- Xu
- 145,248
HỒI THỨ 79 Lê Di lập kế hại Khổng Tử Văn Chủng bày mưu thông Bá Hi
Khi Tề Cảnh công hội ở Giáp Cốc về, Án Anh ốm chết. Tề Cảnh công thương khóc mấy ngày. Đang lo trong triều không có ai tài giỏi, lại nghe tin nước Lỗ dùng ông Khổng Tử mà được cường thịnh, mới lo sợ mà nói rằng: - Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu tất nên nghiệp bá, mà nên nghiệp bá thì tất phải tranh đất. Nước Tề ta tiếp giáp với Lỗ thì cái họa ấy đến nước Tề trước, ta biết làm thế nào? Quan đại phu là Lê Di tâu rằng: - Chúa công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không lập cách mà ngăn trở đi. Tề Cảnh công nói: - Nước Lỗ đang giao quyền chính cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được? Lê Di nói: - Tính con người ta, hễ được cường thịnh thì tất sinh lòng kiêu dật, xin Chúa công lập một bộ nữ nhạc mà đem cho vua Lỗ. Vua Lỗ đã nhận bộ nữ nhạc thì tất sinh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ Khổng Khâu tất phải bỏ Lỗ mà đi, Chúa công mới có thể ngồi yên được. Tề Cảnh công bằng lòng, sai Lê Di xem trong đám nữ lư, chọn những đứa xinh đẹp độ trong 20 tuổi, cả thẩy 80 người, chia làm 10 đội, đều cho mặc gấm vóc và dạy hát múa. Khúc hát ấy gọi là Khang nhạc, điệu bộ mới lạ, có nhiều cách thần tình, ở đời chưa từng có bao giờ! Khi luyện tập đã thành rồi, lại dùng một trăm hai chục cỗ ngựa cương vàng yên nạm, mỗi con một sắc, trông đẹp như gấm, sai sứ đem dâng Lỗ Định công. Sứ giả làm rạp ở ngoài cửa Cao Môn nước Lỗ, phía đông bày đàn ngựa, phía tây bày nữ nhạc, rồi đệ quốc thư vào tâu với Lỗ Định công. Lỗ Định công mở thư ra xem. Thư rằng: "Tên tôi là Chử Cữu, cúi đầu dâng Lỗ hiền hầu mấy lời như sau này: Khi trước ở hội Giáp Cốc, tôi có thất lễ với nhà vua, trong lòng vẫn lấy làm hổ thẹn; may mà nhà vua có lòng dung thứ cho được giao hiếu như xưa. Từ ngày ấy đến giờ, trong nước nhiều việc, không sang sinh vấn được, nay có mấy lũ ca tỳ, dùng để giải trí, mấy cỗ lương mã, dùng để thắng xe, đem dâng cho nhà vua, để tỏ lòng kính mến, xin nhà vua nhận cho". Quý tôn Tư thấy nước Lỗ được thái bình, cũng đã sinh lòng kiêu dật. Bỗng nghe nói nữ nhạc nước Tề đẹp lắm, có ý ham muốn, liền đổi mặc đồ thường phục, cùng với mấy người tâm phúc đi xe lẻn ra cửa Cao Môn để xem. Bấy giờ người nhạc trưởng đang diễn tập, tiếng hát lanh lảnh đến mây xanh, điệu múa dịu dàng tựa hồ gió thổi, rất rực rỡ, rất thần tình như các vị tiên cơ ở trên trời, không phải trần gian dám nghĩ tới. Quý tôn Tư đến xem một lúc lâu, trông thấy nhan sắc và phục sức, khác nào như ngây như dại. Lỗ Định công một ngày ba lần cho triệu, mà Quý tôn Tư chỉ vì ham mê nữ nhạc cũng không vào triều. Đến ngày hôm sau, Quý tôn Tư vào yết kiến Lỗ Định công. Lỗ Định công đem quốc thư của Tề đưa cho xem. Quý tôn Tư tâu rằng: - Đó là cái lòng tử tế của vua Tề, ta không nên từ chối. Lỗ Định công cũng có ý ham muốn, liền hỏi nữ nhạc để ở đâu, ta thử đi xem thế nào. Quý tôn Tư nói: - Hiện ở ngoài Cao Môn. Chúa công ra xem, tôi xin đi theo. Nhưng sợ náo động trăm họ, chi bằng ta mặc đồ thường phục là hơn. Bấy giờ vua tôi cùng bỏ đồ triều phục, lên một cái xe nhỏ, đi ra Cao Môn. Có kẻ báo tin cho người nhạc trưởng, người nhạc trưởng truyền cho nữ nhạc phải cố ra công hát múa: Véo von đủ giọng, uốn éo trăm chiều, làm cho vua tôi nước Lỗ, dẫu rằng mặt sắt cũng ngây vì tình. Các thị vệ lại khoe với Lỗ Định công rằng: - Ở về phía đông, có nhiều ngựa đẹp. Lỗ Định công nói: - Xem một chỗ này cũng đủ vui rồi, bất tất phải hỏi đến ngựa nữa! Đêm hôm ấy, Lỗ Định công về cung, suốt đêm không ngủ, bên tai vẫn văng vẳng nghe tiếng âm nhạc, phảng phất như mỹ nhân nằm ở cạnh mình. Lỗ Định công sợ hỏi các quan triều thần thì lại mỗi người nói một cách. Ngày hôm sau, cho triệu một mình Quý tôn Tư vào cung, để viết thư trả lời Tề Cảnh công. Trong thư tả những tình thân ái, kể sao cho xiết! Lại lấy một trăm nén vàng đỏ tặng cho sứ giả nước Tề, rồi đem nữ nhạc vào cung, chia cho Quý tôn Tư ba chục người. Còn ngựa thì giao cho chức ngữ nhân chăn nuôi. Lỗ Định công và Quý tôn Tư mới được nữ nhạc, có ý ham mê lắm. Ngày thì hát múa, đêm thì chiếu chăn, suốt ba hôm, chẳng nghĩ gì chính trị trong nước. Ông Khổng Tử nghe biết việc ấy, chán mà thở dài. Học trò ông Khổng Tử là Trọng Do đứng hầu bên cạnh, nói với ông Khổng Tử rằng: - Chúa công lười biếng, chẳng nghĩ gì đến chính trị. Thầy nên đi nước khác. Ông Khổng Tử nói: - Nay mai sắp tế giao, nếu còn giữ được đại lễ thì cũng chưa đến nỗi nào! Đến lúc tế giao, Lỗ Định công vừa làm lễ xong, tức khắc về cung, chẳng ra coi triều, cũng chẳng nghĩ gì đến phần tế. Người coi việc chia phần tế đến hỏi thì Lỗ Định công phó thác cho Quý Tôn Tư, Quý tôn Tư lại phó thác cho kẻ gia thần. Ông Khổng Tử đi tế về, mãi đến chiều tối cũng chẳng thấy thịt phần đưa đến, mới bảo Trọng Do rằng: - Nếu vậy thì cũng là tại lòng trời! Ông Khổng Tử lại ngồi gẩy một khúc đàn cầm. Gẩy xong khúc đàn, liền sắp sửa đồ hành trang để định bỏ nước Lỗ. Trọng Do và Nhiễm Cầu cũng bỏ quan đi theo ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử bỏ nước Lỗ sang nước Vệ. Vệ Linh công mừng mà đón vào. Khi ông Khổng Tử vào, Vệ Linh công hỏi việc chiến trận. Ông Khổng Tử nói: - Tôi chưa học đến. Ngày hôm sau, lại cáo từ xin đi. Đi qua Khuông Ấp, về địa giới nước Tống. Người Khuông Ấp vốn ghét Dương Hổ, thấy ông Khổng Tử giống mặt Dương Hổ, ngỡ là Dương Hổ lại đến, mới họp nhau để vây. Trọng Do nói với ông Khổng Tử xin đánh. Ông Khổng Tử can rằng: - Ta không có thù hằn gì với người Khuông Ấp cả. Việc này tất bởi làm sao đây. Cứ ngồi yên tự khắc tan được. Ông Khổng Tử lại ngồi gẩy đàn cầm. Gặp bấy giờ Vệ Linh công sai người mời ông Khổng Tử trở lại. Người Khuông Ấp mới biết là lầm, phải nói xin lỗi, rồi kéo nhau đi. Ông Khổng Tử lại trở về nước Vệ, vào trọ ở nhà quan Đại phu là Cừ Viên. Lại nói chuyện Vệ Linh công phu nhân là nàng Nam Tử, con gái nước Tống, nhan sắc đẹp mà tính dâm lắm. Khi còn ở Tống, đã tư thông với Công tử Triều. Công tử Triều cũng là một người đẹp trai. Hai bên cùng đẹp, yêu nhau hơn vợ chồng. Đến lúc về với Vệ Linh công, sinh được người con tên là Khoái Quý. Năm Khoái Quý đã lớn, lập làm thế tử mà nàng Nam Tử vẫn chưa bỏ được tính xưa. Bấy giờ nước Vệ lại có một chàng đẹp trai tên gọi Di Tử Hà, vốn được Vệ Linh công yêu dùng. Thường có khi Di Tử Hà ăn quả đào đã hết một nửa, còn thừa đem đút vào miệng Vệ Linh công. Thế mà Vệ Linh công cũng bằng lòng ăn, lại khoe với người khác rằng: - Di Tử Hà yêu ta, đến thế là cùng! Một miếng đào ngon, cũng không nỡ ăn cả, mà phải chia cho ta. Các quan triều thần, ai cũng cười vụng. Di Tử Hà cậy thế chuyên quyền, làm nhiều điều càn dỡ. Vệ Linh công ngoài thì yêu Di Tử Hà, trong thì sợ nàng Nam Tử. Vẫn nghĩ cách để làm cho nàng Nam Tử được bằng lòng, thỉnh thoảng lại gọi Công tử Triều ở Tống sang chơi với nàng Nam Tử. Tiếng xấu huyên truyền mà Vệ Linh công không lấy làm thẹn. Khoái Quý nghĩ giận lắm, sai kẻ gia thần là Hí Dương Tốc, đợi khi vào triều kiến, đâm chết nàng Nam Tử cho khỏi sự xấu ấy đi. Nàng Nam Tử biết chuyện, mách với Vệ Linh công. Vệ Linh công đuổi Khoái Quý. Khoái Quý chạy sang nước Tống, rồi lại sang nước Tần. Vệ Linh công lập con Khoái Quý là Công tử Chiếp làm thế tử. Khi ông Khổng Tử trở về nước Vệ, nàng Nam Tử biết ông Khổng Tử là bậc thánh nhân, rất có lòng kính trọng, mới xin tiếp kiến. Một hôm, Vệ Linh công ngồi cùng xe với nàng Nam Tử, bảo ông Khổng Tử đi xe sau. Ông Khổng Tử thở dài mà than rằng: - Vua Vệ yêu đức không bằng yêu sắc. Ông Khổng Tử liền bỏ Vệ sang Tống, cùng với học trò giảng lễ ở dưới gốc một cây lớn. Quan Tư mã nước Tống là Hoàn Khôi cũng vì đẹp trai mà được Tống Cảnh công yêu, bấy giờ đang có quyền thế, đem lòng ghét ông Khổng Tử, sai người chặt cây đi, rồi tìm giết ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử phải thay hình đổi dạng, bỏ Tống sang Trịnh, lại sắp sang Tấn. Nghe nói Triệu Ưởng nước Tấn giết kẻ hiền thần, mới phàn nàn rằng: - Giống điểu thú còn không nỡ hại lẫn nhau, huống chi là người! Ông Khổng Tử lại trở về nước Vệ. Chưa được bao lâu thì Vệ Linh công mất. Người nước Vệ lập Công tử Chiếp, con Khoái Quý lên làm vua, tức là Vệ Xuất công. Khoái Quý cũng nhờ có Tấn giúp, cùng với Dương Hổ chiếm cứ ở Thích Ấp. Bấy giờ Khoái Quý và Công tử Chiếp, hai cha con tranh nhau. Tấn giúp cho Khoái Quý, Tề giúp cho Công tử Chiếp. Ông Khổng Tử thấy vậy, ghét là trái lễ, bỏ Vệ sang Trần, lại sắp sang Sái. Sở Chiêu vương nghe tin ông Khổng Tử ở khoảng nước Trần và Sái, sai người đi đón. Quan đại phu nước Trần và nước Sái mới đem quân vây ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử bị tuyệt lương trong ba ngày, mà vẫn gảy đàn đọc sách. Bỗng thấy có một người dị nhân cao hơn chín thước, mũ cao áo dài, tay cầm ngọn giáo, chỉ vào một ông Khổng Tử mà quát lên, nghe tiếng thật to. Trọng Do lôi ra, cùng đánh nhau ở sân. Người ấy khỏe lắm. Trọng Do không đánh nổi. Ông Khổng Tử đứng bên, nhìn xem hồi lâu, rồi bảo Trọng Do rằng: - Sao không nắm vào cạnh sườn! Trọng Do liền nắm vào cạnh sườn thì người dị nhân ấy hết sức, hai tay cứng đờ ra mà ngã xuống đất. Hóa thành một con đại chiêm ngư (cá). Các học trò đều lấy làm quái lạ. Ông Khổng Tử nói: - Phàm vật gì già mà suy thì các tinh phụ vào. Ta giết đi thì thôi, chứ có can chi mà quái lạ! Ông Khổng Tử sai học trò đem mổ để nấu ăn cho đỡ đói. Các học trò đều mừng rằng: - Thật là của trời cho! Sứ nước Sở đem quân đến đón ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử đến nước Sở. Sở Chiêu Vương mừng lắm, toan đem đất Lý Xa phong cho ông Khổng Tử, Quan Lệnh doãn là Công tử Thân can rằng: - Ngày xưa Văn Vương ở Phong, Vũ Vương ở Kiểu, chỉ độ một trăm dặm đất mà biết tu nhân tích đức, thành ra thay quyền nhà Ân mà lên làm vua. Nay cái đức tính của Khổng Khâu chẳng kém gì Văn Vương và Vũ Vương ngày xưa, mà các học trò lại đều là bậc đại hiền. Nếu phong cho đất thì sau này tất lại thay quyền nước Sở ta mất. Sở Chiêu Vương lại thôi, Ông Khổng Tử biết là nước Sở không thể dùng được, lại trở về nước Vệ. Vệ Xuất công muốn giao quyền chính cho. Ông Khổng Tử không chịu theo. Quan Tướng quốc nước Lỗ là Quý tôn Phi cũng đến triệu học trò ông Khổng Tử là Nhiễm Cầu. Ông Khổng Tử nhân thế, lại trở về nước Lỗ. Nước Lỗ trọng đãi ông Khổng Tử coi như bậc quan đại phu về cáo lão. Sau trong bọn học trò ông Khổng Tử, như Trọng Do và Cao Sài làm quan ở nước Vệ; Đoạn Mộc Tử, Nhiễm Cầu, Hữu Nhược và Ninh Bất Tề làm quan ở nước Lỗ. Lại nói chuyện vua Ngô là Hạp Lư từ khi đánh được nước Sở, uy danh lừng lẫy, sinh ra chơi bời, sửa sang cung thất: Lập Trường lạc cung ở trong nước, lại đắp Cao đài ở trên núi Cô Tô (núi ấy ở phía tây nam thành nước Ngô, cũng gọi là núi Cô Tư). Mở một con đường chín khúc đi vòng quanh núi. Mùa xuân và mùa hạ thì ở ngoài thành, mùa thu và mùa đông thì ở trong thành. Một hôm, Hạp Lư nghĩ đến cái thù người Việt đánh Ngô khi trước, định sang báo. Lại nghe Tề và Sở sai sứ giao thông với nhau, giận mà nói rằng: - Tề và Sở giao thông với nhau là một sự lo cho ta ở về phía phương bắc. Ta muốn đánh Tề trước, rồi sau sẽ đánh Việt. Quan Tướng quốc là Ngũ Viên can rằng: - Lân quốc sai sứ đi giao hiếu, đó là lẽ thường, vị tất đã phải là Tề định giúp Sở mà hại ta, ta chớ nên cất quân sang đánh vội. Nay vợ cả Thế tử Ba đã mất, chưa có kế thất, sao Đại vương không sai sứ sang Tề cầu hôn, nếu Tề không cho, bấy giờ sẽ đánh, cũng không muộn. Hạp Lư theo lời, sai quan Đại phu là Vương tôn Lạc sang nước Tề, để cầu hôn cho Thế tử Ba. Bấy giờ Tề Cảnh công tuổi đã già, chí khí suy kém, không được hăng hái như xưa. Trong cung chỉ có một gái nhỏ chưa gả chồng, không nỡ đem bỏ đất Ngô. Ngặt vì trong triều không có người tài, ngoài biên không có tướng giỏi. Nếu trái mệnh nước Ngô thì e rằng Ngô lại đem quân sang đánh, đến nỗi lầm than như Sở, bấy giờ hối lại sao cho kịp! Quan Đại phu là Lê Di cũng khuyên Tề Cảnh công nên nhận gả con cho Ngô, chớ nên làm Ngô tức giận. Tề Cảnh công bất đắc dĩ phải gả con gái là nàng Thiếu Khương cho. Vương tôn Lạc về nói với Hạp Lư. Hạp Lư sai Vương tôn Lạc đem đồ sính lễ sang nước Tề, để cưới nàng Thiếu Khương về cho Thế tử Ba. Tề Cảnh công phần thương con gái, phần sợ nước Ngô, trong lòng căm tức, bỗng hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, thở dài mà than rằng: - Nếu Án Anh và Điền Nhương Thư, hai người ấy hãy còn, khi nào ta phải sợ người nước Ngô như thế này! Tề Cảnh công lại bảo quan Đại phu là Bão Mục rằng: - Ta nhờ nhà ngươi đưa con gái ta sang Ngô. Đây là con gái yêu của ta, nhà ngươi tâu với vua Ngô để vua Ngô lấy lòng tử tế mà trông lại cho. Tề Cảnh công thân hành ra đỡ nàng Thiếu Khương lên xe, rồi tiễn đến cửa Nam môn mới trở lại. Bão Mục đưa nàng Thiếu Khương sang Ngô, và đem lời nói của Tề Cảnh công tâu với Hạp Lư. Bão Mục mến tiếng Ngũ Viên là người hiền, lại cùng với Ngũ Viên kết giao. Nàng Thiếu Khương hãy còn nhỏ tuổi, dẫu cùng với Thế tử Ba kết hôn, nhưng chưa biết lấy sự vợ chồng làm vui, chỉ một lòng tưởng nhớ cha mẹ, ngày đêm kêu khóc. Thế tử Ba thường khuyên dỗ, nhưng nàng Thiếu Khương vẫn sầu thảm không vui, dần dần uất ức thành bệnh. Hạp Lư thương lắm, mới truyền lập một cái thành lâu ở phía bắc môn, rất là hoa mĩ đặt tên là Vọng Tề môn, để cho nàng Thiếu Khương hàng ngày lên chơi đấy. Thiếu Khương trèo lên Vọng Tề lâu, trông về phía Bắc, chẳng thấy nước Tề đâu cả, lại càng thương xót, bệnh mỗi ngày một nặng. Khi nàng Thiếu Khương gần chết, dặn Thế tử Ba rằng: - Thiếp nghe nói đứng đỉnh núi Ngu Sơn, có thể trông về Đông hải được. Xin Thế tử chôn thiếp ở chỗ ấy. May ra hồn có khôn thiêng, còn được trông về nước Tề. Thế tử Ba tâu với Hạp Lư, rồi an táng nàng Thiếu Khương trên đỉnh núi Ngu Sơn. Thế tử Ba thương nhớ nàng Thiếu Khương quá, sau cũng thành bệnh. Chưa được bao lâu cũng chết. Hạp Lư muốn chọn trong các Công tử để lập một người làm thế tử, nhưng chưa biết lập ai, vẫn định bàn với Ngũ Viên. Vợ cả Thế tử Ba sinh được người con, tên là Phù Sai, năm ấy đã hai mươi sáu tuổi. Phù Sai vốn người ngang tàng anh vĩ, cũng là một bậc nhân tài. Nghe nói ông là Hạp Lư muốn chọn lập thế tử, liền vào yết kiến Ngũ Viên mà nói rằng: - Ta đây là cháu đích tôn. Nếu muốn lập thế tử mà bỏ ta thì định lập ai? Việc này chỉ nhờ về một câu nói của quan Tướng quốc đó. Ngũ Viên nhận lời. Được một lúc. Hạp Lư sai người triệu Ngũ Viên đến để bàn việc lập thế tử. Ngũ Viên nói: - Muốn cho về sau khỏi sinh biến loạn thì phải lập đích tử, nay Thế tử dẫu tạ thế, nhưng đã có đích tôn là Phù Sai. Hạp Lư nói: - Ta xem Phù Sai là người ngu mà bất nhân, sợ không giữ được cơ nghiệp. Ngũ Viên nói: - Phù Sai là người tín nghĩa; vả lại cha chết thì con thay, đó là hợp lẽ phải, còn nghi nỗi gì! Hạp Lư nói: - Ta nghe nhà ngươi, nhà ngươi cố mà giúp Thế tử! Hạp Lư nói xong, liền lập Phù Sai làm thế tôn. Phù Sai đến nhà Ngũ Viên tạ ơn. Năm thứ hai mươi bốn đời Chu Kính Vương, Hạp Lư tuổi già, tính khí càng thêm nóng nảy, nghe nói vua nước Việt là Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn mới lập, bèn định nhân khi nước Việt có tang, đem quân sang đánh. Ngũ Viên can rằng: - Nước Việt dẫu có tội đánh lẻn nước Ngô khi trước, nhưng đang có tang, ta chớ nên đánh vội. Hạp Lư không nghe, giao quốc chính cho Ngũ Viên và Phù Sai, rồi cùng bọn Bá Hi, Vương tôn Lạc và Chuyên Nghị, đem ba vạn tinh binh tiến sang nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn thân hành ra đốc quân, Chư Kế Dĩnh làm đại tướng, Linh Cô Phù làm tiên phong, Trù Vô Dư và Tư Hãn làm tả hữu dực, gặp quân Ngô ở đất Huề Lý, hai bên đóng dinh, cách nhau mười dặm, cùng nhau khiêu chiến, chưa phân được thua. Hạp Lư giận lắm, mới đem hết quân lên bày trận ở Ngũ Đài Sơn. Nghiêm cấm trong quân không được kinh động, chờ khi quân Việt trễ nải, rồi sau sẽ đánh. Câu Tiễn trông thấy quân Ngô nghiêm chỉnh, bảo Chu Kế Dĩnh rằng: - Khi thế quân Ngô đang hăng hái như thế kia ta chớ nên khinh thường, phải dùng kế để làm cho họ rối loạn. Câu Tiễn sai quan Đại phu là Trù Vô Dư và Tư Hãn đốc những quân tử sĩ ở hai bên tả hữu xông vào đánh dinh quân Ngô. Quân Ngô cứ giữ vững thế trận, rồi dùng cung nỏ mà bắn lại. Quân Việt không phá nổi lại phải rút về. Câu Tiễn không biết làm thế nào. Chư Kế Dĩnh mật tâu rằng: - Ta nên dùng lũ tội nhân.. Câu Tiễn nghĩ ra. Ngày hôm sau, mật truyền quân lệnh: Bắt lũ tội nhân mà vẫn đem theo trong quân, cả thẩy ba trăm người, chia làm ba toán, đều trần vai áo, kề thanh kiếm vào cổ, tiến sang quân Ngô. Người đi đầu nói với quân Ngô rằng: - Chúa công tôi không biết tự lượng sức mình, để đắc tội với quí quốc, nay quí quốc đã đem quân đến đánh, chúng tôi không dám tham sống, xin tình nguyện chết thay Chúa công tôi. Người đi đầu nói xong thì cả bọn cứ tự đâm cổ mà chết. Quân Ngô xưa nay không trông thấy như thế bao giờ, đều lấy làm quái lạ, ngây mặt ra mà nhìn; rồi lao nhao hỏi lẫn nhau, không biết là cớ làm sao. Bỗng thấy quân Việt nổi hiệu trống, Trù Vô Dư và Tư Hãn đem hai toán quân tử sĩ, cầm dao cắp mộc, xông đến tận nơi mà đánh. Quân Ngô hoảng hốt, thành ra rối loạn. Câu Tiễn lại đem đại binh kéo đến, phía hữu có Chư Kế Dĩnh, phía tả có Linh Cô Phù xông vào trong trận quân Ngô. Tướng Ngô là Vương tôn Lạc cố sức cùng với Chư Kế Dĩnh giao chiến, Linh Cô Phù trông thấy vua Ngô là Hạp Lư, liền cầm dao xông vào để chém. Hạp Lư vội vàng bỏ chạy. Linh Cô Phù đuổi theo, chém vào chân phải Hạp Lư đứt mất ngón chân cái, Hạp Lư rơi giầy, ngã lăn xuống đất, may gặp có toán quân của Chuyên Nghị đến, mới cứu thoát được Hạp Lư. Chuyên Nghị bị nhiều vết thương nặng. Vương tôn Lạc biết là Hạp Lư bị thương, không dám ham đánh, vội vàng rút quân, bị quân Việt đuổi theo giết chết quá nửa. Hạp Lư bị thương nặng, tức khắc rút quân, Linh Cô Phù bắt được chiếc giầy của Hạp Lư, đem về nộp Câu Tiễn. Câu Tiễn bằng lòng lắm. Bấy giờ Hạp Lư tuổi đã già, đau quá, không thể chịu được, đi được bảy dặm đường thì kêu to lên một tiếng mà chết. Bá Hi hộ tang đi trước, Vương tôn Lạc đem quân đi sau, dần dần về đến nước Ngô. Quân Việt cũng không đuổi theo nữa. Phù Sai nối ngôi lên làm vua nước Ngô, đưa linh cữu Hạp Lư ra an táng ở Hải Dũng Sơn; sai thợ đào núi làm huyệt, rồi đem thanh kiếm Ngư Trường của Chuyên Chư dùng khi trước để chôn theo, các đồ vàng ngọc bỏ xuống đấy nhiều lắm; khi an táng rồi, lại giết hết cả bọn thợ mà chôn theo nữa. Ba hôm sau, có người trông thấy ở trên núi ấy có con bạch hổ nằm phục. Mới gọi tên núi ấy là Hổ Khâu Sơn. Thức giả cho là tại chôn nhiều vàng, vậy nên kim khí hiện ra như thế. Đến đời Tần Thủy Hoàng sai người đào mộ Hạp Lư để tìm thanh kiếm Ngư Trường, nhưng tìm không thấy, chỗ đào sau thành ngòi sâu, tức là Hổ khâu kiếm trì. Chuyên Nghị bị thương nặng, cũng chết. Phụ táng ở sau núi ấy, nay không biết mộ tại chỗ nào. Phù Sai đã an táng Hạp Lư rồi, lập con trưởng là Hữu làm thế tử, lại sai mười người nội thị thay đổi nhau đứng ở giữa sân, mỗi khi mình đi ra đi vào thì mấy người ấy lại quát to lên, gọi tên mà bảo rằng: - Phù Sai ơi, mày quên cái thù vua Việt giết ông mày rồi à! Phù Sai liền khóc mà đáp lại rằng: - Dạ! Không bao giờ tôi dám quên! Phù Sai làm như thế để cho trong lòng phải nhớ đến, sai Ngũ Viên và Bá Hi luyện tập thủy quân ở Thái Hồ. Lại lập trường bắn ở Linh Nham Sơn để tập bắn. Định đợi khi hết tang ba năm, sẽ sang đánh nước Việt để báo thù. Bấy giờ Tấn Khoảnh công nhu nhược, sáu quan khanh tranh quyền, chực giết hại lẫn nhau. Tuân Di (tức là Phạm Thị) cùng Sĩ Cát Xạ (tức là Trung Hàng Thị) thân nhau, giao kết làm hôn nhân, bởi vậy Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa đều có bụng ghét. Tuân Lịch (tức là Trí Thị) có yêu một người gia thần, tên gọi là Lương Anh Phủ, muốn cho làm quan khanh. Lương Anh Phủ cậy có Tuân Lịch yêu, lập kế đuổi Tuân Di để thay giữ quyền chức, bởi vậy Tuân Lịch cũng thành ra thù ghét với Phạm Thị và Trung Hàng Thị. Quan Thượng khanh là Triệu Ưởng, có người cháu tên là Ngọ, được phong ở đất Hàm Đan. Mẹ Ngọ là em gái Tuân Di, vậy nên Tuân Di là cậu mà Ngọ là cháu. Năm trước, Vệ Linh công và Tề Cảnh công hợp mưu phản Tấn, Triệu Ưởng nước Tấn đem quân đánh Vệ. Nước Vệ sợ, xin nộp năm trăm nóc nhà để tạ tội. Triệu Ưởng lưu ở đất Hàm Đan để giao cho Ngọ, gọi là Vệ Cống. Chưa được bao lâu, Triệu Ưởng muốn thiên năm trăm nóc nhà ấy sang ở đất Tấn Dương. Ngọ sợ người nước Vệ không phục, chưa dám vâng mệnh ngay. Triệu Ưởng cho là Ngọ chống cự với mình, liền nổi giận, bắt về Tấn Dương mà giết đi. Tuân Di giận Triệu Ưởng về việc giết cháu, mới bàn nhau với Sĩ Cát Xạ, định cùng đánh Triệu Ưởng để báo thù cho Ngọ. Triệu Ưởng có người mưu thần tên gọi Đổng An Vu, bấy giờ đang vì Triệu Ưởng giữ thành Tấn Dương, nghe được mưu của Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, tức khắc về Giáng Đô nói với Triệu Ưởng rằng: - Phạm Thị và Trung Hàng Thị vẫn liên kết với nhau, nay mà nổi loạn thì ta khó lòng trị xong, Ngài nên phải phòng bị trước. Triệu Ưởng nói: - Nước Tấn ta vẫn có lệnh rằng ai khởi hành việc loạn thì người ấy chịu tội chết, ta đợi cho hắn nổi trước, rồi sau sẽ hay. Đổng An Vu nói: - Để cho hắn nổi loạn thì hại trăm họ, chẳng thà một mình tôi chết thay. Nếu có việc gì, tôi xin chịu tội. Triệu Ưởng không nghe. Đổng An Vu cứ sửa soạn giáp binh để đợi khi có việc. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ tuyên bá với mọi người rằng: - Đổng An Vu sửa soạn giáp binh là có ý định hại ta. Nói xong liền họp quân đến nhà Triệu Ưởng. May mà Đổng An Vu đã phòng bị sẵn, mới đem quân cứu thoát được Triệu Ưởng chạy sang thành Tấn Dương. Triệu Ưởng sợ hai nhà kia đem quân đến đánh, mới lập cách cố thủ. Tuân Lịch bảo Hàn Bất Tín và Ngụy Man Đa rằng: - Triệu Ưởng là đầu trong sáu quan khanh. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ không vâng mệnh vua mà dám đem quân đuổi đánh; thế thì quyền chính về tay hai nhà ấy cả. Hàn Bất Tín nói: - Chi bằng ta cho hai nhà ấy là tội thủ xướng mà đánh đuổi đi. Ba người cùng vào tâu với Tấn Định công, rồi phụng mệnh Tấn Định công đem quân đi đánh Tuân Di và Sĩ Cát Xạ. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ cố sức chống lại, nhưng không thể địch nổi, mới bàn nhau vào bắt hiếp Tấn Định công. Hàn Bất Tín sai người đi rao giữa chợ rằng: - Phạm Thị và Trung Hàng Thị mưu phản, nay định đem quân vào hiếp vua. Người trong nước tin lời nói ấy, đều cầm binh khí đến cứu Tấn Định công. Ba nhà nọ nhờ sức người trong nước, phá tan được quân Tuân Di và Sĩ Cát Xạ. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Triều Ca. Hàn Bất Tín nói với Tấn Định công rằng: - Phạm Thị và Trung Hàng Thị thật là kẻ khởi hành việc loạn, nay đã đuổi rồi, còn họ Triệu mấy đời có công to với nước Tấn ta, nên cho được phục chức. Tấn Định công thuận cho, liền gọi Triệu Ưởng ở Tấn Dương về cho được phục chức. Lương Anh Phủ (gia thần của Tuân Lịch) muốn thay Tuân Di làm quan khanh. Tuân Lịch vào nói với Triệu Ưởng. Triệu Ưởng hỏi Đổng An Vu. Đổng An Vu nói: - Nước Tấn ta chỉ bởi nhiều người cầm giữ quyền chính, thành ra nhiễu loạn, nếu lập Lương Anh Phủ thì khác nào lại thêm một Tuân Di. Triệu Ưởng không cho Lương Anh Phủ làm quan khanh. Lương Anh Phủ giận lắm, biết là tại Đổng An Vu nói ngăn, mới bảo Tuân Lịch rằng: - Họ Hàn, họ Ngụy đều về đảng họ Triệu thì thế ta cô mất! Họ Triệu chỉ trông cậy có mưu thần là Đổng An Vu, sao chẳng trừ đi? Tuân Lịch hỏi: - Dùng kế gì mà trừ được? Lương Anh Phủ nói: - Đổng An Vu sửa soạn giáp binh để gây cái loạn Phạm Thị và Trung Hàng Thị, nếu trị kẻ thủ xướng thì nên bắt tội Đổng An Vu. Tuân Lịch bèn theo lời Lương Anh Phủ, đến trách Triệu Ưởng, Triệu Ưởng sợ. Đổng An Vu nói với Triệu Ưởng rằng: - Tôi định bụng liều chết đã lâu rồi! Tôi chết mà yên được họ Triệu thì chết còn hơn sống! Đổng An Vu lui ra, liền tự thắt cổ chết. Triệu Ưởng liền đem xác Đổng An Vu ra ngoài chợ, rồi sai người bảo với Tuân Lịch rằng: - Hiện đã trị tội Đổng An Vu rồi! Tuân Lịch cùng Triệu Ưởng kết minh, hai đảng cùng không hại nhau. Triệu Ưởng vẫn thờ riêng Đổng An Vu ở trong gia miếu để báo đền cái công trước. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chiếm cứ ở Triều Ca đã được lâu ngày. Các nước chư hầu nào phản Tấn đều muốn nhân dịp để làm hại nước Tấn. Triệu Ưởng đã nhiều lần đem quân đến đánh, nhưng Tề, Lỗ, Trịnh, Vệ, đều sai sứ giúp thóc và quân cho Tuân Di cùng Sĩ Cát Xạ, Triệu Ưởng không thể đánh nổi. Mãi đến năm thứ 30 đời Chu Kính Vương, Triệu Ưởng họp quân ba nhà Hàn, Ngụy và Trí Thị mới phá vỡ được Triều Ca. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Hàm Đan, sau lại chạy sang Bách Nhân. Chưa được bao lâu, thành Bách Nhân cũng vỡ, đồ đảng của Tuân Di và Sĩ Cát Xạ là Phạm Cao Di, Trương Liễu Sóc đều bị thua trận, còn Dự Nhượng cũng bị con Tuân Lịch là Tuân Giáp bắt được. Con Tuân Giáp là Tuân Giao xin tha cho Dự Nhượng, từ bấy giờ Dự Nhượng về làm tôi Trí Thị. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ bỏ trốn sang nước Tề. Trong bọn sáu quan khanh nước Tấn, từ bấy giờ chỉ còn có bốn là Triệu, Ngụy, Hàn, Trí mà thôi. Mùa xuân tháng 2 năm thứ 26 đời Chu Kính Vương, vua Ngô là Phù Sai đã hết tang ông, mới cáo nhà Thái miếu, rồi sai Ngũ Viên làm đại tướng, Bá Hi làm phó tướng, cử đại binh theo đường thủy qua Thái Hồ sang đánh nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn họp các quan triều thần lại thương nghị. Quan Đại phu là Phạm Lãi (tên tự là Thiếu Bá) tâu rằng: - Nước Ngô bị ta giết mất vua, lập chí báo thù đã ba năm nay rồi. Khí lực đang hăng hái lắm, khó lòng mà địch nổi, ta nên phải nghĩ cách cố thủ mới được. Quan Đại phu là Văn Chủng tâu rằng: - Cứ như ý tôi thiển nghĩ thì không gì bằng sai người ra xin lỗi để mà cầu hòa, để cho hắn rút quân về, rồi sau sẽ liệu. Câu Tiễn nói: - Hai ngươi: Một người nói thủ, một người nói hòa, đều không phải là thiện kế. Nước Ngô là thế thù với ta, nay đem quân sang đánh ta, nếu ta không đánh lại, thì cũng chẳng hèn lắm ru! Câu Tiễn liền đem ba vạn quân ra đón đánh ở dưới núi Tiêu Sơn. Lúc mới giao chiến, quân Ngô hơi lùi. Quân Việt giết được hơn một trăm người. Câu Tiễn thừa thắng tiến vào. Đi được mấy dặm thì gặp đại binh của Phù Sai. Hai bên bày trận giao chiến. Phù Sai đứng ở mũi thuyền, tay cầm dùi đánh trống để đốc xuất các tướng sĩ. Các tướng sĩ đều hăng hái hơn trước. Gặp có gió bắc nổi lên, làn sóng dữ dội. Ngũ Viên và Bá Hi mỗi người ngồi một chiếc thuyền lớn, giương buồm thuận gió mà tiến, quân Ngô đem cung nỏ bắn ra như mưa. Quân Việt ngược gió không thể đương nổi, thua to bỏ chạy. Quân Ngô chia ba đường đuổi theo. Tướng Việt là Linh Cô Phù đắm thuyền mà chết. Vua Ngô thừa thắng đuổi theo, giết được quân Việt không biết bao nhiêu mà kể. Câu Tiễn chạy vào Cố Thành, quân Ngô vây kín mấy lần, làm cho không có đường lấy nước. Phù Sai mừng mà nói rằng: - Ta chắc rằng chỉ trong mười ngày thì quân Việt đều chết khát tất cả! Ngờ đâu ở trên đỉnh núi về phía trong thành quân Việt đóng, có một cái suối nước. Dưới suối có nhiều cá ngon. Câu Tiễn sai đem mấy trăm con cá sang cho vua Ngô. Vua Ngô kinh sợ. Câu Tiễn để Phạm Lãi cố thủ ở đấy, rồi đem một toán tàn binh lẻn chạy về Cối Kê Sơn. Điểm lại quân sĩ còn có hơn năm ngàn người. Câu Tiễn thở dài mà than rằng: - Từ đời Tiên quân đến bây giờ, trong ba mươi năm, ta chưa hề bị trận thua nào như thế này! Cũng bởi không nghe lời Phạm Lãi và Văn Chủng nên đến nỗi như vậy! Quân Ngô đánh Cố Thành gấp lắm. Ngũ Viên đóng dinh ở phía hữu. Bá Hi đóng dinh ở phía tả. Trong một ngày, Phạm Lãi ba lần sai người đến cáo cấp với vua Việt là Câu Tiễn, Câu Tiễn sợ lắm. Văn Chủng hiến kế rằng: - Nay việc đã nguy cấp lắm, nhưng cho người ra xin hòa, cũng còn có thể kịp được. Câu Tiễn nói: - Nhưng Ngô không cho hòa thì làm thế nào? Văn Chủng nói: - Nước Ngô có quan Thái tể là Bá Hi, người ấy tham của mê sắc, lại có lòng ghen ghét những kẻ tài năng, cùng với Ngũ Viên đồng triều mà vẫn không hợp ý nhau. Vua Ngô sợ Ngũ Viên mà thân với Bá Hi lắm, nếu ta sang dinh Bá Hi, khéo nói với hắn, để hắn chủ việc giảng hòa cho. Bá Hi nói với vua Ngô, điều gì cũng được, dẫu Ngũ Viên biết mà ngăn trở, cũng không thể kịp. Câu Tiễn nói: - Nhà ngươi sang yết kiến Bá Hi, nên dùng lễ vật gì? Văn Chủng nói: - Quân trung thì không gì hiếm bằng nữ sắc. Ta nên tìm mỹ nữ mà đem dâng. Nếu trời còn tựa nước Việt ta thì Bá Hi tất nghe lời. Câu Tiễn tức khắc sai sứ về đô thành nói với phu nhân tuyển những mỹ nữ trong cung cả thảy được tám người, cho trang sức rất lịch sự, lại thêm hai mươi đôi bạch bích, một ngàn nén hoàng kim, ngay đêm hôm ấy sai Văn Chủng sang dinh Bá Hi xin vào yết kiến. Bá Hi lúc đầu toan từ chối, không cho, nhưng sai người ra dò xem vì thấy có nhiều đồ lễ vật, mới thuận cho vào, Bá Hi ngồi vắt chân ở trên giường để đợi. Văn Chủng quì mà kêu rằng: - Chúa công tôi là Câu Tiễn hãy còn trẻ tuổi, chưa biết gì, không khéo thờ nước lớn, để đến nỗi tai vạ, nay Chúa công tôi đã biết hối tội, xin đem cả nước làm tôi vua Ngô, nhưng sợ vua Ngô không nghe. Chúa công tôi biết Ngài là người có công với Ngô: Mặt ngoài làm tường thành cho nước Ngô, mặt trong thì làm tâm phúc cho vua Ngô, vậy Chúa công tôi sai tôi là Văn Chủng này để van lạy Ngài trước, nhờ Ngài nói dùm cho một câu. Gọi là chút lễ bạc, đem dâng hầu Ngài. Từ rày trở đi, còn nhiều ân nghĩa về sau nữa. Văn Chủng liền cầm cái đơn khai các đồ lễ vật dâng trình Bá Hi. Bá Hi còn nổi giận mà mắng rằng: - Nước Việt ngươi chẳng qua chỉ trong sớm tối thì bị phá diệt! Phàm của cải nước Việt, cái gì không về tay nước Ngô, mà nhà ngươi còn dám đem lễ vật nhỏ mọn này sang nhử ta hay sao! Văn Chủng lại nói: - Nước Việt tôi dẫu thua, nhưng nay đóng ở Cối Kê, hiện còn năm ngàn quân tinh tốt, có thể giao chiến được một trận. Nếu giao chiến mà thua, bấy giờ Chúa công tôi sẽ đốt hết kho tàng mà đem thân trốn đi nước ngoài, để cầu viện quân Sở, chưa chắc nước Việt tôi đã về tay nước Ngô được. Giả sử về tay nước Ngô nữa thì quá nửa của cải nộp về vua Ngô, còn Ngài và các tướng chẳng qua mỗi người được một vài phần; chi bằng Ngài làm ơn nói cho nước Việt tôi được giảng hòa thì Chúa công tôi dẫu đem thân thờ vua Ngô, mà thực là đem thân thờ Ngài đó. Mỗi khi cống hiến, chưa nộp vua Ngô, đã phải nhờ đến Ngài trước. Có phải là Ngài hưởng riêng một mối lợi to, mà các tướng ai được dự đến. Huống chi giống thú mà đến lúc cùng khốn, cũng phải cố đánh, liều một trận sống mái, nào đã chắc rồi ra thế nào! Văn Chủng giải bày một hồi lâu, làm cho tấm lòng Bá Hi phải chuyển động. Bá Hi mới gật đầu mà tủm tỉm cười. Văn Chủng lại chỉ cái đơn kê khai các đồ lễ vật mà nói rằng: - Tám người mỹ nữ này tuyển ở trong cung nước Việt, nếu ở dân gian, còn nhiều kẻ đẹp hơn. Chúa công tôi được về nước Việt thì xin hết sức tìm tòi để lại đem dâng nộp. Bá Hi đứng dậy mà nói rằng: - Quan đại phu không sang hữu dinh (chỉ dinh Ngũ Viên) mà tới đây, cũng biết là tôi không có ý hại người. Để đến sáng mai, tôi xin đưa quan Đại phu vào yết kiến vua Ngô, rồi sẽ bàn định. Bá Hi nhận các đồ lễ vật và lưu Văn Chủng ở trong dinh, bày tiệc thết đãi. Sáng hôm sau, Bá Hi đưa Văn Chủng vào yết kiến Phù Sai. Bá Hi vào trước, đem những tình ý Câu Tiễn sai Văn Chủng sang xin hòa, nói với Phù Sai. Phù Sai sầm nét mặt lại mà bảo rằng: - Nước Việt cùng ta có cái thù không đội trời ở chung được, khi nào ta lại cho hòa. Bá Hi nói: - Đại vương không nhớ lời nói của Tôn Vũ khi xưa hay sao! "Việc binh là nên dùng tạm, chứ không nên dùng lâu". Nước Việt dẫu đắc tội với ta, nhưng tôi tưởng nước Việt cũng đang chịu nhún nước Ngô ta nhiều lắm! Vua Việt xin làm tôi nước Ngô, vợ vua Việt xin làm thiếp nước Ngô, bao nhiêu châu bảo nước Việt, đem nộp vào cung nước Ngô cả. Nước Việt chỉ xin ta một điều là để cho còn chỗ cúng tế mà thôi. Vậy thì ta cho nước Việt hòa, lợi biết dường nào, mà ta được tiếng là tha cho nước Việt. Như vậy thì nước Ngô ta có cơ làm bá chủ được, nếu cố sức mà diệt nước Việt thì Câu Tiễn kia tất cũng đành đốt tôn miếu, giết vợ con, ném hết vàng ngọc xuống sông, rồi đem năm ngàn quân tử sĩ mà liều chết với nước Ngô ta, chẳng cũng hại đến tôi con của Chúa công lắm ru! Dầu có giết được người ấy, sao bằng thu được nước ấy là phần lợi hơn. Phù Sai nói: - Bây giờ Văn Chủng ở đâu? Bá Hi nói: - Hiện đang đứng chờ ở ngoài. Phù Sai cho triệu vào. Văn Chủng quì gối mà tiến lên, lại đem những lời nói hôm trước nói với Phù Sai, mà càng giữ lễ phép hơn Phù Sai nói: - Vua ngươi xin làm tôi Ngô, vậy thì có chịu theo ta về Ngô hay không? Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng: - Đã xin làm tôi nhà vua thì sống chết ở trong tay nhà vua, thế nào cũng xin vâng mệnh. Bá Hi nói với Phù Sai rằng: - Vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện xin về Ngô, vậy thì nước Ngô ta dẫu tha cho Việt, cũng chẳng khác gì chiếm được nước Việt, Đại vương còn muốn chi nữa! Phù Sai liền cho nước Việt giảng hòa. Có người sang hữu dinh báo tin cho Ngũ Viên biết. Ngũ Viên vội vàng vào yết kiến Phù Sai. Khi vào đến nơi, thấy Bá Hi và Văn Chủng đã đứng bên cạnh Phù Sai. Nét mặt Ngũ Viên hầm hầm nổi giận, hỏi Phù Sai rằng: - Đại vương đã cho nước Việt giảng hòa rồi à? Phù Sai nói: - Ta đã cho rồi! Ngũ Viên nói luôn mấy câu rằng: - Không nên! Không nên! Văn Chủng nghe nói kinh sợ, phải đứng lui xuống mấy bước mà xem sự tình ra làm sao. Ngũ Viên can rằng: - Việt tiếp giáp với ta, thế không cùng đứng được! Nếu Ngô không diệt Việt thì Việt cũng diệt Ngô. Kìa như Tần, Tấn, dẫu ta được, mà đất của họ ta không thể ở được, xe của họ ta không thể đi được; còn như Việt mà ta đánh được thì đất ở được, thuyền đi được, đó là một điều lợi cho nước nhà, Đại vương chớ nên bỏ. Huống chi Việt là kẻ thù lớn của Tiên vương ta ngày xưa, ta không diệt Việt thì chẳng phụ mất lời thề khi trước lắm ru! Phù Sai nín lặng, không biết nói ra thế nào, chỉ đưa mắt mà nhìn Bá Hi. Bá Hi nói: - Quan Tướng quốc nói thế là lầm! Nếu bảo rằng Ngô, Việt ở về mặt thủy, thế tất phải diệt nhau, vậy thì Tần, Tấn; Tề, Lỗ cùng ở về mặt bộ, có lẽ cũng phải diệt nhau hay sao! Nếu bảo rằng Việt là kẻ thù lớn của Tiên vương nước Ngô, không thể tha được, vậy quan Tướng quốc thù Sở biết dường nào, mà sao không diệt Sở, lại cho Sở hòa làm gì! Nay vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện về Ngô, so với Sở chỉ nộp một Công tử Thắng, lại không giống nhau. Quan Tướng quốc làm điều trung hậu mà muốn cho Đại vương mang tiếng khắc bạc, trung thần có bao giờ như thế! Phù Sai mừng mà bảo Ngũ Viên rằng: - Bá Hi nói có lẽ phải, nhà ngươi hãy lui về, đợi khi nước Việt cống hiến, sẽ chia tặng cho nhà ngươi. Ngũ Viên sầm nét mặt lại, thở dài mà than rằng: - Tiếc thay! Ta không nghe lời Bị Ly mà cùng với đứa gian thần đồng sự! Ngũ Viên căm tức vô cùng, khi lui ra ngoài, bảo quan Đại phu là Vương tôn Hùng rằng: - Nước Việt nuôi dân trong mười năm, lại dạy dân trong mười năm nữa, chẳng qua hai mươi năm thì cung điện nước Ngô có lẽ thành ra chuôm ao! Vương tôn Hùng chưa kịp tin lời nói của Ngũ Viên. Ngũ Viên nghĩ giận mà trở về hữu dinh. Phù Sai cho Văn Chủng về báo với Câu Tiễn. Câu Tiễn lại sai Văn Chủng sang tạ ơn. Phù Sai hỏi: - Bao giờ thì vợ chồng vua Việt theo ta sang Ngô? Văn Chủng nói: - Chúa công tôi đội ơn Đại vương xá cho, định trở về đô thành mà thu xếp những ngọc bạch tử nữ để đem sang cống, xin Đại vương hãy tạm khoan kỳ hạn cho, nếu Chúa công tôi thất tín thì tài nào tránh khỏi tay Đại vương. Phù Sai thuận cho, liền ước định đến trung tuần tháng năm thì vợ chồng vua Việt phải sang Ngô. Lại sai Vương tôn Hùng theo Văn Chủng sang Việt để giục phải mau khởi trình, còn quan Thái tể là Bá Hi thì đóng một vạn quân ở Ngô Sơn để chờ vua Việt, nếu vua Việt sai hẹn không sang thì sẽ đem quân diệt nước Việt. Phù Sai kéo đại binh trở về nước Ngô!
Quay về bài gốc
0SHARES
Quay về bài gốc
0SHARES