HỒI THỨ 89 Vạn cây nỏ bắn chết Bàng Quyên Năm con trâu phân thây Thương Ưởng Bấm để xem Lại nói Bàng Quyên cùng thái tử Thân đem quân đánh nước Hàn, đi qua Ngoại Hoàng, có một người mặc áo vải là Từ Sinh xin vào yết kiến thái tử. Thái tử hỏi: - Tiên sinh hạ cố vào thăm quả nhân, có điều gì dạy bảo? Từ Sinh nói: - Thái tử đi chuyến này, sẽ để đánh nước Hàn, tôi có thuật bách chiến bách thắng ở đây, thái tử có muốn nghe không? Thái tử Thân nói: - Điều đó quả nhân muốn nghe lắm. Từ Sinh nói: - Thái tử tự lượng của mình có giàu hơn Ngụy, ngôi có cao hơn Vương không? Thái tử Thân nói: - Hơn thế nào được. Từ Sinh nói: - Nay thái tử tự làm tướng đi đánh Hàn, may mà được ra, thì giàu sang chẳng hơn Ngụy, ngôi chẳng hơn vương, vạn nhất mà thua thì làm thế nào. Nay có cái thuật được cái hại bại trận mà có vinh xưng vương, cho nên tôi mới nói là bách chiến bách thắng vậy. Thân nói: - Phải lắm, quả nhân xin theo lời dạy của tiên sinh, lập tức kéo quân trở về. Từ Sinh nói: - Thái tử dẫu cho lời tôi là phải, nhưng chắc không làm được. Kìa một người nấu canh, nhiều người húp nước, nay những kẻ muốn húp nước canh của thái tử rất nhiều, thái tử dù muốn quay về, nhưng chẳng ai nghe nào. Từ Sinh từ tạ đi ra, thái tử hạ lệnh muốn ban sư, Bàng Quyên nói: - Đại vương đem ba quân giao cho thái tử, chưa thấy được thua mà vội ban sư, thì khác gì bại trận, chư tướng đều không muốn trở về không. Thái tử Thân không thể tự quyết được, bèn dẫn quân tiền tiến, đến thẳng kinh đô nước Hàn. Hàn Ai hầu cử người sang Tề cáo cấp và cầu cứu, Tề Tuyên Vương hỏi quần thần, tướng quốc Trâu Kỵ nói không nên cứu, bọn Điền Kỵ, Điền Anh thì nói nên cứu, duy có Tôn Tẫn lặng im không nói gì. Tuyên Vương hỏi: - Quân sư không nói gì, có lẽ cho hai kế cứu và không cứu đều là không phải chăng? Tôn Tẫn nói: - Nước Ngụy tự cậy mạnh, năm trước đánh Triệu, năm nay đánh Hàn, lòng họ có phải là quên nước Tề ta đâu, nếu không cứu thì bỏ nước Hàn để cho béo Ngụy, cho nên nói không cứu là không phải; Ngụy đang đánh Hàn, Hàn chưa bị núng mà ta cứu, thế là ta thay Hàn chịu nạn binh cách, Hàn được yên mà ta bị nguy, cho nên nói cứu cũng là không phải. Tuyên Vương hỏi: - Vậy thì biết làm thế nào? Tôn Tẫn nói: - Cứ ý tôi, thì hứa với nước Hàn là thế nào cũng cứu để cho họ yên lòng, Hàn biết có Tề cứu thì tất cố sức để chống Ngụy, Ngụy tất cũng hết sức để đánh Hàn, ta đợi đến lúc quân Ngụy mệt mỏi rồi, từ từ dẫn quân đi, đánh nước Ngụy đã mệt mỏi mà cứu nước Hàn đã nguy ngập, dùng sức ít mà được công nhiều, há chẳng hơn hai kế kia ư? Tuyên Vương vỗ tay khen phải, bèn hứa với sứ Hàn là cứu binh Tề sớm chiều sẽ đến, Hàn Hầu mừng quá, liền hết sức chống Ngụy, trước sau giao phong đến năm sáu lần, Hàn đều không được, lại sai sứ sang Tề, thúc giục cứu binh, Tề lại dùng Điền Kỵ làm tướng, Điền Anh làm phó, Tôn Tẫn làm quân sư mang 500 cỗ xe đi cứu Hàn, Điền Kỵ lại muốn tiến thẳng sang Hàn, Tôn Tẫn nói: - Không nên, không nên, trước kia ta cứu Triệu, chưa có hề đến Triệu, nay cứu Hàn, làm sao lại đến Hàn? Điền Kỵ hỏi ý thế nào, Tôn Tẫn nói: - Cái thuật giải sự phân tranh, là phải đánh vào nơi họ cần phải cứu, cái kế ngày nay chỉ có đi thẳng đến kinh đô nước Ngụy mà thôi. Điền Kỵ theo lời, bèn hạ lệnh cho ba quân điều tiến sang nước Ngụy, Bàng Quyên đánh được quân Hàn luôn mấy trận, sắp tiến bức Tân Đô, bỗng tiếp được tin cảnh báo ở bản quốc, nói quân Tề lại vào cướp đất Ngụy, giục mau mau đem quân trở về, Bàng Quyên sợ quá, liền truyền lệnh bỏ Hàn về Ngụy, quân Hàn cũng không đuổi theo, Tôn Tẫn biết Bàng Quyên sắp đến, bảo Điền Kỵ rằng: - Quân Tam Tấn vốn dũng hãn mà khinh Tề, chi bằng nay ta giả làm thế yếu để dụ nó. Điền Kỵ nói: - Dụ cách thế nào? Tôn Tẫn nói: - Ngày nay nên làm 10 vạn quân bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi, nó thấy bếp của ta bỗng bớt đi, tất cho là quân ta nhát sợ, trốn tránh quá nửa, sẽ gấp đường tiến đánh, khí nó tất kiêu và sức nó tất mỏi, ta sẽ dùng kế mà đánh, tất thế nào cũng được, Điền Kỵ theo như kế ấy mà làm. Lại nói Bàng Quyên quay chân trở về, nghĩ thầm quân Hàn thua luôn, mình đang chực tiến đánh, bỗng bị quân Tề quấy rối, phá hủy công cuộc của mình, lấy làm căm giận lắm, khi về đến đất Ngụy, biết là quân Tề đã đi trước rồi, để lại chỗ đóng dinh trại cũ rất rộng rãi, sai người đến xem chỗ bếp đun, thấy có 10 vạn chỗ, trong lòng sợ hãi nghĩ thầm quân Tề nhiều như thế, không thể khinh địch được. Hôm sau lại đến một chỗ dinh trại bỏ lại, đếm những chỗ bếp đun chỉ thấy có hơn năm vạn chỗ, lại hôm sau nữa chỉ còn thấy có ba vạn bếp. Bàng Quyên mừng lấy tay giơ lên trán nói rằng: - Đó là hồng phúc của Ngụy Vương. Thái tử Thân nói: - Quân sư chưa thấy quân địch sao đã vội mừng? Quyên nói: - Tôi vốn biết người Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có ba ngày mà quân lính bỏ trốn đã quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư? Thái tử Thân nói: - Người nước Tề họ hay lừa dối, quân sư nên cẩn thận. Bàng Quyên nói: - Bọn Điền Kỵ phen này tự đến nộp mình, Quyên dẫu bất tài xin bắt sống bọn Điền Kỵ để rửa cái thù ở Quế Lăng. Nói xong liền truyền lệnh chọn hai vạn quân tinh nhuệ, cùng thái tử Thân chia làm hai đội, gấp ngày đi lên, bộ binh đều lưu lại ở sau, sai Bàng Thông thống xuất từ từ tiến lên. Tôn Tẫn lúc nào cũng sai người dò thăm tin tức Bàng Quyên, quân do thám báo là quân Ngụy đã qua núi Sa Lộc, đi luôn cả đêm ngày, Tôn Tẫn tính xem chắc là chiều tối quân Bàng Quyên sẽ đến Mã Lăng. Đường Mã Lăng ở giữa hai trái núi, hang khe sâu hẹp có thể phục binh. Ven đường cây cối um tùm, Tôn Tẫn chỉ để lại một cây rõ to, còn đều sai chặt ngã xuống ngổn ngang giữa đường để chặn lối đi, rồi lại sai cạo sạch vỏ ngoài mặt đông cái cây to kia, dùng than viết sáu chữ lớn rằng: "Bàng Quyên chết dưới cây này", mặt trên viết ngang bốn chữ "Quân sư Tôn bảo". Sai hộ tướng là Viên Đạt và Độc Cô Trần đều kén măm nghìn quân cung nỏ, mai phục hai bên tả hữu, dặn kỹ hễ khi dưới gốc cây có ánh lửa sáng, thì nhất tề bắn nỏ ra, lại sai Điền Anh dẫn một vạn quân, mai phục nơi cách Mã Lăng ba dặm, đợi khi quân Ngụy đã qua rồi, bèn theo sau chẹn giết. Tôn Tẫn phân phát đã xong cùng Điền Kỵ dẫn quân đến phía Bắc đồn Viễn để dự bị tiếp ứng. Lại nói Bàng Quyên dò biết quân Tề đã qua chưa xa, giận không thể một bước theo kịp được, nên luôn luôn thúc giục quân lính đi thật nhanh. Khi đến đường Mã Lăng, thì mặt trời đã lặn, bấy giờ hạ tuần tháng mười, lại không có ánh sáng trăng, tiền quân quay lại báo có nhiều cây chặt nằm ngổn ngang trên mặt đường, khó đi lên được. Bàng Quyên mắng rằng: - Đó là quân Tề sợ quân ta đuổi theo nên lập ra kế ấy. Nói xong ra lệnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng có dấu chữ, nhưng vì đêm tối khó nhận rõ, sai một tên lính châm lửa soi xem. Bàng Quyên nhận thấy hai câu chữ rõ ràng, giật mình nói: - Thôi ta mắc mưu thằng què rồi Vội hạ lệnh cho quân lui mau. Nói chưa dứt, hai toán phục binh Viên Đạt và Độc Cô Trần trông thấy lửa sáng, muôn cái nỏ đều bắn ra tên vùn vụt bay đến như mưa quân sĩ rối loạn, Bàng Quyên mình bị trọng thương liệu không thể thoát được than rằng: - Ta giận không giết chết cái thằng què ấy. Nói xong, liền rút thanh kiếm đeo bên mình, tự đâm cổ chết, Bàng Anh cũng bị tên nỏ chết, còn quân sĩ bị giết không biết bao nhiêu mà kể. Khi Bàng Quyên hạ sơn, Quỉ Cốc tiên sinh đã có nói: "Ngươi sẽ vì lừa người mà lại bị người ta lừa", Bàng Quyên dùng việc bức thư giả lừa Tôn Tẫn mà chặt chân, nay cũng bị Tôn Tẫn, mắc cái kế giảm bếp. Quỉ Cốc lại nói gặp ngựa thì hỏng, quả nhiên bị chết ở Mã Lăng. Tính ra từ khi Bàng Quyên đến làm quan ở nước Ngụy cho đến lúc bị chết trận vừa 12 năm, ứng vào cái triệu cành hoa có 12 đóa. Bấy giờ thái tử Thân ở hậu lộ, nghe tiền quân bại trận, sợ hãi đóng quân lại không dám đi, không ngờ bị một đạo quân Điền Anh, lại từ mặt sau kéo đến, quân Ngụy sợ quá, không ai dám đánh, chạy tán loạn cầu thoát lấy thân. Thái tử Thân thế cô sức kém, bị Điền Anh bắt sống trói để trong xe, Điền Kỵ và Tôn Tẫn thống đại quân tiếp ứng, đánh giết quân Ngụy thây nằm ngổn ngang đầy đồng, bắt được hết các xe lương thực và quân khí. Điền Anh đem thái tử Thân dâng công, Viên Đạt, Độc Cô Trần cũng đem nộp thi thể cha con Bàng Quyên. Tôn Tẫn tự tay chém đầu Bàng Quyên, treo ở trên xe, quân Tề đại thắng, cùng nhau hát mừng kéo về. Đêm ấy thái tử Thân sợ nhục cũng đâm cổ chết. Đại quân đi đến núi Sa Lộc, gặp đạo bộ quân của Bàng Thông, Tôn Tẫn sai người giơ cái đầu Bàng Quyên bảo cho biết, đạo bộ quân ấy không đánh tự vỡ, Bàng Thông vội vàng xuống xe dập đầu xin tha chết cho. Điền Kỵ muốn giết nốt. Tôn Tẫn nói: - Làm ác chỉ một mình Bàng Quyên, con đẻ còn không nên bắt tội, nữa là cháu. Bèn đem thi thể thái tử Thân và Bàng Anh giao cho Bàng Thông, bảo về báo ngay cho vua Ngụy biết, mau mau dâng biếu triều cống, nếu không quân Tề lại đến, thì tôn xã không còn. Bàng Thông dạ dạ rồi đi. Điền Kỵ đem quân về nước. Tề Tuyên Vương cả mừng, đặt tiệc thưởng công, tự tay đưa chén rượu mời Điền Kỵ, Điền Anh và Tôn Tẫn. Tướng quốc Trâu Kỵ tự nghĩ ngày trước riêng chịu của lót của nước Ngụy, muốn hãm hại Điền Kỵ, trong lòng lấy làm xấu hổ, bèn xưng bệnh nặng, sai người nộp giả ấn tướng. Tề Tuyên Vương bèn cử Điền Kỵ làm tướng quốc, Điền Anh làm tướng quân, còn Tôn Tẫn không nhận, lại tự viết cả 13 thiên binh thư của tổ phụ là Tôn Vũ, dâng lên Tuyên Vương, nói rằng: - Tôi là kẻ tàn phế, đội ơn dùng đến, nay trên báo được ơn chúa, dưới báo được thù riêng, lòng ước mong đã thỏa, sự học của tôi đều ở trong sách này, lưu tôi lại cũng vô dụng, vậy xin cho một mảnh núi hoang, để được yên ở hưởng hết tuổi già. Tuyên Vương cố lưu lại không được, bèn cho ở núi Thạch Lư, Tôn Tẫn ở núi ấy hơn một năm, một hôm bỗng không thấy đâu nữa, có người nói là đã thành tiên đi theo Quỉ Cốc tiên sinh. Tuyên Vương đem đầu Bàng Quyên treo ở Quốc Môn để làm oai và sai người báo tiệp với chư hầu, chư hầu đều sợ hãi, hai vua Hàn, Triệu cảm ơn đem quân đến cứu, thân đến chầu mừng, Tuyên Vương muốn cùng Hàn, Triệu họp quân đánh Ngụy. Ngụy Huệ Vương sợ quá cũng sai sứ đến cầu hòa và xin triều cống, Tề Tuyên Vương hẹn với vua Tam Tấn cùng họp ở thành Bác Vọng, Hàn, Triệu, Ngụy đều không dám trái ý, cả ba vua cùng thời triều kiến, ai nấy đều cho là một sự vẻ vang. Tuyên Vương từ đó cậy sức nước mạnh, say mê tửu sắc, xây Tuyết Cung ở trong thành, để làm chỗ ăn tiệc vui chơi, lại mở một khoảng đất 40 dặm ở ngoài làm vườn để làm nơi săn bắn, lại nghe lời những người văn học du thuyết, lập ra tả hữu giảng thất ở Tắc Môn, họp vài nghìn du khách, trong đó có bọn Trâu Diễn, Điền Biền, Tiếp Dư, Hoàn Uyên; 76 người đều cho vào hạng thượng đại phu, ngày nào cũng chỉ bàn bạc những sự hão huyền không sửa sang việc chính trị, cho bọn bế thần là lũ Vương Hoàn dự làm các việc, Điền Kỵ thường can ngăn không nghe, uất ức mà chết. Một hôm Tuyên Vương ăn yến ở Tuyết cung, bày nhiều nữ nhạc, bỗng có một người đàn bà trán rộng mắt sâu, mũi cao hầu lộ, lưng cong, cổ to, ngón tay dài, bàn chân to, tóc bù như cỏ mùa thu, da đen như sơn, mình mặc áo rách, từ ngoài đi vào, nói xin yết kiến Tề Vương. Võ sĩ ngăn lại nói rằng: - Mụ đàn bà xấu xí này dám xin vào yết kiến đại vương à? Mụ đàn bà xấu xí nói: - Ta là người ở huyện Vô Diệm nước Tề, họ Chung Ly, tên là Xuân, năm nay đã 40 tuổi, kén chồng chưa được người nào, nay nghe đại vương dự yến ở Ly cung, tự đến yết kiến để xin cho vào hậu cung làm việc rảy quét. Ai nấy đều bưng miệng cười, cho là một người con gái trơ tráo vô sỉ, bèn vào tâu Tuyên Vương. Tuyên Vương cho đòi vào, các quan ngồi hầu yến, thấy người xấu xí quá đều bưng miệng cười, Tuyên Vương hỏi: - Phi tần ở trong cung của ta đã đủ, nay ngươi mặt mũi xấu xa, trong chỗ làng xóm chẳng ai hỏi đến, nay dám lấy là một kẻ dân thường chực cầu vào nơi cung cấm, phải là ngươi có cái tài lạ gì chăng? Chung Ly Xuân tâu rằng: - Thiếp chẳng có tài chi lạ, chỉ có thuật ẩn ngữ (cách nói ra hiệu) mà thôi. Tuyên Vương nói: - Ngươi thử làm cái thuật của ngươi mà lượng những việc của ta xem nào, nếu nói sai, ta sẽ chém đầu. Chung Li Xuân liền giương mắt, hếch răng, cất tay hai ba lần, rồi vỗ đầu gối mà kêu to lên rằng: - Nguy lắm! Nguy lắm! Tuyên Vương không hiểu ý thế nào, hỏi quần thần, cũng chẳng ai biết, Tuyên Vương nói: - Xuân! Lại đây nói rõ cho ta nghe nào. Xuân dập đầu nói: - Đại vương tha tội chết cho thiếp, thiếp mới dám nói. Tuyên Vương nói: - Ta tha cho ngươi vô tội. Xuân nói: - Thiếp giương mắt là thay vua trông cái nạn binh lửa, hếch răng là thay vua trị tội cái miệng cự những lời can ngăn, cất tay là thay vua đuổi bỏ những kẻ xàm nịnh, vỗ đầu gối thay vua đạp đổ cái đài du yến. Tuyên Vương cả giận mắng rằng: - Quả nhân khi nào có bốn điều lỗi ấy, con nhà quê này dám nói càn. Quân đâu đem chém cổ nó đi. Xuân nói: - Xin cho thiếp được nói rõ bốn điều lỗi ấy của đại vương rồi sẽ chịu chết. Thiếp nghe nước Tần dùng Thương Ưởng, nước được giàu mạnh, không bao lâu sẽ đem quân ra Hàm Quan cùng Tề tranh thắng, tất nước Tề sẽ bị hại trước nhất. Đại vương trong không có viên tướng nào giỏi, việc phòng bị ngoài biên thì bỏ trễ, cho nên thiếp vì đại vương giương mắt mà nhìn. Đại vương lại say mê mỹ sắc, bỏ trễ việc chính trị, những người biết đem lòng trung can ngăn, đại vương cự mà không nhận, cho nên thiếp hếch răng để vì vua nhận lời can vậy. Vả bọn Vương Hoan a dua nịnh hót, bọn Trâu Diễn bàn nói viển vông, đại vương tin dùng bọn ấy thiếp sợ có hại cho xã tắc, cho nên thiếp giơ tay để vì đại vương xua đuổi đi. Đại vương xây cung mở vườn, dùng hết sức dân, làm cạn kho nước, cho nên thiếp vỗ đầu gối muốn vì vua phá bỏ. Đại vương có bốn điều lỗi ấy, nguy như trứng để đầu đẳng, mà còn vui chơi, không hề lo nghĩ, cho nên thiếp phải liều chết phơi bày, nếu được đại vương cho là phải mà nghe theo, thì dù chết cũng không hối hận. Tuyên Vương than rằng: - Nếu không có lời nói của họ Chung này, thì quả nhân không bao giờ được biết những điều lầm lỗi. Lập tức bãi yến, dùng xe chở nàng Chung Ly Xuân về cung, lập làm chính hậu. Chung Ly Xuân nói: - Đại vương không nghe lời thiếp thì dùng làm gì cái thân thiếp này, xin đại vương phải lấy việc trị nước và việc dùng người hiền là cần cấp hơn cả mọi việc. Tuyên Vương theo lời, lập tức đuổi bọn xu nịnh, tìn dùng hiền sĩ, lại đuổi hết bọn du thuyết đi, dùng Điền Anh làm tướng quốc, đãi người nước Trâu là Mạnh Kha làm bực thượng tân, từ đó nước Tề được yên ổn và thịnh vượng, lại lấy ấp Vô Diệm phong cho nhà Chung Ly Xuân, gọi nàng là Vô Diệm Quân. Lại nói tướng quốc nước Tần là Vệ Ưởng nghe tin Bàng Quyên chết trận, nói với Hiếu công rằng: - Tần, Ngụy ở gần nhau, nước Tần có nước Ngụy, cũng như người có cái tật ở phúc tâm, nếu Ngụy không cướp Tần thì Tần phải cướp Ngụy, cái thế không thể cùng còn được. Nay nước Ngụy đã bị đại bại với Tề, nên nhân dịp này mà đánh Ngụy, Ngụy không giữ nổi tất phải dời sang Đông, rồi ở đó Tần chiếm giữ lấy núi sông, quay về phương Đông mà chế phục chư hầu, đó là cái nghiệp đế vương vậy. Hiếu công lấy làm phải, cử Vệ Ưởng làm đại tướng, Công tử Thiếu Quan làm phó, mang năm vạn quân đi đánh Ngụy. Được tin cáo cấp, Ngụy Huệ Vương họp quần thần lại để bàn kế chống nước Tần. Công tử Ngang nói: - Khi trước Vệ Ưởng ở nước Ngụy, cùng hạ thần có quen biết hạ thần thường tiến cử lên đại vương, đại vương không nghe, nay hạ thần xin đem quân đi, trước hãy giảng hòa, nếu Vệ Ưởng không cho, bấy giờ sẽ cố giữ thành trì, cầu cứu hai nước Hàn, Triệu. Quần thần đều khen phải, Huệ Vương liền cử Công tử Ngang, làm đại tướng mang năm vạn quân đi cứu Tây Hà, tiến đóng quân ở Ngô Thành. Công tử Ngang đang muốn viết thư sai người cầm sang dinh quân Tần hỏi thăm Vệ Ưởng, muốn hắn bãi binh, thì bỗng có tướng sĩ giữ thành vào báo là quan tướng quốc nước Tần sai người đưa thư, hiện ở ngoài thành, Công tử Ngang sai dòng dây qua thành đem thư lên, mở ra xem thư rằng: "Ưởng này vốn quen thân với Công tử không khác gì ruột thịt nay tuy chẳng cùng thờ một chủ, cùng làm tướng một nước, nhưng nỡ nào lại đánh nhau để hại nhau. Ý tôi muốn ước với Công tử, đều bỏ binh xa và giáp trụ dùng y quan họp mặt ở núi Ngọc Toàn, cùng uống rượu vui chơi rồi về, khiến hai nước khỏi nạn thịt nát máu rây và nghìn thu về sau phải khen cái giao tình của đôi ta không khác gì Quản, Bão. Công tử nếu bằng lòng, xin báo cho biết ngày nào có thể hội diện được". Công tử Ngang đọc xong cả mừng mà nói rằng: - Ý ta chính muốn như thế Bèn hậu đãi sứ giả và viết thư trả lời như sau này: "Tướng quốc còn nhớ tình xưa bắt chước việc cũ của vua Hoàn công nước Tề, đem áo xiêm mà đổi binh xa, yêu dân Tần, Ngụy, rõ nghĩa Quản, Bão, đó là cái chí của Ngang này. Trong ba ngày, xin tướng quốc định kỳ, Ngang này xin cúi đầu nghe mệnh". Vệ Ưởng được thư trả lời mừng rằng: Kế ta thành rồi, lại sai người vào thành ước định nhật kỳ, nói tiền doanh quân Tần đã triệt bỏ, hạ lệnh cho về nước, chỉ còn chờ được hội kiến nguyên súy rồi nhổ trại đều về. Lại đem hai thứ ngó sen và xạ hương dâng biếu nói rằng hai thứ ấy là thổ sản nước Tần, ngó sen ích cho người, xạ hương trừ tà khí, gọi là để ghi nhớ giao tình và tỏ ý thân yêu về lâu dài. Công tử Ngang cho là Vệ Ưởng yêu mình, càng tin là không có ý gì khác, liền đáp thư tạ. Vệ Ưởng giả truyền quân lệnh, sai tiền doanh rút hết. Công tử Thiếu Quan thống suất đi trước lại dặn thầm dọc đường chỉ nói là đi săn bắn để kiếm cái ăn, rồi chia đi mai phục ở các nơi Kỳ Sơn, Bạch Tước Sơn, hẹn đến cuối giờ Ngọ, đầu giờ Mùi ngày ấy đều đến dưới núi Ngọc Toàn, hễ nghe trên núi có tiếng súng bắn làm hiệu thì đều kéo ùa vào, bắt hết những người đến đấy không để cho một người nào chạy thoát. Đến kỳ, vừa sáng ra, Vệ Ưởng trước hết sai người vào báo trong thành, nói là tướng quốc đã đến trước ở núi Ngọc Toàn chực sẵn, theo hầu không đầy 300 người, Công tử Ngang lại càng tin, cũng dùng xe mui chở rượu, đồ ăn và một bộ nhạc công, lên xe đến hội, số người đem theo hầu cũng bằng của Vệ Ưởng. Vệ Ưởng đứng đón ở dưới núi, Công tử Ngang thấy người đi theo đã ít, lại không có quân khí, không còn ngờ gì nữa, khi thấy nhau đều kể giao tình ngày trước, và tỏ ý thông hòa ngày nay. Những người nước Ngụy đi theo đến đó, ai nấy đều vui mừng. Hai bên đều bày tiệc rượu, Công tử Ngang là địa chủ, trước hết nâng chén mời Vệ Ưởng, thù tạc ba lần, tấu nhạc ba lần, Vệ Ưởng sai quân sĩ phải thay nhau báo giờ luôn luôn, rồi triệt bỏ tiệc rượu của nước Ngụy, bày tiệc rượu của bản quốc ra, hai tên hầu rượu đều là những tay dũng sĩ có tiếng ở nước Tần, một người gọi là Ô Hoạch, sức khỏe mang được nghìn cân, một người gọi là Nhâm Bỉ, tay đánh được hổ báo. Vệ Ưởng vừa cất chén đầu khuyên mời, liếc mắt bảo ý các người hầu tả hữu, đi lên trên đỉnh núi bắn một tiếng súng, dưới núi cũng bắn súng theo tiếng vang hang núi, Công tử Ngang cả sợ nói rằng: - Tiếng súng ở đâu thế, có lẽ tướng quân đánh lừa tôi chăng? Vệ Ưởng cười nói rằng: - Tạm lừa một lần, còn rộng cho tôi được cáo tội. Công tử Ngang hoảng sợ muốn chạy trốn ngay, nhưng bị Ô Hoạch nắm chặt ngay lấy, không thể cựa quậy được, Nhâm Bỉ thì chỉ huy tả hữu bắt hết mọi người trói lại, còn Công tử Thiếu Quan đốc xuất quân lính bắt hết các xa trượng và quân lính theo hầu, không còn một người nào chạy thoát. Vệ Ưởng sai bỏ Công tử Ngang vào xe tù, giải trước về nước Tần để báo tiệp, lại đem những người theo đã bắt được, cởi trói hết và cho uống rượu để khỏi sợ, cho lại dùng những xa trượng cũ đem về, nói dối là chủ súy phó hội trở về, lừa mở cửa thành, sẽ có trọng thưởng, nếu không theo thì lập tức chém đầu. Bọn đi theo ấy là những kẻ hèn nhát đều sợ chết cả, nên đều vâng theo mệnh lệnh, Vệ Ưởng lại sai Ô Hoạch giả làm Công tử Ngang ngồi ở trong xe, Nhâm Bỉ làm hộ tống sứ thần, cỡi một chiếc xe theo sau. Quân Ngụy ở trên thành nhận thấy những người về bên mình, liền mở toang cửa thành, hai viên dũng tướng ấy đều sấn sổ ra oai, tay đấm chân đá phá tan cửa thành, không còn đóng lại được nữa, quân Ngụy sấn vào chống cự, đều bị đánh ngã, mặt sau Vệ Ưởng thân đem đại quân đến, nhanh chóng như bay. Trong thành quân dân rối loạn, Vệ Ưởng cho quân lính được loạn sát một trận, bèn chiếm lấy Ngô Thành. Chu Thương nghe chủ súy bị bắt, chắc là Tây Hà khó giữ được, bỏ thành chạy trốn, Vệ Ưởng kéo quân vào thành An Ấp, Huệ Vương sợ quá, sai đại phu là Long Giả sang dinh quân Tần cầu hòa, Vệ Ưởng nói: - Vua Ngụy không biết dùng ta, nên ta phải sang làm quan nước Tần, đội ơn vua Tần tôn làm khanh tướng, ăn lộc muôn chung, nay lại giao phó binh quyền, nếu không diệt Ngụy, thì phụ lòng của vua Tần đã tin dùng. Long Giả nói: - Tôi nghe chim khôn mến rừng cũ, vua Ngụy dẫu không biết dùng túc hạ, nhưng đối với nước cha mẹ túc hạ sao nỡ vô tình. Vệ Ưởng ngẫm nghĩ hồi lâu, bảo Long Giả rằng: - Nếu cầu ta rút quân về, trừ phi cắt hết đất Tây Hà dâng cho Tần mới được. Long Giả phải vâng lời về tâu với vua Ngụy, Huệ Vương không đừng được phải theo lời, liền sai Long Giả đem địa đồ Tây Hà dâng cho quân Tần. Vệ Ưởng xét đồ nhận đất, kéo quân trở về, Công tử Ngang bèn đầu hàng nước Tần, Ngụy Huệ Vương cho rằng đất An Ấp ở gần Tần khó giữ được yên, bèn thiên đô đến Đại Lương, từ đó gọi là nước Lương. Tần Hiếu công thưởng công Vệ Ưởng, phong làm liệt hầu, lấy 15 ấp Thương Ô là đất lấy của nước Ngụy trước, làm thực ấp của Ưởng, gọi là Thương Quân, vì thế đời sau gọi là Thương Ưởng. Ưởng tạ ơn về phủ riêng, bảo gia thần rằng: - Ta là kẻ chi thứ nước Vệ, sang làm quan nước Tần, vì nước Tần thay đổi chính trị, lập tức trở nên giàu mạnh. Nay lại lấy được đất Ngụy 700 dặm, phong ấp 15 thành, đại trượng phu đắc chí có thể nói là lẫy lừng lắm vậy. Tân khách đồng thanh khen mừng, trong bọn đó bỗng có một người cất tiếng nghiêm nghị nói rằng: - Ngàn người a dua không bằng một người nói thẳng, các ngươi ở đây nhờ ơn Thương Quân phụng dưỡng, há nên cứ xu nịnh mà làm hại chủ ư? Mọi người nhìn xem ai, chính là vị thượng khách tân là Triệu Lương, Vệ Ưởng nói: - Tiên sinh bảo mọi người xu nịnh, vậy tiên sinh thử xem tôi đây cai trị nước Tần cùng với Ngũ Cổ đại phu (Bách Lý Hề) ai hơn? Lương nói: - Ngũ Cổ đại phu giúp Mục công, ba lần bắt vua Tấn, kiêm tính 20 nước, làm cho chủ trở nên một vị bá chủ ở Tây Nhung. Vậy mà đến sự tự phụng mình, nắng không che lọng, nhọc không cỡi xe, đến ngày chết, trăm họ thương khóc như mất cha mẹ. Nay ngài làm tướng nước Tần tám năm, pháp lệnh dẫu làm được, nhưng giết hại rất thảm, dân chỉ thấy oán, mà không thấy ân, chỉ thấy lợi mà không thấy nghĩa. Thái tử giận ngài giết mất người sư phó, oán vào tận cốt tủy, những kẻ cha anh con em ở dân gian đã lâu vẫn mang lòng oán giận, nhất đán vua Tần mất đi, thì ngài sẽ nguy ngay, còn có thể giữ mãi được cái phú quí ở ấp Thương Ô này mà tự khoe là đại trượng phu ư? Ngài sao không tiến người hiền để thay mình, rồi từ bỏ lộc vị lui về cày cấy ở nơi điền dã, như vậy còn có thể mong tự toàn được. Vệ Ưởng lặng im ra ý không vui. Năm tháng sau, Hiếu công bị bệnh chết, quần thần tôn thái tử Tứ lên ngôi, ấy là Huệ Văn công. Thương Ưởng tự phụ mình là cựu thần của tiên triều, ra vào ngạo mạn. Công tôn Kiền trước kia bị Vệ Ưởng cắt mũi, chứa sự tức giận trong lòng mà chưa báo được, lúc ấy cùng Công tôn Giả tâu với Huệ Văn công rằng: - Tôi nghe đại thần quyền thế rộng qua thì nước nguy, các người tả hữu mà quyền thế rộng quá thì thân nguy, Thương Ưởng lập phép cai trị nước Tần, nước Tần dẫu được thịnh trị nhưng đàn bà con trẻ đều nói đó là phép của Thương Quân, chứ không ai nói là phép của nước Tần, nay lại phong cho 15 ấp, vị tôn quyền trọng sau này tất làm phản. Huệ Văn công nói: - Ta căm giận thằng giặc ấy đã lâu, nhưng vì nghĩ nó là thần hạ của tiên vương, và chưa tỏ ra ý gì là làm phản, nên hãy tạm dung cho nó. Huệ Văn công nói xong, liền sai người thu tướng ấn của Thương Ưởng, bắt lui về ở ấp Thương Ô. Thương Ưởng từ giã triều đình, lên xe ra khỏi thành, nghi trượng đội ngũ, còn làm ngang với chư hầu, trăm quan đi tiễn tống không còn thiếu một người nào. Công tôn Kiều, Công tôn Giả mật báo Huệ Văn công, nói Thương Quân không biết ăn năn tội lỗi, tiếm nghĩ nghi chế của vương giả, nếu để cho hắn về ở Thương Ô, tất hắn làm phản. Cam Long, Đỗ Thế lại làm chứng là quả có việc như thế, Huệ Văn công cả giận, lập tức sai Công tôn Giả dẫn ba nghìn võ sĩ, đuổi bắt Thương Ưởng, chém đầu đem bêu rồi về báo. Công tôn Giả lĩnh mệnh ra đi. Bấy giờ nhân dân ai nấy đều oán Thương Quân, nghe tin Công tôn Giả mang quân đuổi bắt, nô nức chạy theo có hàng mấy nghìn người. Thương Ưởng xa giá ra khỏi thành đã hơn trăm dặm, bỗng nghe mặt sau có tiếng hò thét, sai người dò xét, báo là triều đình phái quân đuổi theo. Thương Ưởng sợ quá, biết là vua mới có lòng nghi, e không khỏi họa, vội trút bỏ mũ áo xuống xe, giả làm tên lính đi trốn. Chạy đến Hàm Quan, trời sắp tối vào nhà hàng xin ngủ trọ, chủ hàng hỏi có giấy chiếu thân không, Thương Ưởng nói không có, chủ hàng nói: - Phép của Thương Quân, không chứa những người không giấy chiếu thân, ai phạm pháp đều phải chém, tôi không dám cho trọ. Vệ Ưởng than rằng: - Ta đặt ra phép ấy, lại tự hại thân ta. Rồi đi luôn cả đêm, lẻn ra ngoài cửa quan, chạy sang nước Ngụy. Ngụy Huệ Vương giận Vệ Ưởng lừa bắt Công tử Ngang và cắt mất đất Tây Hà, nên muốn bắt Vệ Ưởng để dâng Tần. Ưởng sợ quá lại trốn về Thương Ô, mưu khởi binh đánh Tần, bị Công tôn Giả bắt trói giải về. Huệ Văn công kể từng tội, sai trói Ưởng đem ra chợ dùng năm con trâu phân thây, trăm họ xúm lại tranh nhau ăn thịt, chỉ một lúc là hết. Huệ Văn công lại giết cả họ Thương Ưởng. Đáng thương cho Thương Ưởng đổi lập phép mới, làm cho nước Tần trở nên giàu mạnh, kết quả lại bị họa phân thây, há chẳng phải là cái báo quá nghiêm khắc đó ru. Sau khi Thương Ưởng chết, trăm họ đều vui mừng hát múa ở đường, sáu nước nghe tin cũng đều mừng. Cam Long, Đỗ Thế trước bị cách chức, nay đều được phục quan. Huệ Văn công cử Tôn Diễn làm tướng quốc, Diễn khuyên Huệ Văn công cướp lấy đất Ba Thục, rồi xưng vương để hiệu triệu thiên hạ, các nước đều phải theo như nước Ngụy cắt đất làm lễ mừng, nếu trái lệnh sẽ đem quân đánh ngay. Huệ Văn công bèn xưng vương, sai sứ đi bảo khắp các nước, các nước đều do dự chưa quyết, chỉ có Sở Uy Vương vừa đánh chiếm được đất nước Việt, đất rộng quân mạnh, ngang nhau với Tần, quát mắng đuổi sứ Tần đi. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 90 Tô Tần làm tướng sáu nước Trương Nghi tức giận sang Tần Bấm để xem Lại nói Tô Tần, Trương Nghi từ khi từ tạ Quỉ Cốc tiên sinh xuống núi, Trương Nghi về nước Ngụy, còn Tô Tần về Lạc Dương. Trong nhà Tần còn mẹ già, một anh hai em, anh mất sớm, chỉ còn người chị dâu góa và hai em, là Tô Đại, Tô Lệ, mấy năm cách mặt ngày nay gặp, cả nhà ai nấy đều vui mừng. Vài ngày sau, Tô Tần muốn đi chơi các nước, xin mẹ già cho bán gia tài để làm hành phí, mẹ già, chị dâu và vợ đều hết sức ngăn trở nói rằng: - Quý Tử không chịu cày cấy hay buôn bán cầu lợi, chỉ nghĩ lấy miệng lưỡi cầu giàu sang, bỏ cái nghiệp đã thành, cầu cái lợi chưa được, sau này bị nghèo túng, lại chẳng lấy làm hối ư? Tô Đại, Tô Lệ cũng nói rằng: - Anh nếu giỏi cái thuật du thuyết, sao không đến nói với Chu Vương cũng có thể thành danh được ở bản hương, cần gì phải đi đâu xa. Tô Tần bị cả nhà ngăn trở, bèn đi đến xin yết kiến Chu Hiển Vương, bày tỏ cái thuật tự cường. Vương mời lại quán xá, tả hữu đều biết Tô Tần vốn là con nhà làm ruộng, ngờ là người chỉ nói hão huyền, không có thực dụng, không chịu cất nhắc với Chu Hiển Vương. Tô Tần lưu ở quán xá đến hơn năm trời không thể tiến thân được, bực tức bỏ về nhà, bán hết gia sản được một trăm dật hoàng kim, may một cái áo điêu cừu đen, sắm sửa xe ngựa và có đủ kẻ hầu hạ đi chơi các nước, xem xét hình thể núi sông và phong tục nhân dân, rõ hết các điều lợi hại trong thiên hạ. Như thế đến vài năm mà Tô Tần chưa gặp được ông vua nào biết dùng. Nghe nói Vệ Ưởng được phong làm Thương Quân, được Tần Hiếu công tin dùng lắm, Tô Tần bèn đi sang Hàm Dương, nhưng đến nơi thì Tần Hiếu công đã mất, Thương Quân cũng chết, bèn xin vào yết kiến Huệ Văn Vương. Huệ Vương cho triệu Tần vào trong điện hỏi rằng: - Tiên sinh không quản nghìn dặm xa xôi mà đến tệ ấp, chẳng hay có điều gì sẽ dạy bảo quả nhân? Tô Tần thưa rằng: - Tôi nghe đại vương đòi chư hầu phải cắt đất, ý muốn ngồi yên mà kiêm tính cả thiên hạ chăng? Huệ Vương nói: - Phải. Tần nói: - Đại Vương đông có Quan Hà, tây có Hán Trung, nam có Ba Thục, bắc có Hồ Lạc, đó là một nước có bốn nơi hiểm yếu; đồng ruộng tốt có nghìn dặm, quân lính giỏi có trăm vạn. Lấy cái đức hiền của đại vương và số đông sĩ dân, tôi xin hiến mưu cố sức gồm chư hầu, nuốt nhà Chu, xưng đế và thống nhất thiên hạ, dễ như trở bàn tay. Có lẽ nào lại cứ ngồi yên mà làm nên việc ư? Huệ Văn Vương mới giết Thương Ưởng, trong lòng vẫn ghét những kẻ du thuyết, bèn từ chối rằng: - Quả nhân lông cánh chưa đủ, không thể bay cao, những lời nói của tiên sinh, tiếc rằng quả nhân ngày nay chưa đủ sức làm, vậy xin đợi vài năm nữa, binh lực hơi đủ, bấy giờ sẽ lại bàn đến việc ấy. Tô Tần lui ra, lại đem những thuật của tam vương ngũ bá dùng công chiến mà được thiên hạ, chép thành một cuốn sách dày, cộng hơn 10 vạn chữ, hôm sau đem dâng Tần Vương. Tần Vương dẫu có xem đến, nhưng không có ý dùng Tần. Tần lại đến yết kiến tướng quốc Công tôn Diễn, Diễn lại có lòng ghen tài không chịu dẫn tiến. Tô Tần ở nước Tần lại hơn một năm, trăm dật hoàng kim đều đã dùng hết, chiếc áo điêu cừu đen cũng rách tướp ra, không còn biết xoay vào đâu, phải bán xe ngựa và đầy tớ lấy tiền làm lộ phí, rồi quảy khăn gói đi bộ về nhà. Mẹ già thấy bộ lúng túng đem lời mắng nhiếc, vợ đang dệt cửi trông thấy cứ ngồi yên, chẳng chạy ra chào hỏi. Tần đói quá, xin chị dâu cho cơm ăn, chị dâu chối là không có củi không chịu nấu cơm cho. Tần chảy nước mắt nói rằng: - Cái thân bần tiện, vợ không còn coi là chồng, chị dâu không còn coi là em, mẹ không còn coi là con, đó là cái tội ta. Rồi Tô Tần lục tìm trong hòm sách, được quyển sách Thái công âm phù, sực nhớ ra rằng Quỉ Cốc có nói nếu du thuyết không gặp, chỉ nên đọc kỹ cuốn sách này tự có tiến ích. Bèn đóng cửa xem sách, suy tìm nghĩa tinh, ngày đêm không nghỉ, đêm mỏi mệt quá muốn ngủ, tự cầm dùi đâm vào đùi, máu chảy khắp chân. Khi đã hiểu hết nghĩa tinh trong sách, lại đem hình thế các nước, xem xét kỹ càng, như thế trong một năm, địa thế thiên hạ coi như đều thu cả ở trong bàn tay, Tô Tần liền tự an ủi mình rằng: - Tần này đã có sức học như thế, nay đem nói với vua các nước, há lại chẳng lấy được ngôi khanh tướng, làm nên giàu sang ư? Tần bảo hai em là Đại, Lệ rằng: - Sự học của ta đã thành, lấy giàu sang như bỡn, các em nên giúp ta tiền hành lý, đi du thuyết các nước, nếu có ngày xuất thân sẽ dắt díu các em. Tô Tần lại đem quyển âm phù giảng giải cho hai em, Đại, Lệ cũng đều hiểu biết, đều giúp tiền hành lý. Tần từ biệt cha mẹ, vợ và chị dâu, muốn lại đi sang nước Tần, nghĩ ngày nay trong bảy nước chỉ có nước Tần là mạnh hơn cả, có thể giúp nên đế nghiệp, nhưng trước kia vua Tần không chịu dùng ta, nay lại đến, nếu lại như trước, thì còn mặt nào trở về làng cũ. Bèn nghĩ một kế làm hại nước Tần, mới có thể tự lập được. Nghĩ vậy Tô Tần sang nước Triệu. Bấy giờ Triệu Túc Hầu ở ngôi, em trai là Công tử Thành làm tướng quốc gọi là Phụng Dương Quân. Tần trước hết vào nói với Phụng Dương Quân, Phụng Dương Quân không thích nghe, Tần bèn bỏ Triệu đi sang Yên, cầu vào yết kiến Yên Văn công, các người tả hữu chẳng ai nói giúp. Ở hơn một năm, tiền lưng đã cạn, phải nhịn đói ở nhà trọ, người trong nhà trọ động lòng thương, cho vay một trăm đồng tiền, Tần nhờ đó mà được có ăn. Bỗng gặp lúc Yên Văn công đi chơi, Tần phủ phục ở bên đường, Văn công hỏi họ tên, biết là Tô Tần, mừng nói rằng: - Nghe nói tiên sinh năm trước dâng một tập thư 10 vạn chữ cho Vua Tần, quả nhân riêng lòng hâm mộ, tiếc vì không được tập thư ấy, nay tiên sinh hạ cố đến, thực là may cho nước Yên lắm. Nói rồi, Yên Văn công liền quay xe về triều, cho triệu Tần vào, cúi mình xin dạy bảo. Tô Tần tâu rằng: - Đại Vương đặt mình ở trong các chiến quốc, đất vuông hai nghìn dặm, binh giáp vài mươi vạn, xe sáu trăm cỗ, ngựa sáu nghìn con, nhưng so với trung nguyên, chưa bằng một nửa, vậy mà tai không nghe tiếng ngựa sắt giáo vàng, mắt không thấy cái nguy để xem chém tướng, được ở yên không việc gì, đại vương có biết vì cớ gì không? Yên Văn công nói: - Quả nhân không biết. Tần lại nói: - Nước Yên sở dĩ không bị binh đao ấy là nhờ có nước Triệu đứng che, đại vương không biết kết giao với nước Triệu gần, lại cắt đất nịnh nước Tần xa, chẳng là ngu lắm ru! Yên Văn công nói: - Vậy thế thì làm thế nào? Tần thưa rằng: - Cứ như ý ngu này, chi bằng kết thân với Triệu rồi kết liên với các nước, cùng nhau hợp sức chống Tần, đó mới là cuộc yên trăm đời. Yên Văn công nói: - Tiên sinh hợp tung để yên nước Yên, đó là ý muốn của quả nhân, nhưng sợ chư hầu không cùng lòng thì sao? Tần nói: - Tôi dẫu bất tài, xin diện kiến chư hầu để định tung ước. Yên Văn công cả mừng, giúp cho vàng bạc, xe ngựa và sai tráng sĩ đưa Tần đi sang Triệu. Bấy giờ, Phụng Dương Quân Triệu Thành đã mất. Triệu Túc Hầu nghe nước Yên đưa khách đến, bèn xuống thềm đón, nói rằng: - Thượng khách hạ cố đến đây, có điều gì dạy bảo quả nhân. Tô Tần tâu rằng: - Tôi nghe những hiền sĩ trong thiên hạ đều kính phục hiền quân, đều muốn tỏ bày tâm phúc, chỉ vì Phụng Dương Quân là người ghen ghét tài năng, cho nên những du sĩ đều dừng chân không tiến, cuốn lưỡi không nói, nay Phụng Dương Quân đã mất, nên tôi mới dám đến dâng tấm lòng ngu trung. Tôi nghe, giữ nước không gì bằng yên dân, yên dân không gì bằng chọn nước mà giao hiếu, nay các nước ở Sơn Đông chỉ có Triệu là mạnh, đất rộng hơn hai nghìn dặm, quân lính có vài mươi vạn, xe nghìn cỗ, ngựa vạn con, thóc lúa đủ dùng trong vài năm. Tần ghét nhất là nước Triệu, vậy mà không dám đánh Triệu là sợ có Hàn, Ngụy đánh úp ở đằng sau. Cho nên làm phên giậu ở phía Nam cho nước Triệu là Hàn, Ngụy, mà hai nước ấy không có núi sông hiểm trở, một ngày kia quân Tần đánh lấn hai nước, hai nước đầu hàng thì họa sẽ đến nước Triệu ngay. Tôi thường xem xét địa đồ, đất của các nước, hơn Tần vạn dặm, quân của các nước cũng nhiều gấp mười Tần, nếu sáu nước hợp làm một, cùng nhằm về phía Tây, thì phá Tần chẳng khó gì. Nay nước Tần hiếp bách các nước, bắt các nước phải cắt đất để cầu hòa. Không cớ gì mà cắt đất, đó là tự mình phá mình, mình phá người và bị người phá, hai điều đó điều nào hơn. Theo như ý tôi, chi bằng ước với vua các nước cùng đến họp ở Hằng Thủy, cùng nhau ăn thề, kết làm anh em, Tần đánh một nước thì năm nước cùng cứu, nếu có nước nào trái lời thề, thì các nước cùng đánh, Tần dẫu cường bạo, khi nào lại dám lấy một nước mà cùng cả thiên hạ tranh được thua. Triệu Túc Hầu nói: - Quả nhân tuổi trẻ, dựng nước chưa được mấy ngày, chưa hề được nghe diệu kế, nay thượng khách muốn họp chư hầu để cự Tần, quả nhân xin một lòng nghe theo. Rồi giao ngay ấn tướng cho Tô Tần, cho ở nhà lớn, lại cho trăm cỗ xe, nghìn dật hoàng kim, trăm đôi bạch bích, gấm vóc nghìn tấm, cử làm tung ước trưởng. Tô Tần bèn sai người đem trăm nén vàng sang nước Yên, trả số trăm đồng tiền của người nhà trọ. Đang định chọn ngày khởi hành, đi bảo các nước Hàn, Ngụy, bỗng thấy Triệu Túc Hầu cho triệu vào, nói là có việc gấp cần phải thương nghị, Tô Tần vội vàng vào ngay, Túc Hầu nói là được tin biên lại báo tướng quốc nước Tần là Công tôn Diễn đem quân đánh Ngụy, bắt mất viên đại tướng là Long Giả, chém bốn vạn năm nghìn thủ cấp, vua Ngụy phải cắt mười thành Hà Bắc để cầu hòa. Diễn lại muốn dời quân đánh Triệu, biết làm thế nào. Tần nghe nói giật mình, nghĩ thầm nếu quân Tần đến Triệu, vua Triệu tất nhiên cũng bắt chước Ngụy cầu hòa. Như vậy thì kế hợp tung của mình sẽ bị thất bại. Trong khi bối rối, liền nghĩ ngay ra một kế, cố làm ra vẻ yên tĩnh, chắp tay thưa rằng: - Tôi chắc quân Tần mỏi mệt, chưa dám đến ngay nước Triệu đâu, vạn nhất có đến tôi sẽ có kế làm cho phải kéo lui. Túc Hầu nói: - Tiên sinh hãy tạm ở lại tệ ấp, đợi quân Tần không đến, bấy giờ hãy đi. Câu ấy thực hợp ý Tô Tần. Tô Tần vâng lời lui ra, về đến tướng phủ gọi một tên môn hạ tâm phúc là Tấn Thành vào trong nhà kín bảo rằng: - Ta có người bạn học cũ tên là Trương Nghi, quê ở Đại Lương, nay ta cho ngươi nghìn nén vàng, ngươi giả làm người lái buôn, đổi họ tên gọi là Giả Xá Nhân, đi ngay sang Ngụy, tìm Trương Nghi, khi giáp mặt, nên như thế như thế, nếu khi đến Triệu, lại nên như thế như thế, ngươi nên cẩn thận, chớ phụ lời ta. Giả Xá Nhân vâng mệnh, luôn ngay ban đêm đi sang Đại Lương. Lại nói Trương Nghi từ khi rời Quỉ Cốc về Ngụy, cầu thờ Ngụy Huệ Vương không được, sau thấy quân Ngụy thua luôn, bèn đem vợ bỏ Ngụy sang Sở, tướng quốc Sở là Chiêu Dương lưu làm môn hạ khách, Chiêu Dương đem quân đánh Ngụy, lấy được bảy thành Tương Lăng, Sở Uy Vương thưởng công, ban cho viên ngọc bích của họ Hòa. Sao gọi là ngọc bích của họ Hòa? Nguyên năm cuối Sở Lệ Vương, có người nước Sở là Biện Hòa được viên đá có ngọc ở Kinh Sơn, đem dâng Lệ vương. Lệ vương sai người sành ngọc xem, bảo chỉ là hòn đá, Lệ Vương giận, cho là Biện Hòa lừa dối, chặt chân bên tả. Đến lúc Sở Võ Vương lên ngôi, Biện Hòa lại đem dâng, người thợ ngọc lại bảo là đá, vua giận lại chặt nốt chân bên hữu. Đến khi Sở Văn Vương lên ngôi, Biện Hòa lại muốn đem dâng, nhưng hai chân đều bị chặt cả, không thể đi được, bèn ôm viên đá ngọc ở trong bọc, lăn khóc ở dưới núi Kinh Sơn, ba ngày ba đêm, khóc hết cả nước mắt rồi chảy cả máu ra. Có người biết là Biện Hòa, hỏi rằng: - Anh hai lần đem dâng, hai lần bị chặt chân thì nên thôi, lại còn mong được thưởng hay sao mà khóc lóc như thế? Hòa nói: - Tôi không phải mong được thưởng, chỉ giận rằng thực ngọc tốt mà bảo là đá, thực lòng ngay mà bảo là lừa, phải trái điên đảo, không được rõ rệt ra, cho nên tôi lấy làm đau xót lắm. Sở Văn Vương nghe chuyện Biện Hòa thương khóc, bèn sai lấy viên đá và sai thợ ngọc phá ra xem, thì quả được một viên ngọc tốt đẹp không có dấu vết gì, nhân chế làm ngọc bích, đặt tên là ngọc bích của họ Hòa. Nghĩ thương Biện Hòa thực có lòng thành, bèn cho Hòa được ăn lộc đại phu suốt đời. Ngọc bích ấy là một của quí vô giá, nay thấy Chiêu Dương có công lao to cho nên đem ra trọng thưởng. Chiêu Dương mang luôn ở trong mình, chưa hề bỏ ra lúc nào. Một hôm Chiêu Dương ra chơi ở Xích Sơn, tân khách đi theo hơn trăm người. Bên dưới Xích Sơn có cái đầm sâu, tương truyền là Khương Thái công ngồi câu cá ở đó, bên đầm có dựng một cái lầu cao, mọi người ở trên lầu uống rượu làm vui. Đến khi đã hơi ngà ngà say, tân khách đều mến cái vẻ đẹp của viên ngọc bích, xin với Chiêu Dương cho mượn xem. Chiêu Dương sai tên đầy tớ giữ kho, mở hòm lấy ra một hộp con đựng đồ bảo ngọc, đem đến trước mặt, tự tay mở khóa ra, cởi một cái bao ba lần gấm, thì đã thấy ánh sáng viên ngọc lấp lánh chiếu vào mặt mọi người, tân khách truyền tay nhau cầm xem ai nấy đều nức nở ngợi khen. Trong lúc ai nấy đang xem ngọc, các lính hầu đều nói dưới đầm có con cá to nhảy lên, Chiêu Dương chạy ra dựa vào lan can đứng xem, tân khách cũng đều chạy ra xem, thấy con cá lớn nhảy lên, dài hơn một trượng, đàn cá con cũng nhảy theo, một lát mây đùn đùn ở phía Đông Bắc kéo lên, cơn mưa to sắp đến, Chiêu Dương sai thu nhặt đồ đạc đi về, tên đầy tớ giữ kho tìm viên ngọc để cất thì không biết đã lọt vào tay ai, tìm thế nào cũng không thấy làm huyên náo lên một hồi. Chiêu Dương về phủ bảo môn khách tra xem người nào ăn trộm ngọc bích, môn khách nói: - Trương Nghi là kẻ nghèo xác lại vốn vô hạnh, chắc là nó lấy trộm viên ngọc ấy chứ không còn ai nữa. Chiêu Dương cũng ngờ, sai người bắt Trương Nghi nọc đánh tra hỏi, bắt phải cung nhận, Trương Nghi thực quả không lấy trộm khi nào chịu nhận, bị đánh đến mấy trăm roi, khắp mình đều sưng tím, ngất đi chỉ còn thoi thóp thở. Chiêu Dương thấy Trương Nghi gần chết, phải tha ra, có người thương Nghi bị đánh oan, vực Nghi về nhà, vợ Nghi trông thấy, cực lòng chảy nước mắt nói rằng: - Chàng ngày nay bị nhục, đều vì đọc sách và du thuyết mà nên nỗi, nếu yên phận ở nhà làm ruộng, thì khi nào lại bị cái vạ này! Nghi há mồm nhìn vợ bảo nhìn xem và hỏi rằng: - Cái lưỡi ta có còn không? Vợ cười nói rằng: - Còn. Nghi nói: - Lưỡi còn đó là tiền của, nàng chớ lo là phải chịu khốn cùng mãi. Sau đó Nghi ở nhà yên nghỉ, khi đã khỏi rồi lại trở về nước Ngụy. Về được nửa năm, nghe nói Tô Tần du thuyết vua Triệu đã được làm tướng, định sẽ đến thăm, bỗng ra cửa, thấy Giả Xá Nhân đỗ xe ở bên ngoài đang hỏi thăm, Nghi hỏi biết là ở nước Triệu đến, liền hỏi có thực Tô Tần đã làm tướng quốc nước Triệu không. Giả Xá Nhân hỏi: - Tiên sinh là ai, có phải là bạn cũ của tướng quốc tôi mà dò hỏi? Nghi nói là bạn học cũ, Giả Xá Nhân nói: - Nếu vậy sao không sang chơi, tướng quốc tất sẽ tiến cử, tôi nay việc buôn bán xong, định sắp về Triệu, nếu ngài không chê tôi là kẻ hèn mọn, xin cùng đi với ngài. Trương Nghi vui lòng theo ngay. Khi đã đến bên ngoài chân thành nước Triệu, Giả Xá Nhân nói: - Nhà tôi ở ngoài châu thành, hiện có việc, xin tạm biệt ngài, các cửa trong thành đều có nhà trọ chứa khách xa, để mấy hôm nữa tôi sẽ vào tìm ngài. Trương Nghi từ biệt Giả Xá Nhân, xuống xe đi vào trong thành tìm vào nhà trọ, hôm sau đến tướng phủ cầu vào yết kiến Tô Tần. Tần đã dặn sẵn người nhà không được thông báo, đợi mãi đến ngày thứ năm mới đưa danh thiếp vào được, Tần chối là bận việc đợi ngày khác sẽ tiếp, Nghi lại đợi đến mấy ngày vẫn không được vào, giận quá muốn bỏ đi. Chủ trọ giữ lại, nói rằng: - Nhà ngươi đã đưa danh thiếp vào tướng phủ, chưa thấy phát lạc, vạn nhất quan tướng quốc cho đòi vào, tôi biết nói thế nào dù một năm hay nửa năm, tôi cũng không dám để cho đi. Trương Nghi buồn quá, hỏi thăm Giả Xá Nhân ở đâu, thì không ai biết, lại qua vài ngày, đưa giấy vào tướng phủ xin từ biệt, Tần truyền cho hôm sau sẽ tiếp kiến. Nghi hỏi mượn mũ áo của chủ trọ. Sáng sớm hôm sau đi vào tướng phủ, Tô Tần đã sai bày sẵn uy nghi, đóng cửa giữa, bảo khách theo cửa bên đi vào, Trương Nghi muốn bước lên thềm, lính hầu ngăn lại nói rằng: - Tướng quốc làm việc quan chưa xong, khách hãy đợi một lát. Nghi bèn đứng ở dưới hiên, ghé mắt trông lên công đường, thấy quan thuộc vào hầu rất đông, rồi lại thấy có nhiều người vào bẩm việc. Giờ lâu, mặt trời gần xế bóng, nghe trên công đường có tiếng hỏi: - Khách đâu rồi? Lính hầu nói: - Tướng quốc cho triệu khách vào. Nghi vuốt áo bước lên thềm, chắc là Tô Tần sẽ chạy ra đón chào, không ngờ Tần cứ ngồi yên không động, Nghi đành phải nuốt giận tiến lên vái chào, Tần đứng dậy sẽ cất tay đáp lại, nói rằng: - Dư Tử bấy lâu vẫn được bình yên đấy chứ? Nghi tức giận quá, không đáp lại. Lính hầu bẩm dâng cơm trưa, Tần lại nói: - Việc quan bận rộn, phiền Dư Tử phải đợi lâu, sợ đói quá, có lưng cơm rau, mời Dư Tử hãy tạm xơi rồi sẽ nói chuyện. Nói xong, Tần sai lính hầu đặt ghế cho Nghi ngồi ở dưới công đường. Còn Tần thì ngồi ăn ở trên, các món cao lương bày đầy án, còn mâm cơm của Nghi chỉ một đĩa thịt, một đĩa rau và cơm xoàng mà thôi. Nghi đã toan không ăn, nhưng bụng đói quá, vả còn thiếu tiền cơm ở ngoài nhà trọ rất nhiều, đành phải ngậm sầu nuốt tủi, cầm đũa mà ăn, trông lên thấy Tô Tần ăn thừa mứa không hết, ban cho các lính hầu, mà mâm cơm của mình ăn không được đủ, trong lòng vừa thẹn vừa giận. Ăn xong, Tần lại truyền mời khách lên công đường. Nghi đi lên, thấy Tần vẫn cứ ngồi cao không đứng dậy, giận quá không nhịn được nữa, chạy lên mấy bước, mắng rằng: - Quý Tử! Ta tưởng ngươi không quên tình cố cựu, nên đến thăm ngươi, ngờ đâu ngươi lại nhục ta đến thế này, còn là gì tình đồng học nữa. Tô Tần từ từ đáp rằng: - Cứ lấy cái tài của Dư Tử, tưởng rằng sẽ gặp gỡ trước ta, không ngờ lại cùng khốn như thế. Ta há lại không thể tiến cử nhà ngươi với Triệu Hầu, để cho nhà ngươi được giàu sang, nhưng sợ nhà ngươi trí suy tài nhụt, không làm gì được, lại để lụy cho người tiến cử. Trương Nghi nói: - Đại trượng phu tự có thể làm nên phú quí, há cứ phải nhờ ngươi tiến cử ư. Tần nói: - Nhà ngươi đã có thể tự làm nên phú quí, sao lại còn đến yết kiến ta làm gì? Nghĩ lại chút tình đồng học, ta giúp cho mười lạng vàng, nhà ngươi đi đâu thì đi. Nói rồi sai tả hữu đem vàng trao cho Nghi, Nghi đang cơn tức giận, vứt bỏ vàng xuống đất, hầm hầm đi ra, Tần cũng không giữ lại. Nghi về đến nhà trọ, thấy đồ đạc của mình đều đã đem ra ngoài, Nghi hỏi làm sao, chủ trọ nói: - Hôm nay túc hạ được vào yết kiến tướng quốc, tất nhiên tướng quốc sẽ mời túc hạ đến ở quán xá và cung ứng cơm nước, cho nên tôi mang sẵn ra đây. Trương Nghi lắc đầu, miệng chỉ nói đáng giận đáng giận, rồi trút bỏ áo giầy giao trả chủ trọ, chủ trọ nói: - Có lẽ không phải là bạn đồng học, mà túc hạ nhận vơ đó chăng? Nghi kéo chủ nhân lại gần, đem cái tình cùng Tần kết giao ngày trước và sự bạc đãi ngày nay, nói hết một lượt cho nghe. Chủ trọ nói: - Tướng quốc dẫu kiêu ngạo, nhưng vị tôn quyền trọng, theo lễ tất phải thế, cho túc hạ mười lạng vàng, kể cũng hậu lắm, giá túc hạ cứ lấy, để trả tiền cơm, còn thừa để làm tiền ăn dường mà trở về nhà, cớ sao lại vứt trả. Nghi nói: - Tôi đang lúc tức giận quăng trả xuống đất, nay trong tay chẳng có một đồng thì biết làm thế nào. Đang phàn nàn, thì thấy Giả Xá Nhân đi vào, cúi chào Trương Nghi và nói: - Mấy hôm nay tôi không đến hầu tiên sinh được, chẳng biết tiên sinh đã vào chào Tô tướng quốc chưa? Câu hỏi ấy lại như khêu lòng tức giận, Trương Nghi đập tay xuống án mắng rằng: - Cái thằng vô tình vô nghĩa ấy còn nói làm gì đến nó nữa. Giả Xá Nhân nói: - Làm sao tiên sinh lại phát giận mà nói quá lời như thế? Chủ trọ liền đem việc Trương Nghi vào yết kiến Tô Tần như thế nào kể rõ cho nghe và nói: - Nay tiên sinh không có tiền trả tiền cơm của tôi, muốn về lại không có tiền ăn đường, như vậy có buồn không? Giả Xá Nhân nói: - Trước kia vì tôi xui tiên sinh đến đây, không ngờ bị nhục như thế, đó thực là vì tôi mà làm lụy tiên sinh. Vậy tôi xin trả số tiền cơm chịu cho tiên sinh và biện xe ngựa để đưa tiên sinh về Ngụy, chẳng hay tiên sinh ý nghĩ thế nào? Nghi nói: - Tôi cũng chẳng còn mặt nào trở về Ngụy nữa, muốn đi sang Tần chơi một phen, nhưng bực không có tiền hành lý. Giả Xá Nhân nói: - Tiên sinh nếu sang nước khác tôi không dám đi theo, nếu đi sang Tần, tôi cũng đang muốn sang đó thăm người bà con, thì xin lại cùng đi cho có bạn, há chẳng hay lắm ru? Nghi mừng quá nói: - Thế gian có người cao nghĩa như ngài, đủ khiến cho Tô Tần phải xấu hổ mà chết. Trương Nghi nói rồi cùng Giả Xá Nhân kết làm anh em, Giả Xá Nhân trả tiền cơm cho Nghi rồi cùng lên xe đi sang Tần. Dọc đường lại vì Nghi may áo quần, thuê đầy tớ hầu hạ, phàm Nghi cần đến thứ gì đều sắm cho ngay, không hề tiếc tiền, khi sang đến Tần, lại bỏ ra nhiều vàng lụa đút lót các người tả hữu Huệ Văn Vương, vì Trương Nghi mua chuộc tiếng khen. Bấy giờ Huệ Văn Vương đang hối về việc không dùng Tô Tần, nghe lời tả hữu tiến cử, liền cho đòi Nghi vào yết kiến, cho làm khách khanh, cùng bàn về việc chư hầu. Giả Xá Nhân liền từ biệt xin đi, Nghi chảy nước mắt nói rằng: - Trước đây tôi bị khốn ách quá, nhờ có anh giúp sức mới được hiển đạt ở nước Tần này, còn đang mong báo ơn sau, sao anh đã vội đi như thế? Giả Xá Nhân nói: - Không phải tôi có thể biết được ngài, biết ngài là Tô tướng quốc vậy. Nghi kinh ngạc hỏi lâu nói rằng: - Anh đem tiền của giúp cho tôi, sao lại nói là Tô tướng quốc? Giả Xá Nhân nói: - Tô tướng quốc đang xướng lên thuyết hợp tung, lo Tần đánh Triệu thì hỏng mất việc ấy, nghĩ lấy một người có thể cầm được quyền bính ở Tần, ngoài ngài ra thì không có ai làm được, cho nên sai tôi giả làm người lái buôn, mời ngài sang Triệu lại sợ ngài lấy sự làm nên nhỏ nhặt làm yên, cố ý bạc đãi để làm cho ngài phải cầm được quyền bính nước Tần mới thôi. Nay ngài đã đắc dụng ở Tần rồi, tôi phải về ngay để báo cho Tô tướng quốc biết. Trương Nghi than rằng: - Thế ra ta bấy lâu ở trong cái thuật của Quý tử mà ta không biết, ta thực không bằng Quý tử xa lắm, phiền ngươi đa tạ Quý tử, suốt đời Quý tử, ta không dám nói đến hai chữ "đánh Triệu" để báo lại cái ân sâu Quý tử đã ngọc thành cho ta. Giả Xá Nhân về báo Tô Tần, Tần vào ngay tâu Triệu Túc Hầu rằng: - Nước Tần quả không dám ra quân vậy. Rồi đó đi sang Hàn vào yết kiến Tuyên Huệ công, nói rằng: - Đất Hàn rộng hơn 900 dặm, có vài mươi vạn quân, những cung mạnh nỏ cứng ở trong thiên hạ này đều ở nước Hàn mà ra, nay đại vương thờ Tần, Tần tất đòi cắt đất làm tin, sang năm sẽ lại đòi nữa. Đất cát của Hàn có hạn mà lòng dục của Tần vô cùng, hai ba lần phải cắt, thế thì đất Hàn hết mất. Tục ngữ có nói: "Thà làm miệng con gà, chớ làm sau con trâu", đại vương có đức hiền, lại có quân mạnh, mà chịu cái tiếng sau trâu, tôi lấy làm xấu hổ lắm. Tuyên Huệ công nói: - Quả nhân xin đem cả nước mà nghe lời dạy của tiên sinh, theo như ước của vua Triệu đã định. Rồi cũng tặng Tô Tần trăm dật hoàng kim, Tô Tần lại lần lượt đi đến các nước Ngụy, nước Sở, nước Tề, đến nước nào cũng nói rõ các lẽ lợi hại của nước ấy, kết cục bảo nên cùng liên hợp cho mạnh sức để chống lại nước Tần, vua nước nào cũng lấy làm phải và xin theo như kế hợp tung của Tô Tần. Tần về ngay để báo Triệu Túc Hầu, đi qua Lạc Dương các nước đều sai sứ đi tiễn, nghi trượng cờ quạt tiền hô hậu ủng xe ngựa và các xe chở đồ, liên tiếp đến 20 dặm không hết, uy nghi không khác gì đấng vương giả, đi dọc đường, các quan viên đều ra lạy chào. Chu Hiển Vương nghe Tô Tần sắp đến, sai người quét dọn sạch sẽ và bày cung trướng ở ngoài châu thành để đón. Bà mẹ già của Tần, cũng chống gậy đi ra đường xem, hại em trai, chị dâu và vợ Tần đều nghiêng mắt không dám ngửa trông, phủ phục cả ở ngoài bãi để đón. Tô Tần ngồi ở trong xe, hỏi chị dâu rằng: - Chị trước kia không nấu cơm cho tôi ăn, làm sao ngày nay lại cung kính quá như thế? Người chị dâu nói: - Tôi thấy Quý tử ngày nay ngôi cao và tiền nhiều, nên tôi phải kính sợ. Tô Tần ngậm ngùi than rằng: - Tình đời xem ấm lạnh, giá người thành thấp cao, ta ngày nay mới biết sự giàu sang cần phải có lắm. Rồi sai lấy xe chở các người thân thuộc cùng về làng cũ, làm một tòa nhà lớn, họp cả họ lại cùng ở, chia nghìn vàng cấp cho các người họ hàng. Em trai Tần là Đại, Lệ hâm mộ sự giàu sang của anh, cũng học sách Âm phù và thuật du thuyết. Tần ở nhà mấy hôm, rồi lại lên xe sang Triệu, vua Triệu phong làm Võ An quân, sai sứ đi ước vua năm nước Tề, Sở, Ngụy, Hàn, Yên, đều họp đến Hằng Thủy, Tô Tần cùng vua Triệu đến đó trước, đắp đàn đặt vị thứ để đãi chư hầu. Đến kỳ, vua các nước đều lần lượt đến, chiếu vị thứ đứng xếp hàng ở trên đàn, Tô Tần ở dưới thềm bước lên tâu với sáu vua rằng: - Các ngài đều là nước lớn ở Sơn Đông, vị đến tước vương, đất rộng quân nhiều, đều đủ tự mình xưng hùng cả. Nước Tần là một kẻ hẻn chăn ngựa, cậy mạnh lấn hiếp các nước, vậy các ngài có thể cúi đầu thờ Tần không? Chư hầu đều nói: - Không chịu thờ Tần, xin theo lời dạy tiên sinh. Tô Tần nói: - Cái kế hợp tung chống Tần trước đây tôi đều tỏ bày với các ngài rồi, ngày nay chỉ còn điều nên uống máu ăn thề, kết làm anh em, điều này cần nhất là phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Sáu vua đều chắp tay nói rằng: - Xin vâng theo lời dạy. Tần bèn bưng cái khay mời sáu vua lần lượt uống máu, bái cáo trời đất và tổ tôn sáu nước, một nước trái thề, năm nước cùng đánh, viết lời thề làm sáu bản, mỗi nước giữ một bản, rồi cùng dự tiệc yến. Vua Triệu nói là Tô Tần định đại kế giữ yên sáu nước, nên phong tước cao, khiến đi lại cả sáu nước, để giữ bền điều ước hợp tung. Vua sáu nước đều cho là phải, rồi cả sáu vua hợp phong Tô Tần làm tung ước trưởng, kiêm đeo ấn tướng sáu nước, bài vàng, gươm báu, thống hạt thần dân sáu nước. Mỗi vua lại ban cho trăm dật hoàng kim, mười cỗ ngựa tốt, Tô Tần tạ ân, các vua đều về nước, còn Tô Tần lại theo Túc Hầu về nước Triệu. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 91 Nhường ngôi báu, Yên Khoái hại mình Dâng đất dối, Trương Nghi lừa Sở Bấm để xem Lại nói Tô Tần đã liên hiệp được sáu nước, bèn sai viết một bản tung ước bỏ vào cửa quan nước Tần, viên quan lại đưa về trình Huệ Văn Vương. Huệ Văn Vương cả sợ, hỏi tướng quốc Công tôn Diễn rằng: - Nếu sáu nước hợp một, quả nhân không còn mong gì tiến thủ nữa, tất phải nghĩ kế phá cái tung ước ấy, mới có thể mưu đồ việc lớn được. Công tôn Diễn nói: - Đứng đầu tung ước là nước Triệu, đại vương đem quân đánh Triệu, xem nước nào cứu nước Triệu trước, lập tức rời quân đi đánh nước ấy, như vậy chư hầu đều sợ mà tung ước phải tan ngay. Bấy giờ Trương Nghi cũng ngồi đó, ý không muốn đánh Triệu để báo ơn Tô Tần bèn nói rằng: - Sáu nước mới họp, cái thế chưa thể làm tan ngay được, Tần nếu đánh Triệu, thì năm nước kia sẽ đem hết tinh binh để trợ chiến, quân Tần lo chống lại còn chưa nổi, lại còn hòng dời đi đánh nước nào nữa. Ở gần ngay cạnh nước Tần là Ngụy, mà ở xa mãi phía Bắc là nước Yên, nếu đại vương sai sứ đem nhiều tiền của đút lót cầu thân với Ngụy, làm cho các nước sinh lòng ngờ nhau, lại cùng thái tử nước Yên kết hôn, như thế thì tung ước tự giải vây. Huệ Văn Vương lấy làm phải, bèn hứa trả lại nước Ngụy bảy thành Tương Dương để cầu hòa. Ngụy cũng sai người đến đáp lễ Tần, lại đem con gái gả cho thái tử nước Tần, Triệu Vương nghe tin, đòi Tô Tần vào trách rằng: - Nhà ngươi xướng ra việc hợp tung, sáu nước hòa thân cùng nhau chống Tần, nay chưa được hơn một năm, mà hai nước Yên, Ngụy đều đã thông Tần, coi vậy đủ biết tung ước không đủ cậy vậy. Nếu quân Tần bỗng đến đánh Triệu, thì còn mong gì hai nước ấy đến cứu nữa. Tô Tần sợ hãi tạ rằng: - Tôi xin vì đại vương sang sứ nước Yên, sẽ có cách báo lại nước Ngụy. Tần bèn bỏ Triệu sang Yên, Dịch Vương nước Yên cho Tần làm tướng quốc, bấy giờ Dịch Vương mới lên ngôi, Tề Tuyên Vương nhân lúc có tang đem quân đến đánh, lấy mất mười thành, Dịch Vương bảo Tô Tần rằng: - Trước đây tiên quân đem cả nước nghe lời nhà ngươi, sáu nước hòa thân, nay tiên quân chết chưa héo cái cỏ, mà quân Tề đã đến đánh lấy mười thành của ta, đối với lời thề ở Hằng Thủy, họ chẳng còn coi ra gì nữa. Tô Tần nói: - Tôi xin vì đại vương sang sứ nước Tề, khiến họ phải trả lại mười thành cho nước Yên. Dịch Vương bằng lòng, Tô Tần liền đi sang Tề, nói với Tuyên Vương rằng: - Vua Yên là người đồng minh của đại vương, mà là con rể yêu của vua Tần, đại vương tham lợi lấy mười thành của Yên, không những Yên oán Tề mà Tần cũng oán Tề nữa. Được 10 thành mà mua hai cái oán, thì không phải là kế hay, đại vương theo kế của tôi, trả lại nước Yên mười thành, để kết thân với hai nước Yên, Tần. Tề đã có hai nước ấy làm vây cánh, đứng ra mà hiệu triệu thiên hạ tưởng chẳng khó gì? Tuyên Vương nghe lời, đem 10 thành trả Yên. Bà mẹ Dịch Vương là Văn Phu Nhân vốn mến tài Tô Tần, sai tả hữu đòi Tần vào cung, nhân đó cùng Tần tư thông, Dịch Vương biết mà không nói, Tần sợ, bèn kết thân với tướng quốc Yên là Tử Chi và làm dâu gia với nhau, lại sai hai em là Tô Đại, Tô Lệ cùng Tử Chi kết làm anh em, muốn để giữ mình. Văn Phu Nhân năng triệu Tô Tần vào cung, Tần càng sợ không dám vào, bèn nói với Dịch Vương rằng: - Cái thế Yên Tề thế nào rồi cũng đến nuốt nhau, tôi xin vì đại vương sang phản gián ở Tề. Dịch Vương hỏi phản gián thế nào, Tô Tần nói: - Tôi giả là bị tội ở Yên, mà chạy sang Tề, vua Tề tất trọng dụng tôi, tôi nhân đó mà làm cho nền chính trị nước Tề phải hỏng, để làm lợi cho nước Yên. Dịch Vương bằng lòng, bèn thu lại tướng ấn của Tô Tần. Tần bèn chạy sang Tề, Tề Tuyên Vương cho làm khách khanh. Tần nhân đó mà bảo Tuyên Vương về những thú vui săn bắn múa hát, Tuyên Vương thích nhiều của, Tần xui đánh thuế nặng, Tuyên Vương thích sắc đẹp, Tần xui kén chọn nhiều cung nữ, muốn làm cho Tề loạn, để nước Yên thừa cơ mà đánh. Tuyên Vương không hề tỉnh ngộ, tướng quốc Điền Anh và khách khanh là Mạnh Kha hết sức can ngăn, Tuyên Vương đều không nghe. Tuyên Vương mất, con là Mân Vương nối ngôi, năm đầu còn chăm nom quốc chính, lấy con gái nước Tần làm hoàng hậu, phong Điền Anh làm tiết công, Tô Tần vẫn làm khách khanh như cũ. Lại nói Trương Nghi nghe tin Tô Tần bỏ nước Triệu biết là tung ước sắp tan, không cho nước Ngụy bảy ấp Tương Lăng nữa. Ngụy Tương Vương giận, sai người đến Tần đòi đất. Tần Huệ Vương cử Công tử Hoa làm đại tướng, Trương Nghi làm phó mang quân đánh Ngụy, hạ được thành Bồ Dương, Nghi xin với vua Tần lại đem Bồ Dương trả cho Ngụy, lại sai Công tử Do sang làm con tin ở Ngụy, cùng Ngụy kết thân. Trương Nghi đưa Công tử Do sang tận nơi, vua Ngụy thâm cảm ý tốt của vua Tần, Trương Nghi liền nói rằng: - Vua Tần đãi nước Ngụy rất hậu, được đất không lấy, lại gửi con tin, nếu Tần Ngụy hợp binh để mưu chư hầu, đại vương sẽ lấy đền ở nước khác còn nhiều gấp mười cái phần đất phải dâng ngày nay. Vua Ngụy tin lời, bèn dâng đất Thiếu Lương để tạ Tần, lại không dám nhận con tin. Vua Tần vui lòng lắm, bèn bãi Công tôn Diễn, dùng Trương Nghi làm tướng. Bấy giờ Thịnh Vương nước Sở đã mất, con là Hùng Hòe nối ngôi, ấy là Hoài Vương, Trương Nghi bèn sai người đưa thư cho Hoài Vương xin cho đón vợ con sang Tần và nói đến cái oan bị nghi là lấy trộm ngọc bích ngày trước. Hoài Vương trách Chiêu Dương rằng: - Trương Nghi là hiền sĩ, làm sao trước kia nhà ngươi không tiến cử với tiến quân lại hiếp bách cho hắn phải bỏ Sở mà sang giúp Tần. Chiêu Dương không nói gì, nghĩ thẹn quá, về nhà phát bệnh rồi chết. Hoài Vương sợ Trương Nghi giúp Tần để thôn tính các nước, lại muốn dùng cái ước hợp tung của Tô Tần liên kết chư hầu, mà Tô Tần đã bị tội ở Yên, bỏ Yên chạy sang Tề rồi. Trương Nghi xin vua Tần cho từ tướng ấn đi sang nước Ngụy, Huệ Văn Vương hỏi: - Nhà ngươi bỏ Tần đi sang Ngụy là có ý gì? Nghi nói: - Sáu nước còn say đắm cái thuyết của Tô Tần, tung ước chưa có thể phá ngay được, tôi nếu được cầm quyền ở Ngụy thì sẽ khiến nước Ngụy phải thờ Tần trước, để làm gương cho chư hầu. Huệ Văn Vương bằng lòng, Nghi liền đi sang Ngụy, Ngụy Tương Vương quả dùng làm tướng quốc, Nghi nhân dịp nói về các lẽ lợi hại, bảo Ngụy cần phải thờ Tần mới được yên, vua Ngụy chưa định, Nghi ngầm sai người xui Tần đánh Ngụy, quân Tần đại thắng lấy được Khúc Ốc. Tương Vương giận, càng không chịu thờ Tần, lại dùng kế hợp tung, cử Sở Hoài Vương làm tung ước trưởng, vì thế Tô Tần càng được trọng dụng ở Tề. Bấy giờ tướng quốc nước Tề là Điền Anh đã mất, con là Điền Văn nối làm Tiết Công, gọi là Mạnh Thường Quân. Điền Anh có hơn 40 người con trai, Điền Văn là con một người tiện thiếp, vì sinh vào ngày mùng năm tháng năm, nên khi mới sinh, Điền Anh bảo người thiếp bỏ đi chớ nuôi, người thiếp không nỡ bỏ đem nuôi giấu một chỗ, khi đã lên năm tuổi, người thiếp mới dẫn đến yết kiến Điền Anh. Điền Anh giận là dám trái mệnh. Văn dập đầu nói rằng: - Vì cớ gì mà cha lại nỡ lòng bỏ con? Điền Anh nói: - Người đời vẫn nói mùng 5 tháng 5 là ngày hung, sinh con vào ngày ấy, lớn lên nó cao bằng cái cổng, sẽ bất lợi cho cha mẹ. Văn thưa rằng: - Người ta sinh ra thụ mệnh ở trời, lẽ nào thụ mệnh ở cái cổng, nếu quả là thụ mệnh ở cái cổng, thì sao không xây thêm cho nó cao lên. Điền Anh không biết nói thế nào nữa, nhưng nghĩ thầm cho là một đứa trẻ khác thường. Đến khi Văn lên mười tuổi, đã biết tiếp ứng tân khách. Tân khách đều thích chơi với Văn, sứ giả các nước Tề, nghe tiếng Văn đều cầu đến yết kiến, bởi vậy Điền Anh cho Văn là người hiền, lập làm đích tử, nối dòng Tiết Công, gọi là Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân đã nối ngôi, xây nhà quán xá lớn, để chứa những kẻ sĩ trong thiên hạ, phàm người nào đến, không hỏi hiền ngu đều thu dụng cả. Mạnh Thường Quân dẫu sang, nhưng ăn uống cũng như khách cả, một hôm đãi khách ăn đêm, có người che ánh lửa sáng, khách ngờ là cơm có hai hạng, ném đũa xin đi, Điền Văn tự đứng dậy đem cơm so sánh, quả nhiên như nhau, người khách than rằng: - Ông Mạnh Thường Quân đãi khách như thế mà ta quá đem lòng ngờ, thật là tiểu nhân, còn mặt mũi nào mà ở nhà ông ấy nữa. Nói xong, tự đâm cổ mà chết. Mạnh Thường Quân thương khóc thảm thiết. Các khách thấy thế đều cảm động, theo về càng ngày càng nhiều, số khách ăn trong nhà có đến vài nghìn người. Chư hầu nghe Mạnh Thường Quân là người hiền và nhiều tân khách, đều tôn trọng nước Tề, bảo nhau không dám đến lấn cõi đất. Lại nói Trương Nghi làm tướng nước Ngụy ba năm, Tương Vương mất, con là Ai Vương nối ngôi. Sở Hoài Vương sai sứ đến điếu tang và trưng binh đánh Tần. Ai Vương bằng lòng cho. Vua Hàn, vua Triệu, vua Yên cũng đều vui lòng họp quân đánh Tần, sứ giả nước Sở đến Tề, Mân Vương họp quần thần lại để hỏi kế, tả hữu nói: - Tần với Tề có cái tình thân cậu cháu, chưa có điều gì hiềm thù thì không nên đánh. Tô Tần chủ ước hợp tung nói quyết là nên đánh, chỉ có Mạnh Thường Quân cho đánh và không đánh đều không nên, đánh thì kết thù với Tần, không đánh thì mang oán với năm nước, chi bằng cứ ra quân mà đi chậm, quân đã ra thì năm nước không nghi mình, đi chậm thì có thể trông ngóng tình thế mà nên lui. Mân Vương cho là phải, bèn sai ngay Mạnh Thường Quân đem hai vạn quân đi. Quân đi đến giữa đường, Mạnh Thường Quân giả xưng bệnh đón thầy thuốc điều trị, lần chần không đi. Lại nói bốn vua Hàn, Triệu, Ngụy, Yên, cùng Sở Hoài Vương họp quân ở ngoài cửa Hàm Cốc, định ngày tiến quân, vua Sở dẫu làm tung ước trưởng, nhưng bốn vua kia đều tự mang quân của mình, không cùng thống nhất. Tướng nước Tần là Vu Lí Tật mở toang cửa thành, bầy quân giục đánh, vua năm nước đều suy ủy nhau, không ai dám ra trước. Giữ nhau vài ngày, Vu Lí Tật dùng kế tuyệt đường lương của quân Sở, quân Sở thiếu ăn đều nhốn nháo cả lên, Vu Lí Tật thừa cơ đánh úp, quân Sở thua chạy, bốn nước kia cũng đều kéo quân về. Mạnh Thường Quân chưa đi đến cõi đất nước Tần mà quân năm nước đã rút hết rồi, đó là kế xảo của Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân về Tề, Mân Vương phàn nàn suýt nghe lầm kế của Tô Tần, bèn cho Mạnh Thường Quân trăm cân hoàng kim, chi thêm về việc nuôi khách ăn, lại càng đem lòng yêu trọng. Tô Tần tự xấu hổ là không bằng, vua Sở sợ Tần, Tề kết hợp, bèn sai sứ kết thân với Mạnh Thường Quân. Từ đời Tề Tuyên Vương, Tô Tần được trọng dụng, nên các người tả hữu quí thích có nhiều người ghen ghét, đến đời Mân Vương, vẫn tin yêu Tần. Nhưng từ lúc Mân Vương không nghe kế của Tần mà nghe kế của Mạnh Thường Quân, bọn tả hữu cho là Mân Vương đã có lòng ghét Tần, bèn mộ tráng sĩ dắt đồ nhọn sắc lẻn vào đâm Tô Tần ở trong triều. Tô Tần bị đâm thủng bụng, lấy tay bịt lại chạy kêu Mân Vương, Mân Vương sai bắt hung thủ, nhưng nó đã chạy thoát rồi. Tô Tần nói: - Sau khi hạ thần đã chết, xin đại vương chém đầu hạ thần đem hiệu lệnh ở ngoài chợ rằng Tô Tần vì nước Yên đến làm phản gián ở Tề, nay may giết chết được, có người nào biết được việc kín của Tô Tần đến tố cáo, sẽ thưởng cho nghìn vàng, như vậy thì có thể bắt được hung thủ. Nói xong, Tô Tần rút cái mũi nhọn ở trong bụng ra, máu chảy đầy đất mà chết. Mân Vương theo như lời, chém đầu Tô Tần đem hiệu lệnh ở trong chợ, bỗng có người đi qua dưới cái đầu, thấy có treo thưởng liền tự khoe với mọi người rằng: - Kẻ giết Tô Tần tức là tôi đây, Thị liền bắt trói lại, dẫn vào nộp Mân Vương, vua sai đem tra tấn, quả ra được người chủ sự, trị tội tru diệt mất vài nhà. Sau khi Tô Tần chết, tân khách dần dần tiết lộ cái mưu của Tần, nói Tần vì Yên mà làm quan ở Tề, Mân Vương mới biết Tần là người lừa dối, từ đó cùng Yên sinh thù, muốn sai Mạnh Thường Quân đem quân đánh Yên. Tô Đại bảo vua Yên nộp con tin để hòa với Tề, vua Yên theo lời và sai Tô Lệ đem con tin sang yết kiến Mân Vương. Mân Vương vẫn căm giận Tô Tần, muốn giam Tô Lệ, Lệ kêu lên rằng: - Vua Yên muốn theo Tần, anh em tôi hết sức bày tỏ đức tốt của đại vương, nói thờ Tần không bằng thờ Tề, nên mới sai tôi sang nộp con tin để cầu hòa, đại vương làm sao lại ngờ bụng người chết mà bắt tội kẻ sống. Mân Vương vui lòng, bèn hậu đãi Tô Lệ. Lệ bèn ở lại nước Tề làm đại phu, còn Tô Đại thì vẫn làm quan ở nước Yên. Lại nói Trương Nghi thấy sáu nước đánh Tần không thành công, trong lòng mừng thầm, đến khi nghe tin Tô Tần chết, cả mừng nói rằng: - Ngày nay mới là là lúc ta được thi thố hết tài trí của ta Bèn nói với Ngụy Ai Vương rằng: - Mạnh như nước Tần, thừa sức chống được với sáu nước, như vậy càng rõ cái lẽ không thể chống nhau được với Tần, xướng ra cái nghị hợp tung là Tô Tần, mà Tần không giữ toàn được thân mình, phương chi còn giữ được nước cho người ư? Trong chỗ anh em ruột cùng cha mẹ mà cũng còn có lúc vì tiền tài mà tranh đấu nhau, phương chi là nước nọ với nước kia. Đại Vương còn tin cái thuyết của Tô Tần không chịu thờ Tần, nếu các nước có nước nào thờ Tần trước, hợp binh đánh Ngụy, thì Ngụy nguy to. Ai Vương nói: - Quả nhân muốn theo lời tướng quốc thờ Tần, chỉ sợ Tần cự không nhận, thì biết làm thế nào? Nghi nói: - Tôi xin đại vương tạ tội với Tần để kết tình giao hảo của hai nước. Ai Vương liền sai Nghi sang Tần cầu hòa, từ đó Tần- Ngụy đi lại với nhau, Trương Nghi lại lưu ở Tần làm tướng quốc. Lại nói tướng quốc nước Yên là Tử Chi, mình dài tám thước, lưng to mười ôm, thân thể béo nặng, mặt rộng mồm vuông, tay với bắt được chim bay, chân theo kịp ngựa chạy, từ đời Dịch Vương đã cầm quyền chính, đến khi vua mới là Khoái lên ngôi, say đắm tửu sắc, chỉ ham vui chơi, không coi nom việc chính, Tử Chi mới có ý muốn cướp ngôi nước Yên. Tô Đại, Tô Lệ quen thân với Tử Chi, mỗi khi đối các sứ chư hầu, thường ngợi khen Tử Chi là người hiền. Yên Vương Khoái sai Tô Đại sang Tề hỏi thăm con tin, việc xong trở về, Khoái hỏi: - Nghe nói nước Tề có Mạnh Thường Quân là bậc đại hiền trong thiên hạ, vua Tề có người tôi hiền ấy, có thể làm bá chủ thiên hạ được chăng? Đại nói là không thể được. Khoái hỏi vì cớ gì, Đại nói: - Vua Tề biết Mạnh Thường Quân là người hiền mà dùng không chuyên, thì khi nào làm nên bá chủ được. Khoái nói: - Quả nhân không được Mạnh Thường Quân làm tôi đó thôi, nếu được thì khó gì mà chẳng chuyên dùng. Tô Đại nói: - Nay tướng quốc Tử Chi thông hiểu chính sự, tức là Mạnh Thường Quân của nước Yên. Khoái bèn cho Tử Chi được chuyên quyết việc nước, bỗng một hôm, Khoái hỏi đại phu là Lộc Mao Thọ rằng: - Các vị nhân quân ngày xưa có nhiều, làm sao người ta lại chỉ khen có một mình Nghiêu, Thuấn. Lộc Mao Thọ cũng là đảng Tử Chi, bèn thưa rằng: - Nghiêu, Thuấn mà được người ta khen là thánh, là vì Nghiêu biết nhường thiên hạ cho Thuấn, Thuấn biết nhường thiên hạ cho Vũ vậy. Khoái hỏi: - Làm sao Vũ lại truyền thiên hạ cho con? Lộc Mao Thọ nói: - Vũ không nhường thiên hạ cho Ích, nhưng khiến thay mình coi nom việc chính, mà chưa thường bỏ thái tử, cho nên sau khi Vũ mất, thái tử Khải liền cướp thiên hạ của Ích, vì vậy đến nay người ta bảo là Vũ đức kém, không bằng Nghiêu, Thuấn. Khoái nói: - Nay quả nhân muốn đem nước nhường cho Tử Chi, việc ấy có thể làm được không? Lộc Mao Thọ nói: - Vua nếu làm được, thì cũng như Nghiêu, Thuấn vậy. Khoái bèn họp cả quần thần, bỏ thái tử Bình mà truyền ngôi cho Tử Chi, Tử Chi giả cách từ chối hai ba lần rồi sau mới nhận, bèn làm lễ tế trời đất, đội mũ miện, mặc áo cổn, cầm ngọc khuê, ngoảnh mặt về phương Nam mà xưng làm vua, không hề có chút ngượng nghịu. Khoái lại hướng về phương Bắc chịu đứng vào hàng bày tôi, dọn ra ở một cái cung riêng. Tô Đại, Lộc Mao Thọ đều được làm chức thượng khanh. Tướng quân Thị Bị trong lòng tức giận quá, bèn đem quân bản bộ đến đánh Tử Chi, trăm họ cũng nhiều người theo, hai bên đánh nhau luôn mười ngày, giết hại vài vạn người, cuối cùng Thị Bị đánh thua, bị Tử Chi giết chết, Lộc Mao Thọ nói với Tử Chi rằng: - Thị Bị sở dĩ làm loạn, là vì có thái tử Bình ở đó. Tử Chi muốn bắt thái tử Bình, thái phó Quách Ngỗi cùng Bình đổi mặc quần áo người thường, cùng trốn đến núi Vô Chung lánh nạn, em Bình là Công tử Chức chạy sang Hàn, người trong nước ai nấy đều oán giận. Mân Vương nước Tề nghe nước Yên loạn, sai Khuông Chương mang 10 vạn quân đánh, người nước Yên vì căm giận Tử Chi quá, nên đều mang giỏ cơm bầu nước đi đón quân Tề, không có một người nào cầm khí giới chống lại. Khuông Chương kéo quân đến thẳng kinh đô nước Yên, trăm họ mở cửa thành đón vào, đồ đảng Tử Chi thấy quân Tề đông quá, đều sợ hãi tìm đường chạy trốn. Tử Chi cậy sức mạnh cùng Lộc Mao Thọ đem quân chống đánh ở đường lớn, quân lính tan dần, Lộc Mao Thọ bị giết chết, Tử Chi mình bị trọng thương còn đánh giết được hơn trăm người, sức kiệt mới bị bắt, còn Khoái tự thắt cổ chết ở cung riêng. Tô Đại chạy sang Chu, Khuông Chương hủy tôn miếu của nước Yên lấy hết cả của quí ở trong kho, bắt Tử Chi bỏ vào xe tù, cho giải trước về Lâm Tri dâng công, đất Yên hơn ba nghìn dặm, quá nửa thuộc về Tề, Khuông Chương đóng quân lại ở kinh đô Yên. Mân Vương nước Tề thân kể tội Tử Chi, lăng trì xử tử, lấy thịt làm mắm, cho khắp quần thần. Người nước yên dẫu căm giận Tử Chi, nhưng thấy vua Tề chí muốn diệt Yên nên không phục, bèn cùng đi tìm thái tử Bình, thấy ở núi Vô Chung, rước về làm vua gọi là Chiêu Vương, Quách Ngỗi làm tướng quốc. Bấy giờ Vũ Linh Vương nước Triệu căm giận Tề kiêm tính đất Yên, phái đại tướng Lạc Trì đón Công tử Chức ở Hàn, muốn rước về làm vua Yên, nhưng nghe thái tử Bình đã lập bèn thôi. Quách Ngỗi truyền tờ hịch khắp kinh đô nước Yên, bảo cho biết nghĩa khôi phục, các ấp đã hàng Tề đều phản Tề lại theo về với Yên. Khuông Chương không thể cấm chỉ được, bèn kéo quân về Tề. Chiêu Vương lại về kinh đô nước Yên, sửa sang tôn miếu, chí báo thù Tề, nhún mình đem nhiều tiền của để cầu hiền sĩ, bảo tướng quốc Quách Ngỗi rằng: - Sự xấu hổ của tiên vương, ta ngày đêm vẫn ghi nhớ ở trong lòng, nếu được hiền sĩ, có thể cùng mưu việc đánh Tề, thì ta xin hết lòng thờ, vậy tiên sinh nên vì ta chọn xem có người nào hiền. Quách Ngỗi nói: - Các vua đời xưa, có vua đem nghìn nén vàng sai tên môn dịch đi cầu con ngựa thiên lí, giữa đường gặp con ngựa chết, người chung quanh đều xúm lại xem mà than tiếc, tên môn dịch hỏi cớ gì, mọi người đáp rằng con ngựa ấy khi còn sống ngày đi nghìn dặm, nay nó chết, nên lấy làm tiếc. Tên môn dịch bèn bỏ ra năm trăm nén vàng mua lấy bộ xương, gói đội đem về. Vua giận nói rằng đó là bộ xương con ngựa chết còn dùng gì được mà bỏ nhiều tiền để mua. Tên môn dịch nói: Phải bỏ 500 nén vàng ra mua vì nó là con ngựa thiên lí. Việc lạ ấy đồn đi, ai nấy tất nói ngựa chết còn được món tiền to, nữa là ngựa sống, rồi tự nhiên có ngựa sống tìm đến bán, quả nhiên không đầy một năm mua được ba con ngựa thiên lí. Nay đại vương muốn cầu hiền sĩ thiên hạ, xin coi Ngỗi này là bộ xương ngựa chết, phương chi những người giỏi hơn Ngỗi này, tất ai cũng cầu giá đắt mà thi nhau đến. Chiêu Vương bèn xây nhà cho Quách Ngỗi ở, giữ lễ đệ tử, ngoảnh mặt về phía Bắc để nghe lời dạy bảo, thân cung ăn uống, rất mực cung kính, lại ở bên cạnh sông Dịch Thủy, xây một cái đài cao, chứa hoàng kim ở trên đài để cung hiền sĩ bốn phương, đặt tên là Chiêu Hiền Đài, cũng gọi là Hoàng Kim Đài. Rồi đó tiếng vua Yên trọng hiền đồn đi khắp nơi, Kịch Tân ở Triệu đến, Tô Đại ở Chu lại, Trâu Diễn ở Tề sang, Khuất Cảnh từ Vệ lại, Chiêu Vương đều cho làm khách khanh, cùng bàn việc nước. Lại nói Tề Mân Vương đã thắng Yên, oai danh chấn động khắp nơi, Huệ Văn Vương nước Tần lấy làm lo, Hoài Vương nước Sở lại làm tung ước trưởng, cùng Tề giao kết, đưa con sang làm tin. Vua Tần muốn lìa đảng Tần - Sở, triệu Trương Nghi hỏi kế, Nghi tâu rằng: - Tôi xin đem ba tấc lưỡi, đi sang nước Sở, thừa cơ tiến nói, khiến cho vua Sở phải tuyệt Tề mà thân Tần. Vua Tần liền cho Nghi đi, Nghi biết vua Sở có một người bày tôi yêu là Ngận Thượng hầu luôn bên mình, nói gì vua Sở cũng nghe, bèn đem nhiều vàng bạc kết giao với Thượng, rồi mới vào yết kiến Hoài Vương. Hoài Vương vốn trọng tiếng Trương Nghi, thân ra đón vào, cho ngồi mà hỏi rằng: - Tiên sinh hạ cố đến tệ ấp chẳng hay có điều gì muốn dạy bảo? Nghi nói: - Tôi lại đây, muốn hợp giao tình của hai nước Tần, Sở mà thôi. Hoài Vương nói: - Quả nhân nào phải không muốn kết giao với Tần đâu, chỉ vì Tần cứ lấn đánh mãi không thôi, nên không dám cầu thân vậy. Trương Nghi nói: - Trong thiên hạ ngày nay dẫu có bảy nước, nhưng gọi là nước lớn chỉ có Sở, Tề và Tần mà thôi. Tần đông họp với Tề thì Tề mạnh, nam hợp với Sở thì Sở mạnh, nhưng ý quả quân chỉ ở Sở mà không ở Tề, là cớ làm sao? Vì Tề là nước hôn nhân mà phụ Tần quá lắm. Quả quân muốn thờ đại vương, mà Nghi này cũng muốn được làm kẻ tôi đòi hèn hạ của đại vương, mà đại vương lại giao hiếu với Tề, thực là trái ý muốn của quả nhân. Nếu đại vương có thể đóng cửa mà tuyệt Tề, quả quân xin đem 600 dặm đất Thương Ô mà Thương Quân lấy của Sở trước kia, lại trả cho Sở, đem con gái Tần làm thiếp hầu hạ đại vương, Tần, Sở đời đời hôn nhân, để cùng chống chọi với chư hầu, xin đại vương nên nghe theo điều đó. Hoài Vương vui lòng lắm nói rằng: - Tần tự đem trả đất cũ của Sở, quả nhân còn tiếc gì Tề mà chẳng tuyệt. Quần thần đều cho là nước Sở lại lấy lại được đất cũ, đồng thanh chúc mừng, chỉ có một người đứng ra tâu rằng: - Không nên! Không nên! Cứ như ý tôi việc ấy đáng buồn chứ không đáng vui. Sở Hoài Vương nhìn xem là ai, tức là khách khanh Trần Chẩn, Hoài Vương nói: - Quả nhân không phí bỏ một tên quân, chỉ ngồi yên mà được sáu trăm dặm đất, làm sao nhà ngươi lại bảo là đáng buồn? Trần Chẩn nói: - Đại Vương cho là Trương Nghi có thể tin được chăng? Hoài Vương cười nói: - Làm sao lại không tin. Chẩn nói: - Tần phải trọng Sở là vì có Tề, nay nếu tuyệt Tề, thì Sở chỉ còn đứng một mình, nước Tần còn trọng gì cái nước đứng một mình mà cắt 600 dặm đất đem cho. Đó là quỉ kế của Trương Nghi, nếu nay tuyệt Tề, thì Trương Nghi sẽ phụ đại vương mà không cho đất, bấy giờ Tề lại oán đại vương mà quay theo Tần, Tề - Tần hợp lại mà đánh Sở, thì Sở tất mất, vì thế nên tôi nói là đáng buồn. Chi bằng đại vương trước hãy sai sứ sang Tần mà nhận đất, được đất rồi bấy giờ sẽ tuyệt Tề cũng chưa muộn. Đại phu là Khuất Bình nói rằng: - Trần Chẩn nói phải đấy, Trương Nghi là một đứa tiểu nhân phản phúc, quyết không nên tin. Ngân Thương nói: - Không tuyệt Tề đi thì khi nào Tần lại trả lại đất cho ta. Hoài Vương nói: - Chắc không khi nào Trương Nghi lại phụ quả nhân, Trần Tử im mồm đừng nói nữa, chờ xem quả nhân nhận đất. Rồi giao tướng ấn cho Trương Nghi, cho trăm dật hoàng kim, mười con ngựa tốt, sai thủ tướng ở Bắc Quan không được thông với Tề, một mặt sai Bàng Hầu Sửu theo Trương Nghi vào Tần nhận đất, Trương Nghi dọc đường cùng Hầu Sửu uống rượu nói chuyện, vui như anh em, khi gần đến Hàm Dương, giả làm say rượu, lỡ chân ngã xuống dưới xe, tả hữu vội đỡ dậy. Nghi nói: - Ta bị thương ống chân, kíp phải chữa ngay. Rồi sang cái xe đi vào thành trước, tâu lên vua Tần, lưu Hầu Sửu ở nhà quán dịch, còn Nghi đóng cửa dưỡng bệnh không vào triều. Hầu Sửu cầu vào yết kiến vua Tần không được, đến thăm Trương Nghi thì bị từ chối nói là chưa khỏi bệnh, cứ như thế đến ba tháng, Sửu bèn dâng thư lên vua Tần, thuật lời Trương Nghi hứa cho đất. Vua Tần đáp thư nói rằng: "Nếu Nghi đã có ước, thì quả nhân tất phải làm theo như lời, nhưng nghe nói Sở và Tề vẫn chưa quyết tuyệt, quả nhân sợ bị Sở lừa, tất phải đợi Trương Nghi khỏi dậy nói rõ đầu đuôi, mới có thể tin được". Hầu Sửu đi lại mãi nhà Trương Nghi mà Nghi vẫn không ra mặt, bèn sai người đem lời nói của vua Tần về báo vua Sở. Vua Sở nói: - Tần còn bảo Sở chưa tuyệt hẳn Tề ư? Bèn sai dũng sĩ Tống Di mượn đường nước Tống, lại mượn binh phù của Tống, thẳng đến bờ cõi nước Tề, nhục mắng Mân Vương. Mân Vương cả giận, bèn sai sứ sang Tần xin cùng Tần hợp binh đánh Sở. Trương Nghi nghe sứ Tề đến, cho là kế đã thành, bèn nói là bệnh khỏi, vào triều gặp Hầu Sửu ở cửa triều, cố ý lấy làm lạ hỏi: - Tướng quân sao chưa nhận đất mà vẫn còn lẩn quẩn ở đây? Sửu nói: - Vua Tần chỉ đợi tướng quốc mới quyết định, nay may tướng quốc đã khỏi, xin vào nói với đại vương, sớm định địa giới, cho tôi được về phúc mệnh quả quân. Trương Nghi nói: - Việc ấy cần gì phải nói với vua Tần. Nghi này nói là sáu dặm đất ấp ăn lộc riêng của Nghi, tình nguyện đem dâng cho vua Sở đó thôi. Sửu nói: - Tôi vâng mệnh quả quân, nói là 600 dặm đất Thương Ô kia, chứ chưa nghe nói sáu dặm đất ấy. Nghi nói: - Có lẽ là vua Sở nghe lầm chăng? Đất của Tần đều là nhờ trăm trận đánh mới được, một thước một tấc đất chưa dễ đã đem cho người, phương chi những 600 dặm. Sửu lập tức về báo vua Sở, vua Sở cả giận nói rằng: - Trương Nghi quả là đứa tiểu nhân phản phúc, ta bắt được, tất phải giết chết ăn thịt nó mới hả lòng. Bèn truyền chỉ đem quân đánh Tần, khách khanh là Trần Chẩn nói: - Ngày nay tôi có thể mở mồm nói được không? Hoài Vương nói: - Quả nhân không nghe lời nói của tiên sinh, nên bị tên giảo tặc đánh lừa, vậy ngày nay tiên sinh còn có diệu kế gì? Trần Chẩn nói: - Nay đại vương đã không được nước Tề giúp sức nữa, mà lại đánh Tần, thì e không lợi, chi bằng cắt hai thành để đút cho Tần, hợp binh đánh Tề thì dù có mất đất với Tần, còn có thể lấy đền ở Tề được. Hoài Vương nói: - Lừa dối Sở là Tần, chứ Tề có tội gì, hợp quân mà đánh Tề, người sẽ cười ta. Rồi lập tức cử Khuất Cái làm đại tướng, Bàng Hầu Sửu làm phó, đem 10 vạn quân đi đánh Tần. Vua Tần sai Ngụy Chương làm tướng, Cam Mậu làm phó, đem 10 vạn quân chống đánh; lại sai người sang Tề trưng binh, tướng Tề là Khuông Chương cũng mang quân trợ chiến. Khuất Cái dẫu khỏe, nhưng không địch lại được quân hai nước, đánh luôn mấy trận đều thua. Quân Tần - Tề đuổi theo đến Đan Dương, Khuất Cái họp tàn quân lại đánh, bị Cam Mậu chém chết, quân lính bị giết hơn tám vạn người, danh tướng là bọn Bàng Hầu Sửu bị chết trận hơn 70 người, sáu trăm dặm đất Hán Trung đều bị mất hết. Nghe tin ấy cả nước Sở đều chấn động. Hàn, Ngụy nghe Sở thua, cũng mưu đánh Sở. Vua Sở cả sợ, bèn sai Khuất Bình sang Tề tạ tội, sai Trần Chẩn sang quân Tần dâng hai thành để cầu hòa. Ngụy Chương sai người về thỉnh mệnh vua Tần, vua Tần nói muốn được đất Kiềm Trung, xin đem đất Thương Ô đổi, nếu Sở bằng lòng mới có thể bãi binh được. Ngụy Chương đem lời vua Tần nói cho vua Sở biết, vua Sở nói: - Quả nhân không muốn được đất, chỉ muốn được Trương Nghi để giết chết mới hả lòng, nếu thượng quốc đem Trương Nghi giao cho Sở, thì quả nhân tình nguyện dâng đất Kiềm Trung để tạ ơn. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 92 Cậy sức khỏe vua Tần gãy chân Mắc mưu lừa vua Sở chạy trốn Bấm để xem Lại nói vua Sở căm giận Trương Nghi lừa dối, xin dâng đất Kiềm Trung chỉ đổi lấy một mình Trương Nghi, các người cận thần ghen ghét Trương Nghi đều nói đem một người mà đổi được vài trăm dặm đất, còn lợi gì bằng. Vua Tần nói: - Trương Nghi là người bầy tôi chân tay của ta; ta thà chẳng được đất, chứ không chịu bỏ Trương Nghi. Nghi tự xin vua Tần cho mình đi, vua Tần nói: - Vua Sở đang căm giận đợi tiên sinh, nếu đi thì tất bị giết, cho nên quả nhân không nỡ để cho tiên sinh đi. Nghi nói: - Giết một thằng tôi mà nước Tần được cả đất Kiềm Trung, thì tôi dẫu chết cũng được vẻ vang, phương chi chưa hẳn là đã bị chết mà sợ. Vua Tần nói: - Tiên sinh có kế gì tự thoát, thử nói rõ cho quả nhân nghe nào. Nghi nói: - Vua Sở có vị phu nhân tên là Trịnh Tụ đẹp mà khôn, được vua yêu quí, trước kia khi tôi ở Sở, nghe vua Sở mới yêu một vị mỹ nhân khác, Trịnh Tụ bảo vị mỹ nhân ấy rằng: Đại vương rất ghét người thở hơi vào mình, nếu khi hầu vua thì phải giữ ý bịt mũi lại. Vị mỹ nhân tin theo như lời, vua Sở hỏi nàng Trịnh Tụ rằng: - Mỹ nhân hễ trông thấy quả nhân là bịt mũi là cớ làm sao. Trịnh Tụ nói: - Đó là nó sợ đại vương thân thể hôi hám, cho nên bịt mũi để khỏi hít phải. Vua Sở giận quá, sai xẻo mũi của vị mỹ nhân đi. Trịnh Tụ từ đó lại càng được vua Sở yêu quí. Lại có người bầy tôi yêu tên là Ngận Thượng, nịnh thờ Trịnh Tụ, trong ngoài thông đồng, mà hạ thần lại có quen Ngận Thượng, hạ thần chắc hắn có thể che đậy cho không đến nỗi chết. Đại vương chỉ hạ lệnh cho Ngụy Chương đóng quân ở Hán Trung, làm thế tiến thủ, vua Sở tất không dám giết hạ thần. Vua Tần bèn cho Nghi đi, Nghi đã đến nước Sở, Hoài Vương sai bắt giam lại, chọn ngày làm lễ cáo nhà thái miếu rồi sau sẽ giết. Trương Nghi ngầm sai người đem lễ đến lót với Ngận Thượng. Ngận Thượng vào nói với Trịnh Tụ rằng: - Phu nhân sẽ không giữ lòng yêu của đại vương được trọn đời, nhưng biết làm thế nào! Trịnh Tụ hỏi cớ gì, Ngận Thượng nói: - Tần không biết là vua Sở giận Trương Nghi, cho nên sai sang sứ Sở, nay nghe vua Sở muốn giết Nghi, Tần sẽ trả đất lấn của Sở và gả con gái cho vua Sở, dùng những gái đẹp hát hay làm hầu để chuộc tội cho Trương Nghi. Con gái Tần đến, vua Sở tất là yêu quí, phu nhân dù muốn chuyên giữ lòng yêu, còn được nữa chăng. Trịnh Tụ cả sợ hỏi rằng: - Nhà ngươi có kế gì, có thể ngăn được việc ấy. Ngận Thượng nói: - Phu nhân cứ làm như không biết chuyện ấy đem các điều lợi hại nói với đại vương, tha cho Trương Nghi về Tần. Trịnh Tụ theo lời, đến nửa đêm bỗng khóc lóc nói với vua Sở rằng: - Đại vương đem đất đổi Trương Nghi, đất chưa vào Tần mà Nghi đã đến, đó là Tần có lễ với đại vương vậy. Quân Tần chỉ đánh một trận mà lấy được cả đất Hán Trung, có thể nuốt Sở. Nếu giết Trương Nghi để chọc tức Tần, tất Tần sẽ đem thêm quân đánh Sở, vợ chồng ta sẽ không còn giữ được nhau nữa, nghĩ vậy nên thiếp lòng đau như cắt, ăn uống không biết ngon đã mấy hôm nay rồi. Vả kẻ làm tôi phải vì chủ mình. Trương Nghi là bậc chí sĩ thiên hạ, làm tướng nước Tần đã lâu, thì phải mưu ích lợi cho Tần, đó là lẽ tất nhiên, có lấy chi làm lạ. Đại vương nếu hậu đãi Nghi, thì Nghi sẽ thờ Sở cũng như thờ Tần vậy. Hoài Vương nói: - Phu nhân chớ lo, việc đó để quả nhân liệu định. Ngận Thượng lại nhân dịp nói rằng: - Giết Trương Nghi có hại gì cho Tần mà lại mất vài trăm dặm đất Kiềm Trung. Chi bằng tha Nghi để làm đất hòa với Tần. Ý Hoài Vương cũng tiếc đất Kiềm Trung không muốn đem cho Tần, bèn tha Nghi ra và đối đãi rất hậu. Trương Nghi lại bảo Hoài Vương về cái lợi thờ Tần. Hoài Vương liền sai Trương Nghi về Tần để nối tình giao hiếu hai nước. Khuất Bình đi sứ Tề về, nghe nói Trương Nghi đã đi rồi, bèn can rằng: - Trước kia đại vương bị Nghi lừa dối; Nghi đến, tôi chắc đại vương sẽ giết chết, nay đã tha giết, lại nghe nó nói bậy, tự mình thờ Tần trước. Kẻ thất phu còn không quên cựu thù nữa là vua, chưa mua chuộc được lòng Tần mà đã động lòng công phản cả thiên hạ, đó thực là một sự không hay. Hoài Vương lấy làm hối lắm, sai người đuổi theo bắt lại, thì Trương Nghi đi gấp đường ra khỏi đất Sở đã hai ngày rồi. Trương Nghi đã về Tần, Ngụy Chương cũng rút quân về, Trương Nghi bảo vua Tần rằng: - Nghi này muôn chết một sống, lại được thấy mặt đại vương. Vua Sở thực sợ Tần lắm, nhưng xin chớ để hạ thần thất tín với Sở, nếu đại vương chịu cắt một nửa đất Hán Trung để báo ơn Sở, cùng làm hôn nhân, hạ thần xin lấy Sở làm cớ, đi bảo sáu nước cùng liên hợp thờ Tần. Vua Tần bằng lòng, bèn cắt năm huyện Hán Trung sai người sang Sở thông hiếu, và xin lấy con gái Hoài Vương làm vợ thái tử Đãng, lại đem con gái gả cho con trai bé Hoài Vương là Lan. Hoài Vương cả mừng cho rằng Trương Nghi quả không lừa dối Sở. Vua Tần nghĩ đến công lao của Nghi, phong cho năm ấp gọi là Vũ Tín Quân, lại cho vàng ngọc, xe ngựa, khiến đem thuật liên hoành đi du thuyết các nước. Trương Nghi lần lượt đi đến các nước Tề, Triệu, Yên, đến nước nào cũng khéo đem các điều lợi hại thiết thân của nước ấy mà bày tỏ rõ ràng, rồi nói nên thờ Tần là có lợi. Vua các nước ấy đều vui lòng nghe theo, hậu đãi Nghi và đều cắt đất dâng Tần để cầu hòa. Thuyết liên hoành của Nghi đã thành công, Nghi liền trở về báo mệnh, chưa đến Hàm Dương thì Huệ Văn Vương đã chết, con là thái tử Đãng lên ngôi, đó là Vũ Vương. Tề Mân Vương lúc đầu nghe lời Trương Nghi, cho rằng Hàn, Triệu, Ngụy đã cắt đất thờ Tần, cho nên không dám tự mình làm khác, rồi nghe sau khi Nghi đến bảo Tề mới đến nước Triệu, cho là Nghi nói dối, giận quá. Lại nghe Huệ Văn Vương mất, bèn sai Mạnh Thường Quân gửi thư cho các nước, ước với các nước cùng phản Tần lại làm hợp tung, ngờ Sở đã kết hôn với Tần, sợ Sở không theo, muốn đem quân đánh. Vua Sở phải sai thái tử Hoành sang làm con tin ở Tề, quân Tề mới thôi. Mân Vương từ khi làm tung ước trưởng, liên kết chư hầu, ước nước nào bắt được Trương Nghi thì thưởng cho 10 thành. Vũ Vương nước Tần tính người thô trực, từ khi làm thái tử vốn ghét Trương Nghi là người trí trá, quần thần trước kia ghen ghét Nghi, bấy giờ lại hùa nhau mà gièm pha. Nghi sợ bị tai vạ, bèn vào nói với Vũ Vương rằng: - Tôi xin hiến một kế ngu này. Vũ Vương hỏi kế gì. Nghi nói: - Vua Tề rất ghét Nghi, Nghi ở đâu tất đem quân đánh. Nghi xin từ đại vương đi sang Đại Lương, Tề tất phải đánh Lương. Lương Tề đánh nhau mãi không thôi, đại vương sẽ nhân dịp ấy mà đánh Hàn, thông Tam Xuyên để dòm nhà Chu, đó là cái bước làm nên nghiệp vương vậy. Vũ Vương lấy làm phải, bèn cho Nghi đi sang nước Lương, vua Lương dùng làm tướng quốc, vua Tề nghe tin cả giận, sắp quân đánh Lương. Vua Lương sợ quá, bàn với Trương Nghi, Nghi bèn sai xá nhân là Phùng Hỉ, giả là người Sở, vào yết kiến vua Tề nói rằng: - Nghe nói đại vương rất ghét Trương Nghi phải không? Vua Tề nói: - Phải. Phùng Hỉ nói: - Đại vương nếu ghét Nghi xin chớ đánh Ngụy, tôi vừa ở Hàm Dương đến nghe nói khi Nghi ở Tần ra đi, có nói vua Tề ghét Nghi ở đâu tất đem quân đánh đó, cho nên vua Tần dùng 30 cỗ xe đưa Nghi sang Lương, muốn khêu gợi cho Tề, Lương đánh nhau. Tề, Lương đánh nhau mãi không thôi, Tần nhân dịp ấy mà chuyên mưu ở mặt Bắc. Vua nay đánh Ngụy, tất trúng kế Nghi, chi bằng vua đừng đánh, để cho Tần không tin Nghi nữa, Nghi dẫu ở Ngụy cũng không làm gì được. Vua Tề bèn thôi đánh Lương, vua Lương càng hậu đãi Nghi, được hơn một năm, Nghi ốm chết ở nước Lương. Lại nói Tần Vũ Vương cao lớn có sức khỏe, hay cùng võ sĩ đấu sức làm vui. Ô Hoạch và Nhâm Bỉ, từ đời trước đã làm tướng Tần, Vũ Vương lại càng tin dùng, cấp thêm cho bổng lộc. Người nước Tề là Mạnh Bôn, nổi tiếng là người có sức khỏe, đi dưới nước không sợ giao long, đi trên cạn không sợ hổ báo, nổi giận thở hơi tiếng vang động trời, thường ra ngoài đồng thấy hai con trâu đánh nhau, Mạnh Bôn len vào giữa lấy tay du ra, một con phục xuống đất, một con xông vào húc mãi. Bôn giận, tay tả nắm đầu trâu, tay hữu vỗ sừng, sừng tụt ra con trâu chết liền, ai nấy đều khiếp sợ cái sức khỏe lạ thường ấy, không dám chống lại. Bôn nghe vua Tần chiêu mộ những dũng sĩ trong thiên hạ, bèn qua sông Hoàng Hà, người ở trên bờ đợi sang đò rất đông, theo lệ phải lần lượt lên thuyền, Bôn đến sau cùng lại muốn lên trước, người lái đò giận là hỗn láo, cầm mái chèo đánh vào đầu bảo rằng: - Ngươi dám hung hăng như thế, có lẽ là Mạnh Bôn chăng? Bôn trợn mắt nhìn, tóc dựng ngược, quầng mắt rách, hét lên một tiếng, sóng gió nổi lên ầm ầm, người trong thuyền sợ hãi đều ngã lổng chổng xuống sông. Bôn chống bơi chèo rún chân, đẩy một cái, thuyền đi xa đến vài trượng, một lát đến bờ, rồi đi thẳng đến Hàm Dương, vào yết kiến Vũ Vương. Vũ Vương thử biết là người khỏe, cũng cho làm quan lớn, cùng Ô Hoạch, Nhâm Bỉ đều được tin dùng. Vũ Vương nước Tần nghĩ rằng sáu nước đều đặt chức tướng quốc, không muốn giống các nước ấy, bèn riêng đặt ra chức thừa tướng, tả một người, hữu một người, Cam Mậu làm tả thừa tướng, Vu Lý Tật làm hữu thừa tướng. Vũ Vương nhớ lời Trương Nghi, bèn bảo hai thừa tướng rằng: - Quả nhân sinh ở Tây Nhung, chưa được thấy cảnh phồn thịnh ở trung nguyên, nếu được qua Tam Xuyên, đến chơi Củng Lạc, dù chết cũng không oán giận, hai ngươi ai có thể vì quả nhân đi đánh Hàn không? Vu Lí Tật nói: - Vua muốn đánh Hàn là muốn đánh Nghi Dương, để thông đường Tam Xuyên. Nghi Dương đường hiểm mà xa, nhọc quân bại của, hai nước Lương, Triệu sẽ đem quân cứu Hàn, hạ thần trộm lấy làm không nên. Vũ Vương hỏi Cam Mậu, Mậu nói: - Tôi xin vì vua sang sứ nước Lương, ước cùng đánh Hàn. Vũ Vương cả mừng, cho Cam Mậu sang Lương, vua Lương hứa giúp quân. Cam Mậu lúc đầu cùng Vu Lí Tật trái ý nhau, sợ Tật ở trong ngăn trở, trước sai phó sứ là Hướng Thọ về báo vua Tần, nói là Lương đã bằng lòng, nhưng xin vua chớ đánh Hàn. Vua Tần nghe nói lấy làm ngờ lắm, bèn thân đi đón Cam Mậu, hỏi rằng: - Thừa tướng hứa vì quả nhân hẹn Lương đánh Hàn, nay vua Lương đã bằng lòng, thừa tướng lại bảo không nên đánh Hàn, là cớ làm sao? Cam Mậu nói: - Vượt qua đường hiểm trở nghìn dặm để đánh Hàn, sự đó không thể lấy năm tháng mà tính được. Xưa kia ông Tăng Sâm ở ấp Phí, một người ở đó cùng họ tên với ông phạm tội giết người, có người chạy đến bảo bà mẹ ông rằng: Tăng Sâm giết người. Bà mẹ đang dệt cửi nói rằng: "Con ta không bao giờ giết người", rồi lại cứ dệt vải như thường; không bao lâu lại có một người chạy đến bảo rằng: "Tăng Sâm giết người", bà mẹ dừng thoi lại nghĩ rằng: "Con ta tất không làm việc ấy", rồi lại cứ cắm đầu dệt vải; một lát có một người đến bảo rằng: "Kẻ giết người quả là Tăng Sâm", bấy giờ bà mẹ mới bỏ thoi, qua tường chạy trốn. Cái đức hiền của ông Tăng Sâm, bà mẹ đã tin lắm, nhưng ba người đều nói là ông giết người mà bà mẹ hiền cũng đem lòng ngờ. Nay đức hiền của hạ thần không bằng Tăng Sâm, mà đại vương tin tôi chưa hẳn được như lòng bà mẹ ông Tăng Sâm tin con, mà kẻ gièm pha giết người, chẳng phải chỉ có ba người, tôi e đại vương rồi cũng đến phải nghe lời vậy. Vũ Vương nói: - Quả nhân không nghe lời ai cả, xin cùng nhà ngươi thề. Rồi vua tôi cùng uống máu ăn thề, viết bản lời thề ở Tức Nhưỡng, phát năm vạn quân, sai Cam Mậu làm đại tướng. Hướng Thọ làm phó, kéo quân đến thành Nghi Dương vây suốt năm tháng trời. Tướng giữ thành ấy ra sức cố giữ không sao phá được. Vu Lí Tật nói với Vũ Vương rằng: - Quân Tần vây mãi sinh chán nản, nếu không rút về e có biến. Vũ Vương triệu Cam Mậu rút quân về. Cam Mậu bèn làm một phong thư để tạ Vũ Vương, Vũ Vương mở ra xem, trong thư chỉ thấy viết hai chữ "Tức Nhưỡng". Vũ Vương nghĩ ra nói rằng: - Điều này Cam Mậu trước đã nói với ta, thực là cái lỗi của quả nhân. Lại cấp thêm năm vạn quân, sai Ô Hoạch đi giúp Cam Mậu. Vua Hàn cũng sai tướng Công tôn Anh mang quân cứu Nghi Dương, đại chiến ở dưới thành. Ô Hoạch mang một đôi kích sắt, nặng 180 cân, một mình xông vào quân Hàn, quân lính đều tan chạy, không ai dám chống đánh. Cam Mậu và Hướng Thọ đều dẫn một đạo quân, thừa thế cùng tiến đánh tan quân Hàn, chém được hơn bảy vạn thủ cấp. Ô Hoạch một mình trèo lên thành, tay vịn bờ thành, bờ lở, Hoạch ngã rơi vào đống đá gãy xương sườn mà chết. Quân Tần lấy được thành Nghi Dương. Vua Hàn sợ, sai tướng quân Công tôn Xỉ đem bảo khí sang Tần cầu hòa. Vua Tần cả mừng, triệu Cam Mậu rút quân, lưu Hướng Thọ đóng quân lại ở Nghi Dương. Vua Tần lại sai hữu thừa tướng và Vu Lí Tật đi trước đến Tam Xuyên mở đường, theo sau có bọn dũng sĩ là Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn, thẳng vào Lạc Dương. Noãn Vương nhà Chu sai sứ cử ra đón tại bên ngoài thành, dùng lễ khách chủ. Tần Vũ Vương từ tạ không dám tiếp kiến, biết chín cái đỉnh để ở nhà cạnh trong thái miếu, bèn đi đến xem, thấy chín cái đỉnh quí bày hàng chữ nhất rất chỉnh tề. Chín cái đỉnh ấy khi xưa vua Vũ lấy vàng cống của chín châu mà đúc nên, thêm ngoài mỗi cái thân đỉnh có chép núi sông nhân vật và số cống phú điền thổ của mỗi châu, tai vạc đều có vẽ rồng, nên lại gọi là Cửu Long thần đỉnh. Hạ truyền cho Thương làm của quí trấn quốc, đến khi vua Vũ Vương nhà Chu đánh được nhà Thương, bèn đem về cả Lạc Ấp, khi đem đi dùng phu phen dắt kéo, xe thuyền khuân chở, trông như chín tòa núi sắt nhỏ, không biết mỗi cái sức nặng là bao nhiêu. Vũ Vương xem khắp một lượt, khen ngợi mãi không thôi. Tại sườn những cái đỉnh có khắc tên chín châu: Kinh, Lương, Ung, Đại, Từ, Dương, Thanh, Duyện, Ký để phân biệt đỉnh nào thuộc về châu nào, Vũ Vương chỉ cái đỉnh chữ Ung nói rằng: - Cái đỉnh này là đỉnh nước Tần, quả nhân sẽ mang về Hàm Dương. Rồi hỏi viên lại giữ đỉnh rằng: - Những cái đỉnh này đã có người nào mang nổi không? Viên lại dập đầu thưa rằng: - Từ khi có đỉnh đến giờ chưa hề có xê xích, nghe nói mỗi cái nặng đến nghìn cân, chẳng ai là người mang nổi được. Vũ Vương liền hỏi Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn rằng: - Hai người có sức khỏe, có thể cất nổi cái đỉnh này không? Nhâm Bỉ biết Vũ Vương cậy khỏe hiếu thắng, từ rằng: - Sức hạ thần chỉ có thể mang nổi một trăm cân, cái đỉnh này nặng gấp mười, hạ thần chịu không mang được. Mạnh Bôn vung tay chạy lên nói rằng: - Hạ thần xin thử xem, nếu không mang nổi, xin đừng bắt tội. Nói rồi, sai các người tả hữu lấy tơ xanh vặn làm một cái dây to, buộc hai đầu dây vào hai tai vạc. Mạnh Bôn thắt lưng chặt chẽ, vén hai tay áo, rồi luồn hai cánh tay sắt vào giữa dây, hét lên một tiếng, nâng cao thân đỉnh lên khỏi mặt đất được nửa thước, rồi lại đặt xuống nhưng vì dùng sức quá mạnh, hai con ngươi lồi lên, máu mắt chảy ra ròng ròng, Vũ Vương cười nói rằng: - Nhà ngươi dùng sức quá, nhưng nhà ngươi đã mang nổi được cái đỉnh ấy, khi nào quả nhân lại chịu kém. Nhâm Bỉ can rằng: - Đại vương là bậc tôn quí, không nên khinh thị. Vũ Vương không nghe liền cởi phăng cẩm bào ngọc đái ra, nai nịt gọn gàng, lại dùng cái giải to buộc chặt tay áo. Nhâm Bỉ níu lại cố can, Vũ Vương nói: - Sức ngươi không mang được, lại ghen với quả nhân. Nhâm Bỉ không dám nói nữa. Vũ Vương hăng hái bước lên, luồn hai tay vào dây, nghĩ Mạnh Bôn cất lên được, ta cất lên mà đi được vài bước, mới là giỏi hơn, bèn lấy hết sức bình sinh, hực một tiếng, cái đỉnh cũng cất lên cách mặt đất được nửa thước, vừa chực bước đi, không ngờ sức kiệt lỡ tay, cái đỉnh rơi xuống đất, đè lên chân phải Vũ Vương, rắc rắc mấy tiếng, ống chân giập hết ra. Vũ Vương kêu to một tiếng "đau quá" rồi ngất đi. Các người ta hữu hoảng sợ vực Vũ Vương về công quán, máu chảy đầm đìa ướt cả giường chiếu, đau quá không chịu nổi đến nửa đêm thì mất. Vũ Vương tự nói được đến chơi Củng, Lạc dẫu chết cũng không hối hận, ngày nay quả chết ở Lạc Dương, lời nói ấy há chẳng phải là lời sấm ư? Chu Noãn Vương nghe biết cả sợ, vội sắp sửa một cỗ quan tốt, thân đến coi liệm, khóc than hết lễ, Vu Lí Tật rước tang Vũ Vương về Tần. Vũ Vương không con, đón người em khác mẹ là Tắc nối ngôi, đó là Chiêu Tương Vương. Vu Lí Tật trị cái tội mang đỉnh, giết Mạnh Bôn và giết cả họ, cho Nhâm Bỉ là người biết can vua, dùng làm thái thú Hán Trung. Tật lại tuyên ngôn ở triều rằng: "Thông Tam Xuyên là cái mưu của Cam Mậu bày ra". Cam Mậu sợ bị Tật làm hại, bèn chạy sang Ngụy, sau chết ở Ngụy. Lại nói Chiêu Tương Vương nước Tần nghe Sở khiến con tin sang Tề, ngờ là phản Tần theo Tề, bèn sai Vu Lí Tật làm đại tướng, đem quân đánh Sở. Sở sai đại tướng là Cảnh Xương đón đánh, quân thua bị giết. Sở Hoài Vương sợ, Chiêu Tương Vương bèn sai sứ đưa thư cho Hoài Vương, đại ý nói rằng: "Trước đây quả nhân cùng vua kết làm anh em, lại kết làm hôn nhân, thân nhau đã lâu. Vua bỏ quả nhân mà nộp con tin sang Tề, quả nhân thực căm giận quá, vì vậy phải lấn biên cảnh của vua, nhưng đó thực không phải là ý muốn của quả nhân. Nay nước lớn trong thiên hạ chỉ có Sở cùng Tần, hai ta không hòa thì sao sai bảo được chư hầu. Quả nhân xin cùng vua họp ở Vũ Quan, cùng nhau đính ước, ăn thề rồi về, giả đất lấn của vua, nối lại tình giao hiếu trước. Điều đó xin vua nhận cho, nếu vua không theo thì rõ ràng là tuyệt quả nhân, quả nhân không thể lui quân được vậy". Hoài Vương xem xong, liền họp quần thần lại bàn rằng: - Nếu quả nhân không đi thì chọc tức Tần, mà nếu đi thì sợ bị Tần lừa, vậy nên đi hay không nên đi? Khuất Nguyên nói: - Tần là nước hổ lang, Sở bị Tần lừa không chỉ một hai lần, nếu vua đi tất không về được. Tướng quốc Chiêu Chuy cũng nói: - Khuất Nguyên nói phải đấy, vua chớ nên đi, xin lập tức phát binh tự giữ đề phòng quân Tần đến. Ngận Thượng nói: - Không phải, Sở vì không địch nổi Tần, cho nên quân thua tướng chết, đất cát mất dần, nay đang kết hiếu mà lại chống cự, nếu vua Tần giận, lại đem thêm quân đánh Sở, thì làm thế nào. Con Hoài Vương là Tử Lan, lấy con gái nước Tần làm vợ, cho là việc hôn nhân có thể cậy được, cố khuyên vua đi, nói rằng: - Con gái Tần, Sở gả bán lẫn cho nhau, còn gì thân hơn thế nữa, nếu họ đem quân đến, còn nên xin hòa, phương chi họ lại vui lòng mời đến hội diện ư? Ngận Thượng nói phải lắm, vua nên nghe. Hoài Vương vì quân Sở mới thua, lòng vốn sợ Tần, lại bị Ngận Thượng và Tử Lan thúc giục, bèn nhận lời mời của Tần, chọn ngày khởi hành, chỉ có Ngận Thượng đi theo. Tần Chiêu Vương sai em là Kinh Dương Quân, đi xe vua, dùng áo mũ vua và lính thị vệ giả làm vua Tần ở Vũ Quan, sai tướng quân Bạch Khởi dẫn một vạn quân phục ở trong cửa quan để cướp vua Sở, lại sai tướng quân Mông Vụ dẫn một vạn quân phục ở ngoài cửa quan đề phòng sự phi thường. Một mặt sai sứ giả đi đón Sở Vương, kẻ đi người lại tấp nập, vua Sở tin lòng, không còn ngờ gì nữa, bèn đi thẳng đến dưới Vũ Quan, thấy cửa quan mở tung, sứ Tần lại ra đón nói rằng: - Quả nhân đợi đại vương ở trong cửa quan đã ba ngày nay, vậy xin kính mời đại vương đi vào trong quán xá. Hoài Vương đã vào đất Tần, thế không thể từ chối được nữa, bèn theo sứ giả vào cửa quan. Hoài Vương vừa vào khỏi, thì một tiếng súng to nổ lên, cửa quan đã đóng chặt, Hoài Vương lấy làm ngờ hỏi sứ giả rằng: - Làm sao lại đóng cửa gấp thế? Sứ giả đáp: - Đó là phép nước Tần, khi có chiến tranh, cần phải như thế. Hoài Vương hỏi: - Vua Tần ở đâu? Sứ giả nói: - Hiện đã đến công quán trước để chực đón. Nói xong, liền giục xe đi nhanh, được chừng hơn hai dặm, trông thấy đội thị vệ của vua Tần bày hàng ở trước công quán, sứ giả sai dừng xe lại, thấy một người chạy ra đón. Hoài Vương nhìn xem dẫu mặc áo gấm thắt đai ngọc, nhưng cử động không giống vua Tần. Hoài Vương trù trừ chưa chịu xuống xe, người ấy cúi mình nói rằng: - Xin đại vương chớ ngờ, tôi thực không phải vua Tần, chính là vương đệ Kinh Dương Quân vậy, mời đại vương vào trong quán xá nói chuyện. Hoài Vương đành phải đi vào. Kinh Dương Quân cùng Hoài Vương làm lễ tương kiến. Vừa mới ngồi xuống, bỗng thấy bên ngoài có tiếng reo hò, hơn vạn quân Tần bổ vây công quán. Hoài Vương nói: - Quả nhân đến hội với vua Tần, làm sao lại đem binh uy để dọa nạt nhau? Kinh Dương Quân nói: - Không hề chi, quả quân vừa hơi khó ở, không thể đi ra khỏi cửa được, lại sợ thất tín với đại vương cho nên sai tôi đi đón đại vương, xin hạ giá đến Hàm Dương cùng quả quân hội kiến, có kén một ít quân lính làm thị vệ, đại vương chớ chối từ. Bấy giờ Hoài Vương không thể tự chủ được nữa, bị Kinh Dương Quân đẩy lên xe. Mông Vụ đóng quân ở lại giữ cửa quan, còn Bạch Khởi đem quân đi hộ vệ, nhằm thẳng phía Tây đi về Hàm Dương. Ngận Thượng trốn về nước Sở. Hoài Vương phàn nàn không nghe lời nói của Chiêu Chuy và Khuất Bình, bị Ngận Thượng xui dại, chảy nước mắt thương khóc mãi không thôi. Hoài Vương đã đến Hàm Dương, Chiêu Tương Vương họp cả quần thần và sứ giả chư hầu ở trên Chương Đài, rồi ngồi trên hướng về phía Nam, sai Hoài Vương hướng về phía Bắc làm lễ bái yết như lễ phiên thần. Hoài Vương cả giận, nói to lên rằng: - Quả nhân tin ở cái tình thân hôn nhân, khinh thân đến hội, nay đại vương nói dối có bệnh, dụ quả nhân đến Hàm Dương này, lại không lấy lễ tiếp đãi nhau là ý làm sao? Chiêu Tương Vương nói: - Trước kia vua hứa cho quả nhân đất Kiềm Trung, rồi thì không cho, ngày nay mời vua hạ cố đến đây là muốn theo như lời đã hứa đó, nếu vua sớm cho cắt đất, thì chiều sẽ cho đưa vua về Sở. Hoài Vương nói: - Tần nếu muốn được đất, thì cũng nên nói tử tế, hà tất phải lập kế lừa dối như thế này. Chiêu Tương Vương nói: - Nếu không làm thế, tất vua không theo. Hoài Vương nói: - Quả nhân xin cắt đất Kiềm Trung, cùng đại vương ăn thề, xin cho một viên tướng quân theo quả nhân đến Sở nhận đất, có nên chăng? Chiêu Tương Vương nói: - Lời thề không thể tin được, tất phải sai sứ về Sở trước, đem địa giới giao cắt phân minh mới có thể tiễn vua về được. Quần thần nước Tần cũng đều đến khuyên Hoài Vương, Hoài Vương càng giận nói rằng: - Ngươi lừa dối ta đến đây, lại bắt ép ta phải cắt đất, ta chết thì chết, chứ không chịu ngươi uy hiếp như thế được. Chiêu Tương Vương bèn giữ Hoài Vương ở lại trong thành Hàm Dương không cho về nước. Lại nói Ngận Thượng trốn về Sở báo cho Chiêu Chuy biết rõ sự tình, Chiêu Chuy nói: - Vua ta ở Tần không được về, mà thái tử lại làm tin ở Tề, nếu người Tề lại cùng Tần họp mưu mà giữ thái tử lại thì nước Sở không có vua. Ngận Thượng nói: - Công tử Lan hiện ở nước sao không lập lên. Chiêu Chuy nói: - Ngôi thái tử lập đã lâu, nay vua còn ở Tần mà dám trái mệnh bỏ con cả lập con thứ, mai sau may ra vua trở về nước thì biết nói làm sao? Nay ta giả cách sang Tề cáo phó, để đón thái tử, Tề tất tin theo. Ngận Thượng nói: - Tôi đã không thể vì vua chống nạn, vậy việc ấy để tôi xin làm. Chiêu Chuy liền sai Ngận Thượng sang Tề, nói dối là vua Sở đã mất, đón thái tử về chịu tang và nối ngôi. Tề Mân Vương bảo tướng quốc là Mạnh Thường Quân rằng: - Nước Sở không có vua, ta muốn giữ thái tử lại, để cầu đất Hoài Bắc có nên chăng? Mạnh Thường Quân nói: - Không nên, vua Sở không phải chỉ có một con, ta giữ thái tử mà họ đem đất đến chuộc thì nên lắm, nếu họ lại lập người khác lên làm vua, ta chẳng lợi được một thước đất nào mà chỉ mang tiếng bất nghĩa thì sao nên. Mân Vương lấy làm phải, bèn đưa thái tử Hoành về Sở nối ngôi đó là Khoảnh Tương Vương. Tử Lan, Ngận Thượng vẫn làm việc như cũ, sai sứ sang nói với Tần rằng: - Nhờ xã tắc thần linh, nước Sở đã có vua rồi. Vua Tần giữ Hoài Vương lại thành ra vô ích, tức giận quá, sai Bạch Khởi làm tước, Mông Vụ làm phó, đem 10 vạn quân đánh Sở, lấy được 15 thành rồi về. Sở Hoài Vương ở nước Tần hơn năm, vì đã lâu, người canh giữ trễ biếng không để ý, Hoài Vương đổi lốt trốn ra khỏi Hàm Dương, muốn theo phía Đông về Sở, vua Tần sai quân đuổi theo, Hoài Vương không dám đi về phía Đông, liền quay lên phía Bắc, theo đường tắt chạy sang nước Triệu. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 93 Triệu chủ phụ chết đói cung Sa Khâu Mạnh Thường Quân ra thoát cửa Hàm Cốc Bấm để xem Lại nói Triệu Vũ Vương mình dài tám thước tám tấc, trán rộng mồm dài, tóc rậm râu xồm, mặt đen có ánh sáng, sức khỏe mà có chí khí hăng hái, lên ngôi năm năm, lấy con gái nước Hàn làm phu nhân, sinh con trai là Chương, lập làm thái tử. Năm 56 tuổi, vì nằm mộng thấy một người con gái đẹp gảy đàn đem lòng yêu mến. Ngay hôm sau nói chuyện với quần thần, quan đại phu là Hồ Quảng tự nói có con gái là Mạnh Diêu gảy đàn rất hay. Vũ Linh Vương truyền cho triệu đến đài Đại Lăng, dung mạo giống hệt như người thấy ở trong mộng, bèn sai gảy đàn, bằng lòng lắm, đem về trong cung, gọi là Ngô Hài, sinh con là Hà, khi Hàn Hậu mất, liền lập Ngô Hài làm hậu, bỏ thái tử Chương, lập Hà lên làm thái tử. Vũ Linh Vương tự nghĩ nước Triệu bắc giáp Yên, đông giáp Hồ, tây giáp Lâm Hồ, Lâu Phiền cùng Triệu làm láng giềng, mà Tần chỉ cách một con sông, ở vào nơi bốn mặt chịu đánh, e rồi đến suy yếu. Bèn tự mình mặc áo rợ Hồ, đai da giày da, bắt chước tục Hồ, tay áo may chẽn, vạt áo khép vào bên tả, để tiện việc cỡi ngựa bắn cung, trong nước không cứ người sang người hèn đều mặc quần áo rợ Hồ, bỏ xe cỡi ngựa, ngày chăm săn bắn, quân lính nhân đó càng mạnh. Vũ Linh Vương thân tự đem quân cướp đất, đến tận Thường Sơn, mở thêm được vài trăm dặm, bèn có chí muốn nuốt Tần, cho rằng các tướng không thể chuyên dùng được, chi bằng sai con trị việc nước mà xuất thân đi kinh lý bốn phương, bèn họp quần thần truyền ngôi cho thái tử, đó là Huệ Vương, Vũ Linh Vương tự hiệu là Chủ Phụ (Chủ Phụ cũng như đời sau gọi là Thái Thượng Hoàng), cử Phì Nghĩa làm tướng quốc, Lý Đoái làm thái phó, Công tử Thành làm tư mã, phong cho con trưởng là Chương đất An Dương, gọi là An Dương Quân, cử Điền Bất Lễ làm tướng. Chủ phụ muốn xem núi sông hình thế nước Tần và xem vua Tần là người thế nào, bèn trá xưng làm sứ giả nước Triệu là Triệu Chiêu, đem quốc thư sang nước Tần báo cáo việc lập vua, mang vài người thợ đi dọc đường vẽ địa hình, vào thẳng Hàm Dương yết kiến vua Tần. Chiêu Tương Vương hỏi rằng: - Vua nhà ngươi năm nay bao nhiêu tuổi? Thưa rằng: - Còn trẻ. Lại hỏi: - Tuổi còn trẻ sao lại truyền ngôi cho con? Thưa rằng: - Quả quân nghĩ rằng những vua nối ngôi, phần nhiều không hiểu việc, muốn lúc còn sống sai làm cho quen, quả quân dẫu làm chủ phụ, nhưng việc nước vẫn tự mình trông nom. Chiêu Tương Vương nói: - Vua nước người cũng sợ Tần chứ? Thưa rằng: - Quả quân không sợ Tần, vì sức binh mã ngày nay đủ đối địch được với Tần. Chiêu Tương Vương thấy ứng đối trôi chảy, trong lòng rất kính trọng, sứ giả từ ra, đến ở nhà công quán. Đêm ấy Chiêu Tương Vương ngủ đến nửa đêm, bỗng nghĩ đến sứ giả nước Triệu hình mạo khôi ngô kỳ vỹ, không giống tướng kẻ làm tôi, đem lòng ngờ, trằn trọc không ngủ được nữa, sáng ra cho đòi Triệu Chiêu vào yến kiến, người theo hầu nói rằng: - Sứ nhân có bệnh không thể vào triều, xin hoãn cho đến hôm khác. Quá ba ngày sứ giả vẫn chưa vào, Chiêu Tương Vương giận, sai người đến xét xem, vào thẳng trong nhà, chẳng thấy sứ giả đâu, chỉ thấy người theo hầu, tự xưng chính mình mới thực là Triệu Chiêu, bèn bắt giải đến trước mặt Chiêu Tương Vương. Vua hỏi: - Ngươi là Triệu Chiêu, vậy sứ giả là người nào? Thưa rằng: - Đó chính là Chủ Phụ vua nước tôi vậy. Chủ Phụ muốn được rõ uy dung của đại vương, nên dối xưng là sứ giả, nay ra khỏi Hàm Dương đã ba ngày rồi, sai hạ thần ở lại đây để chịu tội. Chiêu Tương Vương cả sợ, dậm chân nói rằng: - Chủ Phụ nhà ngươi lừa dối ta quá lắm. Liền sai Kinh Dương Quân cùng Bạch Khởi lĩnh ba nghìn tinh binh ngay ban đêm đuổi theo, đến cửa Hàm Cốc, tướng sĩ giữ cửa nói là sứ giả nước Triệu đã ra khỏi cửa từ ba ngày trước kia rồi. Kinh Dương Quân về tâu với vua Tần, vua Tần lo sợ đến mấy hôm, rồi theo như lẽ tha cho Triệu Chiêu về nước. Sang năm sau, Chủ Phụ lại ra tuần đất Vân Trung, từ Châu Đại sang phía Tây, thu quân ở Lâu Phiền, đắp thành ở Linh Thọ, để trấn giữ Trung Sơn, gọi là Triệu vương thành, Ngô Hài cũng đắp thành ở Phi Lương gọi là Phu nhân thành. Bấy giờ nước Triệu mạnh ngang với Tam Tấn, năm ấy Sở Hoài Vương từ Tần chạy đến, vua Triệu sợ mang oán với Tần, và Chủ Phụ đi xa vắng không dám tự chuyên, liền đóng cửa không cho vào. Hoài Vương cùng kế bèn chạy sang nước Lương, quân Tần đuổi kịp lại bắt mang về Hàm Dương. Hoài Vương căm giận quá, hộc ra hơn đấu máu, bèn phát bệnh rồi chết. Tần bèn đem di thể trả Sở, người Sở thương Hoài Vương bị Tần lừa phải chết nơi đất khách, trăm họ đi đón đều thương khóc như thương người thân thích, chư hầu đều ghét Tần vô đạo lại cùng hợp tung để chống Tần. Quan đại phu Khuất Nguyên thương Hoài Vương bị chết một cách đau đớn, vì Tử Lan và Ngận Thượng xui bậy mà nên nỗi, mà hai người ấy vẫn làm việc như thường, vua tôi chỉ tham sự cầu an, tuyệt không có chí báo thù Tần, thường thường khuyên can Khoảnh Tương Vương gần người hiền xa người nịnh, kén tướng luyện binh để báo thù cho Hoài Vương. Tử Lan hiểu ý, khiến Ngận Thượng nói với Khoảnh Tương Vương rằng: - Khuất Nguyên thấy là người đồng tộc, không được trọng dụng, trong lòng oán vọng, và thường đối với mọi người nói đại vương quên cái thù nước Tần là bất hiếu, bọn Tử Lan không chủ trương việc đánh Tần là bất trung. Khoảnh Tương Vương cả giận cách chức Khuất Nguyên, đuổi về nơi làng xóm. Nguyên có người chị gái tên là Tu đã lấy chồng xa, nghe Nguyên bị đuổi liền trở về thăm, thấy Nguyên tóc dóc mặt bẩn, hình dáng hốc hác, vừa đi vừa ngâm ở bờ sông, bèn bảo rằng: - Vua Sở không nghe lời em, lòng em ở như thế đã hết rồi, lo nghĩ có ích gì, may có ruộng nương, sao chẳng hết sức cày cấy tự nuôi mình để hưởng hết tuổi đời. Nguyên không dám trái ý chị, bèn mang cày đi cày, người trong làng thương Nguyên có lòng trung, đua nhau giúp sức. Hơn một tháng người chị đi. Nguyên than rằng: - Việc nước Sở đã đến thế này, ta không thể trông thấy nước Sở phải diệt vong. Một hôm dậy sớm ôm hòn đá tự chìm mình xuống sông Mịch La mà chết, hôm ấy chính là ngày mùng năm tháng năm. Người làng nghe Nguyên tự trầm, thi nhau chở thuyền nhỏ ra sông cứu thì không kịp nữa rồi, bèn làm bánh giác thử ném xuống dòng sông để tế, mỗi cái bánh đều có buộc cái chỉ màu vì sợ bị giống giao long cướp ăn mất. Lại như tục đua bơi thuyền rồng ở Ngô, Sở cũng vì việc cứu vớt Khuất Nguyên mà sinh ra, cái ruộng Khuất Nguyên cày, về sau gạo trắng như ngọc, nên gọi là ruộng gạo ngọc, người làng lại lập đền riêng thờ Khuất Nguyên, đặt tên làng gọi là làng Tỉ Qui (nghĩa là chị về). Lại nói Triệu Chủ Phụ ra tuần ở Vân Trung, về đến Hàm Đan, luận công hành thưởng cho nhân dân cả nước được uống rượu say ba ngày. Hôm ấy quần thần đều họp cả để chúc mừng. Chủ Phụ sai Huệ Vương ngồi nhận lễ triều hạ, tự mình đặt ghế riêng ngồi ở bên cạnh xem hành lễ, thấy Hà còn bé mà mặc áo cổn, đội mũ miện ngoảnh mặt về phía Nam mà làm vua, con trưởng là Chương to lớn đáng bực trượng phu mà phải hướng về phía Bắc lạy quì ở dưới, anh phải chịu khuất em, nghĩ lấy làm thương lắm. Buổi triều đã tan, Chủ Phụ thấy Công tử Thắng ở bên cạnh, bảo nhỏ rằng: - Ngươi có trông An Dương Quân không? Dẫu theo ban chầu lạy, nhưng có ý không vui, ta muốn chia đất Triệu làm hai, cho Chương làm vua ở Đại, cũng ngang với Triệu, ý ngươi nghĩ thế nào? Thắng thưa rằng: - Vua ngày trước đã lầm, nay phận vua tôi đã định rồi, lại còn sinh việc, e xẩy ra việc tranh biến. Chủ Phụ nói: - Sự quyền ở ta, còn phải lo gì. Chủ Phụ về cung, phu nhân là Ngô Hài thấy sắc mặt đổi khác, liền hỏi: - Ngày nay trong triều có việc gì? Chủ Phụ nói: - Ta thấy thái tử cũ là Chương là anh mà phải chầu em, thực là trái ngược, muốn lập Chương làm vua Đại, Thắng lại nói là không nên, cho nên trù trừ chưa quyết. Ngô Hài nói: - Xưa kia Mục Hầu nước Tấn sinh hai con, trưởng là Cừu, thứ là Thành Sư. Mục Hầu mất. Cừu lên nối ngôi, đóng đô ở Dực, phong em là Thành Sư ở Khúc Ốc, về sau Khúc Ốc càng mạnh, diệt hết con cháu của Cừu và thôn tính cả đất Dực, việc đó chắc là Chủ Phụ có biết. Thành Sư là em mà còn giết được anh, phương chi lấy là anh mà đối với em, lấy là con lớn mà đối với con bé ư? Mẹ con tôi rồi đến bị nó giết chết. Chủ Phụ quá nghe lời nói của Ngô Hài, bèn thôi việc ấy. Có tên thị nhân trước kia hầu thái tử Chương ở đông cung, nghe Chủ Phụ bàn việc ấy bèn đi bảo riêng cho Chương biết. Chương bàn với Điền Bất Lễ. Bất Lễ nói: - Chủ Phụ muốn chia đất phong vương cho hai con là do ở công tâm, chỉ vì lời nói người đàn bà làm ngăn trở đó thôi, vua còn bé không hiểu việc, nếu thừa cơ dùng kế mà làm, thì Chủ Phụ cũng không làm thế nào được. Chương nói: - Việc ấy nhà ngươi nên lưu ý, giàu sang cùng chung. Thái phó là Lý Đoái quen thân với Phi Nghĩa, mật bảo rằng: - An Dương Quân cường tráng mà kiêu, đồ đảng rất nhiều, vả có lòng oán vọng, Điền Bất Lễ là người cứng cỏi tự dụng, biết tiến mà không biết lui, hai người cùng đảng làm bậy, đến khi việc hỏng, ông trách nhiệm nặng mà thế lực tôn, tai họa tất phải chịu trước, sao chẳng xưng bệnh truyền chính cho Công tử Thành, may ra có thể thoát họa được. Phì Nghĩa nói: - Chủ Phụ đem vua giao cho tôi, tôn làm tướng quốc, cho tôi là người có thể ủy thác được trong lúc an nguy, nay chưa thấy họa mà đã tránh trước, há chẳng bị Tuân Tức chê cười ư? Lý Đoái than rằng: - Ông nay làm trung thần thì không làm được trí sĩ nữa. Nói xong, chảy nước mắt một hồi lâu rồi từ biệt. Phì Nghĩa nghĩ lời Lý Đoái đêm không ngủ được, ăn không nuốt được, trằn trọc mãi không nghĩ được kế gì, bèn bảo tên cận thị là Cao Tín rằng: - Từ nay về sau nếu có chỉ của Chủ Phụ đòi vua ta, phải bảo cho ta biết trước. Cao Tín vâng lời, bỗng một hôm Chủ Phụ cùng vua đi chơi ở Sa Khâu, Chương cũng theo đi. Tại Sa Khâu có một cái đài, xây từ đời vua Trụ nhà Thương, có hai tòa li cung, Chủ Phụ cùng vua đều ở một cung, cách xa nhau chừng năm sáu dặm, cái quán của Chương ở vào giữa. Điền Bất Lễ bảo Chương rằng: - Vua ra chơi ở ngoài, quân theo đi không có mấy. Nếu giả mệnh Chủ Phụ đòi vua, vua tất đến, ta phục quân ở giữa đường mà giết đi, rồi đem Chủ Phụ ra mà an ủi dân chúng thì không ai còn dám trái lệnh nữa. Chương nói: - Kế ấy rất diệu. Liền sai tên nội thị tâm phúc, giả làm sứ giả của Chủ Phụ đang đêm đến đòi Huệ Vương, nói rằng: - Chủ Phụ tự nhiên phát bệnh, muốn được trông thấy mặt vua, xin vua đến ngay. Cao Tín liền chạy đi bảo tướng quốc Phì Nghĩa, Nghĩa nói: - Chủ Phụ vốn không bệnh, việc đó đáng ngờ. Bèn vào nói với vua rằng: - Nghĩa này xin đi trước, đợi không có việc gì, bấy giờ vua sẽ đi. Lại bảo Cao Tín rằng: - Đóng chặt cửa cung, chớ nên khinh suất mở ra. Phì Nghĩa cùng vài tên kỵ binh theo sứ giả đi trước, đến giữa đường, quân phục ngỡ là vua, ồ ra giết chết cả, Điền Bất Lễ châm lửa xem thì là Phì Nghĩa, sợ quá nói rằng: - Việc hỏng mất rồi! Nhân lúc sự cơ chưa lộ, nên đem hết quân đánh úp vua, may còn có thể được. Rồi đem Chương đến đánh vua, Cao Tín vì Phì Nghĩa đã dặn trước, nên đã dự bị phòng giữ rất chắc chắn, Điền Bất Lễ đánh phá cung vua, không sao phá được. Đến lúc trời sáng, Cao Tín sai quân trèo lên nóc nhà bắn xuống, nhiều người bị thương, sau hết cả tên bắn phải rút ngói ném xuống. Điền Bất Lễ sai lấy đá to buộc vào đầu cây để đánh cửa cung, tiếng vang như sấm. Huệ Vương ở trong đang lúc nguy cập, bỗng nghe bên ngoài có tiếng reo hò, hai đội quân nữa kéo đến đánh, quân địch thua to xô nhau bỏ chạy. Nguyên đó là Công tử Thành, Lý Đoái ở trong nước bàn với nhau, sợ An Dương Quân thừa cơ làm loạn, đều mang một đội quân kéo đến tiếp ứng, gặp lúc quân địch đang vây cung vua, giải cứu được cái nạn ấy. Quân Chương bị thua, hỏi Điền Bất Lễ rằng: - Bây giờ biết làm thế nào? Bất Lễ nói: - Chạy ngay vào chỗ Chủ Phụ khóc lóc kêu xin, Chủ Phụ tất sẽ che chở cho, còn tôi xin hết sức chống với toán đuổi theo. Chương theo như lời, một mình cưỡi ngựa chạy vào cung Chủ Phụ. Chủ Phụ quả nhiên mở cửa cho náu kín một nơi, không hề lấy làm khó khăn. Bất Lễ đem tàn binh đánh nhau với quân của Thành, Đoái, quân ít không địch nổi, Bất Lễ bị Lý Đoái chém chết. Đoái chắc là An Dương Quân không chỗ nương thân, tất phải chạy vào nhờ Chủ Phụ, bèn dẫn quân đến vây cung Chủ Phụ, phá toang cửa cung. Đoái cầm gươm đi trước mở đường, Công tử Thành ở sau, vào yết kiến Chủ Phụ dập đầu nói rằng: - An Dương Quân làm phản, phép luật không thể tha được, xin Chủ Phụ cho bắt ra đây. Chủ Phụ nói: - Nó chưa đi vào trong cung ta, hai ngươi nên đi tìm nơi khác. Đoái, Thành hai ba lần bẩm xin, Chủ Phụ không nói gì. Đoái nói: - Việc đã đến thế, xin cho sục tìm một phen, nếu không có thật, sẽ xin tạ tội. Thành nói: - Nhà ngươi nói phải đấy. Bèn gọi vài trăm thân binh, tìm khắp trong cung, tìm đến chỗ hai tường giáp nhau, bắt được An Dương Quân, lôi tuột ra. Lý Đoái vội rút gươm chém đứt rơi đầu. Thành nói: - Sao vội thế? Đoái nói: - Nếu để gặp Chủ Phụ, lỡ ra Chủ Phụ giữ lại không cho bắt, chống thì trái lễ làm tôi, theo ý thì mất một tên giặc, chi bằng giết ngay. Thành phục là phải, Đoái cầm thủ cấp An Dương Quân giơ cao lên, từ trong cung đi ra, nghe tiếng Chủ Phụ khóc, lại bảo Thành rằng: - Chủ Phụ mở cửa cho Chương chạy vào, trong lòng đã thương Chương rồi. Chúng ta vì cớ bắt Chương, vây cung Chủ Phụ, lôi Chương ra mà giết, thực là làm đau lòng Chủ Phụ, sau khi yên việc, Chủ Phụ nếu trị tội vây cung thì chúng ta đều bị giết cả họ mất. Vua còn bé không đủ bàn việc, chúng ta nên tự quyết. Bèn truyền lệnh quân sĩ không giải vây, rồi sai người giả truyền lệnh của Huệ Vương rằng: - Những người ở trong cung, ai ra trước thì được tha tội, ai ra sau thì là đảng giặc sẽ giết cả họ. Các tùng quan và nội thị nghe lệnh vua tranh nhau ra trước, ở trong chỉ còn lại có một mình Chủ Phụ. Chủ Phụ gọi không một người nào thưa, muốn ra cửa thì đã khóa chặt rồi. Quân sĩ vây luôn vài ngày, Chủ Phụ ở trong cung đói quá, không kiếm được cái gì ăn, cái cây ở giữa sân có tổ chim sẻ, bèn lấy trứng ăn, hơn một tháng bị chết đói. Chủ Phụ đã chết, người ngoài chưa biết, bọn Lý Đoái vẫn chưa dám vào, đợi mãi đến hơn ba tháng mới dám mở khóa vào xem, thi thể Chủ Phụ đã khô đét ra rồi. Công tử Thành đưa Huệ Vương đến cung Sa Khâu, coi liệm và phát tang chôn ở đất Đại. Huệ Vương về nước, cử Công tử Thành làm tướng quốc, Lý Đoái làm tư khấu. Không bao lâu, Công tử Thành chết, Huệ Vương nghĩ đến Công tử Thắng từng can ngăn Chủ Phụ về việc chia đất phong vương, bèn dùng làm tướng quốc, phong cho đất Bình Nguyên, gọi là Bình Nguyên Quân, Bình Nguyên Quân cũng có lòng hiếu sĩ như Mạnh Thường Quân, khi đã quý hiển càng chiêu nạp tân khách, trong nhà số khách ăn thường có đến vài nghìn người. Phủ đệ của Bình Nguyên Quân có một cái hoa lâu, để một mỹ nhân ở trên đó. Lầu ấy trông sang nhà một người dân, chủ nhân nhà ấy bị bệnh què chân, sáng dậy tập tễnh đi ra xách nước, mỹ nhân ở trên lầu trông thấy cười ồ lên. Một lát, người què đến cửa nhà Bình Nguyên Quân, xin vào yết kiến, Công tử Thắng vái chào mời vào, người què nói: - Nghe ngài có lòng yêu kẻ sĩ, kẻ sĩ không ngại xa xôi mà đua nhau đến, là thấy ngài quí kẻ sĩ mà khinh gái đẹp. Tôi không may bị què chân, đi lại không vững, người hậu cung của ngài lại cứ trông tôi mà cười, tôi không thể chịu để cho một người đàn bà làm nhục, vậy tôi xin ngài cho tôi cái đầu kẻ đã cười tôi. Thắng cười đáp xin vâng, người què đi ra. Thắng cười nói: - Thằng ấy ngu quá, vì một cái cười mà muốn giết mỹ nhân của ta ư? Nhà Binh Nguyên Quân đã có lệ thường, người giữ việc đãi khách mỗi tháng phải dâng trình sổ khách để xem số khách nhiều ít, lượng tính số tiền thóc vào ra, trước kia số khách chỉ tăng không giảm, lúc ấy thấy mỗi ngày một ít đi, hơn một năm thấy kém đi một nửa. Công tử Thắng lấy làm lạ, bèn đánh chuông họp các khách lại, hỏi rằng: - Thắng này đãi các ngươi chưa dám có điều gì thất lễ, vậy mà lại đua nhau bỏ đi là cớ làm sao? Trong bọn khách có một người đứng lên nói rằng: - Ngài không giết bỏ vị mỹ nhân cười người què kia, ai nấy đều không bằng lòng, cho rằng ngài yêu sắc đẹp mà khinh kẻ sĩ, cho nên bỏ đi, chúng tôi bất nhật cũng sẽ xin đi. Bình Nguyên Quân cả sợ, nhận tội rằng: - Thực là lỗi của Thắng này. Nói xong, cởi ngay thanh gươm đeo, sai tả hữu chém đầu vị mỹ nhân ở trên lầu, rồi tự đi đến cửa nhà người què, quì xin chịu tội. Người què lấy làm mừng, từ đó những tân khách trong nhà đều ngợi khen đức hiền của Bình Nguyên Quân, tân khách bỏ đi lại đến ở như cũ. Bấy giờ Chiêu Tương Vương nước Tần nghe việc Bình Nguyên Quân chém mỹ nhân để tạ người què, một hôm thuật với Hướng Thọ, khen là người hiền. Hướng Thọ nói: - Còn chưa hiền bằng Mạnh Thường Quân. Vua Tần nói: - Mạnh Thường Quân thế nào? Hướng Thọ nói: - Mạnh Thường Quân từ ngày cha là Điền Anh còn sống đã cho chủ trương việc nhà, tiếp đãi tân khách. Tân khách theo về đông như chợ, chư hầu đều có lòng kính mến, xin với Điền Anh cho làm thế tử. Đến khi được nối làm Tiết công, tân khách lại càng đông, ăn uống cũng đều như mình cả, cung cấp tốn kém quá rồi đến phá sản, những kẻ sĩ ở nước Tề đến, ai nấy đều cho là Mạnh Thường Quân thân mình, không có điều gì khác. Nay Bình Nguyên Quân để cho mỹ nhân cười người què mà không giết, mãi đến lúc tân khách đã bỏ đi, mới chém đầu để tạ, chẳng cũng muộn lắm ru? Vua Tần nói: - Quả nhân làm sao cho được một người như Mạnh Thường Quân để cùng làm việc. Hướng Thọ nói: - Vua nếu muốn được Mạnh Thường Quân, làm sao không triệu đến? Vua Tần nói: - Hắn là tướng nước Tề, triệu khi nào hắn chịu đến. Hướng Thọ nói: - Vua thực lòng đem con em thân làm tin ở Tề để mời Mạnh Thường Quân, Tề tin Tần tất phải cho đi. Vua được Mạnh Thường Quân dùng ngay làm tướng. Tề tất cũng dùng con em thân của vua làm tướng. Tề, Tần đổi người làm tướng cho nhau, tình bang giao kết hợp, rồi cùng mưu việc thôn tính chư hầu, chẳng còn khó khăn gì nữa. Vua Tần lấy làm phải, bèn cử Kinh Dương Quân Lý làm con tin ở Tề, xin đổi Mạnh Thường Quân sang Tần, khiến được trông thấy mặt để thỏa lòng khát khao. Tân khách nghe nước Tần triệu đều khuyên Mạnh Thường Quân nên đi. Bấy giờ Tô Đại vừa ở Yên sang sứ Tề, bảo Mạnh Thường Quân rằng: - Nay Đại ở ngoài đến đây, thấy người tượng đất cùng người tượng gỗ nói chuyện với nhau, tượng gỗ bảo tượng đất rằng: "Trời đang mưa, nhà ngươi tất hỏng, biết làm thế nào?". Tượng đất cười nói rằng: "Ta vì đất mà sinh ra, nếu có hỏng thì lại hoàn là đất, còn nhà ngươi gặp mưa mà trôi dạt đi thì không biết đến đâu". Tần là nước hổ lang, Sở Hoài Vương nước Sở sang còn không về được, phương chi là ngài, nếu nó giữ lại không cho ngài về, thì tôi không biết rồi ngài sẽ ra sao. Mạnh Thường Quân bèn từ chối đi. Khuông Chương nói với Mân Vương rằng: - Nước Tần đưa con tin sang mà cầu được tiếp kiến Mạnh Thường Quân, là cố ý muốn thân Tề, Mạnh Thường Quân không đi thì mất lòng Tần. Tuy nhiên, giữ con tin của Tần, còn là không tin Tần, chi bằng vua cứ lấy lễ cho Kinh Dương Quân về Tần, mà sai Mạnh Thường Quân sang sứ Tần để đáp lễ, như vậy thì vua Tần tất tin nghe Mạnh Thường Quân mà hậu với Tề. Mân Vương cho là phải, bảo Kinh Dương Quân rằng: - Quả nhân sắp sai tướng quốc Văn sang sứ bên thượng quốc để triều bái vua Tần, há dám phiền quí nhân làm tin. Rồi sai dùng xe ngựa đưa Kinh Dương Quân về Tần, sai Mạnh Thường Quân theo sang sứ. Mạnh Thường Quân cùng hơn nghìn tân khách, hơn trăm cỗ xe, theo phía Tây đi đến Hàm Dương vào yết kiến vua Tần. Vua Tần xuống thềm đón, bắt tay chào hỏi, kể cái ý yêu mến bấy lâu. Mạnh Thường Quân có cái áo hồ cừu trắng, lông dài hai thước, sắc trắng như tuyết, giá đáng nghìn vàng, thực là của quí có một không hai, dùng làm lễ riêng đem dâng vua Tần. Vua Tần mặc áo cừu ấy đi vào cung, khoe với nàng Yên Cơ, Yên Cơ nói: - Áo cừu ấy người ta cũng thường có, lấy gì làm quí. Vua Tần nói: - Giống hồ nếu không sống vài nghìn năm thì sắc không trắng, cái áo cừu này là lấy những miếng da nách giống hồ ghép lại mà làm thành ra, là một thứ da thuần trắng, cho nên giá rất quí. Tề là một nước lớn ở Sơn Đông cho nên mới có thứ áo quí này. Bấy giờ khí trời còn ấm, vua Tần cởi áo cừu giao cho viên lại giữ kho, dặn phải cất cẩn thận để mùa rét dùng, rồi chọn ngày lập Mạnh Thường Quân làm thừa tướng. Vu Lí Tật sợ Mạnh Thường Quân được dùng sẽ mất quyền, bèn sai khách nhà là Công tôn Thích bảo vua Tần rằng: - Điền Văn là người Tề, nay làm tướng Tần, tất hẳn phải nghĩ đến Tề trước rồi mới đến Tần. Mạnh Thường Quân là người hiền, tính việc không sai, lại thêm có nhiều tân khách, mà mượn quyền Tần để mưu ngầm cho Tề, thì Tần nguy mất. Vua Tần đem lời ấy hỏi Vu Lí Tật, Tật nói: - Thích nói phải đấy. Vua Tần nói: - Nếu vậy thì cho hắn về hay sao? Tật nói: - Mạnh Thường Quân ở Tần đã hơn tháng, khách theo hơn nghìn người, đều biết hết việc lớn nhỏ của Tần, nếu nay để cho về thì tất có hại cho Tần, chi bằng giết chết. Vua Tần nghe lời, cho Mạnh Thường Quân ra ở ngoài quán xá. Kinh Dương Quân khi ở Tề, Mạnh Thường Quân đối đãi rất thân, ngày cùng ăn uống, khi về lại tặng mấy thứ đồ quý. Kinh Dương Quân lấy làm cám ơn lắm, lúc ấy nghe cái mưu của vua Tần, riêng đến yết kiến Mạnh Thường Quân, nói rõ cho biết, Mạnh Thường Quân sợ hỏi kế. Kinh Dương Quân nói: - Kế ấy vua chưa quyết định, trong cung có Yên Cơ rất được vua yêu mến, nói gì vua cũng nghe, ngài có thứ của quí gì, tôi sẽ vì ngài đem dâng Yên Cơ, cầu nàng nói cho một lời, thả ngài về nước, thì có thể thoát họa được. Mạnh Thường Quân đem hai đôi bạch bích, nhờ Kinh Dương Quân đem dâng Yên Cơ, xin nàng giải cứu cho. Yên Cơ nói: - Thiếp rất yêu thứ áo hồ cừu trắng, nghe nói ở nước Tề vẫn có, nếu cho tôi một cái, tôi sẽ nói cho, chứ thứ ngọc bích này tôi không thích. Kinh Dương Quân về báo cho Mạnh Thường Quân biết, Mạnh Thường Quân nói: - Chỉ có một cái áo cừu đã đem dâng vua Tần, bây giờ biết lấy đâu được nữa. Rồi hỏi khắp tân khách có ai kiếm được thứ áo hồ cừu trắng không, ai nấy đều im không đáp, cuối cùng có một người khách tự nói là có thể kiếm được. Mạnh Thường Quân hỏi: - Nhà ngươi có kế gì kiếm được thứ áo hồ cừu ấy? Khách nói: - Tôi có thể giả làm chó đi ăn trộm được. Mạnh Thường Quân cười rồi cho đi. Đến đêm người khách ấy mặc quần áo làm như hình con chó, chui qua cống nhỏ lẻn vào trong kho, làm tiếng chó cắn. Người lại giữ kho tưởng là chó giữ kho cắn không ngờ, người khách rình lúc người lại kia ngủ say, lấy chìa khóa giắt sẵn ở trong mình, mở tủ kho ra, quả thấy cái áo hồ cừu trắng, bèn lấy trộm đem về, dâng Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân đưa cho Kinh Dương Quân đem dâng Yên Cơ. Yên Cơ vui mừng quá, lại gặp buổi đêm cùng vua uống rượu đang vui, bèn nói rằng: - Thiếp nghe Tề có Mạnh Thường Quân là bậc đại hiền trong thiên hạ, Mạnh Thường Quân đang làm tướng Tề, không muốn sang Tần, vì Tần mời mới đến, chẳng dùng thì thôi, sao lại chực giết. Mời vị tướng quốc của người ta đến, không có cớ gì mà giết chết, đại vương sẽ mang cái tiếng hãm hại người hiền, thiếp e rằng những hiền sĩ thiên hạ không ai dám đến nước Tần nữa. Vua Tần lấy làm phải, ngày hôm sau, sai sắp xe ngựa, cấp giấy trạm thả Mạnh Thường Quân về Tề. Mạnh Thường Quân nói: - Ta may nhờ một lời nói của Yên Cơ, được thoát miệng hùm, nhưng vạn nhất mà vua Tề giữa chừng lại hối thì mệnh ta còn gì! Trong bọn khách có người khéo làm giấy giả, Mạnh Thường Quân đổi họ tên ở trong giấy trạm, ngay ban đêm gấp đường ra đi, đến cửa Hàm Cốc, mới vào nửa đêm, cửa quan đã khóa chặt từ lâu rồi. Mạnh Thường Quân sợ có quân đuổi theo đến, nóng muốn ra khỏi cửa quan ngay, nhưng cửa quan đóng mở định kỳ, đêm đến người yên rồi thì đóng, gà gáy thì mở, Mạnh Thường Quân cùng các tân khách đứng chụm lại ở trong cửa, trong lòng lo sợ bồn chồn, bỗng có tiếng gà gáy từ trong bọn khách ra. Mạnh Thường Quân lấy làm lạ nhìn xem thì trong bọn hạ khách có người khéo bắt chước tiếng gà gáy, rồi bao nhiêu gà quanh đó đều gáy theo. Viên lại giữ cửa quan tưởng là trời đã sáng thật, liền dậy khám xét những giấy trạm của người rồi sai mở cửa ra. Mạnh Thường Quân cùng tân khách lại gấp đường ra đi, bảo hai người khách kia rằng: - Ta nay được ra khỏi miệng hùm là nhờ sức chó trộm, gà gáy vậy. Các tân khách tự thẹn là không có công gì, từ đó không dám khinh nhờn những hạ khách nữa. Vu Lí Tật nghe nói Mạnh Thường Quân được thả về nước, vội đi vào triều nói với vua Tần rằng: - Nếu vua không giết Điền Văn, cũng nên giữ lại làm tin, làm sao lại thả cho hắn về. Vua Tần lấy làm hối quá, lập tức sai người đuổi theo Mạnh Thường Quân đến cửa Hàm Cốc, đòi xem sổ tên hành khách, thì không có họ tên sứ Tề là Điền Văn. Sứ giả nói: - Hay là hắn đi theo đường tắt nào, chứ cớ sao bây giờ chưa đến. Đợi đến nửa ngày, chẳng thấy gì, mới nói hình trạng Mạnh Thường Quân cùng số tân khách và số xe ngựa. Viên quan lại nói: - Nếu vậy thì bọn ấy ra khỏi cửa quan từ sớm kia rồi. Sứ giả hỏi còn có thể đuổi kịp nữa không. Viên quan lại nói: - Bọn ấy đi nhanh lắm, nay đã cách xa đến trăm dặm, không thể đuổi kịp nữa. Sứ giả bèn về báo vua Tần. Vua Tần than rằng: - Mạnh Thường Quân có cái cơ mưu quỉ thần bất trắc, thực là bậc hiền sĩ trong thiên hạ. Sau vua Tần sai viên lại giữ kho lấy áo hồ cừu ra để mặc, viên lại tâu là bị kẻ trộm lấy mất, đến khi thấy nàng Yên Cơ mặc, hỏi kỹ ra mới biết là người khách của Mạnh Thường Quân lấy trộm, lại than rằng: - Tân khách trong nhà Mạnh Thường Quân đông như chợ, hạng nào cũng có, nước Tần ta thực chưa có ai bằng. Rồi lấy áo hồ cừu cho nàng Yên Cơ được mặc, không bắt tội viên lại giữ kho. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 94 Thử Mạnh Thường, Phùng Hoan gõ gươm hát Đánh Kiệt Tống, vua Tề họp đại binh Bấm để xem Lại nói Mạnh Thường Quân từ Tần trốn về, đường qua nước Triệu, Bình Nguyên Quân Triệu Thắng ra đón ở ngoài 30 dặm rất là cung kính. Người nước Triệu vốn nghe tiếng Mạnh Thường Quân chưa được biết mặt, nên lúc ấy thi nhau đi xem, thấy Mạnh Thường Quân thân thể lùn nhỏ, trong bọn người đi xem có người cười nói rằng: - Trước kia ta mến Mạnh Thường Quân cho là người trời tất là khác thường, nay xem ra thì chỉ là một người bé nhỏ mà thôi. Rồi lại có mấy người cười nói theo, đêm ấy những kẻ cười Mạnh Thường Quân đều bị mất đầu. Bình Nguyên Quân trong lòng biết đó là môn khách của Mạnh Thường Quân làm ra, không dám hỏi đến. Lại nói Tề Mân Vương sau khi đã sai Mạnh Thường Quân sang Tần, như mất hai cánh tay, sợ nước Tần dùng mất, rất lấy làm lo, đến khi thấy trốn về được, cả mừng, lại dùng làm tướng quốc. Từ đó, khách theo Mạnh Thường Quân lại càng đông, bèn chia làm ba đẳng: Thượng đẳng gọi là đại xá, trung đẳng gọi là hạnh xá, hạ đẳng gọi là truyền xá. Đại xá là nói những khách có thể tự thay mình được, hạng này được ăn thịt đi xe, hạng thượng khách ở đó; hạnh xá gồm những khách nào có thể dùng được, hạng này chỉ được ăn thịt, không được đi xe, hạng trung khách ở đó; truyền xá là nói những khách chỉ cho ăn cơm sạch trấu khỏi đói, ra vào mặc ý, hạng hạ khách ở đó. Trước kia, những người gà gáy, chó trộm và có công làm giả giấy trạm, đều cho ở vào hạng đại xá. Hàng năm số bổng thu được ở ấp Tiết, không đủ để cung tân khách, bèn đem cho ấp Tiết vay, lấy số lãi để giúp sự chi dùng. Một hôm có một người thân thể cao lớn, mặc áo rách, đi dép cỏ, tự nói họ Phùng, tên Hoan, người nước Tề, cầu vào yết kiến Mạnh Thường Quân, Mạnh Thường Quân vái chào mời cùng ngồi, nói rằng: - Tiên sinh hạ cố có điều gì dạy Văn này? Hoan nói: - Không, trộm nghe ngài có lòng yêu mến kẻ sĩ, không chọn sang hèn, cho nên tôi chẳng ngại cái thân nghèo, đến xin hầu ngài. Mạnh Thường Quân cho ở vào hạng truyền xá, hơn mười ngày, Mạnh Thường Quân hỏi người truyền xá trưởng rằng: - Người khách mới đến làm việc gì? Truyền xá trưởng nói: - Phùng tiên sinh nghèo quá chẳng có gì, chỉ có một thanh kiếm lại không có vỏ, lấy dây cỏ buộc đeo sau lưng, ăn xong bèn gõ gươm mà hát rằng: "Về đi thôi, ăn không cá". Mạnh Thường Quân nói rằng: - Đó là hắn hiềm ta cho ăn uống chẳng có gì. Rồi đổi cho vào hạng hạnh xá, bữa ăn nào cũng có cá thịt, lại sai người hạnh xá trưởng xét xem cử động thế nào. Năm ngày sau, người hạnh xá trưởng đến báo rằng: - Phùng tiên sinh vẫn gõ gươm mà hát như cũ, nhưng câu hát khác lần trước, hát rằng: "Về đi thôi, đi đâu không xe". Mạnh Thường Quân lấy làm lạ nói: - Hắn muốn ta đãi vào hạng thượng khách chăng? Người ấy chắc có tài lạ. Rồi đổi cho vào hạng đại xá, lại sai người đại xá trưởng xét xem thế nào. Hoan ngày ngày cỡi xe ra đi đến đêm mới về, lại hát rằng: "Về đi thôi, chẳng có gì để giúp nhà". Đại xá trưởng nói với Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân nhăn trán nói rằng: - Người khách ấy sao lại tham lam quá thế? Rồi lại sai dò xét xem, nhưng Hoan không hát nữa. Được hơn một năm, người quản gia nói với Mạnh Thường Quân rằng tiền thóc chỉ còn đủ tiêu trong một tháng, Mạnh Thường Quân tra sổ thấy dân gian thiếu nợ rất nhiều, bèn hỏi các tân khách rằng: - Ai có thể đến ấp Tiết đòi nợ cho ta? Người đại xá trưởng nói rằng: - Phùng tiên sinh chẳng nghe có tài gì giỏi, nhưng người có lòng thực thà có thể dùng được, hôm trước tự xin làm thượng khách, vậy ngài thử dùng xem. Mạnh Thường Quân liền cho vời Phùng Hoan đến nói việc đi thu nợ, Phùng Hoan nhận lời ngay không từ chối, rồi cỡi xe đi ngay đến ấp Tiết, ngồi ở trong công phủ. Dân ấp Tiết có muôn nhà phần nhiều đều có vay, nghe Tiết Công sai vị thượng khách đến thu, đem nộp trả rất nhiều, tính số tiền được lãi hơn 10 vạn, Phùng Hoan đem nhiều tiền sai mua nhiều trâu rượu, và yết thị phàm nhà nào có nợ Mạnh Thường Quân, không kể trả được hay không trả được, ngày hôm sau đều mang giấy đến công phủ xét xem. Trăm họ nghe có cho ăn uống đều như kỳ mà đến, Phùng Hoan đều cho ăn uống no say, rồi nhân đó xét rõ ai giàu ai nghèo, ăn xong mang sổ ra xét lại, hiện người nào dư sức, dẫu nhất thời không trả được, mà về sau có thể trả được, bắt làm lời ước biên vào trong sổ, còn người nào nghèo quá không thể trả được đều lạy van xin khoan kỳ, Phùng Hoan sai đem hết những giấy nợ của bọn người nghèo châm lửa đốt bỏ đi cả, rồi bảo mọi người rằng: - Mạnh Thường Quân sở dĩ cho các ngươi vay tiền là sợ các người không có tiền để làm sinh kế, chứ không phải vì lợi đâu. Nhưng Mạnh Thường Quân có mấy nghìn thực khách, bổng lộc không đủ, không đừng được mà phải đòi số nợ lãi để cung tân khách. Nay người có thể trả được đã hạn kỳ trả, người không thể trả được đã đốt bỏ giấy rồi, Mạnh Thường Quân làm ơn với ấp Tiết các ngươi có thể gọi là hậu lắm. Trăm họ đều dập đầu hoan hô rằng: - Mạnh Thường Quân thực là cha mẹ chúng tôi. Trước khi đó đã có người đem việc đốt giấy nợ báo cho Mạnh Thường Quân biết. Mạnh Thường Quân giận quá, sai người đi ngay gọi Phùng Hoan về. Phùng Hoan tay không về trình, Mạnh Thường Quân giả ý hỏi rằng: - Khách khó nhọc lắm nhỉ, thu nợ xong rồi à? Hoan nói: - Không những vì ngài thu nợ, lại vì ngài thu đức nữa. Mạnh Thường Quân biến sắc mặt trách rằng: - Văn này vì khách ăn trong nhà những ba nghìn người, bổng lộc không đủ cho nên phải cho dân Tiết vay để lấy lãi mà chi dùng thêm. Nghe khách thu được tiền lãi đem mua nhiều trâu rượu cho họ ăn uống lại đốt bỏ mất một nửa những giấy nợ, mà còn nói là thu đức, thì chẳng rõ đó là cái đức gì. Hoan thưa rằng: - Xin ngài bớt giận để tôi giãi bày, người mắc nợ nhiều, không bày ra cho ăn uống thì chúng nó không chịu đến đủ mặt, không thể xét rõ được ai thừa sức và ai nghèo khổ. Kẻ thừa sức thì bắt làm giấy khất, còn kẻ nghèo khổ dẫu đốc thúc chúng nó cũng không trả được, nợ lâu lãi nhiều rồi đến bỏ trốn hết. Âp Tiết là đất thế phong của ngài, nhân dân ở đó tức là những người mà ngài phải cùng chung những lúc yên nguy, nay đốt bỏ những giấy nợ vô dụng đi để rõ tấm lòng ngài khinh của mà yêu dân, cái tiếng nhân nghĩa sẽ lan rộng ra vô cùng, vì thế nên tôi mới nói là vì ngài thu đức vậy. Mạnh Thường Quân vì phải lo tính đến sự cung nuôi tân khách, trong lòng dẫu căm giận lắm, nhưng đã đốt mất những giấy nợ rồi, cũng không làm thế nào được, đành phải gượng làm vui, vái tạ Phùng Hoan. Lại nói Tần Chiêu Vương lấy làm hối là để Mạnh Thường Quân về Tề mất, lại thấy làm nhiều điều đáng sợ, nghĩ người ấy đắc dụng ở Tề tất sẽ làm hại cho Tần, bèn đặt điều cho nói lan khắp nước Tề rằng Mạnh Thường Quân danh giá hơn cả thiên hạ, thiên hạ chỉ biết có Mạnh Thường Quân mà không biết có vua Tề, bất nhật Mạnh Thường Quân sẽ thay làm vua nước Tề vậy. Lại sai người nói với Khoảnh Tương Vương nước Sở rằng trước kia sáu nước đánh Tần, một mình quân Tề ở lại sau, vì Sở tự làm tung ước trưởng. Mạnh Thường Quân không phục, cho nên không chịu cùng đánh, và khi Hoài Vương ở Tần, quả quân muốn cho về, Mạnh Thường Quân sai người đến khuyên quả quân là không nên, lấy cớ thái tử sang làm con tin ở Tề, muốn Tần giết Hoài Vương đi, rồi nước ấy sẽ giữ thái tử lại để cầu Sở phải cắt đất, cho thái tử suýt không được về, mà Hoài Vương phải chết ở Tần, quả quân phải mang tội với Sở đều do Mạnh Thường Quân xui nên. Quả quân vì Sở, muốn được Mạnh Thường Quân mà giết đi, không ngờ hắn lại trốn về mất, nay hắn lại làm tướng Tề chuyên quyền, nay mai hắn sẽ cướp ngôi nước Tề, hai nước Tần, Sở từ đây chẳng được yên vậy. Quả quân nay xin hối điều lỗi trước cùng Sở kết hiếu, cho con gái làm vợ vua Sở để cùng phòng bị cái biến Mạnh Thường Quân. Vua Sở lầm nghe lời nói ấy, bèn thông hòa với Tần, đón con gái vua Tần làm phu nhân, cũng sai người bịa lời nói lan ở Tề. Vua Tề quả đem lòng nghi, bèn thu tướng ấn của Mạnh Thường Quân đuổi về ấp Tiết. Các tân khách nghe Mạnh Thường Quân bị bãi chức dần dần bỏ đi, chỉ có Phùng Hoan vẫn theo bên cạnh, vì Mạnh Thường Quân cầm cương xe. Chưa đến ấp Tiết, trăm họ già trẻ dắt díu nhau đi đón, tranh nhau dâng rượu cơm và hỏi thăm có được khỏe mạnh, Mạnh Thường Quân nói: - Thế này mới biết là tiên sinh nói vì Văn này thu đức vậy. Phùng Hoan nói: - Ý tôi không những chỉ làm thế mà thôi nếu cho tôi được một cỗ xe, tôi sẽ làm cho ngài được thêm trọng ở Tề, ấp ăn lộc càng thêm rộng. Mạnh Thường Quân nói: - Tiên sinh định thế nào tôi xin vâng theo. Mấy hôm sau Mạnh Thường Quân sắm xe ngựa và tiền bạc đưa cho Phùng Hoan và nói rằng: - Xin để tiên sinh dùng đi đâu thì đi. Phùng Hoan đi ngay sang Tần, cầu vào yết kiến Chiêu Tương Vương, nói rằng: - Kẻ sĩ đến ở Tần đều muốn làm cho Tần mạnh, và làm cho Tề yếu, Tần với Tề thế không cùng mạnh được, nước nào mạnh thì được thiên hạ. Vua Tần hỏi: - Tiên sinh có kế gì khiến cho nước Tần trở nên mạnh được không? Phùng Hoan hỏi lại: - Đại Vương đã biết nước Tề bỏ Mạnh Thường Quân chưa? Vua Tần nói: - Quả nhân có nghe nói mà chưa tin. Phùng Hoan nói: - Tề sở dĩ được trọng với thiên hạ là vì có Mạnh Thường Quân là người hiền, nay vua Tề nghe lời gièm pha, thu lại tướng ấn, lấy công làm tội, Mạnh Thường Quân đang oán Tề, mà Tần mời sang làm tướng, thì bao nhiêu việc kín của Tề, Tần sẽ biết hết, nhân đó mà mưu cướp nước Tề thì có thể được, há những chỉ làm nên mạnh mà thôi ư? Đại vương nên kíp sai sứ đem lễ vật ngầm sang đón Mạnh Thường Quân ở ấp Tiết, dịp ấy chớ nên bỏ lỡ, vạn nhất vua Tề biết hối mà lại dùng, thì trong hai nước Tề, Tần, nước nào mạnh yếu chưa thể định được. Bấy giờ Vu Lí Tật mới mất, vua Tần nóng muốn được một vị hiền tướng, nghe lời Hoan nói cả mừng, bèn lấy mười cỗ xe tốt, trăm dật hoàng kim, sai sứ giả đem nghi trượng thừa tướng đi theo để đón Mạnh Thường Quân. Phùng Hoan nói: - Tôi xin đi trước để bảo Mạnh Thường Quân, bảo phải đi ngay chớ nên dùng dằng. Phùng Hoan đi gấp về Tề, không về chào Mạnh Thường Quân vội, trước đến yết kiến vua Tề nói rằng: - Tần, Tề cùng làm mạnh yếu thế nào, chắc vua đã biết, được người hiền thì mạnh, mất người hiền thì yếu, nay tôi nghe người ta nói vua Tần may gặp lúc Mạnh Thường Quân bị đuổi, sai sứ sang đón Mạnh Thường Quân về làm tướng, nếu Mạnh Thường Quân làm tướng Tần thì sẽ đem những điều làm lợi cho Tề mà làm lợi cho Tần, như vậy Tần trở nên mạnh mà Tề sẽ bị nguy vậy. Vua Tề ra vẻ sợ hãi hỏi rằng: - Như vậy thì biết làm thế nào? Phùng Hoan nói: - Sứ Tần sớm chiều sẽ đến ấp Tiết, đại vương nhân lúc chưa đến, lại dùng Mạnh Thường Quân làm tướng, lại cho rộng thêm ấp phong, Mạnh Thường Quân tất mừng mà nhận, sứ Tần dẫu mạnh, lẽ nào chẳng dám nói với vua mà dám tự tiện đón vị tướng quốc của người ta ư? Mân Vương khen phải, nhưng thực ra trong lòng vẫn chưa tin, sai người đi đến nơi biên cảnh dò xét hư thực, thì thấy xe ngựa ầm ầm kéo đến, hỏi ra thì quả là sứ Tần. Sứ giả luôn đêm về nói với Mân Vương, Mân Vương liền sai Phùng Hoan cầm cờ tiết đi đón Mạnh Thường Quân lại cho làm tướng, thêm cho ấp phong nghìn nhà. Sứ giả Tần đến ấp Tiết, nghe Mạnh Thường Quân đã lại làm tướng nước Tề bèn quay xe trở về. Mạnh Thường Quân lại làm tướng Tề, những tân khách trước bỏ đi đều lại quay về. Mạnh Thường Quân bảo Phùng Hoan rằng: - Văn này đối với tân khách không dám có điều gì thất lễ, tự nhiên bị bãi chức, khách đều bỏ Văn mà đi, nay nhờ sức tiên sinh lại được phục chức, tưởng các khách chẳng còn mặt nào lại trông thấy Văn nữa thì phải. Phùng Hoan đáp rằng: - Vinh nhục thịnh suy là lẽ thường ở đời, ngài không thấy cái chợ ở nơi đô hội lớn đó ru? Sớm ra ai nấy chen vai tranh cửa vào, đến chiều thì vắng ngắt như bãi tha ma, vì những cái người ta cần đến không có nữa. Ở đời giàu sang lắm kể cầu thân, nghèo hèn chẳng ai buồn nhìn, đó là việc thường, ngài còn lạ chi điều đó. Mạnh Thường Quân vâng lời, lại đãi khách như xưa. Bấy giờ Ngụy Chiêu Vương, cùng Hàn Ly Vương hợp binh đánh Tần, Tần sai Bạch Khởi đem quân đón đánh đại chiến ở Y Khuyết, chém đầu 24 vạn, bắt được tướng Hàn là Công tôn Hỉ, lấy được ba trăm dặm đất Vũ Toại, bèn đánh Ngụy lấy được 400 dặm đất Hà Đông. Chiêu Tương Vương cả mừng, cho rằng bảy nước đều xưng vương không lấy gì làm lạ, muốn biệt lập đế hiệu để tỏ ra mình là quí trọng, nhưng lại e là độc tôn, bên sai người nói với Tề Mân Vương rằng: - Nay thiên hạ cùng xưng vương, chẳng biết theo ai, quả nhân ý muốn xưng Tây đế để chủ phương Tây, tôn vua Tề làm Đông đế để chủ phương Đông, chia đôi thiên hạ, ý đại vương cho là thế nào. Mân Vương ý chưa quyết; hỏi Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân nói: - Tần vì ngang ngược; nên chư hầu ghét, vua chớ nên bắt chước. Được hơn một tháng, Tần lại sai sứ sang Tề cùng đánh Triệu, gặp lúc Tô Đại ở Yên đến, Mân Vương trước hết hỏi về việc cùng Tần xưng đế. Đại thưa rằng: - Tần không mời nước khác cùng xưng đế mà chỉ riêng mời nước Tề, là có ý tôn Tề vậy, nếu cự tuyệt thì phật ý Tần, mà nhận thẳng thì bị chư hầu ghét, xin vua cứ nhận lời mà chớ xưng, để cho Tần xưng trước, mà chư hầu phương Tây đều tôn thờ, bấy giờ vua sẽ xưng đế để chủ phương Đông cũng chưa muộn gì, nếu Tần xưng mà chư hầu không phục, vua nhân đó mà bắt tội Tần. Mân Vương theo lời, lại hỏi về việc Tần ước cùng đánh Triệu, có nên không. Tô Đại nói: - Không có cớ gì mà ra quân thì việc tất không thành, nay Triệu không có tội gì mà đánh, được đất chỉ lợi cho Tần, chứ Tề không ích gì. Nay vua Tống là người vô đạo, thiên hạ đã gọi là Kiệt Tống, nếu vua đánh Triệu chi bằng đánh Tống, được đất có thể giữ được, được dân có thể sai được, mà lại được tiếng là kẻ giết bạo ngược, đó là việc làm của Thang, Vũ ngày xưa vậy. Mân Vương vui lòng nhận đế hiệu mà không xưng, hậu đãi sứ Tần, từ chối việc đánh Triệu. Vua Tần xưng đế mới được hai tháng, thấy Tề vẫn xưng vương bèn bỏ đế hiệu không xưng nữa. Lại nói vua Tống bấy giờ tên là Yển, sinh có tướng lạ, mình dài chín thước bốn tấc, mặt rộng một thước ba tấc, mắt như sao lớn, mặt có ánh sáng, sức khỏe có thể uốn cong nắn thẳng được móc sắt. Đời Chu Hiển Vương năm thứ bốn mươi mốt, Yển giết anh là Định Thành tự lập lên làm vua, được 11 năm, nhân người nước tìm trong tổ chim sẻ, thấy trong một cái trứng đã nở được một con chim chiên nhỏ, cho là điềm lạ đem dâng Yển, Yển sai thái sử bói xem hay dở thế nào. Thái sử xem xong tâu rằng: - Chim nhỏ mà sinh chim lớn, đó là cái điềm đổi yếu làm mạnh, lập nên nghiệp đế vương. Yển mừng nói rằng: - Nước Tống yếu lắm, nếu quả nhân này không chấn hưng thì còn chờ đợi người nào. Rồi kén nhiều tráng đinh, tự huấn luyện lấy được 10 vạn tinh binh, Đông đánh Tề lấy năm thành, Nam đánh Sở mở rộng được hơn ba trăm dặm đất, bên Tây đánh được nước Ngụy, lấy hai thành, diệt nước Đằng chiếm lấy cả đất, rồi sai sứ sang thông hiếu với Tần, Tần cũng sai sứ sang đáp lại. Từ đó Tống trở nên một nước mạnh, cùng Tề, Sở, Tam Tấn ngang hàng. Yển tự xưng là Tống Vương, cho rằng những tay anh hùng thiên hạ không ai bằng mình, muốn chóng làm nên nghiệp bá vương, mỗi khi coi chầu, bèn sai quần thần đều hô vạn tuế, trên thềm hô, dưới thềm theo, những lính thị vệ ngoài cửa cũng đều hô theo, tiếng nghe xa đến vài dặm. Lại lấy túi da đựng máu trâu treo lên một cái cần cao dương cung mà bắn, cung mạnh tên cứng, bắn suốt qua túi da, máu từ trên không chảy xuống ròng ròng, rồi sai người truyền nói ở chợ rằng vua ta bắn trời đắc thắng, để dọa nạt người ở xa. Lại bày cuộc uống rượu suốt đêm, đem rượu ép đổ cho quần thần, mà ngầm sai tả hữu lấy nước lã giả làm rượu để mình uống, quần thần người nào vốn uống được nhiều lúc ấy cũng đều say lả ra, không giữ được lễ nữa, chỉ có Yển vẫn tỉnh táo như thường, những người tả hữu nịnh hót rằng: - Quân vương lượng rượu như bể, dù uống đến nghìn thạch cũng không say. Yển lại bắt nhiều phụ nữ để chơi vui, một đêm có thể ngự được 10 con gái, sai người nói phao lên rằng tinh thần vua Tống mạnh bằng mấy trăm người, không bao giờ thấy mỏi mệt. Một hôm đến chơi ở gò Phong Phụ, thấy một người đàn bà hái dâu rất đẹp, xây đài Thanh Lăng để đứng trông, hỏi dò thì đó là vợ Hàn Phùng, con gái họ Tức, Yển sai người đến dỗ Phùng bảo đem vợ hiến mình. Phùng đem chuyện ấy nói với vợ, và hỏi có bằng lòng không, người vợ làm bài thơ tỏ ý rằng: "Núi Nam có con chim, núi Bắc giăng lưới bắt, chim mặc sức bay cao, lưới kia đành quăng vất". Vua Tống vẫn cứ yêu mến họ Tức không thôi, sai người đến tận nhà cướp lấy, Hàn Phùng thấy vợ bị bắt đưa lên xe đi, trong lòng không nỡ, liền tự sát. Vua Tống đòi họ Tức cùng lên đài Thanh Lăng bảo rằng: - Ta đây là vua Tống, có thể làm giàu sang người, cũng có thể sinh sát người, phương chi chồng nàng đã chết, nàng còn về với ai, nếu bằng lòng thờ quả nhân, sẽ được lập làm hoàng hậu, họ Tức làm một bài thơ để tỏ ý rằng: "Chim có sống mái, chẳng theo phượng hoàng, thiếp là thứ dân, chẳng thích Tống Vương". Vua Tống nói: - Nàng nay đã đến đây, dẫu không muốn thờ quả nhân cũng không thể được. Họ Tức nói: - Để cho thiếp tắm gội thay áo lạy linh hồn chồng cũ rồi sẽ xin chầu hầu đại vương. Vua Tống bằng lòng cho, họ Tức tắm gội thay áo xong, ngửa trông lên không, chắp tay vái hai vái, rồi từ trên đài đâm đầu xuống đất, vua Tống vội sai người kéo áo lôi lại nhưng không kịp, xem thì đã tắt hơi rồi, khám xem trong mình thấy ở giải quần có một bức thư, đại ý nói sau khi chết xin cho đem thi thể cùng chôn một mộ với chồng cũ là Hàn Phùng, ở dưới suối vàng sẽ được cám ơn sâu. Vua Tống cả giận, bắt chôn riêng một nơi, cố làm cho hai mộ cách xa nhau, làm cho Đông Tây dẫu trông thấy nhau mà không gần nhau được. Chôn vợ Hàn Phùng được ba ngày, vua Tống trở về nước, bỗng một đêm có giống cây văn tử mọc ở cạnh hai cái mộ, chỉ trong một tuần, cây ấy dài hơn ba thước, những cành quấn quít lấy nhau như một, có một đôi chim uyên ương hay đậu ở trên cành, giao đầu cùng kêu thương, người trong xóm thương xót bảo nhau rằng đó là oan hồn vợ chồng Hàn Phùng hóa sinh ra vậy, bèn gọi thứ cây ấy là "cây tương tư". Quần thần thấy vua Tống bạo ngược, nhiều người can ngăn, vua Tống căm giận, bèn để cung tên ở bèn chỗ ngồi, người nào can ngăn liền giương cung bắn chết, trong một ngày bắn chết ba người là Cánh Thành, Đái Ô, Công tử Cần. Từ đó cả triều không ai dám ngăn nữa, chư hầu gọi là Kiệt Tống. Bấy giờ vua Tề nghe lời Tô Đại, sai sứ sang Sở, Ngụy, ước cùng đánh Tống lấy đất chia ba. Khi quân đã ra, vua Tần nghe tin giận nói rằng: - Tống mới cùng Tần kết giao mà Tề đánh, quả nhân tất phải cứu Tống mới được. Vua Tề sợ quân Tần cứu Tống, hỏi kế Tô Đại, Đại nói: - Tôi xin ngăn quân Tần để đại vương được thành công đánh Tống. Tô Đại bèn đi yết kiến vua Tần nói rằng: - Nay nước Tề đánh Tống, tôi xin có lời mừng đại vương. Vua Tần nói: - Tề đánh Tống, làm sao tiên sinh lại mừng quả nhân? Đại nói: - Vua Tề cường bạo không khác gì Tống, nay ước Sở, Ngụy đánh Tống, cái thế tất đánh lừa Sở, Ngụy. Sở, Ngụy bị lừa tất phải quay về phía Tây mà thờ Tần, như vậy Tần bỏ một Tống để giữ Tề mà thu được hai nước Sở, Ngụy vậy. Vì vua có cái lợi ấy nên tôi mừng. Vua Tần nói: - Quả nhân muốn cứu Tống, có nên chăng? Đại đáp rằng: - Kiệt Tống đều bị thiên hạ đem lòng căm giận đều muốn cho mất đi mà một mình Tần lại cứu, thiên hạ sẽ lại đem lòng căm Tống mà căm Tần. Vua Tần không phái quân đi cứu Tống nữa. Quân Tề kéo đến đất Tống trước, quân Sở, Ngụy cũng lục tục đến họp, tướng Tề là Hàn Nhiếp, tướng Sở là Đường Muội, tướng Ngụy là Mang Mão, ba người cùng họp bàn. Đường Muội, nói: - Vua Tống chí lớn khí kiêu, nên làm ra thế yếu để dụ nó. Mang Mão nói: - Vua Tống dâm ngược, lòng người lìa oán, ba nước ta đều có cái thù mất quân mất đất, nên truyền hịch văn, tuyên bố tội ác, để chiêu dụ những dân đất cũ, khiến giở giáo lại mà đánh Tống. Hàn Nhiếp nói: - Hai ngài nói đều phải cả. Bèn làm hịch văn kể mười tội lớn của Kiệt Tống: Một là đuổi anh cướp ngôi, được nước không chính; hai là diệt Đằng kiêm đất, cậy mạnh lấn yếu; ba là ham muốn sự chiến tranh, xâm phạm nước lớn; bốn là túi da bắn trời, đắc tội với Thượng đế; năm là say sưa suốt đêm, không hỏi đến việc chính; sáu là cướp lấy vợ người, hoang dâm vô sỉ; bảy là bắn giết những bày tôi can ngăn, khiến người trung lương phải ngậm miệng; tám là tiếm nghĩ vương hiệu, tự tôn mình; chín là riêng nịnh nước Tần, kết oán với các lân quốc; mười là khinh thần ngược dân, không còn giữ quân đạo. Hịch văn đến đâu, lòng người đều náo động, những đất của ba nước bị Tống chiếm được, nhân dân đều không vui lòng theo Tống, nên đâu đấy đều bỏ quan đuổi lại, lên mặt thành tự giữ để đợi quân đến, bởi vậy quân ba nước đến đâu được đấy, thẳng bức thành Chuy Dương. Vua Tống điểm duyệt xa mã tự lĩnh đạo trung quân, cách thành 10 dặm đóng dinh, để phòng giữ quân ba nước đánh úp. Hàn Nhiếp trước sai tướng bộ hạ là Lưu Khâu Kiệm đem năm nghìn người khiêu chiến, quân Tống không ra. Lưu Khâu Kiệm sai mấy tên quân to tiếng, đứng trên xe cao, kể mười tội của Kiệt Tống. Vua Tống cả giận, sai tướng quân là Lư Man, ra thành đánh qua vài hợp. Lư Khâu Kiệm thua chạy, Lư Man đuổi theo, Kiệm bỏ hết xe ngựa khí giới lật đật chạy trốn. Vua Tống lên trên lũy, trông thấy quân Tề đã thua, mừng nói rằng: - Đánh thua được quân Tề thì Sở, Ngụy chẳng còn làm gì được Bèn đem hết quân ra đánh, thẳng bức dinh Tề, Hàn Nhiếp lại nhường một trận, lui ra ngoài 20 dặm đóng trại, sai hai quân Đường Muội, Mang Mão chia hai đường tả hữu lẻn đánh mặt sau đại dinh vua Tống. Hôm sau, vua Tống cứ tưởng là quân Tề không thể đánh được nữa, đem hết quân tiến đánh, Lư Khâu Kiệm dùng hiệu cờ Hàn Nhiếp, bày trận cùng giữ, từ giờ Thìn đến giờ Ngọ, đánh nhau hơn ba mươi lần, vua Tống quả nhiên là người anh dũng, một tay chém chết hơn 20 viên tướng Tề, binh sĩ chết mất hơn trăm, tướng Tống là Lư Man cũng chết trận. Lư Khâu Kiệm lại thua bỏ chạy, bỏ lại vô số xe ngựa và khí giới, quân Tống tranh nhau cướp lấy, bỗng có thám tử báo quân địch đánh úp thành Chuy Dương rất gấp, hỏi dò ra là hai quân Sở, Ngụy. Vua Tống cả giận, vội quay quân trở lại, đi chưa được năm dặm, bỗng có một đạo quân xông ra, nói to lên rằng: - Thượng tướng nước Tề là Hàn Nhiếp ở đây, lão hôn quân vô đạo kia sao không đầu hàng đi! Hai tướng tả hữu vua Tống là Tái Trực, Khuất Chí Cao đều đem quân ra, Hàn Nhiếp hăng hái ra oai, chém chết ngay Chí Cao ở dưới xe, Tái Trực không giao phong, bảo hộ vua Tống vừa đánh vừa chạy, về đến dưới chân thành Chuy Dương, thủ tướng Công tôn Bạt nhận được là quân mã của nhà, mở cửa cho vào. Ba nước hợp quân đánh phá, ngày đêm không nghỉ, bỗng lại có một đạo đại quân kéo đến, tức là Tề Mân Vương, sợ Hàn Nhiếp không thành công, thân suất đại tướng Vương Chúc, thái sử Hiển dẫn ba vạn quân đến giúp sức. Quân Tống biết vua Tề thân tự đốc quân đều sợ hãi rồi sinh nản lòng cả, lại vì vua Tống không thương quân lính, ngày đêm chỉ đốc thúc canh giữ mà chẳng có ân thưởng gì, nên đều oán giận, Tái Trực bảo vua Tống rằng: - Thế quân địch rất mạnh mà lòng người lại sinh biến, chi bằng đại vương hãy bỏ thành tạm tránh đến Hà Nam, rồi sẽ lo khôi phục. Vua Tống bấy giờ trong lòng buồn bực, cái chí muốn đồ bá tranh vương đã nguội ngắt như tro tàn, than thở một hồi, cùng Tái Trực nửa đêm bỏ thành mà trốn. Công tôn Bạt bèn dựng cờ hàng, đón vua Tề vào thành. Vua Tề an ủi trăm họ, một mặt sai quân lính đuổi theo vua Tống, đến Ôn Ấp thì đuổi kịp, trước bắt Tái Trực chém chết, vua Tống tự đâm đầu xuống cái ngòi Thần Nông, không chết, bị quân lính lôi ra chém đầu đưa về Chuy Dương. Tề, Sở, Ngụy bèn cùng diệt Tống, chia đất làm ba, vua Tề nói: - Việc đánh Tống này, công Tề nhiều hơn, Sở, Ngụy sao được nhận đất. Bèn đem quân ngầm theo sau quân Đường Muội đánh úp quân Sở ở Trùng Để, thừa thắng đuổi đi, thu lấy cả đất Hoài Bắc, lại lấn đánh Tam Tấn được thắng lợi luôn. Sở, Ngụy căm giận vua Tề phụ ước quả đều sai sứ cầu phụ nước Tần, Tần lại cho đó là công của Tô Đại. Tề Mân Vương đã gồm có đất Tống, chí khí càng kiêu căng, sai sứ đi dụ nước Vệ, Lỗ, Trần, ép phải xưng thần vào triều, ba nước sợ oai phải theo. Mân Vương nói: - Quả nhân chiếm Yên diệt Tống, mở đất hơn nghìn dặm, đánh Lương cắt Sở, oai lừng khắp chư hầu. Lỗ, Vệ đều đã xưng thần, mai kia sẽ đem một toán quân lấy đất của hai nhà Chu, rời chín đỉnh đến Lâm Tri, chính hiệu thiên tử để lệnh thiên hạ, ai còn dám không theo. Mạnh Thường Quân can rằng: - Vua Tống vì kiêu cho nên Tề mới đánh được, xin đại vương nên lấy nước Tống làm răn. Nhà Chu dẫu hèn yếu, nhưng gọi là công chủ, bảy nước đánh nhau không dám động đến nhà Chu là sợ mang tiếng. Đại vương trước bỏ đế hiệu không xưng, thiên hạ thấy thế đều khen ngợi nước Tề là khiêm nhượng, nay bỗng nảy ra cái chí thay nhà Chu, e không phải là phúc cho Tề. Mân Vương nói: - Vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ đánh vua Trụ, Kiệt, Trụ chẳng phải là chủ đó ru? Quả nhân sao không bằng Thang, Vũ chỉ tiếc ngươi không phải là Y Doãn, Thái công đó thôi. Rồi đó lại thu tướng ấn của Mạnh Thường Quân, Mạnh Thường Quân sợ bị giết, chạy sang Đại Lương, ở nhờ Công tử Vô Kỵ. Vô Kỵ là con bé Ngụy Chiêu Vương, có tính khiêm cung, quí trọng kẻ sĩ, tiếp đãi người rất sốt sắng. Một hôm, ăn cơm buổi sáng, có một con chim cưu bị con chim dao đuổi, vội chui xuống gầm bàn, Vô Kỵ che giấu cho con chim cưu, trông con chim dao đi rồi mới thả cho ra, không ngờ con dao ẩn trên nóc nhà thấy con cưu bay ra đuổi bắt mà ăn thịt. Vô Kỵ tự trách mình rằng: "Con cưu ấy tránh nạn mà vào với ta, kết cục vẫn bị con dao giết chết, thực là ta làm hại con cưu ấy". Nghĩ vậy rồi cả ngày buồn bực không ăn, sai các người tả hữu bắt hơn trăm con chim dao, mỗi con nhốt vào một cái lồng, Vô Kỵ nói: - Chỉ có một con dao giết con cưu kia, nỡ nào lại bắt tội lây đến những con dao khác. Bèn cầm gươm đập lên trên những cái lồng mà khấn rằng: "Con nào không giết con cưu kia thì hướng vào ta mà kêu lên, ta sẽ tha cho". Tất cả những chim dao đều kêu, riêng đến một cái lồng, con dao ấy gục đầu không dám ngửa trông, bèn bắt ra giết chết, còn các con khác đều mở lồng thả ra. Người ta nghe việc ấy lấy làm kính phục, nói rằng: - Triệu Công tử không nỡ phụ một con chim cưu, khi nào lại nỡ phụ người. Từ đó kẻ sĩ không kể hiền ngu đều theo về đông như chợ, khách ăn trong nhà cũng đến ba nghìn người, cũng như Mạnh Thường Quân và Bình Nguyên Quân. Nước Ngụy có một ẩn sĩ là Hầu Doanh, tuổi đã hơn 70, nhà nghèo phải làm chức giữ cửa ở Di môn. Vô Kỵ nghe tiếng là người hiền và hay có kỳ kế, người trong làng xóm đều tôn kính, gọi là Hầu Sinh, bèn đi xe đến tận nhà yết kiến, lấy 20 cân hoàng kim làm lễ chào. Hầu Sinh từ chối nói rằng: - Doanh này yên phận nghèo để giữ mình không nhận bậy của ai một đồng nào, nay đã già rồi, lẽ nào lại vì Công tử mà đổi tiết. Vô Kỵ không thể ép được, muốn tỏ ý tôn kính cho tân khách biết, bèn đặt một cuộc đại yến. Đến ngày, tôn thất và các tướng văn tướng võ nước Ngụy cùng các quí khách đều đến dự yến. Khi đã mời mọi người ngồi yên rồi, còn để trống ghế thứ nhất ở bên tả, Vô Kỵ sai sắp xe thân đến Di môn mời Hầu Sinh đến dự yến. Hầu Sinh lên xe. Vô Kỵ vái mời ngồi bên cầm cương, ý rất cung kính. Hầu Sinh lại bảo Vô Kỵ rằng: - Tôi có một người khách là Chu Hợi làm nghề mổ lợn ở trong chợ, muốn đến thăm, Công tử có thể cùng đi được không? Vô Kỵ nói: - Xin cùng đi với tiên sinh. Rồi dẫn xe quặt đường đi vào chợ, đến cửa hàng thịt, Hầu Sinh nói: - Công tử hãy tạm dừng xe lại, để già này đến thăm khách. Hầu Sinh xuống xe, vào nhà Hợi, cùng Hợi ngồi ở trước bàn thịt nói chuyện giờ lâu. Hầu Sinh thỉnh thoảng lại nhìn Vô Kỵ, thấy vẫn ra ý vui vẻ không chán nản, bấy giờ mấy chục tên kỵ binh theo hầu, thấy Hầu Sinh nói chuyện mãi, lấy làm tức mình, có đứa chửi thầm, Hầu Sinh cũng nghe tiếng, duy có Vô Kỵ vẫn vui vẻ, bèn từ biệt Chu Hợi, lại lên xe ngồi trên như trước. Vô Kỵ đi từ giờ Ngọ mãi đến giờ Thân mới về đến phủ, quí khách thấy Vô Kỵ thân đi đón khách, lại để trống chỗ đợi, không biết là vị du sĩ có tiếng ở nơi nào hay vị sứ thần nước lớn nào, đều một lòng kính cẩn chờ đợi. Chờ mãi không thấy đến, ai nấy đã chán nản, bỗng nghe báo Công tử đã đón khách về đến nơi, ai nấy đều đứng dậy chờ xem người thế nào, khi khách vào đều ngước mắt nhìn xem, thì là một ông già râu bạc áo mũ mộc mạc, đều lấy làm lạ. Vô Kỵ dẫn Hầu Sinh giới thiệu khắp mọi người, ai nấy mới biết là người giữ cửa Di Môn, đều không bằng lòng. Vô Kỵ mời Hầu Sinh ngồi ghế đầu, Hầu Sinh không hề nhún nhường, khi uống rượu đã nửa chừng, Vô Kỵ tay nâng chén rượu mời Hầu Sinh. Hầu Sinh đón lấy và nói rằng: - Tôi đây là một kẻ lại giữ cửa quan, Công tử đã hạ mình đến đón, chờ lâu ở trong chợ, lại cho ngồi trên các tân khách, về phần tôi thực là quá phận, nhưng tôi làm ra như thế, là muốn cho Công tử được cái tiếng biết nhún mình quí kẻ sĩ vậy. Quý khách cười thầm rồi tiệc tan. Từ đó Hầu Sinh là thượng khách của Vô Kỵ. Hầu Sinh nhân đó mà tiến cử Chu Hợi là người hiền, Vô Kỵ thường đến yết kiến, nhưng Chu Hợi tuyệt không đến đáp lễ, mà Vô Kỵ không lấy làm quái, đủ biết là người thực lòng quí trọng kẻ sĩ vậy. Bấy giờ, Mạnh Thường Quân đến Ngụy, ở nhờ Vô Kỵ, đồng thanh đồng khí nên tình ý rất hợp nhau. Mạnh Thường Quân vốn chơi thân với Bình Nguyên Quân nước Triệu, nên khuyên Vô Kỵ kết giao với Bình Nguyên Quân. Vô Kỵ lại đem chị gái gả cho Bình Nguyên Quân, từ đó, Triệu, Ngụy thông hiếu với nhau, có Mạnh Thường Quân đứng giữa. Mân Vương nước Tề từ sau khi Mạnh Thường Quân bỏ đi, lại càng kiêu căng, muốn thay nhà Chu làm thiên tử, bấy giờ ở nước Tề sinh ra nhiều điềm quái lạ, trời mưa ra máu trong khoảng vài trăm dặm, ướt cả áo người đi đường, tanh hôi lạ thường, lại đất nẻ vài trượng, nước suối chảy ra; lại có người đến cửa quan mà khóc, chỉ nghe tiếng, không thấy hình. Nhân dân lấy thế làm lo sợ, các quan đại phu là Hồ Cắng, Trần Cử trước sau can ngăn và xin gọi Mạnh Thường Quân về, Mân Vương đều căm giận giết chết cả, sai phơi thây ở ngoài đường đi, để bịt miệng những người chực can. Vì vậy bọn Vương Chúc, Thái sử Hiển đều xưng bệnh từ chức, về ẩn ở làng xóm. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 95 Thống đại quân Nhạc Nghị diệt Tề Thả trâu lửa Điền Đan phá Yên Bấm để xem Lại nói Yên Chiêu Vương từ khi lên ngôi ngày đêm chỉ lo tính việc đánh Tề để báo thù, thăm người chết, an ủi kẻ mồ côi, cam khổ cùng quân lính, tôn lễ hiền sĩ, hào kiệt các nơi theo về đông như chợ. Có người nước Triệu là Nhạc Nghị, cháu Nhạc Dương, từ bé hay đọc binh pháp. Khi xưa Nhạc Dương được phong ở Linh Thọ, con cháu bèn ở luôn đó. Việc loạn Sa Khâu đời Chủ Phụ nước Triệu, Nhạc Nghị bỏ Linh Thọ mang gia quyến đến ở Đại Dương, thờ Ngụy Chiêu Vương không được tin dùng, nghe tiếng vua Yên chiêu đãi hiền sĩ, muốn đến làm tôi, bèn mưu sang sứ Yên, yết kiến Chiêu Vương nói về binh pháp. Chiêu Vương biết là người hiền, đãi lấy lễ khách, Nhạc Nghị nhún nhường không dám đương, xin cho được làm tôi, Chiêu Vương cả mừng liền bái Nhạc Nghị làm á khanh, ngôi ở trên bọn Kịch Tân. Nhạc Nghị bèn gọi hết người trong họ sang ở Yên làm người Yên. Bấy giờ nước Tề cường thịnh, lấn đánh chư hầu, Chiêu Vương hết sức giữ gìn, nuôi quân thương dân, đợi thời mới động. Đến khi Mân Vương đuổi Mạnh Thường Quân, mặc sức cuồng bạo, trăm họ không sao chịu nổi, Chiêu Vương tự lượng sức có thể báo được thù liền hỏi Nhạc Nghị rằng: - Quả nhân mang cái thù của tiên nhân đã 28 năm nay rồi, chỉ sợ lỡ một sớm chết đi, không kịp tự tay đâm bụng vua Tề để rửa thù nước, suốt đêm lo nghĩ rất đỗi đau lòng, nay vua Tề cuồng bạo, trong ngoài đều oán, đó là lúc trời làm mất nước Tề, quả nhân muốn đem quân đi cùng vua Tề quyết một trận sống mái, vậy tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân? Nhạc Nghị nói: - Nước Tề đất rộng người nhiều, quân lính quen đánh trận, chưa có thể một mình đánh được, đại vương nếu muốn đánh phải cùng mưu thiên hạ. Nay nước Triệu là láng giềng với Yên, nên trước hợp với Triệu, thì Hàn tất theo, còn Ngụy có Mạnh Thường Quân ở đó, Mạnh Thường Quân lại đang căm giận Tề, tất Ngụy cũng theo, như vậy thì có thể đánh được Tề. Chiêu Vương lấy làm phải, liền sai Nhạc Nghị đi nói với Triệu, vua Triệu nhận lời, lại gặp lúc có sứ Tần ở đó, Nhạc Nghị liền bảo sứ Tần về cái lợi đánh Tề, sứ giả về báo, vua Tần đang ghét nước Tề cường thịnh sợ chư hầu phản Tần mà thờ Tề, bèn cũng xin dự việc đánh Tề. Kịch Tân sang Ngụy nói với Tín Lăng Quân, Tín Lăng Quân cũng bằng lòng, lại ước nước Hàn cũng dự vào, rồi cùng định kỳ xuất binh. Vua Yên bèn đem hết quân tinh nhuệ trong nước, sai Nhạc Nghị thống xuất, tướng Tần là Bạch Khởi, tướng Triệu là Liêm Pha, tướng Hàn là Bạo Diêu, tướng Ngụy là Tấn Bỉ, đều đốc xuất một đạo quân đúng hẹn mà đến. Vua Yên sai Nhạc Nghị thống xuất cả quân năm nước gọi là Nhạc Thượng tướng quân, thẳng đường tiến sang nước Tề. Vua Tề tự đốc xuất đạo trung quân, cùng đại tướng là Hàn Nhiếp đón đánh ở phía tây Tế Thủy. Nhạc Nghị thân đi trước quân lính, binh tướng bốn nước đều hăng hái xông đánh, chém giết quân Tề thây lăn đầy đồng, máu chảy thành suối. Hàn Nhiếp bị em Nhạc Nghị là Nhạc Thừa giết chết. Các đạo quân thừa thắng đuổi theo, vua Tề thua to, chạy về Lâm Tri, luôn ban đêm sai người sang Sở cầu cứu, hứa xin dâng cả đất Hoài Bắc, một mặt kiểm điểm quân dân, lên thành phòng giữ. Tần, Ngụy, Hàn, Triệu thừa thắng đều chia đường đi đánh lấy những thành ở biên cảnh, chỉ có Nhạc Nghị tự dẫn quân Yên kéo thẳng mãi vào, đến đâu đều hiểu dụ, các thành nước Tề đều tan vỡ, thế như chẻ tre, đại quân thẳng bức thành Lâm Tri. Mân Vương sợ quá, bèn cùng vài mươi viên quan văn võ, ngầm mở cửa Bắc chạy trốn, đi đến nước Vệ. Vệ quân ra tận ngoài thành đón rước và xưng thần, mời vào thành, nhường chính điện cho ở, cung phụng rất cung kính, Mân Vương kiêu ngạo, không lấy lễ đãi Vệ quân, quần thần nước Vệ đều không bằng lòng, ban đêm lẻn đến cướp các xe chở đồ. Mân Vương giận, muốn chờ Vệ quân đến chầu, bảo phải bắt kẻ trộm, nhưng Vệ quân luôn mấy ngày không đến triều kiến cũng không cung cấp đồ ăn cho nữa, Mân Vương xấu hổ quá, đợi mãi đến mặt trời đã xế bóng nghe đói lắm, sợ Vệ quân mưu hại mình, cùng Di Duy và mấy người nữa luôn ban đêm trốn đi, những người đi theo đã mất chủ đều tìm đường tan chạy cả. Mân Vương khi chạy đến cửa quan nước Lỗ, viên lại giữ cửa phi báo, Lỗ quân sai sứ giả ra đón. Di Duy hỏi rằng: - Nước Lỗ đãi vua ta thế nào? Sứ giả nói: - Sẽ đãi vua ngươi bằng mười cỗ thái lao. Di Duy nói: - Vua ta là thiên tử, thiên tử đến tuần thú, chư hầu phải lánh ra ở ngoài cung, sớm chiều phải tự mình coi nom đồ ăn ở dưới thềm, thiên tử ăn xong mới được lui mà coi chầu, há chỉ đãi mười cỗ thái lao mà thôi ư? Sứ giả về báo Lỗ Quân. Lỗ Quân cả giận đóng cửa không cho vào nữa. Mân Vương lạ phải chạy sang nước Trâu, gặp lúc Trâu quân mới chết, Mân Vương muốn vào thăm, Di Duy bảo người nước Trâu rằng: - Thiên tử hạ mình đến điếu tang, chủ nhân phải lật sấp áo quan lại, đứng ở hè phía Tây, ngoảnh mặt về phía Bắc mà khóc, thiên tử đứng ở hè trên, ngoảnh mặt về phía Nam mà viếng người đã chết. Người nước Trâu nói rằng: "Nước tôi nhỏ, không dám phiền thiên tử hạ mình đến viếng", rồi cũng cự không cho vào. Mân Vương hết đường chạy, không biết tính thế nào. Di Duy nói: - Nghe đâu thành Cử Châu còn giữ được, sao không chạy đến đó. Mân Vương liền chạy đến Cử Châu, đốc quân giữ thành, để chống với quân Yên. Nhạc Nghị đánh phá được thành Lâm Tri, lấy hết tài vật và tế khí của nước Tề và những trọng khí của nước Yên bị Tề cướp lấy ngày trước, dùng xe lớn để chở về nước Yên. Chiêu Vương mừng quá, thân đến trên sông Tế, đại khao tam quân, phong cho Nhạc Nghị đất Xương Quốc gọi là Xương Quốc Quân. Chiêu Vương trở về nước, lưu Nhạc Nghị lại ở Tề, để thu nốt những thành còn chưa hàng phục. Tôn thất nước Tề có một người là Điền Đan có trí thuật và biết việc quân, Mân Vương không biết trọng dụng, hiện lúc ấy chỉ làm một người coi chợ ở Lâm Tri. Quân Yên vào thành Lâm Tri, nhân dân đều trốn tránh, Điền Đan cùng cả họ chạy trốn đến Yên Bình, bao nhiêu xe đều chặt bỏ đầu trục cả, gần bằng vành bánh xe rồi lấy lá sắt bịt chặt cho vững chắc, ai nấy đều chê cười. Không bao lâu quân Yên đến đánh Yên Bình, thành bị phá, người Yên Bình lại tranh nhau chạy trốn, những xe đi đều xô đẩy nhau, vì nhiều đầu trục va chạm vào nhau không thể đi nhanh được, hoặc trục gãy xe đổ đều bị quân Yên bắt được, chỉ có xe của người họ Điền vì đầu trục đều đã bọc sắt, nên không vướng víu nhau, đi được nhanh, cùng chạy thoát đến Tức Mặc. Nhạc Nghị lại chia quân đi cướp đất, đến ấp Trú, nghe quan thái phó cũ nước Tề là Vương Chúc ở đó, truyền lệnh cho quân vây ngoài ấp cách 30 dặm, không cho phạm đến, sai người đem lễ đón Chúc, muốn tiến lên vua Yên, Chúc từ là bệnh già không chịu đi, sứ giả nói: - Thượng tướng quân có lệnh, thái phó đến sẽ dùng ngay làm tướng và phong cho ấp muôn nhà nếu không đi thì sẽ đem quân làm cỏ cả ấp. Chúc ngửa lên trời than rằng: - Trung thần không thờ hai vua, liệt nữ không thờ hai chồng, vua Tề xa bỏ những người có lòng trung can ngăn, cho nên tôi lui về nhà cày ruộng, nay nước phá vua mất, tôi không thể giữ còn được, lại chực lấy binh lực dọa tôi, tôi nếu chịu tiếng bất nghĩa mà sống, thì thà giữ trọn nghĩa mà chịu chết còn hơn. Nói xong tự treo đầu lên trên cây vật mình một cái, cổ đứt mà chết. Nhạc Nghị nghe tiếng, than tiếc mãi không thôi, rồi sai làm lễ táng rất hậu, dựng mộ chí đề rằng: "Mộ Vương Chúc là trung thần nước Tề". Nhạc Nghị ra quân vừa sáu tháng, đánh hạ được 72 thành của Tề, đều đặt làm quận huyện của Yên, duy có Cử Châu và Tức Mặc, người Tề cố giữ không sao hạ được, Nhạc Nghị bèn cho quân lính nghỉ, bỏ lệnh nghiêm nhặt, lại vì Tề Hoàn công, Quản Di Ngô lập đền cúng tế, tìm thăm những người có tài mà ẩn một chỗ không ra, dân Tề đều vui mừng, cái ý Nhạc Nghị cho rằng Tề chỉ còn có hai thành mà lại ở trong tay mình rồi, thì cũng không làm gì được, cho nên không cố đánh lấy nữa. Lại nói vua Sở thấy sứ Tề sang xin quân cứu, hứa cắt dâng cả đất Hoài Bắc, bèn sai đại tướng là Trác Xỉ mang 20 vạn quân, lấy cớ đi cứu Tề, sang Tề nhận đất, bảo Trác Xỉ rằng: - Vua Tề cấp quá mà phải cầu ta, tướng quân sang đó cứ liệu chừng mà làm, hễ có lợi cho Sở, thì cứ tùy ý làm việc. Trác Xỉ tạ ân mang quân đi, yết kiến Tề Mân Vương ở Cử Châu, Mân Vương được Trác Xỉ, lập làm tướng quốc, quyền lớn đều về tay Xỉ. Xỉ thấy quân Yên thế mạnh, sợ cứu Tề vô công, bèn mật sai sứ tư thông với Nhạc Nghị, muốn giết Mân Vương để cùng Yên chia đất Tề, khiến người Yên lập mình làm vua, Nhạc Nghị đáp lại rằng: - Tướng quân giết kẻ vô đạo, tự mình lập nên công danh, sự nghiệp còn to hơn Hoàn, Văn ngày xưa vậy, những điều xin đó, xin theo như mệnh. Trác Xỉ mừng quá, bèn dàn quân ở Cổ Lí, mời Mân Vương đến duyệt binh. Mân Vương đến nơi quân Trác Xỉ liền bắt mà kể tội rằng: - Tề có ba cái điềm mất nước: Mưa ra máu đó là trời bảo, đất nẻ toang đó là đất bảo, có người đến giữa cửa quan mà khóc đó là người bảo. Vậy mà vua không biết răn sợ, giết người trung, bỏ người hiền, mong mỏi điều phi phận, nay cả đất đều mất hết, mà trộm sống ở một thành, còn muốn làm gì nữa. Mân Vương cúi đầu không nói gì, Di Duy ôm lấy vua mà khóc, Trác Xỉ sai giết Di Duy trước, rồi sai rút gân Mân Vương, treo trên nóc nhà, sau ba ngày mới tắt hơi. Mân Vương bị giết như thế, thực là thảm quá. Trác Xỉ về Cử Châu, muốn tìm thế tử vua Tề mà giết nốt, nhưng không được, bèn làm biểu tâu vua Yên tự kể công mình, nhờ Nhạc Nghị chuyển đạt cho. Lại nói quan đại phu nước Tề là Vương tôn Giả mới 12 tuổi, cha mất, chỉ còn mẹ già, Mân Vương thương cho làm quan. Mân Vương bỏ chạy. Giả cũng theo đi, đến nước Vệ lạc nhau, chẳng biết Mân Vương ở đâu nữa, bèn lẻn về nhà, bà mẹ trông thấy hỏi vua Tề ở đâu, Giả nói: - Con theo vua đến nước Vệ, nửa đêm vua tôi cùng bỏ trốn, rồi không biết vua đi về ngả nào. Bà mẹ giận nói rằng: - Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa mà mong, mày chiều đi mà không về, thì ta đứng tựa cổng mà mong. Vua mong bày tôi, có khác gì mẹ mong con. Mày làm tôi vua Tề, vua ban đêm chạy trốn, mày không biết vua đi đâu, sao lại bỏ về. Giả thẹn quá, lại từ biệt mẹ già, đi tìm vua Tề, nghe vua ở Cử Châu, đến ngay để tìm, khi đến đó, mới biết vua Tề đã bị Trác Xỉ giết chết. Giả bèn trần tay áo bên tả ra hô hào ở ngoài chợ rằng: - Trác Xỉ làm tướng Tề mà giết vua, thế là làm tôi bất trung, nếu ai bằng lòng cùng ta giết kẻ có tội ấy, thì theo ta cũng trần tay áo bên tả. Người trong chợ cùng bảo nhau rằng: - Người ấy ít tuổi mà còn có lòng trung nghĩa, chúng ta ai là người hiếu nghĩa, tưởng đều nên theo. Rồi một chốc, có đến hơn bốn trăm người trần tay áo bên tả. Bấy giờ quân Sở dẫu nhiều, đều chia đóng ở ngoài thành. Trác Xỉ ở cung vua Tề đang uống rượu say, sai phụ nữ tấu nhạc làm vui, vài trăm quân lính, dàn hầu ở ngoài cung. Vương tôn Giả đem hơn 400 người xông vào cướp khí giới của quân lính, sấn vào trong cung, bắt Trác Xỉ, xả thây ra bằm thịt nát nghiền thành nước, rồi đóng cửa thành cố giữ, quân Sở không có chủ tướng, một nửa bỏ trốn, một nửa đầu hàng nước Yên. Lại nói thế tử Tề là Pháp Chương, nghe vua Tề bị hại, bèn đổi lốt làm người nghèo khổ, tự xưng người ở Lâm Tri, tên là Vương Lập chạy đi tránh nạn, không biết đi về đâu, phải vào nhà Thái sử Hiểu làm mướn, giữ việc tưới vườn, làm lụng chăm chỉ, không ai biết là người quí phái. Thái Sử Hiểu có người con gái tuổi vừa cập kê, bỗng ra chơi vườn, thấy trạng mạo Pháp Chương, lấy làm lạ, nghĩ thầm người này không phải là người thường, cớ sao lại phải khuất phục ở đây. Rồi sai thị nữ hỏi dò lai lịch, Pháp Chương sợ vạ, nhất định không chịu nói ra. Người con gái nghĩ thầm, rồng đội lốt cá, sợ mà phải giấu, người này về sau phú quí không biết thế nào mà nói vậy. Từ đó, thời thường sai thị nữ cung cấp cho áo cơm, lâu dần thành ra thân cận. Pháp Chương bèn ngỏ riêng thân thế cho người con gái biết, người con gái bèn đính ước vợ chồng rồi tư thông với nhau, cả nhà không ai biết. Bấy giờ viên tướng giữ thành Tức Mặc bị bệnh chết, trong quân không chủ, muốn chọn một người biết việc binh, cử lên làm tướng, mà khó có người. Có người biết việc Điền Đan chặt đầu trục xe bọc sắt, chạy nạn được toàn, nói tài ấy có thể làm tướng, bèn cùng tôn lên làm tướng quân. Điền Đan tay cầm ván, thuổng, cùng sĩ tốt làm việc, họ hàng thê thiếp đều ghép vào trong hàng ngũ cả, người trong thành đều sợ mà lại yêu. Lại nói quần thần nước Tề bỏ chạy tán loạn, nghe việc Vương Chúc tử tiết, than rằng: - Hắn đã cáo quan, mà còn mang lòng trung nghĩa, nữa là chúng ta đang làm quan ở triều, lại ngồi nhìn vua mất nước tan, không lo khôi phục, thì còn ra giống người gì nữa. Nói xong, bèn cùng chạy đến Cử Châu theo Vương tôn Giả đi dò tìm thế tử. Hơn một năm, Pháp Chương biết Giả thực lòng, bèn đi ra tự nói mình là Pháp Chương, Thái sử Hiểu báo cho Vương tôn Giả biết, bèn mang xe đến đón về ngôi vua, đó là Tương Vương, rồi báo việc ấy cho thành Tức Mặc biết, ước cùng giúp nhau, để chống quân Yên. Nhạc Nghị vây suốt ba năm không được, bèn cởi vây lui ra chín dặm, đắp lũy để giữ, hạ lệnh rằng dân trong thành có ai ra kiếm củi, thì cho ra không được bắt, ai đói thì cho cơm ăn, ai rét thì cho áo mặc, có ý muốn cho nhân dân trong thành phải cám ơn mà vui lòng qui hàng. Lại nói quan đại phu nước Yên là Kỵ Kiếp hơi có sức khỏe và cũng hay nói việc binh, quen thân với thái tử Nhạc Tư, muốn chiếm lấy binh quyền, bảo thái tử rằng: - Vua Tề đã chết chỉ còn hai thành Cử Châu, Tức Mặc là không lấy được mà thôi, trong có sáu tháng mà Nhạc Nghị hạ được hơn 70 thành của Tề, vậy còn hai thành ấy có khó gì, sở dĩ không hạ ngay, là vì người Tề chưa qui phục, muốn thong thả đem ân uy để kết chặt lòng dân Tề, chẳng bao lâu Nhạc Nghị sẽ tự lập làm vua Tề vậy. Thái tử nói với Chiêu Vương. Chiêu Vương giận nói rằng: - Cái thù của tiên vương ta, không phải Xương Quốc Quân không thể báo được, cho dù Xương Quốc Quân thực muốn làm vua Tề nữa, kể công há chẳng đáng ru? Nói xong, Chiêu Vương bèn đánh thái tử hai mươi roi, rồi sai sứ cầm cờ tiết đến Lâm Tri, bái Nhạc Nghị làm vua Tề. Nhạc Nghị trong lòng cảm kích, xin thề chết không chịu mệnh. Chiêu Vương nói: - Ta vốn biết bản tâm của Nhạc Nghị quyết không bao giờ lại phụ quả nhân. Chiêu Vương vì ham thuật thần tiên, sai phương sĩ luyện kim thạch làm thuốc thần, uống vào lâu ngày phát nhiệt thành bệnh mà chết, thái tử Nhạc Tư nối ngôi, đó là Huệ Vương. Điền Đan thường mật sai người sang Yên dò thám sự tình, nghe việc Kỵ Kiếp mưu thay quyền Nhạc Nghị và việc thái tử bị đánh, nói rằng: - Nước Tề khôi phục được là ở đời vua sau nước Yên chăng. Đến khi Yên Huệ Vương lên ngôi, Điền Đan sai người sang tuyên ngôn ở nước Yên rằng Nhạc Nghị muốn làm vua Tề đã lâu, vì chịu hậu ân của tiên vương Yên, không nỡ làm phản, cho nên hoãn đánh hai thành để chờ cơ hội đó, nay vua mới lên ngôi, vả cùng Tức Mặc liên hòa, người Tề chỉ sợ nhất là tướng khác sắp đến, thì thành Tức Mặc sẽ bị tàn phá chẳng còn gì nữa. Yên Huệ Vương đã lâu vẫn nghi Nhạc Nghị, đến khi nghe lời nói ấy hợp với lời nói của Kỵ Kiếp, tin ngay làm thực, bèn sai Kỵ Kiếp đi thay Nhạc Nghị, mà triệu Nhạc Nghị về nước. Nghị sợ bị giết, nghĩ mình là người Triệu, bèn bỏ nhà chạy về Triệu, vua Triệu phong cho ở Quan Tân, gọi là Vọng Chư Quân. Kỵ Kiếp đã được thay quyền làm tướng, đổi hết lệnh của Nhạc Nghị, quân Yên đều căm giận không phục. Kỵ Kiếp đến lũy ba ngày, liền mang quân đi đánh Tức Mặc, vây thành mấy vòng, trong thành phòng giữ rất vững. Điền Đan sớm dạy bảo người trong thành rằng: - Đêm qua ta chiêm bao thấy Thượng đế bảo ta rằng Tề sẽ lại nổi, Yên tất phải thua, bất nhật sẽ có thần nhân làm quân sư cho ta, đánh trận nào được trận ấy. Có một tên tiểu tốt hiểu ý, chạy đến gần trước mặt Đan, nói nhỏ rằng: - Tôi có thể làm quân sư được không? Nói rồi liền chạy mau, Điền Đan vội đuổi theo giữ lại bảo mọi người rằng. - Vị thần nhân ta thấy trong chiêm bao tức là người này. Rồi cho tên tiểu tốt đội mũ mặc áo, để ở trong quân trướng, cho ngồi trên, ngoảnh mặt về phía Bắc mà thờ làm thầy. Tên tiểu tốt nói: - Tôi thực không có tài gì. Điền Đan nói: - Nhà ngươi cứ im chớ có nói gì. Rồi Điền Đan gọi là thần sư, mỗi lần hạ một lệnh gì, tất bẩm mệnh thần sư rồi mới làm, bảo người trong thành rằng: - Thần sư có lệnh, đến bữa ăn phải tế trước tiên tổ ở sân, sẽ được tổ tôn phù hộ cho. Người trong thành vâng theo lời dạy, các chim bay thấy ở giữa sân có những đồ tế đều lượn múa xuống ăn, như vậy sớm chiều hai lần, quân Yên trông thấy lấy làm quái dị, lại nghe có thần sư xuống dạy, rồi cùng bảo nhau, nói nước Tề được trời giúp, không thể địch được, nếu địch lại tất trái ý trời. Điền Đan lại sai người nói xấu Nhạc Nghị rằng: - Xương Quốc Quân lành quá, bắt được người Tề không giết, cho nên người trong thành không sợ, nếu xẻo mũi đi, thì người Tức Mặc tất phải khổ mà chết. Kỵ Kiếp tin làm thực, đem bao nhiêu những quân đầu hàng xẻo mũi hết cả, người trong thành thấy vậy sợ quá, bảo nhau cố giữ, chỉ sợ quân Yên lấy được thành thì tính mệnh không còn. Điền Đan lại cho nói rêu rao lên rằng những mồ mả của các nhà ở trong thành đều chôn ở ngoài thành cả, nếu bị quân Yên đào bỏ thì làm thế nào. Kỵ Kiếp lại sai quân lính đào hết mồ mả ở ngoài thành, đốt thây người chết, quăng bỏ hài cốt, người Tức Mặc ở trên thành trông thấy đều khóc lóc, căm tức muốn được ăn thịt người Yên, cùng nhau kéo đến quân môn xin ra đánh một trận để báo thù cho tổ tôn. Điền Đan biết là quân lính có thể dùng được rồi, bèn kén chọn năm nghìn người cường tráng cho ẩn ở các nhà dân, còn bao nhiêu người già yếu và phụ nữ thì sai lần lượt giữ thành, sai sứ đưa lễ sang quân Yên, nói trong thành lương hết, đã định đến ngày mỗ thì ra hàng. Kỵ Kiếp bèn hỏi chư tướng rằng: - Ta ví với Nhạc Nghị thế nào? Các tướng đều nói giỏi hơn Nghị gấp mấy, trong quân đều nhảy nhót hô vạn tuế. Điền Đan lại sai thu ở trong dân được hơn nghìn vàng, sai các nhà giàu đưa biếu riêng các tướng Yên, yêu cầu trong ngày hạ thành bảo toàn gia quyến cho. Các tướng Yên cả mừng, nhận vàng, đều giao cho mỗi nhà một lá cờ nhỏ, sai cắm ở trên cửa để làm dấu hiệu, đều không phòng bị, chỉ ngong ngóng chờ Điền Đan ra hàng. Điền Đan lại sai thu ở trong thành được hơn nghìn con trâu, may những áo đỏ, vẽ năm sắc vẻ rồng, khoác vào mình trâu, lấy những đồ nhọn sắc buộc vào sừng trâu, lại lấy cỏ khô tẩm dầu buộc vào đuôi trâu, kéo lê đằng sau như cái chổi lớn. Trước một ngày, xếp đặt đâu vào đấy, ai nấy đều không hiểu ý ra thế nào. Điền Đan giết trâu làm tiệc, đợi đến lúc hoàng hôn, triệu năm nghìn quân cường tráng cho ăn uống no say, vẽ năm sắc vào mặt đều cầm khí giới chạy theo sau trâu, sai trăm họ đào thành làm hang, tất cả vài mươi chỗ, dồn trâu chui qua hang ra ngoài, châm lửa đốt bó cỏ buộc ở đuôi, lửa cháy gần đến đuôi, trâu bị nóng quá, rống lên thẳng chạy sang dinh quân Yên, năm nghìn tráng tốt ngậm tăm chạy theo. Quân Yên cứ chắc là hôm sau người Tề đầu hàng sẽ kéo vào thành, đang đêm đều ngủ yên cả, bỗng nghe tiếng chạy dình dịch, dật mình tỉnh dậy, thấy có hơn nghìn ngọn đuốc sáng rực như ban ngày, trông ra thấy những con vật mình có vẽ rồng hồng hộc chạy đến, những cặp sừng húc vào đâu, người chết và bị thương vô số, trong quân rối loạn, còn năm nghìn tráng tốt không nói không rằng, dao lớn búa to cứ gặp người là chém, dẫu có năm nghìn người mà khí thế hăng hái bằng mấy vạn quân, vả lại quân Yên mấy hôm trước vẫn nghe quân Tề có thần sư xuống dạy, bấy giờ thấy những quân mặt mũi loang lổ lại càng ghê sợ không dám chống lại. Điền Đan lại thân xuất người trong thành reo hò chạy đến, các người già yếu và phụ nữ đều đánh những đồ đồng, tiếng vang trời đất, quân Yên lại càng khiếp sợ, ai nấy đều quăng bỏ khí giới, xô đẩy nhau chạy trốn, dày xéo lên nhau chết không biết bao nhiêu người mà kể. Kỵ Kiếp cỡi xe hốt hoảng chạy trốn, thì gặp ngay Điền Đan đâm cho một giáo chết ngay, quân Yên bị thua to. Điền Đan chỉnh đốn đội ngũ, thừa thế đuổi theo, đánh đâu được đó, các thành ấp nghe quân Tề đắc thắng, tướng Yên đã chết, đều phản Yên mà lại về với Tề. Điền Đan binh thế ngày càng thịnh, cướp đất thẳng đến trên sông Hoàng Hà, đến biên giới phía Bắc nước Tề, hơn 70 thành nước Yên đã lấy được, nước Tề lại lấy lại được cả. Các quân tướng đều cho là Điền Đan có công lớn, muốn tôn lên làm vua. Điền Đan nói: - Thái tử Pháp Chương hiện ở Cử Châu, ta họ xa khi nào dám tự lập mình làm vua. Rồi đến Cử Châu đón Pháp Chương, Vương tôn Giả cầm cương xe cho Pháp Chương đi đến Lâm Tri, thu táng thi hài Mân Vương, chọn ngày cáo miếu lâm triều. Tương Vương bảo Điền Đan rằng: - Tề nguy mà lại yên, mất mà lại còn, đều là công thúc phụ, thúc phụ có tiếng trước ở An Bình, nay phong thúc phụ làm An Bình Quân, thực ấp vạn hộ. Vương tôn Giả được cử làm Á khanh, đón con gái Thái sử Hiểu làm vương hậu. Bấy giờ Thái sử Hiểu mới biết con gái đã hiến thân cho Pháp Chương từ trước, giận nói rằng: - Mày không đợi lời mối lái mà tự ý lấy chồng, không phải là con ta, thề suốt đời cha con không trông thấy nhau nữa. Tề Tương Vương sai người cấp thêm quan lộc, Thái sử Hiểu không nhận nhưng vương hậu thời thường vẫn sai người thăm hỏi, chưa bao giờ dám bỏ. Bấy giờ Mạnh Thường Quân ở Ngụy, nhường tướng ấn cho Công tử Vô Kỵ, Ngụy phong Vô Kỵ làm Tín Lăng Quân, Mạnh Thường Quân lui về ở ấp Tiết, cùng Bình Nguyên Quân, Tín Lăng Quân cùng đi lại rất thân. Tề Tương Vương sợ, lại sai sứ đón về làm tướng quốc, Mạnh Thường Quân không nhận. Lại nói Yên Huệ Vương từ khi Kỵ Kiếp thua trận, mới biết Nhạc Nghị là người hiền, nhưng hối không kịp nữa, sai người đưa thư cho Nghị để xin lỗi, muốn đón Nghị về nước, Nghị đáp thư không chịu về, vua Yên sợ Triệu dùng Nhạc Nghị để mưu hại Yên, bèn lại cho con Nghị là Nhạc Gian được tập phong làm Xương quốc quân, em họ Nghị là Nhạc Thừa làm tướng quân, đều tỏ lòng quí trọng, Nghị bèn kết hợp tình giao hiếu Yên, Triệu đi lại cả đôi bên, hai nước đều lấy Nghị làm khách khanh, về sau Nghị mất ở Triệu. Bấy giờ Liêm Pha làm đại tướng Triệu, có sức khỏe, biết dùng quân, chư hầu đều sợ Triệu. Quân Tần thường đến lấn đất Triệu, Liêm Pha hết sức chống cự, Tần không làm gì được, bèn cùng Triệu giao hiếu. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 96 Lạn Tương Như hai lần khuất vua Tần Mã Phục Quân một mình giải vây Triệu Bấm để xem Lại nói Huệ Văn Vương nước Triệu yêu dùng một tên nội thị là Mục Hiền làm chức hoạn giả lệnh, được can dự việc chính. Một hôm có người đem bán một viên ngọc bạch bích, Mục Hiền yêu sắc ngọc sáng bóng lạ thường, bỏ năm trăm vàng mua được, đem phô người thợ ngọc, thợ ngọc lấy làm lạ quá nói rằng: - Đây thực là viên ngọc bích của họ Hòa, tướng Sở là Chiêu Dương trong lúc ăn yến bỗng mất ngọc bích này, ngờ cho Trương Nghi lấy trộm, tra đánh gần chết. Trương Nghi vì thế mới sang Tần, sau Chiêu Dương treo thưởng nghìn vàng để mua lại ngọc bích này, kẻ lấy trộm không dám đem ra, nên chịu không sao thấy được, ngày nay không ngờ lại lọt vào tay ngài, viên ngọc này thực là của quí vô giá, nên cất kỹ, chớ nên khinh thường đem phô với mọi người. Mục Hiền nói: - Đành thế, nhưng viên ngọc này quí giá về cái gì? Thợ ngọc nói: - Viên ngọc này để chỗ tối tự nhiên có ánh sáng có thể trừ được trần ai, đuổi được ma quỉ, nên gọi là viên ngọc dạ quang; nếu để chỗ ngồi, về mùa đông thì ấm có thể thay cho lò sưởi, mùa hạ thì mát, trong trăm bước ruồi nhặng không dám vào; có mấy có lạ ấy mà các ngọc khác không có, cho nên mới thành ra của rất quí. Mục Hiền thử xem, quả có như thế, bèn làm một cái hộp để đựng, cất kỹ trong hòm. Không ngờ đã có kẻ đem việc ấy nói với vua Triệu, vua Triệu hỏi Mục Hiền có ý muốn lấy, Hiền không chịu đem dâng, vua Triệu giận, nhân trong lúc đi săn, sấn vào nhà Hiền sục tìm bắt được rồi lấy đem về. Mục Hiền sợ Triệu Vương trị tội giết chết, muốn đi trốn, xá nhân là Lạn Tương Như nắm áo hỏi rằng: - Ngài đi đâu bây giờ? Mục Hiền nói muốn chạy sang Yên, Tương Như nói: - Ngài lấy cái gì để cho vua Yên biết mình, mà khinh thân đi như vậy? Mục Hiền nói: - Ta năm trước có đi theo đại vương, cùng vua Yên họp ở trên cõi, vua Yên riêng nắm tay ta nói rằng: "Xin cùng ngài kết giao", vì thế nên biết nhau, cho nên ta muốn đi. Tương Như can rằng: - Ngài lầm rồi, Triệu mạnh, Yên yếu, vả ngài lại được vua Triệu yêu, cho nên vua Yên mới muốn cùng ngài kết giao, đó không phải là vua Yên có hậu với ngài, là muốn nhờ ngài để hậu với vua Triệu vậy. Nay ngài được tội với vua mà lại chạy sang Yên, Yên sợ vua Triệu đánh, tất sẽ bắt trói ngài đem nộp để cầu thân với Triệu, như vậy thì ngài nguy lắm. Mục Hiền nói: - Vậy thế thì biết làm thế nào? Tương Như nói: - Ngài không có tội gì to, chỉ là không sớm dâng ngọc bích đó thôi, nay nếu tự vào đập đầu xin chịu tội, vua tất tha cho ngài. Mục Hiền theo như kế, quả nhiên vua Triệu không bắt tội. Hiền trọng cái trí khôn của Tương Như cho làm thượng khách. Lại nói tên thợ ngọc bỗng đi sang nước Tần, vua Tần sai sửa ngọc, thợ ngọc nhân nói đến viên ngọc bích của họ Hòa, nay lại về nước Triệu. Vua Tần hỏi viên ngọc ấy có những cái gì quí, thợ ngọc lại nói như trước, vua Tần liền đem lòng ham mến, muốn được thấy viên ngọc bích ngay. Bấy giờ cậu vua Tần là Ngụy Nhiễm làm thừa tướng, nói rằng: - Đại vương muốn được thấy viên ngọc ấy, sao không đem 15 thành Tây Dương đổi? Vua Tần lấy làm lạ nói: - 15 thành là đất nước của quả nhân, khi nào lại đem đổi lấy một viên ngọc bích. Ngụy Nhiễm nói: - Đã lâu Triệu vẫn sợ Tần, đại vương nếu đem thành đổi ngọc, thì Triệu tất phải đem ngọc đến, đem đến thì giữ lấy, như vậy đổi thành chỉ là cái tiếng, mà được ngọc là thực vậy. Vua Tần cả mừng, liền đưa thư cho vua Triệu, sai khách khanh là Hồ Thương làm sứ, trong thư đại ý nói: "Đã lâu nay quả nhân vẫn hâm mộ viên ngọc bích của họ Hòa, chưa được thấy bao giờ. Nay nghe quân vương có, quả nhân không dám xin không, xin đem 15 thành Tây Dương để đổi, mong rằng quân vương sẽ vui lòng cho". Vua Triệu được thư, liền triệu đại thần là bọn Liêm Pha để bàn, muốn cho Tần thì e bị Tần lừa, ngọc mất mà thành không được, muốn không cho thì lại sợ Tần giận, các đại thần người nói nên cho, người nói không nên, bối rối không biết quyết định thế nào. Lý Khắc nói: - Nên kén một người trí dũng, dắt ngọc bích đem đi, được thành thì trao ngọc cho Tần, nếu không được thành thì lại đem ngọc về Triệu, như thế mới là lưỡng toàn. Vua Triệu nhìn Liêm Pha, Pha cúi đầu không nói, hoạn giả lệnh là Mục Hiền nói rằng: - Tôi có một xá nhân tên là Lạn Tương Như, người ấy có sức khỏe lại có trí mưu, nếu cần người đi sứ Tần thì không ai hơn người ấy. Vua Triệu liền sai Mục Hiền đòi Lạn Tương Như đến. Tương Như bái yết xong, vua Triệu hỏi rằng: - Vua Tần xin đem 15 thành đổi lấy ngọc bích của quả nhân, tiên sinh nghĩ có nên cho không? Tương Như nói: - Tần mạnh Triệu yếu, không thể không cho được. Vua Triệu nói: - Nếu đem ngọc đi mà không lấy được thành thì làm thế nào? Tương Như nói: - Tần đem 15 thành mà đổi lấy ngọc bích, cái giá đã hậu lắm, như vậy mà Triệu không cho ngọc là lỗi ở Triệu; nay Triệu không đợi được thành mà đã cho dâng ngọc ngay, theo lễ là cung kính lắm, như vậy mà Tần không cho thành là cái lỗi ở Tần. Vua Triệu nói: - Quả nhân muốn kén một người đi sứ Tần để bảo hộ viên ngọc ấy, tiên sinh có thể vì quả nhân mà đi được không? Tương Như nói: - Đại vương quả không có người nào sai đi được, vậy tôi xin đem ngọc bích đi, nếu Triệu được thành thì tôi để ngọc bích ở Tần, bằng không tôi xin giữ hoàn toàn được viên ngọc đem về Triệu. Vua Triệu cả mừng, liền cho Tương Như làm đại phu, đem ngọc bích giao cho. Tương Như đem ngọc bích đi sang Hàm Dương. Vua Tần nghe báo ngọc bích đã đến, cả mừng, ngồi trên Chương Đài, họp cả quần thần lại, đòi Tương Như vào. Tương Như để cái hộp lại, chỉ dùng bao gấm, hai tay nâng ngọc bích, vái hai vái. Vua Tần mở bao gấm lấy ngọc ra xem, quả thấy trắng tinh không có dấu vết gì, ánh sáng lấp lánh, những chỗ chạm khắc tinh khéo lạ thường, thực là của quí trên đời ít có. Vua Tần xem ngắm hồi lâu, nức nở khen ngợi, rồi giao cho quần thần chuyền tay nhau xem. Quần thần xem xong đều la bái hô vạn tuế. Vua Tần lại để viên ngọc vào bao gấm, sai nội thị mang vào cho các mỹ nhân ở trong cung xem, hồi lâu mới đưa ra, để trên án vua Tần. Lạn Tương Như đứng cạnh chờ đợi hồi lâu, không thấy nói đến chuyện đổi thành, liền sinh một kế, bèn chạy đến trước mặt vua Tần tâu rằng: - Viên ngọc ấy có tí vết, tôi xin chỉ cho đại vương coi. Vua Tần sai tả hữu đem ngọc bích giao cho Tương Như. Tương Như lấy lại được ngọc bích rồi, lùi ra mấy bước, đứng tựa vào cột điện, giương to hai mắt, hầm hầm nổi giận, bảo vua Tần rằng: - Ngọc bích họ Hòa là của quí trong thiên hạ, đại vương muốn được ngọc bích gửi thư đến Triệu, quả quân triệu hết quần thần đến để bàn, quần thần đều nói Tần tự cậy sức mạnh đem lời nói không để cầu ngọc bích, sợ ngọc mất mà thành không được, chi bằng không cho, riêng tôi nghĩ rằng bọn áo vải chơi với nhau còn không nỡ lừa nhau, phương chi là ông vua một nước, cớ sao lại đem lòng bất tiếu đãi người, để được tội với đại vương, bởi vậy quả quân liền trai giới năm ngày, rồi sau mới sai tôi mang ngọc bích sang dâng, là tỏ ý kính cẩn lắm. Nay đại vương tiếp tôi, rất ngạo mạn, ngồi mà nhận ngọc, đưa cho tả hữu xem chán rồi, lại đưa vào cho các mỹ nhân ở hậu cung xem, khinh nhờn quá lắm, coi đó đủ biết đại vương không có ý thực đổi thành, cho nên tôi phải lấy lại ngọc bích vậy. Nếu đại vương muốn bách tôi, thì cái đầu tôi đây xin cùng ngọc bích cùng đập nát vào cái cột này, thề chết chứ không để cho Tần được ngọc vậy. Nói xong, cầm ngọc bích phăm phăm chực đập vào cột. Vua Tần tiếc ngọc bích, sợ đập nát mất, bèn xin lỗi rằng: - Đại phu chớ làm thế, quả nhân khi nào lại dám thất tín với Triệu. Lập tức sai bách quan đem địa đồ ra, vua Tần chỉ vào và nói từ chỗ này đến chỗ này cộng 15 thành cắt cho Triệu. Tương Như nghĩ thầm đó là vua nói dối chứ không phải thực tình, bèn bảo vua Tần rằng: - Quả quân không dám tiếc cái của rất quí để được tội với đại vương, nên khi sắp sai tôi đi, trai giới năm ngày, rồi đòi khắp quần thần cùng vái rồi mới cho đi, nay đại vương cũng phải trai giới năm ngày, bày đặt lễ nghi để tiếp rước, bấy giờ tôi mới dám dâng ngọc bích. Vua Tần xin vâng, bèn sai trai giới năm ngày, đưa Tương Như ra nghỉ ở công quán. Tương Như mang ngọc bích ra đó, lại nghĩ thầm ta từng nói khoe ở trước mặt vua Triệu rằng nếu Tần không đổi thành thì xin đem ngọc bích về Triệu, nay vua Tần dẫu trai giới, nhưng nếu sau khi được ngọc, vẫn không chịu đổi thành thì ta còn mặt nào về thấy vua Triệu nữa. Nghĩ vậy rồi sai tên theo hầu thân cận mặc áo vải xấu, giả làm bộ người nghèo, bỏ ngọc bích vào cái túi vải buộc chặt vào sau lưng, theo đường tắt trốn về tâu với vua Triệu rằng xét ra Tần quả không có ý đổi thành, sợ bị lừa, nên sai kẻ hầu thân mang ngọc bích về trả lại, còn mình xin ở đó để đợi Tần làm tội, thề chết chứ không chịu nhục mệnh. Vua Triệu nói: - Tương Như quả không phụ lời đã nói với ta. Lại nói vua Tần nói dối là trai giới, qua năm ngày, lên điện sai bày lễ nghi, triệu các sứ giả đến dự hội, cùng xem nhận ngọc bích, muốn để khoe khoang với các nước, sai tân lễ quan dẫn sứ thần nước Triệu lên điện. Lạn Tương Như ung dung bước vào, khi bái yết xong, vua Tần trông tay Tương Như không có ngọc bích, hỏi rằng: - Quả nhân đã trai giới năm ngày xin nhận ngọc bích, nay sứ giả không cầm vào là cớ làm sao? Tương Như nói: - Nước Tần từ đời Mục công đến giờ, cộng hơn 20 ông vua, đều lấy trá thuật làm việc, kể xa thì Kỷ Tử lừa Trịnh, Mạnh Minh lừa Tấn, kể gần thì Thương Ưởng lừa Ngụy, Trương Nghi lừa Sở, việc trước còn đó rành rành, đều không có tín nghĩa, tôi nay lại sợ bị lừa với đại vương, phụ lòng quả nhân, nên đã sai kẻ theo hầu mang ngọc bích theo đường tắt về Triệu rồi, vậy tôi xin chịu tội chết. Vua Tần giận nói rằng: - Sứ giả bảo quả nhân bất kính, nên quả nhân đã trai giới để nhận ngọc bích, sứ giả lại cho người lẻn đem về Triệu, rõ ràng là đánh lừa quả nhân. Nói rồi bèn sai tả hữu trói Tương Như lại. Tương Như không hề sợ hãi, tâu rằng: - Xin đại vương nguôi giận, tôi xin bày tỏ một lời. Cái thế ngày nay, Tần mạnh Triệu yếu, chỉ có Tần phụ Triệu, chứ không khi nào Triệu lại phụ Tần, nếu đại vương thực muốn được ngọc bích thì xin trước cắt 15 thành cho Triệu đã, sai sứ giả cùng tôi sang Triệu để lấy ngọc bích, khi nào Triệu dám lấy thành mà giữ ngọc lại, chịu cái tiếng bất tín để được tội với đại vương. Tôi tự biết cái tội đánh lừa đại vương thực đáng muôn chết, nên tôi đã gửi lời về tâu với quả nhân là không mong được sống mà về, vậy xin đại vương cứ giết, nay chư hầu đều biết cái cớ Tần vì muốn được ngọc bích mà giết sứ Triệu, phải trái thế nào không còn che giấu được. Vua Tần và quần thần cứ nhìn nhau, không ai nói được câu nào, các sứ chư hầu đứng bên xem, đều lấy làm nguy cho Tương Như lắm. Các người tả hữu chực dắt Tương Như đi. Vua Tần thét bảo thôi, bảo quần thần rằng: - Nếu giết Tương Như, cũng chưa thể lấy được ngọc bích, chỉ mang cái tiếng bất nghĩa, mà tuyệt tình giao hiếu của hai nước Tần- Triệu. Rồi hậu đãi Tương Như, theo như lễ các sứ thần cho trở về nước Triệu. Lạn Tương Như về đến Triệu, vua Triệu cho là người hiền, phong làm quan thượng đại phu. Về sau Tần quả chẳng cắt 15 thành cho Triệu, mà Triệu cũng chẳng dâng ngọc bích cho Tần. Vua Tần trong lòng vẫn e Triệu lắm, lại sai sứ ước với vua Triệu cùng đến họp ở Mãnh Trì. Vua Triệu nói: - Tần dùng lối hội kiến đánh lừa Sở Hoài Vương rồi giam lại ở Hàm Dương, đến nay người Sở vẫn đau lòng, nay lại ước hội với quả nhân, có lẽ cũng muốn đãi quả nhân như Hoài Vương chăng? Liêm Pha và Lạn Tương Như cùng bàn rằng nếu vua không đi là tỏ ra cho Tần biết mình yếu, rồi cùng tâu rằng: - Hạ thần là Tương Như xin đi theo bảo hộ xa giá, hạ thần Liêm Pha xin ở lại giúp thái tử giữ nước. Vua Triệu mừng rằng: - Tương Như còn giữ toàn được ngọc bích đem về, phương chi là quả nhân. Bình Nguyên Quân tâu rằng: - Xưa kia Tống Tương công vì dùng một cỗ xe đến hội, bị nước Sở cướp, Lỗ Quân cùng Tề hội ở Giáp Cốc phải mang cả tả hữu tư mã đi theo, nay bảo giá dẫu có Tương Như, nên kén năm nghìn quân tinh nhuệ theo đi đề phòng có sự không ngờ, lại cử đại quân đóng cách xa 30 dặm, mới giữ được vạn toàn. Vua Triệu hỏi: - Năm nghìn quân tinh nhuệ, người nào có thể làm tướng được. Triệu Thắng thưa rằng: - Tôi có biết một viên điền bộ tên là Lý Mục, thực là người có tài làm tướng. Vua Triệu hỏi sao biết là có thể làm tướng được? Bình Nguyên Quân nói: - Lý Mục làm điền bộ lại thu thuế ruộng, nhà tôi quá kỳ không nộp. Mục cứ theo phép mà trị, giết mất chín người coi việc của tôi, tôi giận có quở trách. Mục bảo tôi rằng nước trị được là nhờ có phép, nay dung túng cho nhà ông mà không theo phép công thì phép hỏng, phép hỏng thì nước yếu, chư hầu sẽ đến lấn cướp ngay, như vậy Triệu còn không chắc giữ được nước, thì ông còn chắc gì giữ được nhà. Giá như ông là người cao quí mà biết giữ phép công, phép lập thì nước mạnh, có thể giữ bền được phú quí há chẳng hay lắm ru? Cái kiến thức ấy thực là khác thường, nên tôi mới biết là có thể làm tướng được. Vua Triệu liền dùng Lý Mục làm trung quân đại phu, sai đốc xuất năm nghìn quân tinh nhuệ đi theo sang Tần. Bình Nguyên đem đại quân đi theo sau, Liêm Pha đưa tiễn đến biên giới, nói với vua Triệu rằng: - Đại vương đi vào cái nước hổ lang, thực là nguy hiểm, vậy nay xin ước cùng đại vương, cứ tính đường đi lại và khi hội kiến xong, không quá 30 ngày, nếu quá ngày không về, tôi xin theo như việc cũ nước Sở, lập thái tử làm vua để tuyệt lòng trông ngóng của người Tần. Vua Triệu bằng lòng, bèn đi đến Mãnh Trì, vua Tần cũng đến, đều về ở nhà quán dịch. Đến kỳ, hai vua theo lễ chào nhau và đặt tiệc rượu làm vui, uống rượu đến nửa chừng, vua Tần nói: - Quả nhân trộm nghe vua Triệu giỏi âm nhạc lắm, quả nhân có mang theo đàn bảo sắt đến đây, dám xin đại vương gảy cho nghe một khúc nào. Vua Triệu mặt đỏ, nhưng không dám chối, tên thị giả nước Tần đem đàn bảo sắt đặt trước mặt vua Triệu, vua Triệu gảy một khúc Tương Linh, vua Tần khen mãi không thôi. Gảy xong, vua Tần nói: - Quả nhân thường nghe nói thủy tổ nước Triệu là Liệt Hầu thích âm nhạc, đại vương thực được gia truyền vậy. Nói xong, ngoảnh lại bảo tả hữu đòi quan ngự sử sai ghi chép việc ấy, quan ngự sử cầm bút lấy thẻ viết rằng: "Năm, tháng, ngày mỗ, vua Tần cùng vua Triệu họp ở Mãnh Trì, sai vua Triệu gảy đàn sắt". Lạn Tương Như tiến lên nói rằng: - Vua Triệu nghe vua Tần giỏi âm nhạc Tần, vậy tôi kính dâng cái phẫu sành, xin vua Tần đánh lên để cùng làm vui. Vua Tần giận tái mặt đi, nhưng không nói gì. Tương Như liền lấy cái phẫu sành đựng rượu, quì dâng ở trước mặt vua Tần, vua Tần không chịu đánh, Tương Như nói: - Đại vương cậy nước Tần mạnh chăng? Ngay bây giờ trong khoảng năm bước chân, Tương Như này được đem máu cổ dây vào mình đại vương. Tả hữu đều mắng Tương Như là vô lễ, muốn sấn vào bắt, Tương Như trợn mắt mắng lại, râu tóc đều đứng lên, tả hữu sợ quá, đều phải lùi lại vài bước. Vua Tần ý không vui, nhưng trong lòng sợ Tương Như, miễn cưỡng đánh vào cái phẫu một cái, Tương Như mới đứng dậy, đòi ngự sử nước Triệu đến bảo cũng biên vào thẻ rằng: "Năm, tháng, ngày mỗ, vua Triệu cùng vua Tần họp ở Mãnh Trì, sai vua Tần đánh cái phẫu". Quần thần nước Tần đều bất bình, cùng đứng lên xin với vua Triệu rằng: - Hôm nay vua Triệu hạ cố đến đây, xin vua cắt 15 thành để mừng thọ vua Tần. Tương Như cũng tâu vua Tần rằng: -Có đi phải có lại, nếu Triệu đã dâng mười lăm thành cho Tần, Tần không thể không đáp lại. Vậy xin lấy đất Hàm Dương của Tần để mừng thọ vua Triệu! Vua Tần nói: - Hai vua chúng ta làm lễ hòa hiếu, các người chớ nói nhiều lời. Nói xong sai tả hữu lại dâng rượu mời vua Triệu cùng uống, giả ý thật vui say rồi bãi hội. Khách khanh Tần là bọn Hồ Thương mật xui vua Tần giữ vua Triệu và Lạn Tương Như lại, vua Tần nói: - Tin thám báo là nước Triệu phòng bị rất chu mật, vạn nhất việc làm không nên bị thiên hạ chê cười. Rồi tỏ lòng kính trọng vua Triệu, ước làm anh em, không bao giờ lấn đánh nhau, sai con trai thái tử An Quốc Quân tên là Dị Nhân sang làm con tin ở Triệu. Quần thần đều nói giao hiếu là đủ, cần gì phải đưa con tin nữa. Vua Tần cười nói rằng: - Nước Triệu đang mạnh, chưa có thể làm gì được, nếu không đưa con tin sang thì Triệu không tin. Triệu tin ta thì tình giao hiếu càng bền, ta mới được chuyên việc mưu lấy nước Hàn vậy. Quần thần đều phục. Vua Triệu từ tạ vua Tần về nước, vừa đúng 30 ngày, vua Triệu nói: - Quả nhân được Lạn Tương Như thân yên như Thái Sơn, nước vững như chín đỉnh. Tương Như công rất cao, quần thần không ai bằng. Bèn cử làm chức thượng tướng, ban thứ ở trên Liêm Pha. Liêm Pha giận nói rằng: - Ta có công to đánh thành cướp đất, Tương Như chỉ lấy chút công miệng lưỡi, vị thứ lại ở trên ta. Vả hắn lại là xá nhân của kẻ hoạn giả, xuất thân hèn mọn, ta há lại chịu ở dưới hắn ư? Nếu gặp Tương Như, ta tất phải giết chết. Tương Như nghe những lời nói của Liêm Pha, mỗi khi gặp buổi công triều liền thác bệnh không đi, không chịu cùng Liêm Pha gặp mặt, xá nhân đều cho Tương Như là nhát, cùng nhau chê ngầm. Bỗng một hôm Tương Như đi ra ngoài, Liêm Pha cũng đi, Tương Như trông thấy toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên ngự xe đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi cho Liêm Pha đi rồi mới ra, bọn xá nhân thấy thế lại càng giận, hẹn nhau đến nói với Tương Như rằng: - Chúng tôi bỏ làng xóm, xả thân đến ở hầu ngài, coi ngài là một bậc trượng phu, cho nên yêu mến mà theo, nay ngài với Liêm tướng quân cùng hàng, hạng thứ ở trên, Liêm quân nói dọa, ngài không báo lại, đã tránh ở trong triều, lại tránh ở ngoài đường, sao ngài lại sợ quá như thế? Chúng tôi lấy làm xấu hổ thay cho ngài, xin đi không muốn ở nữa. Tương Như ngăn lại nói rằng: - Ta sở dĩ tránh Liêm tướng quân là có cớ, các ngươi chưa xét biết đó thôi. Bọn xá nhân nói: - Chúng tôi ngu dốt không biết, xin ngài nói rõ cái cớ gì cho nghe. Tương Như hỏi: - Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn vua Tần không? Bọn xá nhân đều nói: - Không hơn được. Tương Như nói: - Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, mà Tương Như dám mắng ở giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao? Nhưng ta nghĩ lại, nước Tần sở dĩ không dám đánh Triệu, là vì e có hai người chúng ta, nay hai con hổ cùng đánh, thế không cùng sống, người Tần nghe tin, tất sẽ thừa cơ mà đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục mà tránh Liêm tướng quân, là coi việc nước làm trọng mà thù riêng làm khinh vậy. Bọn xá nhân đều kính phục. Không bao lâu, xá nhân họ Lạn, cùng khách họ Liêm, một hôm gặp nhau ở trong hàng rượu, hai bên tranh nhau chỗ ngồi. Xá nhân họ Lạn nói: - Chủ quân ta vì việc nước mà phải nhường Liêm tướng quân, chúng ta cũng nên theo ý chủ quân mà nhường khách họ Liêm. Bởi vậy Liêm Pha càng kiêu. Người Hà Đông là Ngu Khanh đến chơi Triệu, nghe bọn xá nhân thuật lời nói của Tương Như bèn bảo vua Triệu rằng: - Trọng thần của vua ngày nay, có phải Liêm Pha và Lạn Tương Như không? Vua nói rằng phải. Ngu Khanh nói: - Tôi nghe các ngươi bày tôi đời trước, đều một lòng một đức cùng yêu cùng kính nhau để trị nước, nay đại vương có hai vị trọng thần mà để cho thù ghét nhau, thực không phải phúc cho xã tắc vậy. Họ Lạn càng nhường, mà họ Liêm không biết lương tính, họ Liêm càng kiêu mà họ Lạn không dám chiết khí, ở triều có việc không cùng bàn, làm tướng có việc gấp không cứu giúp nhau, tôi lấy làm lo cho đại vương lắm, vậy tôi xin nối cái giao tình của Liêm, Lạn để giúp đại vương. Vua Triệu khen phải, Ngu Khanh đến yết kiến Liêm Pha, trước hết hãy ca tụng công lớn, Liêm Pha mừng lắm. Ngu Khanh nói: - Kể công thì không ai bằng tướng quân thật, nhưng kể đến lượng chỉ có Lạn quân. Liêm Pha cau mặt nói rằng: - Nó là đứa hèn nhát, lấy miệng lưỡi được công danh, có gì là lượng! Ngu Khanh nói: - Lạn quân không phải là người hèn nhát đâu, Lạn quân chỉ nghĩ đến việc lớn. Rồi thuật lại lời Tương Như bảo bọn xá nhân cho Liêm Pha nghe và nói: - Tướng quân không đặt mình ở nước Triệu thì thôi, nếu muốn đặt mình ở nước Triệu, mà hai vị đại thần, một người nhường, một người kiêu, tôi e cái tiếng tốt kia sẽ không về phần tướng quân vậy. Liêm Pha cả thẹn nói rằng: - Nếu tiên sinh không nói, thì tôi không bao giờ được nghe điều lỗi của tôi, tôi thực kém Lạn quân xa lắm. Rồi nhờ Ngu Khanh đến nói ý trước với Tương Như, tự trần tay áo và cầm roi đi đến cửa họ Lạn tạ rằng: - Bỉ nhân chí lượng hẹp hòi không biết tướng quốc lại khoan dung đến thế, dù chết cũng không đủ chuộc tội vậy. Nói rồi quì mãi ở giữa sân. Tương Như chạy ra dắt dậy nói rằng: - Hai ta sánh vai thờ chúa, làm tôi xã tắc, tướng quân biết lòng cho nhau đã là may mắn, còn tạ làm chi. Liêm Pha nói: - Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lại lấy làm hổ thẹn quá. Nói rồi, Liêm Pha nắm tay Tương Như mà khóc, Tương Như cũng khóc. Liêm Pha nói: - Từ nay xin kết làm bạn sống chết, dù cắt cổ cũng không đổi lòng. Pha sụp xuống lạy trước, Tương Như lạy đáp lại, rồi đặt tiệc rượu khoản đãi, cùng uống đến sáng mới thôi. Vua Triệu nghĩ công Ngu Khanh, ban cho trăm dật hoàng kim, cử làm chức Thượng Khanh. Bấy giờ đại tướng quân nước Tần là Bạch Khởi, đánh phá quân Sở, lấy Dĩnh Đô, đặt làm Nam quận, vua Sở thua chạy. Đại tướng Tần là Ngụy Nhiễm lại đánh lấy Kiềm Trung, đặt ra quận Kiềm Trung, Sở càng suy kém, bèn sai thái phó Hoàng Yết đưa thái tử Hùng Hoàn vào làm con tin ở Tần để cầu hòa. Bọn Bạch Khởi lại đánh Ngụy, Ngụy bị thua to, phải dâng ba thành để cầu hòa. Tần phong Bạch Khởi làm Võ An Quân. Không bao lâu, Tần lại đánh Ngụy, lấy được đất Nam Dương, đặt ra quận Nam Dương, vua Tần lấy cho Ngụy Nhiễm, gọi là Nhương Hầu. Tần lại đánh Hàn, vây thành Ô Dữ, vua Hàn sai sứ sang Triệu cầu cứu. Vua Triệu hỏi quần thần có nên cứu Hàn không, Lạn Tương Như, Liêm Pha, Nhạc Thừa đều nói thành Ô Dữ đường hiểm và hẹp, cứu e không tiện. Bình Nguyên Quân nói: - Hàn, Ngụy như môi răng che giữ nhau, không cứu thì khi quân Tần trở về sẽ đánh Triệu ngay. Triệu Xa lặng yên không nói gì. Vua Triệu hỏi, Xa thưa rằng: - Đường hiểm và hẹp, ví như hai con chuột đánh nhau ở trong hang, bên nào mạnh là được. Vua Triệu bèn kén năm vạn quân, sai Triệu Xa đốc xuất đi cứu Hàn. Quân ra khỏi cửa Đông Hàm Đan 30 dặm. Triệu Xa sai đóng dinh trại lại, xếp đặt đã xong, lại ra lệnh rằng: - Có kẻ nào nói đến việc quân thì chém. Xong quân Triệu đóng cửa nằm yên, im lặng như tờ, quân Tần reo hò tiến binh, tiếng như sấm sét, trong thành Ô Dữ ngói trên nóc nhà đều rung động, một tên quân đến báo khí thế quân Tần như thế. Triệu Xa cho là phạm lệnh, lập tức đem chém để răn quân, lưu đó 28 ngày không đi, ngày ngày sai đắp thêm hào lũy để làm kế giữ vững. Tướng Tần là Hồ Thương nghe có quân Triệu đến cứu mà không thấy đến, lại sai người dò thám, báo rằng Triệu quả có quân cứu. Đại tướng là Triệu Xa, ra khỏi Hàm Đan 30 dặm liền đóng trại không tiến nữa. Hồ Thương chưa tin, sai người tả hữu thân cận thẳng vào quân Triệu bảo Triệu Xa rằng: - Tần đánh Ô Dữ, sắp hạ đến nơi, tướng quân có thể đánh thì lại ngay. Triệu Xa nói: - Quả quân vì thấy nước láng giềng cáo cấp, sai tôi phòng bị, khi nào tôi lại dám đánh nhau với Tần. Rồi sai dọn rượu cơm hậu đãi sứ giả rồi cho đi xem các đồn lũy. Sứ giả về báo, Hồ Thương cả mừng nói rằng: - Quân Triệu cách nước mới 30 dặm mà đã đắp thêm lũy để tự giữ, không có ý đánh nhau, thành Ô Dữ tất về tay ta lấy được. Vì vậy không để ý phòng Triệu, chỉ một mặt chuyên đánh Hàn. Triệu Xa đã cho sứ Tần về, liệu chừng ba ngày mới về đến dinh quân Tần, bèn hạ lệnh kén một vạn quân kỵ bắn giỏi quen đánh trận làm tiên phong, đại quân theo sau, ngậm tăm cuốn giáp đi luôn ngày đêm, vừa một ngày một đêm thì đến cõi đất Hàn, cách thành Ô Dữ 15 dặm, lại lập quân lũy. Hồ Thương cả giận, lưu một nửa quân vây thành, còn đem hết đi đón đánh. Dinh Triệu có một người lính tên là Hứa Lịch, viết một cái thẻ, trong có hai chữ 'xin can' quì dâng ở trước dinh, Triệu Xa lấy làm lạ, sai bỏ lệnh trước, đòi vào hỏi rằng: - Mày muốn nói gì? Hứa Lịch nói: - Người Tần không ngờ quân Triệu chợt đến, nguyên súy tất phải cho hậu tập thế trận để phòng xung đột, không thì tất thua. Triệu Xa theo lời, liền truyền lệnh bày trận để đợi. Hứa Lịch lại nói: - Binh pháp được địa lợi thì thắng, hình thế Ô Dữ chỉ có Bắc Sơn là rất cao mà tướng Tần không biết chiếm giữ, để đó đợi nguyên súy, nên chiếm ngay lấy. Triệu Xa theo lời, liền sai Hứa Lịch dẫn một vạn quân, đóng giữ trên đỉnh Bắc Sơn, phàm quân Tần hành động gì, chỉ trông một cái là biết hết. Quân Hồ Thương đến, chực tranh lấy núi, thế núi hiểm trở, quân Tần có mấy tên to gan dám trèo lên, đều bị quân Triệu lăn đá xuống đánh bị thương. Hồ Thương gầm thét cả giận, chỉ huy quân tướng tìm đường lên, bỗng nghe tiếng trống đánh vang, Triệu Xa dẫn quân xông đến, Hồ Thương chia quân chống cự, Triệu Xa đem vạn quân bắn giỏi chia làm hai đội, tả hữu đều năm nghìn người, nhằm quân Tần bắn tràn vào. Hứa Lịch dồn vạn quân từ trên đỉnh núi thừa thế kéo xuống, tiếng reo hò như sấm, trước sau giáp đánh, chém giết quân Tần như trời long đất lở, không nơi trốn đánh, bỏ chạy tán loạn, Hồ Thương ngựa què suýt bị quân Triệu bắt được, may gặp binh úy là Tư Ly dẫn quân chợt đến, liều chết cứu ra, Triệu Xa đuổi theo đến 50 dặm, quân Tần đóng lại không được, phải bỏ chạy về phía Tây, bèn giải được vây cho thành Ô Dữ. Vua Hàn thân đến khao quân, đưa thư tạ ân vua Triệu, vua Triệu phong Xa làm Mã Phục Quân, ngang hàng với Lạn Tương Như và Liêm Pha. Triệu Xa tiến cử cái tài của Hứa Lịch, vua Triệu cho làm Quốc Úy. Con trai Triệu Xa là Triệu Quát, từ bé thích nói binh pháp, những sách lục thao tam lược gia truyền đều xem một lần là thuộc hết, thường cùng cha bàn việc binh, chỉ trời vạch đất, có ý không coi ai ra gì, dẫu Triệu Xa cũng không vặn bẻ được điều nào. Người mẹ mừng rằng: - Có con như thế, có thể nói là cửa tướng lại xuất tướng vậy. Triệu Xa cau mặt không vui nói rằng: - Quát không thể làm tướng được, nước Triệu không dùng Quát là phúc cho xã tắc. Người mẹ nói: - Quát đọc hết sách của nhà, bàn nói việc binh, tự cho là thiên hạ không ai bằng mình, nay ông lại bảo là nó không làm tướng được là cớ gì? Xa nói: - Quát tự nói là thiên hạ không ai bằng, vì thế nên không thể dùng làm tướng được. Việc binh là việc cầm cái chết trong tay, lo lắng sợ hãi, rộng hỏi mọi người, còn e có điều sai sót, mà Quát cho là dễ dàng, nếu được giữ quyền, thì chắc cứ tự ý làm, điều phải kế hay không sao lọt vào tai được nữa, như vậy thì chắc là thua. Người mẹ đem những lời nói ấy bảo Quát, Quát nói: - Vì cha tuổi già sinh nhát, nên mới nói thế. Hai năm sau, Triệu Xa đau nặng, dặn Quát rằng: - Binh hung chiến nguy, người xưa vẫn lấy làm răn, cha mày làm tướng mấy năm trời, ngày nay mới mừng khỏi cái nhục thua trận, chết cũng được nhắm mắt, mày không có tài làm tướng, chớ nên nhận càn chức ấy, làm hoại cửa nhà. Lại dặn người mẹ Quát rằng: - Sau này nếu vua Triệu có vời Quát làm tướng, bà nên kể lại lời nói của tôi mà từ chối, mất quân nhục nước, tội ấy rất to. Nói xong thì mất. Vua Triệu nghĩ công của Xa, cho Quát được nối chức Mã Phục Quân. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 97 Phạm Chuy giả chết trốn sang Tần Tu Giả thoát tội kịp về Ngụy Bấm để xem Phạm Chuy tên tự là Thúc, quê ở Đại Lương, có tài đàm thiên thuyết địa, có chí định quốc yên bang, muốn cầu thờ vua Ngụy, vì nhà nghèo, không thể tự mình lọt vào được, bèn trước đến xin theo hầu quan trung đại phu là Tu Giả, được làm xá nhân. Trước kia vì Tề Mân Vương vô đạo, Nhạc Nghị họp bốn nước cùng đánh Tề, Ngụy cũng phái quân giúp Yên. Đến khi Điền Đan phá quân Yên khôi phục nước Tề, Tương Vương lên ngôi, vua Nguỵ sợ Tề báo thù, bèn cùng tướng quốc là Nguỵ Tề bàn kế, sai Tu Giả sang Tề thông hiếu. Giả đem Phạm Chuy đi theo. Tương Vương hỏi Tu Giả rằng: - Xưa kia tiên vương ta cùng Ngụy hợp quân đánh Tống, thực là đồng thanh đồng khí, vậy mà đến khi người Yên tàn diệt nước Tề, Ngụy lại dự vào, quả nhân nghĩ cái thù của tiên vương nghiến răng đau lòng, nay lại đem lời nói suông để dụ quả nhân, nước Ngụy thực là phản phúc vô thường, quả nhân khi nào tin được. Tu Giả không biết đáp thế nào. Phạm Chuy đứng bên thay lời đáp rằng: - Đại vương nói sai rồi, trước kia quả quân theo Tề đánh Tống là vì vâng mệnh. Tề ước chia ba nước Tống, rồi thượng quốc trái ước, thu lấy hết cả, lại còn lấn đánh, đó là Tề thất tín với tệ ấp vậy. Chư hầu sợ Tề kiêu bạo, nên phải thân cận với nước Yên, trận đánh ở Tế Tây, cả năm nước cùng là thù, có một mình gì tệ ấp. Tệ ấp không nỡ làm quá, nên không dám theo quân Yên đến Lâm Tri, đó là tệ ấp có lễ với nước Tề vậy. Nay đại vương anh võ hơn đời, báo thù rửa hổ, rạng mở nền xưa, quả quân cho là cái công nghiệp to tát của Hoàn, Uy tất lại lập nên, có thể che được cái lỗi của Mân Vương, để phúc lại vô cùng, cho nên sai hạ thần là Giả đây đến nối lại tình giao hiếu ngày trước. Đại vương chỉ biết trách người mà không biết trách mình, e rằng cái dấu xe đổ của Mân Vương lại thấy ở ngày nay vậy. Vua Tề ra ý sợ, đứng lên tạ rằng: - Đó là lỗi của quả nhân. Liền hỏi Tu Giả người ấy là ai. Tu Giả nói: - Đó là xá nhân của hạ thần tên là Phạm Chuy. Vua Tề ngoảnh nhìn hồi lâu, rồi sai đưa Tu Giả ra ở ngoài công quán, cung đãi rất hậu. Lại sai người ngầm bảo Phạm Chuy rằng: - Quả nhân mến đại tài của tiên sinh, muốn lưu tiên sinh ở Tề dùng làm khách khanh, mong rằng tiên sinh chớ từ chối. Phạm Chuy từ rằng: - Hạ thần cùng sứ giả cùng đi mà không cùng về, bất tín vô nghĩa còn làm người thế nào được nữa. Vua Tề lại càng yêu trọng, lại sai người đem cho Phạm Chuy mười cân hoàng kim và trâu, rượu. Chuy không nhận, sứ giả hai ba lần tỏ bày ý kính mến của vua Tề, nhất định không trở về, Chuy bất đắc dĩ, nhận trâu, rượu mà trả lại vàng, sứ giả lấy làm kính phục rồi ra về. Nào ngờ có người đã đem việc ấy nói với Tu Giả. Tu Giả đòi Phạm Chuy đến hỏi rằng: - Sứ Tề đến làm gì thế? Phạm Chuy nói: - Vua Tề đem mười cân vàng và trâu, rượu cho tôi, tôi không dám nhận, nài ép mãi, tôi chỉ lấy có trâu, rượu mà thôi. Tu Giả nói: - Vì cớ gì mà vua Tề lại cho nhà ngươi! Chuy nói: - Tôi không biết, hoặc giả lấy tôi là người tả hữu của đại phu, nên kính đại phu mà lại đoái kịp đến tôi chăng. Tu Giả nói: - Lễ vật không cho sứ giả mà lại chỉ cho riêng nhà ngươi, tất là nhà ngươi có tư thông gì với Tề. Phạm Chuy nói: - Vua Tề trước có sai sứ mời tôi ở lại làm khách khanh, tôi cự tuyệt, lấy điều tín nghĩa tự thề, khi nào tôi lại dám tư thông. Tu Giả càng đem lòng ngờ, sứ sự đã xong, Tu Giả cùng Phạm Chuy trở về Ngụy. Giả bèn nói với tướng quốc Ngụy Tề rằng: - Vua Tề muốn lưu xá nhân là Phạm Chuy làm khách khanh, lại tặng vàng và trâu, rượu, tôi ngờ là Chuy có đem việc kín trong nước bảo cho Tề biết, nên mới được vua Tề ban cho như thế. Ngụy Tề cả giận, bèn họp tân khách, sai người bắt Phạm Chuy để tra hỏi. Chuy đến phủ phục ở dưới thềm, Ngụy Tề thét hỏi rằng: - Mày đem việc kín bảo nước Tề phải không? Chuy nói: - Khi nào tôi dám thế. Ngụy Tề nói: - Mày nếu không có tư thông với Tề, vua Tề làm sao lại muốn lưu mày lại? Chuy nói: - Việc lưu lại quả có, nhưng Chuy này không theo. Ngụy Tề nói: - Vậy thế vàng và trâu, rượu, làm sao mày lại nhận? Chuy nói: - Sứ giả cứ ép mãi, sợ phật ý vua Tề, bất đắc dĩ chỉ nhận trâu, rượu, còn mười cân vàng, thực tôi không lấy. Ngụy Tề hầm hừ rồi hét to rằng: - Thằng giặc bán nước lại còn già mồm cãi, dù vua Tề chỉ cho trâu rượu cũng không phải là không có cớ. Gọi ngục tốt trói Phạm Chuy lại, bảo đánh đủ một trăm roi, bắt phải cung nhận tội thông Tề. Phạm Chuy nói: - Tôi thực không có sự tư thông, thì biết cung xưng điều gì. Ngụy Tề càng giận nói rằng: - Đánh chết thằng này cho ta, chớ để lại cái mầm họa. Ngục tốt cứ lệnh truyền, đánh lấy đánh để, Chuy bị đánh gãy cả răng, máu chảy đầy mặt, đau quá không chịu được, gào khóc kêu oan, các tân khách thấy tướng quốc đang cơn cả giận, không dám khuyên can. Ngụy Tề sai lính hầu một mặt dùng chén lớn rót rượu uống, một mặt sai ngục tốt giơ roi đánh mãi từ giờ thìn đến giờ mùi. Phạm Chuy bị đánh khắp mình thâm tím, máu thịt dây cả ra đất, đánh cắc một tiếng, xương sườn cũng bị đánh gãy, Chuy kêu rú lên một tiếng rồi chết ngất đi. Lính hầu bẩm là Phạm Chuy chết rồi. Ngụy Tề chạy xuống nhìn xem, thấy Chuy gãy răng và xương sườn, khắp mình không còn chỗ nào không có vết roi, nằm thẳng rặng ở trong vũng máu không cựa quậy, chỉ mặt mắng rằng: - Thằng giặc bán nước chết thực đáng kiếp nhé! Đáng để làm gương cho kẻ sau. Rồi sai ngục tốt lấy mê cói cuốn chặt cái thây lại, khiêng để trong chuồng xí, bảo tân khách đại tiện, tiểu tiện lên trên, chớ để cho nó được làm con ma trong sạch. Lúc trời đã tối, Phạm Chuy mệnh còn chưa tuyệt, đã chết đi sống lại, từ trong mê cói giương mắt nhìn trộm, chỉ thấy một tên lính đứng canh giữ bên cạnh, Phạm Chuy thở dài một tiếng, tên lính nghe tiếng vội vàng chạy lại xem, Phạm Chuy bảo rằng: - Tôi bị thương nặng thế này, dẫu có tạm tỉnh cũng không sao sống được, nếu anh có cách nào khiến cho tôi được chết ở nhà tôi, để được khâm liệm, nhà tôi có vài lạng vàng xin biếu cả để tạ ân. Tên lính canh tham lợi, bảo rằng: - Nhà ngươi lại cứ làm như chết rồi, ta sẽ vào bẩm. Ngụy Tề và tân khách lúc ấy đều đã say quá, tên lính bẩm rằng: - Người chết ở chuồng xí đã có mùi hôi tanh khó chịu, xin cho khiêng bỏ đi. Tân khách đều nói: - Phạm Chuy dẫu có tội, tướng quốc xử trị như thế cũng đã đủ rồi. Ngụy Tề nói: - Quăng nó bỏ ra ngoài bãi, để cho diều nó ăn hết thịt đi. Nói xong, tân khách đều tan về. Ngụy Tề cũng trở vào nhà trong. Tên lính canh chờ đến lúc hoàng hôn người vắng, bèn cõng Phạm Chuy về nhà, vợ con Chuy trông thấy, xiết bao đau xót, Phạm Chuy sai lấy vàng tạ ơn, lại sai bỏ cái mê cói ra, giao cho tên lính canh, bảo đem quăng ra ngoài bãi, để che mắt người. Tên lính canh đi rồi, vợ con rửa bỏ những máu thịt dây nát ra, băng bó những vết thương, đem rượu, cơm cho ăn uống. Phạm Chuy bảo vợ rằng: - Ngụy Tề căm giận ta lắm, dẫu biết ta chết, nhưng còn có lòng ngờ, ta về được là nhân lúc nó say, ngày mai nó tìm thây ta không thấy, tất đến nhà tìm, như vậy thì ta không sống được. Ta có người anh em kết nghĩa là Trịnh An Bình, nhà ở ngõ hẹp trong cửa Tây, nàng nên nhân ngay đêm nay đưa ta đến đó, chớ nên tiết lậu, đợi hơn một tháng, ta khỏi đau rồi, sẽ trốn đi bốn phương. Sau khi đã đem ta đi rồi, trong nhà nên phát tang như là ta đã chết thật, để tuyệt cái lòng ngờ của Ngụy Tề. Người vợ theo lời, sai đầy tớ đến trước báo cho Trịnh An Bình biết, Trịnh An Bình đi đến ngay nhà Chuy thăm xem, rồi cùng người nhà thay nhau cõng đem về nhà. Hôm sau Ngụy Tề quả nhiên còn ngờ Phạm Chuy sống lại, sai người đến xem chỗ quăng thây, tên lính canh về báo là cái thây quăng ở bãi vắng, giờ chỉ còn có cái mê cói không, chắc là bị chó cắp đi hết rồi. Ngụy Tề lại sai người đến nhà xem, thấy cả nhà Chuy đều để tang, bấy giờ mới yên lòng. Lại nói Phạm Chuy ở nhà Trịnh An Bình thuốc thang dần dần bình phục, An Bình lại cùng Phạm Chuy đến ở giấu trong núi Cụ Thứ, Phạm Chuy đổi họ tên là Trương Lộc, người trong núi không ai biết là Phạm Chuy. Quá nửa năm, quan yết giả nước Tấn là Vương Kê vâng mệnh vua Tần sang sứ nước Ngụy, ở trong công quán, Trịnh An Bình giả làm tên dịch tốt vào hầu Vương Kê, ứng đối nhanh nhẹn, Vương Kê yêu lắm, có hỏi riêng nước Ngụy còn có người hiền nào chưa ra làm quan. An Bình nói: - Người hiền thực hiếm có lắm, trước có Phạm Chuy là người có nhiều mưu trí, bị tướng quốc đánh đến chết.. Nói chưa xong, Vương Kê than rằng: - Tiếc thay con người ấy không đến nước Tấn ta, không được tỏ đại tài ra. An Bình nói: - Nay trong xóm tôi có Trương Lộc tiên sinh, tài trí chẳng kém gì Phạm Chuy, ngài có muốn được thấy người ấy không? Vương Kê nói: - Đã có người ấy, sao không mời đến đây họp mặt cùng ta? An Bình nói: - Người ấy có kẻ thù trong nước, không dám đi ban ngày, nếu không có kẻ thù ấy, thì đã làm quan nước Ngụy lâu rồi, chẳng còn đợi đến ngày nay. Vương Kê nói: - Đêm đến cũng được, ta xin sẵn lòng chờ đợi. An Bình bèn trở về, bảo Trương Lộc đổi lốt làm tên dịch tốt, đêm khuya đến công quán yết kiến Vương Kê, Vương Kê hỏi qua, về đại thế thiên hạ, Phạm Chuy bày tỏ rõ ràng như ở trước mắt. Vương Kê mừng rằng: - Tôi biết tiên sinh không phải là người thường, tiên sinh có thể cùng tôi sang chơi nước Tần không? Phạm Chuy nói: - Tôi có kẻ thù, không thể yên lòng ở trong nước được, nếu ngài có thể đem tôi đi theo, thực là điều tôi rất mong. Vương Kê tính đốt ngón tay nói rằng: - Đợi tôi còn năm ngày nữa thì việc đi sứ xong, đến kỳ tiên sinh nên đợi tôi ở Tam Đình Cương vào chỗ vắng người, tôi sẽ đưa tiên sinh lên xe cùng đi. Quá năm ngày, Vương Kê từ biệt vua Ngụy, quần thần đều đi tiễn ra ngoài thành rồi mới trở về. Vương Kê ruổi xe đi đến trên Tam Đình Cương, bỗng thấy trong rừng có hai người chạy ra, tức là Trương Lộc và Trịnh An Bình. Vương Kê mừng quá, như bắt được của quí, rồi mời Trương Lộc lên xe cùng đi, dọc đường trò chuyện rất hợp ý nhau, nên thân yêu nhau lắm, không mấy ngày đã đến địa giới nước Tấn. Vào đến Hồ Quan, bỗng thấy đằng trước mặt có bụi bay mù, một đàn xe ngựa từ phía Tây đi đến, Phạm Chuy hỏi đó là ai, Vương Kê nhận ra được đội tiền khu, nói đó là thừa tướng Nhương Hầu đi đến các quận ấp ở phía Đông. Nguyên Nhương Hầu tên Ngụy Nhiễm, là em trai Tuyên Thái hậu, thái hậu là con gái họ Thiên nước Sở là mẹ Chiêu Tương Vương, khi Chiêu Tương Vương lên ngôi, vì còn bé nên thái hậu lâm triều quyết định việc chính, dùng em trai là Ngụy Nhiễm làm thừa tướng, phong làm Nhương Hầu, em thứ là Thiên Nhung cũng phong làm Hoa Dương quân, đều chuyên coi việc nước. Đến sau Chiêu Tương Vương đã lớn tuổi, lòng sợ thái hậu, liền phong em trai là Công tử Lý làm Kinh Dương Quân, Công tử Thị làm Cao Dương Quân muốn để chia quyền của họ Thiên, trong nước gọi là Tứ Quý, nhưng tôn quí nhất là thừa tướng. Mỗi năm thừa tướng lại thay vua đi khắp quận quốc, tuần xét quan lại, xem xét thành trì, điểm duyệt xe ngựa, yên vỗ nhân dân, đó là theo lệ thường, nên lúc ấy Vương Kê trông thấy đội tiền khu liền nhận ngay ra được. Phạm Chuy nói: - Tôi nghe Nhương Hầu chuyên quyền nước Tấn, ghen người hiền, ghét kẻ tài, không muốn dung tân khách các nước, vì sợ bị nhục, vậy tôi xin tạm ẩn vào trong hòm xe để lánh mặt. Một lát Nhương Hầu đến, Vương Kê xuống xe đón chào Nhương Hầu cũng xuống xe đáp lễ và an ủi rằng: - Ngài thực đã khó nhọc vì việc nước. Rồi cùng đứng ở trước xe nói chuyện. Nhương Hầu hỏi Quan Đông gần đây có việc gì, Vương Kê đáp không có. Nhương Hầu mắt nhìn vào trong xe hỏi rằng: - Ngài có đem người khách chư hầu nào cùng về đấy chăng? Bọn ấy chỉ lấy miệng lưỡi du thuyết nước người để lấy giàu sang, toàn không có thực dụng. Vương Kê lại đáp rằng: - Khi nào tôi dám đem theo bọn ấy về. Khi Nhương Hầu từ biệt đi rồi. Phạm Chuy ở trong hòm xe chui ra, toan xuống xe chạy đi. Vương Kê nói: - Thừa tướng đi rồi, tiên sinh có thể yên lòng cùng đi với tôi. Phạm Chuy nói: - Tôi có nhìn trộm mặt Nhương Hầu, mắt trắng dã mà trông không thẳng, là người tính đa nghi mà hiểu việc chậm, lúc nãy hắn nhìn vào trong xe là đã có ý nghi rồi, nhất thời chưa sục tìm ngay, không lâu tất lấy làm hối, hối tất lại trở lại để tìm, chi bằng tôi tránh trước đi là hơn. Rồi bảo Trịnh An Bình cùng chạy lên trước, xe của Vương Kê đi sau, Được chừng 10 dặm, sau lưng có tiếng ngựa chạy, nhìn xem thì có hai mươi tên kỵ binh đương từ phía Đông phi ngựa đến, đuổi theo xe của Vương Kê, nói chúng tôi vâng mệnh thừa tướng, sợ quan đại phu có mang kẻ du khách nào về theo, cho nên sai chúng tôi lại trở lại khám xét lại, xin đại phu chớ lấy làm lạ. Rồi cùng khám xét khắp xe của Vương Kê, thấy quả không có người ngoại quốc nào, mới quay đi. Vương Kê than rằng: - Trương Tiên sinh quả là trí sĩ, ta thật không bằng. Nói xong, Vương Kê liền giục xe đi mau, chừng năm, sáu dặm thì gặp Trương Lộc, Trịnh An Bình, mời lên xe cùng đi vào Hàm Dương. Vương Kê vào triều kiến vua Tần, phục mệnh xong liền nói rằng: - Nước Ngụy có một người tên là Trương Lộc, trí mưu hơn người, thực là bậc kỳ tài trong thiên hạ, có nói với hạ thần về cái nguy cơ của nước Tấn, người ấy có thuật làm cho yên được, nhưng tất phải đến tâu bày ở trước mặt đại vương mới được, cho nên hạ thần đem theo cùng về. Vua Tần nói: - Các khách chư hầu thường hay nói quá, nhà ngươi đã mang về, thì hãy cho ở trong khách xá để tiện triệu hỏi. Vương Kê vâng mệnh đưa Trương Lộc đến ở khách xá, nhưng ròng rã hơn một năm không thấy vua Tần cho triệu vào. Một hôm Phạm Chuy bỗng ra chơi ngoài chợ, thấy Nhương Hầu đương trưng binh đi đánh. Phạm Chuy hỏi riêng rằng: - Thừa tướng định đi đánh nước nào? Có một ông già nói rằng đó là muốn đánh đất Cương Thọ của Tề. Phạm Chuy hỏi quân Tề có đến phạm chăng? Ông già nói: - Không. Phạm Chuy nói Tần cùng Tề đông tây cách xa nhau, khoảng giữa có Hàn, Ngụy ngăn cách, mà Tề không phạm Tần, làm sao lại vượt xa để đánh nước ấy. Ông già dẫn Phạm Chuy đến chỗ vắng nói rằng: - Đánh Tề không phải là ý vua Tần, vì Đào Sơn ở trong phong ấp của thừa tướng, mà Cương Thọ ở gần Đào Sơn, cho nên thừa tướng muốn sai Võ An Quân đem quân đánh lấy, để tự rộng ấp phong của mình đó thôi. Phạm Chuy trở về khách xá, thảo một bức thư dâng lên vua Tần, đại ý nói: "Kẻ cơ lữ thần là Trương Lộc này tội thực đáng giết, có lời tâu rằng: Tôi nghe đức minh chủ lập chính, người có công thì thưởng, kẻ có tài thì cho làm quan, công to thì lộc hậu, tài cao thì tước tôn, cho nên kẻ bất tài không dám lạm chức mà người có tài không đến nỗi bị bỏ sót. Tôi nay đợi mệnh ở hạ xá đã hơn một năm nay, nếu cho tôi là có thể dùng được, xin cho tôi được chút thì giờ, để giãi bày những điều tôi muốn nói, còn cho tôi là vô dụng thì lưu tôi làm gì. Quyền nói là ở tôi, mà quyền nghe là ở vua, nếu tôi nói mà không đúng, thì bấy giờ xin chịu tội. Vậy chớ nên vì cớ khinh tôi mà khinh cả cái người cử tôi vậy". Vua Tần đã quên Trương Lộc, khi trông thấy bức thư, liền cho đòi đến Ly Cung triều kiến. Vua Tần chưa đến, Phạm Chuy đến trước, trông thấy xe ngựa vua Tần đang đi đến, giả ý làm không biết, cố ý đi vào trong cái ngõ, tên hoạn giả đi trước, thét đuổi nói: - Có vua đi đến. Phạm Chuy cố ý nói: - Tần chỉ có Thái hậu và Nhương Hầu, làm gì có vua. Nói rồi cứ đi thẳng, không kể đến lời tên hoạn giả, đang lúc cãi nhau, vua Tần đã đi đến, hỏi tên hoạn giả vì cớ gì lại cãi nhau với khách, tên hoạn giả thuật lời nói của Phạm Chuy, vua Tần cũng không giận bèn đón vào nội cung, đãi làm thượng khách, Phạm Chuy nhún nhường, vua Tần đuổi bỏ các người tả hữu ra ngoài, quì xuống mà nói rằng: - Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân? Phạm Chuy nói: - Dạ, dạ. Một lát, vua Tần lại quì xuống mà nói như trước, Phạm Chuy lại dạ, dạ, như thế đến ba lần, vua Tần nói: - Tiên sinh không dạy bảo quả nhân, có lẽ cho quả nhân là không đủ cùng nói chăng? Phạm Chuy nói: - Không dám thế, xưa kia Lã Thượng còn ở sông Vị, khi gặp Văn Vương chỉ một lời mà làm thượng phụ, theo dùng mưu kế, diệt nhà Thương mà có thiên hạ; Cơ Tử, Tỉ Can thân làm quí thích, hết lời cố can, vua Trụ không nghe, rồi người bị tù, người bị giết, vua Trụ thì mất nước, điều đó không có gì lạ, chỉ là tin với không tin mà thôi. Lã Thượng dẫu là người xa mà Văn Vương tin dùng, nên vương nghiệp về nhà Chu, mà Lã Thượng cũng được phong hầu truyền mãi đời đời; Cơ Tử, Tỉ Can dẫu thân mà không được vua Trụ tin, cho nên thân không khỏi chết, nhục mà không cứu được nước. Nay tôi là kẻ cơ lữ, mà lại ở vào địa vị không thân, mà những điều muốn nói đều là những đại kế hưng vong hoặc có quan hệ đến tình cốt nhục của người ta, không nói thâm thiết thì không bổ cứu gì cho Tần, mà muốn nói thâm thiết, thì cái họa Cơ Tử, Tỉ Can e sẽ theo sau, cho nên vua ba lần hỏi mà không dám đáp, là tôi chưa xét ra được lòng vua tin hay không tin. Vua Tần lại quì hỏi rằng: - Tiên sinh nói làm gì thế, quả nhân mến đại tài của tiên sinh, cho nên đuổi bỏ những kẻ tả hữu ra ngoài, để được chuyên ý nghe lời dạy. Việc mà đáng nói, trên từ thái hậu, dưới đến đại thần, xin tiên sinh cứ nói hết không can gì mà phải giấu giếm. Vua Tần nói câu ấy, là vì lúc đi vào lối ngõ, nghe tên hoạn giả thuật lời Phạm Chuy nói Tần chỉ có thái hậu và Nhương Hầu chứ không nghe có vua, trong lòng nghi hoặc, cho nên nóng xin Phạm Chuy dạy bảo cho, mà Phạm Chuy thì e buổi đầu vào yết kiến, vạn nhất có lời nào không hợp ý, là tuyệt cái đường tiến nói về sau; phương chi các kẻ tả hữu tất có nhiều kẻ nghe trộm, e truyền nói đi, tất sẽ mua vạ cho nên đem sự tình bên ngoài nói qua một lượt để làm đầu câu chuyện, rồi thưa rằng: - Đại vương cho thần được nói hết tức là chí nguyện của thần. Nói rồi sụp xuống lạy, vua Tần cũng lạy đáp. Đoạn ai ngồi vào chỗ nấy. Phạm Chuy nói: - Đất Tần hiểm trở không nước nào bằng, giáp binh cường tráng cũng không nước nào địch nổi, vậy mà muốn kiêm tính không xong, nghiệp bá vương không thành được, há chẳng phải là đại thần nước Tần có điều gì mưu tính sai hỏng chăng? Vua Tần cung kính nói rằng: - Xin nói cho biết chỗ sai hỏng: Phạm Chuy nói: - Tôi nghe Nhương Hầu sắp vượt Hàn, Ngụy mà đánh Tề, kế ấy thấp lắm. Tề cách Tần rất xa, lại có Hàn, Ngụy ngăn cách, đem ít quân thì không đủ làm hại Tề, đem nhiều quân đi thì làm hại Tần trước. Trước kia Ngụy vượt qua Triệu mà đánh Trung Sơn, lúc lấy được đất lại bị Triệu chiếm mất, là cớ sao, vì Trung Sơn gần Triệu mà xa Ngụy vậy. Nay đánh Tề mà không được thì là nhục lớn cho Tần, cho dù đánh được thì chỉ ích cho Hàn, Ngụy chứ Tần chẳng có lợi gì. Tính cái việc ngày nay, thì chi bằng kết giao nước xa mà chuyên đánh nước gần, kết giao nước xa để lìa tình thân của người, chuyên đánh nước gần để rộng đất cõi của ta, từ gần đến xa, như tằm ăn lá, lấy hết được cả thiên hạ chẳng khó gì. Vua Tần lại hỏi: - Cách kết giao nước xa chuyên đánh nước gần như thế nào? Phạm Chuy nói: - Giao nước xa không nước nào bằng Tề, Sở, đánh nước gần không nước nào bằng Hàn, Ngụy, đã lấy được Hàn, Ngụy thì Tề, Sở cũng không thể còn được. Vua Tần vỗ tay khen phải, liền bái Phạm Chuy làm khách khanh, gọi là Trương Khanh, theo dùng mưu kế, Đông đánh Hàn, Ngụy, bãi toán quân Bạch Khởi đi đánh Tề. Ngụy Nhiễm cùng Bạch Khởi, một tướng văn, một tướng võ làm việc đã lâu, thấy Trương Lộc tự nhiên được vua yêu, đều có ý không bằng lòng, chỉ có vua Tần tin quá, cách đối đãi càng ngày càng hậu, thường thường đêm khuya cho đòi riêng vào để bàn việc, nói gì vua Tần cũng nghe theo. Phạm Chuy biết vua Tần thực đã tin dùng mình, nhân lúc chầu riêng, xin đuổi các người tả hữu ra ngoài rồi nói rằng: - Tôi đội ơn đại vương quá nghe, cho được cùng bàn việc, tôi dù tan xương nát thịt cũng không đủ báo đền, tuy nhiên tôi có cái kế yên nước Tần, còn chưa dám nói hết với đại vương. Vua Tần quì hỏi rằng: - Quả nhân đem nước nhờ cậy tiên sinh, tiên sinh đã có kế yên Tần, sao không nói ngay cho biết, còn đợi đến bao giờ. Phạm Chuy nói: - Trước kia tôi ở Sơn Đông, nghe Tần chỉ có Mạnh Thường Quân chứ không có vua Tề, nay nước Tần chỉ có thái hậu, Nhương Hầu, Hoa Dương Quân, Cao Lăng Quân, Kinh Dương Quân chứ không nghe có vua Tần. Giữ quyền trị nước, ấy là vua, các quyền sinh sát dữ đoạt người khác không dám tự ý chuyên dùng, nay thái hậu cậy mình là quốc mẫu, chuyên quyền không nể đã hơn 40 năm nay, Nhương Hầu một mình làm tướng Tần, Hoa Dương giúp sức, Kinh Dương, Cao Lăng đều lập mộ hộ, sinh sát tự do, sức giấu của nhà riêng gấp mười nhà nước, đại vương chỉ chắp tay mà hưởng cái tiếng là vua không, chẳng cũng nguy lắm ru? Xưa kia Thôi Trữ chuyên quyền Tề rồi giết Trang Công, Lý Đoái chuyên quyền Triệu rồi giết Chủ Phụ, nay Nhương Hầu trong cậy thế thái hậu, ngoài trộm oai đại vương, dụng binh thì chư hầu sợ, giải giáp thì chư hầu mừng, đặt kẻ tai mắt làm tả hữu vua, tôi thấy đại vương một mình đứng ở trong triều đã bao nhiêu lâu rồi, e rằng sau khi đại vương vạn tuế rồi, làm vua nước Tần không phải là con cháu của đại vương nữa. Vua Tần nghe nói, sợ đứng tóc gáy, liền vái hai cái nói rằng: - Những điều tiên sinh nói đó đều là lời nói gan mật, quả nhân rất tiếc là không được nghe nói từ trước. Rồi hôm sau lập tức cho thu tướng ấn của Nhương Hầu Ngụy Nhiễm, bắt phải về ngay ấp phong. Nhương Hầu lấy xe bò công để chở gia tài đến hơn nghìn cái, còn kỳ trân dị bảo không biết bao nhiêu mà kể, đều là những thứ trong kho nước Tấn không có. Ngày hôm sau vua Tần lại đuổi Hoa Dương, Cao Lăng, Kinh Dương ra ngoài cửa quan, an trí thái hậu ở thâm cung, không cho được dự nghe chính sự, rồi cử Phạm Chuy làm thừa tướng, phong cho Ứng Thành, gọi là Ứng Hầu. Người Tần đều bảo là Trương Lộc làm thừa tướng, không ai biết đó là Phạm Chuy, chỉ riêng có Trịnh An Bình biết, Chuy dặn phải giữ kín chớ nên tiết lộ, An Bình cũng không dám nói. Bấy giờ vua Ngụy là Chiêu Vương đã mất, con là An Ly Vương lên ngôi, nghe vua Tần mới dùng mưu của thừa tướng Trương Lộc muốn đánh nước Ngụy, hội họp quần thần để bàn, Tín Lăng Quân Vô Kỵ nói: - Quân Tần không đến đánh Ngụy đã mấy năm nay, nay vô cớ khởi binh, rõ ràng là khinh ta không thể giữ được, vậy nên phòng bị nghiêm nhặt để đợi quân Tần đến. Tướng quốc Ngụy Tề nói: - Không được, Tần mạnh Ngụy yếu, đánh tất không may. Nghe thừa tướng Trương Lộc là người Ngụy, há lại không có chút tình với nước cũ hay sao. Nếu sai sứ đem nhiều lễ vật, trước thông với Trương tướng sau yết vua Tần, xin cho nộp con tin để cầu hòa, có thể giữ được vạn toàn. An Ly Vương mới lên ngôi, chưa từng sự chiến tranh, bèn dùng kế Ngụy Tề, sai trung đại phu là Tu Giả sang sứ Tần. Tu Giả vâng mệnh, khi đến Hàm Dương, ở trong nhà quán dịch, Phạm Chuy mừng nói rằng: - Tu Giả ngày nay đến đây tức là cái ngày ta báo thù. Nói xong, Phạm Chuy bèn cởi bỏ áo sang, thay lốt giả làm người nghèo khổ rách rưới, ngầm đi ra ngoài tướng phủ, đến thẳng quán dịch thong thả đi vào, yết kiến Tu Giả. Tu Giả trông thấy cả sợ nói rằng: - Ồ! Phạm Thúc còn sống đấy à? Ta cứ yên chí là nhà ngươi bị Ngụy tướng đánh chết, làm sao lại còn sống mà sang được đến đây? Phạm Chuy nói: - Khi ấy họ đem thi thể tôi quăng ra ngoài bãi, hôm sau mới hồi lại, may gặp người lái buôn đi qua, nghe tiếng kêu rên, thương mà cứu cho, nên được còn sống nhưng không dám về nhà, từ đó lưu lạc sang đến nước Tần, không ngờ lại gặp được đại phu ở đây. Tu Giả hỏi: - Có lẽ Phạm Thúc muốn sang du thuyết nước Tần chăng? Chuy nói: - Ngày trước được tội với nước Ngụy, trốn sang đến đây, được sống là may, còn dám mở mồm nói gì nữa. Tu Giả hỏi: - Phạm Thúc ở Tần làm gì để mưu sinh? Chuy nói: - Làm thuê làm mướn để kiếm miếng ăn. Tu Giả nghe nói bỗng động lòng thương, giữ lại cùng ngồi, bảo lấy rượu cơm ra cho ăn uống. Bấy giờ đang là mùa đông, Phạm Chuy mặc áo rách, coi bộ rét run. Tu Giả phàn nàn rằng: - Phạm Thúc rét đến thế ư? Tu Giả sai lấy một cái áo bào dày cho mặc, Phạm Chuy nói: - Áo của đại phu, khi nào tôi dám mặc. Tu Giả nói: - Cố nhân cần chi phải quá nhún nhường như thế. Phạm Chuy mặc áo vào, hai ba lần tỏ lời cảm tạ, rồi hỏi: -Đại phu sang đây có việc gì? Tu Giả nói: - Nay quan thừa tướng nước Tần là Trương Quân mới làm việc, ta muốn vào bái yết riêng nhưng hiềm không có người tiến dẫn. Phạm Chuy ở đây đã lâu biết người nào có thể nói trước với Trương tướng cho ta được không? Phạm Chuy nói: - Ông chủ nhân tôi có quen thân thừa tướng, nên tôi thường đi vào tướng phủ, thừa tướng hay bàn nói, trong khi bàn đi nói lại việc gì, ông chủ tôi lỡ có câu nào chưa trả lời kịp, tôi thường giúp vào một lời. Thừa tướng cho tôi là người có tài nói, đôi lúc cho ăn uống, nên được thân cận, nếu đại phu muốn vào yết kiến thừa tướng, tôi xin cùng đi. Tu Giả hỏi: - Được thế thì còn gì bằng, vậy định hôm nào đưa tôi vào hầu? Phạm Chuy nói: - Thừa tướng bận việc lắm, hôm nay bỗng được nhàn rỗi, sao không đi ngay. Tu Giả nói: - Tôi đi xe tứ mã đến, nhưng hiện ngựa đau chân, xe gãy trục, chưa thể đi được. Phạm Chuy nói: - Chủ nhân tôi cũng có xe, có thể mượn được. Phạm Chuy nói rồi, đi về phủ, lấy cỗ xe lớn thắng bốn ngựa, một mình đem đến trước quán dịch, vào bảo Tu Giả rằng: - Có xe rồi, tôi xin đánh xe để ngài đi. Tu Giả hớn hở lên xe, Phạm Chuy cầm cương, mọi người đi đường, trông thấy thừa tướng đánh xe đi, hoặc chắp tay đứng ra bên đường, hoặc chạy tránh xa, Tu Giả cứ ngờ là họ kính mình, có biết đâu là họ vì Phạm Chuy. Khi đã đến trước tướng phủ, Phạm Chuy nói: - Đại phu hãy đợi một lát ở đây, tôi xin vào nói trước, nếu thừa tướng cho phép, mới có thể vào được. Phạm Chuy theo cửa phủ đi vào, Tu Giả xuống xe đỗ ở ngoài cửa, đợi rất lâu, nghe trong phủ nổi hiệu trống, lính hầu nói ran lên rằng thừa tướng đã ra công đường, thuộc lại, xá nhân, đi lại tấp nập, mà không thấy bóng Phạm Chuy đâu, Tu Giả liền hỏi tên lính canh cửa rằng: - Lúc nãy có người bạn tôi là Phạm Thúc vào nói trước với thừa tướng, lâu không thấy ra, nhà ngươi có thể vào gọi giúp tôi được không? Tên canh cửa hỏi: - Phạm Thúc vào lúc nào? Tu Giả nói: - Tức là người đánh xe cho tôi lúc đến đây. Tên canh cửa nói: - Người đánh xe ấy tức là Trương thừa tướng, thừa tướng đi lẻn ra ngoài quán dịch thăm bạn, cho nên giả làm người thường mà đi, sao lại bảo là Phạm Thúc! Tu Giả nghe nói như đang ngủ bỗng nghe tiếng sét dữ dội, trống ngực đánh thình thình, nói rằng: - Ta bị Phạm Thúc đánh lừa, chết đến nơi rồi. Càng nghĩ càng sợ, đành phải lột áo cởi đai, trút mũ, đi chân không quì ở ngoài cửa, nhờ lính canh cửa vào nói cho rằng kẻ có tội nước Ngụy là Tu Giả ở ngoài xin chịu tội chết. Hồi lâu nữa, có lệnh thừa tướng cho đòi vào, Tu Giả lại càng sợ, cúi đầu, quì gối lê đi, theo cửa bên đi vào, thẳng đến trước thềm, dập đầu luôn luôn, miệng nói "tội đáng chết". Phạm Chuy uy phong lẫm liệt ngồi trên công đường hỏi rằng: - Mày biết tội chưa? Tu Giả phủ phục thưa rằng: - Tôi biết tội rồi. Phạm Chuy nói: - Mày có bao nhiêu tội? Tu Giả nói: - Dù nhổ hết tóc của tôi để kể tội tôi cũng chưa hết. Phạm Chuy nói: - Mày có ba tội. Mồ mả tiên nhân ta ở Ngụy, nên ta không muốn làm quan ở Tề, vậy mà mày lại nghi là ta tư thông với Tề, nói bậy với Ngụy Tề để nó căm giận ta, đó là một tội. Đang khi Ngụy Tề nổi cơn giận, đánh ta đến gãy răng gãy xương, mày không hề can ngăn, đó là hai tội. Đến khi ta đau quá ngất đi, bị bỏ vào chuồng xí, mày lại đem tân khách ra mà đái vào ta, xưa kia đức Trọng Mỗ không làm điều quá lắm, mày sao lại quá nhẫn tâm, đó là ba tội. Ngày nay mày đến đây, đáng lẽ ta chém đầu để báo thù trước, nhưng thấy mày thương ta rét mà cho áo, còn có lòng yêu đến người cũ, nên ta rộng dung cho được toàn tính mệnh, mày phải nên biết ơn. Tu Giả dập đầu lạy tạ mãi không thôi, Phạm Chuy hẩy tay đuổi đi. Tu Giả khúm núm đi ra, từ đó người Tần mới biết thừa tướng Trương Lộc tức là Phạm Chuy người Ngụy, trá hình đến nước Tần. Hôm sau Phạm Chuy vào hầu vua Tần, nói nước Ngụy sợ hãi, sai sứ xin hòa, không dám đánh nhau, đó đều do oai đức của đại vương mà được. Vua Tần cả mừng, Phạm Chuy lại tâu rằng: - Hạ thần có cái tội khi quân, xin đại vương tha thứ cho mới dám nói. Vua Tần nói: -Nhà ngươi có điều gì cứ nói, quả nhân không bắt tội. Phạm Chuy tâu rằng: - Hạ thần thực không phải Trương Lộc, chính là Phạm Chuy người nước Ngụy vậy. Từ bé mồ côi, nhà nghèo, phải thờ quan trung đại phu nước Ngụy là Tu Giả, làm xá nhân, theo Giả sang sứ Tề. Vua Tề có đem vàng cho riêng hạ thần, hạ thần từ chối, không nhận, không ngờ Tu Giả về nói với tướng quốc Ngụy Tề, rồi đem hạ thần ra đánh đến chết. May mà sống lại, đổi tên làm Trương Lộc, chạy trốn sang Tần, mông ơn đại vương cho được làm thừa tướng. Nay Tu Giả đã phụng sứ đến đây, họ tên thực của hạ thần đã lộ ra, cần phải lại theo như cũ, cúi mong đại vương thương mà tha tội cho. Vua Tần nói: - Quả nhân không biết nhà ngươi bị oan như thế, nay Tu Giả đã đến, thì nên chém đầu để thỏa lòng căm giận của nhà ngươi. Phạm Chuy nói: - Tu Giả vì việc công mà đến, từ xưa hai nước giao binh, không chém sứ giả của nhau, phương chi lại là cầu hòa, hạ thần há dám vì thù riêng mà lại hại nghĩa công. Vả nhẫn tâm giết hạ thần là Ngụy Tề chứ không ở Tu Giả. Vua Tần nói: - Nhà ngươi trước nghĩ đến công việc rồi sau mới nghĩ đến việc tư, có thể nói là người đại trung. Cái thù Ngụy Tề, quả nhân sẽ báo lại cho nhà ngươi, còn sứ giả thì giao cho nhà ngươi nghị xử. Phạm Chuy tạ ơn lui ra. Vua Tần chuẩn lời cầu hòa của Ngụy, Tu Giả vào từ Phạm Chuy. Chuy nói: - Người cũ đến đây, nên phải kính đãi một bữa cơm. Nói xong, Phạm Chuy sai xá nhân lưu Tu Giả ở trong phủ, sai bày tiệc rượu to, Tu Giả nghĩ thầm "thừa tướng rộng lòng tha tội cho đã là may lắm, không ngờ lại còn hậu đãi nữa". Phạm Chuy lui vào nhà trong, Tu Giả một mình ngồi ở phòng ngoài, có lính canh giữ không dám rời đi đâu, từ giờ Thìn đến giờ Ngọ, bụng đã nghe đói, nghĩ thầm "hôm trước Phạm Chuy ra ngoài quán dịch, ta cứ gọi đem rượu cơm sẵn có ra đãi, hôm nay hắn đãi trả lại, chỗ bạn cũ, tưởng nên cứ xoàng xoàng, cần chi phải bày vẽ những gì thế". Một lát, trên nhà bày tiệc đã xong, thấy trong phủ phát ra một cái đơn, mời khắp sứ thần các nước và những tân khách có tiếng ở bản phủ. Tu Giả lại nghĩ thầm, "đó là những người mời đến để tiếp ta, nhưng không rõ đó là những ai, lát nữa vào ngồi, ta cũng phải tùy chỗ nào nên ngồi, không nên tiếm vọng". Tu Giả còn đang nghĩ vẩn vơ, đã thấy sứ thần các nước và tân khách tấp nập kéo đến. Người coi việc vào báo là khách đến đã đủ. Phạm Chuy ở nhà trong ra chào khắp lượt, rồi theo vị thứ mời ai nấy cùng ngồi dự tiệc, dưới tả; hữu vu bắt đầu tấu nhạc, không thấy mời đến Tu Giả. Tu Giả bấy giờ vừa đói vừa khát, vừa khổ vừa buồn, vừa thẹn vừa tức, nỗi bực dọc không sao tả được. Khi tiệc đã được ba tuần rượu, Phạm Chuy mới nói: - À, còn một cố nhân ở đây, vừa rồi quên mất! Các khách đứng dậy nói: - Thừa tướng đã có vị bạn cũ, chúng tôi theo lễ phải hầu tiếp. Phạm Chuy nói: - Dẫu là người cũ, nhưng không dám để cùng ngồi với các ngài. Rồi sai đặt một bàn nhỏ ở dưới nhà, gọi Tu Giả đến, sai hai tên tù bị tội thích chữ ngồi giáp hai bên, trên bàn không đặt cơm rượu, chỉ có thứ đậu đã rang kỹ, hai tên tù bưng mà đút vào mồm như là cho ngựa ăn. Các khách đều lấy làm ngượng, hỏi rằng: - Thừa tướng có điều gì mà lại căm giận người ấy quá như thế? Phạm Chuy thuật lại đầu đuôi việc cũ. Các khách đều nói: - Như thế, không trách được thừa tướng căm giận quá. Tu Giả dẫu bị nhục nhưng không dám chống lại, đành cứ phải nhá đậu rang cho khỏi đói; ăn xong, lại phải tạ ơn. Phạm Chuy trừng mắt nói rằng: - Vua Tần dẫu cho Ngụy hòa, nhưng cái thù Ngụy Tề ta cần phải báo, nay tha chết cho mày, về bảo ngay vua Ngụy, mau mau chém đầu Ngụy Tề mang đến nộp ta, và đưa gia quyến ta sang Tần, rồi hai nước kết tình giao hiếu cùng nhau, nếu không ta sẽ đem quân đến làm cỏ thành Đại Lương, bấy giờ dù hối cũng muộn rồi. Tu Giả sợ quá, chẳng còn hồn vía nào, dạ dạ luôn mấy tiếng rồi lui ra. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 98 Vua Tần đòi thủ cấp Ngụy Tề Bạch Khởi chôn mấy vạn quân Triệu Bấm để xem Lại nói Tu Giả được tha, luôn ban đêm chạy về Đại Lương, vào yết kiến vua Ngụy, thuật lời nói của Phạm Chuy. Việc đưa gia quyến của Phạm Chuy là việc nhỏ có thể làm được, còn việc đòi chém đầu tướng quốc Ngụy Tề có quan hệ đến thể diện, khó nói ra được, vua Ngụy trù trừ chưa quyết. Ngụy Tề nghe biết tin ấy bỏ lại tướng ấn, luôn đêm trốn sang nước Triệu ở nhờ Bình Nguyên Quân Triệu Thắng. Vua Ngụy bèn sắp xe ngựa, một trăm cân vàng, một nghìn tấm lụa, đưa gia quyến Phạm Chuy đến Hàm Dương, và nói thực là Ngụy Tề nghe tin đã bỏ trốn từ trước rồi, hiện nay ở nhờ Bình Nguyên Quân nước Triệu, không can dự gì đến nước Ngụy. Phạm Chuy tâu với vua Tần. Vua Tần nói: - Triệu vốn cùng Tần kết hiếu, Tần lại đem Vương tôn Dị Nhân làm con tin ở Triệu, muốn giữ bền tình giao hiếu. Trước đây quân Tần đánh Hàn, vây thành Ô Dữ, Triệu sai Lý Mục cứu Hàn, làm cho quân Tần đại bại, quả nhân còn chưa hỏi tội, nay lại tự tiện dung người thù của thừa tướng. Kẻ thù của thừa tướng, tức là kẻ thù của quả nhân, quả nhân quyết ý đánh Triệu, một là báo cái thù Ô Dữ, hai là đòi bắt Ngụy Tề. Vua Tề bèn thân đem 20 vạn quân, sai Vương Tiễn làm đại tướng, đánh Triệu lấy ba thành. Bấy giờ Huệ Văn Vương nước Triệu mới mất, con là Hiếu Thành Vương lên ngôi, tuổi còn bé, Huệ Văn thái hậu phải coi việc, nghe quân Tần đã kéo vào sâu, sợ quá. Lạn Tương Như vì có bệnh đã cáo lão, Ngu Khanh thăng làm tướng quốc, sai đại tướng Liêm Pha mang quân cự địch, giữ nhau mãi không phân được thua. Ngu Khanh nói với Huệ Văn thái hậu rằng: - Việc gấp lắm rồi, tôi xin đem Trường An Quân sang Tề làm tin để cầu cứu. Thái hậu bằng lòng. Nguyên Triệu thái hậu là con gái Mân Vương nước Tề. Năm ấy Tề Tương Vương mới mất, con là thái tử Kiến lên ngôi cũng còn bé, Tề thái hậu cũng phải coi việc nước. Triệu thái hậu với Tề thái hậu là chị dâu em chồng, tình nghĩa rất thân, Trường An Quân lại là con bé rất yêu quí của Triệu thái hậu, sang làm con tin ở Tề, Tề thái hậu làm sao không phải động lòng, bèn sai Điền Đan làm đại tướng, mang mười vạn quân đi cứu Triệu. Tướng Tần là Vương Tiễn nói với vua Tần rằng: - Nước Triệu có nhiều tướng giỏi, lại có Bình Nguyên Quân là người hiền chưa dễ đánh được, phương chi quân cứu nước Tề lại sắp đến, chi bằng quay quân trở về. Vua Tần nói: - Không bắt được Ngụy Tề, quả nhân còn mặt nào trông thấy Ứng hầu. Vua Tần bèn sai sứ bảo Bình Nguyên Quân rằng: - Tần đánh Triệu, là chỉ cốt bắt Ngụy Tề, nếu bắt Ngụy Tề đem nộp, thì lập tức lui quân. Bình Nguyên Quân đáp lại rằng: - Ngụy Tề không có ở nhà tôi, đại vương chớ nên nghe lời người ta nói. Sứ giả ba lần đi, Bình Nguyên Quân vẫn không chịu nhận. Vua Tần buồn bực không vui, muốn tiến đánh, lại sợ Tề, Triệu hợp binh, được thua khó đoán, muốn kéo quân về thì làm sao bắt được Ngụy Tề. Nghĩ đi nghĩ lại, liền sinh một kế, gửi bức thư tạ vua Triệu, đại ý nói rằng: "Quả nhân cùng vua là chỗ anh em, quả nhân trót nghe lầm người ta nói, là Ngụy Tề ở nhà Bình Nguyên Quân cho nên đem quân đến đòi. Nếu không thì khi nào dám lấn vào cõi đất nước Triệu. Ba thành đã lấy được, xin trả lại Triệu, quả nhân lại xin nối lại mối tình giao hiếu, đi lại như thường". Vua Triệu cũng sai sứ đáp thư, tạ cái ý lui quân trả thành. Điền Đan nghe quân Tần đã lui cũng trở về Tề. Vua Tần về đến Hàm Cốc, lại sai người gửi một phong thư cho Bình Nguyên Quân, đại ý nói: "Quả nhân lấy làm mến tấm lòng cao nghĩa của ngài, xin cùng ngài kết làm bạn áo vải, quả nhân mong ngài sẽ quá bộ sang chơi, quả nhân xin cùng ngài uống rượu trong mười ngày để tỏ tình kính mến". Bình Nguyên Quân xem thư xong, vào tâu vua Triệu, vua Triệu họp quần thần lại để bàn. Tướng quốc Ngu Khanh nói rằng: - Tần là nước hổ lang, trước kia Mạnh Thường Quân vào Tần suýt không được về, phương chi nay Tần đang ngờ Ngụy Tề ở Triệu, Bình Nguyên Quân không nên đi. Liêm Pha nói: - Trước kia Lạn Tương Như mang ngọc bích sang Tần, còn giữ trọn được ngọc bích mang về Triệu, Tần không lừa Triệu, nếu không đi thì lại càng làm cho Tần sinh nghi. Vua Triệu cũng cho đó là cái ý tốt của vua Tần không thể trái được, bèn sai Bình Nguyên Quân cùng sứ Tần đi sang Hàm Dương. Vua Tần mới trông thấy tỏ ý vui mừng, ngày ngày đặt tiệc khoản đãi. Được vài ngày vua Tần nhân lúc vui, cất chén mời Bình Nguyên Quân rằng: - Quả nhân muốn phiền ngài một việc, nếu ngài bằng lòng, xin uống chén rượu này. Bình Nguyên Quân nói: - Đại vương có điều gì sai bảo đến, khi nào Thắng này lại không vâng lời. Rồi đón lấy chén rượu, uống một hơi hết ngay. Vua Tần nói: - Xưa kia Chu Văn Vương được Lã Vọng cho làm thái công, Tề Hoàn công được Quản Trọng cho làm trọng phụ, nay Phạm Quân tức Lã Vọng, Quản Trọng của quả nhân, kẻ thù của Phạm Quân là Ngụy Tề hiện ở nhà ngài, ngài nên sai người về chặt lấy đầu đem sang đây để rửa thù cho Phạm Quân, thì quả nhân sẽ chịu ơn ngài lắm. Bình Nguyên Quân nói: - Tôi nghe sang mà còn nhớ bạn cũ là nghĩ khi mình còn hèn, giàu mà còn nhớ bạn cũ là nghĩ khi mình còn nghèo. Ngụy Tề là người bạn cũ của tôi, nếu thực có ở nhà tôi, tôi cũng không nỡ lòng nào mà đem ra được, phương chi là không có. Vua Tần biến sắc mặt nói rằng: - Nếu ngài không bắt Ngụy Tề đem đến đây, thì quả nhân cũng không cho ngài ra khỏi cửa quan. Bình Nguyên Quân nói: - Cho ra hay không, cái đó là quyền của đại vương. Nhưng đại vương lấy rượu mời tôi đến, nay lại lấy oai mà giữ tôi lại, phải trái đã có thiên hạ phẩm bình. Vua Tần biết Bình Nguyên Quân không chịu bắt Ngụy Tề, bèn đưa về Hàm Dương, lưu ở trong quán xá, sai người đưa thư cho vua Triệu, đại ý nói: "Em đại vương là Bình Nguyên Quân ở Tần, mà kẻ thù của Phạm Quân là Ngụy Tề hiện lại ở nhà Bình Nguyên Quân, vậy đầu Ngụy Tề buổi sáng đem đến, thì Bình Nguyên Quân buổi chiều được về. Nếu không thì quả nhân sẽ tự đem quân đến Triệu đánh lấy Ngụy Tề, mà không thả cho Bình Nguyên Quân về nữa, điều đó xin vua biết cho". Vua Triệu được thư sợ quá, bảo quần thần rằng: - Quả nhân há vì một kẻ vong thần nước khác mà đổi vị Công tử trấn quốc của nước ta. Rồi lập tức phái quân đến vây nhà Bình Nguyên Quân để bắt Ngụy Tề. Tân khách trong nhà Bình Nguyên Quân có nhiều người chơi thân với Ngụy Tề, nhân ban đêm thả cho trốn đi, đến ở nhờ tướng quốc Ngu Khanh. Ngu Khanh nói: - Vua Triệu sợ nước Tần hơn cọp, không thể nói được, chi bằng lại chạy về Ngụy. Tín Lăng Quân chiêu hiền nạp sĩ, những kẻ vong mệnh trong thiên hạ đều theo về, vả ngài lại là bạn thân của Tín Lăng Quân, tất hắn sẽ che chở cho. Tuy nhiên, ngài là người có tội, không nên đi một mình, tôi xin cùng ngài đi. Rồi lập tức bỏ trả tướng ấn, làm một bức thư để lại tạ vua Triệu, cùng Ngụy Tề đi sang Ngụy. Khi đến ngoài thành, Ngu Khanh bảo Ngụy Tề rằng: - Tín Lăng Quân là khảng khái trượng phu, ngài hãy đứng đợi ngoài này để tôi vào trước, tất sẽ ra đón ngay, không để ngài phải đợi lâu. Ngu Khanh đi chân không đến cửa nhà Tín Lăng Quân đưa danh thiếp vào. Tín Lăng Quân đang xõa tóc sắp gội đầu, thấy danh thiếp cả sợ nói rằng: - Ông này là tướng quốc nước Triệu, làm sao vô cớ lại đến đây? Rồi sai người nhà ra nói là chủ nhân đang gội đầu, tạm mời vào ngồi đợi, và hỏi đến có việc gì. Ngu Khanh nóng ruột đem đầu đuôi việc Ngụy Tề phạm tội với Tần, và tự mình bỏ tướng ấn cùng đi sang đây. Người nhà vào nói, Tín Lăng Quân trong lòng sợ Tần, không muốn dung Ngụy Tề, lại nghĩ Ngu Khanh, vì lòng mến mình chẳng quản xa xôi mà đến theo mình, cự tuyệt thì không phải, trong lòng do dự không biết tính thế nào. Ngu Khanh nghe Tín Lăng Quân có ý khó khăn, không ra tiếp kiến ngay, giận bỏ đi. Tín Lăng Quân hỏi tân khách rằng: - Ngu Khanh là người thế nào? Bấy giờ Hầu Sinh ở bên cạnh, cả cười mà nói rằng: - Sao Công tử lại tối việc thế? Ngu Khanh đem ba tấc lưỡi lấy được tướng ấn nước Triệu, phong vạn hộ hầu, nay Ngụy Tề cùng khốn mà đến theo Ngu Khanh, Ngu Khanh không ham tước lộc, bỏ chức cùng theo, thiên hạ đã mấy người được như thế, thế mà Công tử còn chưa định được là người hiền hay không ư? Tín Lăng Quân cả thẹn, vội quấn tóc đội mũ, sai người dóng xe kíp ra ngoài thành đuổi theo. Lại nói Ngụy Tề đứng chờ bên ngoài, chờ mãi chẳng thấy tin tức gì, chắc là không xong, một lát thấy Ngu Khanh đi đến rơm rớm nước mắt nói rằng: - Tín Lăng Quân không phải là trượng phu, sợ Tần mà từ chối ta, tôi xin cùng ngài lẻn đường đi sang Sở. Ngụy Tề nói: - Tôi vì nhất thời không xét, được tội với Phạm Thúc, đã làm lụy Bình Nguyên Quân, lại làm lụy đến ngài, lại để ngài phải vì tôi lặn lội, sang cầu chút sống tàn ở cái nước Sở không chắc ra thế nào, như vậy tôi còn sống làm gì nữa. Nói xong, liền cởi gươm tự đâm cổ chết. Ngu Khanh vội chạy lại giật ra, nhưng cuống họng đã đứt rồi. Ngu Khanh đang lúc thương xót, thì Tín Lăng Quân đã đi xe đến. Ngu Khanh trông thấy, vội chạy tránh mặt đi, không muốn giáp mặt. Tín Lăng Quân trông thấy thi thể Ngụy Tề, vỗ về khóc mà nói rằng: - Thực là cái lỗi của Vô Kỵ này. Bấy giờ vua Triệu không bắt được Ngụy Tề, Ngu Khanh lại bỏ đi mất, biết hai người đưa nhau đi, không ở Hàn thì ở Ngụy, sai người đi bốn phía đuổi bắt. Sứ giả đến nước Ngụy, mới biết Ngụy Tề đã tự vẫn, liền tâu vua Ngụy muốn xin cái đầu để chuộc Bình Nguyên Quân về nước. Tín Lăng Quân đang sai khâm liệm thi thể Ngụy Tề, không nỡ đem cho, sứ giả nói: - Bình Nguyên Quân với ngài như một. Bình Nguyên yêu Ngụy Tề cũng một lòng như ngài, nếu Ngụy Tề còn, tôi không dám nói, nay tiếc cái nắm xương đã chết không biết gì, mà khiến Bình Nguyên phải ngồi tù ở nước Tần, thì ngài có yên lòng được chăng. Tín Lăng Quân không đừng được, bèn lấy cái đầu Ngụy Tề, đựng vào một cái hòm, giao cho sứ Ngụy, còn cái thây thì chôn ở ngoài bãi. Ngu Khanh đã bỏ tướng ấn, cảm khái tình đời, không muốn làm quan nữa, ẩn ở trong núi Bạch Vân, làm sách chế giễu việc đời, gọi là Ngu Thị Xuân Thu. Vua Triệu đem đầu Ngụy Tề, luôn ban đêm đưa đến Hàm Dương, vua Tần đưa cho Phạm Chuy. Phạm Chuy sai đem sơn làm máng đái, chỉ mà nói rằng: - Mày cho tân khách say rượu đái vào ta, nay ta bắt mày ở dưới suối vàng phải uống nước đái ta. Vua Tần theo như lệ thường đưa Bình Nguyên Quân về Triệu, Triệu dùng làm tướng quốc thay Ngu Khanh. Phạm Chuy lại nói với vua Tần rằng: - Hạ thần là kẻ hèn hạ, may được đại vương biết đến, cho làm khanh tướng, lại vì hạ thần báo thù, thực là một cái ân lớn không gì bằng, nhưng hạ thần không có Trịnh An Bình không còn được sống ở Ngụy, không có Vương Kê thì không được tiến cử ở Tần, xin đại vương biếm tước trật của hạ thần cho hai người ấy, để được trọn cái lòng báo ơn của hạ thần, thần có chết cũng không còn hối hận gì. Vua Tần nói: - Thừa tướng không nói ra, quả nhân suýt quên mất đấy. Lập tức dùng Vương Kê làm quan trấn thủ Hà Đông, Trịnh An Bình làm thiên tướng quân. Từ đó chuyên dùng mưu của Phạm Chuy, trước đánh Hàn, Ngụy, sai sứ thông hiếu với Tề, Sở. Bấy giờ thái tử nước Sở là Hùng Hoàn làm con tin ở Tần, Tần giữ đã 16 năm không cho về. Gặp lúc sứ Tần sang Sở giao hiếu, Sở cũng sai sứ là Chu Anh cùng đến Hàm Dương đáp lễ, Chu Anh nhân nói vua Sở đau nặng, e không sống được, thái phó Hoàng Yết nói với Hùng Hoàn rằng: - Vua đau nặng mà thái tử lại ở Tần, vạn nhất vua mất đi, thái tử không có ở đó, các công tử tất có người nối ngôi, nước Sở e không phải là của thái tử nữa, tôi xin vì thái tử vào yết kiến Ứng Hầu xin cho thái tử về. Hùng Hoàn bằng lòng, Hoàng Yết bèn đi đến tướng phủ nói với Phạm Chuy rằng: - Thừa tướng có biết vua Sở bị đau không? Chuy nói: - Sứ giả đã có nói chuyện. Hoàng Yết nói: - Thái tử nước Sở ở nước Tần đã lâu, đối với các tướng văn tướng võ nước Tần đều chơi thân cả, nếu vua Sở mất mà thái tử được làm vua, thì tất phải một lòng thờ Tần. Thừa tướng nhân lúc này cho thái tử về Sở, thái tử tất cám ơn thừa tướng vô cùng, nếu giữ lại không cho về, Sở lập vị công tử khác lên làm vua, thì thái tử ở Tần chẳng qua chỉ là một người áo vải ở thành Hàm Dương, mà Sở sẽ căm về việc thái tử không được về mà chẳng chịu thờ Tần nữa. Giữ lại một người áo vải, mà dứt tình giao hiếu của hai nước, tôi trộm nghĩ không nên. Chuy bằng lòng vào nói với vua Tần, vua Tần nói: - Nên cho thái phó Hoàng Yết về trước thăm bệnh vua Sở, nếu đau nặng thật, bấy giờ sẽ sang đón thái tử. Hoàng Yết nghe thái tử không được cùng về, bàn riêng với thái tử rằng: - Vua Tần giữ thái tử không cho về, có ý lại muốn làm như việc giữ Hoài Dương ngày xưa, nhân lúc nguy cấp để cầu cắt đất, nếu Sở đến đón thì mắc kế Tần, không đến đón thì thái tử trọn đời làm tù ở Tần vậy. Thái tử quì hỏi rằng: - Thái phó tính thế nào? Hoàng Yết nói: - Cứ như ý ngu của tôi, chi bằng đổi lốt làm người thường mà đi trốn, nay nhân sứ Sở sang đáp lễ sắp về, dịp ấy chớ nên để lỡ, tôi xin một mình ở lại, lấy cái chết đối với Tần. Thái tử mừng nói rằng: - Nếu việc thành, sẽ xin cùng thái phó cai trị nước Sở. Hoàng Yết liền đến yết kiến riêng Chu Anh, cùng Chu Anh thông mưu. Chu Anh bằng lòng, thái tử Hùng Hoàn đổi mặc quần áo người thường, làm tên đánh xe, cùng sứ Sở là Chu Anh ra khỏi cửa Hàm Cốc, không ai biết cả. Hoàng Yết ở lại lữ xá, vua Tần sai người đến hỏi thăm, Hoàng Yết nói: - Thái tử vừa bị bệnh không có người coi nom, đợi thái tử khỏi, tôi sẽ xin vào bái từ rồi về Sở. Hơn nửa tháng, chắc thái tử ra khỏi cửa quan đã lâu, Hoàng Yết bèn vào yết kiến vua Tần, dập đầu tạ tội rằng: - Tôi sợ vua Sở mất đi, thái tử không được nối ngôi, nên đã tự tiện cho thái tử về, nay đã ra khỏi cửa quan rồi. Yết này có tội khi quân, xin chịu tội chết. Vua Tần cả sợ nói rằng: - Người Sở lại hay lừa dối như thế à? Rồi vua Tần thét tả hữu bắt Hoàng Yết đem giết. Thừa tướng Phạm Chuy can rằng: - Giết Hoàng Yết không thể bắt lại được thái tử nước Sở nữa, lại chỉ mất lòng Sở, chi bằng khen cái lòng trung của hắn mà cho về. Vua Sở mất, thái tử tất nối ngôi, Hoàng Yết tất làm tướng, vua tôi Sở đều cảm ơn Tần, tất phải một lòng thờ Tần. Vua Tần lấy làm phải, bèn hậu đãi Hoàng Yết rồi cho về. Hoàng Yết về Sở, được ba tháng, vua Sở mất. Thái tử Hùng Hoàn lên ngôi, ấy là Khảo Liệt Vương, cử thái phó Hoàng Yết làm thừa tướng, phong là Xuân Thân Quân. Bấy giờ Mạnh Thường Quân dẫu mất rồi, mà Triệu có Bình Nguyên Quân, Ngụy có Tín Lăng Quân, đều đua nhau thu nuôi những kẻ sĩ trong thiên hạ, Hoàng Yết bắt chước cũng thu dung tân khách, trong nhà khách ăn thường đến vài nghìn người. Bình Nguyên Quân thường sai sứ đến nhà Xuân Thân Quân, Xuân Thân Quân cho ở vào thượng xá. Sứ Triệu muốn khoe với người Sở, dùng đồi mồi làm trâm, dùng châu ngọc nạm vỏ gươm đao, đến khi thấy Xuân Thân Quân có ba nghìn khách, những thượng khách đều dùng minh châu làm giầy đi, sứ Triệu cả thẹn. Xuân Thân Quân dùng mưu của tân khách, phía Bắc kiêm tính đất hai nước Trâu, Lỗ, dùng vị hiền sĩ là Tuân Khanh làm quan lệnh ở Lan Lăng, sửa lại chính trị, luyện tập quân lính, nước Sở lại cường thịnh. Lại nói vua Tần đã kết giao với Tề, Sở, bèn sai đại tướng Vương Hạt mang quân đánh Hàn, lấy được thành Giã Vương. Tướng giữ thành Thượng Đảng là Phùng Đình liệu thế không giữ được, bèn đem thành Thượng Đảng dâng vua Triệu, làm cho Tần giận Triệu, tất dời quân đánh Triệu, bấy giờ Triệu cùng Hàn hợp sức lại để chống Tần. Vua Triệu đêm nằm chiêm bao, thấy mình mặc cái áo mới hai sắc, có con rồng từ trên trời xuống, liền cỡi lên lưng, rồng lập tức bay đi, chưa đến trời thì ngã xuống, thấy hai bên có hai tòa núi vàng núi ngọc, ánh sáng lòe cả mắt. Tỉnh dậy, đòi quan đại phu là Triệu Vũ nói cho biết, Triệu Vũ thưa rằng: - Mặc áo hai sắc, đó là hợp lại; cỡi rồng lên trời, đó là tấn tới nhanh chóng; ngã xuống đất là được đất, vàng ngọc thành núi là của cải đầy rẫy. Cứ như cái chiêm bao ấy, đại vương tất có sự mừng rộng đất thêm của, thực là giấc chiêm bao rất hay. Vua Triệu lại sai quan phệ sử là Cảm đoán xem, Cảm thưa rằng: - Áo hai sắc là tàn tệ; cỡi rồng lên trời, chưa đến mà ngã xuống, là công việc phần nhiều giữa chừng sinh biến, có danh không thực; vàng ngọc thành núi chỉ trông thấy mà không dùng được. Cái chiêm bao ấy không hay, vua nên cẩn thận mới được. Vua Triệu vì quá tin lời Triệu Vũ, nên không cho lời phệ sử là phải. Sau đó ba ngày, bỗng thấy thái thú Thượng Đảng là Phùng Đình, sai sứ đến dâng thư, đại ý nói: "Tần đánh Hàn gấp quá, thành Thượng Đảng sắp vào tay Tần, nhưng lại dân chẳng muốn theo Tần mà muốn theo Triệu, tôi không dám trái lòng lại dân, xin đem 17 thành thuộc hạt, hai lạy kính dâng đại vương, xin đại vương nhận cho". Vua Triệu cả mừng nói rằng: - Triệu Vũ nói ta có sự mừng rộng đất thêm của, ngày nay ta đã nghiệm thấy rồi. Bình Dương Quân Triệu Báo can rằng: - Vô cớ mà được lợi, đó là họa hại, vua chớ nên nhận. Vua Triệu nói: - Người ta sợ Tần mà mến Triệu nên theo về, sao lại bảo là vô cớ? Triệu Báo thưa rằng: - Tần đánh đất Hàn, lấy thành Giã Vương, tuyệt đường Thượng Đảng không cho thông nhau, tự cho Thượng Đảng là vật ở trong tay, ngồi mà lấy được, nay lại về Triệu, khi nào Tần chịu thôi. Tần ra sức cày mà Triệu được gặt lúa, vì thế nên tôi bảo là cái lợi vô cớ vậy. Vả Phùng Đình không nộp đất cho Tần mà lại đem nộp cho Triệu, đó là giá họa cho Triệu để thư sự khốn của Hàn, cái mưu ấy sao vua lại không xét đến. Vua Triệu không cho là phải, lại đòi Bình Nguyên Quân quyết đoán xem thế nào. Bình Nguyên Quân nói: - Đem năm vạn quân đến đánh nước người, qua năm nọ đến năm kia chưa lấy được một thành, nay không phí một tên quân, một đấu lương mà được 17 thành, đó là mối lợi không gì bằng, đại vương chớ nên bỏ lỡ. Vua Triệu cho là hợp ý, bèn sai Bình Nguyên Quân đem năm vạn quân đi đến Thượng Đảng nhận đất; phong cho Phùng Đình ba vạn hộ, gọi là Hoa Lăng Quân, vẫn giữ chức thái thú; 17 viên huyện lệnh, đều phong ba nghìn hộ. Phùng Đình đóng cửa mà khóc, không cùng Bình Nguyên Quân giáp mặt. Bình Nguyên Quân cố xin, Phùng Đình nói: - Tôi có ba điều bất nghĩa không thể tiếp kiến sứ giả được: Vì chủ giữ đất mà không giữ được, là một điều bất nghĩa; không do mệnh chủ mà tự tiện đem đất cho Triệu; là hai điều bất nghĩa; bán đất của chủ mà được phú quí, là ba điều bất nghĩa. Bình Nguyên Quân khen là trung thần, đứng đợi ngoài cửa ba ngày không đi. Phùng Đình cảm động bèn ra tiếp kiến, nhưng vẫn khóc không thôi, xin giao đất mà chọn dùng quan thái thú khác. Bình Nguyên Quân hai ba lần an ủi rằng: - Tâm sự ngài, Thắng này đã biết rõ, nếu ngài không làm thái thú thì không thuyết phục được lòng dân. Phùng Đình lại nhận chức thái thú như cũ, nhưng không chịu nhận phong. Bình Nguyên Quân sắp từ biệt, Phùng Đình nói rằng: - Tôi sở dĩ dâng thành Thượng Đảng cho Triệu là vì độc lực không thể chống được Tần, mong Công tử về tâu vua Triệu kíp cử danh tướng đem đại quân để chống quân Tần. Bình Nguyên Quân về bảo vua Triệu, vua Triệu đặt tiệc rượu mừng được đất, bàn việc ra quân, chưa quyết định. Đại tướng Tần là Vương Hạt tiến quân vây thành Thượng Đảng, Phùng Đình cố giữ trong hai tháng mà viện binh Triệu vẫn chưa đến, bèn đem lại dân chạy sang Triệu. Bấy giờ vua Triệu cử Liêm Pha làm thượng tướng đem hai vạn quân đi cứu Thượng Đảng, đi đến Trường Bình Quan gặp Phùng Đình, mới biết là thành Thượng Đảng đã mất rồi, quân Tần mỗi ngày kéo đến gần, liền dựng dinh đắp lũy ở dưới núi Kim Môn. Lại chia một vạn quân, sai Phùng Đình giữ thành Quang Lang, lại chia hai vạn quân sai đô úy Cáp Phụ, Cáp Đồng chia nhau thống suất, giữ hai mặt Đông - Tây Chương Thành, lại sai tì tướng Triệu Giả đi dọ quân Tần. Triệu Giả lĩnh năm nghìn quân bộ tiễu ra ngoài cửa Trường Bình chừng 20 dặm, thì gặp tướng Tần là Tư Mã Ngạnh cũng vừa dẫn quân đến dò thám. Triệu Giả khinh Tư Mã Ngạnh có ít quân, liền xông vào đánh. Đang lúc đánh nhau, toán quân hộ tiễu thứ hai của Tần do Trương Đường thống suất lại kéo đến. Triệu Giả sợ hãi luống cuống, bị Tư Mã Ngạnh chém một đao chết ngay, quân Triệu tan vỡ, bị giết rất nhiều. Liêm Pha nghe quân tuần tiễu bị thua, hạ lệnh cho các lũy phải dụng tâm cố giữ, chớ đánh nhau với quân Tần, lại khiến quân lính đào đất sâu vài trượng để lấy nước, trong quân đều không hiểu ý ra thế nào. Đại quân Vương Hạt đã đến, cách núi Kim Môn 10 dặm hạ trại, trước chia quân đánh Chương Thành, Cáp Phụ, Cáp Đồng ra đánh đều bị thua tử trận. Vương Hạt thừa thắng đánh thành Quang Lang, Tư Mã Ngạnh hăng hái tranh lên trước, đại quân theo sau. Phùng Đình lại thua chạy, chạy đến đại doanh núi Kim Môn. Liêm Pha truyền lệnh, hễ ai đánh, nếu được cũng chém. Vương Hạt đánh không được, bèn dời dinh trại đến gần, cách dinh trại quân Triệu chỉ có năm dặm, khiêu chiến mấy lần, quân Triệu vẫn không ra. Vương Hạt nói: - Liêm Pha là một vị lão tướng, hành quân trì trọng, chưa thể đánh được. Tì tướng Vương Lăng hiến kế rằng: - Dưới núi Kim Môn có cái suối chảy gọi là Dương Cốc, quân Tần, Triệu đều phải lấy nước uống ở đó. Dinh Triệu ở phía Nam, dinh Tần ở phía Tây, dòng nước từ Tây chảy về Đông Nam, nếu đoạn tuyệt suối ấy, khiến nước không chảy về phía Đông, quân Triệu không có nước uống, chỉ vài ngày tất sinh loạn, nhân lúc quân họ loạn mà đánh, thì thế nào cũng được. Vương Hạt cho là phải, sai quân lính đắp ngăn nước suối, không ngờ Liêm Pha đã cho đào hố lấy nước mạch từ trước, quân Triệu được thừa nước uống không thiếu. Tần, Triệu giữ nhau trong bốn tháng. Vương Hạt không được đánh một trận, không biết làm thế nào, sai người về tâu vua Tần. Vua Tần đòi Phạm Chuy vào bàn kế. Chuy nói: - Liêm Pha là người từng trải, biết rằng quân Tần thế mạnh không dám khinh đánh, ý hắn cho rằng quân Tần đường xa không thể giữ lâu, muốn làm cho quân ta chán nản rồi mới thừa cơ ra đánh. Nếu không trừ bỏ được người ấy đi, thì không thể vào nước Triệu được. Vua Tần hỏi: - Thừa tướng có kế gì trừ bỏ Liêm Pha đi được không? Chuy đuổi bỏ các người tả hữu ra ngoài rồi nói rằng: - Muốn bỏ Liêm Pha, phải dùng kế phản gián, nhưng không phí bỏ nghìn vàng không xong. Vua Tần cả mừng, bèn lấy nghìn vàng giao cho Phạm Chuy, sai người môn khách tâm phúc theo đường tắt đi sang Hàm Đan, dùng nghìn vàng lễ đút các người tả hữu vua Triệu, lại nói rêu rao khắp nơi rằng tướng Triệu chỉ có Mã Phục Quân là giỏi nhất, nghe đâu con trai là Triệu Quát lại giỏi hơn cha, nếu cho làm tướng thực không ai địch được. Liêm Pha già mà nhát, đánh luôn đều thua, hại mất ba bốn vạn quân Triệu, nay bị quân Tần bức bách, chẳng bao lâu sẽ ra hàng. Vua Triệu trước kia thấy bọn Triệu Giả bị giết, mất luôn ba thành, sai người đến Trường Bình giục Liêm Pha ra đánh. Liêm Pha cứ thi hành cái mưu giữ vững đồn lũy, không chịu ra đánh. Vua Triệu đã ngỡ là người nhút nhát, đến khi nghe lời phản gián ấy tin ngay làm thực, bèn cho đòi Triệu Quát vào hỏi rằng: - Nhà ngươi có thể đánh được quân Tần không? Triệu Quát nói: - Nếu Tần sai Võ An Quân làm tướng, tôi còn phải tốn công trù hoạch, chứ như Vương Hạt thì không bõ nói. Vua Triệu hỏi: - Sao lại nói thế? Triệu Quát nói: - Võ An Quân thường làm tướng quân Tần, trước đánh thắng Hàn, Ngụy ở Y Khuyết, chém 24 vạn thủ cấp; lại đánh Ngụy, lấy lớn nhỏ 61 thành; lại Nam đánh Sở, lấy được Yên, Dĩnh, định được Vu, Kiềm; rồi lại đánh Ngụy, đuổi được Mang Mão, chém 13 vạn thủ cấp; lại đánh Hàn, lấy năm thành chém năm vạn thủ cấp; lại chém tướng Triệu là Giả Yển, đánh chìm 2 vạn quân xuống sông; đánh đâu được đấy, uy danh lừng lẫy, quân lính đều khiếp sợ. Nếu tôi cùng hắn giao chiến, khó định được thua, cho nên còn phải tốn công trù hoạch. Còn như Vương Hạt mới làm tướng Tần, nhân Liêm Pha nhát sợ, cho nên mới dám vào sâu, nếu gặp hạ thần, như lá mùa thu gặp gió là tan tác ngay. Vua Triệu bằng lòng lắm, liền cử Triệu Quát làm thượng tướng, ban cho vàng lụa, sai cầm cờ tiết đến thay Liêm Pha, lại cấp thêm cho 20 vạn tinh binh nữa. Triệu Quát duyệt quân xong, chở vàng lụa về chào bà mẹ, bà mẹ nói: - Cha mày khi sắp mất, có dặn mày chớ nên làm tướng nước Triệu, sao mày không từ chối đi? Quát nói: - Không phải là con không muốn từ chối, hiềm nỗi trong triều không có ai bằng Quát này. Bà mẹ Quát liền dâng thư can vua Triệu rằng: - Quát chỉ biết đọc sách của cha, không biết thông biến, không phải tài làm tướng, xin vua chớ sai đi. Vua Triệu cho đòi bà mẹ Quát vào hỏi lại, bà thưa rằng: - Cha Quát là Triệu Xa làm tướng, được ban thưởng gì đều đem cho hết quân lính, ngày thụ mệnh liền thủ ngay ở trong quân, không hỏi đến việc nhà, cùng quân lính cam khổ, mỗi việc đều hỏi ý mọi người, không dám tự chuyên; nay Quát mới được làm tướng, đã cậy mình làm oai, quân lính không dám trông mặt, vàng lụa vua cho, đều mang về nhà, làm tướng há nên như thế. Khi cha Quát sắp mất có dặn tôi rằng: "Nếu Quát làm tướng, tất làm hại nước Triệu". Lời dặn ấy tôi vẫn ghi nhớ trong lòng, xin vua chọn vị lương tướng khác, chớ nên dùng Quát. Vua Triệu nói: - Quả nhân đã quyết, mụ chớ nói làm gì nữa. Bà mẹ Quát nói: - Đại vương không nghe lời thần thiếp, nếu quân thua thì xin chớ bắt tội lây đến cả nhà thần thiếp. Vua Triệu bằng lòng, Triệu Quát bèn dẫn quân đi. Lại nói người môn khách của Phạm Chuy sai đi, bấy giờ vẫn ở Hàm Đan, dò biết những lời Triệu Quát nói với vua Triệu, vua Triệu đã cử Quát làm đại tướng thay Liêm Pha, bèn luôn đêm chạy về Hàm Dương báo tin. Vua Tần nói với Phạm Chuy rằng: - Nếu không phải là Võ An Quân thì không làm xong việc này được. Lập tức lại cử Bạch Khởi làm thượng tướng, Vương Hạt làm phó, truyền cho trong quân phải giữ bí mật việc ấy, nếu ai nói hở ra ngoài là Võ An Quân làm tướng thì chém ngay. Lại nói: Triệu Quát dẫn quân đến cửa Trường Bình, Liêm Pha nghiệm qua phù tiết rồi đem sổ quân giao cho Quát, một mình dẫn một đội thân quân hơn trăm người đi về Hàm Đan. Triệu Quát đổi hết các điều ước thúc của Liêm Pha, hợp các quân lũy thành một đại dinh. Phùng Đình cố can không nghe, Quát lại đem các tướng của mình thay các tướng cũ, truyền lệnh nếu quân Tần đến đều phải phấn dũng tranh đi trước, hễ đánh được phải lập tức đuổi theo, cốt khiến cho Tần không còn một tên quân nào trở về. Bạch Khởi đã vào quân Tần, nghe Triệu Quát thay đổi hết lệnh của Liêm Pha, trước sai ba nghìn quân ra khiêu chiến. Triệu Quát đem vạn quân ra nghinh địch, quân Tần đại bại chạy về. Bạch Khởi lên trên đồn cao nhìn xem quân Triệu, bảo Vương Hạt rằng: - Tôi đã biết cách đánh được rồi. Triệu Quát đánh được một trận, múa tay hoa chân, sai người đến dinh Tần hạ chiến thư. Bạch Khởi bảo Vương Hạt phê hôm sau quyết chiến, rồi lui quân 10 dặm. Quát mừng rằng: - Quân Tần sợ ta. Rồi mổ trâu cho quân lính ăn, truyền lệnh hôm sau đại chiến, định bắt sống Vương Hạt để cùng chư hầu làm câu chuyện buồn cười. Bạch Khởi đóng dinh xong rồi, họp cả chư tướng lại để nghe lệnh. Sai Vương Bí, Vương Lăng đốc một vạn quân bày trận, lần lượt cùng Triệu Quát đánh nhau, chỉ cần thua không cần được, cốt dẫn quân Triệu đến đánh đồn Tần, đó tức là công. Lại sai Tư Mã Thúc, Tư Mã Ngạnh mỗi người dẫn một vạn năm nghìn quân, theo đường tắt quanh đánh đường sau quân Triệu, tuyệt đường chở lương. Lại sai đại tướng Hồ Thương đóng ở nơi gần phía tả, chờ lúc quân Triệu mở đồn ra đuổi, quân Tần lập tức xông ra cốt chẹn quân Triệu ra làm hai đoạn. Lại sai đại tướng Mông Vụ, Vương Tiễn đều mang năm nghìn quân khinh kỵ, rình chờ tiếp ứng; Bạch Khởi cùng Vương Hạt kiêm giữ đại dinh. Triệu Quát phân phó trong quân, trống tư thổi cơm, trống năm kết thúc, sáng rõ bày trận tiến lên, đi chưa được năm dặm, thì gặp quân Tần, hai bên đối trận. Triệu Quát sai tiên phong Phó Báo ra trận, tướng Tần là Vương Bí ứng chiến, chừng hơn 20 hợp, Vương Bí thua chạy, Phó Báo đuổi theo. Triệu Quát lại sai Vương Dung đem quân giúp sức, lại gặp tướng Tần Vương Lăng, đánh qua vài hiệp, Vương Lăng lại thua chạy. Triệu Quát thấy quân Triệu được luôn, tự đem đại quân đuổi theo, Phùng Đình lại can rằng: - Quân Tần hay lừa dối, sự thua đó không thể tin được, nguyên súy chớ nên đuổi theo. Triệu Quát không nghe, đuổi theo hơn 10 dặm, đến tận đồn Tần. Vương Bí, Vương Lăng quanh đường mà chạy, đồn Tần không mở. Triệu Quát truyền lệnh nhất tề đánh phá, đánh luôn vài ngày, quân Tần giữ vững không thể vào được. Triệu Quát sai người giục hậu quân rời dinh đều tiến. Bỗng thấy tướng Triệu là Tô Kỵ phi ngựa đến báo rằng hậu doanh bị tướng Tần là Hồ Thương dẫn quân xông ra ngăn chặn không đi lên được. Triệu Quát cả giận nói rằng: - Hồ Thương vô lễ như thế, ta phải thân đi. Rồi sai người dò nghe hành động của quân Tần, tin báo là Tây lộ quân ngựa rất đông, Đông lộ không có ai. Triệu Quát hạ lệnh các quân theo Đông lộ mà đi, chưa được hai ba dặm, đại tướng Tần là Mông Vụ dẫn một đạo quân ở đường ngách xông ra, nói to lên rằng: - Triệu Quát! Mày trúng kế của Võ An Quân ta rồi, còn chưa chịu đầu hàng à? Triệu Quát cả giận giơ giáo chực đánh, tì tướng của Vương Vũ là Vương Dung chạy ra nói rằng: - Không phải nhọc đến nguyên súy, để tôi lập công. Nói rồi thay Mông Vụ ra đánh, một đạo quân Vương Tiễn lại đến, quân Triệu chết hại rất nhiều. Triệu Quát liệu khó đánh được, đánh chiêng thu quân, chọn chỗ có cỏ nước đóng dinh. Phùng Đình lại can rằng: - Quân khí cần phải hăng hái, quân ta dẫu thua nếu cố đánh còn có thể thoát về bản doanh, hợp sức cự địch, nếu an doanh ở đây, trước sau bị khốn, sau này không thể lại ra được. Triệu Quát không nghe, sai quân lính đắp thành lũy dài để cố giữ, một mặt phi tấu vua Triệu cầu viện, một mặt giục lấy lương thực hậu bội, không ngờ đường chở lương lại bị Tư Mã Ngạnh dẫn quân chẹn giữ, đại quân Bạch Khởi chắn đằng trước, đại quân của Hồ Thương, Mông Vụ chẹn mé sau, quân Tần mỗi ngày truyền tin Võ An Quân làm tướng, chiêu Triệu Quát đầu hàng. Triệu Quát bấy giờ mới biết Bạch Khởi thực ở trong quân, sợ quá chẳng còn hồn vía nào. Lại nói vua Tần được tin Võ An Quân báo tiệp, biết quân Triệu Quát khốn ở Trường Bình, liền thân đến Hà Nội, bắt những tráng đinh ở dân gian tuổi từ 15, đều phải tòng quân, chia đường cướp lấy lương thảo của người Triệu, ngăn tuyệt quân cứu. Triệu Quát bị quân Tần vây khốn 46 ngày, trong quân không lương, quân lính tự giết nhau để ăn. Triệu Quát không thể ngăn cấm được, bèn đem quân tướng chia làm bốn đội, Phó Báo một đạo theo phía Đông, Tô Xạ một đội theo phía Tây, Phùng Đình theo phía Nam, Vương Dung theo phía Bắc, phân phó bốn đội, đều đánh trống xông ra. Triệu Quát chiêu dẫn ba lộ đều chạy, không ngờ Võ An Quân Bạch Khởi lại tuyển sẵn những quân bắn giỏi mai phục chung quanh lũy quân Triệu, phàm gặp quân Triệu ở trong lũy đi ra, bất cứ quân tướng đều bắn chết. Quân mã bốn đội xông ra ba bốn lần đều bị bắn rát phải quay lại cả. Lại hơn một tháng. Triệu Quát căm giận quá, chọn kỹ năm nghìn tinh binh thượng đẳng, đều mặc áo dày, cỡi ngựa khỏe. Triệu Quát cầm giáo đi trước, Phó Báo, Vương Dung theo riết ở sau, xông phá vòng vây mà ra. Vương Tiễn, Mông Vụ đều đem quân xông đến. Triệu Quát cố đánh vài hiệp không sao ra lọt được, lại muốn quay về Trường Bình, ngựa què ngã xuống đất, bị mũi tên mà chết. Quân Triệu cả loạn, Phó Báo, Vương Dung đều chết. Tô Xạ dẫn Phùng Đình cùng chạy, Phùng Đình nói: - Tôi ba lần can mà Triệu Quát không nghe, nay đến thế này, thực là trời bắt thế, lại còn trốn đi đâu? Nói xong, Phùng Đình tự đâm cổ chết, còn Tô Xạ chạy thoát đi sang đất Hồ. Bạch Khởi sai dựng cờ chiêu hàng, quân Triệu đều bỏ đồ binh, cởi áo giáp hô vạn tuế. Bạch Khởi sai người giơ cao đầu Triệu Quát, đi đến dinh Triệu chiêu hàng. Trong dinh còn hơn 20 vạn quân, nghe chủ súy đã bị giết, không ai dám ra đánh cả cũng đều xin hàng, giáp trụ khí giới chồng chất như núi, các xe trì trọng ở trong dinh đều về tay quân Tần. Bạch Khởi bàn với Vương Hạt rằng: - Trước quân Tần đã lấy được hai thành Giã Vương, Thượng Đảng, lại dân ở đó không chịu theo Tần mà theo Triệu. Nay quân Triệu đầu hàng trước sau tổng cộng 40 vạn người, nếu lỡ chúng nó lại sinh biến thì phòng giữ sao được. Rồi đem những hàng tốt chia làm mười doanh, sai mười viên tướng thống suất, hợp với 20 vạn quân Tần, đều cho trâu, rượu ăn uống và nói rằng ngày hôm sau Võ An Quân sẽ lựa lọc quân Triệu, người nào khỏe mạnh đánh trận được, cấp cho khí giới mang về nước Tần để dùng, còn người già yếu hay nhát sợ đều cho về Triệu. Quân Triệu cả mừng. Đêm ấy Võ An Quân truyền lệnh cho mười viên tướng, những quân Tần đều dùng vải trắng phủ đầu, nếu đầu không có vải trắng tức là quân Triệu đều giết hết đi. Quân Tần theo lệnh mà làm, còn những hàng tốt nước Triệu vì không biết có lệnh ấy, lại không có khí giới, nên đều bó tay chịu chết, những người trốn ra khỏi cửa dinh, lại bị Mông Vụ, Vương Tiễn dẫn quân đi tuần bắt được giết chết ngay. Bốn mươi vạn quân Triệu trong một đêm đều chết chém cả, máu chảy ào ào, nước ở Dương Cốc đều biến thành sắc đỏ. Võ An Quân thu nhặt những đầu lâu quân Triệu, chất đống ở trong lũy Tần, gọi là núi đầu lâu. Tính ra trận đánh nhau ở Trường Bình ấy, trước sau quân Tần chém hoặc bắt được cộng 45 vạn quân Triệu, kể cả những quân Triệu đầu hàng Vương Hạt trước cũng đều bị giết sạch cả, chỉ còn 240 người ít tuổi được thả về Hàm Đan để tuyên dương cái oai của nước Tần. Quay về bài gốc 0SHARES