Việt Bắc: Phân tích bức tranh thiên nhiên tứ bình - Việt Bắc, Tố Hữu

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 17 Tháng bảy 2023.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh tứ bình Việt Bắc.

    [​IMG]


    Bài làm

    Ai trong đời cũng đều có cho mình một mảnh đất để thương và để nhớ như đời người chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo. Có lẽ chính vì thế mà nhà thơ Chế Lan Viên từng triết lý: "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hòa tâm hồn". Với nhà thơ Tố Hữu- người luận xem: "Việt Bắc là máu thịt của mình thì sau mười lăm năm gắn bó biết bao," thiết tha mặn nồng ", mảnh đất và con người Việt Bắc lại càng trở nên là một phần không thể thiếu trong tâm hồn nhà thi sĩ cách mạng ấy. Đó cũng là lý do mà hai chữ" Việt Bắc "đã trở thành tên gọi của một bài thơ, một tập thơ. Thi phẩm ấy là khúc nhạc lắng sâu lặng về mối tình thủy chung mặn nồng giữa con người, chiến sĩ cách mạng và nhân dân được thể hiện qua hồn thơ trữ tình chính trị đậm đà tình dân tộc- đặc biệt là qua đoạn thơ

    " Ta về, mình có nhớ ta

    Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

    Ve kêu rùng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung ".

    Tố Hữu (1920-2002) là một nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu. Ông là một trong những lá cờ đầu và có những đóng góp hết sức to lớn cho nền văn học cách mạng. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc, giọng thơ lại rất tự nhiên, đằm thắm. Việt Bắc được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến, là thành tựu xuất sắc của đời thơ. Người cầm bút, nó vừa là một bản tình ca, đồng thời cũng là một bản hùng ca. Miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào cuộc sống mới, một trang sử mới của đất nước thì cũng chính là lúc Việt Bắc được ra đời. Bài thơ gồm một trăm năm mươi câu thơ lục bát, được chia làm ba phần, đoạn trích chính là phần đầu của đoạn thơ. Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Là lời khẳng định tình yêu quê hương, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân và truyền thông ân nghĩa, đạo lý thủy chung của dân tộc Việt Nam. Mười câu thơ trên chính là mười câu thơ hay và đặc sắc nhất trong bài, là đoạn thơ kết tụ vẻ đẹp của cảnh, của người Việt Bắc và của tình người cán bộ cách mạng, chính là mười câu thơ được gọi là" bức tranh tứ bình về cảnh người Việt Bắc ". Hai câu thơ đầu thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ đó là nỗi nhớ cảnh, nhớ người:

    " Ta về mình có nhớ ta

    Ta về ta nhớ những hoa cùng người "

    Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào cảnh người, cảnh vật:" ta về mình có nhớ ta ". Hai đại từ nhân xưng" ta- mình "đã cho ta thấy cảm giác đây là một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy, nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, là cái cớ để giãi bày, hỏi để soi bồi hồi cảm xúc trước phút chia xa. Câu thơ thứ hai là tự trả lời của chính mình, điệp từ" ta "lặp lại bốn lần cùng với âm"... "

    Là âm mở khiến cho câu thơ mang âm hưởng ngân nga, tha thiết nồng nàn. Hai đại từ nhân xưng mình ta, xuất hiện với tần số vô cùng lớn. Thực chất ở đây" mình ta "là cái cách nói lẵng mạn hóa, thi vị hóa của Tố Hữu để nói về mối tình thủy chung mặn nồng keo sơn của những người làm cách mạng với nhân dân Việt Bắc nghĩa tình, chính vì cách xưng hô đó, câu hỏi tu từ đó đã làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, xao xuyến giống như những câu hát giao duyên thuở nào:

    " Mình về ta chẳng cho về

    Ta nắm ta áo ta đề câu thơ "

    Ở đây ta là chỉ người ra đi, mình là chỉ người ở lại, và cái hay cái đặc sắc nhất của Tố Hưũ đó chính là ông đã lãng mạn hóa, thi vị hóa hai đại từ nhân xưng" ta" "mình" để "mình" "ta" trong ca dao tình yêu lứa đôi, "mình -ta" của mối tình cách mạng nhân dân được dựa vào thơ ca không hề khô khan và ngược lại rất thiên nhiên trữ tình.

    Và có lẽ chính mà bốn cặp lục bát tiếp theo, cứ câu lục nhắc đến hoa, thì câu bát nhắc đến người. Hoa và người đan cài, quấn quýt, hòa quyện vào nhau và dệt nên một bộ tranh tứ bình thật đẹp, thật lung linh hiện lên trong kí ức của cả người đi và người ở lại. Mở đầu bột tranh tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống và trên nền thiên nhiên ấy là bóng dáng của con người lao động hiên ngang giữa nàng và gió

    "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ấm dao gài thắt lưng"

    Với hai câu thơ này, ta cũng có thể thấy rõ tác giả đã không viết theo trật tự thông thường là xuân- hạ- thu- đông mà lại bắt đầu bộ tranh tứ bình bằng mùa đông. Bởi vì khi Tố Hữu viết bài thơ này là vào tháng 10/1954, thì mùa đông cũng đã đến nơi đây, trong quá khứ, quá khứ gắn bó với chiến tranh, chiến đấu. Hai câu thơ mở ra một không gian với chiều rộng và chiều cao: Đó là sự mênh mang của núi rừng và cái cao vời vợi của núi đèo. Trong câu thơ "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi" tác giả đã có một sự phối màu rất hài hòa, tinh tế. Trên phông nền xanh bạt ngàn của núi rừng, sắc đỏ tươi như những ngọn lửa nhỏ của bông hoa chuối được điểm lên không chỉ tạo một gam màu nổi bật mà cái rực rỡ, ấm áp của nó còn như xua tan sự lạnh lẽo, âm u của mùa đông. Bức tranh thêm tươi sáng, sống động hơn khi được xuyết điểm bởi ánh sáng và sự xuất hiện của hình ảnh con người lao động: "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" . Trên nền sắc vàng ấm áp cùng cái sáng lóa phản quang ánh nắng của con dao gài thắt lưng người đi rừng. Trên đèo cao, tác giả đã khắc họa thật khéo léo vẻ đẹp chan hòa ánh sáng áng tư thế khoẻ khoắn, chủ động. Đã qua rồi những đêm trường nô lệ, người dân Việt Bắc giờ đây tự tin vươn lên, làm chủ cuộc đời, lạc quan hướng về phía ánh sáng.

    Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua rồi xuân lại tới:

    "Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"

    Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở trắng rừng. Ở câu lục, miêu tả hoa mơ, động từ "nở" được dùng để tô đậm sức sống sinh sôi tràn trề của núi rừng khi vào mùa xuân; còn cụm từ "trắng rừng" đem lại ấn tượng mạnh về màu trắng xóa của hoa mơ như đang trải khắp không gian núi rừng Việt Bắc mênh mông. Sự thuần khiết, tràn đầy sức sống của hoa mơ gợi người đọc nhớ đến câu thơ tả hoa lê lúc vào xuân trong truyện Kiều của Nguyễn Du:

    "Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"

    Và có lẽ hoa mơ là sắc hoa tiêu biểu của vùng núi rừng Việt Bắc nên đã hơn một lần nó đi vào thơ của Tố Hữu trong cảm nhận đầy ngỡ ngàng:

    "Ôi sáng cuân nay xuân 41

    Trắng lừng biên giới nở hoa mơ

    Bác về im lặng. Con chim hót

    Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"

    (Theo chân Bác)

    Vẫn là sự quấn quýt giữa cảnh và người, trên nền cảnh rừng xuân, con người lao động Việt Bắc hiện lên với dáng vẻ cần mẫn, khéo léo, miệt mài trong công việc "đan nón, chuốt giang". Công việc bình dị cùng hình ảnh con người chất phác đã để thương để nhớ sâu nặng trong lòng người về xuôi.

    Nếu như trong bức tranh của mùa đông và xuân chỉ có chuyển màu thì sang tới mùa hè, bức tranh thiên nhiên còn thêm cả âm thanh dắng dỏng của những chú ve, và cũng cùng lúc đó thì cả rừng phách đồng loạt trổ bông, bung phấn, rừng phách lai láng sắc vàng:

    "Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình"

    Câu thơ đem đến một cảnh tượng khiên người ta phải sững sờ, khi tiếng ve nhất loạt ngân lên rộn rã, náo nức cũng là lúc cả khu rừng phách chuyển sang sắc vàng rực chói chang dưới nắng hạ. Hai động từ "kêu, đổ" xuất hiện trong cùng một câu thơ như càng tô đậm thêm sức sống căng tràn của thiên nhiên khi hè sang. Phải chăng ở đây có sự tương giao, đồng điệu giữa vạn vật, giữa âm thanh và màu sắc. Có thể nói, cách diễn tả của Tố Hữu thật độc đáo, cảnh nửa thực nửa hư, gợi một vẻ đẹp rất riêng của Việt Bắc. Trong câu thơ tám chữ tiếp sau, vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống của người thiếu nữ miền sơn cước chăm chỉ, cần mẫn "hái măng một mình" đã đem đến một bức tranh dịu dàng hơn, đầy thi vị và lãng mạn. Vẻ đẹp tận tụy, tuy cô đơn mà chịu khó đến tận cùng.

    Hai câu thơ cuối cùng đã hoàn thiện bức tranh cảnh Việt Bắc bốn mùa:

    "Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

    Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh sáng trăng xanh huyền ảo lung linh, dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ Bác khi ở chiến khu:

    "Trăng vào cửa sổ đòi thơ

    Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

    Chuông lua cho tỉnh giấc thu

    Ấy tin thắng trận liên khu báo về."

    Mùa thu nên thơ, dịu dàng, trong sáng với ánh trăng lan tỏa khắp núi rừng. Trong thơ ca cách mạng Tố Hữu nói riêng: "Trăng là biểu trưng dao cuộc sống hòa bình, hạnh phúc. Hình ảnh" trăng rọi hòa bình "là ước mơ của những ngày tháng kháng chiến gian khổ. Hiện tại ngày hôm nay ước mơ đó đã trở thành hiện thực chung. Tiếng hát ấy là lời khẳng định tình cảm trước sau như một của người dân Việt Bắc, tiếng hát ấy cũng là lời hứa thủy chung khắc ghi trong tim người về xuôi. Tiếng hát đã trở thành điệu hòa ca của những tấm lòng, hồi kết quá khứ, hiện tại và tương lai.

    Đoạn thơ mang âm hưởng dìu dắt, da diết, ngân nga nỗi nhớ đã thể hiện chân thành tình cảm của người cán bộ cách mạng. Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc được khắc họa vừa chân thực vừa thú vị, giàu sức gợi hình gợi cảm. Tính dân tộc của đoạn thơ được thể hiện ở vẻ đẹp đậm chất ca dao như thơ lục bát, kết cấu đối đáp giữa" ta, mình ", bên cạnh đó vẻ đẹp cổ điển của thơ ca Phương Đông cũng được thể hiện qua vẻ đẹp cân đối, hài hòa giữa cảnh và người theo đề tài bốn mùa- tứ thời rất truyền thống.

    Qua đoạn thơ này, ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình với thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên. Đoạn thơ" nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp"để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
     
    LieuDuongBooiina thích bài này.
  2. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Tham khảo 2:

    Bài làm


    "Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững

    Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa

    Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng

    Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa"

    ( "Đi trên mảnh đất này" – Huy Cận)

    Sảng khoái biết bao! Tự hào biết bao! Trong tâm trí ta bỗng cuồn cuộn đổ về dòng lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc. Bừng sáng trong tâm hồn bao thế hệ là lớp lớp những chiến công dựng nước và gữ nước với trời bể ân tình thủy chung nhất, yêu thương đùm bọc nhau của những con người quen đứng đầu sóng ngọn gió, chống lại mọi thế lực thù địch để giành lấy quyền sống, quyền làm người. Hòa trong mạch nguồn văn học thời kì ấy, không thể không kể đến khúc hung ca và đồng thời là bản tình ca "Việt Bắc" của Tố Hữu. Đoạn trích dưới đây đã khắc họa vẻ đẹp của bức tranh tứ bình và nỗi nhớ về thiên nhiên và con người nơi đây:

    "Ta về, mình có nhớ ta

    [..]

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

    Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của Việt Nam, đồng thời ông còn là một chính khách, một cán bộ lão thành. Không chỉ vậy, nhà thơ Tố Hữu còn được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam bởi ông luôn thể hiện lẽ sống lớn, tư tưởng, lí tưởng lớn, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc. Và Việt Bắc cũng là một trong số tác phẩm được coi là đứa con tinh thần của nhà thơ.

    Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơ – Ne – Vơ về Đông Dương kí kết. Hòa bình lặp lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của dân tộc được mở ra. Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung.

    Khổ thơ trên năm ở giữa đoạn trích, được đánh giá như một bức tranh đẹp nhất về Việt Bắc trong nỗi nhớ của nhà thơ, là sự hòa quyện thắm thiết giữa người và cảnh, là ấn tượng không thể phai mờ về con người Việt Bắc cần cù lao động, thủy chung tình nghĩa.

    Ai đó đã từng nói rằng: "Hoa Lữ Phong ở lại giữa cuộc đời nhờ hương thơm của nó, chim Sơn Tước ở lại giữa cuộc đời nhờ tiếng hót vút cao của nó giữa dàn đồng ca của núi rừng." Cũng như vậy, một tác phẩm muốn neo đậu thật lâu trong người đọc thì nó phải mang cho mình một sứ mệnh riêng. Ý thức được điều đó, Tố Hữu đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh của mình, ông đã thổi hồn, đánh thức người đọc vào những câu thơ Việt Bắc.

    Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta". Câu thơ không dùng để hỏi mà nó chỉ là cái cớ để người ra đi bày tỏ nỗi lòng mình "Ta về ta nhớ những hoa cùng người." Đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hòa quyện thắm thiết giữa người và cảnh. Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng: Hoa – người. Hoa là vẻ đẹp tinh túy nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng vơi con người là hoa của đất. Bởi vậy, đoạn thơ được cấu tạo: Câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói đến con người. Nói đến hoa hiển hiện hình người, nói đến người lại lấp loáng bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tuy hai mà một tỏa sáng bức tranh thơ nên bốn cặp lục bát đã tạo nên một bức tranh đặc sắc.

    Cũng nói về mảnh đất gắn bó như máu thịt, như tâm hồn, nhà thơ Chế Lan Viết:

    "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

    Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn".

    Cả bài thơ là một hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất với bức tranh Tứ Bình xuân – hạ - thu – đông qua tám câu thơ tiếp theo.

    Hình ảnh thơ như được chất lọc qua con mắt tinh tế của thi nhân: Rừng xanh và chuối hoa đỏ. Hình ảnh rừng xanh truyền thẳngn đến người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tỉnh của rừng già. Cái màu xanh ngan ngát đầy sức sống ngay giữa mùa đông lạnh giá. Cái màu xanh chất chứa bao bí ẩn "Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng" . Màu xanh núi rừng Việt Bắc:

    "Rừng giăng thành lũy thép dày

    Rừng che bộ đội rừng vây quân thù"

    Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi như những ngọn lửa thắp sáng cả cánh rừng. Cái màu đỏ tươi gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng tới màu đỏ hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

    "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

    Hồng liên trì đã tịn mùi hương."

    Từ liên tưởng ấy ta thấy mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ, bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ những màu xanh của núi rừng. Cặp lục bát này chính là một bức tranh tứ bình của mùa đông. Mà không có sức mạnh nào tạo nên sức sống cho bức họa bằng màu sắc. Tố Hữu đã thể hiện tài năng của mình bằng sự tinh tế của một nghệ sĩ tài ba khi phối màu cho bức tranh của mình. Gam màu xanh mát lạnh chỉ làm tăng thêm cái băng giá của mùa đông nên để gieo vào một hơi ấm tác giả đã chọn một gam màu nóng sáng, đó là màu đỏ tươi của hoa chuối rừng. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại.

    "Đèo cao nắng ánh giao gài thắt lưng"

    Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững trãi, tự tin. Con người đứng trên đỉnh "đèo cao" có tác dụng tôn lên tư thế, tầm vóc hào hùng đứng trên thiên nhiên hòa vào vũ trụ mênh mông bao la làm chủ cuộc sống. Đây là một quan niệm nghệ thuật độc đáo thường thấy trong thơ Tố Hữu khi viết về con người, dù là quân hay dân đều ở thế chủ động và đi lên phía trước. Con người xuất hiện trong câu thơ là người lao động bình dị góp sức nhỏ bé của mình cho cuộc chiến đấu. Nhà thơ Tố Hữu đã rất tinh tế khi nắm bắt khoảnh khắc giao thoa kì diệu giữa thiên nhiên và con người. Những thép dao để trằn được mài sáng lóa gài nơi thắt lưng, được ánh nắng hiếm hoi của mùa đông chiếu vào tạo nên sự phản quang kì lạ, tỏa ra thứ ánh nắng lung linh, chói lóa, lấp lánh. Con người như một điểm tụ của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

    Câu thơ đã thể hiện thái độ yêu thương, trân trọng, ca ngợi nhân dân lao động của nhà thơ Tố Hữu. Cứ nơi nào có người lao động, nơi đó có ánh hào quang lấp lánh. Cái lạnh của mùa đông cũng phút chốc được xua tan chỉ còn lại cảm giác ấm áp, vui tươi của người lao động.

    "Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang."

    Nhà thơ không viết là "mùa xuân" mà thay bằng "ngày xuân" đầy tinh tế. Đó là thái độ ngỡ ngàng, trầm trồ trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời vạn vật mùa xuân diễn ra, thay đổi qua từng giây, từng phút, từng ngày để tác giả chọn lấy một hình ảnh có thần nhất về bức tranh mùa xuân nơi núi rừng Việt Bắc. Nhớ đến Việt Bắc mùa xuân là nhớ đến hoa mơ "nở trắng rừng". Chữ "trắng" gợi lên một sắc trắng tinh khiết, mênh mang, một thế giới hoa mơ bao phủ tạo nên sức xuân ngập tràn đất trời núi rừng Việt Bắc. Một mùa xuân trong trắng, tinh khôi và tràn đầy sức sống như cái man mác, dịu nhẹ của mùa xuân đầu tiên nơi Việt Bắc, đồng thời là hình ảnh đáng nhớ, đầy vấn vương lưu luyến khi phải chia xa đất và người nơi đây. Người đi không thể nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc và lại càng không thể nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà tài hoa.

    "Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"

    Trong dân gian từ xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội thế nên mới có câu "Tháng riêng là thắng ăn chơi". Điều này lại càng đúng hơn trên những vùng núi rừng chiến khu, nơi của các lễ hội như: Hát lượn, hát si. Trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng giặc thì đã mùa xuân nhưng nhân dân Việt Bắc đã quên đi niềm vui riêng để miệt mài với công việc, với cuộc kháng chiến: Đan nón. Chính sự bất thường này làm nên mùa xuân đáng nhớ nơi chiến khu. Hai chữ "chuốt từng" gợi lên sự khéo léo, tỉ mỉ của con người Việt Bắc gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Hai câu bthơ như đã lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân vậy. Tài tình như thế thật hiếm thấy.

    "Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình"

    Nếu như trong bức tranh của hai mùa đông, xuân người đọc chỉ được mãn nhãn với đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè tác giả đã đánh thức giác quan mới trong cảm nhận của người đọc. Thính giác choáng tỉnh bởi âm thanh rộn rã của tiếng ve. Nhớ đến Việt Bắc mùa hạ là nhớ đến tiếng ve râm ran, nhớ màu vàng của 'rừng phách ". Tiếng ve là âm thanh đặc trưng của mùa hè nơi núi ngàn và cũng là dấu hiệu báo mùa hè đến. Chỉ cần một chú ve đầu cất lên khúc nhạc là có cả dàn hòa tấu độc hành của mùa hạ sôi động. Từ" đổ "là động từ mạnh được dùng thật chính xác và tinh tế, vừa gợi sự chuyển biến mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện rõ mùa hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy mà vô cùng huyền ảo. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh" cô em gái hái măng một mình "hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn ngọt ngào, trìu mến. Nhớ về em là nhớ về cả một không gian đầy hương sắc. Người em gái trong công việc hàng ngày giản dị: Hái măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm với hai chữ" một mình "nghe cứ xao xuyến lạ như bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa đầy ngọt ngào và vương vấn.

    Khép lại bức tranh tứ bình là bức tranh mùa thu không kém phần nên thơ:

    " Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung "

    Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Bốn từ" trăng rọi hòa bình "gợi lên hai liên tưởng: ánh trăng dịu dàng, yên ả tỏa xuống rừng thu, cũng có thể hiểu là ánh trăng chiếu rọi phong cảnh hòa bình trong một đêm thu sau khi chiến tranh kết thúc. Giữa rừng thu ấy, con người xuất hiện trong bức tranh cũng rất độc đáo: không thấy hình dáng hay màu sắc, chỉ nhận ra từ âm thanh" tiếng hát ". Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc, của núi rừng, của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

    Kết thúc bức tranh tứ bình bằng mọt bức tranh đầy nhân hậu, lạc quan. Có thể thấy cảnh và người Việt Bắc chuyển từ quá khứ đến hiện tại, bốn mùa luôn luôn luân chuyển nhưng kỉ niệm sau cùng đẹp nhất là mùa thu, là phong cảnh hòa bình.

    Đoạn thơ đã thể hiện rất rõ phong cách thơ Tố Hữu vừa trữ tình, sâu lắng, vừa ân tình và đậm đà tính dân tộc. Thể thơ lục bát quen thuộc vừa dân dã, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Trong đoạn thơ, điệp từ" nhớ "được lặp lại nhiều lần, mỗi lần xuất hiện mang một sắc thái khác nhau theo cấp độ tăng tiến, thể hiện những rung động chân thật, mặn mà thắm thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đó không chỉ là cảm xúc riêng của nhà thơ mà còn là cảm xúc chủ đạo chung của con người, là đạo lí tốt đẹp của dân tộc.

    Nhà thơ Tố Hữu từng quan niệm:" Thơ hay bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy. "Và ông đã thành công trong công cuộc sáng tác của đời mình nhờ tình yêu thuong bao la, sự trải nghiệm thực tế và sự quan sát hết sức tinh tế của chính mình. Có thể nói đoạn thơ là đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc với lời thơ giàu giá trị tạo hình, cấu trúc tương đối hài hòa, cảnh vật thiên nhiên thật đẹp và con người Việt Bắc thật nghĩa tình và đáng yêu.

    Hemingway từng nói:" Tất cả tác phẩm nghệ thuật đều có sự bất tử của riêng nó. Bởi vì đó là sản phẩm bền vững của lao động và trí tuệ con người. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, các đền đài có thể sụp đổ, chỉ có những tác phẩm thơ ca chân chính mới có khả năng vượt qua được quy luật băng hoại của thời giam để tồn tại vĩnh viễn. "May thay trong số các tác phẩm ấy, chúng ta có đoạn trích mười câu đầu khổ chín bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Cảm ơn nhà thơ vì đã" cắm một cây sào sáng tạo"vào mảnh đất màu mỡ của nghệ thuật để đưa tác phẩm Việt Bắc – một tác phẩm của lòng dân, của đức tin và của giá trị sống về những con người chân thiện, chịu thương, chịu khó để cho chúng ta hiểu rằng: Giữa một miền núi đất nước vẫn luôn hiển hiện những người con mang tình yêu lớn lao với Tổ quốc, với đồng đội. Và nơi đó là nơi chan chứa bao tình yêu thương nồng cháy, là nơi tựa như bức tranh tứ bình về một miền quê tươi đẹp.
     
    LieuDuong thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...