HỒI THỨ 69 Sở Linh Vương cậy thế hùng cường Án Bình Trọng thi tài ăn nói Bấm để xem Trần Ai công tên là Nịch. Người chánh phi là Trịnh Cơ, sinh con là Yển Sư, đã lập làm thế tử. Còn người thứ phi sinh ra công tử Lưu; người tam phi sinh ra công tử Thắng. Người thứ phi khéo nịnh được yêu, khi đã sinh được công tử Lưu, Trần Ai công muốn lập làm thế tử, nhưng vì đã lập Yển Sư rồi, không lấy cớ gì mà bỏ đi được, mới lấy người em là công tử Chiêu làm thái phó, công tử Quá làm thế phó để giúp cho công tử Lưu. Năm ấy Trần Ai công ốm nặng, đã lâu không ra coi triều, công tử Chiêu bảo công tử Quá rằng: - Con thế tử Yển Sư là công tôn Ngô, năm nay đã lớn tuổi. Nếu thế tử Yển Sư lên nối ngôi thì tất là công tôn Ngô làm thế tử, bao giờ truyền đến công tử Lưu được. Nay chúa công ốm nặng, quyền chính ở trong tay chúng ta, chi bằng giả cách phụng mệnh chúa công giết thế tử Yển Sư đi mà lập công tử Lưu thì ngày sau khỏi hối. Công tử Quá khen phải, liền cùng với quan đại phu là Trần Khổng Hoán thương nghị. Trần Khổng Hoán nói: - Thế tử Yển Sư ngày nào cũng vào cung hỏi thăm chúa công 3 lần, sớm tối ở bên cạnh chúa công, ta không thể nói dối được, chi bằng ta sai người nấp ở cửa cung, đợi khi ra vào mà đâm chết là hơn. Công tử Quá bàn nhau với công tử Chiêu, rồi giao việc ấy cho Trần Khổng Hoán và ước với Trần Khổng Hoán rằng: - Khi đã lập công tử Lưu rồi, sẽ phong cho ấp lớn. Trần Khổng Hoán sai một người lực sĩ tâm phúc đứng lẫn vào trong đám quân sĩ canh cửa. Quân sĩ canh cửa tưởng là người theo hầu thế tử Yển Sư, vậy không nghi ngờ gì cả. Thế tử Yển Sư vào thăm bệnh xong, đang đêm ra đến cung môn, người lực sĩ tắt đèn, rồi đâm chết đi. Chỗ cung môn náo loạn. Được một lúc, công tử Chiêu và công tử Quá đến, giả cách khinh sợ, một mặt sai người tầm nã quân giặc, còn một mặt nói với vua Trần ốm nặng, nên lập công tử Lưu nối ngôi. Trần Ai công biết chuyện, có ý tức giận, rồi thắt cổ mà chết. Công tử Chiêu phụng công tử Lưu đứng chủ tang, rồi lập lên làm vua, lại sai quan đại phu là Vu Trưng Sư đến cáo với vua Sở là Trần Ai công ốm nặng mà chết. Bây giờ Ngũ Cử đang đứng hầu ở bên cạnh Sở Linh Vương thấy nói nước Trần đã lập công tử Lưu lên làm vua, không biết Yển Sư đi đâu, có ý nghi hoặc, bỗng nghe báo có người con thứ ba của Trần Ai công là công tử Thắng và người cháu gọi bằng chú là công tôn Ngô (con thế tử Yển Sư) xin vào yết kiến. Sở Linh Vương cho vào. Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy, vừa lạy vừa khóc. Công tử Thắng tâu rằng: - Đích huynh tôi là thế tử Yển Sư bị công tử Chiêu và công tử Quá bày mưu giết đi, để đến nỗi thân phụ tôi phải thắt cổ mà chết, rồi tự tiện lập công tử Lưu lên làm vua. Chúng tôi sợ bị hại, vậy phải đem nhau sang đây để nhờ ơn quí quốc. Sở Linh Vương hỏi Vu Trưng Sư. Lúc trước Vu Trưng Sư còn chối, nhưng bị công tử Thắng biện bác, không thể cãi lại được. Sở Linh Vương nổi giận mắng Vu Trưng Sư rằng: - Nhà ngươi tức là đảng công tử Chiêu và công tử Quá! Sở Linh Vương truyền đem Vu Trưng Sư ra chém. Ngũ Cử tâu với Sở Linh Vương rằng: - Đại vương đã giết Vu Trưng Sư thì nên giúp công tôn Ngô trị tội công tử Chiêu và công tử Quá; như thế thì đường đường chính chính, ai là người không phải phục. Đã dẹp yên nước Trần rồi, sẽ tiến quân sang nước Sái, tôi chắc rằng có thể noi theo được cái công nghiệp của Trang Vương ta thuở xưa. Sở Linh Vương bằng lòng, mới đem quân sang đánh Trần. Công tử Lưu nước Trần nghe tin Vu Trưng Sư bị giết, sợ có tai vạ, không dám lên làm vua, liền trốn sang nước Trịnh. Có người bảo công tử Chiêu sao không đi theo công tử Lưu. Công tử Chiêu nói: - Nếu quân Sở đến, ta sẽ có kế làm cho phải lui. Sở Linh Vương đem quân đến nước Trần. Người nước Trần đều thương thế tử Yển Sư chết oan, trông thấy công tôn Ngô về, ai cũng mừng rỡ, kéo nhau ra đón rước. Công tử Chiêu thấy việc đã nguy cấp lắm, sai người mời công tử Quá để thương nghị. Công tử Quá đến, hỏi công tử Chiêu rằng: - Khi trước ngài nói có kế làm cho quân Sở phải lui, chẳng hay là kế gì? Công tử Chiêu nói: - Tất phải dùng một vật mới lui được quân Sở, ta muốn mượn nhà ngươi. Công tử Quá lại hỏi: - Chẳng hay vật gì? Công tử Chiêu nói: - Cái đầu nhà ngươi. Công tử Quá kinh sợ, vừa toan đứng dậy thì công tử Chiêu truyền cho quân sĩ xúm lại đánh chết mà chém lấy đầu. Công tử Chiêu đem đầu công tử Quá sang quân Sở, sụp lạy Sở Linh Vương mà tâu rằng: - Việc giết thế tử Yển Sư mà lập công tử Lưu, đều là lỗi tại công tử Quá. Nay tôi nhờ uy đại vương, chém công tử Quá đem nộp xin đại vương dung thứ cho tôi. Sở Linh Vương thấy công tử Chiêu nói năng khiêm tốn, đã có ý hơi bằng lòng. Công tử Chiêu lại quì gần ở trước mặt Sở Linh Vương mà mật tâu rằng: - Vua Trang Vương nước Sở ngày xưa dẹp yên nước Trần, đã lấy nước Trần làm quận huyện, sau lại phong cho nước Trần; thành ra uổng công. Nay công tử Lưu sợ tội bỏ trốn, nước Trần không có ai làm chủ, xin đại vương lấy làm quận huyện chớ để cho lại về quyền họ khác. Sở Linh Vương mừng lắm nói: - Lời nói nhà ngươi chính hợp với ý ta! Âu là nhà ngươi hãy về trước, mà quét dọn cung thất để đợi ta sang tới đó. Công tử Chiêu lạy tạ rồi lui ra. Công tử Thắng nghe nói Sở Linh Vương tha cho công tử Chiêu về nước, lại vào tâu với Sở Linh Vương rằng: - Việc giết thế tử Yển Sư, thủ mưu tự công tử Chiêu, đến lúc định khởi sự thì công tử Quá sai quan đại phu là Trần Khổng Hoán làm, nay lại đổ tội cho công tử Quá để mong được tạ tội, như thế thì tiên quân và tiên thế tử tôi ở dưới suối vàng sao cho được hả lòng? Công tử Thắng vật mình lăn khóc, quân sĩ trông thấy ai cũng cảm động. Sở Linh Vương dỗ bảo rằng: - Công tử chớ lo, ta sẽ liệu cách phân xử. Ngày hôm sau, công tử Chiêu sắp sửa xa giá ra đón Sở Linh Vương vào thành. Sở Linh Vương ngồi ở trên triều đường. Các quan triều thần đều đến yết kiến. Sở Linh Vương gọi Trần Khổng Hoán lên mà mắng rằng: - Việc giết thế tử Yển Sư, đều bởi tay nhà ngươi, nếu không giết đi thì sao làm gương cho kẻ khác được! Sở Linh Vương truyền cho quân sĩ đem Trần Khổng Hoán ra chém, rồi đem đầu Trần Khổng Hoán và đầu công tử Quá bêu ở quốc môn. Sở Linh Vương lại bảo công tử Chiêu rằng: - Ta cũng muốn dung tha cho ngươi lắm, nhưng vì công luận, không thể đừng được. Nay ta tha tội chết cho mà nhà ngươi nên đem gia quyến ra ở xứ Đông Hải. Công tử Chiêu kinh sợ không dám cãi lại, sụp lạy rồi lui ra. Sở Linh Vương sai người đem công tử Chiêu ra an trí ở nước Việt. Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy Sở Linh Vương, tạ cái ơn dẹp hộ quân giặc. Sở Linh Vương bảo công tôn Ngô rằng: - Ta vẫn muốn lập nhà ngươi lên làm vua nước Trần, nhưng mà đảng công tử Chiêu và công tử Quá còn nhiều, tất lại thù oán, làm hại nhà ngươi, nhà ngươi nên theo ta về nước Sở. Sở Linh Vương truyền đổi nước Trần làm quận huyện nước Sở. Sở Linh Vương thấy Xuyên Phong Thú khi trước dám tranh cái công bắt Hoàng Hiệt nước Trịnh, thế là người không xiểm nịnh, mới cho Xuyên Phong Thú trấn thủ ở đó, gọi là Trần công. Người nước Trần đều lấy làm không bằng lòng. Sở Linh Vương đem công tôn Ngô về nước, nghỉ quân một năm rồi mới đi đánh Sái. Ngũ Cử hiến kế rằng: - Cái tội ác của vua Sái (tức là Sái Linh công, tên là Ban), nay đã lâu ngày, nếu ta đem quân hỏi tội thì kẻ kia tất cãi lại, chi bằng ta dụ đến để giết đi. Sở Linh Vương theo kế ấy, mới giả cách ra tuần du ở Thân Địa và sai người mang lễ vật sang mời Sái Linh công. Sứ nước Sở đem quốc thư đệ trình Sái Linh công. Sái Linh công mở ra đọc. Trong thư đại lược như sau: "Tôi khát vọng nhà vua lắm, mời nhà vua sang hội ở Thân Địa. Gọi là có các đồ lễ vật nhỏ mọn này để khao thưởng kẻ hầu hạ nhà vua, xin nhà vua nhận cho". Sái Linh công truyền sắp xa giá toan đi. Quan đại phu là công tôn Qui Sinh can rằng: - Vua Sở là người tham mà không thực, nay sai sứ tới đây mà lễ nhiều nói ngọt, tất là có ý dụ ta. Chúa công chớ nên đi. Sái Linh công nói: - Nước Sái ta không bằng một huyện của nước Sở, nếu triệu mà ta không đi, tất là kẻ kia đem quân đến đánh, tài nào mà địch lại nổi! Công tôn Qui Sinh nói: - Vậy thì xin lập thế tử đã rồi hãy đi. Sái Linh công nghe lời, lập con là Hữu làm thế tử, và giao cho công tôn Qui Sinh giúp thế tử Hữu để giữ nước, rồi tức khắc đi xe sang Thân Địa. Sái Linh công vào yết kiến Sở Linh Vương. Sở Linh Vương nói: - Tôi cùng nhà vua biệt nhau, thấm thoát đã 8 năm, thế mà mừng thay cho nhà vua, nhan sắc vẫn còn như cũ. Sái Linh công nói: - Nước tôi nhờ ơn đại vương mà được dự hội với chư hầu, chưa biết lấy gì mà đền ơn lại. Mới rồi, nghe nói đại vương đánh được nước Trần, đã toan sang mừng, chẳng ngờ đại vương lại cho sứ đến triệu, vậy tôi xin sang đây để bái yết. Sở Linh Vương bày tiệc để thết đãi Sái Linh công, hát xướng linh đình, rất là trọng thể, Sở Linh Vương sai Ngũ Cử cho các người theo hầu Sái Linh công uống rượu ở ngoài quán. Sái Linh công vui chén uống mãi thành ra quá say. Sở Linh vương ném cái chén rượu làm hiệu thì có quân sĩ ở chung quanh đổ ra, trói Sái Linh công lại, mà Sái Linh công vẫn còn say rượu chẳng biết gì cả. Sở Linh Vương sai người tuyên bá rằng: - Vua Sái giết cha cướp ngôi, nay ta phải thay trời mà trị tội; còn những người theo hầu vua Sái, ai xin hàng thì có thưởng và cũng tha cho được về. Xưa nay Sái Linh công tiếp đãi các tướng sĩ, rất có ân lễ, bởi vậy các tướng sĩ không ai chịu hàng cả. Sở Linh Vương truyền cho quân Sở vây kín lại rồi bắt tất cả. Bấy giờ Sái Linh công rượu đã hơi tỉnh, mới biết là mình bị trói, trừng mắt nhìn Sở Linh Vương nói rằng: - Tôi có tội gì? Sở Linh Vương nói: - Mày giết cha đi mà cướp ngôi, thật là một đứa càn dỡ, bây giờ mới chết, cũng là muộn lắm rồi! Sái Linh công thở dài than rằng: - Tiếc thay ta không nghe lời công tôn Qui Sinh! Những người theo hầu Sái Linh công bị giết, cả thảy 70 người, dẫu đến kẻ hầu hạ cũng bị giết cả. Sở Linh Vương ghi tội Sái Linh công vào cái mộc bản, đem yết lên cho người trong nước biết, và sai Công tử Khí Tật đem quân thẳng đường sang nước Sái. Thế tử Hữu nước Sái, từ khi Sái Linh công đi sang Thân Địa rồi, vẫn sai người dò thám tin tức, bỗng nghe Sái Linh công bị giết, quân Sở sắp sang đến nơi, liền sửa soạn quân mã để phòng giữ. Quân Sở kéo đến, vây kín thành nước Sái đến hai ba vòng. Công tôn Qui Sinh nói với Thế tử Hữu rằng: - Nước Sái ta dẫu phụ thuộc nước Sở đã lâu, nhưng khi Tấn và Sở giao ước bãi binh với nhau, tôi cũng dự vào đó, chi bằng ta sai sứ sang cầu cứu với nước Tấn, nước Tấn nghĩ đến lời giao ước ấy, tất phải cứu ta. Thế tử Hữu nghe lời, đang muốn tìm một người để sai sang sứ nước Tấn. Nguyên trong số 70 người bị Sở Linh Vương giết ở Thân Địa khi trước, có một người tên gọi là Sái Lược, là thân phụ Sái Hựu. Sái Hựu muốn báo thù cho cha, vậy mới nói với Thế tử Hữu xin sang sứ nước Tấn. Sái Hựu đang đêm trèo qua thành trốn đi sang sứ nước Tấn, vào yết kiến Tấn Chiêu công, vừa khóc vừa kể những nông nỗi Sái Linh công bị giết. Tấn Chiêu công họp các quan triều thần lại để thương nghị. Tuân Ngô (con Tuân Yển) nói với Tấn Chiêu công rằng: - Nước Tấn ta làm bá chủ thì trách nhiệm phải bênh vực các nước chư hầu. Trước đã không cứu Trần, nay lại không cứu Sái thì sao gọi là bá chủ được. Tấn Chiêu công nói: - Vua Sở nay vốn là người bạo ngược, mà binh lực ta không địch nổi thì biết làm thế nào? Hàn Khởi nói: - Dẫu biết là không địch nổi, chẳng lẽ cứ ngồi yên hay sao! Ta nên họp quân chư hầu mà đi đánh mới phải. Tấn Chiêu công liền sai Hàn Khởi hội chư hầu ở đất Quyết Ngận. Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trịnh và Tào đều sai quan đại phu đến để dự hội. Hàn Khởi nói đến việc cứu Sái, quan đại phu các nước đều lắc đầu cả, không ai dám nhận lời Hàn Khởi. Hàn Khởi nói: - Các ngươi sợ nước Sở như thế thì định để cho nước Sở cứ mỗi ngày một lấn dần như tằm ăn dâu hay sao! Nếu quân Sở đánh xong Trần, Sái, rồi dần dần đánh đến các nước thì bấy giờ Chúa công tôi cũng không dám bàn gì nữa! Các người đều nhìn nhau, không ai dám trả lời. Bấy giờ quan Hữu sư nước Tống là Hoa Hợi cũng dự hội. Hàn Khởi bảo Hoa Hợi rằng: - Khi trước quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên xướng nghị lên mà khiến cho Tấn và Sở hội nhau ở nước Tống để giao ước bãi binh, nếu nước nào trái lời thì các nước cùng đánh. Nay nước Sở bội ước đánh Trần và Sái mà nhà ngươi cứ khoanh tay không nói một câu nào, thế thì không phải là tại nước Sở thất tín, chính là tại nước ngươi khinh mạn chư hầu đó! Hoa Hợi sợ hãi mà đáp rằng: - Khi nào nước tôi dám khinh mạn chư hầu, chẳng qua là tại nước Sở mọi rợ, không nghĩ gì đến tín nghĩa, nước tôi cũng không thể làm thế nào được. Nay các nước nghỉ chân đã lâu mà bỗng nhiên khởi sự chiến tranh thì vị tất đã thắng được Sở, chi bằng ta theo lời giao ước ấy mà sai sứ đến xin vua Sở tha cho nước Sái, chắc là vua Sở không thể chối từ được nữa. Hàn Khởi thấy quan đại phu các nước đều có ý sợ nước Sở, liệu việc cứu Sái không thể nào cổ động được, mới bàn viết một bức thư sai quan Đại phu là Hồ Phủ sang Thân Địa đệ trình Sở Linh Vương. Sái Hựu thấy các nước không chịu đem quân cứu Sái, khóc mà trở về. Hồ Phủ sang đến Thân Địa, vào yết kiến Sở Linh Vương đệ trình bức thư. Sở Linh Vương mở thư ra xem. Trong thư đại lược như sau này: "Ngày trước hội thề ở nước Tống, có giao ước cùng nhau bãi binh, đến khi hội thề ở Quắc Địa lại nhắc lại ước cũ, đã có quỉ thần chứng giám. Chúa công tôi cùng chư hầu noi theo lời giao ước ấy, không dám gây việc chiến tranh. Nay Trần, Sái có tội, quí quốc đem quân đi đánh, dẫu bởi việc nghĩa, nhưng chẳng qua cũng là tòng quyền. Chư hầu thấy tội nhân đã giết được rồi mà việc binh hãy còn chưa bãi, đều đến trách Chúa công tôi sao không biết bênh vực những kẻ hèn yếu. Chúa công tôi lấy làm xấu hổ lắm, nhưng vẫn chưa dám cất quân, là vì sợ trái lời giao ước, vậy phải sai tôi là Hàn Khởi, cùng với quan đại phu các nước, đưa bức thư này, xin Đại vương tha cho nước Sái. Nếu Đại vương nghĩ đến lời giao ước mà để cho nước Sái được toàn vẹn thì Chúa công tôi và các nước đồng minh đều cám ơn Đại vương lắm, chẳng những là người nước Sái." Cuối bức thư, quan đại phu các nước đều ký tên cả. Sở Linh Vương trông thấy, cười mà nói rằng: - Ta đã sắp phá vỡ được nước Sái mà các ngươi muốn đem câu nói đến giải vây hay sao, nếu vậy thì khinh ta là trẻ con quá! Nhà ngươi về nói lại cho vua Tấn biết: Trần, Sái là nước phụ thuộc của ta, không dự gì đến nước Tấn mà nước Tấn phải trông nom hộ. Hồ Phủ toan cố ý nài xin thì Sở Linh Vương đứng dậy đi trở vào, cũng không viết giấy trả lời gì cả. Hồ Phủ căm tức mà trở về. Vua tôi nước Tấn dẫu giận nước Sở, nhưng cũng không biết làm thế nào. Sái Hựu về đến nước Sái, bị quân Sở bắt được, giải đến nộp Công tử Khí Tật. Công tử Khí Tật bắt hiếp Sái Hựu phải đầu hàng. Sái Hựu không nghe. Công tử Khí Tật đem giam ở hậu quân. Công tử Khí Tật biết quân Tấn không đến cứu, lại càng cố sức đánh thành nước Sái. Công tôn Qui Sinh nói với Thế tử Hữu rằng: - Bây giờ việc đã nguy cấp rồi, tôi xin liều mình sang dinh quân Sở để xin quân Sở rút về, nếu quân Sở nghe cho thì dân ta không đến nỗi tàn hại. Thế tử Hữu nói: - Công việc trong thành, trông cậy ở một tay ngài, sao ngài nỡ bỏ tôi mà đi. Công tôn Qui Sinh nói: - Nếu Thế tử không bằng lòng cho tôi đi thì con tôi là Triều Ngô, có thể sai đi được. Thế tử Hữu gọi Triều Ngô đến, khóc mà sai đi. Triều Ngô vào yết kiến Công tử Khí Tật. Công tử Khí Tật tiếp đãi tử tế. Triều Ngô nói: - Công tử đem quân đánh nước tôi, nước tôi chắc thế nào cũng mất, nhưng chưa được rõ là vì tội gì? Nếu vì tội Tiên quân tôi thất đức thì Thế tử nước tôi có tội gì? Tôn xã nước tôi có tội gì? Xin Công tử thương mà xét cho. Công tử Khí Tật nói: - Ta cũng biết nước Sái không đáng phải tuyệt diệt, nhưng ta phụng mệnh vua Sở sang đây, nếu không thành công thì tất có tội. Triều Ngô nói: - Tôi còn có một câu nữa, xin đuổi hết người xung quanh cho tôi được nói. Công tử Khí Tật nói: - Nhà ngươi cứ nói, người xung quanh ta không hề chi cả. Triều Ngô nói: - Vua Sở được nước không phải là chính đạo, Công tử hẳn cũng đã biết. Phàm người biết nghĩ, ai là không giận. Nay lại trong làm khổ dân về việc thổ mộc, ngoài làm khổ dân về việc can qua, lòng tham không chán, năm trước diệt Trần, năm sau lừa Sái. Công tử không nghĩ đến thù chung mà cố sức để giúp, tôi e rằng đến khi tai vạ, chắc là Công tử cũng phải chịu một phần. Công tử vốn là người hiền, mà lại có cái điềm đương bích, người nước Sở ai cũng muốn cho Công tử lên làm vua; nay Công tử đem quân quay về mà trị tội kẻ giết vua, hại dân ấy thì còn ai dám chống lại với Công tử nữa. Chẳng hơn là thờ một ông vua vô đạo mà mua oán với thiên hạ hay sao! Nếu Công tử nghe lời, tôi xin đem quân nước tôi đi làm tiên phong mà giúp Công tử. Công tử Khí Tật nổi giận, nói: - Đứa thất phu kia, dám đem lời nói khéo để làm chia rẽ vua tôi nước ta, tội đáng chém chết, nhưng ta hãy gửi cái đầu ở trên cổ nhà ngươi đó, cho nhà ngươi về truyền bảo Thế tử Hữu mau mau mà ra hàng đi thì còn được toàn tính mệnh! Công tử Khí Tật truyền quân sĩ đuổi Triều Ngô ra. Nguyên là khi trước Sở Cung Vương có một người thiếp yêu, sinh được năm con: Người con trưởng là Hùng Chiêu, tức là Sở Khang Vương; người thứ hai là Vi, tức là Sở Linh Vương; người thứ ba là Tị, tên tự là Tử Can; người thứ tư là Hắc Quang, tên tự là Tử Tích; còn người thứ năm là Công tử Khí Tật. Trong năm người con ấy, Sở Cung Vương muốn chọn một người để lập làm thế tử mà chưa biết lập ai, mới tế các thần, rồi chôn một viên ngọc bích ở giữa sân nhà Thái miếu, sai năm con vào lễ, để xem ai đứng chính giữa viên ngọc bích ấy, tức là người ấy có phúc, về sau được nối ngôi vua. Khang Vương vào trước, đứng lễ quá lên trước chỗ chôn ngọc bích; Linh Vương vào sau, lúc lễ với tay đến chỗ ngọc bích; Tử Can và Tử Tích thì cách ngọc bích xa lắm. Công tử Khí Tật bấy giờ tuổi hãy còn nhỏ, người vú ẵm vào lễ đứng chính giữa ở trên ngọc bích, Sở Cung Vương trong lòng biết là thần giúp, bởi vậy rất yêu Công tử Khí Tật. Khi Sở Cung Vương chết, Công tử Khí Tật hãy còn nhỏ, thành ra Khang Vương lên nối ngôi, nhưng các quan đại phu nước Sở nghe thấy việc chôn ngọc bích ấy, ai cũng biết rằng về sau Công tử Khí Tật lên làm vua. Bấy giờ Triều Ngô nước Sái nói đến cái điềm đương bích, Công tử Khí Tật sợ lời nói ấy truyền bá ra thì tất Sở Linh Vương ghen ghét, vậy nên giả cách đuổi Triều Ngô ra. Triều Ngô trở vào trong thành, thuật lại lời nói của Công tử Khí Tật cho Thế tử Hữu nghe. Thế tử Hữu nói: - Làm vua thì phải vì nước mà chết, đó là lẽ chính, ta đây dẫu chưa nối ngôi, nhưng ta phụng mệnh giữ nước thì cũng nên vì nước mà liều mình, chẳng hơn là chịu cúi đầu làm nô lệ mà thờ kẻ cừu địch hay sao! Thế tử Hữu cố sức chống với quân Sở. Thành nước Sái bị vây từ tháng 7 mùa hạ, đến tháng 11 mùa đông, Công tôn Qui Sinh mệt nhọc thành bệnh, nằm không dậy được. Trong thành lương hết, chết đói mất quá nửa. Quân Sở trèo lên mặt thành, đông như đàn kiến, liền phá vỡ thành nước Sái. Thế tử Hữu đành ngồi mà chịu trói. Công tử Khí Tật vào thành phủ dụ nhân dân, rồi bắt Thế tử Hữu và Sái Hựu giải về nộp Sở Linh Vương, còn Triều Ngô vì có nói về đương bích mà được tha. Chưa được bao lâu, Công tôn Qui Sinh chết, Triều Ngô mới theo Công tử Khí Tật. Bấy giờ Sở Linh Vương đã về Dĩnh Đô (kinh thành nước Sở), nằm mộng thấy một người vào yết kiến, tự xưng là thần Cửu Cương Sơn, bảo Sở Linh Vương rằng: - Nhà ngươi tế ta, ta cho nhà ngươi được thiên hạ! Khi Sở Linh Vương tỉnh dậy, mừng lắm, liền sắp xa giá ra Cửu Cương Sơn. Gặp Công tử Khí Tật báo tin diệt được nước Sái. Sở Linh Vương toan giết Thế tử Hữu để tế thần. Thân Vô Vũ can Sở Linh Vương rằng: - Ngày xưa Tống Tương công giết vua Tắng để tế thần Thư Thủy mà chư hầu làm phản, Đại vương chớ nên theo điều ấy. Sở Linh Vương nói: - Thế tử Hữu là con một người có tội (chỉ Công tử Ban), ta cũng coi như giống súc sinh mà thôi. Thân Vô Vũ lùi ra, thở dài mà than rằng: - Đại vương bạo ngược quá làm vậy thì toàn vẹn làm sao cho được! Thân Vô Vũ liền cáo lão về làm ruộng. Sái Hựu thấy Thế tử Hữu bị giết, thương khóc trong ba ngày, Sở Linh Vương cho là trung, rồi tha tội mà dùng. Sái Hựu nghĩ đến cha là Sái Lược khi trước cũng bị Sở Linh Vương giết, mới có chí định báo thù, bảo Sở Linh Vương rằng: - Các nước chư hầu theo Tấn mà không theo Sở là vì Tấn gần mà Sở xa, nay Đại vương đã đánh được Trần, Sái, tiếp giáp với Trung Nguyên, nếu đắp thành cho cao rộng, rồi đặt thêm quân để thị uy với chư hầu thì nước nào mà không phải sợ. Bấy giờ sẽ tiến sang đánh Ngô và Việt, trước tự phía Đông Nam, sau đến phía Tây Bắc, tôi chắc rằng có thể thay nhà Chu mà làm thiên tử được. Sở Linh Vương nghe nói bằng lòng, từ bấy giờ mới có ý tin dùng Sái Hựu. Sở Linh Vương truyền đắp thành ở Trần, Sái, cao rộng thêm ra, rồi cho Công tử Khí Tật trấn thủ ở nước Sái, để đền lại cái công diệt Sái. Lại đắp hai cái thành ở phía Đông và phía Tây gọi là Bất Lang thành, để giữ địa thế nước Sở. Sở Linh Vương tự lấy làm thiên hạ không nước nào cường thịnh bằng nước Sở, chẳng bao lâu nước Sở sẽ thu được cả thiên hạ, mới gọi quan Thái bốc vào để bói xem bao giờ thì được làm vương. Quan Thái bốc nói: - Ngài đã xưng vương rồi, lại còn bói làm gì! Sở Linh Vương nói: - Nay còn có nhà Chu thì Sở ta chưa phải là vương thật; có thu được hết thiên hạ mới thật là vương. Quan Thái bốc hơ mai rùa để bói. Tự nhiên mai rùa vỡ. Quan Thái bốc nói: - Thế này là việc không thành. Sở Linh Vương cầm mai rùa ném xuống đất, rồi vùng vằng đứng dậy mà kêu to lên rằng: - Trời ôi! Trời tiếc gì mà không cho ta được thiên hạ! Nếu vậy thì sinh ta làm gì! Sái Hựu tâu với Sở Linh Vương rằng: - Việc cốt tại người, chứ cái xương khô (chỉ cái mai rùa) ấy biết gì! Sở Linh Vương bằng lòng. Chư hầu thấy nước Sở cường thịnh, đều có ý sợ hãi, sai sứ đến triều cống. Quan Đại phu nước Tề là Án Anh (tên tự là Bình Trọng) phụng mệnh Tề Cảnh công sang sứ nước Sở. Sở Linh Vương bảo các quan triều thần rằng: - Án Anh mình không đầy 5 thước, mà chư hầu ai cũng khen là người hiền. Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh cả, ta muốn làm cho Án Anh phải sỉ nhục, để tỏ cái uy của nước Sở, các ngươi nghĩ xem có kế gì? Quan Thái tể là Viễn Khải Cương mật tâu rằng: - Án Anh là người tài ứng đối, tất phải dùng nhiều cách mới làm sỉ nhục được hắn. Viễn Khải Cương liền đem mưu kế nói với Sở Linh Vương. Sở Linh Vương nghe lời. Đêm hôm ấy, Viễn Khải Cương đem quân ra khoét một cái lỗ nhỏ ở bên cửa đông môn, vừa vặn độ 5 thước, rồi truyền cho quân canh cửa, đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa giữa lại, rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào. Được một lúc Án Anh mặc áo cừu rách, đi cái xe xấu và con ngựa gầy, đến cửa đông môn, thấy cửa thành đóng, liền dừng xe lại, sai người gọi cửa. Quân canh cửa trỏ vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà bảo Án Anh rằng: - Ngài đi qua cái chỗ ấy, cũng rộng rãi chán, cần gì phải mở cửa! Án Anh nói: - Đó là lỗ chó chui, chứ không phải chỗ người đi. Có sang nước chó thì mới vào cửa chó, chứ sang nước người thì tất phải đi cửa người. Quân canh cửa đem lời nói ấy phi báo Sở Linh Vương, Sở Linh Vương nói: - Ta muốn giỡn hắn, ai ngờ lại bị hắn giỡn lại! Sở Linh Vương truyền mở cửa thành cho Án Anh vào. Án Anh vào trong thành, thấy có một toán xa kỵ, người nào cũng to lớn lực lưỡng và rậm râu, tay cầm một ngọn giáo thật dài, trông như vị thiên thần, đến đón Án Anh, có ý muốn tỏ cho biết Án Anh là người thấp lùn, bé nhỏ. Án Anh nói: - Hôm nay ta sang sứ đây là vì việc giao hiếu, chứ không phải là muốn gây việc chiến tranh, dùng làm chi những kẻ vũ sĩ ấy! Án Anh nói xong bảo vũ sĩ đứng ra một bên, rồi giục xe thẳng tới triều môn. Ngoài triều môn có hơn 10 viên quan, đều mũ cao áo dài, đứng sắp hàng hai dãy. Án Anh xuống xe, chắp tay vái chào. Trong hàng các quan, có một viên trẻ tuổi hỏi Án Anh rằng: - Ngài có phải là Án Bình Trọng, người ở đất Di Duy (tức là Lai Địa) đó không? Án Anh nhìn xem ai thì là con Đấu Vi Qui, tên gọi là Đấu Thành Nhiên, hiện đang làm giao doãn. Án Anh đáp rằng: - Phải! Chính là tôi đó! Chẳng hay ngài định dạy điều gì? Đấu Thành Nhiên nói: - Nước Tề, kể từ đời Thái công thuở xưa, vốn là một nước cường thịnh, sao từ khi Hoàn công mất đi rồi mà trong nước nhiễu loạn, tranh cướp lẫn nhau, hết bị Tấn đánh, lại bị Tống đánh. Cứ như vua Tề ngày nay, cũng chẳng kém gì Hoàn công, mà cái hiền đức của Ngài phỏng có thua gì Quản Trọng (tức là Quản Di Ngô), sao Ngài không biết giúp vua Tề để chấn hưng cái cơ nghiệp cũ, mà chịu cúi đầu thờ nước lớn, như đám nô bộc, thật tôi không hiểu ra làm sao! Án Anh đáp rằng: - Có biết thời vụ mới gọi là tuấn kiệt, có thông cơ biến mới gọi là anh hào. Từ khi nhà Chu suy, Tề và Tấn làm bá chủ ở Trung Nguyên, Tần là bá chủ ở Tây Nhung, Sở làm bá chủ ở Nam Man, dẫu bởi có nhân tài, nhưng chẳng qua cũng là do khí vận. Kìa như Tấn Tương công và Tần Mục công cường thịnh biết bao mà sau cũng phải hèn yếu; nước Sở từ khi vua Trang Vương mất đi, cũng thường bị quân Tấn và quân Ngô đến đánh, cứ gì một nước Tề. Chúa công tôi hiểu cái lẽ ấy, bởi vậy vẫn luyện tập quân mã để mà đợi thời; nay sai tôi sang tới đây là theo cái lẽ giao hiếu với lân quốc, sao gọi là nô bộc được! Ngài có phải là dòng dõi Tử Văn đó không? Tử Văn khi xưa là một bậc danh thần nước Sở, biết thời vụ, thông cơ biến, mà sao lời nói của Ngài lại trái với Tử Văn nhiều lắm! Đấu Thành Nhiên thẹn đỏ mặt lên, rồi cúi đầu lui ra. Được một lúc, trong hàng bên tả lại có một người hỏi Án Anh rằng: - Án Bình Trọng tự đắc là người biết thời vụ, thông cơ biến, nhưng trong khi Thôi Chữ và Khánh Phong nổi loạn, các triều thần nước Tề, từ Giả Cử trở xuống, bao nhiêu người tử tiết. Trần Văn Tử cũng bỏ cả cơ nghiệp mà đi. Ngài là thế gia ở nước Tề, mà đã không dám đánh giặc, cũng không biết tử tiết, còn bo bo giữ lấy cái danh vị làm chi! Án Anh nhìn xem ai thì tức là quan Thượng đại phu nước Sở, tên gọi Dương Mang, tên tự là Tử Hà. Án Anh đáp rằng: - Người có tiết lớn thì không cần những sự tầm thường. Ông vua vì nước mà chết thì bề tôi nên chết theo, nay vua Trang công tôi không phải vì nước mà chết, những người chết theo, toàn là vì tình riêng. Tôi dẫu hèn mạt, có đâu dám liều chết để mua lấy cái hư danh ấy! Vả bề tôi gặp lúc trong nước có nạn, không thể làm gì được thì mới nên bỏ đi. Tôi không đi là để lập vua mới mà giữ lấy nước, chứ có phải là tham danh vị đâu! Nếu ai cũng đi cả thì việc nước còn trông cậy nỗi gì! Huống chi những sự biến loạn, nước nào không có. Ngài chắc các quan triều thần nước Sở đều là những người một lòng tử tiết cả hay sao. Ngài chỉ biết trách người mà không biết trách mình! Dương Mang nín lặng không đáp lại được nữa. Bỗng thấy trong hàng bên hữu lại có một người ra hỏi Án Anh rằng: - Ngài nói là ngài muốn lập vua mới để giữ lấy nước, câu nói ấy có ý viển vông quá! Trong khi họ Thôi và họ Khánh giết lẫn nhau, họ Trần và họ Bão tranh quyền nhau, chẳng thấy Ngài có cái mưu kế gì lạ cả. Nếu có lòng báo quốc sao lại như thế! Án Anh cười mà nói rằng: - Ngài biết điều ấy, nhưng chưa biết điều khác! Trong khi bấy giờ, tôi ở liền bên cạnh Chúa công, rồi bày mưu lập kế để giữ yên nước nhà, những kẻ bàng quan tài nào mà biết rõ được! Trong hàng bên tả lại có một người ra bảo Án Anh rằng: - Đại trượng phu gặp thời, đã có đại tài lược, tất có đại qui mô! Tôi xem ra thì Ngài khó lòng mà tránh khỏi được cái tiếng bỉ lận. Án Anh nhìn xem ai thì tức là quan Thái tể nước Sở, tên gọi Viễn Khải Cương. Án Anh nói: - Tại sao ngài biết là tôi bỉ lận? Viễn Khải Cương nói: - Thân danh ngài làm ông tướng quốc thì những mũ áo và xe ngựa, tưởng cũng nên trang sức để tỏ cái ân huệ của vua, cớ sao lại mặc áo cừu rách, cưỡi con ngựa gầy mà đi sứ nước ngoài như vậy, chẳng có lẽ lương ăn không đủ hay sao! Tôi nghe nói cái áo cừu của Ngài may từ thuở bé, đã 30 năm nay không thay, mà mỗi khi tế lễ, ngài dùng con lợn nhỏ quá, đến nỗi vai lợn không chật mâm, không phải bỉ lận là gì? Án Anh vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng: - Sao kiến thức của Ngài thiển cận như vậy! Tôi từ khi làm tướng quốc đến giờ, suốt trong họ hàng nhà tôi đều được mặc áo đẹp, ăn miếng ngon, không ai phải đói rét; những người hàn sĩ nhờ tôi mà được ấm no, cả thẩy đến hơn 70 nhà, thế thì muốn tỏ cái ân huệ của vua, còn gì bằng điều ấy! Án Anh chưa nói dứt lời thì trong hàng bên hữu lại thấy có một người chỉ tay vào mặt Án Anh mà vừa cười vừa nói: - Tôi nghe nói vua Thành Thang mình cao chín thước là bậc hiền vương, Tử Tang sức địch muôn người là bậc danh tướng, nay ngài mình thấp không đầy 5 thước, sức yếu không trói nổi một con gà, chỉ nghề bẻo lẻo mồm miệng, tự đắc là tài, tôi tưởng nên lấy làm xấu hổ lắm! Án Anh nhìn xem lại thì tức là cháu Công tử Chân, tên gọi Nang Ngõa, tên tự là Tử Thường, hiện đang làm chức xa hữu. Án Anh tủm tỉm cười mà đáp rằng: - Tôi nghe nói cái quả cân dẫu nhỏ, bao giờ cũng đè được nghìn cân; cái bánh lái dẫu dài, bao giờ cũng ngâm ở dưới nước. Trường Địch người cao mà bị giết ở Lỗ, Nam Cung Vạn sức khỏe mà bị giết ở Tống, thân thế của Ngài có khi cũng gần giống như vậy! Tôi đây có tài cán gì, nhưng hỏi thì phải nói, sao Ngài lại chê là bẻo lẻo mồm miệng. Nang Ngõa không biết nói thế nào cho được. Bỗng nghe báo có quan Lệnh doãn là Viễn Bãi đến. Các quan đều sắp hàng đứng đợi. Ngũ Cử mời Án Anh vào triều, rồi bảo các quan đại phu rằng: - Án Bình Trọng là hiền sĩ ở nước Tề, sao các Ngài lại nói quá như vậy. Được một lúc Sở Linh Vương ra ngự triều. Ngũ Cử đưa Án Anh vào yết kiến. Sở Linh Vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng: - Quái lạ! Nước Tề thiếu người hay sao! Án Anh nói: - Người nước Tề tôi, hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thì thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là thiếu người. Sở Linh Vương nói: - Thế thì sao lại sai đứa bé này sang sứ nước ta? Án Anh nói: - Nước tôi vẫn có lệ: Người hiền sang sứ nước hiền, người ngu sang sứ nước ngu, người bé sang sứ nước bé. Tôi, người bé nhỏ mà hèn mạt, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở. Sở Linh Vương nghe nói có ý hổ thẹn, nhưng trong lòng lấy làm lạ. Gặp bấy giờ có chức giao nhân đem dâng hợp hoan quất (quýt). Sở Linh Vương cầm ngay một quả đưa cho Án Anh. Án Anh cắn ăn cả vỏ. Sở Linh Vương vỗ tay cười mà bảo rằng: - Người nước Tề dễ thường không ăn quýt bao giờ! Cớ sao lại không bóc vỏ? Án Anh nói: - Cứ theo trong lễ thì vua đưa cho quả gì, bề tôi cũng không được bóc vỏ mà quẳng đi. Nay Đại vương đưa cho tôi, cũng như là Chúa công tôi đưa cho tôi vậy. Đại vương không truyền cho bóc vỏ, nên tôi phải ăn cả. Sở Linh Vương có ý kính phục, mời ngồi uống rượu. Được một lúc, có ba bốn người vũ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm. Sở Linh Vương hỏi: - Tên tù ấy người ở đâu? Vũ sĩ tâu: - Người nước Tề. Sở Linh Vương hỏi: - Tên tù ấy phạm tội gì? Vũ sĩ tâu: - Tội ăn trộm. Sở Linh Vương ngoảnh lại bảo Án Anh rằng: - Người nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao? Án Anh biết là Sở Linh Vương cố ý bày ra để chế nhạo mình, mới đáp lại rằng: - Tôi nghe nói thứ quýt ở xứ Giang Nam, đem sang trồng ở xứ Giang Bắc thì hóa ra chua, là tại thổ nghi không giống nhau. Nay người nước Tề, khi ở nước Tề thì không ăn trộm, khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, chứ có tại gì nước Tề! Sở Linh Vương nín lặng hồi lâu nói rằng: - Ta định chế nhạo nhà ngươi, chẳng ngờ lại bị nhà ngươi chế nhạo! Sở Linh Vương tiếp đãi Án Anh rất lễ phép, rồi tiễn về nước Tề! Tề Cảnh công khen cái công của Án Anh, tôn làm thượng tướng, cho một cái áo cừu giá nghìn vàng, lại muốn phong thêm thái ấp cho nữa, nhưng Án Anh đều từ chối cả. Tề Cảnh công lại muốn làm cho Án Anh một cái nhà mới. Án Anh cũng cố ý xin thôi. Một hôm, Tề Cảnh công ra chơi nhà, trông thấy vợ Án Anh, mới hỏi Án Anh rằng: - Đấy có phải là nội tử nhà ngươi đó không? Án Anh tâu rằng: - Phải! Tề Cảnh công cười mà nói rằng: - Chao ôi! Già mà xấu lắm! Ta có đứa ái nữ, trẻ mà đẹp, để ta cho nhà ngươi. Án Anh nói: - Lúc trẻ trung, người ta lấy mình là mong rằng lúc già nua có thể nhờ vả được; vợ tôi dẫu già mà xấu nhưng khi nào tôi nỡ phụ lòng! Tề Cảnh công khen rằng: - Vợ con chẳng nỡ phụ, huống chi là vua! Từ bấy giờ Tề Cảnh công có lòng tin yêu Án Anh lắm. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 70 Giết ba anh, Sở Bình Vương lên ngôi Hội chư hầu, Tấn Chiêu công làm chủ Bấm để xem Bấy giờ đang năm thứ 12 đời Chu Cảnh Vương, Sở Linh Vương đã diệt được Trần và Sái rồi, lại thiên các nước nhỏ sang phía Kinh Sơn, bởi vậy nhiều người oán giận. Sở Linh Vương vẫn tự đắc là thiên hạ cầm chắc trong tay mình, chỉ ngày đêm vui chơi ở Chương Hoa Đài, lại toan sai sứ sang nhà Chu đòi lấy chín cái đỉnh để đem về nước Sở. Quan Hữu doãn là Trịnh Đan can rằng: -Nay Tề, Tấn còn mạnh; Ngô, Việt chưa theo thì nhà Chu dẫu sợ ta, chư hầu tất cũng không phục. Sở Linh Vương không bằng lòng mà hỏi rằng: - Có một điều này, suýt nữa ta quên đi mất! Khi trước ta hội chư hầu ở Thân Địa, xá tội cho vua Từ, ai ngờ vua Từ lại bội ta mà theo Ngô; nay ta đánh Từ trước, đánh Ngô sau, khiến cho từ sông Giang trở về phía đông, đều là phụ thuộc của ta cả, thế thì thiên hạ đã về tay ta đến một nửa rồi. Sở Linh Vương giao cho Viễn Bãi và Sái Hựu phải giúp Thế tử Lộc để giữ nước, còn mình thì luyện tập quân mã ở cuối sông Di Thủy, và sai quan Tư mã Đốc đem quân sang vây thành nước Từ. Đại binh Sở Linh Vương đóng ở Kiền Khê để làm thanh viện. Mùa đông năm ấy, tuyết xuống nhiều lắm, ở trên mặt đất, tuyết dầy đến hơn 3 thước. Sở Linh Vương hỏi nội thị rằng: - Ngày trước nước Tần có dâng ta cái áo phục đào cừu và cái nệm thúy vũ bị, các ngươi đem ra đây cho ta. Nội thị đem áo và nệm đưa cho Sở Linh Vương. Sở Linh Vương mặc áo phục đào cừu, khoác nệm thúy vũ bị, đầu đội mũ da, chân đi giày da, tay cầm cái tử ty tiên (roi) ra ngoài trướng đứng xem tuyết. Gặp có quan Hữu doãn là Trịnh Đan đến yết kiến. Sở Linh Vương bỏ mũ và nệm xuống, rồi đứng nói chuyện với Trịnh Đan. Sở Linh Vương nói: - Trời rét quá đi mất! Trịnh Đan nói: - Đại vương mặc mấy lần áo cừu, đứng trong trướng hổ, mà còn rét như thế, huống chi quân sĩ áo thì ít, chân thì trần, đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, tay cầm đồ binh, đứng ở trong đám gió tuyết thì khổ biết dường nào! Sao Đại vương không tạm rút quân đánh Từ về, đợi đến qua xuân khí trời ấm áp, bấy giờ sẽ liệu. Sở Linh Vương nói: - Nhà ngươi nói rất phải! Nhưng ta từ khi dụng binh đến nay, đánh đâu được đấy, ta chắc rằng chỉ nay mai thì việc đánh Từ tất có tin thắng trận. Sở Linh Vương nói chưa dứt lời thì thấy có quan Tả sử là Ỷ Tướng đi qua trước mặt. Sở Linh Vương chỉ vào Ỷ Tướng mà bảo Trịnh Đan rằng: - Đây là một người bác vật, phàm các sách như tam phần, ngũ điển, bát sách, cửu khâu, đều thông hiểu cả, nhà ngươi nên trọng đãi người ta. Trịnh Đan nói: - Đại vương khen quá lời! Ngày xưa vua Mục Vương nhà Chu đi dong chơi khắp thiên hạ, tước Sái công là Mưu Phủ làm thơ Kỳ Thiều để can vua Mục Vương, vua Mục Vương nghe lời can mà trở về, tránh khỏi được tai vạ. Thế mà tôi đem thơ ấy hỏi Ỷ Tướng, Ỷ Tướng không biết. Ấy là việc bản triều mà còn không biết, huống chi là việc đời xưa! Sở Linh Vương hỏi: - Bài thơ Kỳ Thiều thế nào, nhà ngươi đọc cho ta nghe. Trịnh Đan đọc. Sở Linh Vương lại hỏi nghĩa. Trịnh Đan cắt nghĩa. Sở Linh Vương biết là Trịnh Đan có ý can mình, mới nín lặng không nói gì cả, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo Trịnh Đan rằng: - Nhà ngươi hãy lui ra, để ta nghĩ lại xem. Đêm hôm ấy, Sở Linh Vương đã toan rút quân về, bỗng nghe báo quan Tư mã Đốc đánh được quân Từ, hiện đang vây thành nước Từ. Sở Linh Vương nói: - Nếu vậy thì nước Từ có thể diệt được. Sở Linh Vương nhất định cứ đóng quân ở Kiền Khê, từ đông sang xuân, ngày nào cũng săn bắn làm vui; lại toan bắt dân phải sửa soạn lâu đài ở đấy, không nghĩ gì đến sự về nước cả. Trịnh Đan nói: - Nước Từ cùng với Trần, Sái không giống nhau. Trần, Sái gần Sở, xưa nay vẫn phụ thuộc nước Sở; còn nước Từ thì ở phía đông bắc nước Sở, cách xa hơn 3.000 dặm, lại vẫn phụ thuộc nước Ngô. Đại vương tham cái công đánh Từ, khiến cho quân sĩ phải chịu những sự khổ sở, vạn nhất trong nước có nội biến, quân sĩ sinh lòng chán thì tôi lấy làm nguy lắm! Sở Linh Vương cười mà rằng: - Xuyên Phong Thú ở nước Trần, Công tử Khí Tật ở nước Sái, còn Ngũ Cử giúp Thế tử Lộc giữ nước, đó tức là 3 nước Sở, ta còn sợ gì! Bấy giờ có Triều Ngô (con quan Đại phu nước Sái là Qui Sinh) theo hầu tước Sái công là Khí Tật, ngày đêm vẫn nghĩ mưu để khôi phục nước Sái, mới cùng với Quan Tòng (người nước Sở) thương nghị. Quan Tòng nói: - Vua Sở gây ra việc chinh chiến, đem quân đi lâu ngày không về, nhân dân ai cũng oán giận, ta nên nhân cơ hội này mà khôi phục lại nước Sái. Triều Ngô nói: - Bây giờ làm thế nào mà khôi phục được. Quan Tòng nói: - Hùng Kiền (tên Sở Linh Vương) lập lên làm vua, ba vị công tử (Tử Can, Tử Tích và Khí Tật) đều không phục, chỉ vì sức không làm gì nổi. Nay ta giả mệnh Sái công (tức là Khí Tật) triệu Tử Can và Tử Tích về, rồi hiếp Sái công phải khởi sự mà chiếm lấy nước Sở. Nước Sở đã bị phá thì Hùng Kiền mất sào huyệt, còn làm gì được nữa. Đến đời tự vương sau, tất nhiên ta phục được nước Sái. Triều Ngô nghe lời, sai Quan Tòng giả mệnh Sái công là Khí Tật đi triệu Tử Can (tức là Công tử Tị) ở nước Tấn, và Tử Tích (tức là Công tử Hắc Quang) ở nước Trịnh, nói Khí Tật định lấy quân Trần, Sái đưa hai vị công tử về nước để chống nhau với Hùng Kiền. Tử Can và Tử Tích mừng lắm, tức khắc đi sang nước Sái để hội nhau với Khí Tật. Quan Tòng về báo với Triều Ngô. Triều Ngô đón đường nói với Tử Can và Tử Tích rằng: - Sái công thật không có ý gì cả, nhưng ta có thể hiếp Sái công, bắt phải theo được. Tử Can và Tử Tích nghe nói, nét mặt sợ hãi. Triều Ngô nói: - Hùng Kiền đem quân đi, lâu ngày không về, trong nước không có phòng bị, mà Sái Hựu nghĩ đến cái thù giết cha, chỉ mong cho có bạn. Đấu Thành Nhiên làm chức giao doãn, vẫn thân nhau với Sái công; nếu Sái công khởi sự thì hắn tất làm nội ứng. Xuyên Phong Thú dẫu đã được phong ở Trần, nhưng vẫn không phục Hùng Kiền, nếu Sái công cho người triệu thì hắn tất theo ngay. Đem quân Trần, Sái đánh lấy một nước Sở không có phòng bị, khác nào như lấy của ở trong túi mình, hai Công tử còn lo nỗi gì! Tử Can và Tử Tích nghe nói mới được yên lòng, liền cùng với Triều Ngô uống máu ăn thề. Trong tờ ước thư lại để tên Sái công đứng đầu. Thề xong, Triều Ngô đưa Tử Can và Tử Tích lẻn vào Sái thành. Sái công đang ngồi ăn cơm sáng, bỗng thấy Tử Can và Tử Tích đến, giật mình kinh sợ, toan đứng dậy tránh mặt. Triều Ngô chạy đến nắm lấy vạt áo Sái công mà bảo rằng: - Việc đã đến nơi rồi, Ngài còn định đi đâu! Tử Can và Tử Tích ôm lấy Sái công, rồi vừa khóc vừa nói: - Hùng Kiền vô đạo, giết anh và cháu, lại đuổi bọn chúng tôi. Hai tôi tới đây là muốn nhờ binh lực nhà ngươi để báo thù cho anh. Khi thành sự rồi, sẽ để cho nhà ngươi làm vua. Khí Tật hoảng hốt không biết làm thế nào, mới đáp lại rằng: - Xin hãy thong thả rồi tôi sẽ thương nghị. Triều Ngô nói: - Hai công tử có đói thì cùng ăn cơm với Sái công. Tử Can và Tử Tích ăn cơm xong. Triều Ngô giục phải làm ngay, liền tuyên cáo cho mọi người đều biết rằng: - Sái công triệu hai công tử đến đây, để cùng khởi sự, hiện cùng nhau ăn thề ở ngoài cõi, nay cho hai công tử vào Sở trước. Khí Tật ngăn lại mà bảo rằng: - Sao lại nói oan cho ta! Triều Ngô nói: - Mới rồi, ăn thề ở ngoài cõi, trong tờ ước thư có tên Ngài đứng đầu, Ngài còn giấu chi nữa! Âu là mau mau khởi sự để cùng hưởng phú quí! Triều Ngô lại tuyên cáo ở ngoài chợ cho người nước Sái biết rằng: - Vua Sở vô đạo, diệt nước Sái ta, nay Sái công cho ta phục quốc. Bọn các ngươi đều là dân nước Sái, nỡ nào để cho nước nhà suy vong, nên rủ nhau theo Sái công và hai công tử cùng sang đánh Sở. Người nước Sái nghe nói, đều bảo nhau cầm binh khí đến họp ở cửa Sái công. Triều Ngô nói với Sái công rằng: - Lòng dân đã quả quyết như vậy, Ngài nên phủ dụ mà dùng lấy, nếu không thì sinh biến. Khí Tật nói: - Nhà ngươi bắt ta phải trèo lên mình hổ, bây giờ định làm ra thế nào? Triều Ngô nói: - Hai công tử nay còn ở ngoài cõi, Ngài nên mau mau đem quân nước Sái họp với hai công tử, rồi tôi xin sang bảo Trần công (tức là Xuyên Phong Thú) đem quân theo Ngài. Khí Tật vâng lời, đem quân họp với Tử Can và Tử Tích. Triều Ngô sai Quan Tòng sang Trần, để nói với Trần công. Quan Tòng đi đến nửa đường gặp một người nước Trần, tên gọi Hạ Khiết, tức là cháu Huyền tôn Hạ Trưng Thư, cùng với Quan Tòng vốn quen biết nhau Quan Tòng mới đem việc phục Sái nói với Hạ Khiết. Hạ Khiết nói: - Ta theo hầu Trần công, cũng là có ý muốn phục Trần, nay Trần công ốm nặng, nhà ngươi bất tất phải sang nữa, cứ về trước đi, rồi ta sẽ đem quân Trần sang giúp. Quan Tòng về báo với Sái công. Triều Ngô lại viết một tờ mật thư đưa cho Sái Hựu, bảo làm nội ứng. Sái công sai gia thần là Tu Vụ Mâu làm tiên phong, Sử Áp làm phó tiên phong, lại sai Quan Tòng làm hướng đạo, đem quân đi trước. Gặp bấy giờ Hạ Khiết cũng đem quân Trần đến. Hạ Khiết nói với Sái công rằng: - Xuyên Phong Thú đã chết rồi, tôi đem đại nghĩa hiểu dụ người nước Trần, vậy nên đều vui lòng mà theo cả. Sái công mừng lắm, sai Triều Ngô đốc xuất quân Sái và Hạ Khiết đốc xuất quân Trần, thẳng đường tiến sang Dĩnh Đô. Sái Hựu nghe tin Sái công đem quân đến, tức khắc sai người tâm phúc ra ngoài thành để tống khoản. Đấu Thành Nhiên thân hành ra đón Sái công. Quan Lệnh doãn là Viễn Bãi đang đem quân để giữ thành thì Sái Hựu đã mở cửa cho quân Sái vào. Tu Vụ Mâu vào trước, reo to lên rằng: - Sái công đã giết được vua Sở ở Kiền Khê rồi, đại binh sắp sửa tới đây! Người trong nước ghét Sở Linh Vương vô đạo, đều muốn cho Sái công làm vua, không chống cự gì cả. Viễn Bãi toan đem Thế tử Lộc đi trốn, nhưng quân Tu Vụ Mâu đã vây kín vương cung, Viễn Bãi không vào được, liền về nhà tự đâm cổ mà chết. Sái công đem đại binh vào đến vương cung, gặp Thế tử Lộc và Công tử Bãi Địch, đều giết chết cả, rồi lập Tử Can lên làm vua. Tử Can từ chối. Sái công nói: - Bao giờ cũng phải lập người nhiều tuổi hơn, chớ nên từ chối. Tử Can mới lên nối ngôi, rồi cho Tử Tích làm lệnh doãn và Sái công làm tư mã. Triều Ngô nói riêng với Sái công rằng: - Việc này thủ xướng tự Ngài, sao Ngài lại nhường cho người khác làm vua? Sái công nói: - Vua Sở hãy còn ở Kiền Khê, đã lấy gì làm yên được. Vả lại ta tranh ngôi với anh thì người ta cũng chê cười ta. Triều Ngô hiểu ý, mới hiến kế rằng: - Quân sĩ theo vua Sở ra ở Kiền Khê, bị nhiều sự khổ sở, tất nhiên muốn về; nếu ta sai người đến dụ, chắc hẳn chúng nó bỏ hết, bấy giờ đại binh ta kéo đến thì có thể bắt được vua Sở. Sái công khen phải, liền sai Quan Tòng đến Kiền Khê dụ quân sĩ rằng: - Sái công đã vào kinh thành nước Sở giết hai con vua Sở và lập Tử Can lên làm vua rồi. Vua mới có lệnh rằng phàm các quân sĩ, hễ ai về ngay thì tha cho, ai về sau thì bắt tội cắt mũi; nếu ai theo vua Sở cũ thì trị tội ba họ, ai đem đồ ăn, đồ uống cho vua Sở cũ cũng trị tội như thế. Quân sĩ nghe lệnh, tức khắc tan mất quá nửa. Sở Linh Vương hãy còn say rượu, nằm ngủ ở trên đài. Trịnh Đan hoảng hốt vào báo. Sở Linh Vương nghe nói hai con bị giết, ở trên giường ngã lăn xuống đất rồi khóc ầm lên. Trịnh Đan nói: - Quân sĩ đã ly tán như vậy thì Đại vương nên mau mau trở về. Sở Linh Vương gạt nước mắt mà nói rằng: - Có ai mà yêu con cũng như ta hay không? Trịnh Đan nói: - Giống cầm thú còn biết yêu con, huống chi là người. Sở Linh Vương thở dài mà than rằng: - Ta giết con người ta nhiều lắm thì bây giờ người ta lại giết con ta! Được một lúc, nghe báo vua mới (tức là Tử Can) sai Sái công làm đại tướng, cùng với Đấu Thành Nhiên đem quân Trần và Sái đến Kiền Khê. Sở Linh Vương giận lắm nói: - Ta đãi Đấu Thành Nhiên không có điều gì tệ bạc, mà sao hắn lại phản ta! Chẳng thà ta liều chết mà đánh, còn hơn ngồi để chịu trói. Sở Linh Vương rút quân đi qua Tương Châu, toan về đánh kinh thành nước Sở. Trong khi đi đường, quân sĩ bỏ trốn nhiều lắm. Sở Linh Vương rút gươm chém chết mấy người mà vẫn không ngăn cấm được. Khi đến đất Si Lương chỉ còn độ 100 người đi theo mà thôi. Sở Linh Vương nói: - Thế này còn làm gì được nữa! Nói xong, liền cởi mũ áo treo lên cành liễu. Trịnh Đan nói: - Đại vương hãy về gần đến nơi, để xem xét tình ý người trong nước thế nào. Sở Linh Vương nói: - Người trong nước đều làm phản, còn đợi làm gì nữa! Trịnh Đan nói: - Nếu không thế thì xin trốn sang nước khác, rồi mượn quân về đánh, cũng có thể được. Sở Linh Vương nói: - Chư hầu còn ai yêu ta nữa! Điều đại phúc có lẽ đâu được gặp mãi, chẳng qua chỉ thêm nhục mà thôi. Trịnh Đan thấy Sở Linh Vương không nghe lời, sợ mắc tai vạ, liền cùng với Ỷ Tướng trốn về Sở. Sở Linh Vương không thấy Trịnh Đan, tay chân rụng rời, cứ quanh quẩn ở đất Ly Trạch. Quân sĩ chẳng còn ai cả, chỉ trơ có một mình, trong bụng đói quá, toan tìm vào chốn hương thôn để kiếm cái ăn thì lại không biết đường. Dân ở đấy có kẻ biết là Sở Linh Vương, nhưng lại nghe những quân sĩ đi trốn nói là pháp lệnh của vua mới nghiêm khắc lắm nên sợ hãi bỏ tránh xa cả. Sở Linh Vương suốt trong 3 ngày không được một hột cơm, một giọt nước nào vào miệng, đói quá nằm lả ở dưới đất, chỉ còn có hai con mắt mở trừng trừng, nhìn những kẻ qua người lại, xem có ai quen thuộc biết mà cứu mình chăng. Bỗng gặp có một người đi đến, Sở Linh Vương nhìn xem ai thì tức là một người lính canh cửa khi trước tên gọi Quyên Nhân Trù. Sở Linh Vương gọi mà bảo rằng: - Quyên Nhân Trù! Nhà ngươi cứu ta với! Quyên Nhân Trù nghe tiếng gọi, liền đến trước mặt sụp lạy. Sở Linh Vương nói: - Ta đói đã ba ngày nay rồi! Nhà ngươi kiếm cho ta một bát cơm, họa may có sống được chăng? Quyên Nhân Trù nói: - Ai cũng sợ lệnh vua mới, tôi còn kiếm đâu được cơm. Sở Linh Vương thở dài, bảo Quyên Nhân Trù đến ngồi gần ở bên cạnh, rồi kê đầu gối vào đùi Quyên Nhân Trù để ngủ. Quyên Nhân Trù chờ cho Sở Linh Vương ngủ say, liền nhắc đầu Sở Linh Vương để vào tảng đất, rồi bỏ trốn đi. Khi Sở Linh Vương tỉnh dậy, gọi Quyên Nhân Trù không thấy thưa, mới rờ tay lên đầu thì thấy mình gối vào tảng đất. Sở Linh Vương kêu trời mà khóc, tiếng đã khan cả đi. Lúc nữa, lại có một người đi xe qua, nghe thấy tiếng Sở Linh Vương, xuống xe để nom thì quả là Sở Linh Vương thật, mới sụp lạy ở dưới đất mà hỏi rằng: - Làm sao Đại vương đến nỗi thế này? Sở Linh Vương nước mắt đầy mặt mà hỏi rằng: - Nhà ngươi là ai? Người ấy tâu rằng: - Tôi là Thân Hợi, là con quan trấn thủ ở Vu Địa tên gọi Thân Vô Vũ. Cha tôi hai lần đắc tội với Đại vương, mà Đại vương không giết, vậy nên khi cha tôi gần mất có dặn tôi rằng "Khi nào Đại vương có hoạn nạn gì thì mày phải cố sức mà theo". Tôi nhớ câu ấy, không bao giờ dám quên. Mới rồi tôi nghe tin kinh thành bị phá, Tử Can cướp ngôi, tôi tức khắc ngày đêm thẳng tới Kiền Khê để tìm Đại vương, mà tìm mãi không thấy. May sao lòng trời run rủi, nay lại gặp đây. Bây giờ chỗ nào cũng là đảng Sái công, Đại vương không nên đi đâu cả. Tôi có nhà tại Cức thôn, cũng gần đây, xin Đại vương tạm vào nhà tôi, rồi sẽ thương nghị. Nói xong, liền đem lương khô dâng Sở Linh Vương. Sở Linh Vương cố nuốt xuống cổ, mới dần dần tỉnh lại. Thân Hợi vực Sở Linh Vương lên xe, rồi đưa về Cức thôn. Sở Linh Vương xưa nay ở cung Chương Hoa, lâu đài rực rỡ, nay thấy nhà Thân Hợi lụp xụp, cúi đầu mới chui vào được, nghĩ cũng đau lòng, hai hàng nước mắt chảy xuống giàn giụa. Thân Hợi quì mà tâu rằng: - Xin Đại vương cứ yên lòng, ở đây tĩnh mịch lắm, không có ai đi lại, Đại vương hãy đợi trong mấy ngày, để xem tình hình trong nước thế nào, rồi sẽ định liệu. Sở Linh Vương thổn thức không nói ra tiếng. Thân Hợi lại quì để dâng các đồ thực phẩm. Sở Linh Vương chỉ khóc mà không ăn uống gì cả. Thân Hợi lại sai hai đứa con gái vào hầu, để cho Sở Linh Vương vui lòng, nhưng Sở Linh Vương cứ than thở cả đêm, đến đầu canh năm thì không nghe thấy tiếng than thở nữa. Hai người con gái mở cửa ra, báo với cha là Thân Hợi rằng: - Đại vương đã thắt cổ chết rồi! Thân Hợi nghe nói Sở Linh Vương chết, ngậm ngùi thương tiếc, rồi khâm liệm đem chôn. Lại bắt hai người con gái đem chôn theo. Sái công cùng với Đấu Thành Nhiên, Triều Ngô và Hạ Khiết sang Kiền Khê để đánh Sở Linh Vương. Đi đến nửa đường, gặp Trịnh Đan và Ỷ Tướng thuật chuyện Sở Linh Vương nay thị vệ bỏ trốn hết, chỉ có một thân một mình, đành liều chịu chết, vì không nỡ trông thấy, nên bỏ mà về tới đây. Sái công nói: - Bây giờ hai người định đi đâu? Trịnh Đan và Ỷ Tướng nói: - Chúng tôi định về nước Sở. Sái công nói: - Hai ngươi hãy theo ta, cùng tìm xem tông tích vua Sở ở đâu, rồi sau sẽ về một thể. Sái công đem đại binh đến đất Si Lương, chẳng thấy vua Sở đâu cả. Dân đấy biết là Sái công, liền đem mũ áo vua Sở đến nộp và nói với Sái công rằng: - Mũ áo này là ba hôm trước chúng tôi bắt được ở trên cành liễu. Sái công hỏi rằng: - Vua Sở đã chết hay là còn sống, nhà ngươi có biết không? Người ấy nói: - Không biết. Sái công nhận lấy mũ áo, rồi trọng thưởng cho người ấy. Sái công lại toan cố tìm Sở Linh Vương. Triều Ngô nói với Sái công rằng: - Vua Sở bỏ mũ áo thế này là thế cùng lực kiệt lắm rồi, chắc cũng chết ở nơi ngòi rãnh, bất tất phải cố tìm nữa; nhưng nay Tử Can lên ngôi, nếu để chậm thì hắn thu thập được nhân tâm, ta khó lòng mà trừ nổi! Sái công nói: - Thế thì nên làm thế nào? Triều Ngô nói: - Người trong nước chưa rõ vua Sở sống chết thế nào, ta nhân lúc lòng dân chưa định này mà sai vài mươi tên quân giả cách thua trận chạy về, nói đại binh của vua Sở sắp tới, rồi lại sai Đấu Thành Nhiên về báo tin với Tử Can. Tử Can và Tử Tích đều là những kẻ nhát sợ vô mưu, nghe thấy tin ấy, tất nhiên kinh khiếp mà tự tử, bấy giờ Ngài cứ việc đem quân về, ung dung lên ngôi làm vua, chẳng còn lo ngại điều gì nữa! Sái công khen phải, liền sai Quan Tòng đem hơn 100 quân giả cách thua trận, chạy về Dĩnh Đô, vừa chạy vừa kêu rằng: - Sái công thua trận bị giết rồi! Đại binh của vua Sở cũng sắp sửa tới nơi! Người trong nước tin là sự thật, ai cũng kinh sợ. Được một lúc, Đấu Thành Nhiên đến, cũng nói như vậy, người trong nước càng tin lắm, đều trèo cả lên mặt thành để trông ngóng. Đấu Thành Nhiên vào báo với Tử Can rằng: - Vua Sở giận lắm, định đem quân về trị tội Đại vương, Đại vương nên liệu kế, khỏi đến nỗi đê nhục. Tôi đây cũng xin đi trốn! Đấu Thành Nhiên nói xong, hoảng hốt bỏ đi ngay. Tử Can triệu Tử Tích vào, rồi nói lại cho Tử Tích nghe. Tử Tích nói: - Thế này thì thật Triều Ngô làm hại ta! Hai anh em (Tử Can và Tử Tích) ôm nhau mà khóc. Lại nghe đồn quân Sở Linh Vương đã kéo vào thành. Tử Tích rút gươm đâm cổ mà chết. Tử Can kinh sợ, cũng rút gươm tự tử. Trong cung náo động, hoạn quan và cung nữ sợ mà tự tử cũng nhiều, chết nằm ngổn ngang ở trong cung. Tiếng khóc như ri! Đấu Thành Nhiên lại đem quân vào, thu dọn những thây người chết, rồi đem các quan quần thần ra đón Sái công. Khi Sái công đến, người trong nước chưa biết, vẫn tưởng là Sở Linh Vương, đến lúc thấy Sái công, mới biết những tin hoảng báo trước, đều là mưu kế của Sái công bày ra cả. Sái công vào thành lên ngôi vua, đổi tên là Hùng Cư, tức là Sở Bình Vương. Dân nước Sở chưa ai biết là Sở Linh Vương chết, thường thường náo động, có khi đang đêm huyên truyền nhau là Sở Linh Vương về, ai nấy đều kinh sợ. Sở Bình Vương lo lắm, mới bàn mưu với Quan Tòng, mật sai người lấy một cái thây người chết, đội mũ mặc áo Sở Linh Vương vào, thả ở thượng lưu sông Hán Thủy để cho trôi trở xuống, nói dối là thi thể Sở Linh Vương, vớt lên đem quàn ở đất Si Lương để làm lễ an táng, và hiểu dụ cho người trong nước biết, từ bấy giờ dân Sở mới được yên lòng. Cách 3 năm sau, Sở Bình Vương lại sai người tìm thi thể Sở Linh Vương. Thân Hợi mới bảo chỗ cho biết. Sở Bình Vương lại đem về làm lễ an táng. Lại nói chuyện Tư mã Đốc sang vây nước Từ, lâu ngày không đánh được, sợ tội không dám rút quân về, liền tư thông với nước Từ, cứ đóng đồn giữ ở đấy; sau nghe tin Sở Linh Vương chết rồi mới dám rút quân về. Về đến đất Dự Chương, bị Công tử Quang nước Ngô (con trưởng Chư Phàn) đem quân đón đánh. Công tử Quang bắt được Tư mã Đốc, rồi thừa thế chiếm lấy ấp Châu Lai của nước Sở. Khi Sở Bình Vương đã lên ngôi vua rồi, có làm lễ an táng cho Tử Can và Tử Tích. Cho Đấu Thành Nhiên làm lệnh doãn, Dương Mang (tên tự là Tử Hà) làm tả doãn. Nghĩ thương Viễn Yểm và Bá Châu Lê khi trước bị oan mà chết, mới cho con Bá Châu Lê là Bá Khước Uyển làm hữu doãn và em Viễn Yểm là Viễn Xạ cùng Viễn Việt đều làm đại phu; còn Triều Ngô, Hạ Khiết và Sái Hựu đều cho làm hạ đại phu. Lại thấy Công tử Phường là người dũng cảm, cho làm chức tư mã. Bấy giờ Ngũ Cử đã chết rồi, Sở Bình Vương nghĩ đến khi trước là người hay trực gián, mới phong cho con là Ngũ Xa ở đất Liên, gọi là Liên công. Con Ngũ Xa là Ngũ Thượng cũng phong cho ở đất Đường, gọi là Đường công. Còn như bọn Viễn Khải Cương, Trịnh Đan và các quan triều thần đều được nguyên chức cũ. Sở Bình Vương lại muốn phong chức cho Quan Tòng. Quan Tòng nói là tổ phụ đời trước đã có giữ nghề bói, nay xin làm chức bốc doãn. Sở Bình Vương thuận cho. Các quan triều thần đều sụp lạy tạ ơn, chỉ có Triều Ngô và Sái Hựu xin từ chức mà đi. Sở Bình Vương hỏi cớ làm sao. Triều Ngô và Sái Hựu đều nói: - Chúng tôi đem quân giúp Đại vương là có ý muốn cầu phục nước Sái. Nay Đại vương đã lên ngôi vua, mà tôn tự nước Sái chúng tôi vẫn chưa có ai cúng tế, chúng tôi còn mặt mũi nào mà đứng ở trong triều Đại vương. Ngày xưa vua Linh Vương tham sự chiếm đất, để cho lòng người oán giận; bây giờ Đại vương muốn thu lấy lòng người thì nên phục quốc cho nước Trần và nước Sái mới phải. Sở Bình Vương khen phải, mới sai người tìm những dòng dõi vua Trần và vua Sái, được con Thế tử Yển Sư nước Trần tên là Ngô và con Thế tử Hữu nước Sái tên Lư; liền sai quan thái sư chọn ngày tốt phong cho Ngô làm Trần hầu tức là Trần Huệ công, Lư làm Sái hầu tức là Sái Bình công. Triều Ngô và Sái Hựu theo Sái Bình công trở về nước Sái. Hạ Khiết theo Trần Huệ công trở về nước Trần. Những quân Trần, Sái đều được khao thưởng, rồi nước nào lại rút về nước ấy. Bao nhiêu những châu báu của Trần, Sái mà khi trước Sở Linh Vương lấy về, đem chứa ở trong kho nước Sở, bấy giờ đều trả lại cho Trần, Sái cả. Sáu nước nhỏ mà khi trước Sở Linh Vương bắt thiên về phía Kinh Sơn, bấy giờ đều được trở về chốn cũ, bởi vậy vua tôi các nước ấy đều mừng rỡ và cám ơn Sở Bình Vương vô cùng. Con trưởng Sở Bình Vương tên là Kiến, tên tự là Tử Mộc (người mẹ là con gái nước Sái) bấy giờ tuổi đã lớn, được thế tử. Sở Bình Vương lại cho Liên công là Ngũ Xa làm chức thái sư. Có một người nước Sở tên là Phí Vô Cực, xưa nay vẫn theo hầu Sở Bình Vương, khéo xu nịnh lắm, Sở Bình Vương có lòng yêu, cho làm đại phu. Phí Vô Cực xin theo Thế tử Kiến. Sở Bình Vương mới cho làm chức thiếu sư, lại cho Phấn Dương làm Đông cung tư mã. Sở Bình Vương thấy trong nước được thái bình, chỉ ngày đêm vui chơi về đường thanh sắc. Nước Ngô chiếm mất ấp Châu Lai, Sở Bình Vương cũng chẳng nghĩ gì đến sự báo phục. Phí Vô Cực dẫu làm chức thiếu sư, nhưng ngày nào cũng theo hầu ở bên cạnh Sở Bình Vương. Thế tử Kiến ghét Phí Vô Cực là người xu nịnh, có ý khinh bỉ. Quan Lệnh doãn là Đấu Thành Nhiên cậy công chuyên quyền, Phí Vô Cực gièm với Sở Bình Vương mà giết đi, rồi cho Dương Mang làm lệnh doãn. Thế tử Kiến thường nói chuyện Đấu Thành Nhiên là chết oan, bởi vậy Phí Vô Cực lo sợ, thành ra hiềm khích với Thế tử Kiến. Phí Vô Cực lại tiến dẫn Yên Tương Sư, Sở Bình Vương cho làm chức hữu lĩnh, cũng có lòng yêu lắm. Lại nói chuyện nước Tấn từ khi lập ra Tư Kỳ cung, chư hầu đều có lòng chán; đến đời Tấn Chiêu công lên làm vua, lại muốn chỉnh đốn lại công nghiệp của đời trước, nghe nói Tề Cảnh công cho Án Anh sang sứ nước Sở, cũng sai người đến trách nước Tề sao không sang triều kiến nước mình. Tề Cảnh công thấy Tấn và Sở trong nước nhiều việc biến loạn, có ý muốn thừa thế lên làm bá chủ, mới định nhân tiện sang triều kiến nước Tấn để xem Tấn Chiêu công là người thế nào. Khi Tề Cảnh công sang Tấn, cho kẻ dũng sĩ là Cổ Giã Tử đi theo. Đi đến sông Hoàng Hà, Tề Cảnh công có con ngựa tả tham buộc ở mạn thuyền. Tề Cảnh công vốn yêu con ngựa ấy lắm, đang đứng xem chức ngữ nhân cho ngựa ăn, bỗng thấy một trận mưa to, sóng gió ầm ầm, thuyền nghiêng cả đi, có con giải lớn thò đầu lên trên mặt nước, há miệng thật to ghếch vào mạn thuyền, tha con ngựa tả tham lôi xuống sông. Tề Cảnh công kinh sợ. Cổ Giã Tử đứng ở bên cạnh, nói với Tề Cảnh công rằng: - Chúa công chớ kinh sợ! Tôi xin đi tìm! Cổ Giã Tử nói xong, cởi áo cầm gươm, nhảy xuống dưới nước, bập bềnh trong làn sóng, trôi đi đến 9 dặm, rồi chẳng thấy tông tích đâu cả. Tề Cảnh công thở dài mà than rằng: - Cổ Giã Tử chết mất rồi! Được một lúc, sóng gió im lặng, trông thấy có máu chảy ở mặt nước, Cổ Giã Tử tay trái kéo đuôi ngựa tả tham, tay phải xách một cái đầu con giải, đầm đìa những máu, ở dưới nước lên. Tề Cảnh công kinh sợ mà khen rằng: - Thế thì thật là thần dũng! Tiên quân ta ngày xưa đặt đội Dũng tước, cũng chưa có ai được giỏi như vậy! Tề Cảnh công liền hậu thưởng cho Cổ Giã Tử. Khi đến nước Tấn, Tề Cảnh công vào yết kiến Tấn Chiêu công. Tấn Chiêu công bày tiệc thết đãi. Nước Tấn thì Tuân Ngô làm tướng lễ. Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ. Khi rượu đã ngà ngà say, Tấn Chiêu công nói với Tề Cảnh công rằng: - Bây giờ không biết lấy gì làm vui, xin đánh đầu hồ. Tề Cảnh công vâng lời. Thị vệ bày cái hồ ra và dâng một nắm tên để đánh. Tề Cảnh công nhường cho Tấn Chiêu công đánh trước. Tấn Chiêu công đang cầm cái tên ở trong tay, Tuân Ngô nói to lên mà khấn rằng: "Có gò thịt cao, có ao rượu sâu, Chúa công tôi trúng phát tên này thì làm chủ chư hầu!" Tấn Chiêu công buông mạnh một cái thì cái tên ấy trúng vào hồ, còn các cái tên khác, Tấn Chiêu công ném cả xuống đất. Các quan triều thần nước Tấn thấy vậy, đều sụp lạy chúc mừng Tấn Chiêu công. Tề Cảnh công có ý không bằng lòng, khi cầm cái tên để đánh đầu hồ, cũng khấn rằng: "Có gò thịt cao, có ao rượu sâu, tôi trúng phát tên này thì thay nhà vua mà làm chủ chư hầu!" Tề Cảnh công cũng buông mạnh một cái, trúng ngay vào trong hồ. Tề Cảnh công cười to lên, rồi ném nắm tên xuống đất. Án Anh cũng sụp lạy chúc mừng Tề Cảnh công. Tấn Chiêu công sầm nét mặt lại. Tuân Ngô nói với Tề Cảnh công rằng: - Nhà vua khấn thế là không phải! Chỉ vì cớ nước Tấn tôi nối đời làm bá chủ mà nay nhà vua mới tới đây, sao nhà vua lại dám nói là thay Chúa công tôi làm chủ chư hầu! Án Anh thay lời Tề Cảnh công mà đáp rằng: - Bá chủ có nhất định bao giờ, ai có đức thì người ấy được. Ngày xưa nước Tề làm bá chủ, rồi đến nước Tấn thay; nước Tấn có đức thì ai dám không phục, nhược bằng không đức thì Ngô và Sở cũng có thể thay Tấn được, huống chi là Tề! Dương Thiệt Bật nói: - Hiện nay nước ta đang làm chủ chư hầu, việc gì phải bói đầu hồ mới biết! Tuân Ngô nói thế là không phải! Tuân Ngô biết là lỗi ở mình, nín lặng không nói gì cả. Cổ Giã Tử đứng ở dưới thềm nói to lên rằng: - Ngày đã về chiều, nên bãi cuộc rượu! Tề Cảnh công cáo từ lui ra. Ngày hôm sau, trở về nước Tề. Dương Thiệt Bật nói với Tấn Chiêu công rằng: - Chư hầu đã sắp có lòng ly tán, nếu không dùng binh lực thì sao giữ được quyền bá chủ. Tấn Chiêu công khen phải, liền truyền lệnh tập quân mã và sai sứ sang nhà Chu xin cho một người vương thần đến, để hẹn tới tháng 7 năm ấy thì đại hội chư hầu ở đất Bình Khâu (đất nước Vệ), Chư hầu nghe nói có vương thần dự hội, đều phải đến cả. Tấn Chiêu công giao cho Hàn Khởi giữ nước rồi đem đại binh thẳng đường tiến sang Bộc Dương (kinh thành nước Vệ). Quân đóng cả thảy 30 trại. Chư hầu thấy quân Tấn nhiều thịnh như vậy, đều có ý sợ. Khi khai hội, Dương Thiệt Bật bưng chậu máu dâng lên mà nói rằng: - Tiên thần nước tôi là Triệu Vũ quá tin lời ước bãi binh mà giao hiếu với nước Sở; vua Sở là Hùng Kiền (tức là Sở Linh Vương) thất tín, đến nỗi diệt vong. Nay Chúa công tôi muốn bắt chước như kỳ hội Tiễn Thổ khi trước, trên nhờ ơn Thiên tử, dưới giữ yên Trung Nguyên, xin các nước cùng nhau uống máu ăn thề để đừng thất tín. Các vua chư hầu đều cúi đầu mà đáp rằng: - Xin vâng mệnh! Chỉ có Tề Cảnh công nín lặng không nói gì cả. Dương Thiệt Bật nói với vua Tề rằng: - Nhà vua có ý không muốn ăn thề hay sao? Tề Cảnh công nói: - Chư hầu không phục thì mới phải ăn thề, nếu ai cũng vâng mệnh thì còn thề làm gì nữa! Dương Thiệt Bật nói: - Kỳ hội ở Tiễn Thổ khi trước, nước nào là nước không phục, mà sao cũng phải ăn thề! Nhà vua không theo thì Chúa công tôi thế tất phải đem quân đến hỏi tội. Dương Thiệt Bật nói chưa dứt lời thì nghe hiệu trống đánh, các trại quân đều cắm cờ đại bái cả. Tề Cảnh công có ý sợ, mới đổi giọng đáp rằng: - Quí quốc còn cho việc ăn thề là không thể bỏ được, có đâu tôi lại dám không theo! Bấy giờ Tấn Chiêu công uống máu ăn thề trước, rồi sau đến chư hầu, từ Tề, Tống trở xuống đều ăn thề cả. Vương thần là Lưu Trí không thể ăn thề, chỉ đứng chứng kiến mà thôi. Nước Châu và nước Cử đem việc nước Lỗ thường sang xâm nhiễu cáo với Tấn Chiêu công. Tấn Chiêu công trách Lỗ Chiêu công rồi bắt quan Thượng khanh nước Lỗ là Thúc Tôn Ý Như giam lại một chỗ. Tử Phục Huệ Bá nói riêng với Tuân Ngô rằng: - Nước Lỗ to gấp mười nước Châu và nước Cử, nếu Tấn bỏ Lỗ thì Lỗ tất theo Tề và Sở, chẳng cũng thiệt cho Tấn lắm ru! Vả khi Sở đánh Trần và Sái, Tấn đã không cứu, mà nay lại còn bỏ một nước anh em hay sao! Tuân Ngô khen phải, nói chuyện với Hàn Khởi. Hàn Khởi vào tâu với Tấn Chiêu công. Tấn Chiêu công liền tha cho Thúc Tôn Ý Như về nước Lỗ. Từ bấy giờ chư hầu đều có ý không phục nước Tấn. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 71 Vì quả đào, cùng nhau sống chết Tham gái đẹp, quên tình cha con Bấm để xem Tề Cảnh công đến dự hội ở Bình Khâu, dẫu sợ binh uy nước Tấn mà phải ăn thề, nhưng trong lòng biết là nước Tấn không có chí lớn, vì vậy muốn khôi phục lại cái công nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công thuở xưa, khi về nước, bảo quan Tướng quốc là Án Anh rằng: - Nước Tấn làm bá chủ ở phía tây bắc, ta làm bá chủ ở phía đông nam, cũng được chứ sao! Án Anh nói: - Nước Tấn sinh sự thổ mộc để làm khổ dân bởi vậy mà chư hầu ly tán. Nay Chúa công muốn làm bá chủ, không gì bằng thương dân. Tề Cảnh công nói: - Thương dân thì làm thế nào? Án Anh nói: - Giảm bớt hình phạt thì dân khỏi oán, nhẹ bớt thuế má thì dân biết ơn. Tiên vương ngày xưa hễ thấy dân nghèo khổ tất phát thóc kho mà chu cấp cho dân, nay Chúa công cũng nên bắt chước. Tề Cảnh công phát thóc kho ra để chu cấp cho những người nghèo khổ. Người trong nước ai cũng bằng lòng. Tề Cảnh công bắt các nước chư hầu ở đông phương phải sang triều cống nước Tề. Nước Từ không chịu theo. Tề Cảnh công sai Điền Khai Cương làm tướng, đem quân đi đánh Từ. Hai bên đánh nhau ở đất Bồ Toại (đất Từ). Điền Khai Cương chém được tướng nước Từ là Doanh Sảng và bắt giáp sĩ hơn 500 người. Vua Từ sợ lắm, sai sứ đến xin giảng hòa với nước Tề. Tề Cảnh công liền ước với vua Đàm, vua Cử và vua Từ cùng ăn thề ở đất Bồ Toại. Vua Từ đem cái đỉnh của nước Thân Phủ đến lễ đút lót Tề Cảnh công. Vua tôi nước Tấn dẫu biết như vậy, mà không dám hỏi đến. Từ bấy giờ nước Tề mỗi ngày một cường thịnh cùng với nước Tấn đều làm bá chủ. Tề Cảnh công thưởng cái công Điền Khai Cương dẹp được nước Từ, và công Cổ Giã Tử chém được con giải, đều cho vào hàng Ngũ thặng tân. Điền Khai Cương lại tiến dẫn Công tôn Tiệp là người vũ dũng. Nguyên Công tôn Tiệp mặt như chàm đổ, hai mắt ốc nhồi, mình cao hơn trượng, sức khỏe mang nổi mấy nghìn cân nặng. Tề Cảnh công trông thấy lấy làm lạ, mới cùng Công tôn Tiệp đi săn ở Đông Sơn. Trong khi đang đi săn, bỗng trông thấy một con hổ, trán có đốm trắng, ở khe núi gầm thét chạy ra, toan vồ con ngựa của Tề Cảnh công. Tề Cảnh công giật mình kinh sợ. Công tôn Tiệp ở trên xe nhảy xuống, chẳng có gươm giáo gì cả, hai tay không xông vào bắt con hổ ấy, tay trái nắm lấy gáy con hổ, tay phải đấm mạnh một cái, con hổ chết ngay lập tức, thành ra cứu thoát được Tề Cảnh công, Tề Cảnh công khen là vũ dũng, cũng cho dự vào hàng Ngũ thặng tân. Công tôn Tiệp liền cùng với Điền Khai Cương và Cổ Giã Tử kết làm anh em, tự xưng là Tam kiệt ở nước Tề, cậy mình có công to và sức khỏe, vẫn thường khinh bỉ các quan triều thần, nhiều khi ở trước mặt Tề Cảnh công mà ăn nói hỗn láo, chẳng có lễ phép chút nào cả. Tề Cảnh công tiếc cái tài vũ dũng của ba người ấy, cũng có ý khoan dung cho. Bấy giờ trong triều có một kẻ nịnh thần là Lương Khâu Cứ, Tề Cảnh công yêu lắm. Lương Khâu Cứ trong thì xiễm nịnh Tề Cảnh công để được tin dùng, ngoài thì giao kết với Tam kiệt để thêm vây cánh. Bấy giờ có Trần Vô Vũ đang phóng tài hóa thu nhân tâm, có cơ muốn chiếm nước Tề, mà Điền Khai Cương lại là thân thuộc với Trần Vô Vũ. Án Anh lấy làm lo lắm, vẫn muốn lập kế trừ đi, nhưng sợ Tề Cảnh công không nghe, lại sinh kết oán với bọn Tam kiệt, vì thế cũng không dám nói. Một hôm Lỗ Chiêu công vì cớ không phục nước Tấn, muốn kết giao với Tề, thân hành sang triều kiến Tề Cảnh công. Tề Cảnh công bày tiệc để thết đãi. Nước Lỗ thì Thúc tôn Nhược (con Thúc Báo) làm tướng lễ. Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ. Bọn Tam kiệt chống gươm đứng ở dưới thềm, có ý kiêu ngạo, không coi ai ra gì! Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công rượu đã ngà ngà say, Án Anh tâu rằng: - Trong vườn kim đào đã có quả chín, xin sai người ra trẩy để chúc thọ hai vua. Tề Cảnh công nghe lời, truyền cho viên lại đem kim đào đến dâng. Án Anh tâu rằng: - Kim đào là một thứ của quí hiếm có, tôi xin thân hành đến để giám trích. Án Anh lĩnh chìa khóa cửa vườn rồi đi ngay. Tề Cảnh công nói với Lỗ Chiêu công rằng: - Đời Tiên công tôi ngày xưa, có người ở Đông Hải đem cái hột đào đến để dâng, nói là "Vạn thọ kim đào", nguyên giống ở Độ Sách Sơn ngoài bể, cũng gọi tên là Bàn Đào nữa. Nước tôi trồng đã hơn 30 năm, cành lá rất tốt, chỉ khai hoa mà không kết quả, mãi đến năm nay, mới bói được mấy quả, tôi lấy làm quí lắm, vậy phải khóa cửa vườn lại, nay nhân có nhà vua tới đây, tôi xin đem ra để dâng nhà vua. Lỗ Chiêu công chắp tay cám ơn. Ít lâu nữa thì Án Anh đưa tên viên lại bưng mâm đào vào dâng. Trong mâm có sáu quả đào, quả nào cũng to bằng cái bát, sắc đỏ như viên than hồng, mùi hương ngào ngạt, thật một thứ của quí. Tề Cảnh công hỏi rằng: - Chỉ có bấy nhiêu quả đào thôi à? Án Anh nói: - Còn ba bốn quả nữa chưa chín, bởi vậy chỉ trẩy có sáu quả. Tề Cảnh công sai Án Anh mời rượu, Án Anh tay bưng chén ngọc tước, đến dâng trước mặt Lỗ Chiêu công. Thị vệ bưng mâm đào đến. Án Anh chúc một câu rằng: "Đào to bằng đấu, thiên hạ ít có; hai vua cùng ngự, nghìn năm hưởng thọ!". Lỗ Chiêu công uống xong chén rượu, cầm ăn một quả đào ngon ngọt lạ thường. Lỗ Chiêu công khen mãi. Thứ đến Tề Cảnh công. Tề Cảnh công cũng uống một chén rượu, cầm ăn một quả đào. Tề Cảnh công ăn xong, lại bảo quan Đại phu nước Lỗ là Thúc tôn Nhược rằng: - Thứ đào này quí lắm! Quan đại phu có tiếng là người hiền, nay lại làm tướng lễ ở đây, cũng nên xơi một quả. Thúc tôn Nhược quì xuống mà tâu rằng: - Hiền đức của tôi còn kém quan Tướng quốc (chỉ Án Anh) muôn phần. Quan Tướng quốc trong thì sửa sang chính trị, ngoài thì khiến cho chư hầu phục, có công to lắm, vậy thứ đào này nên nhường để quan Tướng quốc xơi, tôi đâu dám tiếm! Tề Cảnh công nói: - Đã như vậy thì ban cho cả hai người, mỗi người một chén rượu và một quả đào. Án Anh và Thúc tôn Nhược lạy tạ rồi lĩnh lấy. Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng: - Trong mâm còn hai quả đào, Chúa công nên truyền lệnh cho các quan người nào có công lao nhiều thì nói ra mà lĩnh lấy quả đào ấy. Tề Cảnh công khen phải, rồi sai thị vệ truyền dụ các quan rằng: - Trong hàng các quan ai có công lao nhiều, đáng được ăn quả đào này thì cho được phép đứng ra mà tâu. Đã có quan Tướng quốc xét công lao mà cho đào. Công tôn Tiệp đứng ra mà tâu rằng: - Ngày xưa tôi theo Chúa công đi săn ở Đông Sơn, ra sức mà giết được hổ thì cái công ấy thế nào? Án Anh nói: - Cái công bảo giá to ngất trời ấy, còn gì hơn nữa! Án Anh nói xong, đưa cho một chén rượu và một quả đào. Công tôn Tiệp lĩnh lấy rồi lui xuống. Cổ Giã Tử đứng ra mà tâu rằng: - Giết hổ chưa lấy gì làm lạ! Khi trước tôi giết được con giải yêu quái ở sông Hoàng Hà, khiến cho Chúa công đang nguy mà lại yên. Cái công ấy thế nào? Tề Cảnh công nói: - Ta còn nhớ lúc bấy giờ sóng gió dữ dội, nếu không có Tướng quân chém được con giải ấy thì thuyền ta tất phải đắm, đó thật là một cái công lạ nhất đời! Đáng uống rượu và ăn đào lắm! Án Anh vội vàng đưa rượu và đào cho Cổ Giã Tử. Bỗng thấy Điền Khai Cương bước lên mà nói rằng: - Tôi phụng mệnh Chúa công đi đánh Từ, chém được tướng Từ, bắt sống được hơn 500 quân Từ. Vua Từ cùng vua Đàm, vua Cử đều sợ hãi mà xin hòa, tôn Chúa công lên làm minh chủ, cái công ấy có đáng ăn đào hay không? Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng: - Cái công của Điền Khai Cương ví với hai tướng trước, lại còn gấp mười! Nhưng nay hết đào rồi thì tạm cho một chén rượu, đợi đến năm khác sẽ hay. Tề Cảnh công bảo Điền Khai Cương rằng: - Công nhà ngươi to lắm, chỉ tiếc thay nói chậm, thành ra hết cả đào. Điền Khai Cương chống thanh gươm mà nói rằng: - Giết hổ và chém giải, chẳng qua là những việc nhỏ nhặt mà thôi. Ta đây xông pha tên đạn ở ngoài nghìn dặm, biết bao nhiêu là công khó nhọc, lại không được ăn đào, chịu nhục ở trước mặt hai vua, để tiếng cười về mai hậu, còn mặt mũi nào mà đứng ở trong triều đình nữa? Điền Khai Cương nói xong, đâm cổ chết ngay. Công tôn Tiệp giật mình, cũng rút gươm mà nói rằng: - Chúng ta công nhỏ mà được ăn đào, họ Điền công to mà không được ăn đào. Ta ăn đào mà không biết nhường, sao gọi là liêm; thấy người ta chết mà không theo, sao gọi là dũng! Công tôn Tiệp nói xong, cũng đâm cổ mà chết. Cổ Giã Tử kêu ầm lên rằng: - Ba chúng ta kết nghĩa với nhau, thề cùng sống chết, nay hai người đã chết, ta còn tham sống làm gì! Cổ Giã Tử nói xong lại cũng đâm cổ mà chết. Tề Cảnh công vội vàng sai người ngăn lại, nhưng đã không kịp. Lỗ Chiêu công đứng dậy mà bảo rằng: - Tôi nghe ba tướng ấy đều là những bậc tài giỏi nhất thiên hạ, tiếc thay trong một buổi sớm mà chết mất cả ba người! Tề Cảnh công nghe nói, sầm nét mặt lại, có ý không bằng lòng. Án Anh thong dong mà đáp rằng: - Đó chẳng qua là mấy kẻ vũ dũng ở nước tôi mà thôi, dẫu có chút công nhỏ mọn, cũng không đáng tiếc. Lỗ Chiêu công nói: - Ở bên quí quốc, những kẻ vũ dũng như thế phỏng được mấy người? Án Anh đáp rằng: - Những kẻ bày mưu lập kế ở chốn miếu đường, có tài làm tướng quốc hoặc làm nguyên soái thì đến vài ba mươi người, còn những kẻ vũ dũng ấy thì chẳng qua dùng để Chúa công tôi sai khiến mà thôi, dẫu sống hay là chết, nước Tề tôi cũng không hơn thiệt gì cả! Tề Cảnh công nghe nói, mới được yên lòng. Án Anh lại rót rượu mời Lỗ Chiêu công và Tề Cảnh công, hai vua cùng uống rượu thật vui rồi tan về. Khi Lỗ Chiêu công về rồi, Tề Cảnh công gọi Án Anh mà hỏi rằng: - Trong việc mới rồi, nhà ngươi nói khoe khoang để giữ thể diện cho nước Tề ta; nhưng ta e rằng Tam kiệt đã chết rồi, thì lấy ai mà thay vào đấy cho được! Án Anh nói: - Tôi xin tiến cử một người giỏi hơn Tam kiệt. Tề Cảnh công hỏi: - Nhà ngươi định tiến cử ai? Án Anh nói: - Có Điền Nhương Thư, văn vũ toàn tài, dùng làm đại tướng được. Tề Cảnh công nói: - Người ấy cùng một họ với Điền Khai Cương có phải không? Án Anh nói: - Người ấy dẫu cùng họ với Điền Khai Cương, nhưng về ngành thứ, mà Điền Khai Cương cũng không biết trọng đãi, vậy nên người ấy vẫn ẩn ở Đông Hải. Chúa công muốn tuyển tướng thì không ai bằng người ấy! Tề Cảnh công nói: - Nhà ngươi đã biết là người giỏi, sao không tâu ngay? Án Anh nói: - Người giỏi, chẳng những chọn vua mới ra làm quan, lại cần phải chọn bạn nữa, chứ như bọn Điền Khai Cương và Cổ Giã Tử thì khi nào Điền Nhương Thư chịu đứng cùng hàng! Tề Cảnh công ngoài miệng dẫu không nói ra, nhưng trong lòng hiềm về nỗi họ Điền vẫn thân thuộc với Trần Vô Vũ, vậy nên ngần ngại không quyết định. Một hôm, có biên lại báo tin rằng: - Nước Tấn thấy nói Tam kiệt đã chết, cất quân sang đánh mặt đông; nước Yên cũng thừa cơ đem quân sang xâm nhiễu mặt bắc. Tề Cảnh công sợ lắm, liền sai Án Anh đem lễ vật ra Đông Hải đón Điền Nhương Thư vào triều. Điền Nhương Thư giảng giải binh pháp hợp ý Tề Cảnh công lắm. Ngay ngày hôm ấy, Tề Cảnh công cho Điền Nhương Thư làm nguyên soái đem quân đi đánh Tấn và Yên. Điền Nhương Thư tâu với Tề Cảnh công rằng: - Tôi vốn nhà hèn hạ ở chốn thôn dã, nay Chúa công giao binh quyền cho, e rằng lòng người không phục, xin Chúa công chọn cho một người nào mà trong nước vẫn kính trọng xưa nay, để sai làm giám quân thì hiệu lệnh của tôi mới có thể thi hành được. Tề Cảnh công theo lời, sai quan Đại phu là Trang Giả đi làm giám quân. Điền Nhương Thư và Trang Giả cùng lạy tạ lui ra. Ra đến ngoài triều môn, Trang Giả hỏi Điền Nhương Thư rằng: - Quan Nguyên soái định đến bao giờ thì cất quân đi? Điền Nhương Thư nói: - Giờ ngọ ngày mai, tôi xin đợi Ngài ở quân môn để cùng đi, xin Ngài chớ sai hẹn. Đến giờ ngọ ngày hôm sau, Điền Nhương Thư truyền cho quân sĩ cắm cây gỗ làm nêu để xem bóng mặt trời và sai người đến giục Trang Giả. Trang Giả còn ít tuổi, vốn là người kiêu ngạo, lại cậy thế Tề Cảnh công yêu, chẳng coi Điền Nhương Thư ra gì cả; vả lại vẫn tưởng mình làm giám quân thì muốn thế nào cũng được. Ngày hôm ấy họ hàng bạn hữu đều bày tiệc tiễn chân, Trang Giả vui chén quá say, thấy sứ đến giục, chẳng buồn đứng dậy. Điền Nhương Thư đợi mãi, bóng mặt trời đã xế về tây, mà vẫn chưa thấy Trang Giả đến. Điền Nhương Thư mới trèo lên tướng đài tuyên bá hiệu lệnh cho các quân sĩ. Khi mặt trời đã gần chiều, mới trông thấy Trang Giả đi một cái xe ngựa ở đàng xa lững thững đến, nét mặt còn ra vẻ say rượu. Trang Giả đi đến quân môn, thủng thỉnh xuống xe, trèo lên tướng đài. Điền Nhương Thư cứ nghiễm nhiên ngồi không đứng dậy mà hỏi Trang Giả rằng: - Quan Giám quân vì cớ gì mà bây giờ mới đến? Trang Giả chắp tay vái mà đáp rằng: - Nhân vì tôi sắp khởi hành, họ hàng bạn hữu đều bày tiệc tiễn chân, thành ra hơi chậm mất một chút. Điền Nhương Thư nói: - Phàm người làm tướng, trong ngày chịu mệnh vua thì phải quên nhà mình; khi đã tuyên bá lệnh hiệu cho các quân sĩ thì phải quên cha mẹ mình; khi tay cầm dùi trống, xông pha tên đạn thì phải quên cả thân mình. Nay nước giặc sang xâm nhiễu, ngoài biên thùy náo động, Chúa công ta ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng, đem việc đánh giặc ủy thác cho hai ta, cũng mong sớm tối lập công để cứu khổ cho trăm họ, còn lòng nào mà cùng với họ hàng bạn hữu bày cuộc vui nữa! Trang Giả tủm tỉm cười mà đáp rằng: - Cũng may mà còn kịp hành kỳ, quan Nguyên soái bất tất phải quá trách. Điền Nhương Thư nổi giận, đập bàn mà mắng rằng: - Mày cậy được Chúa công yêu mà làm cho quân sĩ sinh lòng trễ biếng, nếu lúc ra trận như thế thì hỏng hết cả công việc! Điền Nhương Thư truyền gọi chức quân chính đến mà hỏi rằng: - Cứ theo quân pháp, hễ hẹn mà đến chậm thì nên bắt tội gì! Chức quân chính đáp rằng: - Cứ theo quân pháp thì đem chém! Trang Giả nghe nói phải đem chém mới có ý sợ, vội vàng ở trên tướng đài chạy xuống. Điền Nhương Thư truyền cho quân sĩ trói Trang Giả lại, rồi đem ra quân môn để chém. Bấy giờ Trang Giả không còn một chút hơi rượu nào cả, van van lạy lạy xin tha tội cho. Những người theo hầu Trang Giả chạy đến báo tin với Tề Cảnh công. Tề Cảnh công giật mình kinh sợ, liền gọi Lương Khâu Cứ, sai cầm cờ tiết bảo Điền Nhương Thư tha tội chết cho Trang Giả, lại dặn phải đi xe thật mau, kẻo không kịp việc, nhưng đi đến nơi Trang Giả đã chết rồi. Lương Khâu Cứ không biết, tay cầm cờ tiết, đi xe thẳng tiến vào quân môn. Điền Nhương Thư truyền cho quân sĩ ngăn lại, rồi hỏi chức quân chính rằng: - Vào quân môn mà dám đi xe mau như vậy thì nên bắt tội gì! Chức quân chính đáp rằng: - Cứ theo quân pháp thì cũng đem chém. Lương Khâu Cứ mặt như chàm đổ, mình nhường dẽ run, kêu là phụng mệnh mà đến, chứ không phải tự ý mình. Điền Nhương Thư nói: - Đã có mệnh vua thì tha cho không chém, nhưng làm thế nào cũng phải giữ quân pháp, vậy thì ta phá xe giết ngựa đi để thay mạng cho sứ giả. Lương Khâu Cứ được khỏi chết, cúi đầu len lén mà đi. Quân sĩ thấy vậy, ai cũng sợ hãi. Đại binh của Điền Nhương Thư chưa kéo ra đến nơi mà quân Tấn nghe tin đã bỏ trốn đi rồi. Quân Yên cũng rút về. Điền Nhương Thư đuổi theo mà đánh, chém được hơn một vạn đầu giặc. Người nước Yên thua to, phải đem lễ vật sang xin hòa. Khi Điền Nhương Thư rút quân về. Tề Cảnh công thân hành ra đón, phong làm chức Đại Tư mã, sai giữ binh quyền. Chư hầu nghe tiếng Điền Nhương Thư, ai cũng kính phục. Tề Cảnh công trong có Án Anh, ngoài có Điền Nhương Thư, bởi vậy trong nước mỗi ngày một cường thịnh. Tề Cảnh công thấy nước nhà đã được cường thịnh, ngày nào cũng đi săn và uống rượu để cầu vui, còn quyền chính giao hết cho Án Anh, khác nào như Tề Hoàn công dùng Quản Di Ngô khi trước. Một hôm, Tề Cảnh công ở trong cung cùng với cung nữ uống rượu; đến nửa đêm, bỗng nhớ đến Án Anh, truyền cho nội thị đem các đồ uống rượu đưa đến nhà Án Anh, rồi báo trước cho Án Anh biết rằng: - Chúa công sắp đến! Án Anh đội mũ mặc áo, cầm hốt đứng chắp tay ở ngoài cửa để đón. Tề Cảnh công chưa kịp xuống xe, Án Anh chạy lại, kinh sợ mà hỏi rằng: - Chư hầu có việc gì chăng, hay là nước nhà có việc gì chăng? Tề Cảnh công nói: - Không! Án Anh nói: - Thế thì sao đang đêm Chúa công lại thân hành ra nhà tôi? Tề Cảnh công nói: - Quan Tướng quốc công việc khó nhọc, nay ta có rượu ngon và các thứ âm nhạc, không dám vui một mình, xin cùng với quan Tướng quốc cùng vui! Án Anh nói: - Việc giao kết chư hầu và giữ yên nước nhà thì tôi xin hết sức; còn những cuộc bày tiệc vui để hầu hạ Chúa công thì đã có người khác, tôi không dám dự đến. Tề Cảnh công quay xe trở lại, rồi sang nhà quan Tư mã Điền Nhương Thư. Nội thị đến báo trước cho Điền Nhương Thư biết. Điền Nhương Thư đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, tay cầm cái kích, đứng ở ngoài cửa để đón. Khi xe Tề Cảnh công đến, Điền Nhương Thư cúi đầu mà hỏi rằng: - Chư hầu có nước nào quấy nhiễu hay là đại thần có người nào phản nghịch chăng? Tề Cảnh công nói: - Không! Điền Nhương Thư nói: - Thế thì sao đang đêm Chúa công lại thân hành ra nhà tôi? Tề Cảnh công nói: - Nào có việc gì khác đâu, chỉ vì ta nhớ đến cái công khó nhọc của Tướng quân, vậy ta có rượu ngon và các thứ âm nhạc, muốn cùng với Tướng quân cùng vui! Điền Nhương Thư nói: - Việc đánh nước cừu thù và dẹp kẻ phản nghịch thì tôi xin hết sức; còn những việc bày cuộc vui để hầu hạ Chúa công thì thiếu gì người, sao Chúa công lại hỏi đến kẻ giới trụ. Tề Cảnh công có ý không được vui. Các nội thị hỏi: - Chúa công định về cung hay đi đâu? Tề Cảnh công nói: - Đi sang nhà quan Đại phu là Lương Khâu Cứ. Nội thị lại báo trước cho Lương Khâu Cứ biết. Lương Khâu Cứ tay trái ôm đàn cầm, tay phải cắp ống can, miệng hát nghêu ngao ra đón Tề Cảnh công ở tận ngoài đường. Tề Cảnh công bằng lòng, mới cởi mũ áo ra, rồi cùng với Lương Khâu Cứ uống rượu vui, và nghe các thứ âm nhạc mãi đến gà gáy mới trở về cung. Ngày hôm sau, Án Anh và Điền Nhương Thư cùng vào triều tạ tội, lại can Tề Cảnh công không nên đang đêm ra uống rượu ở nhà các quan. Tề Cảnh công nói: - Ta không có hai ngươi thì lấy ai mà trị nước, không có Lương Khâu Cứ thì lấy ai mà làm vui. Ta không trở ngại công việc của hai ngươi, hai người cũng chớ nên can dự đến công việc của ta! Bấy giờ ở Trung Nguyên có nhiều việc, nước Tấn không thể quản cố được. Tấn Chiêu công lên làm vua được sáu năm thì mất, Thế tử Khí Tật lên nối ngôi, tức là Tấn Khoảnh công. Năm thứ nhất đời Tấn Khoảnh công, Hàn Khởi và Dương Thiệt Bật đều ốm chết cả. Ngụy Thư cầm quyền chính. Tuân Lịch và Phạm Ưởng đều có tiếng là người hay ăn lễ. Kẻ gia thần của Kỳ Doanh tên là Kỳ Thắng tư thông với vợ Ô Tang (cũng là gia thần của Kỳ Doanh). Kỳ Doanh bắt Kỳ Thắng. Kỳ Thắng lễ đút Tuân Lịch. Tuân Lịch nói với Tấn Khoảnh công mà gièm Kỳ Doanh. Tấn Khoảnh công lại bắt Kỳ Doanh. Dương Thiệt Thực Ngã (con Dương Thiệt Bật) là đảng Kỳ Doanh, liền giết Kỳ Thắng. Tấn Khoảnh công nổi giận giết Kỳ Doanh và Dương Thiệt Thực Ngã, lại diệt cả những tộc đảng họ Kỳ và họ Dương Thiệt. Người nước Tấn nghe nói, ai cũng thương là oan. Sau Lỗ Chiêu công bị kẻ cường thần là Quý tôn Ý Như đuổi. Tuân Lịch (nước Tấn) lại ăn tiền của Quý tôn Ý Như mà không giúp cho Lỗ Chiêu công. Tề Cảnh công hội chư hầu ở Yên Lăng để bàn mưu giúp cho Lỗ Chiêu công về nước, bởi vậy ai cũng kính phục. Từ bấy giờ danh tiếng Tề Cảnh công mới lừng lẫy. Lại nói chuyện vua nước Ngô là Di Muội lên làm vua được 4 năm thì ốm nặng, theo lời cha anh dặn ngày trước, muốn truyền ngôi cho em là Quý Trát. Quý Trát từ chối mà nói rằng: - Quyết không bao giờ ta chịu nhận! Dẫu Tiên vương ta ngày xưa có di mệnh, nhưng ta cũng không dám theo, bởi vì ta coi sự phú quí khác nào như gió thu thoảng qua mà thôi, ta có thiết gì! Quý Trát liền trốn về đất Diên Lăng. Các quan triều thần nước Ngô lập con Di Muội là Châu Vu lên làm vua, cải tên là Liêu, tức là Vương Liêu. Con Chư Phàn là Công tử Quang giỏi về việc binh, Vương Liêu dùng cho làm tướng. Công tử Quang cùng với quân Sở giao chiến ở đất Trường Ngạn (đất nước Sở), giết được quan Tư mã nước Sở là Công tử Phường. Người nước Sở kinh sợ, phải đắp thành ở đất Châu Lai để phòng giữ nước Ngô. Bấy giờ Phí Vô Cực khéo xu nịnh, Sở Bình Vương (Lư) yêu lắm. Sái Bình công đã lập đích tử tên là Chu làm thế tử. Người thứ tử tên là Đông Quốc muốn tranh mới lễ tiền cho Phí Vô Cực để nhờ nói hộ với Sở Bình Vương. Phí Vô Cực nói với Sở Bình Vương đuổi Triều Ngô nước Sái sang nước Trịnh; đến lúc Sái Bình công mất, Thế tử Chu lên nối ngôi, Phí Vô Cực lại giả mạo truyền mệnh Sở Bình Vương bắt người nước Sái phải đuổi Thế tử Chu đi mà lập Đông Quốc lên làm vua. Sở Bình Vương thấy vậy, hỏi Phí Vô Cực rằng: - Tại sao người nước Sái đuổi Thế tử Chu. Phí Vô Cực nói: - Thế tử Chu định làm phản nước Sở ta, người nước Sái không bằng lòng, vậy nên đuổi đi. Sở Bình Vương cũng không hỏi gì đến nữa. Phí Vô Cực ghét Thế tử Kiến (con Sở Bình Vương), muốn làm cho cha con phải lìa rẽ nhau, nhưng chưa có kế gì. Một hôm, Phí Vô Cực tâu với Sở Bình Vương rằng: - Thế tử đã lớn tuổi, sao Đại vương không cầu hôn cho Thế tử, mà muốn cầu hôn thì không đâu bằng nước Tần. Tần là một nước cường thịnh mà xưa nay vẫn giao hiếu với Sở, nếu ta kết hôn với Tần thì thế lực Sở càng thêm lừng lẫy. Sở Bình Vương nghe lời, sai Phí Vô Cực sang nước Tần cầu hôn cho Thế tử Kiến. Tần Ai công họp các quan triều thần để thương nghị. Các quan triều thần đều nói: - Ngày xưa nước Tần ta và nước Tấn vẫn kết hôn với nhau, nay nước Tấn đã lâu không đi lại với ta, mà nước Sở hiện đang cường thịnh, vậy ta nên cho nước Sở kết hôn. Tần Ai công liền hẹn gả em gái là nàng Mạnh Doanh cho nước Sở. Sở Bình Vương lại sai Phí Vô Cực đem các đồ lễ vật sang nước Tần xin cưới. Phí Vô Cực sang đến nước Tần, đệ trình các đồ lễ vật. Tần Ai công bằng lòng, sai Công tử Bồ đưa nàng Mạnh Doanh sang nước Sở. Đồ hành trang cả thảy một trăm cỗ xe, các dắng thiếp theo hầu kể có vài ba mươi người. Nàng Mạnh Doanh vào từ biệt với anh là Tần Ai công, rồi đi. Trong khi đi đường, Phí Vô Cực trông thấy nàng Mạnh Doanh sắc đẹp tuyệt trần, lại thấy trong đám dắng thiếp có một người dáng điệu đứng đắn lắm, hỏi dò ra mới biết là Tề nữ (con gái nước Tề). Nguyên trước thân phụ Tề nữ sang làm quan ở nước Tần, Tề nữ theo sang từ thuở bé, đến sau vào làm thị nữ trong cung, hầu nàng Mạnh Doanh. Phí Vô Cực dò biết như vậy, nhân đêm hôm ấy ngủ ở nhà quán xá, mật triệu Tề nữ đến mà bảo rằng: - Ta trông thấy nàng có quí tướng, muốn giúp cho nàng được làm vợ ngôi thế tử; nếu nàng chịu theo kế ta thì sau này phú quí không biết đâu mà kể! Tề nữ cúi đầu nín lặng. Phí Vô Cực về trước một hôm, vào tâu với Sở Bình Vương, nói nàng Mạnh Doanh đã đến, còn cách xa độ ba xá. Sở Bình Vương hỏi Phí Vô Cực rằng: - Nhà ngươi đã được trông thấy mặt chưa? Nhan sắc thế nào? Phí Vô Cực biết Sở Bình Vương là phường tửu sắc, định khoe khoang cái vẻ xinh đẹp của nàng Mạnh Doanh để làm cho Sở Bình Vương phải động lòng, may sao lại gặp Sở Bình Vương hỏi đến, chính trúng vào kế của Phí Vô Cực. Phí Vô Cực đáp rằng: - Mắt tôi trông thấy con gái đã nhiều, nhưng chưa thấy người nào đẹp như nàng Mạnh Doanh! Chẳng những trong cung nước Sở không có ai bằng, dẫu tương truyền các bậc tuyệt sắc đời xưa như Đắc Kỷ và Ly Cơ, cũng chỉ nghe tiếng đồn mà thôi, chứ e rằng nàng Mạnh Doanh đẹp muôn phần, vị tất đã được một! Sở Bình Vương nghe nói, mặt đỏ bừng lên, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thở dài mà than rằng: - Ta đây xưng vương làm gì cho nó uổng! Chẳng gặp người tuyệt sắc ấy, thật cũng phí một đời! Phí Vô Cực xin đuổi hết những người xung quanh rồi mật tâu với Sở Bình Vương rằng: - Nếu Đại vương yêu sắc đẹp của nàng Mạnh Doanh thì sao Đại vương không lấy? Sở Bình Vương nói: - Ta đã cưới cho Thế tử, nếu vậy thì sợ hại đến luân lý. Phí Vô Cực tâu rằng: - Có việc gì mà hại! Nàng Mạnh Doanh dẫu cưới cho Thế tử, nhưng chưa về đến nơi; nay Đại vương đón vào cung, còn ai dám nghị luận. Sở Bình Vương nói: - Ta khóa miệng được các quan, chứ bưng thế nào được miệng Thế tử! Phí Vô Cực nói: - Tôi xem trong đám dắng thiếp có Tề nữ là người đứng đắn, cho giả làm nàng Mạnh Doanh được. Tôi xin đưa nàng Mạnh Doanh vào cung, rồi đem Tề nữ tiến cho Thế tử, như vậy thì hai bên cùng phải giấu kín cả, thật là trọn vẹn mọi bề! Sở Bình Vương mừng lắm, dặn Phí Vô Cực phải bí mật lắm mới được. Phí Vô Cực bảo Công tử Bồ nước Tần rằng: - Hôn lễ nước Sở không giống các nước, tất phải vào cung yết kiến Đại vương tôi đã, rồi mới cùng với Thế tử thành thân. Công tử Bồ xin vâng mệnh. Phí Vô Cực đưa nàng Mạnh Doanh và các dắng thiếp vào cung để yết kiến Sở Bình Vương, rồi để nàng Mạnh Doanh ở đấy; lại bắt các cung nữ giả làm dắng thiếp nước Tần, còn Tề nữ thì giả làm nàng Mạnh Doanh, đưa sang cung Thế tử Kiến. Các quan triều thần và Thế tử Kiến đều không biết mưu gian của Phí Vô Cực. Sở Bình Vương sợ Thế tử Kiến biết được nàng Mạnh Doanh, mới cấm Thế tử Kiến không được vào cung, rồi ngày đêm chỉ cùng với nàng Mạnh Doanh uống rượu mua vui, chẳng thiết gì đến chính trị cả. Bấy giờ bề ngoài cũng có nhiều người thì thào nghi việc nàng Mạnh Doanh. Phí Vô Cực sợ Thế tử Kiến biết, mới bảo Sở Bình Vương rằng: - Nước Tấn làm bá chủ được lâu năm, chỉ vì tiếp giáp với Trung Nguyên. Vua Linh Vương ta ngày xưa đắp thành ở Trần, Sái là có ý muốn tranh nghiệp bá chủ, nay ta trả lại cho Trần, Sái mà lui về ở phương nam thì bao giờ cho cường thịnh được, sao Đại vương không sai Thế tử ra trấn thủ ở đất Thành Phủ, để giao thông với phương bắc, còn Đại vương thì chuyên một mặt mà mở mang phương nam, như vậy thì có thể thu hết được thiên hạ. Sở Bình Vương ngần ngừ chưa quyết. Phí Vô Cực lại ghé tai mật tâu rằng: - Việc nàng Mạnh Doanh, lâu ngày thì tất phải tiết lộ, nếu để cho Thế tử đi xa, chẳng cũng lợi cả đôi đường hay sao! Sở Bình Vương nghĩ ra, liền sai Thế tử Kiến đi trấn thủ ở đất Thành Phủ, cho Phấn Dương làm quan tư mã ở đất Thành Phủ, lại dặn Phấn Dương rằng: - Nhà ngươi thờ Thế tử, cũng như là thờ ta! Ngũ Xa biết Phí Vô Cực là người xu nịnh vẫn muốn can Sở Bình Vương. Phí Vô Cực biết vậy, lại tâu Sở Bình Vương sai Ngũ Xa sang Thành Phủ, để giúp Thế tử. Khi Thế tử Kiến đã đi rồi, Sở Bình Vương lại lập nàng Mạnh Doanh làm chánh hậu và đuổi Sái Cơ (mẹ Thế tử Kiến) về đất Viên Dương; bấy giờ Thế tử Kiến mới biết nàng Mạnh Doanh đã bị cha đổi mất mà không thể làm thế nào được. Nàng Mạnh Doanh dẫu được Sở Bình Vương yêu dấu, nhưng thấy Sở Bình Vương già cả, trong lòng rất không được vui. Sở Bình Vương biết vậy cũng không dám hỏi. Được hơn một năm Mạnh Doanh sinh con trai. Sở Bình Vương yêu quí lắm, đặt tên là Trân (sau là Sở Chiêu vương). Khi Trân đã được đầy tuổi tôi, Sở Bình Vương hỏi nàng Mạnh Doanh rằng: - Nàng từ khi vào cung đến giờ, thường hay buồn rầu, ít được vui vẻ là cớ làm sao? Nàng Mạnh Doanh nói: - Thiếp vâng mệnh anh thiếp, sang hầu hạ Đại vương. Thiếp vẫn tưởng rằng vừa đôi phải lứa với nhau, khi đã vào tới cung, mới biết là Đại vương nhiều tuổi. Thiếp không dám oán Đại vương, nhưng chỉ tiếc rằng sinh sau đẻ muộn quá! Sở Bình Vương cười mà nói rằng: - Cái đó là bởi số phận! Ta đây dẫu già nhưng nàng kết duyên với ta thì làm chánh hậu đã sớm được mấy năm rồi! Nàng Mạnh Doanh nghe nói, trong lòng nghi hoặc, mới dò hỏi các cung nữ. Các cung nữ không thể giấu được, thuật chuyện lại cho nghe. Nàng Mạnh Doanh thở dài, rồi ứa nước mắt khóc. Sở Bình Vương biết ý, hết sức chiều chuộng, hẹn lập Trân làm thế tử, bấy giờ nàng Mạnh Doanh mới hơi yên lòng. Phí Vô Cực vẫn lấy làm lo sợ Thế tử Kiến sau này nối ngôi thì tất trị tội mình, mới lại tâu với Sở Bình Vương rằng: - Tôi nghe tin Thế tử cùng với Ngũ Xa bàn mưu phản nghịch, mật sai người giao thông với Tề và Tấn, Đại vương nên phải phòng bị mới được. Sở Bình Vương nói: - Thế tử vốn là người hiếu thuận, có đâu những việc ấy! Phí Vô Cực nói: - Thế tử vì việc nàng Mạnh Doanh mà đem lòng oán giận. Nay ở đất Thành Phủ, vẫn luyện tập quân mã, thường khen vua Mục Vương ngày xưa nổi loạn mà được an hưởng nước Sở, con cháu nhiều thịnh, thế là có ý muốn bắt chước. Nếu Đại vương không trừ bỏ đi thì tôi xin trốn trước để khỏi tai vạ. Sở Bình Vương muốn bỏ Thế tử Kiến mà lập Trân làm Thế tử, lại nghe lời nói của Phí Vô Cực, cũng hơi động lòng, toan hạ lệnh bỏ Thế tử Kiến. Phí Vô Cực lại tâu rằng: - Thế tử đang giữ binh quyền ở ngoài, nếu hạ lệnh bỏ thì khác nào như giục Thế tử làm phản. Ngũ Xa lại làm chủ mưu cho Thế tử, chi bằng Đại vương triệu Ngũ Xa về đã, rồi sau đem quân bắt Thế tử thì mới có thể trừ bỏ được. Sở Bình Vương khen phải, sai người triệu Ngũ Xa. Ngũ Xa về. Sở Bình Vương hỏi rằng: - Thế tử Kiến đem lòng phản nghịch, nhà ngươi có biết không? Ngũ Xa vốn là người chính trực, liền đáp lại rằng: - Đại vương chiếm lấy vợ Thế tử, cũng đã quá lắm rồi, nay lại nghe lời đứa tiểu nhân mà bỏ tình cốt nhục, Đại vương nỡ lòng nào như thế! Sở Bình Vương có ý thẹn, truyền bắt Ngũ Xa mà giam lại. Phí Vô Cực tâu với Sở Bình Vương rằng: - Ngũ Xa dám nói như vậy, quả nhiên là có lòng oán vọng. Nếu Thế tử biết Ngũ Xa bị bắt thì nổi loạn, đem quân Tề và quân Tấn về, ta khó lòng mà đương nổi! Sở Bình Vương nói: - Ta muốn sai người đi giết Thế tử, chưa biết dùng ai? Phí Vô Cực nói: - Sai người khác đi thì Thế tử tất chống cự được, chi bằng mật dụ cho quan Tư mã là Phấn Dương phải bắt Thế tử mà giết đi. Sở Bình Vương liền sai người mật dụ Phấn Dương rằng: - Giết Thế tử thì được trọng thưởng, tha Thế tử thì phải tội chết. Phấn Dương tức khắc sai người báo cho Thế tử Kiến biết để mà mau mau đi trốn. Thế tử Kiến kinh sợ. Bấy giờ Tề nữ đã sinh con trai, đặt tên là Thắng. Thế tử Kiến liền đem vợ con chạy sang nước Tống. Phấn Dương biết Thế tử Kiến đã trốn rồi, mới bảo người Thành Phủ trói mình lại giải về Dĩnh Đô nộp Sở Bình Vương. Phấn Dương tâu với Sở Bình Vương, nói Thế tử đã trốn mất rồi. Sở Bình Vương nổi giận mà mắng rằng: - Việc này tự miệng ta nói ra, vào đến tai nhà ngươi, còn ai biết nữa mà bảo Thế tử! Phấn Dương nói: - Chính tôi bảo Thế tử! Ngày trước Đại vương có dặn tôi rằng: "Nhà ngươi thờ Thế tử cũng tức như là thờ ta!". Tôi vâng lời dặn ấy, không dám hai lòng, vậy nên phải bảo Thế tử. Sau nghĩ ra mới biết là mắc tội thì hối lại không kịp! Sở Bình Vương nói: - Nhà ngươi đã tha Thế tử, lại dám đến yết kiến ta, thế thì không sợ chết hay sao? Phấn Dương nói: - Tôi đã không theo được lời dặn sau cùng của Đại vương, nếu lại sợ chết mà không đến thì thành ra hai tội. Vả Thế tử chưa có cái tang chứng gì là phản nghịch, nếu đem trị tội chẳng cũng oan lắm ru! Thế tử sống thì tôi dẫu chết cũng được thỏa lòng! Sở Bình Vương động lòng, có ý hổ thẹn, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Phấn Dương rằng: - Phấn Dương dẫu có trái mệnh, nhưng tấm lòng trung trực, thực cũng đáng khen! Sở Bình Vương xá tội cho Phấn Dương, vẫn cho được làm quan Tư mã ở Thành Phủ. Sở Bình Vương lập con nàng Mạnh Doanh là Trân làm Thế tử, lại cho Phí Vô Cực làm chức thái sư. Phí Vô Cực tâu rằng: - Ngũ Xa có hai con là Ngũ Thượng và Ngũ Viên đều là bậc tài giỏi, nếu để trốn sang nước Ngô thì tất hại cho nước Sở, chi bằng ta bắt Ngũ Xa phải viết thư triệu về. Kẻ kia tin lời cha, tất rủ nhau về cả, bấy giờ ta giết hết đi, mới có thể trừ được hậu hoạn. Sở Bình Vương mừng lắm, sai người vào ngục đem Ngũ Xa ra rồi đưa giấy bút mà bảo rằng: - Nhà ngươi xui Thế tử làm phản, đáng lẽ thì phải chết chém, nhưng ta nghĩ đến cái công tổ phụ nhà ngươi, không nỡ bắt tội. Nhà ngươi nên viết thư triệu hai con về, ta sẽ phong quan chức cho. Ngũ Xa biết là Sở Bình Vương đánh lừa, định triệu về mà giết cả đi, mới tâu với Sở Bình Vương rằng: - Con trưởng tôi là Ngũ Thượng, tính nết hiền lành, nghe tôi triệu thì tất về ngay; còn con thứ tôi là Ngũ Viên văn vũ toàn tài, mà tính nhẫn nại, mai sau có thể làm nên được; vả lại là một người tinh lanh lắm, vị tất đã chịu về. Sở Bình Vương nói: - Nhà ngươi cứ theo lời ta mà triệu về, còn về hay là không, không can dự gì đến nhà ngươi! Ngũ Xa không dám trái mệnh, liền viết một bức thư, trong thư đại lược như sau này: "Ta có lời cho hai con là Thượng và Viên biết rằng: Ta vì nói thẳng trái ý Đại vương mà phạm tội, nhưng Đại vương nghĩ đến công của Tổ phụ ta ngày xưa, không nỡ giết chết, vậy có theo lời bàn của các quan mà tha tội cho, lại muốn phong quan chức cho hai con nữa. Hai con nên mau mau về triều, nếu chậm thì có tội". Ngũ Xa viết xong đệ trình Sở Bình Vương. Sở Bình Vương xem qua, lại truyền đem Ngũ Xa vào ngục, và sai Yên Tương Sư đem thư sang Đường Ấp để triệu Ngũ Thượng và Ngũ Viên. Khi Yên Tương Sư sang đến Đường Ấp thì Ngũ Thượng cùng Ngũ Viên đã sang Thành Phủ rồi. Yên Tương Sư lại sang Thành Phủ, trông thấy Ngũ Thượng liền đem lời chúc mừng. Ngũ Thượng nói: - Thân phụ tôi đang bị giam, còn vui gì mà chúc mừng! Yên Tương Sư nói: - Đại vương quá nghe người ta nói, bắt giam Tôn công (chỉ Ngũ Xa), may có các quan bảo nhận, tâu rằng nhà Tôn công về trước đã ba đời trung trực. Bây giờ Đại vương nghĩ lại, lại cho Tôn công làm tướng quốc và phong cho hai ngài: Thượng làm Hồng đô hầu, Viên làm Cái hầu. Tôn công bị giam đã lâu, nay mới được tha, mong nhớ hai ngài lắm, vậy có sai tôi mang thư đến đây để đón. Ngũ Thượng nói: - Thân phụ tôi bị giam, lòng tôi thật đau như cắt, được tha là may, khi nào lại dám mong quan chức! Yên Tương Sư nói: - Đó là mệnh Vua, Ngài chớ nên từ chối. Ngũ Thượng mừng lắm, đem bức thư vào nhà trong đưa cho em là Ngũ Viên xem. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 72 Dụ hai con, Sở Bình lập kế Nghĩ một đêm Ngũ Viên bạc đầu Bấm để xem Ngũ Viên tên tự là Tử Tư, người ở Giám Lợi, mình cao một trượng, lưng rộng mười ôm, mày dài một thước, mắt sáng như điện, sức khỏe lạ thường, lại văn vũ toàn tài, là con Ngũ Xa, em Ngũ Thượng. Ngũ Thượng cùng với Ngũ Viên đều theo cha sang đất Thành Phủ. Yên Tương Sư phụng mệnh Sở Bình Vương ra dụ Ngũ Thượng, Ngũ Viên vào triều. Yên Tương Sư vào yết kiến Ngũ Thượng trước, đưa bức thư của Ngũ Xa, rồi nhân xin vào yết kiến Ngũ Viên. Ngũ Thượng cầm bức thư vào nhà trong cho Ngũ Viên xem và bảo rằng: - May thay, thân phụ ta được khỏi tội, hai ta được phong hầu, em nên ra tiếp kiến sứ giả. Ngũ Viên nói: - Thân phụ ta được khỏi tội, cũng đã là may, hai ta có công gì mà được phong hầu, chẳng qua chỉ lừa ta đó mà thôi. Ta về thì tất bị hại. Ngũ Thượng nói: - Hiện có thư của thân phụ ta, khi nào lại giả dối. Ngũ Viên nói: - Thân phụ ta một lòng tận trung với nước, nay bị tội oan, biết là thế nào rồi sau chúng ta tất báo thù, vậy thân phụ cũng muốn cho chúng ta chết cả đi, để khỏi lo về sau. Ngũ Thượng nói: - Em nói thế chẳng qua là ức đạc mà thôi, vạn nhất bức thư này là chân tình thì cái tội bất hiếu của chúng ta để đâu cho hết! Ngũ Viên nói: - Để em xin bói một quẻ. Ngũ Viên nói xong, liền đoán rằng: - Cứ như quẻ bói này, thì vua dối bề tôi, cha dối con. Nếu về thì tất bị hại, chứ chẳng khi nào được phong hầu! Ngũ Thượng nói: - Không phải ta có tham gì sự phong hầu, chỉ là mong được trông thấy thân phụ. Ngũ Viên nói: - Người nước Sở sợ anh em ta ở ngoài, vậy nên chưa dám giết thân phụ ta, nếu ta lầm mà về thì chỉ khiến cho thân phụ ta chóng chết mà thôi. Ngũ Thượng nói: - Cái tình cha con với nhau, nếu được trông thấy mặt thì ta chết cũng thỏa lòng! Ngũ Viên thở dài mà than rằng: - Về mà cùng chết, phỏng có ích gì! Nếu anh muốn thì từ đây em xin từ biệt. Ngũ Thượng khóc mà nói rằng: - Em định đi đâu? Ngũ Viên nói: - Ai có thể báo thù được nước Sở thì em xin theo. Ngũ Thượng nói: - Trí lực của anh không bằng em thì anh nên về Sở, còn em thì đi nước khác. Anh lấy sự theo cha làm hiếu, em lấy sự báo thù làm hiếu, mỗi người một chí. Từ đây trở đi, anh em ta không được trông thấy nhau nữa! Ngũ Viên sụp lạy bốn lạy để từ biệt Ngũ Thượng. Ngũ Thượng gạt nước mắt, ra tiếp kiến Yên Tương Sư, nói em là Ngũ Viên không muốn phong hầu, không thể cưỡng được. Yên Tương Sư đưa Ngũ Thượng về yết kiến Sở Bình Vương. Sở Bình Vương truyền bắt Ngũ Thượng giam lại. Ngũ Xa thấy một mình Ngũ Thượng về triều, liền thở dài mà than rằng: - Ta vẫn biết là Ngũ Viên không chịu về! Phí Vô Cực lại tâu với Sở Bình Vương rằng: - Còn một Ngũ Viên, nên sai bắt ngay, nếu chậm thì hắn trốn mất! Sở Bình Vương nghe lời, liền sai quan Đại phu là Vũ Thành Hắc đem quân đi bắt Ngũ Viên. Ngũ Viên nghe tin quân Sở đến bắt mình, khóc mà nói rằng: - Nếu vậy thì cha, anh tôi không khỏi chết được. Ngũ Viên liền bảo vợ là Giả Thị rằng: - Ta muốn trốn sang nước khác, mượn quân về để báo thù cho cha, anh, không thể trông nom đến nàng được thì biết làm thế nào? Giả Thị trừng mắt nhìn Ngũ Viên mà nói rằng: - Đại trượng phu nghĩ đến cái thù của cha, anh, lòng đau cắt, lại còn lòng mà tưởng người đàn bà! Phu quân nên mau mau trốn đi, chớ nghĩ đến thiếp! Giả Thị nói xong, liền vào trong nhà tự thắt cổ mà chết, Ngũ Viên vật mình lăn khóc, đem thi thể Giả Thị hãy chôn tạm vào một nơi, rồi thu xếp khăn gói, mình mặc áo bào trắng, đeo kiếm cầm cung trốn đi. Đi chưa được nửa ngày thì quân Sở đã kéo đến vây nhà, không tìm thấy Ngũ Viên, đoán chừng Ngũ Viên tất chạy về phía đông, mới tức khắc đuổi theo. Đuổi theo ước độ 300 dặm, đến một chỗ đồng không mông quạnh, Ngũ Viên giương cung bắn chết người dong xe của Vũ Thành Hắc, lại nhằm Vũ Thành Hắc, toan bắn luôn một phát nữa. Vũ Thành Hắc sợ hãi xuống xe bỏ chạy. Ngũ Viên bảo Vũ Thành Hắc rằng: - Ta vẫn định bắn chết nhà ngươi, nhưng hãy tha cho để về mà báo với vua Sở biết rằng: Nước Sở muốn còn giữ được cúng tế thì chớ giết cha, anh ta, bằng không thì tất ta phải diệt nước Sở mới hả được cái lòng căm tức của ta. Vũ Thành Hắc cúi đầu đi thẳng, về báo với Sở Bình Vương. Sở Bình Vương giận lắm, sai Phí Vô Cực giải cha con Ngũ Viên ra chợ để chém. Khi sắp chém, Ngũ Thượng sỉ mắng Phí Vô Cực một cách rất tàn tệ, bảo là một đứa xu nịnh, làm hại kẻ trung lương. Ngũ Xa ngăn Ngũ Thượng mà bảo rằng: - Cần gì mà phải nói cho rờm, ai nịnh ai trung, sau này sẽ có công luận! Nhưng ta chắc rằng Ngũ Viên còn sống thì vua tôi nước Sở cũng khó lòng ngồi yên được mà ăn! Sở Bình Vương nói: - Ngũ Viên dẫu trốn, nhưng đi tất chưa xa, ta nên sai người đuổi theo. Sở Bình Vương truyền cho quan Tả tư mã là Thẩm Doãn Thú phải đem quân đi đuổi bắt cho kỳ được. Ngũ Viên đi đến bờ sông đại giang, liền nghĩ ngay một kế: Cởi cái áo bào trắng đang mặc treo ở trên cành liễu, lại đem đôi giầy bỏ ở bên bờ, rồi thay đôi giầy cỏ cứ men bờ sông mà đi. Thẩm Doãn Thú đuổi theo đến bờ sông, bắt được giầy và áo của Ngũ Viên, đem về tâu với Sở Bình Vương rằng: - Không biết Ngũ Viên đi phương nào mất! Phí Vô Cực tâu với Sở Bình Vương rằng: - Tôi có một kế làm cho Ngũ Viên không còn đường nào mà trốn. Sở Bình Vương hỏi kế gì? Phí Vô Cực nói: - Một mặt chiêu yết đi các xứ, bất cứ người nào, hễ bắt được Ngũ Viên thì thưởng 50.000 thạch thóc và cho làm thượng đại phu; còn ai chứa chấp hoặc buông tha cho Ngũ Viên thì cả nhà chết chém. Bao nhiêu những người đi lại ở chỗ bờ sông hoặc cửa ải, đều phải khám xét thật kỹ. Lại sai sứ đi bảo khắp các nước chư hầu, không nước nào được dung cho Ngũ Viên ở. Như thế thì kẻ kia không có đường trốn, dầu chưa bị bắt mà thế cô một mình thì cũng chẳng làm gì nổi! Sở Bình Vương theo kế ấy, sai người vẽ hình tượng Ngũ Viên để đi tầm nã các mặt. Ngũ Viên men bờ sông đi về phía đông, định trốn sang nước Ngô, nhưng ngặt vì đường sá xa xôi, chưa thể đi được; lại nghĩ muốn sang nước Tống để tìm Thế tử Kiến, mới theo con đường Thư Dương mà đi. Đi đến nửa đường, bỗng trông thấy một toán xe ngựa tấp nập. Ngũ Viên ngờ là có quân Sở đón đường, phải đứng nấp ở trong xó rừng, sau nhìn kỹ mới biết là người bạn cũ của mình tên gọi Thân Bao Tư. Thân Bao Tư nhân đi sứ nước ngoài, về qua đến đây. Ngũ Viên chạy ra, đứng ở bên xe. Thân Bao Tư vội vàng xuống xe tiếp kiến và hỏi Ngũ Viên rằng: - Nhà ngươi vì cớ gì mà phải lủi thủi đi một mình như vậy! Ngũ Viên đem việc Sở Bình Vương giết oan cha và anh mình nói cho Thân Bao Tư nghe, vừa nói vừa khóc. Thân Bao Tư nghe nói, cũng động lòng thương mà hỏi rằng: - Bây giờ nhà ngươi định đi đâu? Ngũ Viên nói: - Ta nghe nói kẻ thù của cha mẹ thì không khi nào mình cùng đội trời; nay ta định trốn sang nước khác, mượn quân về đánh Sở, mà ăn thịt vua Sở, xé thây Phí Vô Cực, mới hả được tấm lòng căm tức của ta! Thân Bao Tư can rằng: - Vua Sở dẫu vô đạo, nhưng thế nào cũng là vua, nhà ngươi đã mấy đời ăn lộc vua, nỡ nào mà lại làm phản! Ngũ Viên nói: - Ngày xưa vua Kiệt và vua Trụ bị kẻ bề tôi giết, cũng chỉ vì vô đạo, nay vua Sở dâm loạn, lấy tranh vợ của con, lại nghe lời xu nịnh mà làm hại kẻ trung lương, ta mượn quân về Dĩnh Đô là để quét rửa những sự ô uế cho nước Sở đó, huống chi lại là báo thù cho cha và anh ta nữa. Nếu ta không diệt Sở thì ta thề rằng không còn đứng ở trên đời! Thân Bao Tư nói: - Ta muốn bảo nhà ngươi báo thù nước Sở thì là bất trung, mà bảo nhà ngươi đừng báo thù thì là bất hiếu. Thôi tùy ý nhà ngươi, ta cũng vì tình bạn hữu mà không tiết lộ cho ai biết cả, nhưng nhà ngươi định làm cho Sở nguy thì ta đây quyết giữ cho Sở yên! Ngũ Viên từ biệt Thân Bao Tư rồi đi ngay. Đi đến nước Tống, tìm thấy Thế tử Kiến, hai người cùng ôm nhau mà khóc, rồi kể những tội ác của Sở Bình Vương. Ngũ Viên nói: - Thế tử đã vào yết kiến vua Tống chưa? Thế tử Kiến nói: - Nước Tống đang có loạn, vậy nên ta chưa vào yết kiến. Lại nói chuyện vua Tống tên là Tá, là con một người thiếp yêu của Tống Bình công. Tống Bình công nghe lời kẻ tự nhân là Y Lệ, giết Thế tử Tọa mà lập Tá. Tống Bình công mất. Tá lên nối ngôi tức là Tống Nguyên công. Tống Nguyên công người xấu xí mà tính nhu nhược, lại không có tín nghĩa, ghét quan Thế khanh là Hoa Cường Thịnh, mới cùng với bọn Công tử Dần, Công tử Ngự Nhung, Hướng Thắng và Hướng Hành bàn mưu trừ bỏ họ Hoa. Hướng Thắng nói cho Hướng Ninh (con Hướng Thú) biết. Hướng Ninh quen thân với Hoa Hướng, Hoa Định và Hoa Hợi, mới bảo bọn ấy nổi loạn. Hoa Hợi giả cách cáo ốm. Các quan triều thần đều đến hỏi thăm, Hoa Hợi bắt Công tử Dần và Công tử Ngự Nhung đem giết đi, giam Hướng Thắng, Hướng Hành vào trong kho. Tống Nguyên công nghe tin, vội vàng lên xe thân hành đến nhà họ Hoa xin tha cho Hướng Thắng và Hướng Hành. Hoa Hợi lại hiếp Tống Nguyên công phải giao thế tử và một người thân thuộc để làm tin, mới chịu nghe lời. Tống Nguyên công nói: - Ngày xưa nhà Chu và nước Trịnh cũng gửi người làm tin với nhau, nay ta giao thế tử cho nhà ngươi thì nhà ngươi cũng phải giao người làm tin với ta. Hoa Hợi thương nghị, rồi cho con mình là Hoa Vô Cảm cùng con Hoa Định là Hoa Khải, con Hướng Ninh là Hướng La sang ở làm tin với Tống Nguyên công. Tống Nguyên công cũng cho Thế tử Loan và người em là Công tử Địa sang ở làm tin với Hoa Hợi. Hoa Hợi mới tha cho Hướng Thắng và Hướng Hành theo Tống Nguyên công về triều. Tống Nguyên công và phu nhân nhớ Thế tử Loan lắm, ngày nào cũng đến nhà Hoa Hợi để thăm Thế tử Loan, ăn cơm xong mới về. Hoa Hợi lấy làm bất tiện, toan đưa Thế tử Loan sang trả, Tống Nguyên công mừng lắm. Hướng Ninh không nghe, bảo Hoa Hợi rằng: - Ta phải bắt Thế tử sang làm tin vì Chúa công không biết thủ tín, nếu ta trả Thế tử thì tai vạ tất đến nơi! Tống Nguyên công nghe tin Hoa Hợi lại không trả Thế tử Loan, tức thì nổi giận, sai quan Tư mã là Hoa Phí Toại đem quân đánh Hoa Hợi. Hoa Phí Toại nói: - Còn Thế tử ở đấy, sao Chúa công không nghĩ! Tống Nguyên công nói: - Chết sống đã có mệnh, ta không thế nào chịu được những điều sỉ nhục này! Hoa Phí Toại nói: - Chúa công đã nhất quyết thì có đâu tôi dám trái ý. Hoa Phí Toại liền sửa soạn quân mã để sang đánh Hoa Hợi. Tống Nguyên công đem những người của Hoa Hợi cho sang ở làm tin là Hoa Vô Cảm, Hoa Khải và Hướng La, đều chém tất cả. Con Hoa Phí Toại là Hoa Đăng quen thân với Hoa Hợi, liền chạy sang bảo Hoa Hợi. Hoa Hợi vội vàng sắp quân để nghênh chiến, nhưng lại bị thua. Hướng Ninh toan giết Thế tử Loan. Hoa Hợi nói: - Ta đã đắc tội với vua, nay lại còn giết Thế tử thì người ta tất nghị luận! Hoa Hợi đem những người làm tin giao trả, rồi cùng với đảng phái trốn sang nước Trần. Hoa Phí Toại có ba con: Con trưởng là Hoa Khu, con thứ là Hoa Đa Liêu, còn Hoa Đăng tức là con thứ ba. Hoa Đa Liêu vốn bất hòa với Hoa Khu, nhân cái loạn Hoa Hợi, mới tâu với Tống Nguyên công rằng: - Hoa Khu đồng mưu với Hoa Hợi và Hoa Đăng, nay sai người sang nước Trần triệu Hoa Hợi là có ý muốn làm nội ứng. Tống Nguyên công nghe lời, sai kẻ tự nhân là Nghi Liêu đi bảo Hoa Phí Toại. Hoa Phí Toại nói: - Việc này tất là tại Hoa Đa Liêu nói gièm, nhưng Chúa công đã nghi Hoa Khu thì xin đuổi đi. Kẻ gia thần của Hoa Khu là Trương Mang nghe được tin ấy, sang hỏi Nghi Liêu. Nghi Liêu không chịu nói. Trương Mang rút gươm ra mà bảo rằng: - Nếu nhà ngươi không nói thì ta đâm chết. Nghi Liêu sợ hãi, nói thực tất cả. Trương Mang về báo với Hoa Khu, xin giết Hoa Đa Liêu. Hoa Khu nói: - Một mình Hoa Đăng phải đi trốn đã đau lòng thân phụ lắm rồi, nay anh em ta lại tàn hại lẫn nhau thì còn ra thế nào, âu là ta chịu nhường mà tránh đi. Hoa Khu đi từ biệt với cha là Hoa Phí Toại, Trương Mang trông thấy hầm hầm nổi giận, chém chết Hoa Đa Liêu và hiếp Hoa Phí Toại cùng chạy ra ở Nam Lý. Lại sai người đến nước Trần triệu bọn Hoa Hợi về để cùng mưu phản. Tống Nguyên công sai Nhạc Đại Tâm làm đại tướng đem quân vây Nam Lý. Hoa Đăng lại sang mượn quân nước Sở. Sở Bình Vương sai Viễn Việt đem quân sang giúp họ Hoa. Ngũ Viên nghe tin quân Sở sắp đến, liền cùng Thế tử Kiến chạy sang nước Trịnh. Tấn Khoảnh công cũng đem quân chư hầu đến giúp Tống Nguyên công. Chư hầu không muốn giao chiến với Sở, liền khuyên Tống Nguyên công rút quân vây Nam Lý về, để thả cho bọn Hoa Hợi chạy sang nước Sở, rồi hai bên cùng nhau bãi binh. Bấy giờ quan Thượng khanh nước Trịnh là Công tôn Kiều mới mất. Trịnh Định công thương tiếc vô cùng, lại vốn biết Ngũ Viên là người tài giỏi. Vả nước Trịnh đang giao hiếu với Tấn mà cừu địch với Sở, vậy nên Trịnh Định công nghe tin Thế tử Kiến đến, lấy làm mừng lắm, sai người mời vào nhà quán xá và tiếp đãi một cách rất tử tế. Thế tử Kiến và Ngũ Viên mỗi lần vào yết kiến Trịnh Định công lại kể lể những nỗi oan tình, vừa nói vừa khóc. Trịnh Định công nói: - Nước Trịnh ta là nước nhỏ, quân ít, không làm gì được. Nhà ngươi muốn báo thù thì sao không bàn mưu với nước Tấn. Thế tử Kiến để Ngũ Viên ở lại nước Trịnh, rồi đi sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Khoảnh công. Tấn Khoảnh công hỏi hết đầu đuôi, cho ra ở nhà quán xá, rồi họp sáu quan khanh lại để thương nghị. Bọn sáu quan khanh ấy kể tên sau này: 1. Ngự Thư, 2. Hàn Bất Tín, 3. Triệu Ưởng, 4. Phạm Ưởng, 5. Tuân Di, 6. Tuân Lịch. Bấy giờ sáu quan khanh cầm quyền chính, không ai chịu kém ai, Tấn Khoảnh công nhu nhược, việc gì cũng không dám chuyên quyết, mà trong bọn sáu quan khanh, chỉ có Ngụy Thư và Hàn Bất Tín có tiếng là người hiền, còn 4 người kia toàn là những phường tham quyền cậy thế, nhất là Tuân Di lại hay ăn lễ lắm. Khi Công tôn Kiều còn cầm quyền chính nước Trịnh thì các quan khanh đều phải sợ cả; đến khi Du Cát thay Công tôn Kiều, Tuân Di nước Tấn mới đòi ăn lễ của Du Cát. Du Cát không theo, từ bấy giờ Tuân Di ghét nước Trịnh. Khi vào thương nghị, mật tâu với Tấn Khoảnh công rằng: - Nước Trịnh xưa nay vẫn không nhất định, lúc thì theo Tấn, lúc thì theo Sở. Nay Thế tử Kiến ở nước Trịnh, nước Trịnh tất tin lời. Nếu Thế tử Kiến chịu làm nội ứng cho ta, để đem quân sang đánh Trịnh thì khi đánh được Trịnh ta sẽ phong cho Thế tử Kiến, rồi sau này tìm cách diệt Sở, chẳng cũng nên lắm ru! Tấn Khoảnh công theo kế ấy, liền sai Tuân Du đến bảo Thế tử Kiến. Thế tử Kiến nhận lời, rồi từ biệt Tấn Khoảnh công trở về nước Trịnh bàn mưu với Ngũ Viên. Ngũ Viên can rằng: - Ngày xưa tướng nước Tần là Kỷ Tử và Dương Tôn cũng bàn mưu đánh nước Trịnh, đã chẳng được thành sự, lại không có chỗ mà dung thân. Người ta đang lấy điều trung tín mà đãi mình, sao mình lại nỡ hại người ta. Việc ấy tôi thiết tưởng không nên làm. Thế tử Kiến nói: - Ta đã nhận lời với vua tôi nước Tấn rồi! Ngũ Viên nói: - Ta không làm nội ứng cho Tấn, cũng chưa đến có tội gì; nếu muốn lập mưu lẻn đánh nước Trịnh thì tín nghĩa đều mất cả, còn ra thế nào! Thế tử làm việc này, tôi chắc rằng tai vạ sắp đến. Thế tử Kiến tham được nước Trịnh, mới không nghe lời can của Ngũ Viên, liền đem gia tài mộ riêng những quân vũ dũng, lại giao kết với các người hầu gần Trịnh Định công để dùng làm vây cánh. Tấn Khoảnh công mật sai người sang hẹn với Thế tử Kiến, nhưng chẳng ngờ việc tiết lộ ra, có người vào đầu thú với Trịnh Định công. Trịnh Định công cùng Du Cát thương nghị, triệu Thế tử Kiến vào uống rượu ở trong vườn, rồi cấm người hầu không được theo vào. Khi uống được mấy chén, Trịnh Định công hỏi Thế tử Kiến rằng: - Ta đây đem lòng tử tế mà dung nạp cho Thế tử, cớ sao Thế tử lại lập tâm định mưu hại ta như vậy? Thế tử Kiến nói: - Tôi có như thế bao giờ! Trịnh Định công gọi người đến đối chứng. Thế tử Kiến không thể chối được nữa. Trịnh Định công truyền cho kẻ lực sĩ bắt Thế tử Kiến đem mà giết đi, lại giết cả những người ăn tiền của Thế tử mà không đầu thú, cả thảy hơn 20 người. Ngũ Viên đang ở nhà quán xá, tự nhiên thấy rùng mình, mới nghĩ thầm rằng không khéo thì thế tử nguy mất! Được ít lâu, người theo hầu Thế tử Kiến trốn về nhà quán xá nói việc Thế tử Kiến bị giết. Ngũ Viên tức khắc cùng con Thế tử Kiến là Công tử Thắng thẳng đường tiến sang nước Ngô, nhưng sợ có quân Trịnh đuổi theo, vẫn phải ngày ẩn đêm đi, trăm cay nghìn đắng, không biết đâu mà kể! Đi qua được nước Trần, biết không phải là chỗ dung thân được, lại đi về phía đông trong mấy ngày nữa, sắp đến cửa Chiêu quan. Chỗ cửa Chiêu quan hai bên núi cả; ra khỏi cửa quan ấy có một con sông thông sang nước Ngô được. Mới rồi, nhân việc Ngũ Viên đi trốn, Sở Bình Vương sai quan Tư mã là Viễn Việt đóng quân ở đấy. Ngũ Viên đi đến Lịch Dương Sơn, chỉ cách cửa Chiêu quan độ 60 dặm mới ngần ngừ không dám đi vội, còn ẩn nấp trong rừng rậm. Bỗng gặp ông lão chống gậy đi tắt vào trong rừng. Ông lão ấy trông thấy Ngũ Viên, có ý lấy làm lạ, mới đến trước mặt mà vái chào. Ngũ Viên cũng chào lại. Ông lão già ấy nói: - Nhà ngươi có phải là Ngũ Viên đó không? Ngũ Viên giật mình kinh sợ mà đáp rằng: - Sao Ngài lại hỏi đến câu ấy? Ông già ấy nói: - Lão đây là học trò của ông Biển Thước, tên gọi Đông Cao Công lúc thuở trẻ lấy nghề làm thuốc mà du lịch khắp các nước, nay đã già cả, về nghỉ ở đây. Mấy năm trước quan Viễn Tướng quân (trỏ Viễn Việt) có bệnh, mời lão đến thăm, lão trông thấy trên cửa quan có treo bức tranh vẽ Ngũ Viên, giống nhà ngươi lắm, vậy lão hỏi. Nhà ngươi bất tất phải giấu, lão ở sau núi này, nhà ngươi quá bộ lại chơi, lão sẽ nói chuyện. Ngũ Viên biết không phải là người thường, mới cùng Công tử Thắng đi theo Đông Cao Công. Đi được vài dặm, có một cái nhà gianh. Đông Cao Công vái Ngũ Viên mời vào. Vào đến trong nhà Ngũ Viên sụp lạy hai lạy. Đông Cao Công vội vàng đáp lễ lại mà bảo rằng: - Chỗ này không phải là chỗ nhà ngươi ở đây được! Đông Cao Công lại đưa Ngũ Viên và Công tử Thắng đi về phía tây, vào cái cửa then nhỏ sang qua vườn trúc. Sau vườn có ba gian nhà đất, cửa bé bằng lỗ thủng cùng nhau chui vào. Trong nhà đất ấy có bày bàn ghế, hai bên khoét hai cái cửa sổ con, để cho ánh sáng chiếu vào. Đông Cao Công nhường cho Ngũ Viên ngồi trên. Ngũ Viên trỏ vào Công tử Thắng mà bảo rằng: - Có Tiểu chủ tôi ở đây, tôi xin đứng bên. Đông Cao Công hỏi là ai. Ngũ Viên nói: - Đây tức là con Thế tử Kiến nước Sở tên gọi Công tử Thắng, còn tôi chính thực là Ngũ Viên, thấy Ngài là người nhân đức, vậy không dám giấu. Vua Sở giết cha và anh tôi, làm thế nào tôi cũng phải báo thù, xin ngài chớ tiết lộ. Đông Cao Công mới mời Công tử Thắng ngồi trên, còn mình và Ngũ Viên mỗi người ngồi một bên. Đông Cao Công bảo Ngũ Viên rằng: - Lão đây chỉ biết cứu người, khi nào lại có lòng hại người. Giấu nhà ngươi ở đây một năm, hai năm cũng không ai biết, nhưng cửa Chiêu quan canh phòng nghiêm mật lắm, nhà ngươi làm thế nào mà đi qua được, tất phải nghĩ một kế gì cho được vạn toàn. Ngũ Viên quì xuống mà hỏi rằng: - Ngài có kế gì cứu thoát tôi được thì sau này tôi xin hậu tạ. Đông Cao Công nói: - Chỗ này hẻo lánh, không có ai biết, nhà ngươi cứ ở đây, rồi lão sẽ nghĩ một kế đưa nhà ngươi và Công tử đi qua cửa quan được. Ngũ Viên lạy tạ. Đông Cao Công ngày nào cũng làm rượu thết đãi. Đã được 7 ngày mà không nói gì đến kế đưa qua cửa quan cả. Ngũ Viên nói với Đông Cao Công rằng: - Trong lòng tôi đang nghĩ về việc báo thù, coi một khắc như một năm, nếu nấn ná mãi ở đây thì khác nào như kẻ chết rồi. Ngài đã là người cao nghĩa cũng nên thương tình đôi chút. Đông Cao Công nói: - Lão nghĩ đã kỹ lắm, nhưng còn đợi một người nữa đến đây! Ngũ Viên hồ nghi không quyết. Muốn từ giã Đông Cao Công để đi thì sợ không qua được cửa quan, thêm mắc tai vạ; muốn cố ở để đợi thì lại sợ trễ mất thời giờ, mà cũng chưa biết là đợi ai cả. Nghĩ quanh nghĩ quẩn, trằn trọc suốt đêm, không thể ngủ được, trong lòng đau đớn, khác nào dao đâm. Đang nằm vùng dậy chạy xung quanh nhà, chẳng ngờ trời đã sáng rõ. Đông Cao Công đẩy cửa bước vào, trông thấy Ngũ Viên, kinh sợ mà hỏi rằng: - Râu tóc nhà ngươi cớ sao mà khác hẳn đi làm vậy! Hay là vì nghĩ quá mà hóa như thế? Ngũ Viên không tin, cầm lấy gương soi thì ra râu tóc đã trắng xóa cả. Ngũ Viên mới ném cái gương xuống đất rồi nức nở mà khóc rằng: - Hai mái tóc đã bạc cả mà chẳng làm nên được một việc gì! Trời ôi là trời!.. Đông Cao Công nói: - Nhà ngươi chớ lấy làm buồn, đó là một cái triệu hay lắm! Ngũ Viên gạt nước mắt mà hỏi rằng: - Thế nào lại bảo là triệu hay? Đông Cao Công nói: - Nhà ngươi mặt mũi khôi ngô, người ta dễ nhận lắm, nay râu tóc trắng xóa, trông lạ hẳn đi, có thể che mắt được thiên hạ. Vả người bạn già của lão cũng đã tới nơi thì kế lão may ra thành được. Ngũ Viên hỏi: - Ngài định làm thế nào? Đông Cao Công nói: - Người bạn lão tên gọi Hoàng Phủ Nột, ở Long Động Sơn, cách đây 70 dặm. Người ấy mình cao 9 thước, mày rộng 8 tấc, trông dáng hơi giống nhà ngươi. Nay bảo hắn giả hình làm nhà ngươi mà nhà ngươi thì giả hình làm đứa theo hầu. Khi hắn bị bắt, chúng đang lao nhao rối rít thì nhà ngươi lẻn qua cửa quan được. Ngũ Viên nói: - Cái kế của ngài dẫu khéo, nhưng di lụy đến quí hữu thì tôi không đành lòng! Đông Cao Công nói: - Không hại gì cả, lão sẽ có cách giải cứu. Lão đã bàn kỹ với Hoàng Phủ Nột rồi. Ông ta là người khảng khái, đã nhận lời ngay, bất tất phải lo ngại. Đông Cao Công sai người mời Hoàng Phủ Nột vào để chào Ngũ Viên. Ngũ Viên trông thấy, quả nhiên giống mình thật, trong lòng mừng lắm. Đông Cao Công lại dùng một thứ thuốc để Ngũ Viên bôi mặt, làm cho khác hẳn đi. Khi trời đã nhá nhem tối, Đông Cao Công bảo Ngũ Viên cởi cái áo trắng đưa cho Hoàng Phủ Nột mặc, còn Ngũ Viên thì mặc áo cánh ngắn, giả làm người theo hầu. Công tử Thắng cũng ăn mặc như đứa trẻ con nhà quê. Ngũ Viên và Công tử Thắng sụp lạy Đông Cao Công bốn lạy và nói rằng: - Sau này nên việc thì quyết xin hậu tạ. Đông Cao Công nói: - Lão thương nhà ngươi bị oan, vậy nên muốn giúp, chứ có mong tạ làm gì! Đêm hôm ấy, Ngũ Viên cùng Công tử Thắng theo Hoàng Phủ Nột đi sang cửa Chiêu quan. Mờ mờ sáng hôm sau thì vừa đến nơi. Tướng nước Sở là Viễn Việt truyền cho quân sĩ canh phòng nghiêm mật. Phàm những người đi qua phải tra xét rất kỹ lưỡng. Trên cửa quan có treo một bức tranh Ngũ Viên để dễ đối chứng. Khi Hoàng Phủ Nột đến cửa quan, quân sĩ trông thấy hình dáng giống trong tranh lắm, mình mặc áo trắng, mà lại có ý sợ hãi, liền bắt giữ lại rồi phi báo với Viễn Việt. Viễn Việt cỡi ngựa ra xem, mới nhác trông thấy, đã bảo là "Chính phải rồi!", rồi truyền cho quân sĩ bắt lấy đem về, Hoàng Phủ Nột giả cách không biết chuyện gì, chỉ van lạy xin tha cho. Bấy giờ các quân sĩ và nhân dân ở xung quanh đấy nghe tin bắt được Ngũ Viên, đều nô nức kéo nhau đến xem. Ngũ Viên nhân lúc cửa quan mở rộng, cùng Công tử Thắng đi lẫn vào trong đám đông người, ăn mặc khác thường, râu tóc lại trắng xóa, vả lại ai cũng tưởng là Ngũ Viên đã bắt được rồi, không tra xét gì nữa, thành ra Ngũ Viên và Công tử Thắng đi thoát qua được. Viễn Việt đem Hoàng Phủ Nột ra tra hỏi, bắt làm tờ cung, để định giải về Dĩnh Đô. Hoàng Phủ Nột cãi rằng: - Tôi là ẩn sĩ ở Long Động Sơn, tên gọi Hoàng Phủ Nột, có hẹn với một người bạn là Đông Cao Công để cùng đi chơi, không dám làm điều gì trái phép cả, sao lại bắt trói thế này? Viễn Việt nghe tiếng Hoàng Phủ Nột nói, nghĩ thầm trong lòng rằng: - Ngũ Viên mắt sáng như điện, tiếng kêu như chuông. Người này hình dáng dẫu giống, nhưng tiếng nói hơi nhỏ, hay vì cớ giãi gió dầm sương mà thành ra thế chăng? Viễn Việt còn đang nghi hoặc thì nghe báo có Đông Cao Công vào yết kiến. Viễn Việt truyền đem Hoàng Phủ Nột giải đi một nơi, rồi mời Đông Cao Công vào. Đông Cao Công nói với Viễn Việt rằng: - Chúng tôi nhân đi chơi qua đây, nghe đồn tướng quân đã bắt được kẻ vong thần là Ngũ Viên, vậy tôi xin có lời mừng. Viễn Việt nói: - Quân sĩ có bắt được một người mặt giống Ngũ Viên, nhưng hắn chưa chịu thú nhận. Đông Cao Công nói: - Quan Tướng quân cùng cha con Ngũ Viên cùng làm quan một triều, có lẽ nào lại không nhận được rõ mặt hay sao? Viễn Việt nói: - Ngũ Viên mắt sáng như điện, tiếng kêu như chuông, người này mắt nhỏ mà tiếng bé. Ta ngờ là vì cớ khổ sở lâu ngày mà thành ra thế. Đông Cao Công nói: - Tôi cũng có biết mặt Ngũ Viên, xin cho tôi xem qua, sẽ rõ hư thực. Viễn Việt truyền giải Hoàng Phủ Nột đến. Hoàng Phủ Nột trông thấy Đông Cao Công, vội vàng gọi mà bảo rằng: - Ông hẹn tôi cùng đi chơi, sao không đến mau, để tôi phải chịu nhục thế này! Đông Cao Công nói với Viễn Việt rằng: - Tướng quân lầm rồi! Đây là người bạn tôi, tên gọi Hoàng Phủ Nột, có hẹn tôi cùng đi chơi, chờ nhau ở đây, chẳng ngờ hắn lại đi trước. Nếu Tướng quân không tin thì hiện tôi đã có tờ quá quan văn điệp này, sao Tướng quân lại vu cho là vong thần được. Đông Cao Công liền thò tay vào trong tay áo lấy tờ quá quan văn điệp ra đệ trình Viễn Việt. Viễn Việt có ý thẹn, đứng dậy cởi trói cho Hoàng Phủ Nột và rót một chén rượu mời uống mà bảo rằng: - Việc này là tại quân sĩ nó bắt lầm, xin ông chớ lấy làm lạ! Đông Cao Công nói: - Quan Tướng quân giữ phép triều đình như thế là phải, có việc gì mà lạ! Viễn Việt lại đem vàng lụa đưa tặng Đông Cao Công và Hoàng Phủ Nột. Hai người tạ ơn lui ra. Viễn Việt lại truyền cho quân sĩ phải canh giữ nghiêm mật như trước. Ngũ Viên qua được cửa Chiêu quan, trong lòng mừng thầm, thẳng đường đi mau. Đi được mấy dặm, bỗng gặp một người, Ngũ Viên nhìn xem ai thì tức là Tả Thành, hiện đang làm lính canh ở cửa Chiêu quan. Nguyên hắn là người ở đất Thành Phủ, khi trước đã có theo hầu cha con Ngũ Viên đi săn bắn, vậy nên nhận được rõ mặt lắm. Tả Thành trông thấy Ngũ Viên, kinh sợ mà hỏi rằng: - Triều đình đang tầm nã Ngài gấp lắm, sao ngài lại qua được cửa quan? Ngũ Viên nói: - Đại vương biết ta có một viên dạ minh châu, bắt ta phải đem nộp, nay viên dạ châu ấy về tay người khác, ta còn phải đi tìm. Mới rồi, ta đã bẩm mệnh quan Viễn Tướng quân (chỉ Viễn Việt), Ngài cho ta đi. Tả Thành không tin mà nói rằng: - Đại vương có truyền lệnh: Ai tha Ngài thì cả nhà bị chém. Vậy xin Ngài hãy cùng tôi trở về cửa quan, để tôi hỏi lại chủ tướng, rồi sau sẽ đi. Ngũ Viên nói: - Nếu bắt ta trở lại để hỏi chủ tướng thì ta nói là viên hạt châu ấy đã giao cho nhà ngươi, nhà ngươi khó lòng mà gỡ tội được. Chi bằng nhà ngươi làm ơn tha cho ta đi, lại thành ra tử tế. Tả Thành vốn biết Ngũ Viên là bậc anh hùng, không thể đương nổi, mới tha cho đi. Khi về đến cửa quan, cũng giấu kín chuyện ấy, không dám nói gì đến cả. Ngũ Viên đi mau một quãng nữa, trông thấy sông đại giang, mặt nước mông mênh, làn sóng cuồn cuộn, lại không có một chiếc thuyền bè nào. Ngũ Viên, mặt trước khổ về sông chắn, mặt sau khổ về quân theo, trong lòng đang bồn chồn về nỗi nguy cấp, bỗng thấy có một ông lão đánh cá ngồi chiếc thuyền nhỏ, bơi ngược dòng nước đi lên. Ngũ Viên mừng mà nói rằng: - Trời còn không nỡ hại ta! Nói xong, liền gọi ông lão đánh cá mà bảo rằng: - Cụ đánh cá ơi, cho tôi sang với! Cụ đánh cá ơi, mau mau cho tôi sang với! Ông lão đánh cá ấy toan ghé thuyền để đón, nhưng trông thấy trên bờ lại có người đi, mới lên tiếng mà hát rằng: "Kìa kìa bóng dâu (y-y-ý-a) đã xế ngang đầu.. Đôi ta hẹn nhau (y-y-ý-a) trong" bụi hoa lau! "Ngũ Viên nghe câu hát, hiểu ý, liền men vào bờ sông đi thẳng xuống bãi lau, nấp vào trong bụi hoa lau. Một lúc lâu, ông lão đánh cá ghé thuyền vào bờ, không trông thấy Ngũ Viên đâu cả, lại lên tiếng mà hát rằng:" Mặt trời đã xế (y-y-ý-a) lòng ta thường lo! Mặt trăng đã mọc (y-y-ý-a) sao không sang đò.. "Ngũ Viên và Công tử Thắng ở trong bụi hoa lau chui ra. Ông lão đánh cá vội vàng gọi xuống thuyền. Hai người xuống thuyền. Ông lão đánh cá cầm mái chèo, từ từ bơi đi. Một lúc sang tới bờ bên kia, ông lão đánh cá bảo Ngũ Viên rằng: - Đêm qua lão nằm mộng thấy sao tướng tinh rơi vào trong thuyền. Lão biết là có người lạ qua đây, vậy nên lão đón, tình cờ lại gặp nhà ngươi, nhà ngươi quyết không phải là người thường, nên nói thực cho lão biết. Ngũ Viên liền nói thực họ tên cho nghe. Ông lão đánh cá ái ngại thay mà bảo rằng: - Lão trông nét mặt nhà ngươi có ý đói, để lão đi lấy cơm cho ăn. Nhà ngươi hãy đợi đây một chút. Ông lão đánh cá liền buộc thuyền ở dưới gốc cây, để vào trong xóm lấy cơm ra cho Ngũ Viên và Công tử Thắng ăn. Ông lão đánh cá đi mãi không thấy đến. Ngũ Viên bảo Công tử Thắng rằng: - Lòng người khó dò lắm, chắc đâu là hắn không gọi người để bắt ta. Hai người lại cùng nhau nấp vào trong bụi hoa lau. Một lúc sau, ông lão đánh cá đem cơm canh cá thịt đến dưới gốc cây, không trông thấy Ngũ Viên đâu cả, mới gọi to lên rằng: - Người trong bụi lau ơi! Người trong bụi lau ơi! Lão có định hại nhà ngươi để cầu lợi đâu! Ngũ Viên ở trong bụi lau thưa mà đi ra. Ông lão đánh cá nói: - Lão biết nhà ngươi đói, đi lấy cơm cho ăn, sao nhà ngươi lại trốn? Ngũ Viên nói: - Tính mệnh tôi bây giờ ở trong tay Cụ! Tôi đang lúc lo nghĩ, trong lòng bàng hoàng, chứ cũng không phải là trốn. Ông lão đánh cá dọn cơm cho ăn. Ngũ Viên và Công tử Thắng ăn no rồi, lúc sắp đi, Ngũ Viên cởi thanh kiếm đưa cho ông lão đánh cá mà bảo rằng: - Thanh kiếm này là của Tiên vương ban cho. Ông cha tôi đeo thanh kiếm này đã 3 đời rồi. Giá đáng 100 nén vàng, xin để đền ơn cụ. Ông lão đánh cá cười mà bảo rằng: - Lão nghe nói vua Sở có treo giải: Ai bắt được Ngũ Viên cho thóc năm vạn thạch và tước thượng đại phu. Như thế lão còn chẳng ham, có lẽ nào lại tham cái thanh kiếm 100 nén vàng làm gì! Vả thanh kiếm này cần dùng cho nhà ngươi, chứ lão có dùng chi đến. Ngũ Viên nói: - Cụ đã không nhận thanh kiếm, xin cụ cho biết họ tên để sau này hậu tạ. Ông lão đánh cá nổi giận mà nói rằng: - Lão thấy nhà ngươi bị oan, vậy nên thương mà giúp nhà ngươi, nhà ngươi lại đem câu hậu tạ mà dử lão, thế thì sao gọi là trượng phu được! Ngũ Viên nói: - Cụ dẫu không mong báo, nhưng lòng tôi sao đành! Ngũ Viên lại cố nài cho ông lão đánh cá nói họ tên. Ông lão đánh cá bảo rằng: - Ngày nay gặp nhau đây, ngươi là kẻ mang tội đi trốn, lão là người tha kẻ có tội, còn hỏi họ tên làm gì! Huống chi lão kiếm ăn ở trên mặt nước, bèo trôi sóng dạt, dẫu hỏi họ tên, cũng không mấy khi đã gặp. Vạn nhất lòng trời xui khiến, lại được gặp nhau thì lão gọi nhà ngươi là" Người trong bụi lau ", nhà ngươi gọi lão là" Ông lão đánh cá", thế cũng là đủ! Ngũ Viên lạy tạ rồi đi. Đi được mấy bước, lại quay trở lại bảo ông lão đánh cá rằng: - Giả sử mặt sau có quân đuổi theo thì xin cụ đừng tiết lộ cho biết. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 73 Ngũ Viên giả dại, hát ở Ngô Thị Chuyên Chư dâng cá, đâm chết Vương Liêu Bấm để xem Ông lão đánh cá đã chở thuyền cho Ngũ Viên qua sông, lại dọn cơm cho ăn, mà không chịu nhận lấy thanh kiếm. Ngũ Viên đã đi, lại sợ có quân đuổi theo, liền quay trở lại, dặn ông lão đánh cá chớ tiết lộ cho ai biết. Ông lão đánh cá thở dài mà than rằng: - Lão làm ơn cho nhà ngươi mà nhà ngươi lại nghi lão. Giả sử có quân đuổi theo thì dẫu ai chở sang mặc lòng, lão cũng không thể nào mà giãi tỏ ra được. Thôi thì lão liều chết để cho nhà ngươi khỏi nghi. Ông lão đánh cá cởi dây buộc thuyền ra, quẳng cả mái chèo đi, rồi làm cho thuyền phải lật úp lại, chết đuối ở giữa dòng sông. Ngũ Viên thấy ông lão đánh cá chết đuối, cũng thở dài mà than rằng: - Thương hại thay! Tôi nhờ Cụ mà sống, Cụ vì tôi mà chết!.. Ngũ Viên và Công tử Thắng đi đến Phiên Dương, đói quá, phải xin ăn, gặp một người con gái đang ngồi giặt ở bến sông Lại Thủy, có đem theo một giỏ cơm. Ngũ Viên dừng chân đứng lại mà hỏi người con gái ấy rằng: - Bà có làm ơn cho tôi xin một bữa ăn được không? Người con gái ấy cúi đầu mà đáp lại rằng: - Thiếp ở nhà với mẹ, đã 30 năm nay chưa gả chồng, có đâu lại dám đem cơm cho một người khách lạ! Ngũ Viên nói: - Tôi gặp bước cùng khốn này, phải xin một bữa, Bà rủ lòng thương mà cho còn ngại nỗi gì! Người con gái ngẩng đầu trông thấy Ngũ Viên mặt mũi khôi ngô, liền bảo Ngũ Viên rằng: - Thiếp trông mặt nhà ngươi không phải là người thường, chẳng lẽ lại vì một điều nhỏ mọn mà để cho nhà ngươi phải đói khát hay sao? Người con gái liền mở giỏ cơm ra đưa cho Ngũ Viên. Ngũ Viên và Công tử Thắng chỉ ăn một ít mà thôi. Người con gái ấy nói: - Các ngươi còn phải đi xa, sao không ăn cho no! Hai người lại ngồi ăn hết cả. Lúc sắp đi, bảo người con gái rằng: - Bà rủ lòng thương mà cho ăn, không bao giờ dám quên ơn. Chúng tôi đây thật là bọn đi trốn, giả sử gặp người khác, xin Bà chớ tiết lộ. Người con gái có ý buồn rầu mà than rằng: - Mẹ góa con thơ, 30 năm nay thiếp vẫn một lòng trinh tiết, nào ngờ vì một giỏ cơm mà thành ra nói chuyện với đàn ông, còn gì là trinh tiết nữa! Thôi, các ngươi đi đi. Ngũ Viên từ biệt rồi đi. Đi được mấy bước, ngoảnh đầu trông lại, thấy người con gái ôm một viên đá lớn, rồi nhảy xuống sông tự tử. Ngũ Viên thương xót vô cùng, mới cắn đầu ngón tay, lấy máu viết 20 chữ lên trên một viên đá rằng: "Nàng ngồi giặt, ta đi xin. Ta bụng đói, nàng chết đuối. Sau mười năm nữa, báo ơn nghìn vàng.." Ngũ Viên viết xong, lại sợ người khác trông thấy, lấy đất lấp kín lại. Đi được hơn 300 dặm đến đất Ngô Xu. Trông thấy một người tráng sĩ trán dô, mắt sâu, dáng như hổ, tiếng to như sấm, đang đánh nhau với một người tráng sĩ khác, ai can cũng không được. Bỗng có một bà lão ở trong nhà bước ra, gọi mà bảo rằng: - Chuyên Chư! Không nên thế! Người tráng sĩ ấy có ý sợ hãi, rồi xuôi tay trở vào trong nhà. Ngũ Viên lấy làm lạ, hỏi người đứng bên rằng: - Tráng sĩ như thế kia mà sao lại sợ một người đàn bà! Người đứng bên nói: - Người ấy sức khỏe địch nổi muôn người, xưa nay không hề sợ ai cả; lại vốn là một người có nghĩa khí, thấy ai có sự bất bình, thường liều chết để cứu giúp. Bà lão đứng trong cửa mà gọi mới rồi, tức là mẹ người ấy đó. Chuyên Chư tức là họ tên người ấy đó. Người ấy có hiếu với mẹ lắm, dẫu đang giận đến đâu mà nghe mẹ bảo, cũng phải thôi ngay. Ngũ Viên khen rằng: - Thế mới thật là người giỏi! Hôm sau, Ngũ Viên tìm vào yết kiến Chuyên Chư, Chuyên Chư ra nghênh tiếp, hỏi lai lịch của Ngũ Viên. Ngũ Viên nói thật họ tên và kể hết những nông nỗi mình bị oan. Chuyên Chư nói: - Ngài bị cái oan to như thế, sao không tìm vào yết kiến vua Ngô để mượn quân báo thù. Ngũ Viên nói: - Vì chưa có người tiến dẫn. Chuyên Chư nói: - Hôm nay Ngài hạ cố tới đây, có định bảo tôi điều gì chăng? Ngũ Viên nói: - Tôi mến cái hiếu đức của Ngài, muốn cùng Ngài kết giao. Chuyên Chư mừng lắm, liền vào nói với mẹ, rồi cùng Ngũ Viên kết làm anh em. Ngũ Viên hơn Chuyên Chư hai tuổi, Chuyên Chư phải gọi bằng anh. Ngũ Viên lại vào bái kiến bà mẹ Chuyên Chư. Chuyên Chư cũng đem vợ con ra chào Ngũ Viên, rồi giết gà làm cơm ăn, vui vẻ như anh em ruột. Chuyên Chư lại mời Ngũ Viên và Công tử Thắng ngủ ở đấy một đêm. Ngày hôm sau. Ngũ Viên bảo Chuyên Chư rằng: - Anh xin từ giã em để vào kinh thành mà tìm cách đầu với vua Ngô. Chuyên Chư nói: - Vua Ngô là người vũ dũng mà kiêu ngạo, không bằng Công tử Quang biết thân người hiền, kính kẻ sĩ, sau này có cơ thành sự được. Ngũ Viên nói: - Em đã chỉ bảo, anh xin nhớ lời. Sau này có lúc dùng đến em, xin em chớ từ chối. Chuyên Chư nhận lời. Ngũ Viên và Công tử Thắng từ giã rồi đi. Đi đến đất Mai Lý. Chỗ ấy thành quách hẹp hòi, chợ búa lụp xụp, kẻ đi người lại, chẳng ai quen thuộc với mình, Ngũ Viên mới giấu Công tử Thắng ở ngoài cõi, rồi xõa tóc bôi mặt, giả cách điên cuồng, tay cầm ống tiêu, đến giữa chợ ngồi thổi để ăn xin những khách qua đường. Ngũ Viên cầm ống tiêu thổi một bài như sau này: "Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư! Tấm thân lưu lạc đến bao giờ!.. Trăm cay nghìn đắng, chứ thương thì thương.. Chưa báo thù được cho cha, dẫu sống cũng dư! Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư! Một đêm lo nghĩ đầu bạc phơ!.. Kinh hồn mất vía, chứ thương thì thương.. Chưa báo thù được cho anh, dẫu sống cũng dư! Ngũ Tử Tư! Ngũ Tử Tư! Hoa lau bụi nọ, bến sông kia!.. Liều chết cố sống, chứ thương thì thương.. Chưa báo thù được cho thân, dẫu sống cũng dư!.." Người trong chợ không ai hiểu gì cả. Lại nói chuyện Công tử Quang nước Ngô là con vua Ngô trước tên gọi Chư Phàn. Khi Chư Phàn chết, đáng lẽ Công tử Quang được lên nối ngôi, nhưng Chư Phàn vâng lời cha dặn, muốn truyền ngôi cho các em để theo thứ tự cho đến Quý Trát, bởi vậy Dư Sái và Di Muội (em Chư Phàn) được theo thứ tự lên làm vua. Đến khi Di Muội chết, Quý Trát không chịu nối ngôi, đáng lẽ lại lập con Chư Phàn mới phải, nhưng Vương Liêu (con Di Muội) có lòng tham, tự lập lên làm vua. Công tử Quang không phục, muốn giết Vương Liêu, ngặt vì trong bọn triều thần đều là đảng Vương Liêu cả, không biết bàn mưu với ai. Công tử Quang ẩn nhẫn trong lòng, tìm được một người xem tướng, tên gọi Bị Ly, cử cho làm chức coi giữ ở Ngô Thị, dặn phải tìm những kẻ hào kiệt. Một hôm, Ngũ Viên thổi ống tiêu đi qua Ngô Thị, Bị Ly thấy tiếng sầu thảm, mới lắng tai nghe, rồi chạy ra xem, kinh sợ mà nói rằng: - Tôi xem tướng người ta đã nhiều, chưa có ai lạ như Ngài! Bị Ly liền vái chào, mời ngồi lên trên. Ngũ Viên khiêm nhượng không dám ngồi. Bị Ly nói: - Tôi nghe tin nước Sở giết một người trung thần là Ngũ Xa, con là Ngũ Tử Tư trốn đi nước ngoài, chẳng hay Ngài có phải là Ngũ Tử Tư chăng? Ngũ Viên khúm núm chưa kịp trả lời, Bị Ly lại nói: - Tôi không phải là muốn làm hại Ngài, bởi tôi thấy Ngài tướng mạo kỳ dị, tôi muốn giúp cho Ngài được nên phú quí. Ngũ Viên mới nói thực tất cả. Người hầu Bị Ly, nghe được chuyện ấy, vào báo với Vương Liêu; Vương Liêu gọi Bị Ly đến, bắt phải đưa Ngũ Viên vào yết kiến. Bị Ly một mặt sai người báo riêng cho Công tử Quang biết; còn một mặt bảo Ngũ Viên tắm gội, thay áo để vào yết kiến Vương Liêu. Vương Liêu trông thấy mặt, có ý làm lạ, mới cùng Ngũ Viên nói chuyện, biết Ngũ Viên là người hiền, cho làm quan đại phu. Ngày hôm sau, Ngũ Viên vào lạy tạ, nói đến những sự cha và anh mình bị oan, nghiến răng nghiến lợi, hai mắt quắc lên như nẩy lửa ra. Vương Liêu khen là người có khí khái, mới nhủ lòng thương, nhận giúp cho để báo thù. Công tử Quang vốn biết tiếng Ngũ Viên là người trí dũng, có ý muốn dùng, nghe nói Ngũ Viên vào yết kiến Vương Liêu, sợ Vương Liêu dùng mất, liền vào nói với Vương Liêu rằng: - Tôi nghe nói kẻ vong thần nước Sở là Ngũ Viên chạy sang nước ta, Đại vương cho là người thế nào? Vương Liêu nói: - Ngũ Viên là người hiền mà có hiếu. Công tử Quang nói: - Đại vương thấy thế nào mà biết là hiền và hiếu? Vương Liêu nói: - Ngũ Viên vũ dũng khác thường, cùng với ta bàn việc nước, đều hợp lẽ cả, thế tức là hiền; nghĩ đến tình oan của cha và anh mà không lúc nào dám quên, có nói với ta xin mượn quân để báo thù, thế tức là hiếu. Công tử Quang nói: - Đại vương có nhận lời cho mượn quân hay không? Vương Liêu nói: - Ta thương tình hắn, đã nhận lời cho rồi! Công tử Quang can rằng: - Xưa nay ông vua một nước lớn, không vì kẻ thất phu mà cất quân bao giờ! Nước ta đã nhiều phen giao chiến với Sở mà chưa được lần nào đại thắng; nếu giúp quân cho Ngũ Viên, chẳng hóa ra coi một kẻ thất phu trọng hơn điều quốc si hay sao! Được thì kẻ kia hả dạ, thua thì quân ta thêm nhục, việc này quyết không nên! Vương Liêu lấy làm phải, liền bãi cái nghị định đánh Sở. Ngũ Viên nghe tin Công tử Quang can Vương Liêu như vậy, mới phàn nàn rằng: - Công tử Quang đang có ý muốn nổi loạn, còn nói chuyện giúp ai được nữa! Ngũ Viên xin từ chức đại phu. Công tử Quang lại nói với Vương Liêu rằng: - Ngũ Viên thấy Đại vương không chịu cất quân mà xin từ chức đại phu, thế là có ý oán giận. Đại vương không nên dùng. Vương Liêu mới không dùng Ngũ Viên nữa, chỉ cấp cho 100 mẫu ruộng ở Dương Sơn. Ngũ Viên và Công tử Thắng cùng nhau về cày ruộng ở Dương Sơn. Công tử Quang liền tìm đến yết kiến Ngũ Viên và giúp cho thóc lụa, lại hỏi Ngũ Viên rằng: - Nhà ngươi đi lại trong nước Ngô và nước Sở, có gặp người nào tài giỏi như nhà ngươi nữa không? Ngũ Viên nói: - Tôi thì ra gì mà kể, nhưng tôi có gặp Chuyên Chư, thật là một người tài giỏi! Công tử Quang nói: - Ta muốn nhờ nhà ngươi mà giao kết với Chuyên Chư có được không? Ngũ Viên nói: - Chuyên Chư ở cách đây cũng không xa lắm, xin cho triệu đến, chỉ ngày mai thì tới nơi. Công tử Quang nói: - Đã là một người tài giỏi thì ta xin đến tận nơi mà mời, khi nào dám sai người triệu. Công tử Quang nói xong, liền cùng với Ngũ Viên đi xe đến nhà Chuyên Chư. Chuyên Chư đang ngồi mài dao ở ngoài phố, để sắp đi làm thịt lợn cho người ta, trông thấy ngựa xe rộn rịp, đã toan chạy trốn. Ngũ Viên ngồi trên xe gọi mà bảo rằng: - Anh đây mà!.. Chuyên Chư vội vàng dừng tay mài dao lại, chờ xe Ngũ Viên đến. Ngũ Viên xuống xe chào Chuyên Chư, lại chỉ Công tử Quang mà bảo Chuyên Chư rằng: - Đây là một vị trưởng Công tử ở nước Ngô, mến yêu cái tài giỏi của em, muốn đến yết kiến, em chớ nên từ chối. Chuyên Chư nói với Công tử Quang rằng: - Tôi là một kẻ hèn mọn, có tài gì mà làm phiền lòng Công tử. Chuyên Chư vái chào Công tử Quang mà mời vào. Nhà tranh cửa túp, phải cúi đầu mới vào được. Công tử Quang vái chào Chuyên Chư và giải tỏ tấm lòng kính mến. Chuyên Chư đáp lễ lại. Công tử Quang đưa biếu các đồ vàng bạc. Chuyên Chư nhất định từ chối. Ngũ Viên ở bên cạnh cố khuyên mãi, Chuyên Chư mới chịu nhận. Từ bấy giờ Chuyên Chư thành ra người của Công tử Quang. Công tử Quang ngày nào cũng sai người đưa cho gạo thịt, mỗi tháng lại cấp vải lụa cho, và thỉnh thoảng đến hỏi thăm bà mẹ Chuyên Chư. Chuyên Chư cảm phục cái lòng tử tế ấy, một hôm hỏi Công tử Quang rằng: - Tôi là một kẻ hèn mọn ở chốn thôn dã, đội ơn Công tử chu cấp cho, không biết lấy chi báo đáp. Sau này Công tử có sai việc gì tôi xin hết sức! Công tử Quang liền đuổi hết người xung quanh mà giải tỏ cái ý muốn đâm chết Vương Liêu. Chuyên Chư nói: - Vua trước là Dư Sái mất thì con là Vương Liêu đáng được nối ngôi, cớ sao Công tử lại muốn giết? Công tử Quang thuật lại di mệnh của tổ phụ xưa và bảo Chuyên Chư rằng: - Quý Trát đã không chịu nhận ngôi thì phải trả lui người con đích trưởng. Người con đích trưởng tức là ta đây, chứ sao Vương Liêu lại nối ngôi được. Ta đây sức yếu không làm gì nổi, muốn nhờ tay nhà ngươi. Chuyên Chư nói: - Sao không sai một người cận thần nhân lúc thong thả nói cho Vương Liêu nghe, thuật lại những lời di mệnh của vua trước, khiến cho Vương Liêu phải thoái vị, cần gì mà dùng đến kiếm sĩ cho tổn thương hòa khí trong nhà. Công tử Quang nói: - Vương Liêu là người tham cậy khỏe, chỉ biết lợi chứ không biết nghĩa, nếu nói với hắn thì lại thêm hại mình. Ta cùng với Vương Liêu không thể cùng đứng được. Chuyên Chư hăng hái mà đáp rằng: - Công tử nói phải lắm! Nhưng tôi còn có lão mẫu, chưa dám liều chết. Công tử Quang nói: - Ta cũng biết nhà ngươi mẹ già con thơ, nhưng trừ phi nhà ngươi thì không ai giúp ta được việc ấy. Nếu thành sự thì mẹ già và con thơ của nhà ngươi tức là mẹ già và con thơ của ta, ta xin hết lòng cấp dưỡng, không dám phụ ơn nhà ngươi. Chuyên Chư ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp lại rằng: - Muốn làm việc gì cũng tất phải nghĩ cho kỹ thì mới vạn toàn được. Con cá ở dưới vực sâu mà vào trong tay người đánh cá là vì có cái mồi thơm, nay muốn đâm chết Vương Liêu, tất phải tìm xem Vương Liêu sở thích cái gì để mà tiến dâng thì mới đến gần được. Chẳng hay Vương Liêu sở thích cái gì? Công tử Quang nói: - Vương Liêu chỉ thích ăn. Chuyên Chư nói: - Trong các món ăn thì món nào thích hơn cả? Công tử Quang nói: - Thích nhất là món cá nướng. Chuyên Chư nói: - Nếu vậy thì tôi xin từ giã Ngài một độ. Công tử Quang nói: - Nhà ngươi định đi đâu? Chuyên Chư nói: - Tôi xin đi học làm món ăn, mới có cơ đến gần Vương Liêu được. Chuyên Chư đi sang Thái Hồ để học nướng cá. Nướng cá trong ba tháng ai ăn cũng lấy làm ngon. Khi Chuyên Chư đã học được nghề nướng cá rồi, lại về yết kiến Công tử Quang. Công tử Quang giấu kín Chuyên Chư ở trong phủ và gọi Ngũ Viên đến mà bảo rằng: - Chuyên Chư đã học được nghề nướng cá rồi, làm thế nào mà đến gần Vương Liêu được. Ngũ Viên nói: - Ta không trị nổi chim hồng và chim hộc là vì nó có lông cánh, vậy muốn trị chim hồng và chim hộc thì tất phải cắt lông cánh nó trước. Tôi nghe nói con Vương Liêu là Công tử Khánh Kỵ mình cứng như sắt, sức địch muôn người, tay vồ được giống chim đang bay, chân đá được giống thú rất mạnh. Vương Liêu đã được một Khánh Kỵ lúc nào cũng đi liền bên cạnh, ta khó làm gì nổi; huống chi lại còn hai em là Yểm Dư và Chúc Dung đều là người tài giỏi, lại đang giữ binh quyền, thế thì bây giờ muốn giết Vương Liêu, phải trừ bỏ ba người ấy trước. Nếu không trừ bỏ ba người ấy thì dẫu may ra có thành sự nữa, Công tử cũng không yên mà nối ngôi được. Công tử Quang ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Ngũ Viên rằng: - Nhà ngươi nghĩ phải lắm! Thôi thì nhà ngươi hãy về làm ruộng, đợi có dịp nào, ta sẽ thương nghị. Ngũ Viên cáo từ lui ra. Năm ấy vua Cảnh Vương nhà Chu mất. Người đích tử đã được làm thái tử, tên là Mãnh, người thứ tử tên là Mang, còn người thứ tử mà lớn tuổi hơn cả tên là Triều. Chu Cảnh Vương yêu Vương tử Triều lắm, dặn quan Đại phu là Tân Mạnh, muốn cho Vương tử Triều làm thái tử, nhưng chưa kịp cho thì mất. Lưu Chí cũng chết, con là Lưu Quyển vốn có hiềm khích với Tân Mạnh, liền cùng Đan Kỳ giết Tân Mạnh, rồi lập Thái tử Mãnh, tức là Chu Điệu Vương. Doãn Cố, Cam Du và Thiệu Hoán đều là vây cánh Vương tử Triều, mới cùng nhau họp quân, sai quan Thượng tướng là Nam Cung Cực đến đánh Lưu Quyển. Lưu Quyển bỏ chạy sang đất Dương. Đan Kỳ phụng Thái tử Mãnh đóng ở đất Hoàng. Vương tử Triều sai Tầm Miện đem quân sang đánh. Tầm Miện thua, chết. Tấn Khoảnh công nghe nói nhà Chu biến loạn, sai quan đại phu là Tịch Đàm và Tuân Lịch đem quân sang lập Thế tử Mãnh, đóng ở Vương Thành. Doãn Cố cũng lập Vương tử Triều ở kinh sư. Chưa được bao lâu, Thái tử Mãnh ốm chết, Đan Kỳ và Lưu Quyển lại lập người em là Vương tử Mang, tức là Chu Kính Vương, đóng ở Địch Toàn. Người nhà Chu gọi Vương tử Mang là Đông Vương, gọi Vương tử Triều là Tây Vương. Hai bên cùng chống cự nhau, đã sáu năm chưa thôi. Thiệu Hoán chết. Nam Cung Cực cũng bị sét đánh mà chết. Quan Đại phu nước Tấn là Tuân Lịch lại đem quân chư hầu sang giúp Chu Kính Vương, đưa về kinh sư, bắt Doãn Cố. Vương tử Triều vỡ quân. Con Thiệu Hoán là Thiệu Ngân đem quân đánh Vương tử Triều. Vương tử Triều bỏ chạy sang nước Sở. Các nước chư hầu đắp thành hộ cho nhà Chu, rồi rút quân về. Chu Kính Vương cho Thiệu Ngân là người phản phúc, bắt đem ra cùng chém với Doãn Cố. Người nhà Chu đều lấy làm sướng. Bấy giờ người mẹ Thế tử Kiến nước Sở đang ở đất Vấn Dương, Phí Vô Cực sợ làm nội ứng cho Ngũ Viên, mới xui Sở Bình Vương giết đi. Người mẹ Thế tử Kiến nghe tin, mật sai người sang cầu cứu với vua Ngô là Vương Liêu. Vương Liêu sai Công tử Quang đem quân sang đất Vấn Dương để đem người mẹ Thế tử Kiến về nước Ngô. Công tử Quang đi đến đất Chung Ly, tướng nước Sở là Viễn Việt đem quân ra chống cự và sai người phi báo cho Sở Bình Vương biết. Sở Bình Vương cho quan Lệnh doãn là Dương Mang làm đại tướng, lại đòi lấy quân sáu nước là Trần, Sái, Hồ, Thẩm, Đốn và Hứa. Vua Hồ tên là Khôn, vua Thẩm tên là Sính, thân hành đem quân đến. Trần sai quan Đại phu là Hạ Khiết đến. Nước Đốn, nước Hứa, nước Sái cũng sai quan đại phu đến. Quân Hồ, Thẩm, Trần đóng ở phía hữu. Quân Đốn, Hứa, Sái đóng ở phía tả. Còn đại binh của Viễn Việt đóng ở giữa. Công tử Quang nghe tin, sai người phi báo với Vương Liêu. Vương Liêu cùng Công tử Yểm Dư (em Vương Liêu) đem đại binh đến đóng ở đất Kê Phủ (đất nước Sở). Gặp bấy giờ quan Lệnh Doãn nước Sở là Dương Mang ngộ cảm mà chết, Viễn Việt thay làm đại tướng, Công tử Quang mới nói với Vương Liêu rằng: - Nước Sở mất quan đại tướng thì quân sĩ đã ngã lòng rồi! Chư hầu theo Sở dẫu nhiều, nhưng đều là sợ thế mà theo, chứ không phải thực lòng. Vua Hồ và vua Thẩm không quen việc chiến tranh; Hạ Khiết nước Trần là người vũ dũng mà không có mưu gì; còn nước Đốn, nước Hứa và Sái xưa nay vẫn bị nước Sở ức hiếp, trong lòng không phục, khi nào chịu ra công. Nay ta đem quân đánh Hồ, Thẩm và Trần thì mấy nước ấy phải vỡ chạy trước; mấy nước ấy đã vỡ chạy thì đại binh nước Sở tất kinh sợ mà phải thua. Xin Đại vương cho quân già yếu ra trước để dụ Sở, còn quân cường tráng thì phục ở phía sau. Vương Liêu theo kế ấy, chia quân làm ba đạo: Công tử Quang ở phía hữu; Công tử Yểm Dư ở phía tả; còn mình đem đại binh đi ở giữa. Trước hết hãy sai 3000 tội nhân xông vào hữu dinh quân Sở. Bấy giờ đang ngày hối tháng 7 mùa thu. Theo phép binh gia thì phải kiêng ngày, vậy nên vua Hồ, vua Thẩm và Hạ Khiết nước Trần đều không phòng bị, bỗng nghe quân Ngô kéo đến, liền mở cửa dinh ra đánh. Bọn tội nhân nước Ngô không có kỷ luật nào cả, đứa chạy đứa đứng. Quân Sở tranh nhau đuổi bắt, cũng thành ra chẳng có hàng ngũ nào. Công tử Quang ở phía hữu thừa cơ tiến đánh, đâm chết Hạ Khiết ở dưới chân ngựa. Vua Hồ, vua Thẩm sợ hãi bỏ chạy cũng bị Công tử Yểm Dư bắt được. Quân Sở chết hại rất nhiều, còn giáp sĩ bị bắt sống hơn 800 người. Công tử Quang truyền đem vua Hồ và vua Thẩm ra chém, rồi tha bọn giáp sĩ về, để báo cho tả dinh quân Sở biết rằng vua Hồ, vua Thẩm và Hạ Khiết nước Trần đều bị giết cả rồi. Quân nước Đốn, nước Hứa và nước Sái sợ hãi, cùng nhau chạy trốn. Vương Liêu và hai đạo quân tả hữu cùng tiến vào. Đại tướng nước Sở Viễn Việt chưa kịp bày trận, quân sĩ đã trốn mất quá nửa. Quân Ngô ở phía sau xông đến, giết được nhiều lắm, người chết như rạ, máu chảy thành suối. Viễn Việt thua to, chạy thẳng một mạch 50 dặm đường. Công tử Quang vào đất Vấn Dương, đem người mẹ Thế tử Kiến đưa về nước Ngô. Viễn Việt nghe tin, lại đem quân sang Vấn Dương thì quân Ngô đã rút về từ bao giờ rồi. Viễn Việt biết cơ không đuổi theo được, mới thở dài mà than rằng: - Ta phụng mệnh vua Sở ra giữ cửa Chiêu quan mà để cho Ngũ Viên trốn thoát được, thế là vô công; nay đã làm vỡ quân 7 nước, lại để mất bà mẹ Thế tử Kiến, thế là có hai tội. Vô công mà có hai tội thì còn mặt mũi nào trông thấy vua Sở nữa. Viễn Việt nói xong, thắt cổ mà chết. Sở Bình Vương nghe tin quân Ngô mạnh thế lắm, trong lòng lo sợ, mới cho Nang Ngõa thay Dương Mang làm lệnh doãn. Nang Ngõa hiến kế, bảo Dĩnh Thành thấp hẹp, lại mở đất ở phía đông, đắp thêm một cái thành lớn, cao hơn thành cũ 7 thước và rộng thêm 20 dặm. Gọi tên cái thành cũ là Kỷ Nam Thành, vì ở sau núi Kỷ Sơn; còn thành mới gọi tên là Dĩnh Thành. Thiên đô sang đóng ở đấy. Lại đắp một cái thành về phía tây để làm cánh tay hữu, gọi tên là Mạch Thành. Ba thành theo hình chữ Phẩm liên lạc với nhau. Người nước Sở ai cũng khen cái công của Nang Ngõa. Thẩm Doãn Thú cười mà nói rằng: - Tử Thường (tên tự của Nang Ngõa) không nghĩ gì đến đức chính mà chỉ chăm việc đắp thành. Nếu quân Ngô kéo đến thì dẫu mười Dĩnh Thành cũng không giữ nổi! Nang Ngõa muốn báo thù trận Kê Phủ, mới hết sức sửa sang thuyền bè và luyện tập quân thủy. Trong ba tháng, quân thủy đã thành thuộc rồi, Nang Ngõa theo sông Đại Giang tiến sang địa giới nước Ngô. Công tử Quang nước Ngô nghe tin quân Sở kéo đến, vội vàng ra nghênh chiến thì Nang Ngõa đã rút quân về rồi. Công tử Quang nói: - Quân Sở vừa mới rút về, tất không phòng bị. Công tử Quang lẻn sang đánh ấp Sào, diệt được ấp Sào, lại diệt cả ấp Chung Ly nữa, rồi rút quân về. Sở Bình Vương nghe tin hai ấp bị diệt, giật mình kinh sợ, thành ra ốm nặng, mới triệu Nang Ngõa và Công tử Thân (tên tự là Tử Tây, là thứ trưởng tử của Sở Bình Vương) đến cạnh giường nằm mà đem Thế tử Trân ủy thác cho hai người ấy. Dặn xong thì mất. Nang Ngõa bàn riêng với Bá Khước Uyển rằng: - Thế tử Trân tuổi hãy còn nhỏ. Và người mẹ đáng lẽ là vợ Thế tử Kiến, không phải chính đích. Tử Tây (tức là Công tử Thân) đã lớn tuổi mà lại có đức hạnh, nếu lập Tử Tây thì nước Sở mới có cơ cường thịnh được! Bá Khước Uyển đem lời nói Nang Ngõa kể với Công tử Thân. Công tử Thân nổi giận mà nói rằng: - Nếu bỏ Thế tử Trân, tức là tỏ sự xấu của Đại vương ta trước. Mẹ Thế tử Trân là con gái nước Tần, hiện đã lập làm phu nhân, nếu bỏ Thế tử Trân thì mất lòng một nước lớn ở ngoài. Trong ngoài cùng oán cả, có phải quan Lệnh doãn làm hại ta không! Sao lại rồ dại như thế! Nếu còn nói đến việc ấy nữa thì tất phải giết chết Nang Ngõa. Nang Ngõa sợ, mới lập Thế tử Trân lên nối ngôi, cải tên là Chẩn, tức là Sở Chiêu Vương. Nang Ngõa vẫn làm lệnh doãn. Bá Khước Uyển làm tả doãn. Yên Tương Sư làm hữu doãn, Phí Vô Cực vì cái ơn trước làm sư phó nay cũng được cầm quyền chính. Trịnh Định công nghe nói người nước Ngô đem mẹ Thế tử Kiến về, mới sai người đem các đồ châu ngọc sang tiễn tống, để giải cái thù khi trước giết Thế tử Kiến. Mẹ Thế tử Kiến đến nước Ngô. Vương Liêu cho ở ngoài Tây môn, sai Công tử Thắng (con Thế tử Kiến) phụng dưỡng. Ngũ Viên nghe tin Sở Bình Vương chết, vật mình lăn khóc cả ngày không thôi. Công tử Quang lấy làm lạ mà hỏi rằng: - Vua Sở là kẻ thù với nhà ngươi, nhà ngươi nghe tin chết nên lấy làm mừng, cớ sao lại khóc. Ngũ Viên nói: - Tôi khóc không phải là thương vua Sở, tôi tiếc rằng không được bêu đầu hắn để cho hả tấm lòng căm tức của tôi! Ngũ Viên nghĩ giận về việc không được bêu đầu Sở Bình Vương, suốt ba đêm không ngủ, tìm được một kế, liền nói với Công tử Quang rằng: - Công tử muốn khởi sự, còn chưa được dịp hay sao! Công tử Quang nói: - Ta nghĩ ngày nghĩ đêm mà chưa có dịp nào. Ngũ Viên nói: - Nay vua Sở mới chết, trong triều nước Sở không có ai là người tài giỏi cả, sao Công tử không tâu với Vương Liêu đem quân sang đánh. Công tử Quang nói: - Giả sử Vương Liêu lại sai ta đi thì biết làm thế nào? Ngũ Viên nói: - Công tử giả cách ngã xe đau chân thì tất Vương Liêu không khi nào có sai đến. Bấy giờ sẽ tiến dẫn Công tử Yểm Dư và Công tử Chúc Dung làm tướng; lại sai Công tử Khánh Kỵ đi mượn quân Trịnh, Vệ để cùng đánh Sở. Thế là một lượt mà trừ được ba kẻ vây cánh của Vương Liêu. Vương Liêu thực sắp đến ngày tận số! Công tử Quang lại hỏi rằng: - Ba đứa ấy dẫu đi rồi, nhưng còn Quý Trát ở trong triều. Quý Trát thấy ta cướp ngôi, khi nào chịu để yên. - Nay Ngô và Tấn đang giao hiếu với nhau, Công tử tâu với Vương Liêu sai Quý Trát sang sứ nước Tấn, để dò xét tình hình trong Trung Nguyên. Vương Liêu là người hay kiêu ngạo mà không có mưu trí, tất nhiên nghe lời. Khi Quý Trát đi sứ về thì chuyện đã xong rồi, còn nói gì được nữa! Công tử Quang sụp lạy Ngũ Viên mà nói rằng: - Ta được nhà ngươi thật là trời giúp! Ngày hôm sau, Công tử Quang vào tâu với Vương Liêu. Vương Liêu hớn hở mà theo lời. Công tử Quang nói: - Việc này đáng lẽ tôi xin ra sức, nhưng ngặt vì ngã xe, thành ra đau chân, đang phải chữa thuốc, không thể đi được. Vương Liêu nói: - Thế thì ta biết sai ai bây giờ? Công tử Quang nói: - Việc này là một việc lớn, không phải người rất thân, không thể ủy thác được. Xin Đại vương phải chọn cho kỹ. Vương Liêu nói: - Yểm Dư và Chúc Dung có nên không? Công tử Quang nói: - Tất phải sai những người ấy thì mới được việc! Công tử Quang lại nói: - Xưa nay Tấn và Sở tranh nhau làm bá chủ, nước Ngô ta vẫn là thuộc quốc, bây giờ Tấn đã suy rồi, mà Sở lại thua luôn, chư hầu đều có lòng ly tán, chưa biết về tay ai, ta nên sai Công tử Khánh Kỵ sang mượn quân Trịnh, Vệ để cùng đánh Sở, rồi lại sai Quý Trát sang sứ nước Tấn để dò xét xem tình hình trong Trung Nguyên thế nào, còn Đại vương thì luyện tập quân thủy, phòng khi dùng đến, chắc có thể tranh được nghiệp bá chủ! Vương Liêu mừng lắm, sai Yểm Dư và Chúc Dung đem quân đi đánh Sở, và sai Quý Trát sang sứ nước Tấn. Còn Công tử Khánh Kỵ không sai đi. Yểm Dư và Chúc Dung đem hai vạn quân sang vây Ấp Tiềm của Sở. Quan thủ ở Ấp Tiềm giữ thế thủ không ra đánh, rồi sai người cáo cấp với Sở Chiêu Vương. Bấy giờ Sở Chiêu Vương mới lên làm vua, hãy còn ít tuổi, nghe tin quân Ngô vây Ấp Tiềm, hoảng hốt kinh sợ. Công tử Thân nói với Sở Chiêu Vương rằng: - Người nước Ngô nhân khi ta có tang mà đem quân sang đánh, ta nên cho những quân già yếu ra nghênh chiến, để cho hắn khinh thường mà tiến vào; rồi sai quan Tả tư mã là Thẩm Doãn Thú đem một vạn quân bộ sang cứu Ấp Tiềm; lại sai Tả Doãn là Bá Khước Uyển đem một vạn quân thủy đi chẹn phía sau quân Ngô. Như thế thì ta có thể phá vỡ quân Ngô được. Sở Chiêu Vương mừng lắm, liền sai Thẩm Doãn Thú và Bá Khước Uyển đem quân đi. Yểm Dư và Chúc Dung đang vây Ấp Tiềm, nghe tin có quân Sở đến cứu, giật mình kinh sợ, chia quân làm hai đạo: Một nửa vây thành, còn một nửa ra nghênh chiến. Thẩm Doãn Thú không đánh, sai quân đem đá lấp hết các đường để cho quân Ngô không có lối mà kiếm củi và lấy nước. Bá Khước Uyển đem quân thủy chẹn các cửa sông. Quân Ngô tiến thoái đều khó cả, mới phải đóng làm hai đồn, để nương tựa nhau mà ra sức chống giữ với quân Sở, còn một mặt sai người về cáo cấp cùng Vương Liêu. Công tử Quang nói với Vương Liêu rằng: - Khi trước tôi muốn mượn quân Trịnh và Vệ, chính vì cớ ấy. Bây giờ sai ngay Công tử Khánh Kỵ đi, tưởng cũng chưa chậm. Vương Liêu sai Khánh Kỵ đi mượn quân Trịnh. Ngũ Viên bảo Công tử Quang rằng: - Công tử có thanh kiếm trủy thủ đó không? Muốn dùng Chuyên Chư, chính là lúc này! Công tử Quang nói: - Phải đó! Ngày xưa vua nước Việt là Doãn Thường sai Âu Giã Tử làm năm thanh kiếm, đem ba thanh sang dâng nước Ngô ta, một là Trạm Lư, hai là Bàn Đỉnh, ba là Ngư Trường. Ngư Trường tức là thanh kiếm trủy thủ vậy. Hình nó dẫu bé nhỏ mà sắc lắm, cắt vào sắt như cắt bùn. Tiên vương ban cho ta, ta vẫn lấy làm quí báu, giấu ở đầu giường để phòng khi nguy cấp. Thanh kiếm ấy mấy đêm nay cứ sáng rực lên, ý chừng cái của thần vật ấy nó muốn uống máu Vương Liêu đó chăng! Công tử Quang đem thanh kiếm trủy thủ ra đưa cho Ngũ Viên xem. Ngũ Viên ngợi khen một lúc lâu, rồi gọi Chuyên Chư đến, đưa thanh kiếm ấy cho. Chuyên Chư không đợi phải bảo, đã hiểu ý ngay, khảng khái mà đáp rằng: - Vương Liêu ngày nay thật là nên giết, hai em và Công tử đều đi xa cả; kẻ kia thế cô, làm gì ta nổi! Nhưng việc liều chết này tôi không dám tự chủ, xin về nói lại với mẹ già tôi đã, rồi mới dám vâng mệnh. Chuyên Chư về nhà, trông thấy người mẹ, chưa nói đã khóc. Người mẹ nói: - Chuyên Chư con ôi, sao con buồn rầu như vậy! Hay là Công tử định dùng con đó chăng? Cả nhà ta chịu ơn Công tử đã nhiều, chưa biết lấy chi báo đáp. Trung hiếu sao cho trọn cả đôi đường. Con cứ đi đi, chớ có vì mẹ mà ngần ngại. Con giúp nên việc cho Công tử để danh tiếng về đời sau thì mẹ đây dẫu chết cũng được vui lòng! Chuyên Chư cứ quyến luyến mãi không nỡ bỏ đi. Người mẹ nói: - Mẹ muốn uống một hớp nước suối thật trong, con hãy đi lấy cho mẹ uống. Chuyên Chư vội vàng xuống suối lấy nước. Khi trở về nhà, không trông thấy mẹ đâu cả, mới hỏi người vợ. Người vợ nói: - Mới rồi tôi thấy mẹ kêu nhọc mệt, muốn vào buồng nằm nghỉ, dặn tôi chớ có làm náo động, rồi đóng chặt cửa lại. Chuyên Chư trong lòng nghi ngờ, mới mở cửa sổ dòm vào thì thấy người mẹ đã thắt cổ chết ở trên giường. Chuyên Chư vật mình lăn khóc, vội đem thi thể người mẹ chôn ở ngoài Tây môn. Chôn xong, bảo người vợ rằng: - Ta chịu ơn Công tử nhiều lắm, vẫn muốn liều chết để báo ơn, chỉ vì còn mẹ già, vậy nên chưa dám. Nay mẹ già đã mất rồi, ta phải đi báo ơn Công tử. Sau khi ta chết thì mẹ con nhà mày, thế nào Công tử cũng cấp dưỡng cho. Chớ có làm ngăn trở công việc của ta nhé! Chuyên Chư vào yết kiến Công tử Quang, thuật lại chuyện người mẹ tự tử cho Công tử nghe. Công tử Quang có ý phàn nàn, rồi tìm lời khuyên giải mãi, sau mới bàn đến việc giết Vương Liêu. Chuyên Chư nói: - Sao Công tử không bày một tiệc rượu để mời Vương Liêu. Nếu Vương Liêu chịu đến thì việc này trong mười phần đã xong được tám chín phần. Công tử Quang liền vào yết kiến Vương Liêu và nói với Vương Liêu rằng: - Tôi có một tên nhà bếp ở Thái Hồ về, mới học được nghề nướng cá khéo lắm, ngon lắm, thật là một món ăn khác thường! Xin mời Đại Vương quá bộ đến nhà tôi nếm món ăn ấy. Vương Liêu xưa nay vốn thích ăn cá nướng, mới vui lòng mà nhận lời ngay, hẹn đến ngày hôm sau thì sang chơi. Đêm hôm ấy, Công tử Quang sai giáp sĩ phục sẵn ở trong phòng kín, lại sai Ngũ Viên đem 100 tử sĩ tiếp ứng mặt ngoài. Ngày hôm sau, Công tử Quang lại sang mời Vương Liêu. Vương Liêu vào nói với người mẹ rằng: - Công tử mời con sang uống rượu, hoặc giả có mưu gì chăng? Người mẹ nói: - Công tử Quang vẫn đem lòng tức giận, lần này mời con, tất có ý khác, sao con không từ chối đi? Vương Liêu nói: - Từ chối thì sinh ra hiềm khích, chi bằng ta phòng giữ cho nghiêm mật, chắc không làm gì nổi. Vương Liêu mặc mấy lần áo giáp, rồi truyền cho quân sĩ phải sắp hàng từ cửa cung cho đến nhà Công tử Quang. Vương Liêu đi đến cửa nhà Công tử Quang. Công tử Quang ra đón vào. Vương Liêu ngồi chiếu giữa. Công tử Quang đứng hầu bên cạnh. Những người thân tín của Vương Liêu đứng đầy cả ở trong nhà và ngoài thềm. Hơn 100 người lực sĩ đứng xung quanh Vương Liêu, đều cầm giáo dài và gươm sắc. Khi nhà bếp dâng món ăn đi qua dưới sân, đều phải cởi áo, khám xét thật kỹ, rồi mới cho quì xuống đất mà dâng lên; lại còn hơn 10 lực sĩ tuốt gươm đi kèm hai bên cạnh. Nhà bếp đặt món ăn lên bàn, không dám ngẩng trông, rồi lại quì gối mà lui xuống. Công tử Quang rót chén rượu kính mời Vương Liêu, giả cách khuỵu chân, làm bộ đau đớn mà tâu với Vương Liêu rằng: - Chân tôi, chỗ đau vẫn chưa khỏi, mỗi khi phát đau, buốt đến tận xương, tất phải dùng lụa buộc chặt lại thì mới đỡ. Xin Đại vương miễn thứ cho tôi được ra ngoài buộc chân, rồi lại vào ngay. Vương Liêu nói: - Được! Vương huynh cứ đi! Công tử Quang khập khiễng bước dần từng bước, đi vào nhà trong. Được một lúc Chuyên Chư dâng món cá nướng, cũng bị khám xét như mấy người trước. Ai ngờ lưỡi gươm trủy thủ đã để ở trong bụng con cá. Lực sĩ đi kèm hai bên, Chuyên Chư quỳ gối đi đến trước mặt Vương Liêu. Chuyên Chư lấy tay xé con cá rút lưỡi gươm trủy thủ ra, đâm thẳng vào bụng Vương Liêu, sức đâm mạnh quá, suốt ba lần áo giáp, thò lưỡi gươm ra phía sau lưng. Vương Liêu kêu một tiếng thật to, rồi chết ngay lập tức. Lực sĩ xúm lại đâm chết Chuyên Chư nát nhừ người ra. Công tử Quang ở trong nhà, biết là Vương Liêu chết rồi, mới đem quân ra giết những đảng phái Vương Liêu. Quân theo hầu Vương Liêu bỏ chạy tán loạn cả. Bao nhiêu những thị vệ ở mặt ngoài lại bị Ngũ Viên đuổi đánh. Công tử Quang lên xe vào triều, tuyên bá cái tội Vương Liêu bội ước tự lập, rồi quyền tạm nối ngôi, để đợi Quý Trát về nước. Công tử Quang truyền đem thi thể Vương Liêu ra an táng theo như lễ thường; lại hậu táng cho Chuyên Chư, phong con là Chuyên Nghị làm thượng khanh; phong Ngũ Viên làm chức hành nhân, đãi như lễ khách mà không bắt làm tôi; chức thị lại là Bị Ly có cái công tiến dẫn Ngũ Viên, được thăng làm đại phu; đem tiền thóc trong kho cấp phát cho những dân cùng khổ, bởi vậy người trong nước ai cũng bằng lòng. Công tử Quang còn e có Công tử Khánh Kỵ ở ngoài, sai người dò thám xem lúc nào về nước thì báo trước cho biết. Công tử Quang đem đại binh đóng ở trên sông Giang để đón đường Công tử Khánh Kỵ về. Công tử Khánh Kỵ nghe tin, tức khắc bỏ trốn. Công tử Quang phi ngựa đuổi theo. Công tử Khánh Kỵ bỏ xe mà chạy bộ, chạy nhanh như bay, ngựa đuổi theo không kịp. Công tử Quang truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn. Công tử Khánh Kỵ giơ tay bắt lấy mũi tên, không phát nào trúng được vào mình cả. Công tử Quang biết chừng không thể bắt được, mới truyền cho quan trấn thủ ở phía Tây Bỉ phải phòng bị nghiêm mật, rồi rút quân về. Mấy hôm sau, Quý Trát ở nước Tấn về nước Ngô, biết tin Vương Liêu đã chết, liền đi thẳng qua mộ Vương Liêu khóc mà để tang. Công tử Quang thân hành ra tận mộ sở, xin nhường lại ngôi vua và nói với Quý Trát rằng: - Đó là theo ý tổ phụ và các thúc phụ ta ngày xưa! Quý Trát nói: - Muốn thế nào thì được thế, lại còn nhường cái gì! Quý hồ giữ được cúng tế, yên được nhân dân thì tức là vua ta đó! Công tử Quang không thể nài ép được mới lên nối ngôi vua, xưng hiệu là Hạp Lư. Quý Trát lấy việc tranh nhau ấy làm xấu hổ, về ở đất Diên Lăng, suốt đời không nói gì đến việc nước Ngô nữa. Yểm Dư và Chúc Dung bị quân Sở vây ở Ấp Tiềm, mong mãi không thấy quân Ngô sang cứu, đang cùng nhau thương nghị để tìm kế thoát thân, bỗng nghe báo Công tử Quang giết Vương Liêu, cướp ngôi vua, hai người liền giật mình, lăn khóc, rồi bảo nhau rằng: - Công tử Quang đã giết vua cướp ngôi như vậy thì tất không để cho chúng ta được yên thân! Hai người nói xong, toan sang đầu nước Sở, nhưng lại sợ nước Sở không tin, chưa biết làm thế nào. Chúc Dung nói: - Nay cứ giữ chết ở đây thì bao giờ cho xong việc, chi bằng ta nhân đêm tìm đường trốn sang nước khác để liệu tính về sau. Yểm Dư nói: - Hiện quân Sở đang vây kín bốn mặt, chúng ta như chim ở trong lồng, làm thế nào mà thoát thân được! Chúc Dung nói: - Tôi có một kế: Truyền cho tướng sĩ hai đồn, hẹn đến ngày mai thì khai chiến, rồi nửa đêm hôm nay tôi cùng anh thay hình cải dạng tìm đường lẻn trốn, quân Sở tất không ngờ. Yểm Dư khen phải, truyền sửa soạn quân mã để sắp khai chiến. Yểm Dư và Chúc Dung cùng mấy người tâm phúc giả hình làm toán quân đi tuần tiễu, rồi tìm đường lẻn trốn. Yểm Dư trốn sang nước Từ. Chúc Dung trốn sang nước Chung Ngô. Sáng hôm sau, quân sĩ hai đồn không thấy chủ tướng đâu cả, đem nhau chạy trốn trở về nước Ngô, bỏ lại các đồ giáp binh rất nhiều, đều bị tướng nước Sở là Bá Khước Uyển bắt được. Các tướng nước Sở muốn nhân lúc nước Ngô có loạn, đem quân sang đánh, Bá Khước Uyển nói: - Khi trước nước Ngô nhân lúc nước ta có tang mà sang đánh, thế là bất nghĩa. Ta lại còn bắt chước làm gì! Bá Khước Uyển liền cùng với Thẩm Doãn Thú rút quân trở về, đem các đồ giáp binh bắt được của quân Ngô dâng nộp Sở Chiêu Vương, Sở Chiêu Vương chia các đồ giáp binh ấy ra làm hai phần, đem một nửa ban thưởng cho Bá Khước Uyển, lại có lòng kính trọng, việc gì cũng hỏi Bá Khước Uyển. Phí Vô Cực thấy vậy, ghét Bá Khước Uyển lắm, mới nghĩ ra một kế để làm hại Bá Khước Uyển. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 74 Giết Vô Cực tỏ lòng Nang Ngõa Đâm Khánh Kỵ nổi tiếng Yêu Ly Bấm để xem Phí Vô Cực đem lòng ghen ghét Bá Khước Uyển, mới cùng Yên Tương Sư thương nghị, nghĩ ra một kế, nói dối quan Lệnh doãn nước Sở là Nang Ngõa rằng: - Tử Ác (tên tự Bá Khước Uyển) muốn bày tiệc mời Ngài, nhờ tôi nói trước để dò xem ý Ngài có lòng hạ cố đến chăng? Nang Ngõa nói: - Nếu hắn có lòng mời thì can gì mà không đi! Phí Vô Cực lại nói với Bá Khước Uyển rằng: - Quan Lệnh doãn có nói chuyện với tôi, muốn sang chơi uống rượu ở nhà Ngài, chẳng hay Ngài có vì Quan lệnh doãn mà sửa một tiệc rượu được không? Bá Khước Uyển không biết là mưu lừa, liền đáp lại rằng: - Tôi phận hèn chức nhỏ, lại được Quan lệnh doãn quá yêu đến, còn gì vinh hạnh bằng! Sáng mai tôi xin sửa tiệc để mời Quan lệnh doãn, nhờ Ngài nói giúp cho. Phí Vô Cực nói: - Ngài mời Quan lệnh doãn, định dùng thứ gì để kính tặng? Bá Khước Uyển nói: - Tôi không biết Quan lệnh doãn Ngài thích cái gì! Phí Vô Cực nói: - Tính Quan lệnh doãn chỉ thích các đồ giáp binh. Nay thấy các đồ giáp binh ta bắt của quân Ngô khi trước, Ngài được một nửa, vậy muốn uống rượu mà xem, nhân tiện mượn các đồ giáp binh ấy. Ngài nên cho đem cả ra đây, để tôi chọn xem những cái nào tốt. Bá Khước Uyển sai đem cả các đồ giáp binh ra cho Phí Vô Cực xem. Phí Vô Cực chọn những cái tốt hơn, cả thảy được 50 chiếc, rồi bảo Bá Khước Uyển rằng: - Thôi thế cũng là đủ! Ngài cho bày cả ở phía trong cửa, rồi che màn đi. Hễ Quan lệnh doãn hỏi đến thì mang ra mà dâng, tất nhiên Quan lệnh doãn lấy làm quí báu; còn các thứ khác thì Quan lệnh doãn Ngài không thích gì cả. Bá Khước Uyển tin là nói thực, mới mắc màn ở trong cửa, bày các đồ giáp binh, rồi nhờ Phí Vô Cực đi mời Nang Ngõa. Khi Nang Ngõa sắp đi, Phí Vô Cực lại nói với Nang Ngõa rằng: - Lòng người ta không biết đâu mà lường! Tôi xin sang trước đó để dò xét xem tình ý thế nào rồi Ngài hãy sang. Phí Vô Cực đi một lúc, chạy hộc tốc trở về, vừa nói vừa thở mà bảo Nang Ngõa rằng: - Xuýt nữa thì tôi làm hại Quan lệnh doãn! Tử Ác mời Ngài hôm nay, không phải là lòng tử tế, tất có ý muốn hại Ngài. Tôi trông thấy trong màn ở phía bên cửa, có bày các đồ giáp binh, Ngài vô ý mà sang hôm nay, tất nhiên bị hại. Nang Ngõa nói: - Ta cùng Tử Ác không có hiềm khích gì, làm sao lại thế? Phí Vô Cực nói: - Kẻ kia cậy được Dại vương yêu, muốn thay Ngài làm lệnh doãn. Vả tôi nghe Tử Ác mưu với nước Ngô. Khi quân ta sang cứu ấp Tiềm, các tướng muốn nhân nước Ngô có loạn đem quân sang đánh. Tử Ác ăn tiền của nước Ngô, cho làm việc bất nghĩa, rồi bắt quan Tư mã (tức là Thẩm Doãn Thú) phải rút quân về. Ngày trước nước Ngô nhân nước ta đang có tang mà đánh, nay nước ta lại nhân nước Ngô có loạn mà sang đánh, chính là một dịp báo thù, nếu không ăn tiền của Ngô, sao chịu rút quân! Tử Ác mà đắc chí thì nước Sở nguy mất! Nang Ngõa còn chưa tin, sai người khác đi xem. Khi về đều nói trong màn ở phía bên cửa nhà Bá Khước Uyển quả có giáp binh thật. Nang Ngõa nổi giận, liền sai người triệu Yên Tương Sư đến, nói cho biết việc Bá Khước Uyển muốn hại mình. Yên Tương Sư nói: - Bá Khước Uyển cùng với Dương Lập Trung, Dương Hoàn và Dương Đà đồng mưu với nhau đã lâu, vẫn muốn cầm quyền chính nước Sở. Nang Ngõa nói: - Nó là một đứa thất phu ở nước khác đến mà lại dám làm loạn, ta quyết đâm chết mới nghe. Nang Ngõa liền tâu với Sở Chiêu Vương, sai Yên Tương Sư đem quân đến bắt Bá Khước Uyển. Bá Khước Uyển biết là mắc mưu Phí Vô Cực, mới đâm cổ mà chết. Con Bá Khước Uyển là Bá Hi sợ hãi bỏ trốn. Nang Ngõa truyền đốt nhà Bá Khước Uyển. Người trong nước không ai chịu đốt. Nang Ngõa càng giận lắm, liền hạ lệnh rằng: - Ai không chịu đốt nhà Bá Khước Uyển thì cũng bắt tội. Nguời trong nước ai cũng biết Bá Khước Uyển là người hiền, nhưng vì cái lệnh của Nang Ngõa, đều cầm một nắm rơm ném vào nhà Bá Khước Uyển. Nang Ngõa truyền cho quân sĩ vây kín nhà Bá Khước Uyển, rồi phóng hỏa đốt. Chỉ trong một lúc, cửa nhà hóa ra tro than cả. Nang Ngõa giết hết những tộc đảng nhà Bá Khước Uyển, lại bắt cả Dương Lập Trung, Dương Hoàn và Dương Đà, vu cho tội thông mưu với Ngô, đều đem giết chết. Người trong nước ai cũng thương là oan. Một hôm, Nang Ngõa nhân đêm sáng trăng, trèo lên lầu chơi, nghe văng vẳng bên tai có tiếng hát ở phía ngoài chợ. Bài hát như sau: "Đừng ai bắt chước Bá Khước Uyển, trung mà bị oan. Tấm thân đã uổng, nắm xương cũng tàn! Nước Sở không có vua, chỉ có họ Phí và họ Yên! Quan lệnh doãn khác nào tượng gỗ, bị chúng sai khiến. Trời có thấu chăng? Báo ứng hiển hiện". Nang Ngõa vội vàng sai người đi dò xét xem ai hát thì thấy trong phố xá nhà nào cũng bày đèn hương nghi ngút để cúng lễ. Hỏi ra mới biết là cúng Bá Khước Uyển vì trung mà bị oan, cầu cho thấu đến trời. Người nhà về báo với Nang Ngõa. Nang Ngõa mới vào hỏi các quan trong triều. Bọn Công tử Thân đều nói Bá Khước Uyển không có tư thông với Ngô bao giờ. Nang Ngõa có ý hối. Thẩm Doãn Thú nghe nói người trong nước đều nguyền rủa Quan lệnh doãn, mới vào bảo Nang Ngõa rằng: - Người trong nước ai cũng oán Ngài, Ngài có biết không? Phí Vô Cực là một kẻ sàm nhân ở nước Sở này, cùng với Yên Tương Sư đồng đảng với nhau, lập mưu đuổi Triều Ngô và Sái hầu Chu; lại xui tiên vương làm những điều càn dỡ, để đến nỗi Thế tử Kiến chết tại đất ngoài. Trước đã làm cho cha con Ngũ Xa chết oan, nay lại làm cho Bá Khước Uyển cùng ba họ Dương đều chết oan cả. Người trong nước oán hai người ấy thâm nhập cốt tủy, đều đổ lỗi là tại Ngài dung túng đến nỗi như thế, mà ai cũng nguyền rủa Ngài. Một mai nước Sở có việc gì thì giặc nổi mặt ngoài, dân phản mặt trong, tôi lấy làm nguy cho Ngài lắm! Chi bằng Ngài trừ lũ ấy đi thì mới yên việc được. Nang Ngõa sợ hãi, đang ngồi, đứng dậy mà bảo Thẩm DoãnThú rằng: - Đó thật là điều lỗi của tôi! Xin quan Tư mã (chỉ Thẩm Doãn Thú) giúp tôi một tay để mà trừ bỏ hai thằng giặc ấy. Thẩm Doãn Thú nói: - Nếu vậy thì phúc cho nước nhà lắm, tôi xin vâng mệnh. Thẩm Doãn Thú sai người truyền bá cho dân trong nước biết rằng: - Quan Tả doãn (tức là Bá Khước Uyển) bị chết oan đều là tại Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, quan Lệnh doãn đã rõ cái mưu gian ấy, nay định đem quân đi đánh. Dân trong nước ai muốn theo thì cho đi. Nói chưa dứt lời mà dân trong nước đều đua nhau cầm binh khí đi trước. Nang Ngõa kể tội Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, rồi bắt đem chém, bêu đầu ở ngoài chợ. Người trong nước không đợi quan Lệnh doãn truyền bảo, đều tranh nhau đem lửa đến đốt nhà Phí Vô Cực và Yên Tương Sư. Nang Ngõa lại giết hết những tộc đảng Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, từ bấy giờ người trong nước không oán giận nữa. Vua nước Ngô là Hạp Lư hỏi Ngũ Viên rằng: - Ta muốn cho nước được cường thịnh để tranh nghiệp bá chủ, nên làm thế nào? Ngũ Viên sụp lạy, rồi ứa nước mắt khóc mà đáp rằng: - Tôi là một kẻ tội nhân ở nước Sở! Cha và anh tôi bị oan, chết chẳng ai chôn, giỗ chẳng ai cúng, nên tôi phải đem thân sang đây để trông nhờ Đại Vương. May mà Đại Vương không bắt tội, khi nào lại còn dám dự đến việc chính trị nước Ngô. Hạp Lư nói: - Không có nhà ngươi thì ta còn phải chịu nhục ở dưới kẻ khác, nay nhờ nhà ngươi chỉ bảo mà được đến thế này, còn định đem việc chính trị trong nước phó thác cho nhà ngươi, cớ sao đang nửa chừng mà nhà ngươi lại có ý chán, hoặc là nhà ngươi cho ta không đánh giúp hay sao! Ngũ Viên nói: - Không phải thế! Tôi nghe nói người thân bao giờ cũng hơn người sơ, người gần bao giờ cũng hơn người xa. Tôi là một kẻ lưu lạc ở nước khác đến, có đâu mà dám đứng trên bọn mưu thần ở nước Ngô này! Huống chi cái thù lớn của tôi chưa báo được thì lòng tôi rối bời, còn nghĩ ra được mưu kế gì? Hạp Lư nói: - Mưu thần nước Ngô, không ai bằng nhà ngươi, nhà ngươi chớ nên từ chối. Khi công việc nước ta được tạm yên rồi, bấy giờ ta sẽ vì nhà ngươi báo thù. Nhà ngươi muốn thế nào ta chiều theo ý. Ngũ Viên nói: - Bây giờ Đại Vương muốn thế nào? Hạp Lư nói: - Nước ta ở về phía Đông nam này đất thấp mà ẩm, lại hay có nước lụt. Ruộng nương không mở mang ra được, nhân dân làm ăn không được chắc chắn. Nay muốn cho nước được cường thịnh thì nên phải thế nào? Ngũ Viên nói: - Dân có yên ổn thì nước mới được cường thịnh, tất phải sửa sang thành quách và luyện tập quân mã, khiến cho mặt trong có thể giữ nước được, mà mặt ngoài có thể đánh giặc được. Hạp Lư nói: - Nhà ngươi nói phải lắm! Vậy thì việc ấy ta giao cho nhà ngươi. Ngũ Viên liền đi xem ngắm hình thế, chọn được một nơi đất tốt ở phía đông bắc núi Cô Tô, tức thì đắp một cái thành lớn, rộng 47 dặm, chia làm 8 cửa như sau này: Bàn Môn và Xà Môn ở về phía nam; Tề Môn và Bình Môn ở về phía Bắc; Lâu Môn và Tượng Môn ở về phía đông; Xương Môn và Tư Môn ở về phía tây. Thành quách đã đắp xong rồi, đón Hạp Lư thiên đô vào ở đấy, rồi tuyển mộ quân sĩ, dạy cho biết những phép chiến trận. Lại đắp một cái thành nữa ở phía nam Phượng Hoàng Sơn, để phòng giữ nước Việt gọi là Nam Vũ Thành. Hạp Lư cho thanh kiếm Ngư Trường (tức là lưỡi gươm trủy thủ mà Chuyên Chư đâm Vương Liêu) là vật bất tường, mới bỏ vào rương phong kín lại mà không dùng đến. Đắp một cái thành ở Ngưu Thủ Sơn, đúc mấy nghìn thanh kiếm, gọi là Biển Chư. Lại tìm được người nước Ngô tên gọi Can Tương, cùng với Âu Giã Tử học một thầy, cho ở cửa Tượng Môn để đúc những thanh kiếm thật sắc. Can Tương đi tìm những thứ vàng thật tốt và sắt thật tốt, rồi chọn ngày chọn giờ, sai các đồng nam và đồng nữ cả thảy 300 người ngày đêm đốt than nấu suốt ba tháng, mà vàng sắt đều không chảy. Can Tương không biết tại cớ làm sao. Người vợ là nàng Mạc Gia bảo Can Tương rằng: - Những của thần vật tất phải đợi nhân khí rồi mới thành được. Nay phu quân đúc kiếm, trong ba tháng không xong, hoặc giả thần vật còn phải đợi nhân khí đó chăng? Can Tương nói: - Ngày xưa thầy ta cũng đúc mãi không thành kiếm, rồi hai vợ chồng nhảy vào trong lò, bấy giờ mới thành; về sau ai đúc kiếm ở chân núi ấy cũng phải làm lễ tế lò, mới dám mở ra. Nay ta đúc mãi không được, hay là cũng phải như thế! Nàng Mạc Gia nói: - Thầy ta bỏ thân để đúc nên thần kiếm, khó gì mà ta không dám bắt chước. Nàng Mạc Gia liền tắm gội sạch sẽ, ra đứng ở bên lò, rồi sai các đồng nam và đồng nữ kéo bễ đốt than. Khi lửa đang cháy dữ thì nàng Mạc Gia nhảy vào trong lò. Được một lúc, vàng và sắt đều chảy ra cả, đúc nên được hai thanh kiếm: Thanh đúc trước, đặt tên là Can Tương; thanh đúc sau, đặt tên là Mạc Gia. Can Tương giấu thanh đúc trước (tức là thanh kiếm Can Tương) đi, rồi đem thanh kiếm Mạc Gia đến dâng Hạp Lư. Hạp Lư cầm thanh kiếm chém vào viên đá, viên đá tức thì đứt đôi ra. Hạp Lư thưởng cho Can Tương một trăm nén vàng. Sau Hạp Lư biết là Can Tương giấu mất một thanh kiếm, sai người đến đòi và giao hẹn: Nếu không thì sẽ giết chết. Can Tương đem thanh kiếm ra xem. Thanh kiếm ở trong bao nhảy ra, hóa thành con rồng xanh. Can Tương cưỡi con rồng xanh ấy bay lên trời mất. Sứ giả về nói với Hạp Lư. Hạp Lư thở dài, từ bấy giờ càng quí thanh kiếm Mạc Gia lắm. Thanh kiếm Mạc Gia sau không biết về đâu mất. Cách hơn 600 năm, đến triều nhà Tấn, có quan Thừa tướng tên gọi Trương Hoa trông thấy trên trời có khí lạ, liền triệu một người giỏi nghề xem thiên văn là Lôi Hoán đến mà hỏi, Lôi Hoán nói: - Đó là cái tinh bảo kiếm, ở về địa phận Phong Thành. Trương Hoa tức khắc bổ cho Lôi Hoán ra làm huyện lệnh ở Phong Thành. Lôi Hoán đào nền nhà ngục thất, bắt được cái rương bằng đá dài hơn sáu thước, rộng ba thước. Mở rương ra xem, trong có 2 thanh kiếm, dùng thứ đất ở núi Tây Sơn mà đánh đi thì ánh sáng rực rỡ. Lôi Hoán đem một thanh kiếm đưa cho Trương Hoa, còn một thanh nữa lưu lại để dùng. Trương Hoa xem thanh kiếm rồi bảo rằng đây tức là thanh kiếm Can Tương, còn thanh kiếm Mạc Gia đi đâu mất. Tuy vậy mà thần vật thế nào rồi cũng lại hợp với nhau. Sau Lôi Hoán với Trương Hoa cùng đeo kiếm đi qua bến Diên Bình Tân, tự nhiên hai thanh kiếm nhảy xuống nước mất. Vội vàng sai người lặn xuống nước tìm thì thấy hai con rồng ngũ sắc, vểnh râu trừng mắt làm cho người ấy sợ mà trở về. Từ bấy giờ mất tích hai thanh kiếm ấy. Lại nói chuyện vua nước Ngô là Hạp Lư quí thanh kiếm Mạc Gia lắm, lại thuê người làm cái kim câu, ai làm được giỏi thì thưởng 100 nén vàng. Người trong nước đua nhau làm kim câu để dâng. Có một người câu sư tham giải thưởng to, giết chết hai con, lấy máu tưới vàng, đúc thành hai cái kim câu, đem dâng Hạp Lư. Qua mấy ngày nữa, câu sư đến cửa cung xin lĩnh thưởng. Hạp Lư hỏi: - Người ta dâng kim câu nhiều lắm, sao một mình nhà ngươi dám đến lĩnh thưởng? Cái kim câu của nhà ngươi có khác gì người ta không? Câu Sư nói: - Tôi muốn được thưởng, đã giết chết hai con để đúc thành hai cái kim câu ấy, người khác bì thế nào được! Hạp Lư truyền đem hai cái kim câu ấy ra xem. Các thị vệ tâu rằng: - Hai cái kim câu ấy đã bỏ lẫn vào trong đám kim câu khác, trông giống nhau lắm, không thể chọn mà lấy riêng ra được. Câu Sư nói: - Xin Đại vương cho tôi xem. Các thị vệ đem cả đống kim câu ra để ở trước mặt câu sư. Câu sư cũng không biết cái nào mà chọn, mới gọi tên hai đứa con mà bảo rằng: - Ngô Hồng và Hỗ Kê ơi! Ta ở đây, sao hai con không hiển linh trước mặt Đại Vương. Câu sư nói chưa dứt lời thì hai cái kim câu ở trong đống nhảy ra, ấp vào ngực câu sư. Hạp Lư kinh sợ mà bảo rằng: - Ừ, thế thì nhà ngươi nói thực! Hạp Lư liền thưởng cho câu sư 100 nén vàng. Từ bấy giờ cũng quí hai cái kim câu ấy như thanh kiếm Mạc Gia, đeo luôn trong mình. Bấy giờ Bá Hi nước Sở sợ tội chạy trốn, nghe nói Ngũ Viên đã làm quan ở nước Ngô, mới trốn sang nước Ngô, vào yết kiến Ngũ Viên! Ngũ Viên trông thấy Bá Hi, ứa nước mắt khóc, rồi đưa Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư hỏi Bá Hi rằng: - Nước ta ở về nơi hẻo lánh xứ Đông Hải này, mà nhà ngươi chẳng quản xa xôi nghìn dặm, cố tìm tới đây, tất cũng có nghĩ được điều gì hay để bảo ta chăng? Bá Hi nói: - Đời ông (Bá Châu Lê) và đời cha (Bá Khước Uyển) tôi vẫn một lòng tận trung với Sở. Nay cha tôi không có tội gì mà bị chết oan, tôi phải bơ vơ chạy trốn, nghe nói Đại vương là người cao nghĩa, đã thu dùng Ngũ Viên, cho nên tôi đem thân tới đây, sống chết cũng nhờ ở trong tay Đại Vương vậy. Hạp Lư có lòng thương, cho làm quan đại phu, để cùng Ngũ Viên bàn việc nước. Quan đại phu nước Ngô là Bị Ly hỏi riêng Ngũ Viên rằng: - Ngài nghĩ thế nào mà tin Bá Hi như vậy? Ngũ Viên nói: - Sự oan uổng của Bá Hi cũng chẳng khác gì tôi. Tục ngữ có câu "Đồng bệnh tương liên", hẳn Ngài còn lạ gì điều ấy. Bị Ly nói: - Ngài chỉ biết mặt ngoài, chưa biết mặt trong. Tôi trông Bá Hi, mắt nhìn như mắt chim ưng, chân đi như dáng con hổ, thế là người tham nịnh tàn ác, chớ nên đến gần. Nếu người ấy được trọng dụng thì tất di lụy đến ngài. Ngũ Viên không cho là phải, cùng với Bá Hi thờ vua Ngô. Lại nói chuyện Công tử Khánh Kỵ trốn sang ở Ngãi Thành, chiêu nạp những tử sĩ, kết liên với lân quốc, muốn đợi thời cơ để về nước Ngô mà đánh báo thù. Hạp Lư nghe được cái mưu ấy, bảo Ngũ Viên rằng: - Việc Chuyên Chư ngày trước, thật là ta nhờ sức của nhà ngươi. Nay Khánh Kỵ lại có lòng muốn báo thù, ta ăn không biết ngon, nằm không được yên, nhà ngươi nên vì ta mà nghĩ giúp điều ấy. Ngũ Viên nói: - Tôi cùng với Đại Vương mưu việc giết Vương Liêu, cũng đủ là bất trung rồi; nay lại mưu giết cả con Vương Liêu nữa, thế thì còn trời đất nào! Hạp Lư nói: - Ngày xưa vua Vũ Vương nhà Chu đánh vua Trụ, lại giết cả Vũ Canh (con vua Trụ) người nhà Chu chẳng thấy ai chê cả. Nếu Khánh Kỵ hãy còn thì cũng như là Vương Liêu chưa chết, nhà ngươi chớ nên vì một điều nhỏ mọn mà gây nên cái tai vạ về sau. Ta lại có một tay như Chuyên Chư thì việc này mới xong được! Nhà ngươi tìm tòi những kẻ trí dũng, kể đã lâu ngày, vậy nhà ngươi có biết ai không? Ngũ Viên nói: - Việc này khó khăn lắm! Tôi có quen một người bé nhỏ, có thể bàn mưu được. Hạp Lư nói: - Khánh Kỵ sức khỏe lắm, một người bé nhỏ thì làm gì nổi! Ngũ Viên nói: - Người này dẫu nhỏ bé, nhưng sức khỏe địch nổi muôn người. Hạp Lư hỏi: - Người nào thế? Tại sao nhà ngươi biết là giỏi, thử nói cho ta nghe? Ngũ Viên nói: - Người ấy họ là Yêu, tên là Ly, là người nước Ngô, ngày xưa tôi thấy hắn dám sỉ mắng một người tráng sĩ tên gọi Tiêu Khâu Tố, vậy nên biết là người giỏi. Hạp Lư hỏi: - Việc người ấy sỉ mắng một người tráng sĩ thế nào? Ngũ Viên nói: - Tiêu Khâu Tố vốn người Đông Hải, có người bạn làm quan ở Ngô mà chết. Tiêu Khâu Tố sang Ngô để thăm bạn, đi qua bến Hoài Tân, toan cho ngựa xuống uống nước. Tân lại bảo Tiêu Khâu Tố rằng: - Con sông này có thủy thần, trông thấy ngựa thì hay bắt mất, ông đừng cho ngựa xuống uống nước. Tiêu Khâu Tố nói: - Tráng sĩ đứng đây, thủy thần nào dám hiện lên. Tiêu Khâu Tố sai người nhà dắt ngựa xuống sông cho uống nước. Quả nhiên con ngựa ấy rít lên mà sa xuống nước mất. Tân lại nói: - Thủy thần bắt mất ngựa rồi! Tiêu Khâu Tố nổi giận, xoay trần người ra, rồi cầm kiếm nhảy xuống nước để đánh nhau với thủy thần. Thủy thần hóa phép nổi sóng rất dữ dội mà không làm gì nổi Tiêu Khâu Tố. Cách ba ngày đêm Tiêu Khâu Tố ở dưới nước nổi lên, bị thần đánh mù mất một mắt. Khi đến nước Ngô, vào viếng tang người bạn, trong khi đang ngồi nói chuyện, mới làm bộ lên mặt kiêu ngạo với mọi người, ăn nói không có lễ phép. Bấy giờ Yêu Ly cũng ngồi ở đấy, có ý bất bình, bảo Tiêu Khâu Tố rằng: - Nhà ngươi có ý kiêu ngạo với mọi người, xem chừng tự đắc là dũng sĩ đó chăng. Ta nghe nói kẻ dũng sĩ đã đánh nhau với ai, chẳng thà chết chứ không chịu nhục. Nay nhà ngươi đánh nhau với thủy thần, chịu mất ngựa không dám đuổi theo, lại bị hỏng mất một con mắt. Nghĩ nên hổ thẹn biết dường nào, mà còn đeo đẳng cái thân sống thừa ấy, thế là đồ vô dụng ở trong khoảng trời đất, còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa! Tiêu Khâu Tố bị nhục, có ý hổ thẹn, nín lặng không nói gì cả, rồi cáo từ lui ra. Chiều hôm ấy, Yêu Ly về nhà nói chuyện với vợ rằng: - Hôm nay ta làm nhục một kẻ dũng sĩ là Tiêu Khâu Tố ở trong đám tang gia, hắn căm tức vô cùng! Đêm nay thế nào cũng đến báo thù. Ta nên nằm sẵn ở giữa nhà để đợi người đến. Nàng chớ có đóng cửa. Người vợ vốn biết Yêu Ly là giỏi, mới theo lời, bỏ ngỏ cửa. Tiêu Khâu Tố quả nhiên nửa đêm hôm ấy giắt dao đến nhà Yêu Ly, trông thấy cửa ngỏ, mới đi thẳng vào, thấy một người rũ tóc nằm ở phía dưới cửa sổ, tức là Yêu Ly. Yêu Ly thấy Tiêu Khâu Tố đến cứ nghiễm nhiên mặc kệ, không thèm cựa cạy, cũng không có ý sợ hãi. Tiêu Khâu Tố cầm dao kề cổ Yêu Ly mà kể tội rằng: - Nhà ngươi có ba điều đáng chết, đã biết hay chưa? Yêu Ly nói: - Chưa biết! Tiêu Khâu Tố nói: - Nhà ngươi làm nhục ta trong đám tang gia, đó là một điều đáng chết; khi về nhà không biết lo xa mà dám bỏ ngỏ cửa, đó là hai điều đáng chết; trông thấy ta mà không chạy trốn, đó là ba điều đáng chết. Thế thì tự nhà ngươi muốn chết, còn oán gì ta nữa! Yêu Ly nói: - Ba điều ấy cũng chưa đáng chết, nhưng nhà ngươi có ba điều hèn, đã biết hay chưa? Tiêu Khâu Tố nói: - Chưa biết! Yêu Ly nói: - Ta làm nhục nhà ngươi trong đám đông người, mà nhà ngươi không dám nói lại một câu nào, đó là một điều hèn; ngươi vào nhà ta mà không lên tiếng, có ý lẻn trộm, đó là hai điều hèn; cầm dao kề vào cổ ta, rồi mới nói khoác, đó là ba điều hèn. Nhà ngươi có ba điều hèn ấy, lại còn trách ta thì thật là đáng khinh bỉ! Tiêu Khâu Tố mới rụt con dao lại mà khen rằng: - Kể cái vũ dũng của ta, đời không mấy kẻ bằng, mà Yêu Ly lại còn hơn ta, thế thì thật là một người dũng sĩ! Nếu ta giết người dũng sĩ cũng mang tiếng với đời, mà không giết thì ta cũng khó lòng mà gọi vũ dũng được! Tiêu Khâu Tố nói xong, liền ném dao xuống đất, đập đầu vào cửa sổ mà chết. Ngũ Viên lại nói với Hạp Lư rằng: - Trong khi Tiêu Khâu Tố đến viếng tang, tôi cũng có ngồi đấy, vậy nên tôi biết rõ, xem thế thì có phải là Yêu Ly sức khỏe địch nổi muôn người đó không? Hạp Lư nói: - Nhà ngươi triệu đến đây cho ta. Ngũ Viên đến yết kiến Yêu Ly và bảo rằng: - Vua Ngô mến cái tài giỏi của nhà ngươi, muốn được trông mặt. Yêu Ly kinh sợ mà nói rằng: - Ta là người thường dân hèn mọn, có tài giỏi gì mà dám ứng triệu. Ngũ Viên hai ba lần giải bày những tình ý kính mến của vua Ngô, Yêu Ly mới theo Ngũ Viên vào triều. Hạp Lư lúc trước nghe Ngũ Viên khoe khoang cái tài giỏi của Yêu Ly, vẫn tưởng người khôi ngô lạ thường, đến lúc trông thấy hình thù thấp bé, mặt mũi xấu xí, có ý không bằng lòng, mới hỏi Yêu Ly rằng: - Ngũ Viên nói Yêu Ly là dũng sĩ, có phải nhà ngươi đó chăng? Yêu Ly nói: - Tôi bé nhỏ, không có sức khỏe, gió thổi mạnh thì ngã, nhưng Đại Vương muốn sai gì, tôi cũng xin cố làm! Hạp Lư nín lặng, không nói gì cả. Ngũ Viên biết ý, liền tâu rằng: - Con ngựa hay không cần to lớn, quí hồ sức khỏe, có thể mang nặng và đi xa được thì thôi. Yêu Ly hình dáng dẫu xấu, nhưng tài trí lạ thường, nếu không dùng người ấy thì không thể thành sự được, xin Đại Vương chớ bỏ hoài. Hạp Lư mời Yêu Ly vào trong hậu cung, cho ngồi. Yêu Ly nói: - Tôi xem ý Đại Vương, chắc là lo nghĩ về Công tử Khánh Kỵ. Nhưng tôi có thể giết chết hắn được. Hạp Lư cười mà bảo rằng: - Khánh Kỵ sức khỏe như voi, chạy nhanh hơn ngựa, ta e rằng nhà ngươi không địch nổi! Yêu Ly nói: - Giết được người ta cốt ở trí khôn, không ở sức khỏe. Tôi được đến gần Khánh Kỵ thì giết hắn như cắt tiết con gà mà thôi. Hạp Lư nói: - Khánh Kỵ là người minh trí, vẫn hay chiêu nạp những kẻ vong mệnh ở bốn phương, nhưng thấy nhà ngươi là người trong nước, khi nào lại quá tin mà cho nhà ngươi đến gần. Yêu Ly nói: - Khánh Kỵ đã chiêu nạp những kẻ vong mệnh, định mưu hại nước Ngô thì tôi giả cách làm một người có tội đi trốn. Xin Đại Vương giết vợ con tôi, chặt cánh tay phải của tôi. Khánh Kỵ tất phải tin tôi mà cho đến gần, như thế mới có thể nên việc được! Hạp Lư ra ý buồn bã và nói rằng: - Nhà ngươi không có tội gì, ta nỡ nào mà làm hại nhà ngươi như thế! Yêu Ly nói: - Tôi nghe nói, vui vợ con mà không biết hết đạo thờ vua thì sao gọi là trung; ham cửa nhà mà không biết lo việc giúp vua thì sao gọi là nghĩa. Nếu tôi giữ trọn cái tiếng trung nghĩa thì dẫu chết sạch cả nhà, cũng được thỏa lòng! Ngũ Viên đứng bên cạnh cũng nói với Hạp Lư rằng: - Yêu Ly vì nước quên nhà, vì chủ quên mình, thế mới thật là bậc hào kiệt! Khi nào nên việc rồi, Đại Vương sẽ truy tặng cho vợ con, để lưu danh tiếng về sau, chỉ thế là đủ! Hạp Lư thuận cho. Ngày hôm sau, Ngũ Viên cùng Yêu Ly vào triều. Ngũ Viên xin cử Yêu Ly làm tướng, đem quân đi đánh Sở. Hạp Lư mắng rằng: - Ta xem sức khỏe của Yêu Ly dẫu đánh một đứa trẻ con, cũng vị tất đã nổi, huống chi là đánh Sở! Vả ngày nay công việc trong nước mới yên, ta không muốn động binh. Yêu Ly nói: - Nếu vậy thì Đại vương bất nhân quá! Ngũ Viên giúp Đại vương lấy được nước Ngô mà Đại vương không báo thù hộ cho Ngũ Viên hay sao. Hạp Lư nổi giận mắng rằng: - Nhà ngươi là một đứa dã nhân, biết đâu được đại sự trong nước, sao lại dám đương triều nói hỗn với ta như vậy! Hạp Lư truyền cho lực sĩ bắt Yêu Ly đem chặt một cánh tay phải đi, rồi giam vào trong ngục. Lại sai người bắt giam cả vợ con Yêu Ly nữa. Ngũ Viên thở dài mà lui ra. Các quan triều thần đều không biết chủ ý thế nào cả. Mấy hôm sau Ngũ Viên mật truyền cho quân canh ngục phải khoản đãi Yêu Ly. Yêu Ly thừa cơ lẻn trốn. Hạp Lư giết vợ con Yêu Ly, rồi đem đốt thây ở giữa chợ. Yêu Ly trong khi đi trốn, gặp ai cũng kể những nỗi oan khổ, rồi tìm đến nước Vệ, vào yết kiến Công tử Khánh Kỵ. Khánh Kỵ nghi là nói dối, không nhận cho theo. Yêu Ly cởi áo ra cho Khánh Kỵ xem, Khánh Kỵ trông thấy cụt một cánh tay phải, mới tin là thực, liền hỏi rằng: - Vua Ngô đã giết vợ con ngươi, chặt cánh tay nhà ngươi, nay nhà ngươi định theo ta làm gì? Yêu Ly nói: - Tôi nghe nói vua Ngô giết thân phụ Công tử mà cướp ngôi vua, nay Công tử kết liên với chư hầu, định về đánh báo thù, vậy tôi đem cái thân sống thừa này đến theo Công tử. Tôi đã biết rõ hết tình nình nước Ngô; cứ như cái tài vũ dũng của Công tử mà lại dùng tôi làm hướng đạo thì chắc có thể về nước được. Công tử báo thù cho thân phụ, tôi cũng báo thù cho vợ con tôi. Khánh Kỵ nghe nói, vẫn chưa lấy làm tin lắm. Được ít lâu, có người tâm phúc của Khánh Kỵ, đi thám ở nước Ngô về, đem việc vợ con Yêu Ly bị đốt ở giữa chợ, thuật lại cho Khánh Kỵ nghe. Khánh Kỵ mới thực lòng tin dùng Yêu Ly, hỏi Yêu Ly rằng: - Ta nghe nói vua Ngô dùng Ngũ Viên và Bá Hi làm mưu chủ, luyện binh tuyển tướng, trong nước cường thịnh lắm, mà ta quân ít sức yếu, làm thế nào để báo thù được? Yêu Ly nói: - Bá Hi là đồ vô mưu, không lo gì người ấy, chỉ có một mình Ngũ Viên là trí dũng kiêm toàn, nhưng nay cũng đã có hiềm khích với vua Ngô rồi! Khánh Kỵ nói: - Ngũ Viên là một người ân nhân của vua Ngô, nay vua tôi nước Ngô đang tương đắc với nhau, sao bảo là có hiềm khích? Yêu Ly nói: - Công tử chỉ biết điều ấy, nhưng chưa biết điều khác. Ngũ Viên sở dĩ tận trung với vua Ngô là muốn mượn quân để đánh Sở mà báo thù cho cha anh, nay Sở Bình Vương đã chết, Phí Vô Cực cũng chết, mà vua Ngô thì an hưởng phú quí, chẳng nghĩ đến việc báo thù cho Ngũ Viên. Tôi vì cớ nói giúp cho Ngũ Viên mà bị vua Ngô giết hại, tôi chắc rằng trong lòng Ngũ Viên cũng oán vua Ngô lắm! Tôi trốn thoát được cũng là nhờ cái công chu toàn của NgũViên đó! Ngũ Viên có dặn tôi rằng: "Đi chuyến này, thử dò xem ý Công tử thế nào, nếu Công tử chịu vì tôi báo thù thì tôi xin làm nội ứng cho Công tử, để chuộc lại cái tội đồng mưu với vua Ngô năm xưa". Nếu Công tử không nhân việc này đem quân về đánh, mà để cho vua tôi hắn lại liên hợp với nhau thì tôi dám nói quyết rằng cái thù của Công tử và của tôi, chẳng còn ngày nào báo được. Yêu Ly nói xong, khóc ầm lên rồi toan đập đầu vào vách mà chết. Khánh Kỵ vội vàng ôm lại mà bảo rằng: - Khoan đã! Ta xin theo lời nhà ngươi! Ta xin theo lời nhà ngươi! Khánh Kỵ liền đem Yêu Ly về Ngải Thành, dùng làm tâm phúc, sai luyện tập quân sĩ và sửa sang thuyền bè, định trong ba tháng nữa thì theo dòng sông mà tiến sang đánh quân Ngô, Khánh Kỵ và Yêu Ly cùng ngồi một thuyền. Khi đi đến giữa dòng, thuyền sau còn cách xa quãng. Yêu Ly nói với Khánh Kỵ rằng: - Công tử nên ngồi lên mũi thuyền để ra lệnh cho các quân sĩ. Khánh Kỵ lên ngồi trên mũi thuyền. Yêu Ly có một tay, cầm cái giáo ngắn đứng hầu. Bỗng giữa sông nổi lên một trận gió. Yêu Ly quay mình đứng về đầu gió, mượn sức gió thổi, cầm giáo đâm suốt vào bụng Khánh Kỵ, ngọn giáo thò ra phía sau lưng. Khánh Kỵ xách ngược Yêu Ly lên, dìm đầu xuống nước ba lần, rồi lại ẵm để lên trong lòng, cúi nhìn mà cười và bảo rằng: - Thiên hạ lại còn có kẻ dũng sĩ này dám cả gan mà đâm ta! Các quân sĩ xúm lại để đâm Yêu Ly, Khánh Kỵ gạt đi mà bảo rằng: - Người này là dũng sĩ! Chớ nên trong một ngày mà làm chết cả hai kẻ dũng sĩ của thiên hạ. Các ngươi chớ nên giết hắn làm gì, nên tha cho hắn về Ngô để tỏ lòng trung. Khánh Kỵ đẩy Yêu Ly xuống dưới chân, rồi giơ tay rút ngọn giáo, máu chảy ộc ra rồi chết! Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 75 Tôn Vũ dạy cung nữ tập trận Nang Ngõa bắt chư hầu lễ tiền Bấm để xem Khánh Kỵ gần chết, dặn quân sĩ chớ giết Yêu Ly. Quân sĩ tha Yêu Ly. Yêu Ly không chịu đi mà bảo quân sĩ rằng: - Ta có ba điều không thể dung được. Dẫu Công tử tha ta, ta cũng không tham sống làm gì! Mọi người đều hỏi: - Thế nào gọi là ba điều không thể dung được? Yêu Ly nói: - Vì đạo thờ vua mà giết cả vợ con, thế là bất nhân; vì vua mới mà giết con vua cũ, thế là bất nghĩa; nên việc cho người mà đến nỗi tàn hại cả thân và nhà, thế là bất trí. Có ba điều ác ấy, còn mặt mũi nào mà đứng trên cõi đời! Yêu Ly nói xong, liền đâm đầu xuống sông. Người lái thuyền lại vớt Yêu Ly lên. Yêu Ly nói: - Nhà ngươi vớt ta làm gì? Người lái thuyền nói: - Nhà ngươi về nước, tất được tước lộc, sao lại không về? Yêu Ly nói: - Ta không tiếc vợ con và tính mệnh, huống chi là tước lộc. Các ngươi đem xác ta về nước Ngô mà lấy trọng thưởng. Yêu Ly giật lấy thanh kiếm của người đứng bên, chặt bỏ chân đi, rồi tự đâm cổ mà chết. Các người rủ nhau đem thi thể Yêu Ly và Khánh Kỵ sang nộp vua Ngô là Hạp Lư. Hạp Lư bằng lòng, trọng thưởng cho các người, rồi dùng lễ thượng khanh an táng Yêu Ly ở dưới cửa thành mà dặn rằng: - Ta nhờ cái tài vũ dũng của nhà ngươi để giữ thành cho ta. Hạp Lư lại truy tặng cho vợ con Yêu Ly nữa. Lập miếu thờ chung Yêu Ly với Chuyên Chư. Dùng lễ Công tử an táng Khánh Kỵ ở bên mộ Vương Liêu. Đại yến các quan triều thần, Ngũ Viên khóc mà tâu với Hạp Lư rằng: - Những kẻ thù của Đại Vương đều trừ được cả, còn kẻ thù của tôi biết bao giờ trả xong! Bá Hi cũng ứa nước mắt mà xin quân đánh Sở. Hạp Lư nói: - Việc ấy để sáng mai hãy bàn. Ngày hôm sau Ngũ Viên và Bá Hi lại vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư nói: - Ta muốn vì hai người đem quân đánh Sở, nhưng chẳng biết sai ai làm tướng cho được? Ngũ Viên và Bá Hi đồng thanh mà đáp rằng: - Tùy ý Đại Vương, chúng tôi xin hết sức! Hạp Lư nghĩ thầm rằng Ngũ Viên và Bá Hi đều là người Sở, nếu đã báo thù được thì khi nào lại chịu ra sức giúp, mới nín lặng không nói gì cả, ngẩng mặt hứng gió nam mà thở dài. Ngũ Viên hiểu ý, lại nói với Hạp Lư rằng: - Đại Vương sợ nước Sở lắm quân nhiều tướng hay sao? Hạp Lư nói: - Chính thế! Ngũ Viên nói: - Tôi xin cử một người chắc là đánh được. Hạp Lư hớn hở mà hỏi rằng: - Nhà ngươi định cử ai? Cái tài người ấy thế nào? Ngũ Viên nói: - Người ấy họ Tôn tên Vũ, cũng là người nước Ngô ta. Hạp Lư nghe nói người nước Ngô, có ý mừng rỡ. Ngũ Viên lại tâu rằng: - Người này tinh thông thao lược, có làm ra 13 thiên binh pháp. Đời không mấy người biết tài. Hiện nay ẩn ở La Phù Sơn. Nếu được người ấy làm quân sư thì thiên hạ không ai địch nổi, huống chi là Sở! Hạp Lư nói: - Nhà ngươi thử vì ta triệu đến đây. Ngũ Viên nói: - Người này không phải tầm thường, nên phải đem lễ vật đến đón thì có lẽ mới chịu ra. Hạp Lư theo lời, mới lấy mười nén hoàng kim, một đôi bạch bích, sai Ngũ Viên đến La Phù Sơn đón Tôn Vũ. Ngũ Viên vào yết kiến Tôn Vũ, giải bày những tình ý kính mến của Hạp Lư. Tôn Vũ mới theo Ngũ Viên vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư xuống thềm mà đón, rồi mời ngồi, hỏi các sách binh pháp. Tôn Vũ đem mười ba thiên binh pháp đệ dâng Hạp Lư. Hạp Lư sai Ngũ Viên đọc cả lên một lượt. Ngũ Viên đọc. Mỗi khi đọc hết một chương thì Hạp Lư lại khen nức nở. Kể tên 13 thiên binh pháp ấy như sau này: 1. Thủy Kế Thiên; 2. Tác Chiến Thiên; 3. Mưu Công Thiên; 4. Quân Hình Thiên; 5. Binh Thế Thiên; 6. Hư Thực Thiên; 7. Quân Tranh Thiên; 8. Cửu Biến Thiên; 9. Hành Quân Thiên; 10. Địa Hình Thiên; 11. Tưu Địa Thiên; 12. Hỏa Công Thiên; 13. Dụng Gián Thiên. Hạp Lư ngoảnh lại bảo Ngũ Viên rằng: - Xem các sách binh pháp này, thật là có tài hiểu hết mọi việc trong khoảng trời đất, chỉ tiếc thay ta đây nước nhỏ quân ít, biết làm thế nào? Tôn Vũ nói: - Cứ như binh pháp của tôi thì chẳng những dùng trong đám quân sĩ mà thôi, dẫu đến đàn bà con gái biết theo hiệu lệnh của tôi, cũng có thể đem đi đánh giặc được. Hạp Lư vỗ tay cười mà nói rằng: - Sao nhà ngươi nói viển vông quá vậy, có lẽ nào đàn bà con gái mà lại cầm gươm tập trận được! Tôn Vũ nói: - Đại vương bảo lời nói của tôi là viển vông thì Đại vương cho phép tôi luyện tập các cung nữ, nếu không luyện tập được tôi xin chịu tội. Hạp Lư truyền dem 300 cung nữ giao cho Tôn Vũ luyện tập. Tôn Vũ nói: - Xin Đại vương chọn cho hai người sủng cơ để làm đội trưởng thì hiệu lệnh mới có thể thi hành được. Hạp Lư lại truyền gọi hai người sủng cơ là Tả Cơ và Hữu Cơ đến trước mặt mà bảo Tôn Vũ rằng: - Hai nàng này là người yêu của ta, phỏng có làm đội trưởng được hay không? Tôn Vũ nói: - Làm được! Nhưng phàm việc binh tất phải có thưởng phạt thì hiệu lệnh mới được nghiêm chỉnh, xin Đại vương cho lập một người làm chấp pháp, một người làm quân lại để truyền bá hiệu lệnh, hai người làm cổ lại để cầm trống và mấy người làm nha tướng để cầm gươm giáo đứng ở trên đàn cho trọng sự thể. Hạp Lư đều thuận cho cả. Tôn Vũ chia đám cung nữ ra làm tả đội và hữu đội, cho Tả Cơ quản lĩnh tả đội, còn Hữu Cơ quản lĩnh hữu đội. Hai đội đều mặc binh phục và cầm binh khí. Tôn Vũ tuyên bá hiệu lệnh có ba điều: 1. Không được hỗn loạn hàng ngũ; 2. Không được cười nói ầm ĩ; 3. Không được làm trái pháp luật. Tôn Vũ hẹn đến sáng ngày mai thì đến hội tại nơi giáo trường để tập trận. Hạp Lư trèo lên trên đài để ngồi xem. Đầu canh năm ngày hôm sau, hai đạo cung nữ đều đến giáo trường. Người nào cũng mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm mộc. Tả Cơ và Hữu Cơ thì đóng quần áo tướng, đứng ở đầu hàng quân. Tôn Vũ thân hành ra chỉ bảo mẫu mực và bày thành trận thế. Lại truyền đem hai lá cờ vàng trao cho Tả Cơ và Hữu Cơ để cầm đứng trước, còn các cung nữ đứng ở sau. Hai đội phục cả hai bên để nghe lệnh. Tôn Vũ hạ lệnh rằng: - Hễ nghe thấy hồi trống thứ nhất thì hai đội liền đứng dậy cả; hồi trống thứ hai thì tả đội quanh về bên hữu, mà hữu đội quanh về bên tả; hồi trống thứ ba thỉ giơ kiếm ra như thể đánh nhau; nghe thấy hiệu thanh la thì rút quân kéo lui. Các cung nữ đều bưng miệng cười. Chức cổ lại đánh một hồi trống. Các cung nữ kẻ ngồi kẻ đứng, không được đều nhau. Tôn Vũ đứng dậy mà nói rằng: - Hiệu lệnh không minh và pháp luật không tin là tội quan tướng đó! Tôn Vũ truyền cho chức quân lại tuyên bá hiệu lệnh một lần nữa. Chức cổ lại đánh một hồi trống, các cung nữ đều đứng dậy nhưng nghiêng nghiêng vẹo vẹo, đổ xô vào nhau, vẫn cười như trước. Tôn Vũ liền vén hai tay áo, cầm lấy dùi mà đánh trống. Lại tuyên báo hiệu lệnh như trước. Tả Cơ và Hữu Cơ cùng các cung nữ đều cười tất cả. Tôn Vũ giận lắm, cau mày trừng mắt, liền gọi: - Chức chấp pháp đâu! Chức chấp pháp đến quì ở trước mặt. Tôn Vũ nói: - Hiệu lệnh không minh và pháp luật không tin là tội quan tướng đó! Đã tuyên bá hiệu lệnh mà quân sĩ không theo thì tội tại quân sĩ đó! Cứ theo quân pháp nên trị tội gì? Chức chấp pháp nói: - Nên chém! Tôn Vũ nói: - Quân sĩ không thể giết hết được, ta nên trị tội hai người đội trưởng! Tôn Vũ truyền đem hai người nữ đội trưởng ra chém để làm gương cho các quân sĩ. Các nha tướng trông thấy Tôn Vũ hầm hầm nổi giận, không dám trái mệnh, liền trói Tả Cơ và Hữu Cơ điệu ra. Hạp Lư ngồi ở trên đài trông thấy, vội vàng sai Bá Hi cầm cờ tiết đến nói với Tôn Vũ rằng: - Ta đã biết cái tài dụng binh của Tướng quân rồi. Nhưng hai nàng ấy là người nâng khăn sửa túi của ta mà rất hợp ý ta lắm. Ta không có hai nàng ấy thì ăn không biết ngon, xin Tướng quân tha cho. Tôn Vũ nói: - Việc quân không phải là việc đùa! Tôi đã chịu mệnh làm tướng rồi thì khi ở trong đám quân, dẫu có mệnh vua cũng không được phép theo nữa. Nếu theo mệnh vua mà tha cho kẻ có tội thì sao cho quân sĩ phục. Tôn Vũ truyền chém ngay Tả Cơ và Hữu Cơ, đem bêu đầu ở trước hàng quân. Các cung nữ đều sợ run cầm cập, không dám ngẩng nhìn. Tôn Vũ lựa chọn hai người khác ở trong hai đội ấy cho làm tả đội trưởng và hữu đội trưởng, lại nổi trống và tuyên bá hiệu lệnh: Hồi trống thứ nhất đều đứng dậy cả; hồi trống thứ hai đều đi vòng quanh; hồi trống thứ ba hai bên đều hợp chiến, lại đánh thanh la rút quân kéo lui. Lúc tiến lúc lui đều được đúng khuôn phép, không sai một chút nào. Từ trước đến sau đều im lặng như tờ. Bấy giờ Tôn Vũ sai chức chấp pháp đến tâu với Hạp Lư rằng: - Quân đội đã được chỉnh tề rồi, xin tùy ý Đại vương sai khiến, bây giờ dẫu Đại vương sai nhảy vào đống lửa, cũng không ai dám lùi tránh. Hạp Lư thương Tả Cơ và Hữu Cơ lắm, sai làm lễ hậu táng ở Hoành Sơn, rồi lập bàn thờ, gọi là Ái Cơ Từ. Vì cái lòng thương Tả Cơ và Hữu Cơ, mới có ý không muốn dùng Tôn Vũ. Ngũ Viên nói với Hạp Lư rằng: - Đại vương muốn đánh Sở mà làm bá chủ trong thiên hạ, mong tìm được người tướng giỏi. Người tướng giỏi, cần nhất là một điều quả quyết, nếu không Tôn Vũ thì ai là người dám trèo non vượt suối, trải qua nghìn dặm mà sang đánh Sở bây giờ! Gái đẹp dễ có, chứ tướng giỏi khó tìm, nay thương hai nàng ấy mà bỏ mất một tướng giỏi thì khác nào như tiếc đám cỏ xấu mà bỏ mất lúa tốt hay không? Hạp Lư mới tỉnh ngộ ra, liền phong Tôn Vũ làm thượng tướng quân, gọi là quân sư, giao việc đánh Sở. Ngũ Viên hỏi Tôn Vũ rằng: - Bây giờ tiến binh nên làm thế nào? Tôn Vũ nói: - Phàm việc dụng binh, trước hết phải giữ gìn mặt trong đã, rồi mới có thể đánh mặt ngoài được. Tôi nghe nói em Vương Liêu là Yểm Dư ở nước Từ, Chúc Dung ở nước Chung Ngô, hai người ấy đều có ý muốn báo thù. Ngày nay ta nên trừ bỏ hai người ấy, rồi sẽ tiến binh đánh Sở. Ngũ Viên khen phải, tâu với Hạp Lư. Hạp Lư nói: - Từ và Chung Ngô đều là nước nhỏ, ta sai sứ đến bảo bắt hộ, tất phải nghe lời. Hạp Lư liền sai hai người: Một người sang Từ bắt Yểm Dư và một người sang Chung Ngô bắt Chúc Dung. Vua Từ là Chương Vũ không nỡ để cho Yểm Dư chết, mới mật sai người báo Yểm Dư. Yểm Dư trốn đi, lại gặp Chúc Dung. Hai người bàn nhau chạy sang nước Sở. Sở Chiêu Vương mừng mà nói rằng: - Hai Công tử ấy đều thâm oán nước Ngô, ta nên nhân lúc chúng cùng khốn mà kết nạp. Sở Chiêu Vương cho hai Công tử ở đất Thư Thành, để luyện tập quân mã mà chống nhau với nước Ngô. Hạp Lư giận nước Từ và nước Chung Ngô, sai Tôn Vũ đem quân đi đánh. Vua Từ là Chương Vũ chạy sang nước Sở. Tôn Vũ bắt vua nước Chung Ngô đem về, lại lẻn sang đánh Thư Thành, giết Yểm Dư và Chúc Dung. Hạp Lư muốn thừa thắng tiến vào đánh Dĩnh Đô (kinh thành nước Sở). Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng: - Sức dân đã mỏi mệt, chưa nên dùng vội. Tôn Vũ nói xong, liền rút quân về. Ngũ Viên hiến kế rằng: - Phàm ít mà thắng được nhiều, yếu mà thắng được mạnh là tất phải có hiểu cái lẽ dĩ dật đãi lao. Tấn Điệu công ngày xưa chia quân làm ba đạo để làm cho Sở phải khó nhọc, mới đánh được Sở ở đất Tiêu Ngư. Kẻ cầm quyền nước Sở ngày nay đều là những phường ngu dốt không biết gì, xin Đại vương cũng chia quân làm ba đạo để cho sang quấy nhiễu nước Sở, cứ thay đổi nhau, Sở ra thì ra về, mà Sở về thì ra lại ra, khiến cho kẻ kia mỏi mệt, bấy giờ ta sẽ kéo cả ra mà đánh thì tất phá vỡ được. Hạp Lư khen phải, mới chia quân làm hai đạo, cho sang quấy nhiễu bờ cõi nước Sở. Nước Sở đem quân ra cứu, nước Ngô lại rút về, làm cho người nước Sở rất khổ. Hạp Lư có người con gái yêu tên là Thắng Ngọc. Một hôm ăn tiệc, người nhà bếp dâng món cá hấp. Hạp Lư ăn một nửa, còn thừa đưa cho Thắng Ngọc. Thắng Ngọc nổi giận, nói: - Đại vương cho con cá ăn dở, thế là làm nhục ta, ta còn sống làm gì nữa! Thắng Ngọc lui ra, liền tự tử mà chết. Hạp Lư thương lắm mới làm một cái lăng thật to ở ngoài cửa Sương môn, đào hào đắp lũy, những chỗ đất đào thành ra cái hồ lớn (tức là hồ Nữ Phần bây giờ) ; lại tạc đá hoa để làm quách, bao nhiêu những vàng bạc châu báu ở trong kho, đem chôn gần nửa phần; lại chôn thêm cả một thanh bảo kiếm là thanh kiếm Bàn Dĩnh. Sai người múa bạch hạc ở giữa chốn Ngô Thị. Dân kéo đến xem hàng vạn người, nhân tiện bảo các người xem đều vào cửa Toại môn để tống táng. Trong cửa Toại môn có làm một cái máy. Khi dân đã kéo ồ vào, liền giật máy cho cửa đóng sập lại, rồi đem đất lấp. Kể hàng vạn người, vừa trai vừa gái, đều chết tất cả. Hạp Lư nói: - Ta khiến cho hàng vạn người chết theo thì con gái ta ở dưới suối vàng không đến nỗi buồn bã! Đến bây giờ tục nước Ngô: Trên nhà tang đình hay làm con bạch hạc là bởi chuyện này. Lại nói chuyện Sở Chiêu Vương, một hôm đang nằm trong cung bỗng sực thức dậy, thấy bên gối nằm có hào quang sáng rực, liền ngoảnh trông, bắt được một thanh bảo kiếm. Sáng hôm sau, sai triệu Phong Hồ Tử là một người giỏi xem kiếm vào cung, rồi đưa thanh kiếm cho xem. Phong Hồ Tử trông thấy thanh kiếm, kinh sợ mà nói rằng: - Đại vương lấy đâu được thế này! Phong Hồ Tử nói: - Đêm qua ta ngủ dậy, bắt được ở bên gối, chẳng hay đó là thanh kiếm gì? Phong Hồ Tử nói: - Đây là thanh kiếm Trạm Lư của một người kiếm sư tên gọi Âu Giã Tử đúc ra. Ngày xưa vua nước Việt đúc được năm thanh kiếm. Vua nước Ngô là Thọ Mộng muốn lấy, vua nước Việt mới đem dâng ba thanh là Ngư Trường, Bàn Dĩnh và Trạm Lư. Thanh kiếm Ngư Trường, sau đâm chết Vương Liêu, thanh kiếm Bàn Dĩnh sau chôn theo con gái Hạp Lư, chỉ còn có một thanh kiếm Trạm Lư này. Tôi nghe nói thanh thần kiếm này thiêng liêng lắm, hễ ông vua làm điều trái lẽ thì thanh kiếm này biến đi mất, mà thanh kiếm này hiện ra ở nước nào thì nước ấy được cường thịnh. Nay vua Ngô giết Vương Liêu để cướp ngôi, lại chôn sống hàng vạn người để chết theo con gái, người nước Ngô ai cũng oán giận, vậy nên thanh kiếm Trạm Lư này bỏ chỗ vô đạo mà đến chỗ hữu đạo đó! Sở Chiêu Vương bằng lòng, quí thanh kiếm Trạm Lư lắm, rồi đeo luôn ở cạnh mình, lại tuyên bá cho người trong nước biết, lấy làm một cái điềm hay. Hạp Lư mất thanh kiếm, sai người đi dò tìm. Có kẻ bảo là thanh kiếm ấy đã về nước Sở. Hạp Lư nổi giận nói: - Đó tất là vua Sở đút tiền cho những người thị vệ ta để lấy trộm thanh kiếm của ta! Hạp Lư tức thì giết chết mấy chục người thị vệ vẫn hầu chung quanh; lại sai Tôn Vũ, Ngũ Viên và Bá Hi đem quân đi đánh Sở, và sai sứ sang mượn quân nước Việt. Vua nước Việt là Doãn Thường chưa tuyệt giao với Sở, không chịu phát binh. Khi bọn Tôn Vũ đã đánh được đất Lục và đất Tiềm của nước Sở, không thấy có quân tiếp ứng, liền rút quân về. Hạp Lư giận nước Việt không chịu phát binh đánh Sở, toan quay sang đánh. Tôn Vũ can rằng: - Năm nay tuế tinh ở về địa phận nước Việt. Ta đánh Việt tất không lợi. Hạp Lư không nghe, đem quân đánh Việt; phá vỡ quân nước Việt ở đất Huề Lý, cướp lấy của cải rồi lại rút về. Tôn Vũ nói riêng với Ngũ Viên rằng: - Sau bốn mươi năm nữa, chắc là nước Việt cường thịnh mà nước Ngô phải suy vong! Năm sau, quan Lệnh doãn nước Sở là Nang Ngõa đem quân đánh Ngô, để báo thù trận đánh ở đất Lục và đất Tiềm khi trước. Hạp Lư sai Tôn Vũ và Ngũ Viên đem quân ra nghênh chiến, phá vỡ quân nước Sở ở đất Sào, bắt được tướng Sở là Can Phồn đem về. Hạp Lư nói: - Chưa vào tới Dĩnh Đô (kinh thành nước Sở) thì dẫu phá vỡ quân Sở, cũng là vô công! Ngũ Viên nói: - Tôi có lúc nào quên được Dĩnh Đô đâu, chỉ vì nước Sở đang cường thịnh, chớ nên khinh thường. Nang Ngõa (quan Lệnh Doãn nước Sở) dẫu không được lòng dân, mà chưa ai ghét cả, nhưng tôi nghe Nang Ngõa hay ăn tiền, chẳng bao lâu chư hầu tất cũng sinh biến, bấy giờ ta sẽ nhân dịp mà đánh Sở. Hạp Lư giao cho Tôn Vũ luyện tập thủy quân; còn Ngũ Viên thì ngày nào cũng sai người dò thám công việc nước Sở. Một hôm nghe báo có nước Đường và nước Sái sai sứ sang thông hiếu, hiện đã tới cõi ngoài. Ngũ Viên mừng mà nói rằng: - Đường và Sái đều là thuộc quốc của nước Sở nay tự nhiên sai sứ sang thông hiếu với ta, tất bởi có lòng oán Sở. Ấy là cái cơ hội trời khiến cho ta phá Sở, tiến vào Dĩnh Đô đó! Nguyên các nước chư hầu thấy Sở Chiêu Vương bắt được thanh kiếm Trạm Lư, đều đến chúc mừng. Đường Thành công và Sái Chiêu công cũng đến. Sái Chiêu công có một đôi dương chi bạch ngọc bội và hai bức ngân điêu thử cừu, mới đem mỗi thứ một chiếc dâng Sở Chiêu Vương để làm lễ chúc mừng, còn thì để mình đeo và mặc. Nang Ngõa trông thấy thích lắm, sai người đòi lấy. Đường Thành công có một đôi ngựa rất quí, tên gọi Túc Sương, đem đôi ngựa ấy thắng xe đi đến nước Sở, đi nhanh mà êm lắm! Nang Ngõa cũng có ý thích, sai người đòi lấy, Đường Thành công không cho. Khi Đường Thành công và Sái Chiêu công vào triều xong, Nang Ngõa nói dèm với Sở Chiêu Vương rằng: - Đường và Sái tư thông với Ngô, nếu tha cho về thì tất dẫn Ngô sang đánh Sở, chi bằng ta bắt giữ lại. Sở Chiêu Vương truyền cho giam Đường Thành công và Sở Chiêu Vương ở nhà quán xá, cho 1.000 quân canh giữ. Bấy giờ Sở Chiêu Vương còn ít tuổi, quyền chính đều ở tay Nang Ngõa. Đường Thành công và Sái Chiêu công bị giam ở Sở, đã ba năm trời. Thế tử nước Đường không thấy Đường Thành công về, sai quan Đại phu là Công tôn Triết đến nước Sở thăm tin, mới biết là Đường Thành công bị giam. Công tôn Triết nói riêng với thị vệ rằng: - Chúa công ta tiếc đôi ngựa mà chịu giam mãi ở nước Sở, sao lại trọng súc vật mà khinh nước nhà như thế! Chi bằng chúng ta lấy trộm đôi ngựa ấy đem dâng quan Lệnh doãn nước Sở; dẫu khi Chúa công về nước, có trị chúng ta về tội trộm ngựa thì chúng ta cũng cam lòng! Các thị vệ theo lời, liền đem rượu cho kẻ ngữ nhân uống thật say, rồi lấy trộm đôi ngựa đem dâng Nang Ngõa và nói với Nang Ngõa rằng: - Chúa công tôi có lòng kính mến quan Lệnh Doãn, vậy sai chúng tôi đem đôi ngựa quí này đến dâng. Nang Ngõa mừng lắm, nhận lấy đôi ngựa. Ngày hôm sau vào tâu với Sở Chiêu Vương rằng: - Nước Đường đất nhỏ quân ít, dẫu ta có tha cho về, cũng chẳng làm gì ta nổi. Sở Chiêu Vương nghe lời, tức thì tha cho Đường Thành công về nước. Khi Đường Thành công đã về đền nước Đường. Công tôn Triết và các thị vệ đều sụp lạy ở trước sân để xin chịu tội. Đường Thành công nói: - Nếu các ngươi không đem ngựa mà dâng cho đứa tham phu ấy thì làm sao ta được về nước. Đó là cái lỗi của ta, các ngươi cũng chớ oán ta mà thôi. Đường Thành công trọng thưởng cho Công tôn Triết và các thị vệ. Sái Chiêu công nghe nói Đường Thành công dâng ngựa được về, cũng đem áo cừu và ngọc bội dâng Nang Ngõa. Nang Ngõa lại nói với Sở Chiêu Vương rằng: - Sái cũng như Đường, ta đã tha cho Đường thì còn giữ Sái làm gì nữa. Sở Chiêu Vương theo lời. Sái Chiêu công cáo từ lui về, trong lòng căm tức; khi đến sông Hàn Thủy, cầm viên bạch bích ném xuống sông mà thề rằng: - Nếu ta không đánh được Sở mà lại qua sông này nữa thì xin chết như thế này! Khi về nước tức khắc cho Thế tử Nguyên sang ở làm tin tại nước Tấn, để mượn quân đánh nước Sở. Tấn Định công đem việc Nang Ngõa tham lam vào tố cáo với Chu Kinh Vương. Chu Kinh Vương sai quan khanh sĩ là Lưu Quyền đem quân đến giúp. Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trần, Trịnh, Hứa, Tào, Cử, Châu, Đốc, Hồ, Đăng, Tiết, Kỷ, Tiểu Châu Tử và Sái, cả thẩy 17 nước chư hầu đều oán Nang Ngõa là người tham lam mà đem quân theo Tấn. Sĩ Ưởng nước Tấn làm đại tướng, Tuân Dinh làm phó tướng, đem quân chư hầu đi hội ở đất Thiệu Lãng, Tuân Di nghĩ mình vì Sái đánh Sở là có công với Sái, vậy cũng muốn đòi ăn tiền, sai người bảo Sái Chiêu công rằng: - Tôi nghe nói nhà vua có áo cừu và ngọc bội, đem dâng vua nước Sở, sao đến nước tôi không có gì cả. Chúng tôi vì nhà vua mà cất quân đi, kể hàng nghìn dặm, chẳng hay nhà vua định lấy gì mà khao thưởng quân sĩ của nước tôi? Sái Chiêu công nói: - Tôi thấy quan Lệnh doãn nước Sở là người tham lam, vậy nên bỏ Sở mà theo Tấn. Nay ngài nghĩ cái nghĩa minh chủ mà đem quân đánh Sở thì 500 dặm đất ở Kinh Tương kia đều là khao thưởng quân sĩ cả, còn gì lợi hơn! Tuân Di nghe nói, có ý hổ thẹn. Bấy giờ trời mưa to luôn mãi, quan khanh sĩ nhà Chu bị bệnh sốt rét, Tuân Di mới nói với Sĩ Ưởng rằng: - Ngày xưa Tề Hoàn công cường thịnh như thế mà còn chịu đóng quân ở Thiệu Lăng để giảng hòa với Sở. Tiên quân nước ta là Văn công chỉ được Sở có một trận mà việc tranh chiến cứ lan man mãi không thôi. Nước ta từ khi cùng Sở giảng hòa, hai bên vẫn không hiềm khích gì với nhau, vậy thì ta không nên gây ra việc tranh chiến. Huống chi độ này mưa nhiều nước lụt, bệnh sốt rét đang phát, tôi e rằng tiến lên vị tất đã đánh được Sở, mà lui về lại bị quân Sở đuổi theo, ta nên lo trước mới được. Sĩ Ưởng cũng là một đứa tham phu, muốn ăn tiền của nước Sái, nhưng chưa được mãn nguyện, mới mượn cớ mưa nhiều nước lụt, tiến binh không lợi, cho Thế tử Nguyên trở về nước Sái rồi hạ lệnh rút quân. Các nước chư hầu thấy nước Tấn rút quân, cũng đều rút quân về nước cả. Sái Chiêu công thấy các nước rút quân về, trong lòng chán ngán, khi về qua nước Thẩm giận vua Thẩm không theo đánh Sở, mới sai quan Đại phu là Công tôn Tinh đem quân đánh Thẩm, bắt vua Thẩm giết đi, để cho hả cái lòng oán Sở, Nang Ngõa giận lắm, đem quân đánh Sái, vây thành nước Sái. Công tôn Tinh nói với Sái Chiêu công rằng: - Ta không trông cậy về nước Tấn được, chi bằng sang cầu viện nước Ngô. Các quan nước Ngô như Ngũ Viên, Bá Hi đều là cừu địch với Sở, tất thế nào cũng giúp ta. Sái Chiêu công nghe lời, liền sai Công tôn Tinh sang ước với Đường Thành công để cùng đi mượn quân nước Ngô. Lại cho người con thứ là Công tử Kiền sang ở làm tin, Ngũ Viên đưa vào yết kiến Hạp Lư và nói với Hạp Lư rằng: - Đường và Sái oán giận nước Sở mà xin làm tiên phong để sang đánh Sở. Cứu Sái là một cái tiếng tốt, đánh Sở là một cái lợi to. Đại vương muốn tiến binh vào Dĩnh Đô thì nên nhân cơ hội này! Hạp Lư nhận lời, rồi sai Công tôn Tinh về trước để báo cho Sái Chiêu công biết. Hạp Lư đang bàn việc tiến binh, bỗng nghe báo có Quân sư là Tôn Vũ xin vào yết kiến. Hạp Lư mời vào. Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng: - Nước Sở khó đánh là vì có nhiều thuộc quốc, ta chưa dễ tiến đến tận nơi được. Nay vua Tấn xướng lên một câu mà 18 nước họp; trong 18 nước ấy thì Trần, Hứa, Hồ và Đốn đều là thuộc quốc của nước Sở, mà cũng bỏ Sở theo Tấn, xem thế thì biết người ta đều oán Sở, chẳng những Đường và Sái, phen này nước Sở thế cô rồi! Hạp Lư bằng lòng, sai Bị Ly và Chuyên Nghị giúp Thế tử Ba giữ nước, cho Tôn Vũ làm đại tướng, Ngũ Viên và Bá Hi làm phó tướng, Công tử Phu Khái làm tiên phong, Công tử Sơn đốc vận lương thực, rồi đem 60.000 quân Ngô theo đường thủy qua sông Hoài, tiến sang nước Sái. Nang Ngõa thấy Ngô thế to lắm, liền giải vây nước Sái mà chạy về, lại sợ quân Ngô kéo qua sông Hàn Thủy, mới đóng quân giữ ở đấy và sai người về Dĩnh Đô cáo cấp. Sái Chiêu công ra nghênh tiếp Hạp Lư, rồi kể những tội ác của vua tôi nước Sở, vừa kể vừa khóc. Được một lúc Đường Thành công cũng đến. Đường Thành công và Sái Chiêu công tình nguyện cùng theo đánh Sở. Lúc sắp khởi hành, Tôn Vũ truyền cho quân sĩ lên cả đường bộ, còn bao nhiêu thuyền bè cứ để ở khúc sông Hoài. Ngũ Viên thấy vậy, hỏi riêng Tôn Vũ. Tôn Vũ nói: - Ta đi đường thủy thì ngược nước mà chậm, khiến cho quân Sở phòng bị trước được, khó lòng phá nổi. Ngũ Viên rất lấy làm phục. Đại binh nước Ngô qua đường Dự Chương tiến thẳng đến đóng ở phía Bắc sông Hán Thủy, còn quân Sở đóng ở phía nam. Nang Ngõa ngày đêm chỉ lo quân Ngô tiến đến, nghe nói thuyền bè nước Ngô đóng cả ở khúc sông Hoài, bấy giờ yên mới lòng. Sở Chiêu Vương nghe tin quân Ngô sắp sang đánh, liền họp các quan lại để hỏi kế. Công tử Thân nói: - Tử Thường không phải là tài đại tướng. Đại vương nên sai quan Tư mã là Thẩm Doãn Thú đem quân đi giữ cho quân Ngô khỏi sang qua sông Hán Thủy, kẻ kia đi xa xôi không có tiếp ứng thì tất không ở lâu được! Sở Chiêu Vương theo lời, Thẩm Doãn Thú đem 15.000 quân hợp cũng Nang Ngõa để chống giữ với quân Ngô. Thẩm Doãn Thú đem quân tới nơi. Nang Ngõa đón vào. Thẩm Doãn Thú hỏi rằng: - Quân Ngô đi đường nào mà đến đây chóng được như vậy? Nang Ngõa nói: - Quân Ngô bỏ thuyền bè ở khúc sông Hoài, rồi theo đường bộ qua Dự Chương tới đây. Thẩm Doãn Thú cười ha hả mà nói rằng: - Người ta nói Tôn Vũ dụng binh như thần, cứ như ta xem thì khác nào trò trẻ. Nang Ngõa hỏi: - Sao vậy? Thẩm Doãn Thú nói: - Người nước Ngô tập quen thuyền bè, lợi về sự đánh thủy, nay lại bỏ thuyền bè ở khúc sông Hoài để đi cho chóng, vạn nhất thua trận thì lấy đường nào mà chạy về. Ta nghĩ cũng nực cười! Nang Ngõa nói: - Quân kia hiện đang đóng ở phía bắc sông Hán Thủy, ta dùng kế gì mà phá được Thẩm Doãn Thú nói: - Tôi chia cho Ngài năm ngàn quân. Ngài cứ theo dọc bờ sông Hán Thủy mà đóng đồn, bao nhiêu thuyền bè bắt để cả ở bên này sông, lại sai quân thủy đi tuần khắp mặt sông, khiến cho quân Ngô không thể nào mà sang qua sông được, rồi tôi đem đại binh qua đường Tân Tức đi thẳng sang sông Hoài, đốt hết những thuyền bè của quân Ngô đi lại, dùng gỗ, đá lấp con đường Hán Đông. Khi bấy giờ Ngài đem quân qua sông Hán Thủy đánh vào mặt trước, tôi đem quân đánh mặt sau. Kẻ kia thủy bộ đều nghẽn cả, không có đường mà chạy, chắc hẳn là ta bắt sống được vua tôi nước Ngô. Nang Ngõa mừng lắm, nói: - Tôi chịu kém cái tài cao đoán của quan Tư mã. Thẩm Doãn Thú cho quan Đại tướng là Vũ Thành Hắc coi năm ngàn quân ở lại để giúp Nang Ngõa, còn mình đem đại binh tiến thẳng về con đường Tân Tức. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 76 Hạp Lư tiến vào Dĩnh Đô Ngũ Viên khai quật mộ vua Sở Bấm để xem Thẩm Doãn Thú đem quân đi rồi, quân Ngô và quân Sở vẫn chống giữ nhau ở hai bên bờ sông Hán Thủy. Được mấy ngày, Vũ Thành Hắc muốn xu nịnh Nang Ngõa, mới nói với Nang Ngõa rằng: - Quân Ngô bỏ thuyền lên cạn thì còn lấy gì làm tài giỏi, lại không thuộc địa thế, vậy nên quan Tư mã đã chắc là tất thua. Nay quân Ngô cố đánh đã trong mấy hôm mà không thể qua sông được thì tất sinh lòng trễ biếng, ta nên tiến binh sang mà đánh ngay. Một người tướng yêu của Nang Ngõa tên gọi Sử Hoàng cũng nói: - Người trong nước ngày nay yêu Ngài thì ít, mà yêu quan Tư mã thì nhiều. Nếu quan Tư mã đem quân đốt được thuyền bè nước Ngô thì trận đánh Ngô này, quan Tư mã được công đầu. Như ngài đây làm quan lệnh doãn, quyền cao chức trọng mà đã bị mấy lần thua trận, nay lại nhượng cái công đầu ấy cho quan Tư mã thì còn mặt mũi nào đứng đầu hàng trăm quan nữa! Tôi chắc rằng quan Tư mã tất thay Ngài làm lệnh doãn mà thôi, chi bằng ta theo cái kế của Vũ Thành Hắc đem quân qua sông mà quyết một trận thắng phụ. Nang Ngõa tin lời nói ấy, mới truyền tiến binh qua sông Hán Thủy, sang bày trận ở Tiểu Biệt Sơn. Sử Hoàng đem quân ra khiêu chiến. Tôn Vũ sai tướng Tiên phong là Công tử Phu Khái đem quân ra đối địch. Công tử Phu Khái chọn ba trăm quân dũng sĩ, đều dùng thứ gỗ tốt làm tay thước, gặp quân Sở đâu thì đánh túi bụi vào đầu. Quân Sở thấy vậy, đều kinh sợ không thể địch nổi, bị quân Ngô đánh cho một trận. Sử Hoàng thua to chạy về, Nang Ngõa bảo Sử Hoàng rằng: - Nhà ngươi xui ta qua sông Hán Thủy, nay mới đánh có một trận mà đã bị thua, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa! Sử Hoàng nói: - Nay đại binh vua Ngô đóng ở dưới núi Đại Biệt Sơn, chi bằng đêm nay đương lúc bất ngờ, đem quân sang đánh thì có thể bắt sống vua Ngô được. Nang Ngõa theo lời, liền tuyển một vạn quân, định đêm hôm ấy theo con đường tắt tiến sang Đại Biệt Sơn. Tôn Vũ được tin Công tử Phu Khái thắng trận, các tướng đều đến chúc mừng. Tôn Vũ nói: - Nang Ngõa là một người ngu dốt, nay Sử Hoàng dẫu thua trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm. Đêm nay tất thế nào cũng lẻn đến mà đánh đại binh ta, ta nên phòng bị trước mới được. Tôn Vũ sai Công tử Phu Khái và Chuyên Nghị đem quân bản bộ phục hai bên Đại Biệt Sơn, và sai Đường Thành công cùng Sái Chiêu công chia quân làm hai đạo để tiếp ứng. Lại sai Ngũ Viên đem 5.000 quân lẻn sang Tiểu Biệt Sơn để đánh đại binh của Nang Ngõa, còn Bá Hi thì đem quân tiếp ứng. Tôn Vũ lại sai Công tử Sơn bảo hộ vua Ngô (Hạp Lư) sang đóng đồn ở Hán Âm Sơn để tránh nơi xung đột. Trống canh ba đêm hôm ấy, quả nhiên Nang Ngõa đem quân lẻn đến đại dinh của quân Ngô, thấy im lặng như tờ, chẳng có phòng bị gì cả; khi tiến vào trong dinh, cũng chẳng thấy vua Ngô đâu cả. Nang Ngõa nghi có quân phục, vội vàng trở ra, bỗng gặp hai đạo quân của Chuyên Nghị và Công tử Phu Khái ở hai bên đổ ra đánh. Đường Thành công quát to lên mà bảo Nang Ngõa rằng: - Trả lại đôi ngựa Túc Sương của ta thì ta tha chết cho nhà ngươi! Sái Chiêu công cũng quát to lên mà bảo rằng: - Trả lại áo cừu và ngọc bội của ta thì ta tha cho! Nang Ngõa vừa buồn vừa thẹn, vừa tức, vừa sợ. Trong khi nguy cấp, may nhờ có toán quân của Vũ Thành Hắc kéo đến, cứu được Nang Ngõa chạy. Chạy được mấy dặm, nghe báo đại doanh của mình đã bị tướng nước Ngô là Ngũ Viên cướp mất rồi, còn Sử Hoàng thua trận, không biết chạy đi đâu mất. Nang Ngõa kinh sợ chẳng còn hồn vía nào cả, đem lũ bại binh chạy sang đất Bách Cử, được một lúc lâu thì thấy Sử Hoàng cũng đem bại binh đến đấy, mới cùng nhau lập ra đồn trại. Nang Ngõa nói: - Tôn Vũ dụng binh thật là tài giỏi! Chi bằng ta hãy trốn về, để xin thêm quân rồi lại giao chiến. Sử Hoàng nói: - Ngài đem đại binh đi đánh Ngô, nay bỏ mà trốn về, vạn nhất quân Ngô qua sông Hán Thủy, tiến thẳng vào Dĩnh Đô thì cái tội ấy đổ cho ai được, chi bằng cố sức mà đánh, dẫu chết tại trận tiền cũng còn để được cái tiếng thơm về sau. Nang Ngõa còn đang ngần ngại thì nghe báo Sở Chiêu Vương đã cho một toán quân đến tiếp ứng. Nang Ngõa vội vàng ra nghênh tiếp thì trông thấy quan Đại tướng là Viễn Xạ. Viễn Xạ nói: - Đại vương nghe tin quân Ngô thế to lắm, sợ quan Lệnh doãn không thể đánh nổi, vậy có sai tôi đem 10.000 quân đến đây để trợ chiến. Viễn Xạ lại hỏi đến những sự đánh nhau về trước. Nang Ngõa thuật lại, nét mặt có ý bẽn lẽn. Viễn Xạ nói: - Nếu quan Lệnh doãn theo lời quan Tư mã thì can gì đến nỗi thế này! Bây giờ chỉ có một kế: Đào hào, đắp lũy, không đánh nhau nữa, đợi toán quân của quan Tư mã về rồi sẽ cùng nhau hợp chiến. Nang Ngõa nói: - Chỉ vì ta khinh thường sang đánh đại doanh quân Ngô, thành ra bị quân Ngô cướp mất đại doanh của mình, chứ nếu hai bên cứ đối trận với nhau thì quân Ngô cũng chẳng mạnh hơn quân Sở ta được. Nay tướng quân mới đến đây, nên nhân cái nhuệ khí của ta mà quyết chiến một trận. Viễn Xạ không nghe, lập riêng một nơi đồn trại khác, cách đồn trại Nang Ngõa những hơn 10 dặm. Nang Ngõa cậy mình quyền cao chức trọng, không sợ Viễn Xạ. Viễn Xạ cũng khinh Nang Ngõa là người ngu dốt, có ý không chịu. Hai bên thành ra bất hòa, việc gì cũng không bàn bạc với nhau nữa. Tướng nước Ngô là Công tử Phu Khái dò biết là Nang Ngõa và Viễn Xạ bất hòa với nhau, mới vào nói với vua Ngô là Hạp Lư rằng: - Nang Ngõa tham mà bất nhân, có nhiều người oán; Viễn Xạ dẫu đến trợ chiến, nhưng không chịu theo hiệu lệnh, bởi vậy quân sĩ đều sinh lòng trễ biếng, nếu ta đuổi đánh thì có thể phá vỡ được. Hạp Lư không nghe. Công tử Phu Khái lui ra mà nói rằng: - Dẫu Đại vương không nghe, nhưng ta vẫn cứ đi, may ra phá vỡ quân Sở thì có thể tiến vào Dĩnh Đô được. Sáng hôm sau, Công tử phu Khái tự đem quân bản bộ sang đánh Nang Ngõa. Tôn Vũ nghe tin, vội vàng sai Ngũ Viên đem quân đi tiếp ứng. Công tử Phu Khái tiến vào đánh trại Nang Ngõa. Nang Ngõa không phòng bị gì cả. Trong trại náo loạn. Vũ Thành Hắc liều chết để đánh. Nang Ngõa không kịp lên xe, đi đất chạy ra sau trại, đùi chân trái bị một mũi tên, may nhờ có Sử Hoàng đem quân đến, vực Nang Ngõa lên xe và bảo Nang Ngõa rằng: - Quan Lệnh doãn liệu mà tránh đi, còn tôi xin liều chết ở đây. Nang Ngõa cởi bỏ áo bào ra, rồi ngồi xe đi thẳng, không dám trở về Dĩnh Đô, liền trốn sang nước Trịnh. Ngũ Viên tiến quân đến. Sử Hoàng sợ Ngũ Viên đuổi theo Nang Ngõa, mới cầm kích xông vào đánh, giết chết quân Ngô hơn 200 người. Quân Sở chết hại cũng độ số ấy. Sử Hoàng bị trọng thương mà chết. Vũ Thành Hắc đánh nhau với Công tử Phu Khái, nhưng đánh không nổi, cũng bị Công tử Phu Khái chém chết. Con Viễn Xạ là Viễn Diên nghe tin Nang Ngõa bị thua, vào nói với cha, xin đem quân ra cứu. Viễn Xạ không cho, lại thân hành ra đứng ở cửa dinh nghiêm cấm quân sĩ không ai được náo động, nếu náo động thì chém. Những bại binh của Nang Ngõa đều về với Viễn Xạ. Viễn Xạ điểm lại, còn có hơn một vạn; mới hợp cả lại, thành một đạo quân. Bấy giờ quân thế lại mạnh. Viễn Xạ nói: - Quân Ngô thừa thắng kéo đến đây thì ta không thể địch nổi, chi bằng ta nhân lúc quân Ngô chưa đến mà rút về Dĩnh Đô, rồi sau sẽ liệu. Viễn Diên đi trước, Viễn Xạ đi sau. Công tử Phu Khái nghe tin Viễn Xạ rút về, liền đem quân đuổi theo. Theo đến đất Thanh Phát, quân Sở đang sắp thuyền để qua sông. Quân Ngô toan xông vào đánh. Công tử Phu Khái can rằng: - Dẫu giống thú mà mình làm quá lắm, nó còn cắn lại, huống chi là người. Nay ta xông vào đánh gấp thì tất họ phải liều chết để cự lại, chi bằng ta hãy tạm đóng quân một nơi, đợi khi quân Sở qua sông được nửa chừng, bấy giờ đổ ra mà đánh. Ta chắc rằng quân Sở kẻ nào đã qua sông rồi thì mong được thoát nạn, kẻ nào chưa qua sông thì tranh nhau mà sang, còn ai muốn đánh nữa. Công tử Phu Khái tức thì lui 20 dặm mà đóng quân lại. Khi bọn Tôn Vũ kéo đến, nghe lời nói của Công tử Phu Khái, ai cũng khen phải. Hạp Lư bảo Ngũ Viên rằng: - Ta có người em như thế thì lo gì mà không tiến vào Dĩnh Đô được. Ngũ Viên nói: - Tôi nghe Bị Ly đã có xem tướng Công tử Phu Khái, nói Phu Khái là người chân lông mọc ngược, tất có ngày phản nghịch. Dẫu tài giỏi thật, nhưng chớ nên giao quyền cho. Hạp Lư nghe nói, không cho là phải. Viễn Xạ nghe tin quân Ngô đuổi theo, đã toan bày trận để đối địch, sau lại nghe tin quân Ngô kéo lui, mới mừng mà nói rằng: - Ta vẫn biết người nước Ngô nhát không dám đuổi kỳ cùng! Viễn Xạ hạ lệnh cho quân sĩ sắp sửa để kéo qua sông. Trong mười phần quân Sở mới qua sông được ba phần thì Công tử Phu Khái đem quân đến. Quân Sở tranh nhau sang đò, thành ra đại loạn. Viễn Xạ không thể nào ngăn cấm được nữa, phải bỏ mà chạy trốn. Quân Ngô theo sau đuổi đánh, cướp được cờ trống, gươm giáo rất nhiều. Tôn Vũ sai quân Đường và quân Sái cướp lấy những thuyền bè dưới sông để phòng khi dùng đến. Viễn Xạ chạy đến đất Ung Lạp, quân sĩ đều đói, không thể đi được, mừng rằng chạy được xa rồi, mới cùng nhau nấu cơm ăn. Khi cơm vừa chín thì quân Ngô lại kéo đến. Quân Sở chưa kịp ăn, bỏ cả cơm mà chạy. Quân Ngô sẵn cơm, liền ăn cho no rồi lại đuổi theo. Quân Sở ngã xéo lên nhau, chết hại không biết bao nhiêu mà kể! Viễn Xạ đổ xe, bị Công tử Phu Khái đâm chết. Con Viễn Xạ là Viễn Diên cũng bị quân Ngô vây kín. Viễn Diên cố sức đánh mà không thể ra thoát được. Bỗng nghe ở phía đông bắc, lại có tiếng quân reo. Viễn Diên nói: - Quân Ngô lại kéo đến nữa thì tính mệnh ta không toàn! Nguyên đó là toán quân của quan Tư mã nước sở, tên gọi Thẩm Doãn Thú kéo sang Tân Tức, nhưng nghe tin Nang Ngõa thua trận, mới theo đường cũ lui về. Về đến đất Ung Lạp, vừa gặp quân Ngô đang vây Viễn Diên. Thẫm Doãn Thú mới chia quân làm ba toán mà tiến vào. Công tử Phu Khái không thể địch nổi, giải vây mà chạy. Thẩm Doãn Thú cố đánh một trận. Quân Ngô chết mất hơn 1.000 người. Thẩm Doãn Thú toan đuổi theo thì gặp đại binh của Hạp Lư đến. Hai bên cùng đóng quân lại để chống giữ nhau. Thẩm Doãn Thú bảo kẻ gia thần là Ngô Câu Ty rằng: - Quan Lệnh doãn vội đánh, làm cho kế của ta không thành, chẳng qua cũng là lòng trời. Nay thế giặc đã to quá, âu là sáng mai ta quyết chiến một trận, may mà thắng thì là phúc cho nước Sở, nhược bằng không thắng thì ta xin gửi nhà ngươi giữ hộ cái đầu của ta, chớ để cho quân Ngô bắt được. Thẩm Doãn Thú lại bảo Viễn Diên rằng: - Thân phụ nhà ngươi đã chết về tay giặc thì nhà ngươi không nên chết nữa, nên mau mau về đi mà nói với Tử Tây (tên tự của Công tử Thân) để nghĩ cách giữ lấy Dĩnh Đô mới được. Viễn Diên sụp lạy mà nói rằng: - Xin quan Tư mã cố sức mà tảo trừ giặc Ngô để lập nên công lớn. Nói xong nước mắt chảy xuống ròng ròng, từ biệt Thẩm Doãn Thú rồi đi. Ngày hôm sau, hai bên bày trận giao chiến. Thẩm Doãn Thú xưa nay xử với quân sĩ rất có ân nghĩa; quân sĩ cảm cái ơn ấy đều cố sức để đánh giặc. Công tử Phu Khái dẫu có tài vũ dũng, nhưng không thể địch nổi, đã sắp phải thua chạy. May gặp đại binh của Tôn Vũ, phía hữu có Ngũ Viên và Sái Chiêu công, phía tả có Bá Hi và Đường Thành công, cùng nhau xông vào đánh quân Sở. Quân Sở bỏ chạy tán loạn. Thẩm Doãn Thú bị mấy mũi tên, nằm gục ở trên xe, không thể đánh được nữa, liền gọi Ngô Câu Ty mà bảo rằng: - Ta nay đã thành ra người vô dụng rồi, nhà ngươi nên mau mau lấy đầu ta mà đem về tâu với Đại vương. Ngô Câu Ty không nỡ. Thẩm Doãn Thú cố sức gào lên một tiếng rồi nhắm mắt lại. Ngô Câu Ty bất đắc dĩ cầm thanh kiếm chém lấy đầu Thẩm Doãn Thú, rồi bọc lại mà mang về Dĩnh Đô. Quân Ngô thừa thế, cứ việc thẳng đường mà tiến. Viễn Diên về trước, vào Yết kiến Sở Chiêu Vương, kể những chuyện Nang Ngõa và thân phụ là Viễn Xạ bị giết, vừa kể vừa khóc. Sở Chiêu Vương kinh sợ, vội vàng triệu bọn Công tử Thân và Công tử Kết đến để thương nghị, toan đem quân ra tiếp ứng. Bỗng thấy Ngô Câu Ty đến, đệ trình cái đầu Thẩm Doãn Thú và thuật lại những chuyện thua trận là bởi quan Lệnh doãn không theo kế quan Tư mã, đến nỗi như thế! Sở Chiêu Vương khóc mà nói rằng: - Ta không biết dùng quan Tư mã ngay từ trước, ấy là cái lỗi của ta! Sở Chiêu Vương sỉ mắng Nang Ngõa là một kẻ gian thần, làm việc nước mà lại còn tham sống thì thịt Nang Ngõa dẫu giống khuyển thỉ cũng không thèm ăn. Ngô Câu Ty nói: - Quân Ngô mỗi ngày một tiến, Đại vương nên nghĩ cách để mà phòng giữ lấy Dĩnh Đô. Sở Chiêu Vương một mặt sai người triệu Thẩm Chư Lương (con Thẩm Doãn Thú) để đem đầu người cha về mà làm lễ an táng, lại phong cho Thẩm Chư Lương làm Diệp công, một mặt bàn bỏ Dĩnh Đô chạy về phía tây. Công tử Thân khóc mà can rằng: - Xã tắc lăng tẩm ở Dĩnh Đô cả, nếu Đại vương bỏ đi thì biết bao giờ lại về được! Sở Chiêu Vương nói: - Nước Sở ta chỉ hiểm về sông Hán Thủy, nay quân Ngô đã sắp kéo đến nơi, chẳng lẽ ta cứ bó tay mà ngồi chịu trói hay sao! Công tử Kết nói: - Những tráng đinh trong thành hãy còn mấy vạn. Đại vương nên đem thóc lụa trong kho ban thưởng cho mọi người, để biết cảm ơn mà cố sức chống giữ; lại sai sứ sang bảo các nước về phương Hán Đông đem quân vào đánh giúp. Quân Ngô tiến vào đất ta, lương thực khó vận, tài nào mà ở lâu được. Sở Chiêu Vương nói: - Quân Ngô lấy lương ở nước ta, lo gì sự thiếu ăn. Ta xem như Đốn, Hồ theo Tấn; Trần, Sái theo Ngô thì biết là các thuộc quốc đều có lòng bỏ ta, ta còn trông cậy nỗi gì. Công tử Thân lại nói: - Tôi xin đem quân ra, cố sức mà đánh giặc, nếu đánh không được, bấy giờ sẽ chạy, cũng chưa lấy gì làm chậm. Sở Chiêu Vương nói: - Nước ta còn hay mất, nay ở tay hai anh (chỉ Công tử Thân và Công tử Kết), nên làm thế nào thì làm, ta đây cũng không được biết. Sở Chiêu Vương gạt nước mắt trở vào trong cung. Công tử Kết thương nghị, sai quan Đại tướng là Đấu Sào đem 5000 quân ra giữ Mạch Thành để phòng đường bắc; quan Đại tướng là Tống Mộc đem 5000 quân ra giữ Kỷ Nam Thành để phòng đường tây bắc. Công tử Thân đem một vạn quân đóng ở Lỗ Phục Giang để phòng mặt đông. Chỉ còn phía tây Xuyên Giang, phía nam Tương Giang, đều là nơi hiểm trở, không phải là đường quân Ngô tiến vào, bất tất phải phòng bị. Công tử Kết đem bọn Công tôn Do Vu, Công tôn Ngữ, Chung Kiến, Thân Bao Tư đi tuần ở trong thành rất là nghiêm mật. Vua Ngô là Hạp Lư họp các tướng để hỏi kỳ tiến vào Dĩnh Đô. Ngũ Viên nói với Hạp Lư rằng: - Quân Sở dẫu thua luôn, nhưng Dĩnh Đô vẫn còn toàn thịnh. Vả lại ba thành liên tiếp với nhau, chưa dễ đánh nổi! Lỗ Phục Giang ở phía tây là một lối tắt vào Sở, tất Sở có quân phòng bị. Nay ta cứ theo mặt bắc tiến vào, chia quân làm ba đạo: Một đạo đánh Mạch Thành; một đạo đánh Kỷ Nam Thành; còn đại vương thì đem đại binh kéo thẳng vào Dĩnh Đô. Như vậy thì khác nào sấm vang không kịp bưng tai, kẻ kia giữ chỗ này mất chỗ nọ, ta có thể phá vỡ Dĩnh Đô được. Tôn Vũ khen phải, Hạp Lư liền sai Ngũ Viên và Công tử Sơn đem một vạn quân đi đánh Mạch Thành, quân Sái theo giúp đạo ấy; Tôn Vũ và Công tử Phu Khái đem một vạn quân đi đánh Kỷ Nam Thành, quân Đường theo giúp đạo ấy; còn mình thì cùng với bọn Bá Hi đem đại binh tiến vào đánh Dĩnh Đô. Ngũ Viên đi mấy ngày, đã gần đến Mạch Thành, nghe nói có quan Đại tướng nước sở là Đấu Sào đóng quân ở đấy, liền sai lập đồn trại, rồi thay hình đổi dạng, cùng với hai tên lính đi xem xét địa thế. Đi đến một làng, thấy người trong làng đang bắt con lừa xay lúa mạch. Người ấy cầm roi đánh con lừa, con lừa chạy thì cái cối xay quay chuyển đi rồi hột lúa mạch lấm tấm rơi xuống. Ngũ Viên thấy vậy, sực nghĩ ra mà rằng: - Ta tìm được kế để phá Mạch Thành rồi! Ngũ Viên liền trở về dinh, mật truyền cho quân sĩ, mỗi người phải tìm một cái túi vải, trong có chứa đất, lại phải làm một bó cỏ, hẹn đến đầu canh năm sáng hôm sau thì đem nộp, ai không có sẽ bị chém; lại truyền lệnh mỗi người đến đầu canh năm sáng hôm sau, phải có bao nhiêu đá vụn, nếu không cũng chém. Sáng hôm sau chia quân làm hai đạo: Sái Chiêu công đem một đạo quân đến phía đông Mạch Thành, còn Công tử Kiền (con Sái Chiêu công) đem một đạo quân đến phía tây Mạch Thành, hai đạo truyền cho quân sĩ đem đất đá và cỏ đắp một cái thành nhỏ. Ngũ Viên thân hành đứng đốc xuất quân sĩ, chỉ trong một lúc thì đắp xong. Một cái thành hẹp mà dài, giống hình con lừa, gọi là Lư Thành, còn một cái thành tròn, giống hình cối xay, gọi là Ma Thành. Sái Chiêu công không hiểu ra ý làm sao cả. Ngũ Viên cười mà nói rằng: - Phía đông có con lừa, phía tây có cối xay thì tất xay nhỏ được bột lúa mạch. Đấu Sào ở Mạch Thành nghe tin quân Ngô đắp hai thành ở phía đông và phía tây, vội vàng đem quân ra đánh. Khi đi đến nơi thì trông thấy hai thành đã ra cách vững bền lắm rồi. Đấu Sào đến thành phía đông. Trên thành cờ cắm san sát, tiếng mõ canh không lúc nào im. Đấu Sào giận lắm, toan xông vào đánh thì thấy cửa thành mở rộng, có một viên thiếu niên tướng quân đem quân ra nghênh chiến. Đấu Sào hỏi họ tên. Viên tướng ấy đáp rằng: - Ta đây là con vua Sái, tên gọi Công tử Kiền. Đấu Sào nói: - Đứa nhụ tử kia không phải là tay đối địch với ta. Chẳng hay Ngũ Viên ở đâu mà không thấy? Công tử Kiền nói: - Ngũ Viên đã đi đánh Mạch Thành của nhà ngươi rồi! Đấu Sào càng giận, cầm kích xông vào đánh Công tử Kiền. Hai bên đánh nhau được độ hơn 20 hợp, bỗng có quân thám tử đến báo với Đấu Sào rằng: - Quân Ngô đã đến đánh Mạch Thành, xin tướng quân mau mau mà rút quân về. Đấu Sào sợ mất nơi sào huyệt, vội vàng rút về. Quân sĩ thấy vậy sợ hãi, thành ra rối loạn. Công tử Kiền thừa thế đánh một trận, nhưng không dám đuổi theo. Đấu Sào về đến Mạch Thành, gặp Ngũ Viên đang dàn quân để vây thành. Đấu Sào chào Ngũ Viên mà bảo rằng: - Lâu nay Ngài vẫn được mạnh giỏi chứ? Sự oán về đời trước nhà Ngài do tại Phí Vô Cực, nay đứa xu nịnh ấy đã bị giết rồi, Ngài còn căm tức vì nỗi gì nữa! Cái ơn ba đời làm quan ở nước nhà, tôi tưởng Ngài chưa có thể quên được. Ngũ Viên đáp rằng: - Tiền nhân ta có công to với sở, vua Sở không nghĩ, lại giết oan cha anh ta và muốn giết ta nữa. May mà trời giúp, mới được thoát nạn. Cay đắng trong mười chín năm nay cho đến bây giờ. Nhà ngươi có xét tình thì nên mau mau tránh xa, chớ cùng ta xung đột, để bảo toàn lấy tính mệnh. Đấu Sào liền mắng rằng: -Đứa phản tặc kia, nếu ta tránh mày thì còn ra thế nào! Đấu Sào cầm kích xông vào đánh Ngũ Viên. Ngũ Viên cũng cầm kích ra nghênh chiến. Hai bên đánh nhau, mới được mấy hợp, Ngũ viên bảo Đấu Sào rằng: - Nhà ngươi đã mệt nhọc rồi, ta cho nhà ngươi vào thành, đến sáng mai sẽ đánh. Đấu Sào nói: - Ngày mai sẽ quyết chiến một trận! Hai bên cùng rút quân. Người trong Mạch Thành liền mở cửa để đón quân Đấu Sào vào. Đến nửa đêm, tự nhiên trên mặt thành nghe có tiếng reo: - Quân Ngô đã vào trong thành rồi! Nguyên trong quân Ngũ Viên có nhiều người trước là quân Sở sang đầu hàng, bởi vậy Ngũ Viên cố ý thả cho Đấu Sào vào thành, rồi sai những quân ấy đánh tráo với bọn quân Sở mà lẻn vào trong thành, đến nửa đêm hôm ấy giòng dây qua mặt thành cho quân Ngô leo vào. Khi quân Đấu Sào biết thì trên mặt thành đã có hơn 100 quân Ngô reo ầm cả lên; ở ngoài thành thì có quân Ngũ Viên tiếp ứng. Quân Đấu Sào thấy vậy bỏ chạy tán loạn. Đấu Sào ngăn cấm không được, cũng phải bỏ chạy. Ngũ Viên không đuổi theo nữa, chiếm lấy Mạch Thành rồi sai người báo với Hạp Lư. Tôn Vũ đem quân qua Hổ Nha Sơn quanh vào Đương Dương Bản, trông thấy sông Chương Giang ở phía bắc thế nước to lắm, kỷ Nam Thành thì thế đất hơi thấp, phía tây có Xích Hồ, nước hồ trông vào Kỷ Nam Thành và Dĩnh Đô. Tôn Vũ nghĩ ngay một kế truyền cho quân sĩ lên đóng cả ở gò cao, sắp sẵn thuổng cuốc, đến đêm hôm ấy thì đào một cái ngòi sâu, tháo nước sông Chương Giang cho chảy vào Xích Hồ, lại đắp một cái đê dài để chắn nước, làm cho mặt nước cao hơn mặt đất vài ba trượng. Bấy giờ vừa gặp mùa đông, gió tây nổi lên, liền tháo nước cho chảy vào Kỷ Nam Thành. Quan trấn thủ Kỷ Nam Thành tên gọi Tống Mộc, tưởng là nước lên, truyền cho dân chạy về Dĩnh Đô để tránh nước; chẳng ngờ thế nước một ngày một lớn, cả xứ Dĩnh Đô cũng trắng xóa như bể. Tôn Vũ sai người đẵn tre ở trên núi, ghép làm thuyền bè. Quân Ngô tiến thẳng đến tận kinh thành nước Sở, bấy giờ người Sở mới biết là quân Ngô tháo nước sông Chương Giang, ai cũng sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Sở Chiêu Vương biết là Dĩnh Đô không thể giữ nổi, mới sai Trâm Doãn Cố sắp thuyền, rồi cùng với em gái là Qui Vu xuống thuyền để chạy. Công tử Kết đang đứng trên mặt thành thúc quân giữ nước, nghe nói Sở Chiêu Vương đã xuống thuyền chạy, bất đắc dĩ cũng phải chạy theo. Tôn Vũ phụng Hạp Lư tiến vào trong thành, rồi sai người đi phá cái đê ngang chắn nước, khiến cho nước lại rút về sông Chương Giang, lại chia quân đi giữ các mặt. Ngũ Viên ở Mạch Thành cũng đến yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư ngồi ở trên điện sở Chiêu Vương, các quan triều thần đều vào lạy mừng. Đường Thành công và Sái Chiêu công cũng vào yết kiến. Hạp Lư mừng lắm, bầy tiệc mua vui. Đêm hôm ấy, Hạp Lư ngủ ở trong cung Sở Chiêu Vương. Các thị vệ bắt được Sở Chiêu Vương phu nhân, đem dâng Hạp Lư. Hạp Lư toan cho vào hầu đêm, nhưng còn ngần ngại. Ngũ Viên bảo Hạp Lư rằng: - Nước còn chiếm lấy, huống chi là vợ! Hạp Lư mới cho vào hầu. Có người tâu với Hạp Lư, nói mẹ Sở Chiêu vương là nàng Mạnh Doanh, tức là vợ Thế tử Kiến, khi trước Sở Bình Vương thấy đẹp mà chiếm lấy, nay cũng mới đứng tuổi, chưa lấy gì làm già. Hạp Lư động lòng, sai người đến triệu. Mạnh Doanh không chịu ra. Hạp Lư nổi giận sai người đi bắt. Mạnh Doanh đóng chặt cửa phòng lại, rồi lấy thanh kiếm đập vào cửa mà nói rằng: - Thiếp nghe nói: Ông vua là tiêu biểu cho một nước. Cứ theo lễ thì trai gái không ngồi cùng giường, không ăn cùng mâm, để giữ cho có phân biệt. Nay nhà vua trái lễ mà bày cái gương dâm loạn cho người trong nước. Vị vong nhân này đâm cổ mà chết, chứ không dám theo lời. Hạp Lư hổ thẹn, mới xin lỗi mà nói rằng: - Ta kính mến nàng, muốn được trông mặt chứ có dám bậy bạ gì đâu! Đã thế thì thôi. Hạp Lư lại nghiêm cấm quân sĩ không ai được vào. Ngũ Viên tìm mãi, không bắt được Sở Chiêu Vương, mới cho bọn Tôn Vũ và Bá Hi chiếm cứ lấy các nhà quan đại phu, bắt những thê thiếp vào hầu hạ, để làm cho rất sỉ nhục. Đường Thành công. Sái Chiêu công cùng Công tử Sơn vào sục tìm nhà Nang Ngõa thì áo cừu và bội ngọc vẫn để nguyên phong ở trong rương; đôi ngựa Túc Sương cũng vẫn ở trong chuồng ngựa. Đường Thành công và Sái Chiêu công lấy lại những đồ vật của mình, đem dâng Hạp Lư. Hạp Lư thấy nhà Nang Ngõa có nhiều châu báu vàng bạc, cho phép các thị vệ tha hồ vào lấy, thành ra rơi bừa bãi ra cả ngoài đường. Công tử Sơn toan cướp lấy vợ Nang Ngõa. Công tử Phu Khái đến, lại đuổi Công tử Sơn mà cướp lấy. Ngũ Viên nói với Hạp Lư, muốn phá hủy nhà tôn miếu của nước Sở. Tôn Vũ can rằng: - Việc binh nên phải lấy điều nghĩa làm chủ thì mới có danh tiếng. Sở Bình Vương bỏ Thế tử Kiến mà lập con Tần nữ, tin nghe những đứa tham nịnh, giết hại những người trung lương, dùng cách tàn bạo mà đối đãi với chư hầu. Bởi thế, quân Ngô ta mới đến đây được. Nay đã phá vỡ kinh thành nước Sở rồi, ta nên lập ngay con Thế tử Kiến là Công tử Thắng lên làm vua Sở. Người nước Sở vẫn thương nhớ Thế tử Kiến, tất nhiên bằng lòng, mà Công tử Thắng cám ơn nước Ngô ta, không bao giờ dám bỏ sự triều cống. Thế thì Đại vương dẫu xá cho Sở, cũng như là chiếm lấy Sở, danh và thực trọn cả đôi đường. Hạp Lư muốn diệt nước Sở, mới không nghe lời Tôn Vũ, liền phá hủy nhà tôn miếu của nước Sở. Đường Thành công và Sái Chiêu công cũng cáo từ về nước. Hạp Lư lại bày tiệc ở Chương Hoa Đài, cho các quan triều thần uống rượu. Nhạc công tấu nhạc. Các quan triều thần đều vui vẻ cả, chỉ có Ngũ Viên vẫn buồn rầu, chảy nước mắt mà khóc. Hạp Lư bảo Ngũ Viên rằng: - Nay nhà ngươi đã được thỏa cái lòng báo thù nước Sở, cớ sao lại buồn rầu? Ngũ Viên gạt nước mắt đáp rằng: - Sở Bình Vương đã chết rồi, vua Sở bây giờ cũng trốn mất, thế thì cái thù của cha anh tôi, muôn phần chưa báo được một phần! Hạp Lư nói: - Nhà ngươi muốn thế nào? Ngũ Viên nói: - Xin Đại Vương cho tôi đào mả Sở Bình Vương lên, phá áo quan ra mà chém lấy đầu thì tôi mới hả được cái lòng căm tức. Hạp Lư nói: - Nhà ngươi giúp ta được nhiều việc, ta tiếc gì mà không cho đào nắm xương khô ấy lên, để báo được cái thù cũ. Ngũ Viên hỏi biết mộ Sở Bình Vương chôn ở ngoài cửa Đông môn, liền đem quân bản bộ đến. Khi đến nơi, thấy bốn mặt đồng cỏ xanh ngắt, một vùng nước hồ trong veo, chẳng biết mộ chôn ở chỗ nào cả. Ngũ Viên mới vật mình than khóc mà nói rằng: - Trời ơi! Trời không khiến ta báo được cái thù cho cha và anh ta hay sao! Bỗng thấy có một ông cụ già đi đến trước mặt, vái chào mà hỏi rằng: -Tướng quân muốn tìm mộ Sở Bình Vương để làm gì? Ngũ Viên nói: - Sở Bình Vương lấy tranh vợ của con, dùng kẻ xu nịnh, hại người trung lương, lại giết cha anh và tộc đảng của ta, lúc sống ta không thể đâm chết y được thì lúc chết ta cũng muốn xả xác y ra để báo thù cho cha ta và anh ta ở dưới suối vàng. Ông cụ già ấy nói: - Sở Bình Vương cũng biết mình làm nhiều người oán sợ có kẻ đào mả, vậy nên chôn ở giữa hồ. Tướng quân muốn tìm áo quan thì phải tát cạn cái hồ này mới lấy được. Ông cụ già nói xong, lại chỉ cho biết chỗ. Ngũ Viên sai người lặn xuống mò, rờ thấy có một cái quách bằng đá, liền sai quân sĩ mỗi người mang một túi đất xếp ở xung quanh mộ, rồi tát nước ra để đào lên xem. Khi mở cái quách đá ấy ra, trong có một cái áo quan rất nặng, mở áo quan ra xem, chỉ thấy mũ áo và mấy trăm cân sắt mà thôi. Ông cụ già nói: - Đấy là cái áo quan giả, còn cái áo quan thật ở bên dưới. Ngũ Viên liền sai đào một tầng nữa, quả nhiên có áo quan thật. Đem lôi xác ra, đích thị là xác Sở Bình Vương, da thịt vẫn còn nguyên cả. Ngũ Viên trông thấy, hầm hầm nổi giận, tay cầm cái roi đồng đánh luôn 300 roi. Xương rơi thịt nát. Ngũ Viên lại lấy chân giẫm trên bụng, rồi thò tay khoét mắt, kể tội rằng: - Lúc mày sống, có mắt cũng như không! Có mắt mà không biết ai là trung, là nịnh, lại giết oan cha ta và anh ta! Nói xong, cắt lấy đầu Sở Bình Vương, còn áo quan và xương, sai đem quẳng ở giữa đồng. Ngũ Viên đã đã đánh vào xác sở Bình Vương rồi, rồi lại hỏi ông cụ già rằng: - Tại sao cụ lại biết rõ chỗ chôn Sở Bình Vương và sự thể quan quách như thế? Ông cụ già nói: - Tôi có phải là ai đâu, chính là người thợ đá làm bấy giờ! Bấy giờ Sở Bình Vương sai bọn thợ đá chúng tôi hơn 50 người, làm một ngôi mộ giả. Khi làm xong, sợ bọn chúng tôi tiết lộ ra, đem giết hết sạch cả, chỉ có một mình lão trốn được. Nay cảm cái lòng hiếu nghĩa của tướng quân, vậy phải đến đây để mách bảo. Vả lại cũng báo thù cho hơn 50 cái hồn oan của bọn thợ chúng tôi khi xưa. Ngũ Viên sai đem vàng bạc thưởng cho ông cụ già. Lại nói chuyện Sở Chiêu Vương đi thuyền qua sông Thư Thủy, trốn vào Vân Trung, có một bọn giặc độ mấy trăm người, đang đêm xuống cướp thuyền, cầm giáo đánh Sở Chiêu Vương. Bấy giờ Công tôn Do Vu đứng ở bên cạnh, lấy lưng che chở cho sở Chiêu Vương, và quát to lên rằng: - Đây là vua Sở đó, các người làm gì thế! Công tôn Do Vu nói chưa dứt lời thì ngọn giáo trúng vào vai, máu chảy đầm đìa đến tận gót chân, rồi ngã gục xuống đấy. Bọn giặc nói: -Chúng ta chỉ biết tiền của, chứ không biết vua là ai cả. Đến như quan lệnh doãn đại thần, cũng còn ham ăn tiền, huống chi là chúng ta! Bọn giặc nói xong, bao nhiêu vàng bạc ở trong thuyền, lấy hết sạch cả. Châu Doãn Cố vội vàng ôm Sở Chiêu Vương chạy lên trên bờ. Sở Chiêu Vương kêu to lên rằng: - Có ai cứu em gái ta đó không? Quan Hạ đại phu là Chung Kiến ghé lưng cõng nàng Qui Vu đi theo Sở Chiêu Vương. Khi ngoảnh đầu trông lại thấy bọn giặc đã phóng hỏa đốt thuyền. Sở Chiêu Vương chạy được mấy dặm thì trời đã sáng rõ. Công tử Kết, Tống Mộc, Đấu Tân và Đấu Sào đều lục tục theo đến nơi. Đấu Tân nói với Sở Chiêu Vương rằng: - Nhà tôi ở Viên Ấp chỉ cách đây độ 40 dặm, xin Đại vương hãy tạm đến đó, rồi sau sẽ liệu. Được một lúc, Công tôn Do Vu cũng theo đến. Sở Chiêu Vương ngạc nhiên mà hỏi rằng: - Nhà ngươi bị thương nặng, làm thế nào mà khỏi được? Do Vu nói: - Tôi đau quá không dậy được, khi lửa cháy đến mình tôi, bỗng thấy có một người vực tôi lên bờ. Trong khi mơ màng, tôi nghe tiếng nói rằng: "Ta là quan Lệnh doãn nước Sở cũ, tên gọi Tôn Thúc Ngao. Nhà ngươi nói cho Đại vương biết: Quân Ngô chẳng bao lâu nữa sẽ phải rút về. Xã tắc nước ta vẫn còn vững bền mãi mãi." Nói xong, lại lấy thuốc dịt vào vai cho tôi. Khi tôi tỉnh dậy, hết cả đau đớn, vậy mới theo kịp đến đây. Sở Chiêu Vương nói: - Tôn Thúc Ngao trước, nguyên là người ở Vân Trung. Cái anh linh ấy đến nay vẫn còn chưa mất! Mọi người đều ngợi khen lấy, làm lạ lùng. Đấu Sào đem lương khô ra để cùng ăn với nhau. Châm Doãn Cố cầm bầu đi lấy nước để dâng Sở Chiêu Vương. Sở Chiêu Vương sai Đấu Tân đi tìm thuyền ở bến Thành Cữu. Đấu Tân trông thấy ở phía đông có một chiếc thuyền đi đến. Trong thuyền có cả đàn bà con trẻ. Nhìn kỹ thì ra thuyền của quan Đại phu là Lam Doãn Điệp, Đấu Tân gọi mà bảo rằng; - Đại vương ở đây, nhà ngươi nên đem thuyền lại để chở. Lam Doãn Điệp nói: - Ông vua đã mất nước rồi, ta còn chở làm gì! Lam Doãn Điệp nói xong, không hề ngoảnh cổ lại. Đấu Tân chờ đợi ít lâu nữa, lại thấy một chiếc thuyền đánh cá. Đấu Tân cởi áo ra, ném cho người lái thuyền. Người lái thuyền mới ghé thuyền vào bờ. Sở Chiêu Vương và nàng Qui Vu xuống thuyền đi sang Viên Ấp. Người em thứ hai của Đấu Tân là Đấu Hoài nghe nói Sở Chiêu Vương đến, vội vàng ra đón. Đấu Tân sai Đấu Hoài đi làm cơm. Khi Đấu Hoài dâng cơm, thường hay trông trộm Sở Chiêu Vương. Đấu Tân có ý nghi, mới cùng người em út là Đấu Sào vào hầu liền ở bên cạnh Sở Chiêu Vương. Đến nửa đêm, nghe có tiếng liếc dao. Đấu Tân mở cửa ra xem thì trông thấy Đấu Hoài tay cầm một con dao nhọn, nét mặt hầm hầm. Đấu Tân hỏi: - Em liếc dao để làm gì thế? Đấu Hoài nói: - Em định giết vua. Đấu Tân nói: - Vì cớ gì em đem lòng phản nghịch? Đấu Hoài nói: - Thân phụ ta (tức là Đấu Thành Nhiên) giữ một đạo trung, mà vua Bình Vương nghe lời Phí Vô Cực, lại đem giết đi. Vua Bình Vương đã giết thân phụ ta thì ta giết con vua Bình Vương để báo thù lại, chẳng cũng nên chăng? Đấu Tân nổi giận mà mắng rằng: - Vua cũng như là trời. Trời giáng họa cho ai thì người ấy phải chịu, chứ ai lại dám oán trời! Đấu Hoài nói: - Khi còn ở nước thì là vua, nay mất nước rồi thì là kẻ thù. Thấy kẻ thù mà không giết, sao gọi là người được. Đấu Tân nói: - Cổ ngữ có câu rằng: "Không nên oán đến đời con". Vả Đại vương đã biết hối cái lỗi của đời trước mà dùng anh em ta, nay lại nhân lúc Đại vương nguy cấp mà mình giết thì sao cho phải đạo. Nếu mày có lòng ấy, ta phải chém mày trước! Đấu Hoài cắp dao đi ra, vẫn còn chưa nguôi cơn giận. Sở Chiêu Vương thấy ngoài cửa có tiếng quát mắng, liền dậy mặc áo rồi đứng nghe trộm, nghe hết cả đầu đuôi, mới không dám ở Viên Ấp nữa. Đấu Tân, Đấu Sào cùng Công tử Kết thương nghị, rồi đem Sở Chiêu Vương chạy sang nước Tùy. Lại nói chuyện Công tử Thân đóng quân ở Lỗ Phục Giang, nghe tin Dĩnh Đô đã mất rồi, Sở chiêu Vương phải chạy trốn, sợ người trong nước tan tác, không có ai làm chủ, mới mặc đồ vương phục, đi xe vương dư, tự xưng là vua Sở, đóng ở đất Bế Tiết để cho yên lòng dân. Những dân chạy loạn đều theo về đấy. Sau Công tử Thân nghe tin Sở Chiêu vương ở nước Tùy, liền hiểu dụ cho dân biết, rồi tìm sang nước Tùy để theo Sở Chiêu Vương. Ngũ Viên vẫn căm tức về việc không bắt được Sở Chiêu Vương, mới nói với Hạp Lư rằng: - Chưa bắt được vua Sở thì chưa diệt được nước Sở, tôi xin đem một toán quân đi về phía tây để dò tìm mà bắt về. Hạp Lư thuận cho, Ngũ Viên đem quân đi dò tìm, nghe tin Sở Chiêu Vương ở nước Tùy, vội vàng thẳng đường tiến sang nước Tùy, đưa thư cho vua Tùy, bắt phải nộp Sở Chiêu Vương. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 77 Giọt lệ Bao Tư tràn sân Tần Chiếc thuyền Chiêu Vương về nước Sở Bấm để xem Ngũ Viên đóng quân ở phía nam nước Tùy, rồi sai sứ đưa thư cho vua Tùy. Trong thư đại lược như sau này: "Các nước ở xứ Hán Đông, thuộc về dòng dõi Thiên tử nhà Chu, nay bị nước Sở cắn nuốt gần hết, may mà trời giúp nước Ngô ta, cho đến hỏi tội vua Sở. Nếu nhà vua bắt vua Sở đem nộp thì những ruộng ở Hán Dương, sẽ để cho nhà vua tất cả. Đại vương tôi xin cùng nhà vua kết làm anh em, cùng thờ Thiên tử nhà Chu". Vua nước Tùy xem xong, liền họp các quan triều thần lại để thương nghị. Công tử Kết nước Sở, nét mặt cũng giống Sở Chiêu Vương, mới nói với vua Tùy rằng: - Nay việc đã nguy cấp đến nơi, tôi xin giả làm vua Sở, để đem nộp nước Ngô, may ra có thể thoát được. Vua Tùy sai quan thái sử bói xem tốt xấu thế nào. Trong quẻ bói có câu rằng: "Trị có ngày loạn, nguy có ngày yên, cũ chớ nên bỏ, mới chớ nên cầu. Tây lân là hổ, Đông lân là thịt". Vua Tùy nói: - Cũ là Sở mà mới là Ngô, thế này là quỉ thần bảo ta cứ theo Sở. Vua Tùy sai sứ ra trả lời Ngũ Viên rằng: - Nước tôi từ xưa đến nay vẫn phụ thuộc với Sở. Vua Sở qua đây, không thể nào mà từ chối được. Nay vua Sở đã đi sang nước khác rồi, xin Tướng quân xét cho. Ngũ Viên thấy Nang Ngõa ở Trịnh, nghi Sở Chiêu Vương cũng chạy sang Trịnh. Vả lại người nước Trịnh khi trước giết Thế tử Kiến, việc ấy cũng chưa báo thù, mới đem quân sang đánh Trịnh. Bấy giờ người bề tôi hiền nước Trịnh là Du Cát mới mất. Trịnh Định công sợ lắm, đổ lỗi cho Nang Ngõa. Nang Ngõa tự tử mà chết. Trịnh Định công đem xác Nang Ngõa ra nộp quân Ngô và nói với quân Ngô rằng: -Thực là vua Sở chưa thấy đến nước Trịnh! Quân Ngô vẫn không chịu lui, nhất định diệt nước Trịnh mà báo thù cho Thế tử Kiến. Các quan đại phu nước Trịnh xin liều đánh một trận để quyết thắng phụ. Trịnh Định công nói: - Quân mã ta phỏng có bằng nước Sở hay không? Nước Sở còn bị nước Ngô phá vỡ, huống chi là ta! Trịnh Định công liền hạ lệnh rằng: - Có ai lui được quân Ngô thì ta quyết xin chia quyền chính nước Trịnh cho. Lệnh ấy tuyên yết đã được ba ngày. Bấy giờ người con Ngư trượng nhân (ông lão đánh cá) cũng chạy loạn trốn ở trong thành nước Trịnh, nghe nói nước Ngô dùng Ngũ Viên làm chủ tướng, mới vào nói với Trịnh Định công, xin lập kế lui được quân Ngô. Trịnh Định công hỏi: - Nhà ngươi phải dùng bao nhiêu quân mã thì khiến cho Ngô lui được? Người ấy nói: - Tôi không phải dùng một lưỡi gươm nào, chỉ xin Chúa công cho tôi một chiếc mái chèo nhỏ để tôi vừa đi vừa hát, tự khắc quân Ngô phải lui. Trịnh Định công không tin, nhưng việc đã gấp lắm, chẳng biết làm thế nào, cũng phải đưa cho một cái mái chèo mà bảo rằng: - Nếu lui được quân Ngô thì sẽ cho trọng thưởng. Người con Ngư trượng nhân trèo qua thành ra, đi thẳng vào dinh quân Ngô, gõ mái chèo mà hát. Bài hát như sau này: "Lô trung nhân! Lô trung nhân! (người trong lau) Lưng đeo bảo kiếm thất tinh văn. Chẳng nhớ năm xưa chàng qua sông. Cơm nếp canh cá ai cho ăn?" Quân Ngô bắt được, giải vào nộp Ngũ Viên. Khi giải vào đến nơi, người ấy vẫn hát như trước. Ngũ Viên ngạc nhiên, đứng dậy mà hỏi rằng: - Nhà ngươi là ai? Người ấy cắp mái chèo mà đáp rằng: - Tướng quân không trông thấy tay tôi cầm cái gì hay sao! Tôi tức là con Ngư trượng nhân ở Ngạc Chử đó! Ngũ Viên động lòng thương xót mà nói rằng: - Thân phụ nhà ngươi vì ta mà chết, ta vẫn muốn báo ơn, nhưng không biết làm thế nào. Ngày nay may được gặp đây. Nhà ngươi trông thấy ta mà hát như thế là ý muốn điều gì? Người ấy nói: - Tôi chẳng muốn điều gì cả! Nguyên vua Trịnh tôi đã sợ binh uy của Tướng quân, có hạ lệnh cho người trong nước rằng: "Ai lui được quân Ngô thì ta xin chia quyền chính nước Trịnh cho". Tôi thiết nghĩ thân phụ tôi cũng có được biết Tướng quân, muốn xin Tướng quân xá cho nước Trịnh. Ngũ Viên thở dài mà than rằng: - Trời ơi! Ta được đến thế này, đều là nhờ ơn Ngư trượng nhân đó, khi nào ta dám quên! Ngũ Viên tức thì truyền giải vây, rồi rút quân về, người con Ngư trượng nhân về nói với Trịnh Định công. Trịnh Định công mừng lắm, phong cho một trăm dặm đất. Người trong nước gọi là Ngư đại phu. Ngũ Viên đã giải vây cho nước Trịnh, rút quân về đóng giữ ở nước Sở, rồi sai người đi chiêu dụ các nước phụ thuộc của Sở và dò tìm tin tức Sở Chiêu Vương. Lại nói chuyện Thân Bao Tư từ khi quân Ngô phá vỡ được kinh thành nước Sở, liền trốn vào ở trong hang đá đất Di Lăng, nghe tin Ngũ Viên đào mả và đánh vào thây Sở Bình Vương, lại đang dò bắt Sở Chiêu Vương, mới viết một bức thư sai người đưa cho Ngũ Viên. Trong thư đại lược nói rằng: "Nhà ngươi khi trước đã làm bề tôi Sở Bình Vương, nay lại đem thi thể Sở Bình Vương ra mà làm tàn nhục như vậy, dẫu gọi là báo thù nhưng cũng khí quá lắm! Làm quá thì không thể chịu được, nhà ngươi nên mau mau mà rút quân về, ta đây phải noi theo cái ước phục Sở". Ngũ Viên tiếp được bức thư, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo người mang thư rằng: - Ta nay bận nhiều việc, không thể viết thư trả lời được. Nhà ngươi vì ta mà nói lại với Thân Bao Tư rằng: Trung và hiếu không thể nào toàn vẹn được cả đôi. Ta nay già lẫn, vậy nên trái tính! Người mang thư về nói với Thân Bao Tư. Thân Bao Tư nói: - Ngũ Viên quyết chí định diệt nước Sở, chẳng lẽ ta cứ ngồi yên hay sao! Sở Bình Vương phu nhân ngày xưa là con gái Tần Ai công, thế thì Đại Vương ta ngày nay tức là cháu ngoại nước Tần. Vậy ta muốn khôi phục nước Sở, tất nhiên phải cầu viện với Tần mới được. Thân Bao Tư liền thẳng đường trốn sang nước Tần. Đi vội suốt ngày đêm, bàn chân xây xát, máu chảy đầm đìa, phải xé áo mà buộc. Khi đến Ung Châu, vào tâu với Tần Ai công rằng: - Nước Ngô tham như lợn, độc như rắn, lâu nay vẫn muốn cắn nuốt chư hầu, bây giờ bắt đầu từ nước Sở trước. Đại Vương tôi bị thua, phải chạy trốn ở nơi thảo dã, có sai tôi sang đây để cáo cấp với quí quốc, xin quí quốc nghĩ tình thân thuộc mà đem quân giải cứu cho. Tần Ai công nói: - Nước Tần ta hẻo lánh ở về phía tây thùy này, quân hiếm tướng ít, giữ mình không nổi, huống chi lại giúp được ai! Thân Bao Tư nói: - Sở và Tần tiếp giáp với nhau. Nay Sở bị Ngô đánh mà Tần không cứu, Ngô đã diệt Sở thì tất có ngày đánh Tần. Nhà vua giúp Sở, tức là giữ Tần đó; chẳng thà Sở về tay Tần, còn hơn để cho về tay Ngô. Nếu nhà vua cứu cho nước Sở khỏi mất thì nước Sở tôi xin đời đời thần phục nước Tần. Tần Ai công ngần ngại chưa quyết mà nói rằng: - Quan Đại phu hãy về nghỉ ở nhà công quán, để ta sẽ thương nghị với các quan triều thần. Thân Bao Tư nói: - Đại vương tôi còn đang chạy trốn trong nơi thảo dã, chưa được yên sở, khi nào tôi dám ra nghỉ ở nhà công quán. Bấy giờ Tần Ai công chỉ ham mê tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính sự. Thân Bao Tư xin mãi mà Tần Ai công nhất định không chịu phát binh. Thân Bao Tư cứ đội mũ mặc áo đứng yên ở trong sân vua Tần, ngày đêm kêu khóc, không lúc nào im tiếng. Cứ như thế trong bảy ngày bảy đêm mà không ăn uống một tí gì cả. Tần Ai công thấy vậy, kinh ngạc mà rằng: - Bề tôi nước Sở biết nghĩ đến vua một cách khẩn thiết như thế ư! Nước Sở có bề tôi hiền như thế mà còn bị nước Ngô đánh, huống chi là ta không có người bề tôi hiền nào, khi nào nước Ngô lại để cho yên! Tần Ai công nói xong, ứa nước mắt khóc, lại đọc bài thơ Vô Y để tỏ ý sẽ phát binh sang giúp Sở. Thân Bao Tư lạy tạ, từ bấy giờ mới chịu ăn uống. Tần Ai công sai Đại tướng là Tử Bồ và Tử Hổ đem quân theo Thân Bao Tư sang cứu Sở. Thân Bao Tư nói: - Đại vương tôi ở nước Tùy, mong được quân cứu, khác nào như nắng to mà mong mưa, tôi xin về trước để báo với Đại vương tôi. Quan Nguyên soái đem quân qua đất Thương, đất Cốc mà sang phía đông, chỉ trong năm ngày có thể đi tới Tương Dương được, bấy giờ quay về phía nam mà sang Kinh Môn; còn tôi đây xin đem quân Sở qua Thạch Lương Sơn, cũng đi về phía nam, thế thì chỉ trong ba ngày có thể gặp nhau được. Quân Ngô đang cậy thắng, tất không phòng bị. Vả quân sĩ ở nước ngoài, lâu ngày muốn về, nếu ta phá vỡ một toán thì tự khắc phải tan cả. Tử Bồ nói: - Ta chưa thuộc đường lối ra sao, tất phải có quân Sở hướng dẫn mới được, quan Đại phu chớ sai hẹn. Thân Bao Tư về đến nước Tùy, vào yết kiến sở Chiêu Vương, thuật lại chuyện sang mượn quân Tần, hiện nay nước Tần đã phát binh sang cứu. Sở Chiêu Vương mừng lắm, bảo vua Tùy rằng: - Khi trước trong quẻ bói có câu: "Tây lân là hổ, Đông lân là thịt". Nước Tần ở phía Tây nước Sở mà nước Ngô ở về phía đông thì câu ấy thật ứng nghiệm! Bấy giờ bọn Viễn Diên, Tống Mộc cũng thu thập dư binh đến theo Sở Chiêu Vương. Công tử Thân và Công tử Kết thu thập quân sĩ nước Tùy để cùng tiến phát. Quân Tần đóng đồn ở Tương Dương để đợi quân Sở. Thân Bao Tư đưa bọn Công tử Thân và Công tử Kết vào yết kiến quân Tần, rồi quân Sở đi trước, quân Tần kéo sau. Đi đến sông Nghi Thủy thì gặp toán quân của Công tử Phu Khái (tướng nước Ngô). Tử Bồ bảo Thân Bao Tư rằng: - Quan Đại phu hãy đem quân Sở giao chiến với Ngô trước, rồi tôi sẽ tiếp sau. Thân Bao Tư ra trận, giao chiến với Công tử Phu Khái. Công tử Phu Khái cậy có sức mạnh, khinh bỉ Thân Bao Tư. Hai bên giao chiến ước hơn mười hợp, chưa chia thắng phụ. Tử Bồ và Tử Hổ đem quân đến tiếp ứng. Công tử Phu Khái trông thấy hiệu cờ có chữ Tần, kinh sợ mà nói rằng: - Cớ sao lại có quân Tần đến đây như vậy! Công tử Phu Khái vội vàng thu quân thì đã tan mất đến quá nửa. Bọn Công tử Thân và Công tử Kết thừa thế đuổi theo đến năm mươi dặm mới thôi. Công tử Phu Khái chạy về Dĩnh Đô, vào yết kiến Hạp Lư (vua Ngô). Thuật chuyện quân Tần mạnh lắm, không thể đương nổi. Hạp Lư có ý sợ. Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng: - Việc binh là việc nguy hiểm, nên dùng tạm chứ không nên dùng lâu. Vả đất nước Sở còn rộng, lòng dân chưa chịu phục Ngô, khi trước tôi xin Đại vương lập Công tử Thắng làm vua Sở, chính là vì điều ấy. Chi bằng bây giờ sai sứ sang nói với Tần, hẹn cho vua Sở về nước rồi cắt cõi tây nước Sở để thêm đất cho nước Ngô ta thì nước Ngô ta cũng không phải là không lợi. Nếu Đại vương cứ quyến luyến ở Sở để chống cự cùng với Sở, quân Sở tức giận mà cố gắng, quân Ngô kiêu ngạo mà trễ nải, lại thêm có quân Tần như giống hổ lang thì tôi chưa chắc đã vạn toàn được. Ngũ Viên biết chừng không thể bắt được Sở Chiêu Vương, cũng cho lời nói của Tôn Vũ là phải. Hạp Lư toan theo. Bá Hi nói với Hạp Lư rằng: - Quân ta từ khi khai chiến đến giờ, đi đến đâu phá vỡ đến đấy, chỉ đánh năm trận mà lấy được Dĩnh Đô, nay mới gặp quân Tần đã toan rút về, trước hăng hái thế nào mà sao ngày nay lại nhút nhát như vậy! Xin Đại vương cấp cho tôi một vạn quân, tôi quyết đánh cho quân Tần chẳng còn một mống nào trở về, nếu không đánh được, xin chịu tội chết. Hạp Lư khen mà cho đi. Tôn Vũ và Ngũ Viên cố can Bá Hi không nên đánh. Bá Hi không nghe, đem quân ra giao chiến với quân Sở, trông thấy tướng nước Sở là Công Tử Thân, liền quát to lên mà mắng rằng: - Mày thật là vạn phần chết rồi, khác nào như đống tro nguội, nay còn mong nóng lại hay sao! Công tử Thân cũng mắng rằng: - Mày là một đứa phản nghịch, bấy giờ còn mặt mũi nào trông thấy ta! Bá Hi giận lắm, cầm kích xông vào đánh Công tử Thân. Công tử Thân cũng cầm giáo nghênh chiến. Hai bên đánh nhau mới được mấy hợp thì Công tử Thân giả cách thua chạy. Bá Hi đuổi theo. Theo độ hai dặm thì phía tả có quân Thẩm Chư Lương, phía hữu có quân Viễn Diên, đổ ra mà đánh. Tướng nước Tần là Tử Bồ và Tử Hổ cũng đem quân xông thẳng vào giữa trận quân Ngô. Bá Hi cố sức xung đột mà không thể nào địch nổi, may nhờ có toán quân của Ngũ Viên kéo đến, mới cứu thoát được, Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư, sụp lạy xin chịu tội. Tôn Vũ bảo riêng với Ngũ Viên rằng: - Bá Hi là người hay cậy công mà tự đắc, sau này tất làm tai vạ cho nước Ngô, chi bằng nhân việc thua trận này mà mượn quân pháp để chém đi cho rồi. Ngũ Viên nói: - Kẻ kia dẫu thua trận, nhưng về trước đã có công to. Vả ta đang đánh nhau với quân giặc, không nên chém một viên đại tướng. Ngũ Viên liền tâu với Hạp Lư xin tha tội cho Bá Hi. Quân Tần kéo đến tận Dĩnh Đô. Hạp Lư giao cho Công tử Phu Khái và Công tử Sơn giữ Dĩnh Đô, còn mình thì đem quân ra đóng ở Kỷ Nam Thành, sai Ngũ Viên, Bá Hi chia quân ra đóng ở Ma Thành và Lư Thành, để cùng nương tựa nhau mà chống cự với quân Tần, lại sai sứ đi mượn quân nước Đường và nước Sái. Tướng nước Sở là Tử Tây bảo Tử Bồ rằng: - Quân Ngô đã lấy Dĩnh Đô làm sào huyệt, nếu lại được Đường và Sái giúp vào thì khó lòng mà địch nổi; chi bằng ta thừa thế đem quân sang đánh Đường. Nước Đường đã phá thì nước Sái sợ mà không dám giúp, bấy giờ ta mới có thể phá được quân Ngô. Tử Bồ khen phải, liền cùng với Tử Kỳ đem quân sang diệt nước Đường, giết Đường Thành công. Sái Ai công sợ, không dám đem quân giúp Ngô nữa. Công tử Phu Khái vẫn cậy mình có công phá Sở, chỉ vì một trận bị thua ở Nghi Thủy, Hạp Lư mới sai cùng với Công tử Sơn đóng quân ở Dĩnh Đô, bởi vậy Công tử Phu Khái có ý không bằng lòng mà nghĩ thầm rằng: - Cứ theo thể lệ nước Ngô, anh phải truyền ngôi cho em thì sau này ta được nối ngôi; nay Đại vương lập Công tử Ba làm thế tử thì ta quyết không khi nào được lập nữa, chi bằng ta nhân lúc này đem quân về nước, cướp ngôi xưng vương, chẳng hơn là mai hậu lại phải tranh nhau hay sao! Công tử Phu Khái đem quân bản bộ lẻn ra cửa đông môn, qua Hán Thủy mà về nước Ngô, nói dối người nước Ngô rằng: Hạp Lư bị quân Tần đánh không biết chạy đi đâu mất, cứ theo thứ tự thì ta được lên nối ngôi. Công tử Phu Khái tự xưng là vua nước Ngô, sai người con là Phù Tang đem quân đóng ở Hoài Thủy, để chắn đường không cho Hạp Lư về. Thế tử Ba nước Ngô cùng với Chuyên Nghị thấy vậy, đem quân lên mặt thành chống giữ, không cho Công tử Phu Khái vào. Công tử Phu Khái sai sứ sang mượn quân nước Việt, hẹn khi thành sự, sẽ biếu năm thành để tạ ơn. Hạp Lư nghe tin quân Tần sang diệt nước Đường, giật mình kinh sợ toan họp các tướng lại để thương nghị. Bỗng thấy Công tử Sơn đến, báo việc Công tử Phu Khái không biết vì cớ gì mà đem quân lẻn về nước Ngô. Ngũ Viên nói: - Nếu vậy thì Công tử Phu Khái tất có lòng làm phản! Hạp Lư nói: - Bây giờ biết làm thế nào? Ngũ Viên nói: - Công tử Phu Khái là một kẻ vũ phu, chẳng làm gì nổi! Ta chỉ lo người nước Việt nhân chuyện này mà gây sự với ta. Đại vương nên rút quân về ngay, để dẹp loạn trong nước trước. Hạp Lư giao cho Tôn Vũ và Ngũ Viên đóng quân giữ Dĩnh Đô còn mình thì cùng với Bá Hi theo đường thủy về nước. Khi về đến sông Hán Thủy, được tin của Thế tử Ba cáo cấp, nói Công tử Phu Khái làm phản, lại đi mượn quân nước Việt về, thật là một sự rất nguy biến! Hạp Lư kinh sợ mà rằng: - Ngũ Viên đoán đã trúng lắm! Hạp Lư liền sai sứ sang Dĩnh Đô để rút quân Tôn Vũ và Ngũ Viên về; một mặt thì kéo thẳng về nước và truyền dụ cho các tướng sĩ biết rằng: - Ai bỏ Công tử Phu Khái mà về hàng ngay thì được nguyên chức, nếu chậm không hàng, sẽ bị giết chết. Toán quân của Phù Tang (con Công tử Phu Khái) ở sông Hoài Thủy nghe lệnh đều bỏ về với Hạp Lư cả. Phù Tang chạy sang Cốc Dương, Công tử Phu Khái toan bắt dân ra làm lính, nhưng người nước Ngô nghe tin Hạp Lư hãy còn, đều rủ nhau chạy trốn. Công tử Phu Khái đem quân bản bộ đón đánh Hạp Lư. Hạp Lư hỏi rằng: - Ta tin cậy nhà ngươi như tay chân, cớ sao nhà ngươi lại làm phản? Công tử Phu Khái nói: - Nhà ngươi giết Vương Liêu, cũng là làm phản chứ gì! Hạp Lư nổi giận, truyền cho Bá Hi ra đánh. Đánh được mấy hồi, Hạp Lư thúc cả đại binh vào. Công tử Phu Khái dẫu có sức khỏe, nhưng quân Hạp Lư nhiều quá, không thể địch nổi, thành ra thua to. Phù Tang đã sắp thuyền sẵn ở sông Giang để chờ Công tử Phu Khái, rồi đem nhau trốn sang nước Tống. Hạp Lư về đến nước Ngô, thế tử Ba đón vào trong thành, cùng bàn mưu để chống cự với nước Việt. Tôn Vũ tiếp được thư của Hạp Lư truyền rút quân về, đang cùng với Ngũ Viên thương nghị, bỗng nghe báo có một người trong đám quân Sở đưa bức thư đến cho Ngũ Viên. Ngũ Viên mở ra xem thì tức là bức thư của Thân Bao Tư gởi đến, trong thư đại lược như sau này: "Vua tôi nhà ngươi chiếm cứ Dĩnh Đô trong bấy nhiêu ngày mà không dẹp yên được nước Sở, đủ biết là ý trời không muốn làm cho nước Sở phải diệt. Nhà ngươi đã theo lời nói diệt Sở thì ta đây cũng quyết giữ được cái chí phục nước Sở, nhưng tình bạn hữu với nhau giúp nhau thì có, chứ hại nhau thì không nên; nếu nhà ngươi liệu bớt cái uy quân Ngô thì ta đây cũng không dùng hết cái sức quân Tần đó". Ngũ Viên đưa thư cho Tôn Vũ xem và bảo rằng: - Nước Ngô ta đem mấy vạn quân kéo thẳng vào kinh thành nước Sở, đốt nhà Tôn miếu, phá nền xã tắc, đánh vào xác người chết, chiếm lấy nhà người sống. Kể trong việc kẻ tôi mà báo thù vua, từ xưa đến nay, chưa bao giờ được thỏa như thế! Vả quân Tần dẫu đánh được ta một trận, nhưng cũng chưa tổn hại cho lắm. Binh pháp có câu rằng: "Thấy dễ thì tiến, thấy khó thì lui", may sao quân Sở chưa biết những sự nguy cấp của ta, ta nên lui về là phải. Tôn Vũ nói: - Nay ta rút về không thì bị quân Sở cười, chi bằng tâu với Đại vương mà xin phong cho Công tử Thắng. Ngũ Viên khen phải, mới viết thư trả lời Thân Bao Tư. Trong thư nói như sau này: "Sở Bình Vương đuổi người con vô tội, giết người bày tôi vô tội, ta đây xiết bao căm tức, vậy mới nên cơ sự này! Ngày xưa Tề Hoàn công không nỡ diệt nước Hình và nước Vệ; Tần Mục công ba lần lập vua cho nước Tần, để tiếng khen đến đời nay. Ta đây dẫu hèn mọn, cũng trộm biết cái nghĩa ấy. Nay con Thế tử Kiến là Công tử Thắng đang lưu lạc ở nước Ngô, chưa được yên sở; nếu nước Sở chịu đón Công tử Thắng về, để giữ lấy việc cúng tế Thế tử Kiến thì khi nào ta dám không rút quân mà giúp nên cái chí của nhà ngươi". Thân Bao Tư được tin, nói chuyện với Công tử Thân. Công tử Thân nói: - Ý ta cũng muốn lập Công tử Thắng! Công tử Thân sai người sang nước Ngô đón Công tử Thắng về. Thẩm Chư Lương can rằng: - Thế tử Kiến ngày xưa đã bị truất thì Công tử Thắng tức là một kẻ cừu địch, nay mình lại nuôi kẻ cừu địch để làm hại nước hay sao! Công tử Thân nói: - Thắng là một kẻ thất phu, không can chi điều ấy! Công tử Thân vâng mệnh Sở Chiêu Vương triệu Công tử Thắng về mà hẹn phong cho đại ấp. Tôn Vũ và Ngũ Viên liền hạ lệnh rút quân. Phàm những báu ngọc ở trong kho nước Sở, đều chất lên xe chở về. Lại thiên những dân Sở kể hàng vạn nhà sang ở chỗ đất hoang của nước Ngô. Ngũ Viên bảo Tôn Vũ theo đường thủy đi về trước, còn mình thì theo đường bộ qua Lịch Dương Sơn, định tìm Đông Cao Công để trả ơn. Khi đi đến nơi thì chẳng thấy nhà cửa đâu cả. Lại sai người sang Long Động Sơn để tìm Hoàng Phủ Nột, cũng chẳng thấy tông tích ở đâu. Ngũ Viên thở dài mà than rằng: - Thật là những bậc cao sĩ! Ngũ Viên nói xong, liền đến chỗ ở trước, sụp lạy hai lạy rồi đi. Khi đến cửa Chiêu quan, quân Sở đã bỏ trốn hết cả. Ngũ Viên sai phá cửa quan ấy. Khi qua bến Lại Thủy, Ngũ Viên than rằng: - Năm xưa ta bị đói ở đây, có xin cơm của một người con gái. Người con gái cho ta ăn cơm, rồi đâm đầu xuống sông mà chết. Ta có đề mấy câu ở trên viên đá, chẳng hay chữ có còn chăng! Ngũ Viên sai người đào lên xem thì chữ ở viên đá vẫn còn y nguyên như cũ. Ngũ Viên muốn đem ngàn nén vàng để đền ơn, nhưng không biết nhà ở đâu cả, mới sai ném vàng xuống vệ sông mà khấn rằng: - Lòng ta không phụ, nàng có thiêng liêng, xin nàng chứng giám! Khấn xong rồi đi. Đi chưa được một dặm, có bà lão ngồi bên cạnh đường, trông thấy quân Ngô kéo qua mà khóc. Quân sĩ bắt lại hỏi: - Vì cớ gì mà khóc? Bà lão già nói: - Ta có một người con gái chưa chồng, mẹ con cùng ở với nhau, đã 20 năm trời; sau ra đập sợi ở bến sông này có gặp một ông quân tử lỡ đường, mới đem cơm cho ăn, nhưng sợ việc tiết lộ ra, liền đâm đầu xuống sông mà chết. Lão nghe nói ông quân tử ấy tức là Ngũ Tướng quân. Nay Ngũ Tướng quân thắng Sở trở về mà chẳng thấy đền ơn cho con lão. Lão tủi rằng con lão chết uổng, vậy nên lão khóc. Quân sĩ bảo rằng: - Chủ tướng ta đây tức là Ngũ Tướng quân đó! Ngài muốn đem ngàn nén vàng đền cái ơn ấy mà không biết nhà ở đâu cả, hiện đã ném vàng xuống vệ sông, sao bà không đến đấy mà lấy. Bà lão ấy mới đến vệ sông lấy vàng đem về. Vua Việt là Doãn Thường nghe tin bọn Tôn Vũ rút quân về nước Ngô, biết là Tôn Vũ tài nghề dụng binh, khó lòng đánh nổi, mới cũng rút quân về. Nghĩ thầm: Việt chẳng kém gì Ngô, liền tự xưng là Việt Vương. Hạp Lư xét cái công phá Sở, cho Tôn Vũ đứng đầu. Tôn Vũ không muốn làm quan, lại xin về núi. Hạp Lư sai Ngũ Viên lưu lại. Tôn Vũ bảo Ngũ Viên rằng: - Ngài lại không biết đạo trời hay sao? Nóng lắm thì rét nhiều, xuân qua thì thu đến. Nay Đại vương cậy mình cường thịnh, tất sinh lòng kiêu sa, nếu ta không xin về thì rồi có hậu hoạn. Chẳng những tôi lo cho tôi, tôi lại còn lo cho Ngài nữa. Ngũ Viên không lấy làm phải. Tôn Vũ cố ý cáo từ về núi. Hạp Lư đưa tặng mấy xe vàng lụa. Trong khi đi đường, Tôn Vũ đều đem ban phát cho những dân nghèo khổ. Về sau không biết Tôn Vũ đi đâu mất. Hạp Lư cho Ngũ Viên làm tướng quốc, cũng theo lối như Trọng Phụ nước Tề và Tử Văn nước Sở khi trước, chỉ gọi tên tự của Ngũ Viên là Tử Tư mà thôi. Lại cho Bá Hi làm thái tể, cùng dự quốc chính. Đổi tên cửa Sương môn gọi là Phá Sở môn. Xây đá ở cửa Lưu môn về cõi nam, đóng quân ở đấy để chống giữ với nước Việt, gọi là Thạch môn quan. Quan Đại phu nước Việt là Phạm Lãi, cũng đắp thành ở Tích Giang để chống giữ với nước Ngô, gọi là Cố Lăng. Lại nói chuyện Công tử Thân và Công tử Kết trở về Dĩnh Đô, một mặt thu táng hài cốt Sở Bình Vương và sửa lại những tôn miếu xã tắc; một mặt sai Thân Bao Tư đem thuyền sang nước Tùy đón Sở Chiêu Vương. Sở Chiêu Vương giao ước với vua Tùy: - Hai nước quyết không xâm phạm nhau. Vua Tùy tiễn Sở Chiêu Vương xuống thuyền, rồi mới trở về. Sở Chiêu Vương đi đến giữa sông Đại Giang, ngồi ở trong thuyền ngẩng trông bốn mặt, lại nhớ đến những sự khổ sở trong khi lưu lạc năm xưa, bỗng thấy dưới mặt nước nổi lên một vật, to bằng cái đấu, sắc đỏ hồng hồng. Sai người vớt lên xem, rồi đem hỏi các quan, chẳng ai biết là vật gì cả. Sở Chiêu Vương liền cầm dao chặt đôi ra. Trong có một quả như quả dưa. Đem nếm xem thì thấy ngon ngọt lạ thường. Sở Chiêu Vương truyền đem chia cho mỗi người một miếng và bảo rằng: - Thứ quả này không biết tên là gì, âu là ta ghi lấy để đợi có nhà bác vật. Đi trong một ngày nữa, đến đất Vân Trung. Sở Chiêu Vương thở dài mà than rằng: - Đây là chỗ ta mất cướp hôm xưa đây, nên phải ghì lấy! Sở Chiêu Vương truyền cắm thuyền lại ở bên bờ sông, sai Đấu Tân đắp một cái thành nhỏ ở đấy, để cho những khách qua đường có chỗ vào mà trú ngụ. Bọn Công tử Thân và Công tử Kết đi ra ngoài Dĩnh Đô 50 dặm để nghênh tiếp Sở Chiêu Vương. Sở Chiêu Vương về đến Dĩnh Đô, trông thấy ngoài thành xương trắng đầy đường, trong thì cung khuyết tàn phá, bỗng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Khi vào yết kiến người mẹ là nàng Mạnh Doanh, hai mẹ con trông nhau mà khóc. Sở Chiêu Vương nói: - Nước nhà chẳng may gặp phải đại biến, đến nỗi miếu xã bị phá, lăng mộ bị nhục. Cái thù này bao giờ báo lại cho được. Nàng Mạnh Doanh nói: - Ngày nay con đã về, trước hết cần phải thưởng phạt cho công minh, sau phủ dụ trăm họ, chờ khi nào thế lực sung túc, bấy giờ sẽ nghĩ cách báo thù. Sở Chiêu Vương sụp lạy, xin vâng mệnh. Đêm hôm ấy, Sở Chiêu Vương ngủ ở nhà Trai cung, sáng hôm sau vào tế cáo tôn miếu xã tắc, và đi thăm nom phần mộ, rồi mới ra coi triều để các quan vào lạy mừng. Sở Chiêu Vương nói: - Ta tin dùng những đứa tiểu nhân, đến nỗi gần mất nước, nếu không có bọn các ngươi thì bao giờ ta lại được trông thấy mặt trời. Làm mất nước là tội của ta, phục được nước là công của các ngươi đó! Các quan đại phu đều lạy tạ. Sở Chiêu Vương thết đãi các tướng nước Tần và khao thưởng quân Tần, rồi tiễn đưa về nước. Lại luận công hành thưởng, cho Công tử Thân làm lệnh doãn, Công tử Kết làm tả doãn. Thân Bao Tư có cái công to đi mượn quân Tần, Sở Chiêu Vương định cho làm hữu doãn. Thân Bao Tư nói: - Tôi sang mượn quân Tần là vì việc nước, chứ không phải vì thân tôi. Nay Đại vương đã phục quốc rồi, lòng tôi được thỏa, có đâu tôi dám nhận chức này để cầu lợi. Thân Bao Tư nhất định từ chối không nhận. Sở Chiêu Vương cố ép mãi. Thân Bao Tư đi trốn. Người vợ bảo Thân Bao Tư rằng: - Phu quân đem cả vợ con liều thân hoại thể, để mà đi mượn quân Tần về thu phục lại nước Sở, dẫu nhận thưởng cũng là xứng đáng, can gì phải trốn? Thân Bao Tư nói: - Lúc trước ta vì tình bạn hữu, không tiết lộ cái mưu của Ngũ Viên, để cho Ngũ Viên phá được nước Sở, đó là cái tội của ta. Mình có tội mà lại còn nhận công thì ta lấy làm xấu hổ lắm! Thân Bao Tư liền đem cả vợ con trốn vào rừng núi. Sở Chiêu Vương sai người tìm mãi không được, mới ban khen mà yết ở cửa nhà Thân Bao Tư rằng "Trung thần chi môn". Sở Chiêu Vương lại cho Do Vu làm hữu doãn mà bảo rằng: - Khi trước nhà ngươi vì che chở cho ta mà bị một mũi giáo ở đất Vân Trung, bao giờ ta dám quên ơn! Còn bọn Thẩm Chư Lương, Chung Kiến, Tống Mộc, Đấu Tân, Đấu Sào và Viễn Diên, đều được thăng chức cả. Sở Chiêu Vương lại triệu Đấu Hoài, toan thưởng. Công tử Thân can rằng: - Khi trước Đấu Hoài định hại Đại vương, nên đem trị tội, cớ sao lại thưởng. Sở Chiêu Vương nói: - Kẻ kia định báo thù cho cha, thế tức là hiếu tử. Đã là hiếu tử thì khó gì mà không làm được trung thần! Sở Chiêu Vương cũng cho làm đại phu. Lam Doãn Điệp xin vào yết kiến Sở Chiêu Vương. Sở Chiêu Vương giận về nỗi khi trước ở Thành Cữu không chịu ghé thuyền cho đi, toan bắt đem giết, mới sai người ra bảo Lam Doãn Điệp rằng: - Khi trước nhà ngươi bỏ ta ở nơi đường sá, nay lại còn xin vào yết kiến để lam gì? Lam Doãn Điệp nói: - Lam Doãn Ngõa ngày xưa quên ơn nhớ thù, đến nỗi bị thua ở Bắc Cử, cớ sao Đại vương lại còn bắt chước? Vả chiếc thuyền ở Thành Cữu sao êm ái bằng cái cung ở Dĩnh Đô. Tôi bỏ Đại vương ở Thành Cữu là có ý muốn cho Đại vương tỉnh ngộ lại. Ngày nay tôi tới đây là muốn xem Đại vương đã biết tỉnh ngộ hay chưa. Đại vương không xét những cớ mất nước mà nhớ cái tội tôi không ghé thuyền; tôi dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc thay cho cái cơ nghiệp của nước Sở! Công tử Thân tâu với Sở Chiêu Vương rằng: - Lam Doãn Điệp nói thẳng lắm! Đại vương nên tha cho, để ghi lấy câu chuyện trong khi thất bại. Sở Chiêu Vương cho Lam Doãn Điệp vào yết kiến, lại cho được nguyên chức đại phu như cũ. Các quan triều thần thấy Sở Chiêu Vương độ lượng rộng rãi như vậy, ai cũng bằng lòng. Sở Chiêu Vương phu nhân nghĩ mình khi trước thất thân với Hạp Lư, xấu hổ không dám trông mặt Sở Chiêu Vương nữa, liền thắt cổ mà chết. Bấy giờ nước Việt đang gây sự với nước Ngô, nghe tin Sở Chiêu Vương phục quốc, sai sứ đến chúc mừng, nhân tiến một người tôn nữ. Sở Chiêu Vương lập làm kế thất, tức là Việt Cơ. Việt Cơ là người có hiền đức. Sở Chiêu Vương rất kính trọng. Sở Chiêu Vương lại nghĩ thương em gái là Qui Vu khi trước đi theo trong lúc hoạn nạn, muốn chọn một người rể hiền để gả. Qui Vu nói với Sở Chiêu Vương rằng: - Phép làm con gái, không được gần đàn ông. Khi trước Chung Kiến đã có cõng tôi thì tức là chồng tôi đó, tôi không muốn lại kết duyên với người khác nữa. Sở Chiêu Vương liền gả Qui Vu cho Chung Kiến; lại cho Chung Kiến làm tư nhạc đại phu. Sở Chiêu Vương lại nhớ đến sự hiển linh của quan Lệnh doãn cũ là Tôn Thúc Ngao, sai người lập đền thờ ở Vân Trung. Công tử Thân thấy Dĩnh Đô tàn phá, vả người nước Ngô ở đấy đã lâu, quen biết hết đường lối, mới tâu với Sở Chiêu Vương thiên đô sang đất Nhược gọi là Tân Dĩnh. Sở Chiêu Vương bày tiệc cùng với các quan triều thần uống rượu vui. Trong khi tiệc rượu đang vui quan Nhạc sư là Hồ Tử sợ Sở Chiêu Vương chỉ biết vui ngày nay mà quên cái khổ năm trước, lại giống như lối cũ Sở Bình Vương thuở xưa, mới ôm cây đàn đến trước mặt Sở Chiêu Vương mà tâu rằng: - Tôi có một khúc đàn "Cùng Nột", xin gẩy để Đại vương nghe. Sở Chiêu vương nói: - Ta sẵn lòng nghe lắm! Hồ Tử ôm cây đàn mà gẩy, tiếng nghe rất sầu thảm! Sở Chiêu Vương hiểu ý, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Hồ Tử cất đàn cầm đi, rồi lui xuống dưới thềm. Sở Chiêu Vương truyền bãi tiệc. Từ bấy giờ chăm chỉ về việc chính trị. Khi Công tử Thắng về, Sở Chiêu Vương phong làm Bạch công. Lại đắp một cái thành cho Công tử Thắng ở, gọi là Bạch công Thành, sau thành ra một họ Bạch. Công tử Phu Khái ở nước Tống nghe tin Sở Chiêu Vương không nghĩ những điều thù oán cũ, mới trở về nước Sở. Sở Chiêu Vương biết là người vũ dũng, phong cho ở Đường Khê, gọi là Đường Khê Thị. Công tử Thân nghĩ việc làm mất nước Sở, căn nguyên bởi nước Đường và nước Sái, nay Đường đã diệt mà Sái hãy còn, mới xin Sở Chiêu Vương đem quân đi đánh Sái để báo thù. Sở Chiêu Vương nói: - Nay việc nước mới yên, ta chưa dám bắt dân phải khó nhọc. (Xét ở Xuân Thu truyện chép thì Sở Chiêu Vương năm thứ 10 phải chạy trốn, năm thứ 11 được phục quốc. Mãi đến năm thứ 20 mới đem quân đi đánh nước Đốn, bắt vua Đốn tên là Tường; năm thứ 21 đem quân đi đánh Hồ, bắt vua Hồ tên là Báo, để báo cái thù khi trước theo Tấn xâm Sở; năm thứ 22 vây nước Sái, hỏi cái tội khi trước theo Ngô vào Dĩnh Đô. Sái Chiêu công phải xin hàng. Sở Chiêu Vương thiên nước Sái sang khoảng sông Giang và Sông Nhữ. Còn trong 10 năm giữa thì Sở Chiêu Vương biết dưỡng sức cho dân được yên nghỉ, bởi vậy đánh đâu được đấy, lại làm cho nước Sở cường thịnh). Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 78 Lê Di hiến kế dùng Lai Binh Khổng Tử kể tội giết Thiếu chính Bấm để xem Tề Cảnh công thấy nước Tấn không đánh nổi nước Sở, chư hầu đều có ý chán, mới thay nước Tấn lên làm bá chủ. Lỗ Chiêu công khi trước bị quan Đại phu nước Lỗ là Quý tôn Ý Như đuổi. Tề cảnh công định giúp cho Lỗ Chiêu công về nước, nhưng Quý tôn Ý Như cố ý chống cự không theo. Lỗ Chiêu công lại sang cầu cứu nước Tấn. Quan Đại phu nước Tấn là Tuân Lịch cũng ăn tiền của Quý tôn Ý Như mà không chịu giúp cho Lỗ Chiêu công. Lỗ Chiêu Công phải chết ở nước ngoài. Quý tôn Ý Như liền bỏ Thế tử Diễn mà lập Công tử Tống lên nối ngôi, tức là Lỗ Định công. Lỗ Định công vì cớ Quý tôn Ý Như giao thông với Tuân Lịch nước Tấn, vậy nên theo Tấn mà không theo Tề. Tề cảnh công giận lắm, dùng Quốc Hạ làm tướng, đem quân sang quấy nhiễu bờ cõi nước Lỗ mà nước Lỗ cũng không thể đánh lại nổi. Chưa được bao lâu, Quý tôn Ý Như chết, con là Kỳ nối chức, tức là Quý Khang Tử. Nguyên trước Mạnh thị, Quý thị và Thúc thị ba họ ấy từ khi Lỗ Chiêu công còn ở nhà, cũng đã cùng nhau chia ba nước Lỗ. Họ nào cũng có dùng riêng gia thần để cầm quyền chính, thành ra vua Lỗ không có công thần. Bọn gia thần lại tiếm quyền của ba quan đại phu (Mạnh thị, Quý thị và Thúc thị), làm nhiều điều càn dỡ, không biết chủ mình là ai cả. Bấy giờ Mạnh tôn Vô Kị, Quý tôn Tư, Thúc tôn Châu Cừu, dẫu mỗi nhà có một cái ấp riêng, nhưng quyền chính đều về tay chức ấp tể. 1- Mạnh thị có Thành Ấp, chức ấp tể là Công Liêm Dương. 2- Quý thị có Phí Ấp, chức ấp tể là Công Sơn Bất Nhữu. 3- Thúc thị có Cấu Ấp, chức ấp tể là Công Nhược Diểu. Thành quách trong ba ấp ấy đều tự ba nhà lập riêng, rất là bền chặt, chẳng khác gì kinh thành ở Khúc Phụ. Trong ba chức ấp tể ấy thì Công Sơn Bất Nhữu ngang ngược hơn cả. Công Sơn Bất Nhữu lại có một người gia thần nữa họ Dương tên Hổ, tên tự là Hóa, vốn người trán to vai rộng, cao hơn chín thước, sức khỏe lạ thường, lại nhiều mưu trí. Lúc đầu Quý tôn Tư tin dùng, cho làm chức ấp tể; sau dần dần Dương Hổ chuyên hết quyền chính nhà Quý thị, thành ra Quý thị lại bị Dương Hổ áp chế, không biết làm thế nào được. Bấy giờ lại có quan Thiếu chính tên là Mão, vốn người học rộng nhớ dai, lại khéo nói lắm. Cả nước ai cũng cho là một người thông thái. Nhưng Thiếu chính Mão tính hay nham hiểm, phản phúc; khi thấy ba nhà kia thì tán tụng là có công giúp vua yên nước; khi thấy bọn Dương Hổ thì lại giả cách nói những giọng phù công thất (chỉ vua Lỗ) mà ức tư gia (chỉ ba nhà), làm cho hai bên cừu địch lẫn nhau, nhưng ai cũng yêu cái tài hùng biện của Thiếu chính Mão, vậy nên không ai tỏ được mưu gian. Lại nói chuyện Mạnh tôn Vô Kỵ tức là con Trọng tôn Quặc, cháu Trọng tôn Miệt. Khi Trọng tôn Quặc hãy còn, vẫn mến danh tiếng ông Khổng Tử nước Lỗ, bắt con là Mạnh tôn Vô Kỵ theo ông Khổng Tử để học lễ. Ông Khổng Tử nước Lỗ tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni. Cha là ông Thúc Lương Ngột, khi trước làm quan đại phu ở Trâu Ấp, tức là một viên dũng tướng hai tay nâng nổi cái cánh cửa treo ở thành Bức Dương đó. Nguyên trước Thúc Lương Ngột lấy con gái họ Thi nước Lỗ mà không có con. Người thiếp sinh được một con, tên là Mạnh Bì thì lại có tật ở chân. Thúc Lương Ngột mới sai người đến nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có năm con gái, đều chưa gả chồng cả, có ý chê Thúc Lương Ngột đã già, mới bảo các con rằng: - Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan đại phu ở Trâu Ấp đó không? Các con chẳng ai trả lời cả. Người con gái út tên là Trưng Tại, đứng dậy mà thưa rằng: - Phép làm con gái khi còn ở nhà phải theo lời cha. Cha đặt đâu con xin ngồi đấy, còn phải hỏi gì! Họ Nhan nghe nói lấy làm lạ, liền gả Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột. Trưng Tại đã kết duyên với Thúc Lương Ngột rồi, vợ chồng lo về sự hiếm hoi, cùng nhau vào lễ cầu tự ở núi Ni Sơn. Trưng Tại trèo lên trên núi Ni Sơn, bao nhiêu lá cây đều rung động lên cả; khi làm lễ xong trở xuống thì lá cây lại rủ xuống như cũ. Đêm hôm ấy, Trưng Tại nằm mộng thấy thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng: - Sau này nàng sẽ sinh được con thánh, nhưng khi nào lâm sản nên vào ở trong Không Tang. Đến khi tỉnh dậy thì thành ra có thai. Một hôm Trưng Tại lại mơ mơ mòng mòng như người chiêm bao, trông thấy năm ông cụ già đứng ở dưới sân, tự xưng là năm vì sao, dắt một con thú giống như con trâu con mà có một sừng, mình lại có vằn. Con thú ấy trông thấy Trưng Tại thì nằm phục ngay xuống mà nhả cái ngọc xích ở trong miệng ra. Trên cái ngọc xích có câu văn rằng: "Con nhà thủy tinh, nối đời suy Chu mà làm Tố Vương". Trưng Tại biết là điềm lạ, mới lấy giải lụa buộc vào sừng con thú ấy mà dắt đi. Khi tỉnh dậy, nói chuyện với Thúc Lương Ngột. Thúc Lương Ngột nói: - Con thú ấy tất là con kỳ lân. Gần đến sản kỳ, Trưng Tại hỏi Không Tang là chỗ nào. Thúc Lương Ngột nói: - Núi Nam Sơn có cái hang đá, tục vẫn gọi là Không Tang đó. Trưng Tại nói: - Khi tôi lâm sản, tất phải đến đấy. Thúc Lương Ngột hỏi: - Sao vậy? Trưng Tại thuật chuyện chiêm bao hôm trước, rồi sửa soạn đến ở cái hang đá Không Tang. Đến hôm ấy, có hai con rồng xanh ở trên trời xuống, phục ở hai bên sườn núi, lại có hai người thần nữ đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại. Gội xong thì biến đi. Khi Trưng Tại lâm sản, bỗng thấy trong hang đá có một thứ nước suối ấm chảy ra, để cho Trưng Tại tắm. Tắm xong, suối lại cạn ngay. Ông Khổng Tử sinh có tướng lạ: Môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng như lưng con rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng mà cao. Thúc Lương Ngột nói: - Vì ta cầu tự ở núi Ni Sơn mà được đứa bé này, vậy thì ta đặt tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni (tức là ông Khổng Tử). Chưa được bao lâu thì Thúc Lương Ngột tạ thế. Trưng Tại hết lòng nuôi con. Ông Khổng Tử, khi lớn lên, mình dài 9 thước 6 tấc. Người có thánh đức, ham sự học hành lắm, đi chu du các nước. Khắp thiên hạ chỗ nào cũng có học trò. Vua các nước đều có lòng kính mến, nhưng bị các nhà quyền quí đem lòng ghen ghét, thành ra không nước nào dùng được. Bấy giờ ông Khổng Tử đang ở nước Lỗ, Mạnh tôn Vô Kỵ nói với Quý tôn Tư rằng: - Muốn dẹp yên được biến loạn thì tất phải dùng Khổng Khâu. Quý tôn Tư vừa đứng dậy thay áo thì có người ở Phí ấp đến báo rằng: - Chúng tôi đào giếng thấy một chỗ đất rỗng, trong có con dê, không biết là cớ sao? Quý tôn Tư muốn thử sức học của ông Khổng Tử, liền dặn người ấy không được nói, rồi vào bảo ông Khổng Tử rằng: - Có người đào giếng, bắt được con chó không biết là cớ sao? Ông Khổng Tử nói: - Cứ như ý tôi thì đó tất là con dê, chứ không phải con chó. Quý tôn Tư kinh sợ mà hỏi rằng: - Cớ sao lại biết? Ông Khổng Tử nói: - Tôi nghe nói loài sơn quái gọi là Quý Võng Lạng, loài thủy quái gọi là Long võng Tượng, loài thổ quái gọi là Phần Dương. Nay đào được một con vật ở dưới đất, tất là con Phần Dương đó. Quý tôn Tư nói: - Tại sao lại gọi là Phần Dương? Ông Khổng Tử nói: - Phần Dương nghĩa là con dê không phải đực, không phải cái. Chỉ có hình giống con dê mà thôi. Quý tôn Tư liền gọi người Phí Ấp vào hỏi thì quả nhiên như thế, càng kinh sợ mà khen rằng: - Khổng Khâu thật là một tay học giỏi, không mấy người bằng. Quý tôn Tư dùng ông Khổng Tử làm quan tể ở đất Trung Đô. Việc ấy đồn đến tai Sở Chiêu Vương. Sở Chiêu Vương sai sứ giả đưa đồ lễ và đem một vật bắt được ở dòng sông Giang khi trước đến hỏi ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử nói: - Đấy là quả bèo, có thể bổ mà ăn được. Sứ giả nói: - Tại sao Ngài lại biết? Ông Khổng Tử nói: - Khi trước tôi có sang Sở, nghe đứa trẻ hát rằng: "Vua Sở qua sông, bắt được quả bèo, to bằng cái đấu, đỏ như mặt trời, bổ ra mà ăn, vị ngọt như mật". Vì thế mà tôi biết. Sứ giả nói: - Quả bèo có dễ tìm được không? Ông Khổng Tử nói: - Bèo là một vật lênh đênh trên mặt nước, không có nhất định mà kết thành quả được, thế thì trăm nghìn năm mới có một lần. Đó là cái triệu tan mà lại hợp, suy lại thịnh, đáng mừng thay cho vua Sở. Sứ giả về bảo Sở Chiêu Vương. Sở Chiêu Vương có lòng kính phục. Ông Khổng Tử làm quan ở Trung Đô, chính trị giỏi lắm. Các nước đều sai người đến xem để bắt chước. Lỗ Định công biết là người hiền, cho làm quan tư không. Năm thứ mười chín đời Chu Kính Vương. Dương Hổ muốn chuyên quyền nước Lỗ, mới bàn mưu với Công Sơn Bất Nhữu và Thúc tôn Chiếp, định giết Quý tôn Tư và Thúc tôn Châu Cừu, rồi cho Công Sơn Bất Nhữu thay Quý tôn Tư, Thúc tôn Chiếp thay Thúc tôn Châu Cừu, còn mình thì thay Mạnh tôn Vô Kỵ. Dương Hổ mến ông Khổng Tử là người hiền, muốn dùng để giúp việc cho mình mới sai người đến bảo ý cho ông Khổng Tử biết. Ông Khổng Tử không chịu theo. Dương Hổ sai người đem một con lợn chín đến biếu ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử nói: - Đây là cái kế của Dương Hổ làm cho ta phải đến tạ ơn, để tiếp kiến mà dụ ta đó thôi. Ông Khổng Tử sai học trò rình lúc Dương Hổ đi vắng thì đến nhà Dương Hổ, đưa cái danh thiếp rồi về. Dương Hổ không dùng được ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử mật nói với Mạnh tôn Vô Kỵ rằng: - Dương Hổ rồi tất làm loạn khởi từ họ Quý trước, Ngài nên phòng bị mới khỏi tai vạ. Mạnh tôn Vô Kỵ liền mộ 300 tráng sĩ, giả cách thuê làm nhà ở ngoài Nam môn, kỳ thực để phòng loạn. Mạnh tôn Vô Kỵ lại bảo quan tể ở Thành Ấp là Công Liễm Dương phải sửa soạn quân mã để khi có tin báo thì tức khắc đến cứu. Mùa thu tháng tám năm ấy, nước Lỗ sắp làm lễ Đế tế. Dương Hổ định sau ngày Đế tế làm tiệc mời Quý tôn Tư. Mạnh tôn Vô Kỵ nghe tin, liền nói: - Dương Hổ mời Quý tôn Tư, việc này khả nghi lắm! Mạnh tôn Vô Kỵ sai người báo với Công Liễm Dương, hẹn đến trưa hôm ấy thì đem quân tới Nam môn để tiếp ứng. Ngày hôm ấy Dương Hổ thân hành đến nhà Quý tôn Tư, mời Quý tôn Tư lên xe. Dương Hổ đi trước, Dương Việt (em họ Dương Hổ) đi sau. Xung quanh đều là đảng phái họ Dương cả. Chỉ có một người dong xe cho Quý tôn Tư là Lâm Sở, xưa nay vẫn là môn khách nhà họ Quý. Quý tôn Tư có lòng nghi, nói riêng với Lâm rằng: - Nhà ngươi có thể đưa xe ta tới nhà họ Mạnh được không? Lâm Sở hiểu ý. Khi đến con đường rộng, Lâm Sở rẽ dây cương quay xe về phía nam, rồi ra roi đánh ngựa. Ngựa lồng chạy mau lắm. Dương Việt trông thấy, gọi ầm lên rằng: - Kìm ngựa lại! Lâm Sở chẳng nói gì cả, lại ra roi đánh mãi, ngựa chạy càng mau. Dương Việt tức thì nổi giận, giương cung bắn Lâm Sở, nhưng bắn không trúng, cũng ra roi đánh ngựa kéo xe của mình. Trong khi vội vàng, đánh rơi roi ngựa. Dương Việt cúi xuống nhặt roi thì xe Quý tôn Tư đã xa rồi. Quý tôn Tư tới Nam môn, đi thẳng vào nhà họ Mạnh mà kêu lên rằng: - Họ Mạnh cứu ta với!.. Mạnh tôn Vô Kỵ sai ba trăm tráng sĩ phục sẵn ở phía trong hàng rào. Được một lúc, Dương Việt đến, thúc quân phá rào. Tráng sĩ ở trong bắn ra, chết hại rất nhiều. Dương Việt cũng bị mấy mũi tên mà chết, Dương Hổ ngoảnh lại, không trông thấy Quý tôn Tư, quay trở về lối trước, hỏi người đi đường rằng: - Các người có trông thấy xe quan tướng quốc không? Người đi đường nói: - Ngựa lồng, đã đi ra phía Nam môn rồi! Nói chưa dứt lời thì gặp quân đại binh của Dương Việt chạy đến. Dương Hổ mới biết là Dương Việt đã bị bắn chết, Quý tôn Tư đã trốn vào nhà họ Mạnh rồi, tức thì nổi giận, định đem quân vào triều để hiếp Lỗ Định công phải ra đánh họ Mạnh. Khi đến nửa đường, gặp Thúc tôn Châu Cừu, Dương Hổ lại hiếp cả Thúc tôn Châu Cừu, bắt phải đem quân cùng sang đánh họ Mạnh ở Nam môn, Mạnh tôn Vô Kỵ cố sức chống giữ. Dương Hổ sai lấy lửa đốt. Quý tôn Tư sợ lắm. Mạnh tôn Vô Kỵ thấy trời vừa đúng trưa, bảo Quý tôn Tư rằng: - Không sợ! Quân ở Thành Ấp đã sắp đến cứu. Nói chưa dứt lời thì thấy có một viên mãnh tướng ở phía đông đem quân đến, quát to lên mà mắng rằng: - Ta là Công Liễm Dương đây, các ngươi chớ xâm phạm đến chủ ta. Dương Hổ giận lắm, xông lại đánh Công Liễm Dương. Hai bên giao chiến nhau hơn năm mươi hợp, tinh thần Dương Hổ càng thêm hăng hái. Công Liễm Dương đã hơi có ý khiếp sợ. Thúc tôn Châu Cừu ở sau mặt trận kêu to lên rằng: - Dương Hổ thua rồi! Kêu vừa dứt lời thì tức khắc đem quân đưa Lỗ Định Công chạy về phía tây. Quân công đồ cũng chạy theo Lỗ Định công. Mạnh tôn Vô Kỵ phá rào đem quân ra đuổi. Gia thần nhà họ Quý là Khổ Việt cũng đem quân đến. Dương Hổ thế cô, chạy về giữ cửa Quán Dương quan. Ba nhà hợp quân đến đánh. Dương Hổ không thể địch nổi, sai đốt cửa Lai môn. Quân Lỗ tránh lửa phải kéo lui. Dương Hổ xông đống lửa mà ra, chạy sang nước Tề, vào yết kiến Tề Cảnh công, đem ruộng Quán Dương dâng nước Tề, để mượn quân đánh Lỗ. Quan đại phu nước Tề là Bão Quốc nói với Tề Cảnh công rằng: - Nước Lỗ đang dùng Khổng Khâu, ta không thể địch nổi, chi bằng ta bắt Dương Hổ và đem ruộng Quán Dương trả lại nước Lỗ, để lấy lòng Khổng Khâu. Tề Cảnh công nghe lời, bắt Dương Hổ giam ở Tây Bỉ. Dương Hổ cho quân canh uống rượu say, rồi trốn sang nước Tống. Nước Tống cho Dương Hổ ở đất Khuông. Dương Hổ ác ngược với người đất Khuông lắm. Người đất Khuông toan giết. Dương Hổ lại trốn sang nước Tấn, làm tôi Triệu Ưởng. Tề Cảnh công thấy Dương Hổ trốn mất, sợ người nước Lỗ nghi mình dung nạp, mới sai sứ đưa thư cho Lỗ Định công, nói rõ việc Dương Hổ trốn sang nước Tống, và ước với Lỗ Định công cùng hội ở núi Giáp Cốc để giảng hòa hiếu. Lỗ Định công hợp ba nhà cùng thương nghị. Mạnh tôn Vô Kỵ nói: - Người nước Tề hay nói dối, Chúa công chớ khinh thường mà đi dự hội làm gì? Quý tôn Tư nói: - Nước Tề đã nhiều lần đem quân đánh ta, nay Tề muốn hòa hiếu, cớ sao ta lại từ chối. Lỗ Định công nói: - Nay ta định sang hội với Tề, nên cho ai đi bảo giá. Mạnh tôn Vô Kỵ nói: - Tất phải dùng Khổng Khâu là một người gia sư của tôi. Lỗ Định công liền triệu ông Khổng Tử đến, giao việc tướng lễ để sang hội với Tề. Lúc Lỗ Định công sắp đi, ông Khổng Tử tâu rằng: - Tôi nghe nói có văn sự thì tất phải có vũ bị, hai điều ấy không thể bỏ một điều được. Xem như việc Tống Tương công sang hội ở Vu Địa khi trước thì ta cũng nên phải phòng bị. Xin Chúa công cho quan tư mã đem quân đi theo mới được. Lỗ Định công nghe lời, truyền cho quan Đại phu là Thân Câu Tu làm hữu tư mã, Nhạc Kỳ làm tả tư mã đem quân đi theo sau; lại sai quan Đại phu là Tư Vô Hoàn đem quân đến đóng gần nơi hội sở, cách độ trong mười dặm. Khi đến đất Giáp Cốc, Tề Cảnh công đã lập sẵn một cái đàn cao ba từng, cách thức trông rất giản lược. Tề Cảnh công đóng ở phía hữu, Lỗ Định công đóng ở phía tả. Bấy giờ quan Đại phu nước Tề là Lê Di vốn người có nhiều mưu trí. Từ khi Lương Khâu Cứ chết đi, Tề Cảnh công tin dùng Lê Di lắm. Đêm hôm ấy, Lê Di xin vào yết kiến. Tề Cảnh công cho vào. Lê Di vào, Tề Cảnh công hỏi rằng: - Có việc gì mà nhà ngươi đêm hôm tới đây như vậy? Lê Di tâu rằng: - Nước ta xưa nay vốn là cừu địch với nước Lỗ, chỉ vì nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, ta sợ mai sau hại đến nước Tề ta, vậy nên mới lập ra cái hội này. Tôi xem Khổng Khâu là người biết lễ mà không có vũ dũng, chẳng quen việc chinh chiến bao giờ. Sáng mai Chúa công ra khai hội, truyền đem phường nhạc các nước đến, để cho vua Lỗ được vui, rồi sai 300 quân Lai Di giả hình làm nhạc công, tiến vào mà bắt vua Lỗ và bắt cả Khổng Khâu nữa; còn tôi ở dưới đàn thì sẽ đem quân đuổi đánh quân Lỗ. Bấy giờ tính mệnh vua tôi nước Lỗ ở trong tay ta, tùy lượng Chúa công định liệu. Tề Cảnh công nói: - Việc này nên làm hay không, để ta phải bàn với quan Tướng quốc (chỉ Án Anh). Lê Di nói: - Quan Tướng quốc vốn chơi thân với Khổng Khâu. Nếu nói cho quan Tướng quốc biết thì việc này không thể làm được, xin Chúa công cứ giao cho tôi. Tề Cảnh công nói: - Ta cũng nghe lời ngươi, nhưng nhà ngươi phải cẩn thận lắm mới được. Lê Di tức khắc đi bảo với quân Lai Di. Ngày hôm sau, Tề Cảnh công và Lỗ Định công hội nhau ở trên đàn. Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ. Nước Lỗ thì ông Khổng Tử là tướng lễ. Hai bên cùng vái chào nhau. Khi làm lễ xong, Tề Cảnh công nói với Lỗ Định công rằng: - Tôi có đủ phường nhạc các nước, xin cùng với nhà vua cùng vui. Tề Cảnh công truyền cho người Lai Di lên tấu nhạc Lai Di. Bọn 300 người Lai Di tay cầm các đồ vũ mao và kiếm kích ở dưới đàn kéo lên. Miệng hát những tiếng líu lo, theo với âm nhạc. Khi người Lai Di lên đến nửa thềm, Lỗ Định công trông thấy, đã có ý lo. Ông Khổng Tử không sợ hãi gì cả, bước rảo sang đứng ở trước mặt Tề Cảnh công mà tâu rằng: - Hai nước ta đang hội nhau để tỏ tình hòa hiếu, nên dùng lễ Trung Quốc, sao lại dùng đến âm nhạc của giống mọi rợ như vậy, xin cho bỏ đi. Án Anh không biết là kế Lê Di, cũng tâu với Tề Cảnh công rằng: - Khổng Khâu nói thế, chính là hợp lễ. Tề Cảnh công có ý thẹn, liền truyền cho người Lai Di lui xuống. Lê Di thấy vậy giận lắm, lại gọi những phường nhạc nước Tề đến mà dặn rằng: - Hễ khi ăn tiệc đến nửa chừng, các ngươi hát bài thơ Tệ Cẩu rồi ra bộ bỡn cợt nhau, để làm cho vua tôi nước Lỗ phải tức giận thì ta sẽ trọng thưởng cho! Lê Di trèo lên trên đàn, tâu với Tề Cảnh công rằng: - Xin tấu âm nhạc trong cung để chúc thọ hai vua. Tề Cảnh công nói: - Âm nhạc trong cung, không phải là âm nhạc của rợ mọi, nên cho diễn ngay. Lê Di truyền cho phường nhạc ra diễn. Bọn phường nhạc hơn hai mươi người, đều thay hình vẽ mặt chia làm hai bên; một bên đóng nam, một bên đóng nữ, kéo nhau đến trước mặt Lỗ Định công, đứa nhảy đứa múa, hát toàn những giọng dâm loạn, vừa hát vừa cười. Ông Khổng Tử chống gươm trừng mắt nhìn Tề Cảnh công mà tâu rằng: - Kẻ thất phu dám cợt nhạo vua chư hầu thì tội đáng chết, xin cho quan Tư mã nước Tề chiếu phép hành tội. Tề Cảnh công không nói gì cả. Bọn phường nhạc lại cợt nhạo như trước. Ông Khổng Tử nói: - Hai nước ta đã giao hiếu với nhau như là anh em thì quan Tư mã nước Lỗ, tức là quan Tư mã nước Tề. Ông Khổng Tử nói xong, liền ngoảnh xuống dưới đàn mà vẫy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ. Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ lên thẳng trên đàn, bắt hai tên đứng đầu trong bọn ca công đem xuống để chém; còn những đứa khác đều sợ mà bỏ chạy. Tề Cảnh công kinh hãi. Lỗ Định công tức khắc cáo từ. Lê Di lúc trước vẫn định đón ở dưới đàn để bắt Lỗ Định công, sau một là thấy ông Khổng Tử có tài ứng biến, hai là thấy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ đều là tay anh hùng, ba là nghe nói ở ngoài mười dặm có quân Lỗ đóng, mới phải cắm đầu lui về. Tề Cảnh công về, gọi Lê Di mà trách rằng: - Khổng Khâu làm tướng lễ, đều theo đạo cổ nhân, sao nhà ngươi lại xui ta dùng cách rợ mọi ấy, ta đang cùng với nước Lỗ giao hiếu, nay thành ra cừu thù. Lê Di sợ hãi xin chịu tội, không dám cãi một câu nào cả. Án Anh nói với Tề Cảnh công rằng: - Người quân tử đã biết lỗi thì dùng cách thành thực mà tạ lại, nay nước Lỗ có ba xứ ruộng ở Vấn Dương; một là Hoan Điền, Dương Hổ nước Lỗ đem dâng nước ta, đó là của bất nghĩa; hai là Vận Điền, năm trước nước ta lấy của nước Lỗ để cho Lỗ Chiêu công ở; ba là Quý Âm Điền, Tiên quân ta ngày xưa nhờ thế lực của nước Tấn mà lấy của nước Lỗ. Nước Lỗ mất ba xứ ruộng ấy vẫn lấy làm căm tức. Chúa công nên nhân dịp này đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ để xin lỗi thì vua tôi nước Lỗ tất phải bằng lòng và tình giao hiếu của ta và Lỗ càng thêm bền chặt. Tề Cảnh công bằng lòng, liền sai Án Anh đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ. Ruộng Vấn Dương nguyên trước là của Lỗ Hi công ban cho Quý Hữu, ngày nay nước Tề trả lại vua Lỗ, tức lại về tay họ Quý. Bởi vậy Quý tôn Tư cảm ơn ông Khổng Tử, truyền đắp thành ở đất Quý Âm, gọi là Tạ Thành để ghi cái công ấy, lại nói với Lỗ Định công thăng chức cho ông Khổng Tử làm Đại tư khấu. Bấy giờ có một con chim lớn, dài ước ba thước, mình đen cổ trắng, mỏ dài mà có một chân, tự phía nam nước Tề bay sang nước Lỗ, vũ hai cánh đứng múa ở ngoài đồng, người làm ruộng đuổi đi không được, rồi sau bay về phía bắc. Quý tôn Tư nghe có chuyện quái dị ấy, đem hỏi ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử nói: - Con chim ấy tên gọi là Thương Dương, sinh ở bên Bắc Hải. Khi nào trời sắp mưa to thì con Thương Dương múa. Bởi vậy chỗ nào thấy con Thương Dương múa, tất là chỗ ấy sắp có cái hại mưa dầm, chỗ giáp giới Tề và Lỗ nên phải phòng bị mới được. Quý tôn Tư truyền cho dân ở đấy phải đắp đê và lợp nhà cho kỹ. Chưa được ba ngày thì quả nhiên trời mưa to lắm, sông Vấn Thủy nước đầy tràn lên. Nước Lỗ đã có phòng bị trước, vậy nên không hại gì cả. Việc ấy đồn đến nước Tề, Tề Cảnh công càng thêm kính phục ông Khổng Tử. Từ bấy giờ ông Khổng Tử nổi tiếng là một nhà bác học, khắp trong thiên hạ, ai ai cũng gọi là thánh nhân. Ông Khổng Tử tiến dẫn Trọng Do (tên tự là Tử Lộ) và Nhiễm Cầu (tên tự là Tử Hữu), Quý tôn Tư đều dùng cho làm gia thần. Một hôm, Quý tôn Tư hỏi ông Khổng Tử rằng: - Dương Hổ dẫu trốn đi, nhưng Công Sơn Bất Nhữu lại nổi lên, dùng cách gì mà trị được. Ông Khổng Tử nói: - Ta phải dùng lễ chế thì mới trị được. Cứ theo như lễ chế thì gia thần không được chứa giáp binh, quan đại phu không được đắp thành một trăm trĩ, bởi vậy chức ấp tể không trông cậy vào đâu mà dám nổi loạn. Sao Ngài không bắt Công Sơn Bất Nhữu phá thành và bỏ đồ giáp binh đi thì có phải yên việc không? Quý tôn Tư khen phải, nói với họ Mạnh và họ Thúc. Mạnh tôn Vô Kỵ nói: - Nếu có lợi cho nước nhà thì ta lại tiếc gì. Bấy giờ Thiếu chính Mão đang ghét ông Khổng Tử, muốn phá cái công ấy, mới sai Thúc tôn Chiếp mật báo cho Công Sơn Bất Nhữu biết. Công Sơn Bất Nhữu muốn giữ thành để làm phản, biết người nước Lỗ vốn kính trọng ông Khổng Tử, cũng muốn nhờ ông Khổng Tử giúp cho, sai người đem lễ vật và một bức thư cho ông Khổng Tử. Thư rằng: "Từ khi Tam Hoàn chuyên quyền, vua yếu, bề tôi mạnh, lòng người ai cũng oán giận. Tôi dẫu làm quan với họ Quý, nhưng vẫn một lòng mến điều công nghĩa, xin đem Phí Ấp nộp làm của công rồi giúp vua Tề trừ kẻ cường bạo, khiến cho nước Lỗ lại theo được cái nghiệp cũ của Chu công thuở xưa. Nếu Ngài cho là phải thì xin mời Ngài quá bộ sang Phí Ấp, ta sẽ bàn việc. Gọi là có chút lễ vật đem sang dâng Ngài, xin Ngài nhận cho". Ông Khổng Tử nói với Lỗ Định công rằng: - Nếu Công Sơn Bất Nhữu làm phản thì ta lại phải khó nhọc về việc dùng quân, xin Chúa công cho tôi sang Phí Ấp để bảo hắn phải nghĩ lại mà đổi lỗi đi, phỏng có nên chăng. Lỗ Định công nói: - Công việc nước nhà, ta trông cậy vào nhà ngươi cả, nhà ngươi chớ nên lúc nào rời bên cạnh ta. Ông Khổng Tử trả lại bức thư và các đồ lễ vật của Công Sơn Bất Nhữu. Công Sơn Bất Nhữu thấy Khổng Tử không nhận lời, liền sai người nói với quan tể ở Thành Ấp là Công Liễm Dương và quan tể ở Cấu Ấp là Công Nhược Diểu để cùng nổi loạn. Công Liễm Dương và Công Nhược Diểu đều không theo. Chức Mã chính ở Cấu Ấp tên gọi Hầu Phạm là người sức khỏe khéo bắn, người Cấu Ấp ai cũng sợ hãi. Hầu Phạm vẫn có chí muốn làm loạn, mới sai người giết Công Nhược Diểu, rồi tự xưng là quan tể ở Cấu Ấp, đem quân ở Cấu Ấp chống cự với ba nhà. Thúc tôn Châu Cừu nghe tin Hầu Phạm làm phản, đến bảo Mạnh tôn Vô Kỵ. Mạnh tôn Vô Kỵ nói: - Tôi xin giúp Ngài một tay để cùng trừ đứa phản nô ấy. Bấy giờ họ Mạnh cùng họ Thúc đem quân đến vây Cấu Ấp. Hầu Phạm cố sức chống giữ. Mạnh tôn Vô Kỵ không thể đánh nổi, bảo Thúc tôn Châu Cừu sang cầu viện nước Tề. Có kẻ gia thần họ Thúc tên gọi Tử Xích ở trong Cấu Ấp, giả cách theo Hầu Phạm. Hầu Phạm tin dùng lắm. Tử Xích bảo Hầu Phạm rằng: - Họ Thúc sai sứ sang mượn quân nước Tề. Vậy thì hai nước hợp quân đánh ta, ta địch thế nào nổi. Chi bằng ta đem Cấu Ấp sang hàng nước Tề. Nước Tề mặt ngoài dẫu thân với Lỗ, nhưng trong thực ghét Lỗ. Nếu Tề được Cấu Ấp thì có thể hiếp Lỗ được. Vậy thì Tề tất mừng lắm, mà phải đem chỗ đất to hơn ở nơi khác đền lại cho Ngài. Đằng nào Ngài cũng có đất ở, mà lại bỏ chỗ nguy đến chỗ yên được, còn gì lợi bằng! Hầu Phạm khen phải, rồi sai người sang xin hàng với nước Tề và nộp Cấu Ấp. Tề Cảnh công hỏi Án Anh rằng: - Họ Thúc mượn quân ta để đánh Cấu Ấp, nay Hầu Phạm lại nộp Cấu Ấp mà xin hàng, ta biết xử thế nào? Án Anh nói: - Ta đang cùng với Lỗ hòa hiếu, sao ta lại nhận cho kẻ phản thần nước Lỗ sang đầu hàng. Ta nên giúp họ Thúc là phải. Tề Cảnh công cười mà nói rằng: - Cấu Ấp là ấp riêng của họ Thúc, có dự gì đến vua Lỗ. Huống chi Hầu Phạm đang xâu xé với họ Thúc, đó là một việc không may cho Lỗ mà rất may cho Tề. Ta đã nghĩ được một kế cứ nhận lời cả hai bên để làm cho hại. Tề Cảnh công sai quan Tư mã là Điền Nhương Thư đóng quân ở giáp giới nước Lỗ để đợi khi có biến cố: Nếu Hầu Phạm đánh được họ Thúc thì chia quân giữ lấy Cấu Ấp, rồi đón Hầu Phạm về nước Tề; nếu họ Thúc đánh được Hầu Phạm thì giả cách nói là đem quân sang giúp họ Thúc mà đánh Cấu Ấp. Tùy cơ ứng biến, ấy là cái kế gian hùng của Tề Cảnh công đó. Tử Xích thấy Hầu Phạm đã sai sứ sang Tề rồi, lại bảo Hầu Phạm rằng: - Nước Tề vừa mới giao hiếu với Lỗ, chưa chắc đã chịu giúp ta, ta nên sắp sẵn các đồ binh giáp để ở cửa dinh. Tử Xích viết một bức thư, bắn ra ngoài thành cho quân Lỗ. Quân Lỗ nhặt được thư đem đưa cho Thúc tôn Châu Cừu. Thúc tôn Châu Cừu mở thư ra xem. Trong thư nói: "Tôi tên là Tử Xích đã lập mưu kế để đánh Hầu Phạm. Chẳng bao lâu nữa trong thành tất có nội biến, Chúa công không phải lo ngại". Thúc tôn Châu Cừu mừng lắm báo tin cho Mạnh tôn Vô Kỵ biết rồi sắp quân để đợi. Mấy hôm sau sứ giả ở nước Tề về, báo với Hầu Phạm, nói vua Tề đã bằng lòng nhận Cấu Ấp và định đổi cho một cái ấp khác. Tử Xích nghe tin, vào mừng Hầu Phạm, khi trở ra, sai người bá cáo cho nhân dân biết rằng: - Họ Hầu sai sứ giả xin đem Cấu Ấp phụ thuộc với Tề, sứ giả về nói: "Quân Tề sắp kéo sang đây!" biết làm thế nào? Bấy giờ nhân dân náo động, có nhiều người đến hỏi Tử Xích. Tử Xích nói: - Ta cũng nghe nói làm vậy, nhưng Tề đang giao hiếu với Lỗ, không muốn chiếm đất, định thiên dân sang ở đất Liêu Nhiếp nước Tề. Xưa nay người ta vẫn có câu "ở đâu xâu đấy" nay nghe nói sắp sửa phải bỏ xứ mình mà đi ai là người không sợ hãi. Mọi người nghe nói, huyên truyền bảo nhau, ai cũng oán giận. Một đêm Hầu Phạm đang uống rượu say. Tử Xích biết vậy, liền sai mấy chục người tâm phúc đi quanh thành mà kêu ầm lên rằng: - Quân Tề đã đến ngoài thành rồi! Chúng ta nên mau mau sắp đồ hành lý, chỉ trong ba ngày nữa đã phải bồng bế nhau đi! Nói xong lại khóc. Dân Cấu Ấp náo động, đến họp cả ở cửa Hầu Phạm. Những người già yếu khóc như ri, còn những kẻ cường tráng đều nghiến răng nghiến lợi, oán giận Hầu Phạm. Bỗng trông thấy cửa dinh có các đồ binh giáp, chúng liền cướp lấy, mặc áo giáp vào mình, tay cầm đồ binh, cùng nhau reo ầm lên mà vây chung quanh nhà Hầu Phạm. Quân sĩ giữ thành bấy giờ cũng theo chúng mà phản Hầu Phạm. Tử Xích vội vàng vào bảo Hầu Phạm rằng: - Dân Cấu Ấp không chịu phụ thuộc nước Tề, đều bảo nhau làm phản, Ngài có còn binh giáp không, để cho tôi ra đánh. Hầu Phạm nói: - Binh giáp của ta đều bị chúng cướp mất cả rồi! Bây giờ chỉ nghĩ làm thế nào cho tránh khỏi tai vạ. Tử Xích nói: - Tôi xin cố sức mà đưa Ngài đi trốn. Tử Xích ra bảo với mọi người rằng: - Các người nhường một lối để cho họ Hầu đi trốn. Họ Hầu trốn thì quân Tề cũng không đến nữa. Mọi người theo lời, nhường một lối cho đi. Tử Xích đi trước, Hầu Phạm đi sau, gia thuộc còn hơn một trăm người và hơn mười cỗ xe. Tử Xích đưa ra khỏi đông môn, rồi đem quân Lỗ vào thành mà phủ dụ nhân dân. Mạnh tôn Vô Kỵ toan đuổi theo Hầu Phạm, Tử Xích can rằng: - Tôi đã nhận lời cho hắn được trốn thoát rồi! Mạnh tôn Vô Kỵ mới tha không đuổi nữa, liền phá bớt Cấu Thành đi ba thước, rồi dùng Tử Xích làm quan tể ở đấy. Hầu Phạm chạy sang với quân Tề. Tướng nước Tề là Điền Nhương Thư biết là quân Lỗ đã phá vỡ Cấu Ấp, liền rút quân về. Tôn Thúc Châu Cừu và Mạnh tôn Vô Kỵ cũng trở về nước Lỗ. Lúc trước Công Sơn Bất Nhữu nghe nói Hầu Phạm chiếm cứ Cấu Ấp để làm phản, mà họ Thúc và họ Mạnh đem quân đi đánh. Công tôn Bất Nhữu mừng mà nói rằng: - Bây giờ họ Quý đang thế cô, ta thừa cơ lẻn đánh, có thể cướp được nước Lỗ. Nói xong liền đem quân Phí Ấp tiến vào đất Khúc Phụ. Thúc tôn Chiếp làm nội ứng, mở cửa thành cho Công Sơn Bất Nhữu vào. Lỗ Định công vội vàng triệu ông Khổng Tử đến hỏi kế. Ông Khổng Tử nói: - Quân công đồ hèn yếu lắm, không thể dùng được, tôi xin đưa Chúa công chạy sang với họ Quý. Ông Khổng Tử đưa Lỗ Định công chạy sang họ Quý. Trong cung họ Quý có một cái đài cao rất là bền chặt. Lỗ Định công ở đấy. Được một lúc, quan Tư mã là Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ đều đem quân đến. Ông Khổng Tử bảo Quý tôn Tư đem hết binh giáp ra giao cho quan tư mã, để phục ở hai bên tả hữu. Còn bọn công đồ thì bày hàng ở trước đài. Công Sơn Bất Nhữu cùng Thúc tôn Chiếp thương nghị rằng: - Ta làm việc này, vẫn mượn tiếng là phù công thất mà ức tư gia. Nếu ta không phụng vua Lỗ làm chủ thì sao đánh nổi họ Quý. Nói xong liền vào cung để tìm Lỗ Định công, nhưng tìm không thấy. Biết là Lỗ Định công bỏ chạy sang nhà họ Quý, mới đem quân sang đánh nhau với bọn công đồ. Bọn quân công đồ vỡ chạy. Bỗng thấy Thân Câu Tu và Nhạc Kỳ ở hai bên đem quân tiến ra. Ông Khổng Tử phù Lỗ Định công đứng ở trên đài, bảo người Phí Ấp rằng: - Chúa công đứng đây, các ngươi lại không biết bỏ nghịch theo thuận hay sao! Nên mau mau cởi áo giáp ra hàng đi thì được tha tội. Người Phí Ấp biết ông Khổng Tử là bậc thánh nhân, ai dám không nghe, mới đều bỏ đồ binh mà sụp lạy ở dưới đài. Công Sơn Bất Nhữu và Thúc tôn Chiếp đã phá được Cấu Thành. Quý tôn Tư cũng sai phá bớt Phí Thành, chỉ còn để theo như phép cũ. Mạnh tôn Vô Kỵ cũng muốn phá Thành Ấp. Quan tể ở Thành Ấp là Công Liễm Dương hỏi kế của Thiếu chính Mão. Thiếu chính Mão nói: - Cấu Ấp và Phí Ấp vì làm phản mà phải phá thành, nếu lại phá cả Thành Ấp thì ta cũng chẳng khác gì lũ phản thần hay sao! Nhà ngươi cứ nói "Thành Ấp là để trấn thủ cõi bắc nước Lỗ. Nếu phá Thành Ấp thì khi quân Tề sang xâm cõi Bắc, ta lấy gì mà đương nổi". Cứ một mực giữ lời nói ấy thì dẫu chống cự lại mà không cho phá, cũng không gọi là làm phản được. Công Liễm Dương theo kế ấy, sai quân sĩ trèo lên mặt thành mà nói với Mạnh tôn Vô Kỵ rằng: - Tôi giữ cái thành này, không phải là vì họ Mạnh, chính là vì nước Lỗ, nếu phá đi thì sợ khi quân Tề kéo đến, không lấy gì mà đương nổi. Vậy xin liều chết mà cố giữ cái thành này không dám động đến một viên gạch. Ông Khổng Tử cười mà nói rằng: - Công Liễm Dương không khi nào nói được câu ấy, tất có người xui đó. Quý tôn Tư khen cái công ông Khổng Tử định được Phí Ấp, tự biết là tài đức mình không bằng, mới để cho ông Khổng Tử giúp làm việc tướng quốc. Việc gì cũng hỏi đến ông Khổng Tử, nhưng ông Khổng Tử nói câu gì thì Thiếu chính Mão lại cố ý dèm pha, khiến cho người nghe phần nhiều mê hoặc. Ông Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định công rằng: - Nước Lỗ không cường thịnh lên được, là tại trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không công minh, thí dụ muốn trồng lúa tốt, tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin Chúa công cho đem các đồ phủ việt trong nhà Thái Miếu ra bày ở dưới lưỡng quán để dùng về việc hình. Lỗ Định công thuận cho. Sáng hôm sau, Lỗ Định công truyền cho các quan triều thần hội nghị, để bàn việc phá Thành Ấp xem lợi hại thế nào. Các quan triều thần, người thì nói nên phá, người thì nói không nên phá. Thiếu chính Mão muốn đón ý ông Khổng Tử lại nói phá Thành Ấp có sáu điều tiện: 1. Để tôn trọng quyền vua không ai được bằng; 2. Để tôn trọng cái hình thế đô thành; 3. Để ức quyền tư môn; 4. Để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không có chỗ nương cậy; 5. Để yên lòng ba nhà (Mạnh, Thúc, Quý) ; 6. Để khiến cho các nước nghe việc nước Lỗ ta làm mà đều phải kính phục. Ông Khổng Tử tâu với Lỗ Định công rằng: - Thành Ấp nay đã thế cô, còn làm gì được. Huống chi Công Liễm Dương vẫn có lòng trung với nhà vua, sao dám bảo là lộng quyền. Thiếu chính Mão dùng lời nói khéo để làm loạn chính trị, khiến cho vua tôi ly gián nhau, cứ theo phép thì nên giết. Các quan triều thần đều nói: - Thiếu chính Mão là một người danh giá ở nước Lỗ ta, dẫu có nói lầm nữa, cũng chưa đến tội chết. Ông Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định công rằng: - Thiếu chính Mão là người dối trá mà lại biện bác, làm cho người ta mê hoặc. Nếu không giết đi thì việc chính trị không thi hành nổi. Xin Chúa công cho đem phủ việt ra để trị tội. Ông Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói Thiếu chính Mão ở dưới lưỡng quán mà giết đi. Các quan triều thần đều xám xanh cả nét mặt. Ba nhà trông thấy cũng phải sợ hãi. Từ khi giết được Thiếu chính Mão rồi, Lỗ Định công và ba nhà mới một lòng nghe lời ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử mới chỉnh đốn những kỷ cương trong nước, dạy dân lấy những điều lễ nghĩa và liêm sỉ, vậy nên dân không nhiễu loạn mà chính trị mỗi ngày một hay. Ba tháng về sau, phong tục biến cải cả: Các nhà buôn gà lợn, không dám nhồi cám để dối người mua; trong khi đi đường bên trai bên gái, phân biệt khác nhau, không có hỗn loạn; thấy của rơi ngoài đường, nhưng không phải của mình thì không ai thèm nhặt; người các nước đến du lịch thì nước Lỗ đều tiếp đãi tử tế, không để thiếu thốn. Dân nước Lỗ làm một bài ca để tán tụng công đức ông Khổng Tử. Bài ca ấy truyền tụng sang đến nước Tề, Tề Cảnh công kinh sợ mà nói rằng: - Nếu vậy thì sau này nước ta tất bị nước Lỗ xâm chiếm, ta nên phải nghĩ kế để phòng bị. Quay về bài gốc 0SHARES