "Dao gài thắt lưng", một hình ảnh đẹp miêu tả con người lao động. Họ đang làm nương, làm rẫy, trồng trọt, thu hoạch trong niềm hạnh phúc, sung sướng, vui tươi. Theo hoàn cảnh lịch sử lúc này, chiến thắng Điện Biên Phủ đã trả cho nước ta miền bắc giành thắng lợi. Niềm vui của họ có lẽ cũng xuất phát từ niềm vui chiến thắng. Cả câu thơ này là một hình ảnh đẹp về những con người lao động, xây dựng lại đất nước, đưa đất nước đi lên sau tháng ngày hứng chịu bom đạn, chịu sự giằng xé của giặc xâm lược.
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Nhắc đến mùa xuân là ta nghĩ ngay đến hình ảnh cây côi đâm chồi nảy lộc, trăm hoa nở rộ khoe sắc thắm, một sự sống mới bắt đầu. Mùa xuân sang, rừng Việt Bắc trong màu áo trắng do "mơ nở", một màu trắng tinh khôi, thanh khiết đến thơ mộng. Đảo ngữ "trắng rừng" làm gợi dậy, bừng lên sức sống mùa xuân, làm thay đổi quang cảnh thiên nhiên. Tố Hữu không viết "Mùa xuân mơ nở" mà lại viết "ngày xuân mơ nở" như thể hiện nỗi nhớ sâu đậm hơn, tha thiết và da diết hơn. Nỗi nhớ Việt Bắc gắn liền với nỗi nhớ về một thời cách mạng ở chiến khu nghĩa tình.
Nhớ cảnh xuân Việt Bắc là nhớ đến những người thợ thủ công đan nón. Bàn tay khéo léo, cặm cụi và tỉ mị của họ đã chuốt vọt từng sợi giang mỏng mảnh, cho ra đời những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ cuộc kháng chiến.
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Mùa hạ đến, những tiếng ve kêu vang lên như trỗi lên tiếng nhạc rừng rộn rã nơi chiến khu. Vào thời điểm đó, nắng hạ chói chang, rừng cây phách- một loại cây cổ thụ trong rừng bỗng ngả đều sang màu vàng rực rỡ và lộng lẫy. Chữ "đổ" như nhãn tự trong câu thơ không chỉ thể hiện sự chuyển màu nhanh chóng của rừng phách mà còn gợi lên sự tươi tắn, rực rỡ qua cái nhìn trìu mến, dạt dào nhớ thương của người cán bộ cách mạng miền xuôi.
Nhớ đến mùa hè Việt Bắc là nhớ đến hình ảnh những cô thiếu nữ dân tộc Tày đang "hái măng" giữa rừng trúc. Cô gái trẻ trung đi "một mình" mà chẳng lẻ loi, bởi vì cô gái ấy đang lao động trong tiếng nhạc rộn rã của khu rừng. Cô hái măng để làm thức ăn cho những người chiến sĩ cách mạng, nuôi sống những anh lính qua cơn đói khát, như góp một phần sức mình vào công cuộc kháng chiến của dân tộc. Ta vẫn còn nhớ mãi câu thơ "Sớm khuya bếp lửa người thương đi về" quanh những nhà sàn Việt Bắc năm xưa.
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Mùa thu chiến khu quên làm sao được ánh trăng thơ mộng. Ánh trăng huyền ảo, trong trẻo rọi xuống cả một cánh rừng thu bát ngát làm khung cảnh càng thêm diễm lệ. Trăng thanh, mát dịu gợi lên một khung cảnh hòa bình, nên thơ. Câu thơ làm ta gợi nhớ đến áng thơ: "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa" ở chiến khu "chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà". Dường
Như ánh trăng chiến khu bén duyên với thi ca cách mạng, bén duyên với người bộ đội anh dũng để rồi trong những vần thơ của Tố Hữu hay thơ của Bác, ánh trăng như tượng trưng của khát vọng hòa bình, là ước mong đất nước được độc lập, tự do, thoát khỏi ách nô lệ lầm than, tủi nhục.
Cảnh trăng thu Việt Bắc càng cuốn hút hơn với tiếng hát được vọng đến trong đêm trăng khuya. Từ "ai" là một đại từ phiếm chỉ, "nhớ ai" ở đây là nhà thơ muốn nói đến nỗi nhớ của mình với người đồng bào Việt Bắc; nhờ tình nghĩa thủy chung nên đã hi sinh mình cho kháng chiến. Họ không chỉ cần cù lao động để xây dựng nước nhà mà còn để chăm sóc đời sống vật chất cho người cán bộ cách mạng, tiếng hát ân tình thủy chung của họ vang lên điệu dân ca Việt Bắc. Tiếng hát ấy đã tác động đến tinh thần, làm vơi bớt sự nhọc nhằn của người chiến sĩ xa quê hương đi kháng chiến. Nhà thơ không tả tiếng hát nhưng dường như trong lòng người cán bộ về xuôi, tiếng hát ấy mãi trong trẻo như tiếng suối rừng, ngân lên như tiếng chim và đẹp như bóng hồng của con người nơi này. Những điều ấy đã để lại nhiều niềm thương nỗi nhớ trong lòng bất cứ ai đã gắn bó với Việt Bắc, nhất là trong những năm kháng chiến gian nan.
Cần đăng nhập và nhấn Thích để xem đoạn này
Hồ Thị Tường An
Last edited by a moderator:

