Bài viết: 111 



Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh tứ bình Việt Bắc.
Bài làm
Ai trong đời cũng đều có cho mình một mảnh đất để thương và để nhớ như đời người chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo. Có lẽ chính vì thế mà nhà thơ Chế Lan Viên từng triết lý: "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hòa tâm hồn". Với nhà thơ Tố Hữu- người luận xem: "Việt Bắc là máu thịt của mình thì sau mười lăm năm gắn bó biết bao," thiết tha mặn nồng ", mảnh đất và con người Việt Bắc lại càng trở nên là một phần không thể thiếu trong tâm hồn nhà thi sĩ cách mạng ấy. Đó cũng là lý do mà hai chữ" Việt Bắc "đã trở thành tên gọi của một bài thơ, một tập thơ. Thi phẩm ấy là khúc nhạc lắng sâu lặng về mối tình thủy chung mặn nồng giữa con người, chiến sĩ cách mạng và nhân dân được thể hiện qua hồn thơ trữ tình chính trị đậm đà tình dân tộc- đặc biệt là qua đoạn thơ
" Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rùng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung ".
Tố Hữu (1920-2002) là một nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu. Ông là một trong những lá cờ đầu và có những đóng góp hết sức to lớn cho nền văn học cách mạng. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc, giọng thơ lại rất tự nhiên, đằm thắm. Việt Bắc được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến, là thành tựu xuất sắc của đời thơ. Người cầm bút, nó vừa là một bản tình ca, đồng thời cũng là một bản hùng ca. Miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào cuộc sống mới, một trang sử mới của đất nước thì cũng chính là lúc Việt Bắc được ra đời. Bài thơ gồm một trăm năm mươi câu thơ lục bát, được chia làm ba phần, đoạn trích chính là phần đầu của đoạn thơ. Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Là lời khẳng định tình yêu quê hương, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân và truyền thông ân nghĩa, đạo lý thủy chung của dân tộc Việt Nam. Mười câu thơ trên chính là mười câu thơ hay và đặc sắc nhất trong bài, là đoạn thơ kết tụ vẻ đẹp của cảnh, của người Việt Bắc và của tình người cán bộ cách mạng, chính là mười câu thơ được gọi là" bức tranh tứ bình về cảnh người Việt Bắc ". Hai câu thơ đầu thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ đó là nỗi nhớ cảnh, nhớ người:
" Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người "
Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào cảnh người, cảnh vật:" ta về mình có nhớ ta ". Hai đại từ nhân xưng" ta- mình "đã cho ta thấy cảm giác đây là một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy, nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, là cái cớ để giãi bày, hỏi để soi bồi hồi cảm xúc trước phút chia xa. Câu thơ thứ hai là tự trả lời của chính mình, điệp từ" ta "lặp lại bốn lần cùng với âm"... "
Là âm mở khiến cho câu thơ mang âm hưởng ngân nga, tha thiết nồng nàn. Hai đại từ nhân xưng mình ta, xuất hiện với tần số vô cùng lớn. Thực chất ở đây" mình ta "là cái cách nói lẵng mạn hóa, thi vị hóa của Tố Hữu để nói về mối tình thủy chung mặn nồng keo sơn của những người làm cách mạng với nhân dân Việt Bắc nghĩa tình, chính vì cách xưng hô đó, câu hỏi tu từ đó đã làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, xao xuyến giống như những câu hát giao duyên thuở nào:
" Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm ta áo ta đề câu thơ "
Ở đây ta là chỉ người ra đi, mình là chỉ người ở lại, và cái hay cái đặc sắc nhất của Tố Hưũ đó chính là ông đã lãng mạn hóa, thi vị hóa hai đại từ nhân xưng" ta" "mình" để "mình" "ta" trong ca dao tình yêu lứa đôi, "mình -ta" của mối tình cách mạng nhân dân được dựa vào thơ ca không hề khô khan và ngược lại rất thiên nhiên trữ tình.
Và có lẽ chính mà bốn cặp lục bát tiếp theo, cứ câu lục nhắc đến hoa, thì câu bát nhắc đến người. Hoa và người đan cài, quấn quýt, hòa quyện vào nhau và dệt nên một bộ tranh tứ bình thật đẹp, thật lung linh hiện lên trong kí ức của cả người đi và người ở lại. Mở đầu bột tranh tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống và trên nền thiên nhiên ấy là bóng dáng của con người lao động hiên ngang giữa nàng và gió
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ấm dao gài thắt lưng"
Với hai câu thơ này, ta cũng có thể thấy rõ tác giả đã không viết theo trật tự thông thường là xuân- hạ- thu- đông mà lại bắt đầu bộ tranh tứ bình bằng mùa đông. Bởi vì khi Tố Hữu viết bài thơ này là vào tháng 10/1954, thì mùa đông cũng đã đến nơi đây, trong quá khứ, quá khứ gắn bó với chiến tranh, chiến đấu. Hai câu thơ mở ra một không gian với chiều rộng và chiều cao: Đó là sự mênh mang của núi rừng và cái cao vời vợi của núi đèo. Trong câu thơ "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi" tác giả đã có một sự phối màu rất hài hòa, tinh tế. Trên phông nền xanh bạt ngàn của núi rừng, sắc đỏ tươi như những ngọn lửa nhỏ của bông hoa chuối được điểm lên không chỉ tạo một gam màu nổi bật mà cái rực rỡ, ấm áp của nó còn như xua tan sự lạnh lẽo, âm u của mùa đông. Bức tranh thêm tươi sáng, sống động hơn khi được xuyết điểm bởi ánh sáng và sự xuất hiện của hình ảnh con người lao động: "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" . Trên nền sắc vàng ấm áp cùng cái sáng lóa phản quang ánh nắng của con dao gài thắt lưng người đi rừng. Trên đèo cao, tác giả đã khắc họa thật khéo léo vẻ đẹp chan hòa ánh sáng áng tư thế khoẻ khoắn, chủ động. Đã qua rồi những đêm trường nô lệ, người dân Việt Bắc giờ đây tự tin vươn lên, làm chủ cuộc đời, lạc quan hướng về phía ánh sáng.
Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua rồi xuân lại tới:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở trắng rừng. Ở câu lục, miêu tả hoa mơ, động từ "nở" được dùng để tô đậm sức sống sinh sôi tràn trề của núi rừng khi vào mùa xuân; còn cụm từ "trắng rừng" đem lại ấn tượng mạnh về màu trắng xóa của hoa mơ như đang trải khắp không gian núi rừng Việt Bắc mênh mông. Sự thuần khiết, tràn đầy sức sống của hoa mơ gợi người đọc nhớ đến câu thơ tả hoa lê lúc vào xuân trong truyện Kiều của Nguyễn Du:
"Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Và có lẽ hoa mơ là sắc hoa tiêu biểu của vùng núi rừng Việt Bắc nên đã hơn một lần nó đi vào thơ của Tố Hữu trong cảm nhận đầy ngỡ ngàng:
"Ôi sáng cuân nay xuân 41
Trắng lừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"
(Theo chân Bác)
Vẫn là sự quấn quýt giữa cảnh và người, trên nền cảnh rừng xuân, con người lao động Việt Bắc hiện lên với dáng vẻ cần mẫn, khéo léo, miệt mài trong công việc "đan nón, chuốt giang". Công việc bình dị cùng hình ảnh con người chất phác đã để thương để nhớ sâu nặng trong lòng người về xuôi.
Nếu như trong bức tranh của mùa đông và xuân chỉ có chuyển màu thì sang tới mùa hè, bức tranh thiên nhiên còn thêm cả âm thanh dắng dỏng của những chú ve, và cũng cùng lúc đó thì cả rừng phách đồng loạt trổ bông, bung phấn, rừng phách lai láng sắc vàng:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Câu thơ đem đến một cảnh tượng khiên người ta phải sững sờ, khi tiếng ve nhất loạt ngân lên rộn rã, náo nức cũng là lúc cả khu rừng phách chuyển sang sắc vàng rực chói chang dưới nắng hạ. Hai động từ "kêu, đổ" xuất hiện trong cùng một câu thơ như càng tô đậm thêm sức sống căng tràn của thiên nhiên khi hè sang. Phải chăng ở đây có sự tương giao, đồng điệu giữa vạn vật, giữa âm thanh và màu sắc. Có thể nói, cách diễn tả của Tố Hữu thật độc đáo, cảnh nửa thực nửa hư, gợi một vẻ đẹp rất riêng của Việt Bắc. Trong câu thơ tám chữ tiếp sau, vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống của người thiếu nữ miền sơn cước chăm chỉ, cần mẫn "hái măng một mình" đã đem đến một bức tranh dịu dàng hơn, đầy thi vị và lãng mạn. Vẻ đẹp tận tụy, tuy cô đơn mà chịu khó đến tận cùng.
Hai câu thơ cuối cùng đã hoàn thiện bức tranh cảnh Việt Bắc bốn mùa:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh sáng trăng xanh huyền ảo lung linh, dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ Bác khi ở chiến khu:
"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lua cho tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về."
Mùa thu nên thơ, dịu dàng, trong sáng với ánh trăng lan tỏa khắp núi rừng. Trong thơ ca cách mạng Tố Hữu nói riêng: "Trăng là biểu trưng dao cuộc sống hòa bình, hạnh phúc. Hình ảnh" trăng rọi hòa bình "là ước mơ của những ngày tháng kháng chiến gian khổ. Hiện tại ngày hôm nay ước mơ đó đã trở thành hiện thực chung. Tiếng hát ấy là lời khẳng định tình cảm trước sau như một của người dân Việt Bắc, tiếng hát ấy cũng là lời hứa thủy chung khắc ghi trong tim người về xuôi. Tiếng hát đã trở thành điệu hòa ca của những tấm lòng, hồi kết quá khứ, hiện tại và tương lai.
Đoạn thơ mang âm hưởng dìu dắt, da diết, ngân nga nỗi nhớ đã thể hiện chân thành tình cảm của người cán bộ cách mạng. Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc được khắc họa vừa chân thực vừa thú vị, giàu sức gợi hình gợi cảm. Tính dân tộc của đoạn thơ được thể hiện ở vẻ đẹp đậm chất ca dao như thơ lục bát, kết cấu đối đáp giữa" ta, mình ", bên cạnh đó vẻ đẹp cổ điển của thơ ca Phương Đông cũng được thể hiện qua vẻ đẹp cân đối, hài hòa giữa cảnh và người theo đề tài bốn mùa- tứ thời rất truyền thống.
Qua đoạn thơ này, ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình với thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên. Đoạn thơ" nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp"để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.

Bài làm
Ai trong đời cũng đều có cho mình một mảnh đất để thương và để nhớ như đời người chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo. Có lẽ chính vì thế mà nhà thơ Chế Lan Viên từng triết lý: "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hòa tâm hồn". Với nhà thơ Tố Hữu- người luận xem: "Việt Bắc là máu thịt của mình thì sau mười lăm năm gắn bó biết bao," thiết tha mặn nồng ", mảnh đất và con người Việt Bắc lại càng trở nên là một phần không thể thiếu trong tâm hồn nhà thi sĩ cách mạng ấy. Đó cũng là lý do mà hai chữ" Việt Bắc "đã trở thành tên gọi của một bài thơ, một tập thơ. Thi phẩm ấy là khúc nhạc lắng sâu lặng về mối tình thủy chung mặn nồng giữa con người, chiến sĩ cách mạng và nhân dân được thể hiện qua hồn thơ trữ tình chính trị đậm đà tình dân tộc- đặc biệt là qua đoạn thơ
" Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rùng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung ".
Tố Hữu (1920-2002) là một nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu. Ông là một trong những lá cờ đầu và có những đóng góp hết sức to lớn cho nền văn học cách mạng. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc, giọng thơ lại rất tự nhiên, đằm thắm. Việt Bắc được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến, là thành tựu xuất sắc của đời thơ. Người cầm bút, nó vừa là một bản tình ca, đồng thời cũng là một bản hùng ca. Miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào cuộc sống mới, một trang sử mới của đất nước thì cũng chính là lúc Việt Bắc được ra đời. Bài thơ gồm một trăm năm mươi câu thơ lục bát, được chia làm ba phần, đoạn trích chính là phần đầu của đoạn thơ. Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Là lời khẳng định tình yêu quê hương, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân và truyền thông ân nghĩa, đạo lý thủy chung của dân tộc Việt Nam. Mười câu thơ trên chính là mười câu thơ hay và đặc sắc nhất trong bài, là đoạn thơ kết tụ vẻ đẹp của cảnh, của người Việt Bắc và của tình người cán bộ cách mạng, chính là mười câu thơ được gọi là" bức tranh tứ bình về cảnh người Việt Bắc ". Hai câu thơ đầu thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ đó là nỗi nhớ cảnh, nhớ người:
" Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người "
Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào cảnh người, cảnh vật:" ta về mình có nhớ ta ". Hai đại từ nhân xưng" ta- mình "đã cho ta thấy cảm giác đây là một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy, nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, là cái cớ để giãi bày, hỏi để soi bồi hồi cảm xúc trước phút chia xa. Câu thơ thứ hai là tự trả lời của chính mình, điệp từ" ta "lặp lại bốn lần cùng với âm"... "
Là âm mở khiến cho câu thơ mang âm hưởng ngân nga, tha thiết nồng nàn. Hai đại từ nhân xưng mình ta, xuất hiện với tần số vô cùng lớn. Thực chất ở đây" mình ta "là cái cách nói lẵng mạn hóa, thi vị hóa của Tố Hữu để nói về mối tình thủy chung mặn nồng keo sơn của những người làm cách mạng với nhân dân Việt Bắc nghĩa tình, chính vì cách xưng hô đó, câu hỏi tu từ đó đã làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, xao xuyến giống như những câu hát giao duyên thuở nào:
" Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm ta áo ta đề câu thơ "
Ở đây ta là chỉ người ra đi, mình là chỉ người ở lại, và cái hay cái đặc sắc nhất của Tố Hưũ đó chính là ông đã lãng mạn hóa, thi vị hóa hai đại từ nhân xưng" ta" "mình" để "mình" "ta" trong ca dao tình yêu lứa đôi, "mình -ta" của mối tình cách mạng nhân dân được dựa vào thơ ca không hề khô khan và ngược lại rất thiên nhiên trữ tình.
Và có lẽ chính mà bốn cặp lục bát tiếp theo, cứ câu lục nhắc đến hoa, thì câu bát nhắc đến người. Hoa và người đan cài, quấn quýt, hòa quyện vào nhau và dệt nên một bộ tranh tứ bình thật đẹp, thật lung linh hiện lên trong kí ức của cả người đi và người ở lại. Mở đầu bột tranh tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống và trên nền thiên nhiên ấy là bóng dáng của con người lao động hiên ngang giữa nàng và gió
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ấm dao gài thắt lưng"
Với hai câu thơ này, ta cũng có thể thấy rõ tác giả đã không viết theo trật tự thông thường là xuân- hạ- thu- đông mà lại bắt đầu bộ tranh tứ bình bằng mùa đông. Bởi vì khi Tố Hữu viết bài thơ này là vào tháng 10/1954, thì mùa đông cũng đã đến nơi đây, trong quá khứ, quá khứ gắn bó với chiến tranh, chiến đấu. Hai câu thơ mở ra một không gian với chiều rộng và chiều cao: Đó là sự mênh mang của núi rừng và cái cao vời vợi của núi đèo. Trong câu thơ "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi" tác giả đã có một sự phối màu rất hài hòa, tinh tế. Trên phông nền xanh bạt ngàn của núi rừng, sắc đỏ tươi như những ngọn lửa nhỏ của bông hoa chuối được điểm lên không chỉ tạo một gam màu nổi bật mà cái rực rỡ, ấm áp của nó còn như xua tan sự lạnh lẽo, âm u của mùa đông. Bức tranh thêm tươi sáng, sống động hơn khi được xuyết điểm bởi ánh sáng và sự xuất hiện của hình ảnh con người lao động: "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" . Trên nền sắc vàng ấm áp cùng cái sáng lóa phản quang ánh nắng của con dao gài thắt lưng người đi rừng. Trên đèo cao, tác giả đã khắc họa thật khéo léo vẻ đẹp chan hòa ánh sáng áng tư thế khoẻ khoắn, chủ động. Đã qua rồi những đêm trường nô lệ, người dân Việt Bắc giờ đây tự tin vươn lên, làm chủ cuộc đời, lạc quan hướng về phía ánh sáng.
Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua rồi xuân lại tới:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở trắng rừng. Ở câu lục, miêu tả hoa mơ, động từ "nở" được dùng để tô đậm sức sống sinh sôi tràn trề của núi rừng khi vào mùa xuân; còn cụm từ "trắng rừng" đem lại ấn tượng mạnh về màu trắng xóa của hoa mơ như đang trải khắp không gian núi rừng Việt Bắc mênh mông. Sự thuần khiết, tràn đầy sức sống của hoa mơ gợi người đọc nhớ đến câu thơ tả hoa lê lúc vào xuân trong truyện Kiều của Nguyễn Du:
"Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Và có lẽ hoa mơ là sắc hoa tiêu biểu của vùng núi rừng Việt Bắc nên đã hơn một lần nó đi vào thơ của Tố Hữu trong cảm nhận đầy ngỡ ngàng:
"Ôi sáng cuân nay xuân 41
Trắng lừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"
(Theo chân Bác)
Vẫn là sự quấn quýt giữa cảnh và người, trên nền cảnh rừng xuân, con người lao động Việt Bắc hiện lên với dáng vẻ cần mẫn, khéo léo, miệt mài trong công việc "đan nón, chuốt giang". Công việc bình dị cùng hình ảnh con người chất phác đã để thương để nhớ sâu nặng trong lòng người về xuôi.
Nếu như trong bức tranh của mùa đông và xuân chỉ có chuyển màu thì sang tới mùa hè, bức tranh thiên nhiên còn thêm cả âm thanh dắng dỏng của những chú ve, và cũng cùng lúc đó thì cả rừng phách đồng loạt trổ bông, bung phấn, rừng phách lai láng sắc vàng:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Câu thơ đem đến một cảnh tượng khiên người ta phải sững sờ, khi tiếng ve nhất loạt ngân lên rộn rã, náo nức cũng là lúc cả khu rừng phách chuyển sang sắc vàng rực chói chang dưới nắng hạ. Hai động từ "kêu, đổ" xuất hiện trong cùng một câu thơ như càng tô đậm thêm sức sống căng tràn của thiên nhiên khi hè sang. Phải chăng ở đây có sự tương giao, đồng điệu giữa vạn vật, giữa âm thanh và màu sắc. Có thể nói, cách diễn tả của Tố Hữu thật độc đáo, cảnh nửa thực nửa hư, gợi một vẻ đẹp rất riêng của Việt Bắc. Trong câu thơ tám chữ tiếp sau, vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống của người thiếu nữ miền sơn cước chăm chỉ, cần mẫn "hái măng một mình" đã đem đến một bức tranh dịu dàng hơn, đầy thi vị và lãng mạn. Vẻ đẹp tận tụy, tuy cô đơn mà chịu khó đến tận cùng.
Hai câu thơ cuối cùng đã hoàn thiện bức tranh cảnh Việt Bắc bốn mùa:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh sáng trăng xanh huyền ảo lung linh, dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ Bác khi ở chiến khu:
"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lua cho tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về."
Mùa thu nên thơ, dịu dàng, trong sáng với ánh trăng lan tỏa khắp núi rừng. Trong thơ ca cách mạng Tố Hữu nói riêng: "Trăng là biểu trưng dao cuộc sống hòa bình, hạnh phúc. Hình ảnh" trăng rọi hòa bình "là ước mơ của những ngày tháng kháng chiến gian khổ. Hiện tại ngày hôm nay ước mơ đó đã trở thành hiện thực chung. Tiếng hát ấy là lời khẳng định tình cảm trước sau như một của người dân Việt Bắc, tiếng hát ấy cũng là lời hứa thủy chung khắc ghi trong tim người về xuôi. Tiếng hát đã trở thành điệu hòa ca của những tấm lòng, hồi kết quá khứ, hiện tại và tương lai.
Đoạn thơ mang âm hưởng dìu dắt, da diết, ngân nga nỗi nhớ đã thể hiện chân thành tình cảm của người cán bộ cách mạng. Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc được khắc họa vừa chân thực vừa thú vị, giàu sức gợi hình gợi cảm. Tính dân tộc của đoạn thơ được thể hiện ở vẻ đẹp đậm chất ca dao như thơ lục bát, kết cấu đối đáp giữa" ta, mình ", bên cạnh đó vẻ đẹp cổ điển của thơ ca Phương Đông cũng được thể hiện qua vẻ đẹp cân đối, hài hòa giữa cảnh và người theo đề tài bốn mùa- tứ thời rất truyền thống.
Qua đoạn thơ này, ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình với thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên. Đoạn thơ" nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp"để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.