HỒI THỨ 79 Lê Di lập kế hại Khổng Tử Văn Chủng bày mưu thông Bá Hi Bấm để xem Khi Tề Cảnh công hội ở Giáp Cốc về, Án Anh ốm chết. Tề Cảnh công thương khóc mấy ngày. Đang lo trong triều không có ai tài giỏi, lại nghe tin nước Lỗ dùng ông Khổng Tử mà được cường thịnh, mới lo sợ mà nói rằng: - Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu tất nên nghiệp bá, mà nên nghiệp bá thì tất phải tranh đất. Nước Tề ta tiếp giáp với Lỗ thì cái họa ấy đến nước Tề trước, ta biết làm thế nào? Quan đại phu là Lê Di tâu rằng: - Chúa công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không lập cách mà ngăn trở đi. Tề Cảnh công nói: - Nước Lỗ đang giao quyền chính cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được? Lê Di nói: - Tính con người ta, hễ được cường thịnh thì tất sinh lòng kiêu dật, xin Chúa công lập một bộ nữ nhạc mà đem cho vua Lỗ. Vua Lỗ đã nhận bộ nữ nhạc thì tất sinh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ Khổng Khâu tất phải bỏ Lỗ mà đi, Chúa công mới có thể ngồi yên được. Tề Cảnh công bằng lòng, sai Lê Di xem trong đám nữ lư, chọn những đứa xinh đẹp độ trong 20 tuổi, cả thẩy 80 người, chia làm 10 đội, đều cho mặc gấm vóc và dạy hát múa. Khúc hát ấy gọi là Khang nhạc, điệu bộ mới lạ, có nhiều cách thần tình, ở đời chưa từng có bao giờ! Khi luyện tập đã thành rồi, lại dùng một trăm hai chục cỗ ngựa cương vàng yên nạm, mỗi con một sắc, trông đẹp như gấm, sai sứ đem dâng Lỗ Định công. Sứ giả làm rạp ở ngoài cửa Cao Môn nước Lỗ, phía đông bày đàn ngựa, phía tây bày nữ nhạc, rồi đệ quốc thư vào tâu với Lỗ Định công. Lỗ Định công mở thư ra xem. Thư rằng: "Tên tôi là Chử Cữu, cúi đầu dâng Lỗ hiền hầu mấy lời như sau này: Khi trước ở hội Giáp Cốc, tôi có thất lễ với nhà vua, trong lòng vẫn lấy làm hổ thẹn; may mà nhà vua có lòng dung thứ cho được giao hiếu như xưa. Từ ngày ấy đến giờ, trong nước nhiều việc, không sang sinh vấn được, nay có mấy lũ ca tỳ, dùng để giải trí, mấy cỗ lương mã, dùng để thắng xe, đem dâng cho nhà vua, để tỏ lòng kính mến, xin nhà vua nhận cho". Quý tôn Tư thấy nước Lỗ được thái bình, cũng đã sinh lòng kiêu dật. Bỗng nghe nói nữ nhạc nước Tề đẹp lắm, có ý ham muốn, liền đổi mặc đồ thường phục, cùng với mấy người tâm phúc đi xe lẻn ra cửa Cao Môn để xem. Bấy giờ người nhạc trưởng đang diễn tập, tiếng hát lanh lảnh đến mây xanh, điệu múa dịu dàng tựa hồ gió thổi, rất rực rỡ, rất thần tình như các vị tiên cơ ở trên trời, không phải trần gian dám nghĩ tới. Quý tôn Tư đến xem một lúc lâu, trông thấy nhan sắc và phục sức, khác nào như ngây như dại. Lỗ Định công một ngày ba lần cho triệu, mà Quý tôn Tư chỉ vì ham mê nữ nhạc cũng không vào triều. Đến ngày hôm sau, Quý tôn Tư vào yết kiến Lỗ Định công. Lỗ Định công đem quốc thư của Tề đưa cho xem. Quý tôn Tư tâu rằng: - Đó là cái lòng tử tế của vua Tề, ta không nên từ chối. Lỗ Định công cũng có ý ham muốn, liền hỏi nữ nhạc để ở đâu, ta thử đi xem thế nào. Quý tôn Tư nói: - Hiện ở ngoài Cao Môn. Chúa công ra xem, tôi xin đi theo. Nhưng sợ náo động trăm họ, chi bằng ta mặc đồ thường phục là hơn. Bấy giờ vua tôi cùng bỏ đồ triều phục, lên một cái xe nhỏ, đi ra Cao Môn. Có kẻ báo tin cho người nhạc trưởng, người nhạc trưởng truyền cho nữ nhạc phải cố ra công hát múa: Véo von đủ giọng, uốn éo trăm chiều, làm cho vua tôi nước Lỗ, dẫu rằng mặt sắt cũng ngây vì tình. Các thị vệ lại khoe với Lỗ Định công rằng: - Ở về phía đông, có nhiều ngựa đẹp. Lỗ Định công nói: - Xem một chỗ này cũng đủ vui rồi, bất tất phải hỏi đến ngựa nữa! Đêm hôm ấy, Lỗ Định công về cung, suốt đêm không ngủ, bên tai vẫn văng vẳng nghe tiếng âm nhạc, phảng phất như mỹ nhân nằm ở cạnh mình. Lỗ Định công sợ hỏi các quan triều thần thì lại mỗi người nói một cách. Ngày hôm sau, cho triệu một mình Quý tôn Tư vào cung, để viết thư trả lời Tề Cảnh công. Trong thư tả những tình thân ái, kể sao cho xiết! Lại lấy một trăm nén vàng đỏ tặng cho sứ giả nước Tề, rồi đem nữ nhạc vào cung, chia cho Quý tôn Tư ba chục người. Còn ngựa thì giao cho chức ngữ nhân chăn nuôi. Lỗ Định công và Quý tôn Tư mới được nữ nhạc, có ý ham mê lắm. Ngày thì hát múa, đêm thì chiếu chăn, suốt ba hôm, chẳng nghĩ gì chính trị trong nước. Ông Khổng Tử nghe biết việc ấy, chán mà thở dài. Học trò ông Khổng Tử là Trọng Do đứng hầu bên cạnh, nói với ông Khổng Tử rằng: - Chúa công lười biếng, chẳng nghĩ gì đến chính trị. Thầy nên đi nước khác. Ông Khổng Tử nói: - Nay mai sắp tế giao, nếu còn giữ được đại lễ thì cũng chưa đến nỗi nào! Đến lúc tế giao, Lỗ Định công vừa làm lễ xong, tức khắc về cung, chẳng ra coi triều, cũng chẳng nghĩ gì đến phần tế. Người coi việc chia phần tế đến hỏi thì Lỗ Định công phó thác cho Quý Tôn Tư, Quý tôn Tư lại phó thác cho kẻ gia thần. Ông Khổng Tử đi tế về, mãi đến chiều tối cũng chẳng thấy thịt phần đưa đến, mới bảo Trọng Do rằng: - Nếu vậy thì cũng là tại lòng trời! Ông Khổng Tử lại ngồi gẩy một khúc đàn cầm. Gẩy xong khúc đàn, liền sắp sửa đồ hành trang để định bỏ nước Lỗ. Trọng Do và Nhiễm Cầu cũng bỏ quan đi theo ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử bỏ nước Lỗ sang nước Vệ. Vệ Linh công mừng mà đón vào. Khi ông Khổng Tử vào, Vệ Linh công hỏi việc chiến trận. Ông Khổng Tử nói: - Tôi chưa học đến. Ngày hôm sau, lại cáo từ xin đi. Đi qua Khuông Ấp, về địa giới nước Tống. Người Khuông Ấp vốn ghét Dương Hổ, thấy ông Khổng Tử giống mặt Dương Hổ, ngỡ là Dương Hổ lại đến, mới họp nhau để vây. Trọng Do nói với ông Khổng Tử xin đánh. Ông Khổng Tử can rằng: - Ta không có thù hằn gì với người Khuông Ấp cả. Việc này tất bởi làm sao đây. Cứ ngồi yên tự khắc tan được. Ông Khổng Tử lại ngồi gẩy đàn cầm. Gặp bấy giờ Vệ Linh công sai người mời ông Khổng Tử trở lại. Người Khuông Ấp mới biết là lầm, phải nói xin lỗi, rồi kéo nhau đi. Ông Khổng Tử lại trở về nước Vệ, vào trọ ở nhà quan Đại phu là Cừ Viên. Lại nói chuyện Vệ Linh công phu nhân là nàng Nam Tử, con gái nước Tống, nhan sắc đẹp mà tính dâm lắm. Khi còn ở Tống, đã tư thông với Công tử Triều. Công tử Triều cũng là một người đẹp trai. Hai bên cùng đẹp, yêu nhau hơn vợ chồng. Đến lúc về với Vệ Linh công, sinh được người con tên là Khoái Quý. Năm Khoái Quý đã lớn, lập làm thế tử mà nàng Nam Tử vẫn chưa bỏ được tính xưa. Bấy giờ nước Vệ lại có một chàng đẹp trai tên gọi Di Tử Hà, vốn được Vệ Linh công yêu dùng. Thường có khi Di Tử Hà ăn quả đào đã hết một nửa, còn thừa đem đút vào miệng Vệ Linh công. Thế mà Vệ Linh công cũng bằng lòng ăn, lại khoe với người khác rằng: - Di Tử Hà yêu ta, đến thế là cùng! Một miếng đào ngon, cũng không nỡ ăn cả, mà phải chia cho ta. Các quan triều thần, ai cũng cười vụng. Di Tử Hà cậy thế chuyên quyền, làm nhiều điều càn dỡ. Vệ Linh công ngoài thì yêu Di Tử Hà, trong thì sợ nàng Nam Tử. Vẫn nghĩ cách để làm cho nàng Nam Tử được bằng lòng, thỉnh thoảng lại gọi Công tử Triều ở Tống sang chơi với nàng Nam Tử. Tiếng xấu huyên truyền mà Vệ Linh công không lấy làm thẹn. Khoái Quý nghĩ giận lắm, sai kẻ gia thần là Hí Dương Tốc, đợi khi vào triều kiến, đâm chết nàng Nam Tử cho khỏi sự xấu ấy đi. Nàng Nam Tử biết chuyện, mách với Vệ Linh công. Vệ Linh công đuổi Khoái Quý. Khoái Quý chạy sang nước Tống, rồi lại sang nước Tần. Vệ Linh công lập con Khoái Quý là Công tử Chiếp làm thế tử. Khi ông Khổng Tử trở về nước Vệ, nàng Nam Tử biết ông Khổng Tử là bậc thánh nhân, rất có lòng kính trọng, mới xin tiếp kiến. Một hôm, Vệ Linh công ngồi cùng xe với nàng Nam Tử, bảo ông Khổng Tử đi xe sau. Ông Khổng Tử thở dài mà than rằng: - Vua Vệ yêu đức không bằng yêu sắc. Ông Khổng Tử liền bỏ Vệ sang Tống, cùng với học trò giảng lễ ở dưới gốc một cây lớn. Quan Tư mã nước Tống là Hoàn Khôi cũng vì đẹp trai mà được Tống Cảnh công yêu, bấy giờ đang có quyền thế, đem lòng ghét ông Khổng Tử, sai người chặt cây đi, rồi tìm giết ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử phải thay hình đổi dạng, bỏ Tống sang Trịnh, lại sắp sang Tấn. Nghe nói Triệu Ưởng nước Tấn giết kẻ hiền thần, mới phàn nàn rằng: - Giống điểu thú còn không nỡ hại lẫn nhau, huống chi là người! Ông Khổng Tử lại trở về nước Vệ. Chưa được bao lâu thì Vệ Linh công mất. Người nước Vệ lập Công tử Chiếp, con Khoái Quý lên làm vua, tức là Vệ Xuất công. Khoái Quý cũng nhờ có Tấn giúp, cùng với Dương Hổ chiếm cứ ở Thích Ấp. Bấy giờ Khoái Quý và Công tử Chiếp, hai cha con tranh nhau. Tấn giúp cho Khoái Quý, Tề giúp cho Công tử Chiếp. Ông Khổng Tử thấy vậy, ghét là trái lễ, bỏ Vệ sang Trần, lại sắp sang Sái. Sở Chiêu vương nghe tin ông Khổng Tử ở khoảng nước Trần và Sái, sai người đi đón. Quan đại phu nước Trần và nước Sái mới đem quân vây ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử bị tuyệt lương trong ba ngày, mà vẫn gảy đàn đọc sách. Bỗng thấy có một người dị nhân cao hơn chín thước, mũ cao áo dài, tay cầm ngọn giáo, chỉ vào một ông Khổng Tử mà quát lên, nghe tiếng thật to. Trọng Do lôi ra, cùng đánh nhau ở sân. Người ấy khỏe lắm. Trọng Do không đánh nổi. Ông Khổng Tử đứng bên, nhìn xem hồi lâu, rồi bảo Trọng Do rằng: - Sao không nắm vào cạnh sườn! Trọng Do liền nắm vào cạnh sườn thì người dị nhân ấy hết sức, hai tay cứng đờ ra mà ngã xuống đất. Hóa thành một con đại chiêm ngư (cá). Các học trò đều lấy làm quái lạ. Ông Khổng Tử nói: - Phàm vật gì già mà suy thì các tinh phụ vào. Ta giết đi thì thôi, chứ có can chi mà quái lạ! Ông Khổng Tử sai học trò đem mổ để nấu ăn cho đỡ đói. Các học trò đều mừng rằng: - Thật là của trời cho! Sứ nước Sở đem quân đến đón ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử đến nước Sở. Sở Chiêu Vương mừng lắm, toan đem đất Lý Xa phong cho ông Khổng Tử, Quan Lệnh doãn là Công tử Thân can rằng: - Ngày xưa Văn Vương ở Phong, Vũ Vương ở Kiểu, chỉ độ một trăm dặm đất mà biết tu nhân tích đức, thành ra thay quyền nhà Ân mà lên làm vua. Nay cái đức tính của Khổng Khâu chẳng kém gì Văn Vương và Vũ Vương ngày xưa, mà các học trò lại đều là bậc đại hiền. Nếu phong cho đất thì sau này tất lại thay quyền nước Sở ta mất. Sở Chiêu Vương lại thôi, Ông Khổng Tử biết là nước Sở không thể dùng được, lại trở về nước Vệ. Vệ Xuất công muốn giao quyền chính cho. Ông Khổng Tử không chịu theo. Quan Tướng quốc nước Lỗ là Quý tôn Phi cũng đến triệu học trò ông Khổng Tử là Nhiễm Cầu. Ông Khổng Tử nhân thế, lại trở về nước Lỗ. Nước Lỗ trọng đãi ông Khổng Tử coi như bậc quan đại phu về cáo lão. Sau trong bọn học trò ông Khổng Tử, như Trọng Do và Cao Sài làm quan ở nước Vệ; Đoạn Mộc Tử, Nhiễm Cầu, Hữu Nhược và Ninh Bất Tề làm quan ở nước Lỗ. Lại nói chuyện vua Ngô là Hạp Lư từ khi đánh được nước Sở, uy danh lừng lẫy, sinh ra chơi bời, sửa sang cung thất: Lập Trường lạc cung ở trong nước, lại đắp Cao đài ở trên núi Cô Tô (núi ấy ở phía tây nam thành nước Ngô, cũng gọi là núi Cô Tư). Mở một con đường chín khúc đi vòng quanh núi. Mùa xuân và mùa hạ thì ở ngoài thành, mùa thu và mùa đông thì ở trong thành. Một hôm, Hạp Lư nghĩ đến cái thù người Việt đánh Ngô khi trước, định sang báo. Lại nghe Tề và Sở sai sứ giao thông với nhau, giận mà nói rằng: - Tề và Sở giao thông với nhau là một sự lo cho ta ở về phía phương bắc. Ta muốn đánh Tề trước, rồi sau sẽ đánh Việt. Quan Tướng quốc là Ngũ Viên can rằng: - Lân quốc sai sứ đi giao hiếu, đó là lẽ thường, vị tất đã phải là Tề định giúp Sở mà hại ta, ta chớ nên cất quân sang đánh vội. Nay vợ cả Thế tử Ba đã mất, chưa có kế thất, sao Đại vương không sai sứ sang Tề cầu hôn, nếu Tề không cho, bấy giờ sẽ đánh, cũng không muộn. Hạp Lư theo lời, sai quan Đại phu là Vương tôn Lạc sang nước Tề, để cầu hôn cho Thế tử Ba. Bấy giờ Tề Cảnh công tuổi đã già, chí khí suy kém, không được hăng hái như xưa. Trong cung chỉ có một gái nhỏ chưa gả chồng, không nỡ đem bỏ đất Ngô. Ngặt vì trong triều không có người tài, ngoài biên không có tướng giỏi. Nếu trái mệnh nước Ngô thì e rằng Ngô lại đem quân sang đánh, đến nỗi lầm than như Sở, bấy giờ hối lại sao cho kịp! Quan Đại phu là Lê Di cũng khuyên Tề Cảnh công nên nhận gả con cho Ngô, chớ nên làm Ngô tức giận. Tề Cảnh công bất đắc dĩ phải gả con gái là nàng Thiếu Khương cho. Vương tôn Lạc về nói với Hạp Lư. Hạp Lư sai Vương tôn Lạc đem đồ sính lễ sang nước Tề, để cưới nàng Thiếu Khương về cho Thế tử Ba. Tề Cảnh công phần thương con gái, phần sợ nước Ngô, trong lòng căm tức, bỗng hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, thở dài mà than rằng: - Nếu Án Anh và Điền Nhương Thư, hai người ấy hãy còn, khi nào ta phải sợ người nước Ngô như thế này! Tề Cảnh công lại bảo quan Đại phu là Bão Mục rằng: - Ta nhờ nhà ngươi đưa con gái ta sang Ngô. Đây là con gái yêu của ta, nhà ngươi tâu với vua Ngô để vua Ngô lấy lòng tử tế mà trông lại cho. Tề Cảnh công thân hành ra đỡ nàng Thiếu Khương lên xe, rồi tiễn đến cửa Nam môn mới trở lại. Bão Mục đưa nàng Thiếu Khương sang Ngô, và đem lời nói của Tề Cảnh công tâu với Hạp Lư. Bão Mục mến tiếng Ngũ Viên là người hiền, lại cùng với Ngũ Viên kết giao. Nàng Thiếu Khương hãy còn nhỏ tuổi, dẫu cùng với Thế tử Ba kết hôn, nhưng chưa biết lấy sự vợ chồng làm vui, chỉ một lòng tưởng nhớ cha mẹ, ngày đêm kêu khóc. Thế tử Ba thường khuyên dỗ, nhưng nàng Thiếu Khương vẫn sầu thảm không vui, dần dần uất ức thành bệnh. Hạp Lư thương lắm, mới truyền lập một cái thành lâu ở phía bắc môn, rất là hoa mĩ đặt tên là Vọng Tề môn, để cho nàng Thiếu Khương hàng ngày lên chơi đấy. Thiếu Khương trèo lên Vọng Tề lâu, trông về phía Bắc, chẳng thấy nước Tề đâu cả, lại càng thương xót, bệnh mỗi ngày một nặng. Khi nàng Thiếu Khương gần chết, dặn Thế tử Ba rằng: - Thiếp nghe nói đứng đỉnh núi Ngu Sơn, có thể trông về Đông hải được. Xin Thế tử chôn thiếp ở chỗ ấy. May ra hồn có khôn thiêng, còn được trông về nước Tề. Thế tử Ba tâu với Hạp Lư, rồi an táng nàng Thiếu Khương trên đỉnh núi Ngu Sơn. Thế tử Ba thương nhớ nàng Thiếu Khương quá, sau cũng thành bệnh. Chưa được bao lâu cũng chết. Hạp Lư muốn chọn trong các Công tử để lập một người làm thế tử, nhưng chưa biết lập ai, vẫn định bàn với Ngũ Viên. Vợ cả Thế tử Ba sinh được người con, tên là Phù Sai, năm ấy đã hai mươi sáu tuổi. Phù Sai vốn người ngang tàng anh vĩ, cũng là một bậc nhân tài. Nghe nói ông là Hạp Lư muốn chọn lập thế tử, liền vào yết kiến Ngũ Viên mà nói rằng: - Ta đây là cháu đích tôn. Nếu muốn lập thế tử mà bỏ ta thì định lập ai? Việc này chỉ nhờ về một câu nói của quan Tướng quốc đó. Ngũ Viên nhận lời. Được một lúc. Hạp Lư sai người triệu Ngũ Viên đến để bàn việc lập thế tử. Ngũ Viên nói: - Muốn cho về sau khỏi sinh biến loạn thì phải lập đích tử, nay Thế tử dẫu tạ thế, nhưng đã có đích tôn là Phù Sai. Hạp Lư nói: - Ta xem Phù Sai là người ngu mà bất nhân, sợ không giữ được cơ nghiệp. Ngũ Viên nói: - Phù Sai là người tín nghĩa; vả lại cha chết thì con thay, đó là hợp lẽ phải, còn nghi nỗi gì! Hạp Lư nói: - Ta nghe nhà ngươi, nhà ngươi cố mà giúp Thế tử! Hạp Lư nói xong, liền lập Phù Sai làm thế tôn. Phù Sai đến nhà Ngũ Viên tạ ơn. Năm thứ hai mươi bốn đời Chu Kính Vương, Hạp Lư tuổi già, tính khí càng thêm nóng nảy, nghe nói vua nước Việt là Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn mới lập, bèn định nhân khi nước Việt có tang, đem quân sang đánh. Ngũ Viên can rằng: - Nước Việt dẫu có tội đánh lẻn nước Ngô khi trước, nhưng đang có tang, ta chớ nên đánh vội. Hạp Lư không nghe, giao quốc chính cho Ngũ Viên và Phù Sai, rồi cùng bọn Bá Hi, Vương tôn Lạc và Chuyên Nghị, đem ba vạn tinh binh tiến sang nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn thân hành ra đốc quân, Chư Kế Dĩnh làm đại tướng, Linh Cô Phù làm tiên phong, Trù Vô Dư và Tư Hãn làm tả hữu dực, gặp quân Ngô ở đất Huề Lý, hai bên đóng dinh, cách nhau mười dặm, cùng nhau khiêu chiến, chưa phân được thua. Hạp Lư giận lắm, mới đem hết quân lên bày trận ở Ngũ Đài Sơn. Nghiêm cấm trong quân không được kinh động, chờ khi quân Việt trễ nải, rồi sau sẽ đánh. Câu Tiễn trông thấy quân Ngô nghiêm chỉnh, bảo Chu Kế Dĩnh rằng: - Khi thế quân Ngô đang hăng hái như thế kia ta chớ nên khinh thường, phải dùng kế để làm cho họ rối loạn. Câu Tiễn sai quan Đại phu là Trù Vô Dư và Tư Hãn đốc những quân tử sĩ ở hai bên tả hữu xông vào đánh dinh quân Ngô. Quân Ngô cứ giữ vững thế trận, rồi dùng cung nỏ mà bắn lại. Quân Việt không phá nổi lại phải rút về. Câu Tiễn không biết làm thế nào. Chư Kế Dĩnh mật tâu rằng: - Ta nên dùng lũ tội nhân.. Câu Tiễn nghĩ ra. Ngày hôm sau, mật truyền quân lệnh: Bắt lũ tội nhân mà vẫn đem theo trong quân, cả thẩy ba trăm người, chia làm ba toán, đều trần vai áo, kề thanh kiếm vào cổ, tiến sang quân Ngô. Người đi đầu nói với quân Ngô rằng: - Chúa công tôi không biết tự lượng sức mình, để đắc tội với quí quốc, nay quí quốc đã đem quân đến đánh, chúng tôi không dám tham sống, xin tình nguyện chết thay Chúa công tôi. Người đi đầu nói xong thì cả bọn cứ tự đâm cổ mà chết. Quân Ngô xưa nay không trông thấy như thế bao giờ, đều lấy làm quái lạ, ngây mặt ra mà nhìn; rồi lao nhao hỏi lẫn nhau, không biết là cớ làm sao. Bỗng thấy quân Việt nổi hiệu trống, Trù Vô Dư và Tư Hãn đem hai toán quân tử sĩ, cầm dao cắp mộc, xông đến tận nơi mà đánh. Quân Ngô hoảng hốt, thành ra rối loạn. Câu Tiễn lại đem đại binh kéo đến, phía hữu có Chư Kế Dĩnh, phía tả có Linh Cô Phù xông vào trong trận quân Ngô. Tướng Ngô là Vương tôn Lạc cố sức cùng với Chư Kế Dĩnh giao chiến, Linh Cô Phù trông thấy vua Ngô là Hạp Lư, liền cầm dao xông vào để chém. Hạp Lư vội vàng bỏ chạy. Linh Cô Phù đuổi theo, chém vào chân phải Hạp Lư đứt mất ngón chân cái, Hạp Lư rơi giầy, ngã lăn xuống đất, may gặp có toán quân của Chuyên Nghị đến, mới cứu thoát được Hạp Lư. Chuyên Nghị bị nhiều vết thương nặng. Vương tôn Lạc biết là Hạp Lư bị thương, không dám ham đánh, vội vàng rút quân, bị quân Việt đuổi theo giết chết quá nửa. Hạp Lư bị thương nặng, tức khắc rút quân, Linh Cô Phù bắt được chiếc giầy của Hạp Lư, đem về nộp Câu Tiễn. Câu Tiễn bằng lòng lắm. Bấy giờ Hạp Lư tuổi đã già, đau quá, không thể chịu được, đi được bảy dặm đường thì kêu to lên một tiếng mà chết. Bá Hi hộ tang đi trước, Vương tôn Lạc đem quân đi sau, dần dần về đến nước Ngô. Quân Việt cũng không đuổi theo nữa. Phù Sai nối ngôi lên làm vua nước Ngô, đưa linh cữu Hạp Lư ra an táng ở Hải Dũng Sơn; sai thợ đào núi làm huyệt, rồi đem thanh kiếm Ngư Trường của Chuyên Chư dùng khi trước để chôn theo, các đồ vàng ngọc bỏ xuống đấy nhiều lắm; khi an táng rồi, lại giết hết cả bọn thợ mà chôn theo nữa. Ba hôm sau, có người trông thấy ở trên núi ấy có con bạch hổ nằm phục. Mới gọi tên núi ấy là Hổ Khâu Sơn. Thức giả cho là tại chôn nhiều vàng, vậy nên kim khí hiện ra như thế. Đến đời Tần Thủy Hoàng sai người đào mộ Hạp Lư để tìm thanh kiếm Ngư Trường, nhưng tìm không thấy, chỗ đào sau thành ngòi sâu, tức là Hổ khâu kiếm trì. Chuyên Nghị bị thương nặng, cũng chết. Phụ táng ở sau núi ấy, nay không biết mộ tại chỗ nào. Phù Sai đã an táng Hạp Lư rồi, lập con trưởng là Hữu làm thế tử, lại sai mười người nội thị thay đổi nhau đứng ở giữa sân, mỗi khi mình đi ra đi vào thì mấy người ấy lại quát to lên, gọi tên mà bảo rằng: - Phù Sai ơi, mày quên cái thù vua Việt giết ông mày rồi à! Phù Sai liền khóc mà đáp lại rằng: - Dạ! Không bao giờ tôi dám quên! Phù Sai làm như thế để cho trong lòng phải nhớ đến, sai Ngũ Viên và Bá Hi luyện tập thủy quân ở Thái Hồ. Lại lập trường bắn ở Linh Nham Sơn để tập bắn. Định đợi khi hết tang ba năm, sẽ sang đánh nước Việt để báo thù. Bấy giờ Tấn Khoảnh công nhu nhược, sáu quan khanh tranh quyền, chực giết hại lẫn nhau. Tuân Di (tức là Phạm Thị) cùng Sĩ Cát Xạ (tức là Trung Hàng Thị) thân nhau, giao kết làm hôn nhân, bởi vậy Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa đều có bụng ghét. Tuân Lịch (tức là Trí Thị) có yêu một người gia thần, tên gọi là Lương Anh Phủ, muốn cho làm quan khanh. Lương Anh Phủ cậy có Tuân Lịch yêu, lập kế đuổi Tuân Di để thay giữ quyền chức, bởi vậy Tuân Lịch cũng thành ra thù ghét với Phạm Thị và Trung Hàng Thị. Quan Thượng khanh là Triệu Ưởng, có người cháu tên là Ngọ, được phong ở đất Hàm Đan. Mẹ Ngọ là em gái Tuân Di, vậy nên Tuân Di là cậu mà Ngọ là cháu. Năm trước, Vệ Linh công và Tề Cảnh công hợp mưu phản Tấn, Triệu Ưởng nước Tấn đem quân đánh Vệ. Nước Vệ sợ, xin nộp năm trăm nóc nhà để tạ tội. Triệu Ưởng lưu ở đất Hàm Đan để giao cho Ngọ, gọi là Vệ Cống. Chưa được bao lâu, Triệu Ưởng muốn thiên năm trăm nóc nhà ấy sang ở đất Tấn Dương. Ngọ sợ người nước Vệ không phục, chưa dám vâng mệnh ngay. Triệu Ưởng cho là Ngọ chống cự với mình, liền nổi giận, bắt về Tấn Dương mà giết đi. Tuân Di giận Triệu Ưởng về việc giết cháu, mới bàn nhau với Sĩ Cát Xạ, định cùng đánh Triệu Ưởng để báo thù cho Ngọ. Triệu Ưởng có người mưu thần tên gọi Đổng An Vu, bấy giờ đang vì Triệu Ưởng giữ thành Tấn Dương, nghe được mưu của Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, tức khắc về Giáng Đô nói với Triệu Ưởng rằng: - Phạm Thị và Trung Hàng Thị vẫn liên kết với nhau, nay mà nổi loạn thì ta khó lòng trị xong, Ngài nên phải phòng bị trước. Triệu Ưởng nói: - Nước Tấn ta vẫn có lệnh rằng ai khởi hành việc loạn thì người ấy chịu tội chết, ta đợi cho hắn nổi trước, rồi sau sẽ hay. Đổng An Vu nói: - Để cho hắn nổi loạn thì hại trăm họ, chẳng thà một mình tôi chết thay. Nếu có việc gì, tôi xin chịu tội. Triệu Ưởng không nghe. Đổng An Vu cứ sửa soạn giáp binh để đợi khi có việc. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ tuyên bá với mọi người rằng: - Đổng An Vu sửa soạn giáp binh là có ý định hại ta. Nói xong liền họp quân đến nhà Triệu Ưởng. May mà Đổng An Vu đã phòng bị sẵn, mới đem quân cứu thoát được Triệu Ưởng chạy sang thành Tấn Dương. Triệu Ưởng sợ hai nhà kia đem quân đến đánh, mới lập cách cố thủ. Tuân Lịch bảo Hàn Bất Tín và Ngụy Man Đa rằng: - Triệu Ưởng là đầu trong sáu quan khanh. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ không vâng mệnh vua mà dám đem quân đuổi đánh; thế thì quyền chính về tay hai nhà ấy cả. Hàn Bất Tín nói: - Chi bằng ta cho hai nhà ấy là tội thủ xướng mà đánh đuổi đi. Ba người cùng vào tâu với Tấn Định công, rồi phụng mệnh Tấn Định công đem quân đi đánh Tuân Di và Sĩ Cát Xạ. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ cố sức chống lại, nhưng không thể địch nổi, mới bàn nhau vào bắt hiếp Tấn Định công. Hàn Bất Tín sai người đi rao giữa chợ rằng: - Phạm Thị và Trung Hàng Thị mưu phản, nay định đem quân vào hiếp vua. Người trong nước tin lời nói ấy, đều cầm binh khí đến cứu Tấn Định công. Ba nhà nọ nhờ sức người trong nước, phá tan được quân Tuân Di và Sĩ Cát Xạ. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Triều Ca. Hàn Bất Tín nói với Tấn Định công rằng: - Phạm Thị và Trung Hàng Thị thật là kẻ khởi hành việc loạn, nay đã đuổi rồi, còn họ Triệu mấy đời có công to với nước Tấn ta, nên cho được phục chức. Tấn Định công thuận cho, liền gọi Triệu Ưởng ở Tấn Dương về cho được phục chức. Lương Anh Phủ (gia thần của Tuân Lịch) muốn thay Tuân Di làm quan khanh. Tuân Lịch vào nói với Triệu Ưởng. Triệu Ưởng hỏi Đổng An Vu. Đổng An Vu nói: - Nước Tấn ta chỉ bởi nhiều người cầm giữ quyền chính, thành ra nhiễu loạn, nếu lập Lương Anh Phủ thì khác nào lại thêm một Tuân Di. Triệu Ưởng không cho Lương Anh Phủ làm quan khanh. Lương Anh Phủ giận lắm, biết là tại Đổng An Vu nói ngăn, mới bảo Tuân Lịch rằng: - Họ Hàn, họ Ngụy đều về đảng họ Triệu thì thế ta cô mất! Họ Triệu chỉ trông cậy có mưu thần là Đổng An Vu, sao chẳng trừ đi? Tuân Lịch hỏi: - Dùng kế gì mà trừ được? Lương Anh Phủ nói: - Đổng An Vu sửa soạn giáp binh để gây cái loạn Phạm Thị và Trung Hàng Thị, nếu trị kẻ thủ xướng thì nên bắt tội Đổng An Vu. Tuân Lịch bèn theo lời Lương Anh Phủ, đến trách Triệu Ưởng, Triệu Ưởng sợ. Đổng An Vu nói với Triệu Ưởng rằng: - Tôi định bụng liều chết đã lâu rồi! Tôi chết mà yên được họ Triệu thì chết còn hơn sống! Đổng An Vu lui ra, liền tự thắt cổ chết. Triệu Ưởng liền đem xác Đổng An Vu ra ngoài chợ, rồi sai người bảo với Tuân Lịch rằng: - Hiện đã trị tội Đổng An Vu rồi! Tuân Lịch cùng Triệu Ưởng kết minh, hai đảng cùng không hại nhau. Triệu Ưởng vẫn thờ riêng Đổng An Vu ở trong gia miếu để báo đền cái công trước. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chiếm cứ ở Triều Ca đã được lâu ngày. Các nước chư hầu nào phản Tấn đều muốn nhân dịp để làm hại nước Tấn. Triệu Ưởng đã nhiều lần đem quân đến đánh, nhưng Tề, Lỗ, Trịnh, Vệ, đều sai sứ giúp thóc và quân cho Tuân Di cùng Sĩ Cát Xạ, Triệu Ưởng không thể đánh nổi. Mãi đến năm thứ 30 đời Chu Kính Vương, Triệu Ưởng họp quân ba nhà Hàn, Ngụy và Trí Thị mới phá vỡ được Triều Ca. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Hàm Đan, sau lại chạy sang Bách Nhân. Chưa được bao lâu, thành Bách Nhân cũng vỡ, đồ đảng của Tuân Di và Sĩ Cát Xạ là Phạm Cao Di, Trương Liễu Sóc đều bị thua trận, còn Dự Nhượng cũng bị con Tuân Lịch là Tuân Giáp bắt được. Con Tuân Giáp là Tuân Giao xin tha cho Dự Nhượng, từ bấy giờ Dự Nhượng về làm tôi Trí Thị. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ bỏ trốn sang nước Tề. Trong bọn sáu quan khanh nước Tấn, từ bấy giờ chỉ còn có bốn là Triệu, Ngụy, Hàn, Trí mà thôi. Mùa xuân tháng 2 năm thứ 26 đời Chu Kính Vương, vua Ngô là Phù Sai đã hết tang ông, mới cáo nhà Thái miếu, rồi sai Ngũ Viên làm đại tướng, Bá Hi làm phó tướng, cử đại binh theo đường thủy qua Thái Hồ sang đánh nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn họp các quan triều thần lại thương nghị. Quan Đại phu là Phạm Lãi (tên tự là Thiếu Bá) tâu rằng: - Nước Ngô bị ta giết mất vua, lập chí báo thù đã ba năm nay rồi. Khí lực đang hăng hái lắm, khó lòng mà địch nổi, ta nên phải nghĩ cách cố thủ mới được. Quan Đại phu là Văn Chủng tâu rằng: - Cứ như ý tôi thiển nghĩ thì không gì bằng sai người ra xin lỗi để mà cầu hòa, để cho hắn rút quân về, rồi sau sẽ liệu. Câu Tiễn nói: - Hai ngươi: Một người nói thủ, một người nói hòa, đều không phải là thiện kế. Nước Ngô là thế thù với ta, nay đem quân sang đánh ta, nếu ta không đánh lại, thì cũng chẳng hèn lắm ru! Câu Tiễn liền đem ba vạn quân ra đón đánh ở dưới núi Tiêu Sơn. Lúc mới giao chiến, quân Ngô hơi lùi. Quân Việt giết được hơn một trăm người. Câu Tiễn thừa thắng tiến vào. Đi được mấy dặm thì gặp đại binh của Phù Sai. Hai bên bày trận giao chiến. Phù Sai đứng ở mũi thuyền, tay cầm dùi đánh trống để đốc xuất các tướng sĩ. Các tướng sĩ đều hăng hái hơn trước. Gặp có gió bắc nổi lên, làn sóng dữ dội. Ngũ Viên và Bá Hi mỗi người ngồi một chiếc thuyền lớn, giương buồm thuận gió mà tiến, quân Ngô đem cung nỏ bắn ra như mưa. Quân Việt ngược gió không thể đương nổi, thua to bỏ chạy. Quân Ngô chia ba đường đuổi theo. Tướng Việt là Linh Cô Phù đắm thuyền mà chết. Vua Ngô thừa thắng đuổi theo, giết được quân Việt không biết bao nhiêu mà kể. Câu Tiễn chạy vào Cố Thành, quân Ngô vây kín mấy lần, làm cho không có đường lấy nước. Phù Sai mừng mà nói rằng: - Ta chắc rằng chỉ trong mười ngày thì quân Việt đều chết khát tất cả! Ngờ đâu ở trên đỉnh núi về phía trong thành quân Việt đóng, có một cái suối nước. Dưới suối có nhiều cá ngon. Câu Tiễn sai đem mấy trăm con cá sang cho vua Ngô. Vua Ngô kinh sợ. Câu Tiễn để Phạm Lãi cố thủ ở đấy, rồi đem một toán tàn binh lẻn chạy về Cối Kê Sơn. Điểm lại quân sĩ còn có hơn năm ngàn người. Câu Tiễn thở dài mà than rằng: - Từ đời Tiên quân đến bây giờ, trong ba mươi năm, ta chưa hề bị trận thua nào như thế này! Cũng bởi không nghe lời Phạm Lãi và Văn Chủng nên đến nỗi như vậy! Quân Ngô đánh Cố Thành gấp lắm. Ngũ Viên đóng dinh ở phía hữu. Bá Hi đóng dinh ở phía tả. Trong một ngày, Phạm Lãi ba lần sai người đến cáo cấp với vua Việt là Câu Tiễn, Câu Tiễn sợ lắm. Văn Chủng hiến kế rằng: - Nay việc đã nguy cấp lắm, nhưng cho người ra xin hòa, cũng còn có thể kịp được. Câu Tiễn nói: - Nhưng Ngô không cho hòa thì làm thế nào? Văn Chủng nói: - Nước Ngô có quan Thái tể là Bá Hi, người ấy tham của mê sắc, lại có lòng ghen ghét những kẻ tài năng, cùng với Ngũ Viên đồng triều mà vẫn không hợp ý nhau. Vua Ngô sợ Ngũ Viên mà thân với Bá Hi lắm, nếu ta sang dinh Bá Hi, khéo nói với hắn, để hắn chủ việc giảng hòa cho. Bá Hi nói với vua Ngô, điều gì cũng được, dẫu Ngũ Viên biết mà ngăn trở, cũng không thể kịp. Câu Tiễn nói: - Nhà ngươi sang yết kiến Bá Hi, nên dùng lễ vật gì? Văn Chủng nói: - Quân trung thì không gì hiếm bằng nữ sắc. Ta nên tìm mỹ nữ mà đem dâng. Nếu trời còn tựa nước Việt ta thì Bá Hi tất nghe lời. Câu Tiễn tức khắc sai sứ về đô thành nói với phu nhân tuyển những mỹ nữ trong cung cả thảy được tám người, cho trang sức rất lịch sự, lại thêm hai mươi đôi bạch bích, một ngàn nén hoàng kim, ngay đêm hôm ấy sai Văn Chủng sang dinh Bá Hi xin vào yết kiến. Bá Hi lúc đầu toan từ chối, không cho, nhưng sai người ra dò xem vì thấy có nhiều đồ lễ vật, mới thuận cho vào, Bá Hi ngồi vắt chân ở trên giường để đợi. Văn Chủng quì mà kêu rằng: - Chúa công tôi là Câu Tiễn hãy còn trẻ tuổi, chưa biết gì, không khéo thờ nước lớn, để đến nỗi tai vạ, nay Chúa công tôi đã biết hối tội, xin đem cả nước làm tôi vua Ngô, nhưng sợ vua Ngô không nghe. Chúa công tôi biết Ngài là người có công với Ngô: Mặt ngoài làm tường thành cho nước Ngô, mặt trong thì làm tâm phúc cho vua Ngô, vậy Chúa công tôi sai tôi là Văn Chủng này để van lạy Ngài trước, nhờ Ngài nói dùm cho một câu. Gọi là chút lễ bạc, đem dâng hầu Ngài. Từ rày trở đi, còn nhiều ân nghĩa về sau nữa. Văn Chủng liền cầm cái đơn khai các đồ lễ vật dâng trình Bá Hi. Bá Hi còn nổi giận mà mắng rằng: - Nước Việt ngươi chẳng qua chỉ trong sớm tối thì bị phá diệt! Phàm của cải nước Việt, cái gì không về tay nước Ngô, mà nhà ngươi còn dám đem lễ vật nhỏ mọn này sang nhử ta hay sao! Văn Chủng lại nói: - Nước Việt tôi dẫu thua, nhưng nay đóng ở Cối Kê, hiện còn năm ngàn quân tinh tốt, có thể giao chiến được một trận. Nếu giao chiến mà thua, bấy giờ Chúa công tôi sẽ đốt hết kho tàng mà đem thân trốn đi nước ngoài, để cầu viện quân Sở, chưa chắc nước Việt tôi đã về tay nước Ngô được. Giả sử về tay nước Ngô nữa thì quá nửa của cải nộp về vua Ngô, còn Ngài và các tướng chẳng qua mỗi người được một vài phần; chi bằng Ngài làm ơn nói cho nước Việt tôi được giảng hòa thì Chúa công tôi dẫu đem thân thờ vua Ngô, mà thực là đem thân thờ Ngài đó. Mỗi khi cống hiến, chưa nộp vua Ngô, đã phải nhờ đến Ngài trước. Có phải là Ngài hưởng riêng một mối lợi to, mà các tướng ai được dự đến. Huống chi giống thú mà đến lúc cùng khốn, cũng phải cố đánh, liều một trận sống mái, nào đã chắc rồi ra thế nào! Văn Chủng giải bày một hồi lâu, làm cho tấm lòng Bá Hi phải chuyển động. Bá Hi mới gật đầu mà tủm tỉm cười. Văn Chủng lại chỉ cái đơn kê khai các đồ lễ vật mà nói rằng: - Tám người mỹ nữ này tuyển ở trong cung nước Việt, nếu ở dân gian, còn nhiều kẻ đẹp hơn. Chúa công tôi được về nước Việt thì xin hết sức tìm tòi để lại đem dâng nộp. Bá Hi đứng dậy mà nói rằng: - Quan đại phu không sang hữu dinh (chỉ dinh Ngũ Viên) mà tới đây, cũng biết là tôi không có ý hại người. Để đến sáng mai, tôi xin đưa quan Đại phu vào yết kiến vua Ngô, rồi sẽ bàn định. Bá Hi nhận các đồ lễ vật và lưu Văn Chủng ở trong dinh, bày tiệc thết đãi. Sáng hôm sau, Bá Hi đưa Văn Chủng vào yết kiến Phù Sai. Bá Hi vào trước, đem những tình ý Câu Tiễn sai Văn Chủng sang xin hòa, nói với Phù Sai. Phù Sai sầm nét mặt lại mà bảo rằng: - Nước Việt cùng ta có cái thù không đội trời ở chung được, khi nào ta lại cho hòa. Bá Hi nói: - Đại vương không nhớ lời nói của Tôn Vũ khi xưa hay sao! "Việc binh là nên dùng tạm, chứ không nên dùng lâu". Nước Việt dẫu đắc tội với ta, nhưng tôi tưởng nước Việt cũng đang chịu nhún nước Ngô ta nhiều lắm! Vua Việt xin làm tôi nước Ngô, vợ vua Việt xin làm thiếp nước Ngô, bao nhiêu châu bảo nước Việt, đem nộp vào cung nước Ngô cả. Nước Việt chỉ xin ta một điều là để cho còn chỗ cúng tế mà thôi. Vậy thì ta cho nước Việt hòa, lợi biết dường nào, mà ta được tiếng là tha cho nước Việt. Như vậy thì nước Ngô ta có cơ làm bá chủ được, nếu cố sức mà diệt nước Việt thì Câu Tiễn kia tất cũng đành đốt tôn miếu, giết vợ con, ném hết vàng ngọc xuống sông, rồi đem năm ngàn quân tử sĩ mà liều chết với nước Ngô ta, chẳng cũng hại đến tôi con của Chúa công lắm ru! Dầu có giết được người ấy, sao bằng thu được nước ấy là phần lợi hơn. Phù Sai nói: - Bây giờ Văn Chủng ở đâu? Bá Hi nói: - Hiện đang đứng chờ ở ngoài. Phù Sai cho triệu vào. Văn Chủng quì gối mà tiến lên, lại đem những lời nói hôm trước nói với Phù Sai, mà càng giữ lễ phép hơn Phù Sai nói: - Vua ngươi xin làm tôi Ngô, vậy thì có chịu theo ta về Ngô hay không? Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng: - Đã xin làm tôi nhà vua thì sống chết ở trong tay nhà vua, thế nào cũng xin vâng mệnh. Bá Hi nói với Phù Sai rằng: - Vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện xin về Ngô, vậy thì nước Ngô ta dẫu tha cho Việt, cũng chẳng khác gì chiếm được nước Việt, Đại vương còn muốn chi nữa! Phù Sai liền cho nước Việt giảng hòa. Có người sang hữu dinh báo tin cho Ngũ Viên biết. Ngũ Viên vội vàng vào yết kiến Phù Sai. Khi vào đến nơi, thấy Bá Hi và Văn Chủng đã đứng bên cạnh Phù Sai. Nét mặt Ngũ Viên hầm hầm nổi giận, hỏi Phù Sai rằng: - Đại vương đã cho nước Việt giảng hòa rồi à? Phù Sai nói: - Ta đã cho rồi! Ngũ Viên nói luôn mấy câu rằng: - Không nên! Không nên! Văn Chủng nghe nói kinh sợ, phải đứng lui xuống mấy bước mà xem sự tình ra làm sao. Ngũ Viên can rằng: - Việt tiếp giáp với ta, thế không cùng đứng được! Nếu Ngô không diệt Việt thì Việt cũng diệt Ngô. Kìa như Tần, Tấn, dẫu ta được, mà đất của họ ta không thể ở được, xe của họ ta không thể đi được; còn như Việt mà ta đánh được thì đất ở được, thuyền đi được, đó là một điều lợi cho nước nhà, Đại vương chớ nên bỏ. Huống chi Việt là kẻ thù lớn của Tiên vương ta ngày xưa, ta không diệt Việt thì chẳng phụ mất lời thề khi trước lắm ru! Phù Sai nín lặng, không biết nói ra thế nào, chỉ đưa mắt mà nhìn Bá Hi. Bá Hi nói: - Quan Tướng quốc nói thế là lầm! Nếu bảo rằng Ngô, Việt ở về mặt thủy, thế tất phải diệt nhau, vậy thì Tần, Tấn; Tề, Lỗ cùng ở về mặt bộ, có lẽ cũng phải diệt nhau hay sao! Nếu bảo rằng Việt là kẻ thù lớn của Tiên vương nước Ngô, không thể tha được, vậy quan Tướng quốc thù Sở biết dường nào, mà sao không diệt Sở, lại cho Sở hòa làm gì! Nay vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện về Ngô, so với Sở chỉ nộp một Công tử Thắng, lại không giống nhau. Quan Tướng quốc làm điều trung hậu mà muốn cho Đại vương mang tiếng khắc bạc, trung thần có bao giờ như thế! Phù Sai mừng mà bảo Ngũ Viên rằng: - Bá Hi nói có lẽ phải, nhà ngươi hãy lui về, đợi khi nước Việt cống hiến, sẽ chia tặng cho nhà ngươi. Ngũ Viên sầm nét mặt lại, thở dài mà than rằng: - Tiếc thay! Ta không nghe lời Bị Ly mà cùng với đứa gian thần đồng sự! Ngũ Viên căm tức vô cùng, khi lui ra ngoài, bảo quan Đại phu là Vương tôn Hùng rằng: - Nước Việt nuôi dân trong mười năm, lại dạy dân trong mười năm nữa, chẳng qua hai mươi năm thì cung điện nước Ngô có lẽ thành ra chuôm ao! Vương tôn Hùng chưa kịp tin lời nói của Ngũ Viên. Ngũ Viên nghĩ giận mà trở về hữu dinh. Phù Sai cho Văn Chủng về báo với Câu Tiễn. Câu Tiễn lại sai Văn Chủng sang tạ ơn. Phù Sai hỏi: - Bao giờ thì vợ chồng vua Việt theo ta sang Ngô? Văn Chủng nói: - Chúa công tôi đội ơn Đại vương xá cho, định trở về đô thành mà thu xếp những ngọc bạch tử nữ để đem sang cống, xin Đại vương hãy tạm khoan kỳ hạn cho, nếu Chúa công tôi thất tín thì tài nào tránh khỏi tay Đại vương. Phù Sai thuận cho, liền ước định đến trung tuần tháng năm thì vợ chồng vua Việt phải sang Ngô. Lại sai Vương tôn Hùng theo Văn Chủng sang Việt để giục phải mau khởi trình, còn quan Thái tể là Bá Hi thì đóng một vạn quân ở Ngô Sơn để chờ vua Việt, nếu vua Việt sai hẹn không sang thì sẽ đem quân diệt nước Việt. Phù Sai kéo đại binh trở về nước Ngô! Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 80 Phù Sai mắc mưu tha vua Việt Câu Tiễn hết sức thờ nước Ngô Bấm để xem Quan Đại phu nước Việt là Văn Chủng được vua Ngô (Phù Sai) cho hòa, về tâu với vua Việt (Câu Tiễn) rằng: - Vua Ngô đã rút quân về, sai quan Đại phu là Vương tôn Hùng theo tôi đến đây để giục khởi trình; còn quan Thái tể là Bá Hi thì đóng quân ở Ngô Sơn để đợi Chúa công sang cống. Câu Tiễn nghe nói, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Văn Chủng nói: - Kỳ hạn đã gần đến nơi, Chúa công nên mau mau trở về đô thành để thu xếp việc nước, chứ thương khóc mà làm gì! Câu Tiễn gạt nước mắt trở về đô thành, trông thấy cửa nhà như cũ mà nhân dân chết nhiều, có ý hổ thẹn. Mời Vương tôn Hùng nghỉ ở nhà quán xá, rồi thu xếp vàng ngọc đóng thành mấy xe; lại chọn những mỹ nữ trong nước được 330 người, định 300 người đem nộp Phù Sai, còn 30 người đem nộp Bá Hi. Bấy giờ Câu Tiễn chưa khởi hành, Vương tôn Hùng giục giã luôn mãi. Câu Tiễn khóc mà bảo các quan triều thần rằng: - Ta nối nghiệp các tiền nhân, vẫn một lòng kính sợ, không dám lười biếng, nay vì một trận thua mà đến nỗi này, phải đem thân đi làm thằng tù ở nước khác. Thôi thì chuyến đi này chắc không có ngày trở lại. Các quan triều thần đều ứa nước mắt mà khóc. Văn Chủng tâu với Câu Tiễn rằng: - Ngày xưa vua Thang bị giam ở Hạ Đài, vua Văn Vương bị giam ở Dữu Lý, mà sau nên được nghiệp vương; Tề Hoàn Công phải chạy sang nước Cử, Tấn Vấn công phải chạy sang nước Địch, mà sau nên được nghiệp bá. Xem thế thì biết cái cảnh khổ sở, chính là trời mở đường cho vương bá đó. Chúa công cứ vững lòng mà theo ý trời, sẽ có ngày hưng thịnh được, can chi mà quá nghĩ, để đến nỗi tổn hại mất chí mình. Ngày hôm ấy Câu Tiễn làm lễ tế nhà tôn miếu, Vương tôn Hùng đi trước một ngày, còn Câu Tiễn và phu nhân đi sau. Các quan triều thần tiễn đến bến sông Tích Giang. Phạm Lãi sắp thuyền ở Cố Lăng và bày một tiệc rượu tiễn. Văn Chủng dâng chén rượu mà chúc cho Câu Tiễn được tốt lành. Câu Tiễn thở dài, rồi ứa nước mắt khóc, chẳng nói câu gì cả. Phạm Lãi nói: - Các bậc thánh hiền đời xưa cũng thường gặp những cảnh khổ não, những điều sỉ nhục, không thể chịu được, có phải là chỉ một Chúa công bây giờ mà thôi đâu! Câu Tiễn nói: - Ngày xưa vua Nghiêu dùng hiền thần là Thuấn, Vũ mà thiên hạ được trị bình, dẫu có thủy tai cũng không hại lắm. Nay ta bỏ Việt sang Ngô, giao nước nhà cho các quan đại phu, các quan đại phu nghĩ sao cho khỏi phụ lòng ta trông cậy! Phạm Lãi bảo các quan triều thần rằng: - Tôi thiết tưởng vua phải lo thì bề tôi nhục, vua phải nhục thì bề tôi nên chết. Nay Chúa công ta phải lo về nỗi bỏ nước, phải nhục vì nỗi sang Ngô, bọn ta đây há lại không có một, hai kẻ hào kiệt vì Chúa công chia buồn hay sao? Các quan đại phu đồng thanh mà đáp rằng: -Ai không phải là tôi con, tùy ý Chúa công sai khiến. Câu Tiễn nói: - Các quan đại phu còn có lòng thương ta thì xin cứ tự nói chí mình để xem ai có thể theo đi, ai có thể ở nhà mà giữ nước. Văn Chủng nói: - Ở nhà mà xem xét công việc trong nước thì Phạm Lãi không bằng tôi, nhưng đi theo Chúa công mà lâm cơ ứng biến thì tôi không bằng Phạm Lãi. Phạm Lãi nói: - Văn Chủng xét mình đã rõ lắm, Chúa công nên đem việc nước mà giao cho, còn như việc nhẫn nhục mà theo Chúa công để nghĩ cách báo thù thì tôi không dám từ chối. Phạm Lãi nói xong thì các quan đại phu thứ tự nói theo. Quan Thái tể là Khổ Thành nói: - Tuyên bá mệnh lệnh để tỏ đức chính của nhà vua và quyết đoán những việc khó khăn, khiến cho dân biết yên phận, đó là việc của tôi! Quan Hành nhân là Duệ Dung nói: - Đi sứ các nước chư hầu, ứng đối không đến nỗi chịu nhục, đó là việc của tôi! Quan Tư trực là Hạt Tiến nói: - Vua có điều gì trái lẽ, xin hết sức can ngăn, dẫu kẻ thân thích cũng không vị nể, đó là việc của tôi! Quan Tư mã là Chư Kế Dĩnh nói: - Bày trận đánh giặc, dẫu tên đạn bời bời mà không chịu lui, vẫn một lòng cố tiến, đó là việc của tôi! Quan Tư nông là Cao Như nói: - Dốc lòng khuyên bảo dân cố chăm chỉ làm ăn, nghĩ cách hà tiện, đó là việc của tôi! Quan Thái sử là Kế Nghê nói: - Xem xét thiên văn địa lý để dò biết những sự cát hung, đó là việc của tôi! Câu Tiễn nói: - Ta dẫu phải sang làm thằng tù ở nước Ngô, nhưng đã có các quan đại phu dốc lòng cố sức mà giữ gìn nước nhà, thế thì ta còn lo gì nữa! Câu Tiễn cho các quan triều thần ở lại, còn mình thì cùng với Phạm Lãi đi sang Ngô. Vua tôi tiễn biệt nhau đều ràn rụa nước mắt. Câu Tiễn ngửa mặt lên trời mà than rằng: - Sự chết ai là người không sợ, nhưng ta đây nghe thấy sự chết mà trong bụng không kinh sợ một chút nào! Nói xong, xuống thuyền đi ngay. Mọi người đi đưa đều khóc tất cả, rồi sụp lạy ở bên bờ sông. Câu Tiễn cũng không ngoảnh lại. Câu Tiễn phu nhân vịn mạn thuyền mà khóc, trông thấy đàn ô thước đang nhặt tôm ở ven sông, bay đi lượn lại, có ý thỏa thích, liền cảm mà làm bài hát rằng: "Đàn chim (hề) cao bay Vẫy vùng (hề) đường mây! Thân thiếp (hề) vô tội Trách trời (hề) độc thay! Hây hẩy (hề) gió may Trở về (hề) bao ngày! Lòng đau (hề) như cắt Nước mắt (hề) vơi đầy!" Câu Tiễn nghe thấy phu nhân ta thán như vậy, kể sao xiết nỗi buồn rầu, nhưng muốn cho phu nhân được nguôi lòng, cũng gượng cười mà nói rằng: - Lông cánh của ta đã đủ rồi, tất cũng có ngày cao bay, chứ lo gì điều ấy! Câu Tiễn đã đi đến địa giới nước Ngô, sai Phạm Lãi vào yết kiến quan Thái tể nước Ngô là Bá Hi ở Ngô Sơn, và dâng các đồ kim bạch tử nữ. Bá Hi hỏi: - Văn Chủng ở đâu, sao không thấy đến? Phạm Lãi nói: - Văn Chủng còn phải giữ nước cho Chúa công tôi, vậy nên không đến được. Bá Hi theo Phạm Lãi đến yết kiến Câu Tiễn. Câu Tiễn cảm tạ cái ơn cứu giúp cho. Bá Hi nhận với Câu Tiễn: Thế nào cũng lập mưu cho được trở về nước Việt. Câu Tiễn cũng hơi yên lòng. Bá Hi đem quân giải Câu Tiễn về Ngô, đưa vào nộp Phù Sai. Câu Tiễn trần vai áo sụp lạy ở dưới thềm. Câu Tiễn phu nhân cũng theo vào, Phạm Lãi đem cái đơn kê khai các đồ kim bạch tử nữ để trình Phù Sai. Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà kêu rằng: - Tôi là Câu Tiễn nước Việt, vì không biết sức mình, để đến nỗi đắc tội với Đại vương; nay Đại vương xá tội cho, cho được sang đây hầu hạ, nếu Đại vương lại thương tình mà tha tội chết thì thật lấy làm cảm ơn vô cùng! Phù Sai nói: - Nếu ta nghĩ đến cái thù Tiên vương ngày xưa thì không thế nào tha nhà ngươi được! Câu Tiễn lại lạy mà kêu rằng: - Tội tôi thật đáng chết, Đại vương thương lại cho! Bấy giờ Ngũ Viên đứng bên cạnh, mắt quắc ra lửa, tiếng vang như sấm mà nói với Phù Sai rằng: - Con chim bay ở trên mây xanh, ta còn muốn giương cung ra bắn, huống chi nay lại đậu ở trước sân! Câu Tiễn là người nham hiểm, bây giờ như con cá trong hũ, sống chết ở tay kẻ bào nhân, vậy nên nịnh hót van lạy để cầu khỏi chết, một mai đắc chí, khác nào như con hổ về núi, cá kình ra bể, còn trị làm sao! Phù Sai nói: - Ta nghe: Kẻ đã hàng phục mà mình còn giết thì họa đến ba đời. Ta cũng chẳng yêu gì vua Việt mà không giết, nhưng sợ trái với đạo trời! Bá Hi nói: - Quan Tướng quốc chỉ nghĩ cái lợi một lúc, mà không hiểu cái lợi yên nước về sau. Đại vương nói thế, thật là một bậc nhân giả. Ngũ Viên thấy Phù Sai tin lời xu nịnh của Bá Hi, không theo lời can, căm tức mà lui ra. Phù Sai nhận các đồ lễ vật của Câu Tiễn, rồi sai Vương tôn Hùng làm một cái nhà Thạch Thất ở bên cạnh mộ Hạp Lư, giam vợ chồng Câu Tiễn ở đấy, lột mũ áo đi mà cho mặc quần áo xấu, bắt giữ việc chăn ngựa. Bá Hi vẫn đem đồ thực phẩm giấu cho, không đến nỗi chết đói. Mỗi khi Phù Sai đi chơi, lại bắt Câu Tiễn giữ ngựa, đi đất ở trước xe. Người nước Ngô đều trỏ mà bảo nhau rằng: - Đấy là vua nước Việt! Câu Tiễn cứ cúi gầm mặt xuống. Câu Tiễn ở Thạch Thất đã được hai năm. Phạm Lãi sớm tối hầu hạ, không rời ra một bước nào. Một hôm Phù Sai triệu Câu Tiễn vào yết kiến. Câu Tiễn sụp lạy ở trước, Phạm Lãi đứng ở phía sau. Phù Sai bảo Phạm Lãi rằng: - Ta nghe nói: Người tiết phụ không gả chồng ở nhà phá vong, người danh hiền không làm quan ở nước tiệt diệt. Nay Câu Tiễn vô đạo, nước đã sắp diệt, vua tôi phải giam đày ở nơi Thạch Thất, chẳng cũng đê nhục lắm ru! Ta muốn tha tội cho nhà ngươi. Nếu nhà ngươi biết đổi lỗi bỏ Việt theo Ngô thì ta sẽ trọng dụng. Tránh ưu hoạn mà được phú quí, nhà ngươi nghĩ thế nào? Bấy giờ Câu Tiễn phục ở dưới đất mà khóc, chỉ sợ Phạm Lãi theo Ngô mất. Phạm Lãi sụp lạy mà tâu với Phù Sai rằng: - Kẻ đã mất nước, không dám nói hay; tướng đã thua trận, không dám nói mạnh. Tôi là kẻ bất trung bất tín ở nước Việt, không biết giúp Chúa công tôi làm điều thiện, để đến nỗi đắc tội với Đại vương. May mà Đại vương không giết, cho vua tôi được gần nhau, để ra vào hầu hạ Đại vương. Thế thì tôi đã được mãn nguyện rồi, có đâu còn dám mong phú quí! Phù Sai nói: - Nhà ngươi đã không chịu đổi ý thì lại cứ về Thạch Thất. Phạm Lãi nói: - Xin vâng mệnh! Phù Sai đứng dậy, trở vào trong cung. Câu Tiễn và Phạm Lãi trở về Thạch Thất. Câu Tiễn ăn mặc tồi tàn, cắt cỏ nuôi ngựa. Câu Tiễn phu nhân cũng lôi thôi rách rưới, đi gánh nước để quét dọn phân ngựa. Còn Phạm Lãi thì kiếm củi để nấu cơm, mặt mũi gầy gò. Phù Sai sai người dò thám, thấy vua tôi nước Việt cùng nhau làm lụng không ra ý oán giận, mà suốt đêm suốt ngày, cũng không thấy buồn rầu chút nào, mới cho là đồ vô chí, chẳng nghĩ đến làm chi. Một hôm, Phù Sai lên Cô Tô Đài, trông thấy vợ chồng Câu Tiễn ngồi ở cạnh đống phân ngựa, Phạm Lãi cầm chổi đứng hầu một bên, mới ngoảnh lại bảo Bá Hi rằng: - Câu Tiễn chẳng qua là vua một nước nhỏ, Phạm Lãi chẳng qua là kẻ học trò, thế mà trong khi hoạn nạn, vẫn còn giữ được lễ vua tôi, ta rất có lòng kính lắm! Bá Hi nói: - Chẳng những đáng kính, thực cũng đáng thương! Phù Sai nói: - Cứ như lời quan Thái tể nói, ta đây nghĩ cũng thương tình, nếu hắn biết đổi lỗi thì phỏng có nên tha không? Bá Hi nói: - Đại vương mở lượng hải hà mà thương kẻ cùng khốn, gia ân cho Việt, chắc là Việt cũng biết đền ơn. Xin Đại vương phải quyết đoán. Phù Sai nói: - Ta sẽ sai quan Thái sử chọn ngày tốt để tha cho vua Việt về nước. Bá Hi mật sai người đến Thạch Thất báo tin cho Câu Tiễn biết. Câu Tiễn mừng lắm, bảo với Phạm Lãi. Phạm Lãi nói: - Để tôi xin bói một quẻ, xem lành dữ thế nào. Phạm Lãi bói, rồi nói với Câu Tiễn rằng: - Dẫu có tin như vậy, cũng chưa nên lấy gì làm mừng. Câu Tiễn nghe nói, lại có ý buồn. Ngũ Viên nghe tin Phù Sai sắp tha Câu Tiễn, vội vàng vào yết kiến Phù Sai mà tâu rằng: - Ngày xưa vua Kiệt giam vua Thang mà không giết, vua Trụ giam vua Văn Vương mà không giết, đến lúc đạo trời quay lại, chuyển họa thành phúc thì vua Kiệt bị vua Thang đuổi, nhà Thương bị nhà Chu diệt. Nay Đại vương giam Câu Tiễn mà không giết, tôi e rằng lại sắp có họa như nhà Hạ và nhà Thương. Phù Sai nghe lời nói của Ngũ Viên, lại có ý muốn giết Câu Tiễn, sai người triệu Câu Tiễn vào. Bá Hi lại báo trước cho Câu Tiễn biết. Câu Tiễn kinh sợ, lại bảo Phạm Lãi. Phạm Lãi nói: - Chúa công đừng sợ! Vua Ngô giam Chúa công đã ba năm nay; trong ba năm còn không nỡ, huống chi là bây giờ! Chúa công cứ đi, không ngại! Câu Tiễn nói: - Ta chịu ẩn nhẫn bấy lâu nay mà không đến nỗi chết, đều là nhờ cái mưu kế của quan Đại phu. Câu Tiễn vào thành yết kiến Phù Sai. Chầu chực trong ba ngày mà Phù Sai chưa ra thị triều. Bá Hi ở trong cung ra, phụng mệnh Phù Sai truyền cho Câu Tiễn lại về Thạch Thất. Câu Tiễn lấy làm lạ, liền hỏi. Bá Hi nói: - Đại vương nghe lời nói của Ngũ Viên, định đem giết đi, vậy nên triệu đến. May gặp Đại vương bệnh cảm hàn, không thể dậy được. Tôi vào thăm bệnh, nhân tâu với đại vương rằng: "Nếu muốn trừ họa nên phải làm phúc, nay vua Việt chầu chực ở đây, chỉ đợi ngày đem giết, tấm lòng ta oán, cảm động đến trời. Đại vương nên tạm tha cho về Thạch Thất, đợi khi khỏi bệnh, rồi sẽ định liệu". Đại vương nghe lời tôi mà tha cho nhà vua về Thạch Thất đó! Câu Tiễn cảm ơn vô cùng. Câu Tiễn ở Thạch Thất lại được ba tháng nữa, nghe tin Phù Sai vẫn chưa khỏi bệnh, mới bảo Phạm Lãi bói một quẻ. Phạm Lãi bói xong, bảo Câu Tiễn rằng: - Phù Sai không chết, ngày kỷ tị thì bớt, đến ngày nhâm thân thì khỏi hẳn. Bây giờ Đại vương cố xin vào thăm, khi được vào thăm, cố tình nếm phân, rồi lạy mừng mà nói kỳ bệnh khỏi. Đến kỳ khỏi thật thì tất nhiên cảm ơn mà tha cho Chúa công. Câu Tiễn ứa nước mắt mà khóc rằng: - Ta đây dẫu chẳng ra gì cũng là một ông vua, không lẽ lại chịu nhục mà nếm phân cho người ta hay sao! Phạm Lãi nói: - Ngày xưa vua Trụ giam vua Văn vương ở Dữu Lý, giết con vua Văn Vương là Bá Ấp Khảo, rồi làm mắm mà đem cho vua Văn Vương, thế mà vua Văn Vương cũng chịu nhục mà ăn thịt con. Ta muốn thành đại sự thì cần gì những điều nhỏ mọn. Vua Ngô tính nết đàn bà mà không có lòng quả quyết, đã toan tha ta, rồi lại đổi ý. Ta không thế thì sao cho vua Ngô chịu rủ lòng thương. Câu Tiễn tức khắc đến nói với Bá Hi rằng: - Tôi nghe nói Đại vương bị bệnh, trong lòng tôi thất vọng, ăn ngủ không yên, xin theo Ngài vào thăm để tỏ tình thần tử. Bá Hi nói: - Nhà vua đã có lòng tốt, để tôi xin chuyển tấu. Bá Hi vào yết kiến Phù Sai, bày tỏ cái tình Câu Tiễn nhớ mến, xin vào thăm bệnh. Phù Sai đang khi buồn bực, nghĩ thương tình Câu Tiễn mà cho vào. Bá Hi đưa Câu Tiễn vào thăm Phù Sai. Phù Sai trừng mắt nhìn mà bảo rằng: - Câu Tiễn cũng vào thăm ta đó à? Câu Tiễn sụp lạy mà tâu rằng: - Tù nhân tôi nghe nói long thể bất hòa, thật là nát gan héo ruột, chỉ mong trông thấy mặt rồng mà không biết làm thế nào! Câu Tiễn nói chưa dứt lời thì Phù Sai đầy bụng muốn đi ngoài, mới lấy tay xua bảo Câu Tiễn ra. Câu Tiễn nói: - Khi tôi ở Đông hải, có học người y sư được một cách xem phân mà biết bệnh chóng hay là chậm. Câu Tiễn nói xong chắp tay đứng ở cửa sổ. Nội thị đưa cái thùng đến cạnh giường nằm, rồi vực Phù Sai dậy đi ngoài. Phù Sai đi ngoài xong rồi, nội thị đem cái thùng đưa ra ngoài cửa. Câu Tiễn mở nắp thùng ra, thò tay bốc phân, rồi quì xuống mà nếm. Mọi người xung quanh đều bịt mũi cả. Câu Tiễn vào sụp lạy Phù Sai mà tâu rằng: - Tù nhân tôi xin chúc mừng Đại vương, bệnh Đại vương đến ngày kỷ tị thì bớt, sang tháng ba về ngày nhâm thân thì khỏi hẳn. Phù Sai hỏi: - Tại sao mà biết? Câu Tiễn nói: - Tôi nghe người y sư có dạy phân là cốc vị, hễ thuận thời khí thì sống, trái thời khí thì chết. Nay tù nhân tôi nếm phân Đại vương, thấy vị đắng mà chua, chính hợp cái thời khí xuân hạ phát sinh, bởi thế mà biết. Phù Sai bằng lòng mà nói rằng: - Câu Tiễn tử tế quá thần tử đối với quân phụ, ta chưa thấy ai chịu nếm phân để mà đoán bệnh bao giờ! Bấy giờ Bá Hi đứng ở bên cạnh. Phù Sai hỏi rằng: - Quan Thái tể có nếm được không? Bá Hi lắc đầu nói: - Tôi thật rất yêu Đại vương, nhưng việc ấy thời tôi xin chịu. Phù Sai nói: - Chẳng những quan Thái tể, dẫu Thế tử của ta cũng không thể làm được! Phù Sai truyền tha Câu Tiễn, không bắt về Thạch Thất nữa, được tự tiện chỗ ở, đợi khi Phù Sai khỏi bệnh sẽ cho về nước. Câu Tiễn lạy tạ rồi lui ra. Từ bấy giờ tìm một chỗ ở, nhưng vẫn giữ việc nuôi ngựa như trước. Sau Phù Sai khỏi bệnh, đúng như lời Câu Tiễn nói. Phù Sai cho Câu Tiễn là người trung với mình, khi đã khỏi bệnh, truyền bày tiệc ở trên Văn Đài, cho Câu Tiễn vào ngự yến. Câu Tiễn giả cách không biết, vẫn mặc áo tù mà đến. Phù Sai trông thấy, truyền cho tắm gội và ban cho mũ áo. Câu Tiễn hai ba lần từ tạ rồi mới dám nhận. Câu Tiễn thay mũ áo xong lại vào sụp lạy Phù Sai. Phù Sai vội vàng đỡ dậy và hạ lệnh rằng: - Vua Việt là người nhân đức, không nên làm nhục lâu, ta định tha tội, cho được về nước, nay nên tiếp đãi tử tế. Các quan đại phu đều vái nhường Câu Tiễn, mời ngồi, rồi ngồi cả ở bên cạnh. Ngũ Viên thấy Phù Sai quên hẳn thù xưa, trong lòng căn tức, không chịu vào ngồi, liền quay trở ra. Bá Hi nói: - Đại vương ta là người nhân giả lại xá lỗi cho người nhân giả. Tôi nghe nói "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" ngày nay ai là nhân thì ngồi lại, ai là bất nhân thì bỏ đi. Quan Tướng quốc là người cương dũng, vậy nên thẹn không dám ngồi chứ sao! Phù Sai cười mà nói rằng: - Quan Thái tể nói phải lắm! Khi rượu được ba tuần, Phạm Lãi và Câu Tiễn đều đứng dậy dâng chén rượu chúc thọ cho Phù Sai. Phù Sai bằng lòng lắm, ngày hôm ấy uống rượu thật say, rồi sai Vương tôn Hùng đưa Câu Tiễn ra nhà quán xá, đợi trong ba ngày nữa, sẽ đưa về nước. Sáng hôm sau Ngũ Viên vào tâu với Phù Sai rằng: - Hôm qua Đại vương lấy khách lễ mà đãi kẻ thù là nghĩa thế nào? Câu Tiễn trong bụng như hổ lang, mà mặt ngoài giả cách cung kính. Đại vương nghe lời nói xu nịnh, chẳng nghĩ gì đến tai vạ mai sau. Bỏ lời trung trực mà nghe kẻ dèm pha, nghĩ điều nhân nhỏ mà nuôi kẻ thù lớn, khác nào như buông nắm lông ở trên lò than mà mong khỏi cháy, ném quả trứng ở dưới cân nặng mà muốn được toàn, có lẽ nào thế! Phù Sai không bằng lòng mà nói rằng: - Ta ốm trong ba tháng, quan Tướng quốc chẳng thấy hỏi thăm được một câu, thế là quan Tướng quốc bất trung, chẳng thấy làm quà cho cái gì, thế là quan Tướng quốc bất nhân. Làm bề tôi mà bất nhân và bất trung thì còn dùng được gì nữa! Câu Tiễn bỏ nước mà sang đây, đem của cải đến dâng nộp, đem thân làm tôi tớ, đó là điều trung; khi ta có bệnh, chịu nếm phân ta mà không có lòng oán giận, đó là điều nhân. Nếu ta theo ý riêng của quan Tướng quốc, mà giết kẻ thiện sĩ ấy thì trời nào tựa ta nữa. Ngũ Viên nói: - Sao Đại vương nghĩ lầm như vậy! Con hổ mà thu hình lại thì tất là chực vồ, con ly rụt cổ lại thì tất là định cắn. Vua Việt vào làm tôi Ngô, dẫu trong lòng oán giận, Đại vương cũng không biết được. Bây giờ mà cúi xuống nếm đống phân của Đại vương, chắc đâu không có một ngày kia ngẩng lên mà ăn bộ lòng của Đại vương. Đại vương không xét mà mắc mưu lừa thì tất có ngày bị hại. Phù Sai nói: - Quan Tướng quốc chớ nói nữa, ý ta đã quyết định rồi! Ngũ Viên biết không thể can được, mới uất ức mà lui ra. Đến ngày thứ ba, Phù Sai lại bày tiệc rượu ở ngoài cửa Sà Môn để tiễn Câu Tiễn. Các quan triều thần đều dâng chén rượu tiễn chân, chỉ có Ngũ Viên không đến dự tiệc. Phù Sai bảo Câu Tiễn rằng: - Ta tha cho nhà vua về nước, nhà vua nên nhớ ơn ta, chớ đem lòng thù oán. Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng: - Đại vương thương tôi là kẻ cố cùng, cho được sống mà về nước, tôi xin đời đời không dám quên ơn. Trời cao thăm thẳm soi xét lòng tôi, nếu tôi phụ Ngô thì trời nào có tựa. Phù Sai nói: - Người quân tử chớ có sai lời! Câu Tiễn sụp lạy, nước mắt đầm đìa, làm ra bộ quyến luyến. Phù Sai thân hành vực Câu Tiễn lên xe. Phạm Lãi cầm cương xe. Câu Tiễn phu nhân cũng lạy tạ ơn, rồi cùng lên xe đi về phía nam. Bấy giờ là năm thứ 26 đời Chu Kính Vương, Câu Tiễn về đến bến sông Tích Giang, trông thấy phong cảnh khác xưa, thở dài mà than rằng: - Ta vẫn tưởng phải từ biệt dân nhà, bỏ thân cõi khác, ngờ đâu nay lại được về nước để mà giữ lấy việc cúng tế. Câu Tiễn ngoảnh lại nhìn phu nhân mà khóc. Các người xung quanh trông thấy cảm động, cũng đều khóc cả. Văn Chủng đem các quan triều thần và dân trong thành ra đón ở bến sông Tích Giang, reo hò mừng rỡ. Câu Tiễn sai Phạm Lãi bói xem ngày nào tốt để tiến vào đô thành, Phạm Lãi bấm đốt ngón tay, rồi nói với Câu Tiễn rằng: - Ngày mai rất tốt, Chúa công nên đi mau cho kịp. Câu Tiễn tức khắc giục ngựa tiến vào đô thành. Câu Tiễn lấy trận thua ở Cối Kê làm sỉ nhục, mới đắp thành ở Cối Kê, rồi thiên đô ra đấy để ghi nhớ thù xưa. Giao hết quyền chính cho Phạm Lãi. Phạm Lãi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới, bao bọc núi Cối Kê ở trong; phía tây bắc lập Phi Dục Lâu ở Ngọa Tang Sơn để làm thiên môn; phía đông nam lập Lâu Thạch Đậu để làm địa bộ. Còn mặt tây bắc thì để không, giả cách nói phao là đã thần phục nước Ngô, không dám lấp đường cống hiến, nhưng kỳ thực là để tiện đường tiến đánh mai sau. Khi thành đã đắp xong, bỗng thấy trong thành mọc ra một quả núi, chu vi mấy dặm, như hình con qui, cây cỏ rậm rạp. Có người trông quả núi ấy, nhận được là núi Đông Vũ Sơn ở xứ Lang Gia, không biết cớ sao lại bay đến đây được. Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng: - Tôi đắp cái thành này ứng với thiên tượng, vậy nên có quả núi ấy hiện lên, đó là cái điềm nước Việt ta nên được nghiệp bá chủ. Câu Tiễn mừng lắm, mới đặt tên cái núi ấy là Quái Sơn, cũng gọi là Phi Lai Sơn, cũng gọi là Qui Sơn. Câu Tiễn từ khi thiên đô sang ở đấy, bảo Phạm Lãi rằng: - Ta thật thất đức, để đến nỗi nước nhà suy đốn, đem thân đi làm nô lệ, nếu không có quan Tướng quốc và các quan đại phu giúp vào thì sao được thế này! Phạm Lãi nói: - Đó là nhờ cái phúc của Chúa công, chứ chúng tôi có công gì. Nhưng xin Chúa công chớ lúc nào quên cái nhục ở Thạch Thất thì mới có cơ báo thù được nước Ngô. Câu Tiễn nói: - Xin vâng lời dạy bảo! Bấy giờ giao quốc chính cho Văn Chủng, giao quân chính cho Phạm Lãi. Tôn hiền, lễ sĩ, kính lão, tuất bần, trăm họ đều bằng lòng lắm. Câu Tiễn từ khi nếm phân, thành ra bệnh hôi miệng. Phạm Lãi biết có một thứ rau ở quả núi về phía bắc thành ấy, tên gọi là rau Chấp, ăn được, nhưng hơi có mùi hôi, mới sai người đi hái rau Chấp đem về, để cả triều cùng ăn, cho lẫn mùi hôi. Sau người ta gọi tên quả núi ấy là Chấp Sơn. Câu Tiễn gấp muốn báo thù, mới cố sức chăm chỉ suốt ngày suốt đêm. Khi nào buồn ngủ thì lại lấy cỏ lục mà đánh vào mắt. Chân lạnh muốn rụt lại thì giấp nước vào. Mùa đông thường ngồi gần nước băng, mùa hạ thường ngồi gần đống lửa. Xếp củi mà nằm lên trên, chớ không dùng giường nệm. Lại treo quả mật ở cạnh chỗ ngồi, thỉnh thoảng nếm một ít. Đêm nào cũng sùi sụt mà khóc, khóc chán lại thở dài; hai chữ "Cối Kê" lúc nào cũng nói luôn miệng. Câu Tiễn thấy sau khi suy bại, dân số giảm kém mới cấm con trai không được lấy vợ già, ông già không lấy vợ trẻ. Con gái 17 tuổi không gả chồng, con trai 20 tuổi không lấy vợ thì bắt tội cha mẹ. Đàn bà có chửa sắp đẻ, đều phải trình quan, để quan cho thầy thuốc đến coi sóc, sinh con trai thì thưởng cho hồ rượu và con chó, sinh con gái thì thưởng cho hồ rượu và con lợn; ai sinh ba con thì quan nuôi hộ hai; ai sinh hai con thì quan nuôi hộ một, hễ có ai chết thì Câu Tiễn thân hành đi đưa đám và thương khóc. Câu Tiễn mỗi khi đi đâu, cũng đem cơm và đồ ăn để ở trong xe hễ gặp trẻ con thì cho ăn và hỏi tên họ. Đến mùa làm ruộng Câu Tiễn cũng vác cày đi cày. Câu Tiễn phu nhân cũng chăm việc dệt cửi, cùng dân chia sự lao khổ. Trong bảy năm không thu thuế của dân, ăn mặc rất là tiết kiệm. Thế mà chẳng tháng nào không sai sứ sang cống hiến nước Ngô. Lại sai người vào núi hái dây cát dệt làm vải nhỏ, định đem dâng Phù Sai, nhưng chưa kịp dâng. Phù Sai khen cái bụng trung thành của Câu Tiễn, sai người phong thêm đất cho, phía đông đến Câu Dụng, phía tây đến Huề Lý, phía nam đến Cô Miệt, phía bắc đến Bình Nguyên, cả thảy hơn 800 dặm, Câu Tiễn sai người đem cát bố mười vạn tấm, cam mật 100 vò, hồ cừu năm đôi, tấn trúc mười thuyền sang dâng Phù Sai để tạ cái ơn phong đất cho. Phù Sai bằng lòng, lại sai người đem vũ mao cho Câu Tiễn. Ngũ Viên nghe nói, liền cáo ốm không vào triều. Phù Sai thấy Câu Tiễn một lòng thần phục, mới tin lời nói của Bá Hi. Một hôm hỏi Bá Hi rằng: - Ngày nay trong nước thái bình, ta muốn mở thêm cung thất để lấy chỗ vui chơi, nên làm tại chỗ nào? Bá Hi nói: - Ở gần đô thành ta, đài cao cảnh đẹp, còn đâu bằng Cô Tô, nhưng đời vua trước lập ra chưa thành một nơi cụ lãm, Đại vương nên sửa lại cái đài ấy, khiến cho cao có thể trông thấy 100 dặm, rộng có thể dung được 1000 người, rồi họp những ca đồng vũ nữ ở trên đài ấy, thế thì thật là một sự khoái lạc nhất trong trần đời. Phù Sai khen phải, liền treo giải, cầu thứ gỗ lớn. Văn Chủng nghe tin, vào nói với Câu Tiễn rằng: - Tôi nghe nói: Con chim bay ở trên mây cao, chỉ chết vì miếng ăn tốt; con cá lặn ở dưới vực sâu, chỉ chết về cái mồi thơm. Nay Chúa công muốn báo thù nước Ngô thì phải tìm xem Ngô sở thích cái gì, mới có thể trị nổi. Câu Tiễn nói: - Dẫu tìm được sở thích, nhưng làm thế nào mà trị nổi? Văn Chủng nói: - Tôi có nghĩ cách phá Ngô, cả thảy được bảy kế. 1. Chịu tốn của cải để làm cho vua tôi nước Ngô bằng lòng. 2. Lấy giá đắt mua thóc và cỏ, để làm cho nước Ngô phải không hư. 3. Đem mỹ nữ sang dâng để làm cho phải mê hoặc. 4. Đem thợ khéo, gỗ tốt sang dâng, để cho hắn làm cung thất tốn hại tiền của. 5. Dùng kẻ mưu thần để làm cho nước loạn. 6. Hại kẻ gián thần, để làm cho thế cô. 7. Tích của, luyện quân, để đợi dịp hắn suy yếu. Câu Tiễn nói: - Quan Tướng quốc nói phải lắm, nhưng nên dùng kế nào trước? Văn Chủng nói: - Nay vua Ngô đang sửa lại Cô Tô Đài, ta nên tìm gỗ lớn đem dâng. Câu Tiễn liền sai hơn 3000 mộc công vào rừng tìm gỗ, tìm hơn một năm mà chưa được cây nào hơn cả. Các mộc công đều có lòng oán giận, đêm ngày cùng ta thán với nhau. Một hôm đang đêm, tự nhiên trời sinh hai cây thần mộc, to hai mươi vi, dài năm mươi tầm. Một cây ở phía nam núi, gọi là cây tử, một cây ở phía bắc núi, gọi là cây nam. Mộc công kinh sợ, lấy làm mắt chưa trông thấy bao giờ, vội vàng về báo với Câu Tiễn. Các quan triều đình đều chúc mừng Câu Tiễn rằng: - Lòng thành của Chúa công cảm động đến trời, vậy nên trời sinh thần mộc để giúp Chúa công. Câu Tiễn mừng lắm, thân hành đến làm lễ tế, rồi mới sai đẵn, đem bào nhẵn đi và dùng thuốc xanh đỏ vẽ hình rồng rắn, bảo Văn Chủng đưa sang dâng Phù Sai. Phù Sai thấy cây gỗ to đẹp lạ thường, xiết bao mừng rỡ. Ngũ Viên can rằng: - Ngày xưa vua Kiệt làm Linh Đài, vua Trụ làm Lộc Đài khổ dân hao của đến nỗi mất nước. Câu Tiễn muốn hại ta, vậy nên đem dâng cây gỗ này. Phù Sai nói: - Câu Tiễn được cây gỗ quí này, không để mà dùng, lại đem dâng ta, thế là có lòng tử tế, sao ta lại từ chối. Nói xong, truyền đem hai cây gỗ ấy để sửa đài Cô Tô. Trong năm năm mới làm xong, cao 300 trượng, rộng 84 trượng. Trèo lên trên đài trông suốt 200 dặm. Nguyên trước đã có con đường chín khúc đi thẳng lên núi, bây giờ làm rộng thêm ra. Trăm họ ngày đêm phục dịch, lao lực mà chết rất nhiều. Câu Tiễn nghe tin, bảo Văn Chủng rằng: - Quan Tướng quốc nói: Đem thợ khéo gỗ tốt sang dâng, để cho hắn làm cung thất, tốn hại tiền của. Kế ấy đã thi hành rồi, nay trên đài cao, tất phải tuyển ca nhi vũ nữ, nếu ta không tìm được kẻ tuyệt sắc thì sao làm cho hắn mê hoặc được! Quan Tướng quốc bàn mưu giúp ta. Văn Chủng nói: - Việc gì cũng bởi trời cả. Trời đã sinh thần mộc thì lo gì không có mỹ nữ. Nhưng nếu ta sục tìm thì e rằng dân tình náo động. Tôi nghĩ được một kế, có thể xem hết con gái trong nước, tùy ý Chúa công kén chọn. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 81 Tây Thi làm mê hoặc vua Ngô Tử Cống đi du thuyết trong nước Bấm để xem Vua Việt là Câu Tiễn đang muốn tìm mỹ nữ trong nước để dâng vua Ngô là Phù Sai. Văn Chủng hiến kế rằng: - Xin Chúa công phái 100 người nội thị đi lẫn với bọn thầy tướng, giả cách đi xem tướng khắp trong nước, thấy người mỹ nữ thì biên lấy tên và chỗ ở. Dùng cách ấy mà chọn thì lo gì không có. Câu Tiễn theo kế ấy. Mới trong nửa năm, mà đã tuyển được hơn 2000 mỹ nữ. Câu Tiễn sai chọn lại, được hai người đẹp nhất, truyền vẽ tranh để định đem dâng Phù Sai. Hai người ấy là ai? 1. Nàng Tây Thi. 2. Nàng Trịnh Đán. Nàng Tây Thi là con một người kiếm củi ở Trữ La Sơn. Trữ La Sơn có hai thôn: Đông thôn và Tây thôn, mà phần nhiều là họ Thi. Người con gái này ở về Tây thôn, vậy nên gọi là Tây Thi. Trịnh Đán cũng ở Tây thôn, láng giềng với Tây Thi. Nhà lại gần sông, ngày nào hai người cũng cùng nhau ra đập sợi ở bên sông, má hồng nước biếc, hai bóng lộn nhau, trông như hai cánh phù dung vậy. Câu Tiễn sai Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến đón về, trang sức đồ tơ lụa, cho ngồi vào trong xe có màn phủ. Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài cõi để đón, đường xá chật ních những người. Phạm Lãi để nàng Tây Thi và nàng Trịnh Đán ở nhà quán xá rồi truyền dụ rằng: - Ai muốn xem mặt mỹ nữ, phải nộp một đồng tiền. Chỉ trong một lúc mà tiền bỏ đầy quĩ. Hai người mỹ nữ trèo lên lầu, đứng tựa vào bao lan, ở dưới trông lên khác nào như thiên tiên mới giáng hạ. Hai người mỹ nữ lưu tại ngoài cõi trong ba ngày, mà tiền thu không biết bao nhiêu mà kể. Tiền ấy đem nộp vào kho để dùng việc nước. Câu Tiễn cho hai người mỹ nữ ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một người lão nhạc sư vào dạy múa hát. Khi nào thành nghề sẽ đem sang tiến Phù Sai. Bấy giờ là năm thứ 31 đời Chu Kính Vương. Câu Tiễn lên làm vua mới được bảy năm. Trước năm ấy một năm thì Tề Cảnh công (Chử Cữu) mất, con nhỏ là Trà lên ngôi. Năm ấy Sở Chiêu Vương (Chẩn) mất, Thế tử Chương lên nối ngôi. Bấy giờ Sở đang nhiều việc mà Tấn lại suy lắm, Tề thì Án Anh chết mất, Lỗ thì Khổng Tử bỏ đi, nước nào cũng đều yếu thế cả, chỉ có nước Ngô là cường thịnh nhất cả thiên hạ. Phù Sai cậy về binh lực, định xâm chiếm các nước ở Sơn Đông, chư hầu đều lấy làm lo sợ. Nói chuyện Tề Cảnh công phu nhân có con trai mà chết non mất, còn các Công tử thứ xuất cả thảy sáu người. Trong sáu người ấy thì Công tử Dương Sinh nhiều tuổi hơn cả, Công tử Trà hãy còn nhỏ. Mẹ Công tử Trà là Dục Tự, dẫu hèn nhưng được Tề Cảnh công yêu. Vì thế mà Tề Cảnh công lại yêu Công tử Trà lắm, vẫn gọi là An Nhụ Tử. Tề Cảnh công làm vua được 57 năm, đã hơn 70 tuổi, mà không chịu lập thế tử, có ý đợi cho An Nhụ Tử lớn để mà lập lên, chẳng ngờ bị ốm nặng, mới dặn thế thần là Quốc Hạ (con Quốc Trọng) và Cao Trương (con Chu Yển) để giúp Công tử Trà lên làm vua. Quan Đại phu là Trần Khất (cháu Trần Vô Vũ) vốn chơi thân với Công tử Dương Sinh, e Công tử Dương Sinh bị hại, mới khuyên bảo nên đi trốn. Công tử Dương Sinh cùng với con là Nhâm và gia thần là Hám Chỉ, cùng trốn sang nước Lỗ. Tề Cảnh công sai họ Quốc và họ Cao đuổi các Công tử sang ở Lai Ấp. Khi Tề Cảnh công đã mất rồi, An Nhụ Tử lên nối ngôi. Quốc Hạ và Cao Trương cùng giữ quyền chính. Trần Khất mặt ngoài bằng lòng, nhưng trong bụng thì ghét lắm. Trong khi đông mặt các quan đại phu, Trần Khất nói dối là họ Cao và họ Quốc lập mưu muốn bỏ hết cựu thần mà dùng đảng An Nhu Tử. Các quan đại phu tin là thật, đều đến hỏi kế Trần Khất. Trần Khất liền cùng Bão Mục (cháu Bão Quốc) thủ xướng đem người nhà các quan đại phu đến đánh họ Cao và họ Quốc. Giết Cao Trương, còn Quốc Hạ bỏ trốn sang nước Cử. Bấy giờ Bão Mục làm hữu tướng, Trần Khất làm tả tướng, lập Quốc Thư và Cao Vô Bình để giữ việc cúng tế họ Cao và họ Quốc. Năm bấy giờ An Nhụ Tử hãy còn ít tuổi, chưa biết gì cả. Trần Khất định bụng muốn lập Công tử Dương Sinh, mới mật sai người sang nước Lỗ triệu về. Công tử Dương Sinh đang đêm về đến nước Tề, để Hám Chỉ và con là Nhâm ở ngoài cõi, rồi một mình lẻn vào thành, nấp ở trong nhà Trần Khất. Trần Khất nói dối là nhà có giỗ, mời các quan đại phu đến để uống rượu. Các quan đại phu đều đến cả. Bão Mục uống rượu ở nơi khác, sau cùng mới đến. Trần Khất đợi cho mọi người ngồi yên cả, liền đứng dậy mà bảo rằng: - Tôi mới có đồ binh giáp, xin đem ra để các Ngài xem. Mọi người đều nói: - Xin Ngài cứ cho xem. Bỗng thấy một người lực sĩ mang cái túi lớn ở trong nhà ra, để ở giữa sân. Trần Khất thò tay mở túi, có một người ở trong túi thò đầu ra, tức là Công tử Dương Sinh. Mọi người đều kinh sợ. Trần Khất vực Công tử ra, để đứng ngoảnh mặt về phía nam, rồi bảo các quan đại phu rằng: - Cứ theo phép thường thì nên lập trưởng tử, nay An Nhụ Tử ít tuổi quá, không dám làm vua, ta phụng mệnh quan Tướng quốc họ Bão, đổi lập trưởng Công tử (chỉ Dương Sinh). Bão Mục trừng mắt mà cãi rằng: - Ta nói thế bao giờ! Sao lại vu cho ta, bảo ta là say hay sao! Công tử Dương Sinh chắp tay vái Bão Mục mà nói rằng: - Việc thay cũ đổi mới, nước nào không có, hễ hợp nghĩa là hơn. Quan đại phu nên xét xem có hợp nghĩa hay không? Còn có nói hay không, cần gì phải cãi! Trần Khất không đợi nói đến hết câu, cố ép Bão Mục phải sụp lạy. Các quan đại phu bất đắc dĩ cũng đều cùng sụp lạy cả. Trần Khất và các quan đại phu đều uống máu ăn thề, rồi sắp xa giá rước Công tử Dương Sinh vào triều lên ngôi vua, tức là Tề Điệu công. Ngày hôm ấy, đem An Nhụ Tử ra ngoài cửa cung mà giết đi. Tề Điệu công nghi Bão Mục không thuận lập mình, mới hỏi Trần Khất. Trần Khất cũng ghét Bão Mục chức vị ở trên mình, mới nói dèm với Tề Điệu công rằng: - Bão Mục vẫn giao kết với các Công tử. Nếu không giết Bão Mục thì trong nước không yên được. Tề Điệu công lại giết Bão Mục, rồi lập con Bão Mục là Bão Tức để giữ việc cúng tế Bão Thúc Nha. Trần Khất một mình làm tướng quốc. Người nước Tề thấy Tề Điệu công giết hại kẻ vô tội, đều có lòng oán. Tề Điệu công có em gái gả cho vua nước Trâu tên là Ích. Ích kiêu ngạo vô lễ, thường bất hòa với Lỗ. Quan Thượng khanh nước Lỗ là Quý tôn Tư nói với Lỗ Ai công đem quân đánh Trâu, bắt vua Trâu (Ích) giam ở đất Phụ Hà. Tề Điệu công giận lắm, nói: - Nước Lỗ bắt vua Trâu, tức khinh nước Tề ta! Tề Điệu công liền sai sứ sang mượn quân Ngô, ước cùng đánh Lỗ. Phù Sai nói: - Ta vẫn muốn dùng quân sang đánh các nước ở Sơn Đông, nay đã có cớ rồi! Phù Sai thuận cho nước Tề mượn quân. Lỗ Ai công kinh sợ, tức khắc tha cho vua Châu (Ích) về nước, rồi sai sứ sang xin lỗi với nước Tề. Tề Điệu công sai quan Đại phu là Mạnh Công Sước sang nói lại với vua Ngô rằng: - Nước Lỗ đã phục tội rồi, không dám phiền đến quân nước Ngô nữa. Phù Sai nổi giận, nói: - Nước Ngô ta có phải là thuộc quốc của Tề đâu mà quân ta đánh hay không đánh nhất mực phải vâng mệnh nước Tề. Âu là ta thân hành đem quân đến nước Tề, để hỏi cái tội làm sao mỗi lúc nói một khác. Nói xong đuổi Mạnh Công Sước ra. Nước Lỗ nghe tin vua Ngô giận Tề, liền sai sứ đem lễ vật sang dâng vua Ngô, lại ước với vua Ngô cùng đánh nước Tề. Phù Sai vui lòng mà thuận ngay, tức khắc cất quân cùng với nước Lỗ đánh Tề, vây Nam Bỉ của nước Tề. Người nước Tề ai ai cũng kinh hoảng, đều thầm oán Tề Điệu công tự nhiên sinh sự. Bấy giờ Trần Khất đã chết rồi, con là Trần Hằng giữ quyền chính, nhân dịp người trong nước không thuận, bảo Bão Tức rằng: - Sao nhà ngươi không làm đại sự. Ngoài thì gỡ cho quân Ngô khỏi giận, mà trong thì báo được cái thù cho gia tiên. Bão Tức chối từ là không làm nổi. Trần Hằng nói: - Ta xin làm giúp cho nhà ngươi! Trần Hằng nhân khi Tề Điệu công đi luyện quân, dâng rượu độc cho Tề Điệu công, rồi sai người nói với quân Ngô rằng: - Chúa công tôi đắc tội, đã bị bệnh mà chết, thế là trời đã thay Đại vương mà trị tội Chúa công tôi rồi. Đại vương rủ lòng thương mà chớ hủy phá xã tắc nước tôi, nước tôi xin một lòng thuần phục thượng quốc. Phù Sai liền rút quân về. Quân nước Lỗ cũng kéo về nước. Người nước Tề đều biết Tề Điệu công bị hại, nhưng có lòng sợ và yêu họ Trần, vậy nên không ai dám nói đến. Trần Hằng lập con Tề Điệu công là Nhâm lên nối ngôi, tức là Tề Giản Công. Tề Giản công muốn chia quyền của họ Trần, mới cho Trần Hằng làm hữu tướng, Hám Chỉ làm tả tướng. Bấy giờ vua Việt là Câu Tiễn luyện tập mỹ nữ học múa hát trong ba năm, đã được tinh xảo. Cho ngồi trong xe bảo xa, ngoài phủ rèm châu, kéo đi dong các phố, mùi hương thơm ngào ngạt; lại có bọn thị nữ đi theo hầu. Câu Tiễn sai quan Tướng quốc là Phạm Lãi đem tiến Phù Sai. Khi Phù Sai ở nước Tề về Ngô, Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy mà tâu rằng: - Đông Hải tiện thần là Câu Tiễn cảm ơn Đại vương, không thể đem thê thiếp đến hầu hạ ở bên cạnh được, vậy có tìm khắp trong nước, được hai người khéo nghề múa hát, sai chúng tôi đem nộp vương cung, để giữ việc quét rửa. Phù Sai trông thấy, cho là thần tiên mới giáng hạ, hồn phách mê mẩn. Ngũ Viên can rằng: - Tôi nghe nói nhà Hạ mất vì nàng Muội Hỉ, nhà Ân mất vì nàng Đắc Kỷ, nhà Chu mất vì nàng Bao Tự. Xem thế thì biết mỹ nữ là một vật làm cho mất nước, Chúa công chớ nên dùng. Phù Sai nói: - Người ta ai chẳng có lòng hiếu sắc, Câu Tiễn tìm được mỹ nữ mà chịu đem tiến ta, ấy là cái tang chứng một lòng trung thành với ta đó. Quan Tướng quốc chớ nghi. Phù Sai nhận mỹ nữ. Hai người mỹ nữ đều là tuyệt sắc, Phù Sai yêu cả hai. Nhưng đẹp lộng lẫy và khéo xu nịnh thì Tây Thi lại có phần hơn, bởi vậy Tây Thi được ở Cô Tô Đài với Phù Sai. Đi đâu thì những đồ nghi vệ chẳng khác gì phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô Cung, ghen với Tây Thi, uất ức không nói ra được, hơn một năm thì chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở Hoàng Mao Sơn và lập đền thờ cúng. Phù Sai rất yêu Tây Thi, sai Vương tôn Hùng lập ra Quán Khuê Cung ở Linh Nham Sơn, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp Lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở dưới rất nhiều chum, bên trên lát ván, rồi để cho Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, vây nên gọi là Hưởng Điệp. Trên núi có Ngoạn Hoa Trì, Ngoạn Nguyệt Trì. Lại có giếng gọi là Ngô Vương Tỉnh, nước giếng trong suốt, Tây Thi thường đứng trên giếng mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là Tây Thi Động, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, người ta vẫn gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có cầm đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở trên núi. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Một giải nước ở phía nam Linh Nham Sơn, tức là chỗ Tây Thi hái hoa đó. Lại có Thái Liên Hình ở phía đông nam chốn đô thành, là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen đó. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm Hình. Phía nam chốn đô thành có Trường Châu Uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi cá, Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam loan ở Tây Động Đình; cái loan ấy độ hơn mười dặm, ba mặt đều núi, chỉ có mặt nam trông như cửa quan. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể ở qua mùa hè được, mới đặt tên là Tiên Hạ Loan. Phù Sai từ khi được Tây Thi, cứ ở luôn trên Cô Tô Đài, bốn mùa vui chơi, rượu chè đàn địch, chẳng thiết đến việc gì cả. Chỉ có quan Thái tể là Bá Hi và Vương tôn Hùng thường hay chầu ở bên cạnh. Mỗi khi Ngũ Viên xin vào yết kiến, Phù Sai vẫn từ chối không cho vào. Vua Việt là Câu Tiễn nghe tin Phù Sai say mê Tây Thi, ngày nào cũng ham sự vui chơi, mới lại bàn mưu với Văn Chủng. Văn Chủng nói: - Tôi nghe nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Năm nay lúa má hỏng cả, thóc gạo kém lắm. Đại vương nên xin với vua Ngô, để vay thóc về mà chu cấp cho dân. Nếu trời không tựa Ngô thì xui khiến vua Ngô cho ta vay thóc. Câu Tiễn liền sai Văn Chủng đem nhiều lễ vật đút cho Bá Hi, để Bá Hi đưa vào yết kiến Phù Sai. Phù Sai cho Văn Chủng vào yết kiến ở Cô Tô Đài. Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng: - Nước Việt tôi năm nay mất mùa, nhân dân cơ khốn, xin Đại vương phát cho vay một vạn thạch thóc ở kho Thái Sương, để cứu cho khỏi đói. Sang năm lúa chín, lại xin đem nộp. Phù Sai nói: - Vua Việt thần phục nước Ngô ta. Dân Việt đói khác nào như dân Ngô ta đói, ta có tiếc gì thóc kho mà không đem cứu cho. Ngũ Viên nghe tin sứ nước Việt đến, cũng theo đến Cô Tô Đài, vào yết kiến Phù Sai. Đến khi nghe thấy Phù Sai cho vay thóc, lại can rằng: - Không nên! Sự thế ngày nay, phi Ngô lấy Việt, tức Việt lấy Ngô. Tôi xem ý vua Việt sai sứ đến vay thóc, không phải là thực vì dân đói mà vay, thực định làm cho nước Ngô ta hết thóc. Ta cho vay cũng chẳng thêm tình thân ái, mà không cho vay cũng chưa đến nỗi cừu thù, chi bằng Đại vương từ chối đi là hơn. Phù Sai nói: - Khi Câu Tiễn bị giam ở nước ta, phải đi giật lùi mà dắt ngựa cho ta, chư hầu ai cũng biết cả. Nay ta tha cho về, cảm cái ơn tái sinh, vẫn một lòng trung thành mà cống hiến, khi nào lại còn dám phản nghịch mà lo! Ngũ Viên nói: - Tôi nghe vua Việt ngày đêm chăm chỉ, luyện tập quân sĩ để định báo thù nước Ngô. Nay Đại vương lại đem thóc cho vay, tôi e rằng có một ngày kia giống hươu nai chạy chơi ở trên Cô Tô Đài mà thôi. Phù Sai nói: - Câu Tiễn đã nguyện xin làm bề tôi ta, có lẽ nào bề tôi mà dám đánh vua hay sao! Ngũ Viên nói: - Vua Thang đánh vua Kiệt, vua Vũ Vương đánh vua Trụ, không phải bề tôi đánh vua là gì. Bá Hi đứng bên cạnh, quát lên mà mắng rằng: - Quan Tướng quốc nói quá, Đại vương ta sao lại ví với Kiệt, Trụ được! Bá Hi lại tâu với Phù Sai rằng: - Ngày xưa Tề Hoàn công hội chư hầu ở Qui Khâu, có ước các nước phải cho nhau vay thóc, là để giữ lấy nghĩa giao lân. Huống chi Việt là một nước cống hiến ta xưa nay, sang năm lúa chín thì Việt lại đem đủ số thóc sang nộp. Thế thì chẳng thiệt gì cho Ngô, mà lại được ơn với Việt, việc gì mà Đại vương không làm! Phù Sai cho nước Việt vay một vạn thạch thóc và bảo Văn Chủng rằng: - Ta trái ý các quan triều thần mà cho Việt vay thóc, sang năm được mùa, phải đem nộp đủ, chớ có thất tín. Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng: - Đại vương thương nước Việt tôi mà cho vay, khi nào nước Việt tôi dám thất tín. Văn Chủng lĩnh một vạn thạch thóc đem về nước Việt. Câu Tiễn mừng lắm. Các quan triều thần đều hô vạn tuế. Câu Tiễn truyền đem thóc ấy phát cho những dân nghèo trong nước. Trăm họ đều ca tụng công đức. Năm sau, nước Việt được mùa to, Câu Tiễn hỏi Văn Chủng rằng: - Ta không trả thóc nước Ngô thì là bất tín, nếu trả thì hại Việt mà lợi cho Ngô, biết làm thế nào? Văn Chủng nói: - Ta nên chọn những thóc tốt, luộc đi rồi đem trả. Kẻ kia thấy thóc tốt tất nhiên đem trồng, ấy là trúng cái kế của ta đó! Câu Tiễn theo kế ấy, đem thóc chín trả nước Ngô, không thiếu một đấu nào. Phù Sai khen rằng: - Câu Tiễn thật là người thành tín! Phù Sai lại trông thấy hột thóc to lớn lạ thường, bảo Bá Hi rằng: - Đất nước Việt tốt lắm, vậy nên hột thóc cũng tốt, ta nên phân phát cho dân để gieo lấy giống. Năm ấy khắp nước Ngô đều gieo thóc nước Việt, chẳng mọc cây nào cả. Dân Ngô bị đói to. Phù Sai vẫn cho là thổ nghi không giống nhau, chứ không biết là thóc Việt đã luộc chín rồi. Câu Tiễn nghe nói nước Ngô bị đói, toan đem quân đánh Ngô. Văn Chủng can rằng: - Chưa nên đánh vội, vì nước Ngô còn có kẻ trung thần. Câu Tiễn lại hỏi Phạm Lãi. Phạm Lãi nói: - Cũng chẳng bao lâu nữa, xin Đại vương luyện tập quân sĩ để đợi thời. Câu Tiễn nói: - Quân sĩ nước ta, còn phải luyện tập nữa ru? Phạm Lãi nói: - Việc chiến tranh cần phải có quân tinh nhuệ, quân tinh nhuệ lại cần phải có nghề tài giỏi, như kiếm kích và cung nỏ. Mà các nghề ấy nếu không được minh sư dạy bảo thì không sao tài giỏi được. Tôi biết có người xử nữ ở Nam Lâm, giỏi nghề kiếm kích lắm; lại có người nước Sở tên gọi Trần Âm, giỏi nghề cung nỏ, xin Đại vương cho đón về. Câu Tiễn sai sứ đem lễ vật đi mời xử nữ và Trần Âm. Người xử nữ ấy không biết tên họ là gì, nguyên vẫn ở trong rừng, chẳng học ai cả mà giỏi nghề kiếm kích. Sứ giả phụng mệnh Câu Tiễn đến Nam Lâm mời xử nữ, xử nữ bằng lòng đi ngay. Đi đến nửa đường gặp một ông cụ đầu bạc, đứng ở trước xe mà hỏi rằng: - Nàng có phải là Xử nữ ở Nam Lâm đó không? Kiếm thuật của nàng thế nào mà nàng dám nhận lời mời của Việt. Âu là ta hãy thử nhau một phen. Xử nữ nói: - Xin tùy ý Tôn ông. Ông lão ấy liền bẻ bụi trúc ở trong rừng như dứt nắm cỏ khô, toan đâm xử nữ. Ngọn trúc rơi xuống đất. Xử nữ bắt ngay lấy ngọn trúc ấy, rồi đâm lại ông lão. Bỗng thấy ông lão nhảy lên trên cây, hóa làm con vượn trắng, rồi kêu rống một tiếng mà đi mất. Sứ giả lấy làm lạ. Xử nữ vào yết kiến Câu Tiễn. Câu Tiễn mời ngồi, rồi hỏi nghề kiếm kích. Xử nữ nói: - Nghề kiếm kích, trong phải giữ vững tinh thần, ngoài làm ra mặt an dật. Trông như đàn bà vậy mà thật dữ như con hổ, nhanh như con thỏ, khiến người ta không kịp chớp mắt. Ai theo được cái đạo ấy thì một người địch nổi trăm người, trăm người địch nổi vạn người. Nếu Đại vương không tin, xin cho thử xem. Câu Tiễn sai một trăm dũng sĩ dùng kích xúm lại mà đâm xử nữ. Xử nữ giơ tay bắt luôn các ngọn kích mà ném xuống đất. Câu Tiễn phục là tài giỏi, mới giao cho luyện tập quân sĩ. Có 3000 quân sĩ theo được lời dạy. Hơn một năm, xử nữ cáo từ xin về Nam lâm. Lần sau Câu Tiễn sai người đến nơi thì đã không thấy đâu cả. Có người cho là trời tựa nước Việt, vậy sai thần nữ đem kiếm thuật xuống giúp. Lại nói chuyện Trần Âm nguyên là người nước Sở, vì tội giết người, phải trốn sang nước Việt, Phạm Lãi thấy là người bắn giỏi lắm, chẳng sai phát nào, liền nói với Câu Tiễn đón làm xạ sư. Câu Tiễn hỏi Trần Âm rằng: - Chẳng hay cung nỏ từ đâu mà sinh ra? Trần Âm nói: - Nỏ sinh ra bởi cung, cung sinh ra bởi đàn, đàn sinh ra bởi một người hiếu tử đời xưa. Nguyên đời xưa nhân thuần thục, đói thì ăn thịt giống vật, khát thì tìm uống nước mưa, người chết thì lấy cỏ bọc lại, đem ném ra giữa đồng. Sau có người hiếu tử không nỡ để cho giống cầm thú ăn thịt cha mẹ mình, mới chế ra đàn để giữ. Đến đời Thần Nông Hoàng đế chế ra cung tên để dẹp bốn phương. Bấy giờ có Hồ Phủ Sinh ở Kinh Sơn nước Sở, cha mẹ chết sớm cả, từ lúc còn bé, vẫn tập nghề cung tên, bắn đâu trúng đấy, sau đem nghề bắn cung truyền cho Hậu Nghệ, Hậu Nghệ truyền cho Bàng Mông, Bàng Mông truyền cho Cầm Thị. Sau vì chư hầu đánh nhau, cung tên không thể trị nổi, mới chế ra thứ nỏ. Cầm Thị truyền cho Sở Tam Hầu, từ bấy giờ nước Sở cứ dùng tên nỏ để đối địch với các nước. Tiền nhân tôi ngày xưa học nghề nỏ ở nước Sở, đã năm đời nay. Nỏ bắn vào đâu thì chim không kịp bay, thú không kịp chạy, xin Đại vương cho thử xem. Câu Tiễn cũng giao cho Trần Âm luyện tập ba ngàn quân sĩ, dạy nghề bắn nỏ. Trần Âm dạy phép "liên nỗ" bắn luôn được ba mũi tên, không ai tránh kịp. Trong ba tháng thì quân sĩ học hết phép. Trần Âm bị bệnh mà chết. Câu Tiễn làm lễ hậu táng ở đấy, mới đặt tên cái núi ấy, gọi là Trần Âm Sơn. Ngũ Viên nghe tin Câu Tiễn luyện tập quân sĩ, mới vào yết kiến Phù Sai, khóc mà tâu rằng: - Đại vương cứ tin nước Việt là một lòng thần phục. Nay Việt dùng Phạm Lãi, ngày đêm luyện tập quân sĩ, các nghề kiếm kích cung nỏ đều tài giỏi cả. Một mai nhân chuyện gì mà sang đánh nước ta thì nước ta nguy lắm. Nếu Đại vương không tin, sao không sai người dò thăm xem. Phù Sai sai người dò thám nước Việt, biết hết những việc xử nữ và Trần Âm, về báo với Phù Sai. Phù Sai bảo Bá Hi rằng: - Việt đã thần phục ta rồi, sao lại còn luyện tập quân sĩ làm gì nữa! Bá Hi nói: - Nước Việt đội ơn Đại vương phong đất cho, nếu không có quân sĩ thì lấy gì mà giữ. Vả việc luyện tập quân sĩ để giữ nước là việc thường, can chi mà Đại vương nghi ngại. Phù Sai cũng không thể đành lòng được, mới có ý muốn cất quân đánh Việt. Lại nói chuyện họ Trần nước Tề, đã mấy đời cư xử được lòng dân lắm, vẫn có ý muốn mưu phản, nhưng sợ đảng họ Cao và Quốc còn nhiều, mới nghĩ cách để trừ đi. Trần Hằng tâu với Tề Giản công rằng: - Nước Lỗ là nước láng giềng ta mà theo Ngô đánh ta, thì cái thù ấy không thể quên được. Tề Giản công nghe lời, Trần Hằng tiến dẫn Quốc Thư làm đại tướng. Cao Vô Bình và Tôn Lâu làm phó tướng, bọn các quan đại phu là Công tôn Hạ, Công tôn Huy và Lư Khâu Minh đều đem quân theo. Trần Hằng đi tiễn, đóng quân ở trên sông Vấn Thủy, quyết chí diệt Lỗ rồi mới rút về. Bấy giờ ông Khổng Tử đang ở Lỗ, san thuật kinh Thi và kinh Thư. Một hôm, có người học trò là Cầm Lao ở Tề sang Lỗ, vào yết kiến ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử hỏi thăm việc nước Tề, mới biết là quan Tề đã đóng ở ngoài cõi, kinh sợ mà nói rằng: - Lỗ là nước cha mẹ của ta, nay có hoạn nạn ta tất phải cứu. Ông Khổng Tử nhân hỏi học trò rằng: - Có ai dám vì ta sang sứ Tề, để ngăn quân Tề đừng sang đánh Lỗ? Tử Trương (họ Chuyên Tôn tên là Sử) và Tử Thạch (tức là Công tôn Long, người nước Vệ) đều xin đi. Ông Khổng Tử không cho. Tử Cống (tên là Tứ, họ là Đoan Mộc) đứng dậy mà hỏi rằng: - Như Tứ này có thể đi được không? Ông Khổng Tử nói: - Được! Tử Cống tức khắc đi đến Vấn Thủy, xin vào yết kiến Trần Hằng. Trần Hằng biết Tử Cống là học trò giỏi của ông Khổng Tử, đến đây tất là có ý muốn du thuyết, mới lập nghiêm nét mặt để đợi khi Tử Cống vào. Tử Cống cứ thản nhiên mà vào, hình như không trông thấy ai cả. Trần Hằng mời ngồi mà hỏi rằng: - Tiên sinh đến đây muốn vì nước Lỗ mà làm thuyết khách đó chăng? Tử Cống nói: - Tôi đến đây là vì Tề, chớ không phải vì Lỗ. Nước Lỗ là một nước khó đánh, sao quan Tướng quốc lại đánh? Trần Hằng nói: - Nước Lỗ thế nào lại bảo là khó đánh? Tử Cống nói: - Nước Lỗ, thành mỏng mà thấp, hào hẹp mà nông, vua yếu, quan đại thần vô tài, quân sĩ không luyện tập, vậy nên bảo là khó đánh. Cứ như quan Tướng quốc bây giờ thì không gì bằng đánh Ngô. Nước Ngô thành cao mà hào rộng, binh giáp tinh lợi, có nhiều tướng giỏi, thế mà dễ đánh đó! Trần Hằng sầm nét mặt mà nói rằng: - Khó và dễ, tiên sinh nói điên đảo khác thường như vậy, tôi thật không hiểu. Tử Cống nói: - Quan Tướng quốc cho đuổi hết người chung quanh đi, tôi xin phân giải. Trần Hằng liền đuổi hết người chung quanh đi, rồi ngồi gần lại mà hỏi Tử Cống. Tử Cống nói: - Tôi nghe nói: Lo ở mặt ngoài thì nên đánh nước yếu, lo ở mặt trong thì nên đánh nước mạnh. Tôi thiết nghĩ cái tình thế quan Tướng quốc ngày nay, không có thể cùng với các đại thần cộng sự được. Nay các đại thần có công phá nước Lỗ mà quan Tướng quốc không có công gì, tôi e các đại thần mỗi ngày một to thế thì quan Tướng quốc nguy lắm. Nếu quan Tướng quốc quay sang đánh Ngô thì các đại thần khổ về giặc mạnh, quyền chính trong nước chỉ một tay Tướng quốc mà thôi, còn gì hơn nữa! Trần Hằng tươi nét mặt lại mà bảo rằng: - Lời nói của Tiên sinh, thật hiểu thấu ruột gan tôi lắm; nhưng nay tôi đã dóng quân ở đây, nếu quay sang đánh Ngô thì tất người ta sinh nghi, biết làm thế nào? Tử Cống nói: - Quan Tướng quốc cứ đóng quân mà không đánh vội, tôi xin sang nói vua Ngô đánh Tề để cứu Lỗ, bấy giờ quan Tướng quốc đánh Ngô, thì thật là có cớ. Trần Hằng bằng lòng, mới bảo Quốc Thư rằng: - Ta nghe nói Ngô sắp đánh Tề, ta đóng quân ở đây chớ nên khinh động, để sai người dò thám xem nước Ngô thế nào. Nếu quả như vậy thì ta đánh Ngô trước, rồi sẽ đánh Lỗ. Quốc Thư vâng lời. Trần Hằng trở về kinh thành nước Tề. Tử Cống tức khắc đi gấp sang Ngô, vào tâu với vua Ngô là Phù Sai rằng: - Khi trước Ngô và Lỗ hợp quân đánh Tề, nước Tề vẫn căm thù lắm; nay quân Tề đã đóng ở Vấn Thủy, sắp sang đánh Lỗ, rồi cùng sẽ đánh đến Ngô, sao Đại vương không đánh Tề để cứu Lỗ. Đại vương phá vỡ được nước Tề mà thu phục được nước Lỗ thì uy danh lừng lẫy, hơn cả nước Tấn, chắc là nước Ngô lên được nghiệp bá chủ. Phù Sai nói: - Khi trước nước Tề đã tình nguyện xin thần phục nước Ngô, vì thế mà ta mới rút quân về, nay chẳng thấy triều cống chi cả, ta vẫn định đem quân sang hỏi tội một phen, nhưng nghe nói vua Việt luyện tập quân sĩ, có ý rình ta, vậy ta muốn đánh Việt trước, rồi sau sẽ đánh Tề, cũng chưa lấy gì làm muộn. Tử Cống nói: - Không nên! Việt yếu mà Tề mạnh. Cái lợi đánh Việt nhỏ mà cái hại thả Tề thì to. Vả chăng sợ nước Việt yếu mà tránh nước Tề mạnh thì sao gọi là trí. Trí và dũng đều mất cả thì tranh thế nào được nghiệp bá chủ. Nếu Đại vương có ngại nước Việt thì tôi xin sang bảo vua Việt đem quân theo hầu Đại vương đi đánh Tề, Đại vương nghĩ thế nào? Phù Sai bằng lòng mà nói rằng: - Nếu như thế thì chính hợp ý ta! Tử Cống cáo từ Phù Sai rồi sang yết kiến vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn nghe nói Tử Cống sắp đến, thân hành ra đón ở ngoài 30 dặm, mời vào nhà quán xá, tiếp đãi rất hậu trọng, rồi khúm núm mà nói rằng: - Nước tôi ở hẻo lánh về xứ Đông Hải này, chẳng hay Tiên sinh đến đây có việc gì làm vậy? Tử Cống nói: - Tôi đến đây để viếng Đại vương! Câu Tiễn sụp lạy mà nói rằng: - Tôi nghe nói có họa thì tức có phúc, Tiên sinh đến đây viếng tôi, tức là phúc cho tôi đó. Xin Tiên sinh ngỏ lời cho biết. Tử Cống nói: - Mới rồi, tôi vào yết kiến vua Ngô, bảo vua Ngô đánh Tề để cứu Lỗ. Vua Ngô nghi nước Việt có ý mưu phản, vậy muốn đánh Việt trước. Nếu Đại vương không có chí báo thù mà khiến cho người ta nghi, thế là vụng lắm; có chí báo thù mà khiến cho người ta biết, thế là nguy lắm. Câu Tiễn ngạc nhiên, quì xuống mà nói rằng: - Xin Tiên sinh nghĩ mưu cứu cho. Tử Cống nói: - Vua Ngô kiêu ngạo mà ưa nịnh, Bá Hi chuyên quyền mà khéo dèm, nay Đại vương dùng đồ lễ hậu và lời nói ngọt, rồi xin đem một toán quân theo Ngô đánh Tề. Kẻ kia đánh mà thua thì từ đó phải suy yếu đi; nếu đánh mà được thì tất sinh lòng kiêu ngạo, muốn làm bá chủ chư hầu, chắc phải đem quân đánh Tấn. Như thế thì nước Việt mới có dịp mà thừa thế sang đánh Ngô được. Câu Tiễn sụp lạy hai lạy mà nói rằng: - Tiên sinh đến đây, thật là trời giúp cho tôi! Khác nào như tôi đã chết mà được sống lại. Tôi xin vâng lời Tiên sinh. Câu Tiễn đem trăm nén hoàng kim, một thanh bảo kiếm và đôi ngựa lương mã đưa tặng Tử Cống. Tử Cống cố ý chối từ không nhận, trở về báo với vua Ngô rằng: - Vua Việt cảm cái ơn Đại vương sinh toàn cho, nghe nói Đại vương có bụng nghi, lấy làm sợ hãi lắm, nay mai sắp sai sứ đến tạ. Phù Sai mời Tử Cống ra nhà quán xá, ở lại trong năm ngày. Quả nhiên nước Việt sai Văn Chủng đến nước Ngô, tâu với Phù Sai rằng: - Đông Hải tiện thần là Câu Tiễn đội ơn Đại vương không giết, được toàn mà giữ việc cúng tế, dẫu chết cũng chưa đủ đền ơn. Nay nghe nói Đại vương vì nghĩa mà đánh kẻ mạnh cứu kẻ yếu, vậy có sai tôi là Văn Chủng đem hai chục chiếc tinh giáp, một cái mâu Khuất lư và một thanh kiếm Bộ quang của Tiền vương để lại, sang dâng Đại vương. Khi nào Đại vương cất quân thì Câu Tiễn xin đem ba ngàn quân đi theo để xông pha trong chốn mũi tên hòn đạn, dẫu chết cũng không từ chối. Phù Sai bằng lòng lắm, mới triệu Tử Cống mà bảo rằng: - Câu Tiễn thật là người tín nghĩa, định đem ba ngàn quân theo ta đánh Tề, Tiên sinh nghĩ thế nào? Tử Cống nói: - Không nên! Ta đã dùng quân Việt mà lại bắt vua Việt theo đi thì cũng quá lắm! Đại vương nên nhận cho quân theo mà từ chối không cho vua Việt đi. Phù Sai nghe lời. Tử Cống cáo từ nước Ngô, lại đi sang nước Tấn, vào nói với Tấn Định công rằng: - Tôi nghe nói: Hễ không lo xa thì tất có hại gần. Nay Ngô sắp sửa đánh Tề; Ngô đánh mà được Tề thì tất cùng Tấn tranh bá chủ, nhà vua nên luyện tập quân sĩ mà đợi sẵn. Tấn Định công nói: - Xin vâng lời dạy. Khi Tử Cống trở về nước Lỗ thì quân Tề đã bị quân Ngô đánh thua rồi. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 82 Ngũ Viên liều chết can vua Ngô Khoái Quý lập mưu về nước Vệ Bấm để xem Bấy giờ là năm thứ 36 đời Chu Kinh Vương, vua Việt là Câu Tiễn sai quan Đại phu là Chư Kê Dĩnh đem ba ngàn quân giúp Ngô đánh Tề. Vua Ngô là Phù Sai cử đại binh đi đánh Tề, sai người lập biệt quán ở đất Câu Khúc, chung quanh trồng cây thu ngô, gọi là Ngô cung. Cho Tây Thi ra nghỉ mát ở đấy, đợi khi thắng Tề rồi thì Phù Sai cũng sẽ nghỉ ở đấy cho qua mùa hạ. Khi quân sắp khởi hành, Ngũ Viên lại can rằng: - Nước Việt chính là cái bệnh tâm phúc của ta, còn nước Tề chẳng qua như là bệnh ghẻ lở ở bề ngoài mà thôi. Nay Đại vương đem mười vạn quân, đi nghìn dặm đường, để chữa cái bệnh ghẻ lở mà quên mất cái bệnh tâm phúc. Tôi e rằng chưa thắng được Tề mà phải khổ với Việt. Phù Sai nổi giận mà nói rằng: - Ta đã định ngày phát binh mà lão tặc dám đem lời quái gở để làm ngăn trở quân ta, nghĩ có đáng tội không! Phù Sai có ý muốn giết Ngũ Viên. Bá Hi mật tâu với Phù Sai rằng: - Ngũ Viên là một bậc lão thần đời trước, ta không nên giết, chi bằng Đại vương sai sang ước chiến với nước Tề, để cho người Tề giết đi. Phù Sai nói: - Quan Thái tể nói phải lắm! Phù Sai liền viết một bức thư kể tội nước Tề đánh Lỗ là khinh Ngô, sai Ngũ Viên đưa sang vua Tề, định làm cho vua Tề tức giận mà giết Ngũ Viên. Ngũ Viên biết là nước Ngô tất mất, mới đem người con là Ngũ Phong cùng đi, khi đến Lâm Tri (kinh thành nước Tề), Ngũ Viên đem bức thư của Phù Sai vào đưa cho Tề Giản công. Tề Giản công nổi giận toan giết Ngũ Viên. Bão Tức (con Bão Mục) can rằng: - Ngũ Viên là trung thần nước Ngô, đã nhiều lần can ngăn mà không hợp ý vua Ngô, nay vua Ngô sai sang đây là muốn cho ta giết, để khỏi mang tiếng là giết kẻ trung thần, chi bằng ta tha cho về, khiến đảng trung đảng nịnh công kích lẫn nhau, mà Phù Sai phải chịu tiếng ác. Tề Giản công tiếp đãi Ngũ Viên tử tế, rồi hẹn đến cuối mùa xuân thì khai chiến. Nguyên Ngũ Viên cùng với Bão Mục quen nhau, vậy nên Bão Tức can Tề Giản công không nên giết Ngũ Viên. Bão Tức hỏi riêng Ngũ Viên về việc nước Ngô, Ngũ Viên ứa nước mắt khóc, không nói gì cả, chỉ cho con là Ngũ Phong nhận làm em Bão Tức, rồi gửi ở đấy. Về sau gọi là Vương tôn Phong, không dùng họ Ngũ nữa. Bão Tức thở dài mà than rằng: - Ngũ Viên định về cố can mà chịu chết, vậy nên để con lại ở nước Tề! Lại nói chuyện vua Ngô là Phù Sai hẹn ngày cất quân, đi qua Cô Tô Đài, ăn cơm trưa ở đấy. Cơm xong, chợp ngủ đi, bỗng có một giấc chiêm bao; khi tỉnh dậy, trong lòng hoảng hốt, mới gọi Bá Hi vào mà bảo rằng: - Ta vừa chợp ngủ đi, chiêm bao thấy vào Chương Minh cung; khi vào đến nơi, thấy hai cái hũ đun chưa chín; lại có hai con chó đen, một con cắn về phía nam, một con cắn về phía bắc; lại có hai chiếc cương thu treo ở bên tường; lại thấy nước chảy mông mênh vào chốn điện đường; còn về hậu phòng thì nghe tiếng ầm ầm, chẳng ra chuông, chẳng ra trống; trông ra phía vườn trước, chẳng thấy cái gì khác cả, chỉ toàn một giống ngô đồng. Quan Thái tể thử đoán hộ ta xem tốt xấu thế nào? Bá Hi sụp lạy mà chúc mừng rằng: - Tốt thay! Cái mộng của Đại vương ứng vào việc đánh Tề này! Hai chữ "Chương minh" nghĩa là phá giặc thành công, tiếng tăm lừng lẫy; hai cái hũ đun mà chưa chín, nghĩa là khí thế Đại vương đang thịnh; hai con chó đen; một con cắn về phía nam, một cắn về phía bắc, nghĩa là các nước phải đến triều phục nước ta, hai chiếc cương thu treo ở bên tường, nghĩa là các dân nông phố chăm việc làm ruộng; nước chảy mông mênh, vào chốn điện đường, nghĩa là các nước đem đồ cống hiến đến nhiều, nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm, chẳng ra chuông, chẳng ra trống, nghĩa là cung nữ vui vẻ; trông ra phía vườn trước, toàn một giống ngô đồng, nghĩa là đem thứ gỗ cây ngô đồng ấy làm đàn cầm, đàn sắt thì tiếng kêu rất êm ái. Cái mộng của Đại vương tốt không biết dường nào mà kể! Phù Sai dẫu ưa lời nịnh, nhưng vẫn không đành lòng, lại bảo Vương tôn Lạc! Vương tôn Lạc nói: - Tôi dốt không biết đoán mộng. Ở núi Dương Sơn về phía tây thành có một người dị sĩ, tên gọi Công tôn Thánh. Người ấy học rộng lắm, nếu Đại vương trong bụng hồ nghi, sao không triệu đến mà bảo đoán xem. Phù Sai nói: - Nhà ngươi triệu đến đây cho ta. Vương tôn Lạc đi triệu Công tôn Thánh. Công tôn Thánh hỏi cớ, rồi phục xuống đất mà khóc. Người vợ đứng cạnh cười mà bảo rằng: - Phu quân dở hơi quá! Nghe thấy vua triệu mà lại khóc lóc như mưa. Công tôn Thánh thở dài mà than rằng: - Thương thay! Việc này nàng không biết được. Ta đã tính số ta đến ngày nay là hết. Bây giờ ta từ biệt cùng nàng, vậy nên ta thương. Vương tôn Lạc giục Công tôn Thánh lên xe, cùng đến Cô Tô Đài. Phù Sai triệu Công tôn Thánh vào, rồi nói chuyện chiêm bao cho nghe và bảo đoán. Công tôn Thánh nói: - Tôi biết nói thì tất chết, nhưng dẫu chết cũng cứ nói. Lạ thay! Cái mộng của Đại vương ứng vào việc đánh Tề này! Chữ "Chương" nghĩa là thua chạy vất vả, chữ "Minh" nghĩa là về nơi âm ty; hai cái hũ đun mà chưa chín, nghĩa là Đại vương thua chạy, không kịp nấu ăn; hai con chó đen: Một con cắn về phía nam, một con cắn về phía bắc, nghĩa là phải chạy về âm phương, vì âm thuộc về sắc đen; hai chiếc cương thu treo ở bên tường, nghĩa là quân Việt vào cày cuốc nền xã tắc nước Ngô; nước chảy mông mênh, vào chốn điện đường nghĩa là chốn điện đường bỏ không, nước trôi sóng vỗ; nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm, chẳng ra chuông, chẳng ra trống, nghĩa là các cung nữ bị bắt, thở vắn than dài; trông ra phía vườn trước, toàn là một giống ngô đồng, nghĩa là đem gỗ cây ngô đồng làm đồ minh khí, đợi khi tống táng. Xin Đại vương bãi binh đánh Tề đi, và sai quan Thái tể là Bá Hi sang tạ tội với Câu Tiễn thì nước mới yên, mà thân mới toàn được! Bá Hi đứng ở bên cạnh tâu với Phù Sai rằng: - Đứa thất phu ở nơi thảo dã, lại dám ăn nói càn dỡ, chẳng giết còn để làm gì! Công tôn Thánh trừng mắt mà mắng Bá Hi rằng: - Quan Thái tể quyền cao chức trọng, lộc nước cơm vua, mà chẳng hết lòng trung thành, lại cứ giữ lối xu nịnh. Ngày khác quân Việt diệt Ngô, quan Thái tể phỏng có còn giữ được đầu hay không? Phù Sai nổi giận nói: - Đứa thất phu không có kiến thức gì, chỉ một mực nói càn, không giết thì tất để làm gì. Nói xong, truyền cho lực sĩ đem cái dùi sắt để đánh Công tôn Thánh, Công tôn Thánh kêu to lên rằng: - Trời ơi! Trời có thấu cái tình oan này cho ta không? Trung mà bị tội! Thật là chết oan! Xin khi chết rồi, chớ có mai táng, đem quăng ta ở dưới núi Dương Sơn, sau này còn có ảnh hưởng để báo Đại vương! Phù Sai đánh chết Công tôn Thánh và quát to lên rằng: - Dưới núi Dương Sơn này.. Giống sài lang ăn thịt mày, lửa đốt xương mày, gió bay tro mày, hình tiêu ảnh diệt còn đâu ảnh hưởng để báo ta được! Bá Hi rót chén rượu dâng lên mà chúc rằng: - Mừng thay! Đại vương đã trừ được giống yêu quái! Xin dâng một chén rượu này, rồi sẽ phát binh. Trung quân thì Phù Sai và Bá Hi. Thượng quân thì Tư Môn Sào. Hạ quân thì Tào Cô. Cả thảy mười vạn quân và ba ngàn quân Việt, cùng kéo về phía Sơn Đông. Phù Sai sai sứ sang ước hội trước với Lỗ Ai công để hợp quân đánh Tề. Ngũ Viên đem lời hẹn của Tề Giản công báo với Phù Sai ở ngang đường, rồi cáo ốm xin về trước, không theo đi đánh. Lại nói chuyện tướng nước Tề là Quốc Thư đóng quân ở bên sông Vấn Thủy, nghe tin Ngô và Lỗ hợp quân đến đánh, liền họp các tướng lại để thương nghị. Bỗng nghe báo quan Tướng quốc là Trần Hằng sai em là Trần Nghịch đến. Quốc Thư và các tướng mời vào. Trần Nghịch nói quân Ngô đã kéo qua đất Doanh Bác, việc nguy cấp đến nơi! Quan Tướng quốc sợ các tướng không chịu cố sức, vậy sai tiểu tướng đến đây để đốc chiến. Cứ như việc ngày nay, có tiến không thoái, có chết không sống. Trong quân chỉ cho đánh trống, chứ cấm không cho đánh chiêng. Các tướng đều nói: - Chúng tôi xin liều chết để mà quyết chiến! Quốc Thư truyền lệnh đi đón đánh quân Ngô. Đi đến Ngải Lăng gặp toán thượng quân của tướng nước Ngô là Tư Môn Sào. Quốc Thư hỏi các tướng rằng: - Ai dám ra đối địch? Công tôn Huy hớn hở mà xin đi, rồi đem quân bản bộ ra nghênh chiến. Hai bên đánh nhau hơn 30 hợp chưa phân được thua. Quốc Thư đem toán trung quân xông vào. Tiếng trống ầm ầm. Tư Môn Sào không thể địch nổi, phải bỏ chạy. Quốc Thư thắng trận càng thêm hăng hái, truyền cho quân sĩ, mỗi khi ra trận, phải đem theo một cái thừng dài và bảo rằng: - Tục nước Ngô đều húi tóc cả, ta nên lấy thừng để mà xâu đầu. Quân Tề nhao nhao như thể điên cuồng, cho là quân Ngô sắp sửa phá vỡ được. Tư Môn Sào đem bại binh về yết kiến Phù Sai. Phù Sai nổi giận toan chém Tư Môn Sào. Tư Môn Sào nói: - Tôi mới ra trận, chưa biết hư thực thế nào, vậy nên bị thua, nếu đánh một trận nữa mà không được, bấy giờ xin chịu tội chết. Bá Hi cũng cố xin hộ cho, Phù Sai đuổi Tư Môn Sào, rồi giao toán thượng quân cho quan Đại tướng là Triển Như. Gặp có tướng nước Lỗ là Thúc tôn Châu Cừu đem quân đến giúp. Phù Sai đưa cho một thanh kiếm và một bộ áo giáp, sai làm hướng đạo đóng quân ở cách Ngải Lăng năm dặm. Quốc Thư (tướng nước Tề), sai người đưa chiến thư đến. Phù Sai hẹn đến ngày hôm sau thì quyết chiến. Ngày hôm sau, Phù Sai sai Thúc tôn Châu Cừu bày trận thứ nhất, Triển Như bày trận thứ hai, Tào Cô bày trận thứ ba; Tư Môn Sào đem ba ngàn quân Việt đi lại để dụ địch; còn mình thì cùng Bá Hi đem đại binh đóng nơi gò cao mà tùy cơ tiếp ứng. Lại cho tướng nước Việt là Chư Kê Dĩnh theo ở bên cạnh để cùng quân chiến. Quân Tề đã bày trận xong, Trần Nghịch cùng với các tướng đều ngậm ngọc mà bảo nhau rằng: - Ai chết thì đem liệm ngay! Công tôn Hạ và Công tôn Huy sai quân sĩ đều hát bài tống táng, cùng thề với nhau rằng: - Hễ ai còn sống mà về không phải liệt trượng phu. Quốc Thư nói: - Các tướng đều liều chết cố đánh thì tất phải được. Khi hai bên bày trận xong rồi, Tư Môn Sào ra khiêu chiến. Quốc Thư bảo Công tôn Huy rằng: - Viên bại tướng ở trong tay nhà ngươi đó, nhà ngươi nên ra mà bắt lấy. Công tôn Huy cầm kích ra đánh. Tư Môn Sào bỏ chạy. Thúc tôn Châu Cừu đem quân ra đón đánh Công tôn Huy. Tư Môn Sào lại quay trở lại khiêu chiến. Quốc Thư lại sai Công tôn Hạ ra đánh. Công tôn Hạ ra. Tư Môn Sào lại chạy, Công tôn Hạ đuổi theo. Đại tướng nước Ngô là Triển Như lại đem quân ra đánh Công tôn Hạ. Tư Môn Sào lại quay trở lại khiêu chiến. Tướng nước Tề là Cao Vô Bình và Tôn Lâu đem quân ra đánh. Tướng nước Ngô là Cô Tào một mình ra đánh nhau với hai tướng nước Tề, mà chẳng sợ hãi một chút nào cả. Hai bên giáp chiến, chết hại đã nhiều. Quốc Thư thấy quân Ngô không lui, cầm dùi đánh trống, để thúc đại binh tiến vào. Phù Sai đứng trên gò cao, trông thấy quân Tề hăng hái lắm, quân Ngô đã dần dần kém thế, liền sai Bá Hi đem một vạn quân xuống tiếp ứng. Quốc Thư trông thấy quân Ngô lại đến, đã toan chia quân ra đối địch, bỗng nghe tiếng chiêng dậy đất, quân Tề vẫn tưởng là quân Ngô định lui, chẳng ngờ Phù Sai đem ba vạn tinh binh, chia làm ba đạo, lại thấy hiệu đánh chiêng làm hiệu tiến quân, theo lối tắt xông thẳng vào trận địa quân Tề, làm cho quân Tề đứt ra ba ngả. Bọn Triển Như và Cô Tào nghe nói Phù Sai lâm trận, càng thêm hăng hái, đuổi đánh quân Tề thất điên bát đảo. Triển Như bắt sống được Công tôn Hạ và Tư Môn Sào đâm chết Công tôn Huy. Phù Sai bắn trúng Tôn Lâu. Lư Khâu Minh bảo Quốc Thư rằng: - Quân Tề chết gần hết rồi, Ngài nên thay áo quần mà trốn đi, rồi sau sẽ liệu kế. Quốc Thư thở dài mà than rằng: - Ta đem mười vạn quân Tề mà bị tay người nước Ngô đánh thua, ta mặt mũi nào mà về triều nữa. Quốc Thư nói xong, liền cởi áo giáp xông vào trong đám quân Ngô, bị quân Ngô đâm chết. Lư Khâu Minh núp ở trong đám cỏ cũng bị tướng nước Lỗ là Thúc tôn Châu Cừu bắt được. Phù Sai đại thắng quân Tề, các tướng hiến công, chém được tướng nước Tề là Quốc Thư và Công tôn Huy, bắt sống được Công tôn Hạ và Lưu Khâu Minh cũng đem chém nốt, chỉ có Cao Vô Bình và Trần Nghịch hai người trốn thoát mà thôi, còn người khác hoặc bị chém, hoặc bị bắt, không biết, bao nhiêu mà kể. Phù Sai hỏi Chư Kê Dĩnh (tướng nước Việt) rằng: - Nhà ngươi xem quân Ngô cường dũng, so với quân Việt thế nào? Chư Kê Dĩnh sụp lạy mà tâu rằng: - Quân Ngô cường dũng, thiên hạ không nước nào địch nổi, huống chi nước Việt tôi là một nước hèn yếu xưa nay. Phù Sai bằng lòng, trọng thưởng cho quân Việt, sai Chư Kê Dĩnh về trước để báo tin thắng trận cho Câu Tiễn biết. Tề Cảnh công lo sợ, cùng với Trần Hằng và Hám Chỉ thương nghị, rồi sai sứ đem nhiều lễ vật sang lễ Phù Sai để xin hòa. Phù Sai bảo nước Tề và nước Lỗ lại giao hiếu với nhau như anh em, không được gây việc tranh chiến. Nước Tề và nước Lỗ đều vâng mệnh cả. Phù Sai rút quân về. Về đến Ngô cung ở Câu Khúc bảo Tây Thi rằng: - Ta để mỹ nhân ở đây là muốn cho được chóng gặp mặt. Tây Thi sụp lạy mà chúc mừng. Bấy giờ gió thu hây hẩy, lá ngô rườm rà, Phù Sai và Tây Thi trèo lên trên đài, uống rượu rất vui, đến đêm khuya bỗng có tiếng lũ trẻ hát, Phù Sai lắng tai nghe. Bài hát như sau này: "Lá đồng gặp mùa lạnh. Vua Ngô tỉnh, chưa tỉnh.. Lá ngô đang mùa thu. Vua Ngô sầu, lại sầu.." Phù Sai không bằng lòng, sai người bắt lũ trẻ đến mà hỏi rằng: - Ai dạy chúng bay hát câu ấy! Lũ trẻ nói: - Có một đứa trẻ áo đen, không biết ở đâu đến, dạy chúng tôi hát như thế, rồi lại đi đâu mất. Phù Sai nổi giận mà nói rằng: - Ta đây là tự trời sinh ra, có thần thánh ủng hộ, khi nào lại phải sầu! Phù Sai toan giết lũ trẻ. Tây Thi cố xin mãi mới thôi. Bá Hi tâu với Phù Sai rằng: - Xuân đến thì muôn vật vui, thu đến thì muôn vật sầu, đó là đạo trời. Đại vương lúc vui lúc sầu, hợp với đạo trời, còn lo gì nữa! Phù Sai bằng lòng, đóng ở Ngô cung ba ngày, rồi mới về kinh thành nước Ngô. Các quan triều thần đều vào chúc mừng. Ngũ Viên cũng đến, nhưng không nói gì cả. Phù Sai trách Ngũ Viên rằng: - Quan Tướng quốc can ta không nên đánh Tề, nay ta thắng được Tề trở về, quan Tướng quốc không có công gì cả, tưởng cũng nên hổ thẹn. Ngũ Viên giận lắm, vùng vằng buông thanh kiếm xuống mà tâu rằng: - Trời định làm mất nước nào thì vẫn cho có điều mừng nhỏ, rồi mới bắt phải lo lớn. Việc thắng Tề chẳng qua là một điều mừng nhỏ đó, tôi e rằng sắp có lo lớn đến nơi. Phù Sai tức giận mà nói rằng: - Lâu ta không trông thấy quan Tướng quốc, bên tai được êm ái, nay lại làm cho ta rầy rà khó chịu! Phù Sai nói xong, bưng tai nhắm mắt, ngồi ở trên điện. Được một lúc, bỗng trừng mắt mà quát to lên rằng: - Quái lạ! Các quan triều thần tâu rằng: - Đại vương thấy cái gì làm vậy? Phù Sai nói: -Ta trông thấy bốn người tựa lưng nhau, rồi mỗi người chạy về một phía, lại thấy ở dưới điện có hai người đứng đối nhau: Người ngoảnh mặt phía bắc giết người ngoảnh mặt phía nam. Các ngươi có trông thấy như thế không? Các quan triều thần đều nói: - Chúng tôi không trông thấy gì cả. Ngũ Viên tâu rằng: - Bốn người chạy về bốn phía, nghĩa là bốn phương phải ly tán; người ngoảnh mặt phía bắc giết người ngoảnh mặt phía nam, nghĩa là kẻ dưới phản người trên, bề tôi giết vua. Nếu Đại vương không biết tu tỉnh thì tất có ngày hại thân mất nước! Phù Sai nổi giận mà nói rằng: - Quan Tướng quốc nói gở lạ như vậy, ta không muốn nghe. Bá Hi nói: - Bốn phương ly tán, nghĩa là phải đến phục dịch ở sân nước Ngô, nước Ngô ta là bá chủ, sắp có cơ thay nhà Chu, ấy cũng là cái điềm bề tôi phạm đến vua đó. Phù Sai nói: - Quan Thái tể nói còn có thể nghe được, chứ như quan Tướng quốc nói thì chẳng được câu nào! Mấy hôm sau, vua Việt là Câu Tiễn đem các quan triều thần nước Việt thân hành đến nước Ngô để chúc mừng thắng trận. Các quan triều thần nước Ngô thì vua Việt đều có quà biếu cả. Bá Hi nói: - Thế là bốn phương phải phục dịch ở sân nước Ngô đó. Phù Sai bày tiệc ở trên Văn Đài. Câu Tiễn ngồi hầu. Các quan đại phu đều đứng hầu ở bên cạnh. Phù Sai nói: - Vua không quên người bề tôi có công, cha không quên người con có công. Nay quan Thái tể là Bá Hi vì ta luyện tập quân sĩ có công, ta định thưởng cho làm thượng khanh; vua Việt thờ ta như cha, một lòng hiếu thuận, ta định phong thêm đất cho, để đền cái công giúp ta. Các quan đại phu nghĩ thế nào? Các quan đại phu đều nói: - Đại vương thưởng công cho kẻ khó nhọc, đó là việc bá vương. Ngũ Viên sụp xuống đất khóc mà tâu rằng: - Than ôi, thương thay! Người trung bịt miệng, lũ nịnh chuyên tay, trái cho là phải, gian tưởng là ngay, có một ngày kia, diệt nước Ngô này, miếu xã bị tàn phá, cung điện đầy cỏ cây! Phù Sai nổi giận, nói: - Lão tặc gian trá, làm tai làm quái, chỉ muốn chuyên quyền, để hại nước ta. Ta nghĩ đến tiên vương ngày trước, vậy không nỡ giết, cho về mà tự xử lấy, đừng trông thấy mặt ta nữa! Ngũ Viên nói: - Lão thần này, nếu bất trung bất tín, không được làm tôi tiên vương, khác nào như Long Bàn gặp vua Kiệt, Tỷ Can gặp vua Trụ, tôi dẫu bị giết, nhưng Đại vương cũng khó toàn! Tôi xin từ đây vĩnh biệt, không trông thấy Đại vương nữa. Ngũ Viên nói xong, tức khắc lui ra. Phù Sai vẫn còn chưa nguôi cơn giận. Bá Hi nói: - Tôi nghe nói khi trước Ngũ Viên sang nước Tề, đem con gửi họ Bão, thế là có ý muốn phản Ngô, Đại vương nên xét kỹ. Phù Sai sai người đem thanh kiếm Chúc Lâu đưa cho Ngũ Viên. Ngũ Viên cầm lấy thanh kiếm mà than rằng: - Đại vương muốn cho ta tự tử đây! Ngũ Viên nói xong, liền chạy ra đứng ở giữa sân, ngửa mặt lên trời mà kêu to lên rằng: - Trời ơi! Trời ơi! Ngày xưa Tiên vương không muốn lập mày, mày nhờ sức ta mới được nối ngôi. Ta vì mày mà phá Sở phá Việt, khiến cho uy danh lừng lẫy khắp chư hầu. Nay mày không theo lời nói của ta, lại bắt ta chết. Ta chết ngày nay thì ngày mai quân Việt đến đào bỏ xã tắc nước Ngô đó! Ngũ Viên lại bảo người nhà rằng: - Khi ta chết rồi, các ngươi khoét mắt ta treo ở cửa Đông môn để ta được xem quân Việt kéo đến! Ngũ Viên đâm cổ mà chết. Nội thị đem thanh kiếm về tâu với Phù Sai, và thuật lại những lời nói Ngũ Viên trong khi gần chết. Phù Sai thân hành đến xem thi thể rồi nói rằng: - Ngũ Viên, mày đã chết rồi còn biết gì nữa. Phù Sai truyền cắt lấy đầu, đem treo ở trên cửa Bàn Môn, còn thi thể thì đem bỏ vào cái chi di làm bằng da ngựa, sai quăng xuống khúc sông Tiền Đường mà bảo rằng: - Nhật nguyệt đốt xương mày, ngư miết ăn thịt mày, hình thể mày tiêu diệt, phỏng có còn gì không! Thi thể Ngũ Viên theo dòng sông trôi đi, sóng đánh dạt vào bờ. Dân ở đấy sợ hãi, bảo nhau vớt lên, đem chôn ở núi Ngô Sơn. Đời sau đổi tên là Tư Sơn (bởi vì Ngũ Viên tên tự là Tử Tư), bây giờ ở trên núi có Tử Tư miếu. Phù Sai đã giết Ngũ Viên rồi mới cho Bá Hi làm tướng quốc; lại định phong thêm đất cho nước Việt. Câu Tiễn cố ý xin từ chối. Phù Sai mới thôi. Câu Tiễn về Việt, càng dốc lòng nghĩ mưu đánh Ngô. Phù Sai chẳng lưu ý đến, chỉ một mực kiêu ngạo, lại bắt mấy vạn dân đi đắp Hán Thành, xẻ một cái kênh ở phía đông bắc xuyên sang phía tây bắc, khiến nước sông Giang, sông Hoài chảy vào sông Nghi, rồi thông sang sông Tề. Thế tử Hữu biết ý Phù Sai, muốn can ngăn, nhưng lại sợ Phù Sai giận, mới nghĩ ra một việc để làm cho Phù Sai cảm ngộ. Một hôm đang buổi sáng sớm, Thế tử Hữu đeo cung mang tên ở hậu viên đi vào, áo giày ướt sạch cả Phù Sai thấy lạ, liền hỏi. Thế tử Hữu nói: - Mới rồi, con ra chơi hậu viên, nghe tiếng con ve đang kêu ở trên cây, chạy lại gần xem, trông thấy con ve đang kêu ve ve, tự lấy làm yên sở, không ngờ có con bọ ngựa đang leo ở trên cành cây, giơ hai càng lên, rình bắt con ve để ăn thịt; con bọ ngựa chỉ biết con ve, không ngờ có con chim hoàng tước đang bay lượn ở đấy, định mổ con bọ ngựa; con chim hoàng tước chỉ biết con bọ ngựa, không ngờ có con đứng ở đấy, đang giương cung định bắn con chim hoàng tước, không ngờ lại có một cái hố sâu ở bên cạnh, trượt chân ngã xuống, thành ra ướt cả áo giày, để đến nỗi làm trò cười cho Phụ vương. Phù Sai nói: - Mày chỉ tham cái lợi trước mắt mà không nghĩ cái hại sau lưng, thiên hạ còn ai ngu như thế nữa! Thế tử Hữu nói: - Thế mà thiên hạ còn có người ngu hơn: Nước Lỗ là dòng dõi ông Chu công, lại nhờ có cái công dạy bảo của ông Khổng Tử, không xâm phạm gì đến lân quốc, thế mà nước Tề tự dưng đem quân đánh Lỗ, tưởng là lấy được nước Lỗ, chẳng ngờ có nước Ngô ta đem quân đi nghìn dặm để mà đánh Tề. Nước Ngô ta đánh Tề, tưởng là lấy được nước Tề, chẳng ngờ có nước Việt kia đem quân tử sĩ qua Tam Giang, thông Ngũ Hồ mà phá diệt nước Ngô ta, thiên hạ còn ai ngu như thế nữa? Phù Sai nổi giận, nói: - Đấy là giọng nói của Ngũ Viên ngày xưa, ta nghe đã chán tai lắm, bây giờ mày lại bắt chước, để làm ngăn trở công việc của ta hay sao? Nếu mày phải là con ta thì từ nay cấm không được nói đến nữa! Thế tử Hữu sợ hãi lui ra. Phù Sai giao cho Thế tử Hữu cùng Vương tử Địa và Vương tôn Di Dung giữ nước, còn mình thì đem quân sang hội với Lỗ Ai công ở đất Thái Cao, hội với Vệ Xuất công ở đất Phát Dương, rồi ước với chư hầu đại hội ở Hoàng Trì (đất nước Vệ), muốn cùng với nước Tấn tranh nhau nghiệp bá chủ. Câu Tiễn nghe tin Phù Sai đã đem quân đi vắng, mới cùng với Phạm Lãi thương nghị, rồi đem 3000 quân tập lưu (tức là thủy binh), cùng với 4000 tuấn sĩ, 6000 quân tử, theo đường bể qua sông Giang để lẻn sang đánh nước Ngô. Tiền đội là Trù Vô Dư kéo đến nước Ngô. Vương tôn Di Dung ra đánh. Đánh được mấy hợp thì Vương tử Địa đem quân ra. Trù Vô Dư ngã ngựa bị bắt. Ngày hôm sau Câu Tiễn đem đại binh đến, Thế tử Hữu định giữ thế thủ. Vương tôn Di Dung nói: - Quân Việt vẫn có lòng sợ nước Ngô ta, vả ở xa lại đây tất nhiên mệt nhọc. Ta thắng lần nữa thì họ phải chạy; nếu không thắng bấy giờ sẽ giữ thủ, cũng chưa lấy gì làm muộn. Thế tử Hữu nghe lời, liền sai Di Dung ra đánh. Thế tử Hữu đem quân theo sau. Câu Tiễn thân hành đốc xuất quân sĩ đánh nhau với Ngô. Phạm Lãi và Thế Dung ở hai bên cũng reo hò mà tiến. Khí thế hăng hái lắm. Nước Ngô bấy giờ, những quân tinh dũng đều theo Phù Sai đi vắng cả, còn ở trong nước toàn là những quân chưa luyện tập. Nước Việt thì toàn là những quân tinh dũng đã luyện tập trong mấy năm nay. Cung tên kiếm kích, linh lợi khác thường! Lại thêm có Phạm Lãi và Thế Dung đều là những tay túc tướng, khó lòng địch nổi. Quân Ngô thua to. Vương tôn Di Dung bị Thế Dung giết chết. Thế tử Hữu hãm ở trong đám quân Việt, bị mấy mũi tên vào mình, sợ quân Việt bắt được thì phải nhục liền tự tử chết. Quân Việt kéo thẳng đến dưới chân thành. Vương tử Địa đóng chặt cửa thành lại, rồi cố giữ thế thủ, và sai người đi cáo cấp với Phù Sai. Câu Tiễn cho thủy quân đóng ở Thái Hồ và lục quân đóng ở Tư Môn, sai Phạm Lãi đốt Cô Tô đài, lửa cháy hơn một tháng chưa tắt, bao nhiêu chiến thuyền của Ngô, đều bắt đem về Thái Hồ cả. Quân Ngô không dám ra đánh. Lại nói chuyện Phù Sai cùng với Lỗ Ai công và Vệ Xuất công, đến Hoàng Trì, sai người mời Tấn Định công. Tấn Định công sợ thế, cũng phải đến hội. Phù Sai sai Vương tôn Lạc cùng với quan Thượng khanh nước Tấn là Triệu Ưởng bàn việc đề tên trước sau ở trong tờ tái thư. Triệu Ưởng nói: - Nước Tấn đã mấy đời nay làm chủ mình, còn phải nói gì nữa! Vương tôn Lạc nói: - Tổ nước Tấn là Thúc Ngu, em vua Thành Vương. Tổ nước Ngô là Thái Bá, bá tổ vua Vũ Vương, tôn ty cách nhau mấy từng, huống chi Tấn dẫu làm chủ minh, mà khi hội ở Quắc, đều phải đứng dưới nước Sở, nay lại muốn đứng trên nước Ngô hay sao! Hai bên tranh nhau mấy ngày không quyết. Bỗng có sứ giả của Vương tử Địa sai đến, mật báo việc quân Việt đánh Ngô, giết Thế tử Hữu, nay đang vây thành, sự thế rất nguy cấp. Phù Sai kinh sợ. Bá Hi rút gươm chém chết sứ giả. Phù Sai nói: - Tại sao quan Tướng quốc lại giết sứ giả! Bá Hi nói: - Việc này hư thực chưa rõ, nếu để sứ giả nó tiết lộ ra thì Tề và Tấn tất thừa cơ sinh sự, Đại vương tài nào mà về yên được. Phù Sai nói: - Quan Tướng quốc nói phải lắm, nhưng nay Ngô và Tấn còn đang tranh trưởng chưa xong, nay lại có tin này, thế thì ta nên bỏ mà về ngay, hay là dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng. Vương tôn Lạc nói: - Hai đằng đều không được cả, Ta bỏ mà về ngay thì người ta biết ta có sự nguy cấp; nếu dự hội mà chịu cho Tấn làm trưởng thì rồi ta làm gì cũng tất phải vâng mệnh nước Tấn, vậy thì quyết phải tranh trưởng, mới khỏi lo ngại. Phù Sai nói: - Muốn tranh cho được thì làm thế nào? Vương tôn Lạc mật tâu rằng: - Nay việc đã nguy cấp lắm, xin Đại vương nổi hiệu trống mà khiêu chiến, để làm cho người nước Tấn phải sợ. Phù Sai khen phải, đêm hôm ấy sửa sang quân sĩ kéo sang chỗ quân Tấn đóng, cách nhau chỉ có độ một dặm, rồi bày trận ở đấy. Tiếng loa dậy đất, bóng tinh rợp trời! Quân Tấn kinh sợ, không biết vì cớ gì, mới sai quan Đại phu là Đổng Cát sang hỏi. Phù Sai đáp rằng: - Ta phụng mệnh Thiên tử nhà Chu làm chủ minh các nước, nay vua Tấn trái mệnh tranh trưởng, để đến nỗi dùng dằng mãi không xong. Ta sợ sứ giả đi lại thêm phiền, vậy phải thân hành đến đây mà thương nghị. Nước Tấn theo hay không theo, nội ngày hôm nay phải quyết. Đổng Cát về báo với Tấn Định công. Lỗ Ai công và Vệ Xuất công cũng đều ngồi ở đấy. Đổng Cát nói riêng với Triệu Ưởng rằng: - Tôi xem ý vua Ngô, ngoài miệng dẫu nói cứng, nhưng nét mặt buồn rầu, tất là trong bụng có điều gì lo nghĩ lắm, hay là quân Việt đã sang đánh Ngô rồi! Nếu ta không chịu cho hắn đứng lên trước thì tất hắn liều mà đánh ta, nhưng ta cũng không nên chịu nhường mà thôi, phải bắt hắn bỏ vương hiệu đi mới được. Triệu Ưởng nói với Tấn Định công lại sai Đổng Cát sang nói với Phù Sai rằng: - Đại vương phụng mệnh Thiên tử nhà Chu mà hội chư hầu thì khi nào Chúa công tôi dám không theo, nhưng nước Ngô nguyên là bá tước mà tiếm hiệu xưng vương thì đối với Thiên tử nhà Chu ra làm sao. Đại vương nên bỏ vương hiệu đi mà xưng là Ngô công thì Chúa công tôi xin vâng mệnh. Phù Sai cho lời nói ấy là phải, liền tự xưng là Ngô công, rồi ra tiếp kiến các vua chư hầu. Ngô công ăn thề trước, thứ đến nước Tấn, thứ nữa đến nước Lỗ và nước Vệ. Phù Sai rút quân theo đường thủy trở về nước Ngô. Đi đến nửa đường, được luôn mấy tin nước nhà cáo cấp, quân sĩ nghe nói ai cũng sợ hãi, vả lại đi xa mỏi mệt, đều chẳng nghĩ gì đến sự giao chiến. Quân Ngô giao chiến với quân Việt. Quân Ngô thua to, Phù Sai sợ lắm, bảo Bá Hi rằng: - Quan Tướng quốc nói vua Việt không bao giờ làm phản, vậy nên ta nghe mà tha cho về nước. Công việc ngày nay, quan Tướng quốc phải sang xin hòa với Việt; nếu không thì thanh kiếm ta đưa cho Ngũ Viên trước, ta lại đưa cho quan Tướng quốc đó! Bá Hi liền sang quân Việt, sụp lạy Câu Tiễn, xin tha tội cho nước Ngô, còn những lễ vật để khao thưởng quân sĩ, nước Ngô lại xin theo như nước Việt năm trước. Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng: - Nước Ngô cũng chưa nên diệt, ta hãy cho hòa để đền ơn cho Bá Hi. Nước Ngô từ đây cũng không cường thịnh được nữa. Câu Tiễn cho nước Ngô giảng hòa, rồi rút quân về, đó là năm thứ 38 đời Chu Kính Vương. Sang năm sau, Lỗ Ai công đi săn ở Cự Giã. Kẻ gia thần nhà Thúc tôn Thị tên gọi Thư Thương bắt được một con thú, mình như mình con huân, đuôi như đuôi con trâu, đầu sừng lại có thịt, lấy làm quái mà giết chết, đem hỏi ông Khổng Tử. Ông Khổng Tử xem, rồi nói rằng: - Đây là con lân! Trên sừng nó hãy còn cái giải đó là của Nhan Mẫu ngày xưa buộc vào. Than ôi! Thế này thì ngô đạo chung cùng mà thôi! Ông Khổng Tử liền sai học trò đem chôn. Bấy giờ ông Khổng Tử mới đem bộ sử nước Lỗ, từ năm đầu Lỗ Ẩn công đến năm Lỗ Ai công bắt được con lân, cộng 242 năm, chép thành một quyển gọi là kinh Xuân Thu, để hợp với Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc cả thảy là sáu kinh. Năm ấy quan Hữu tướng nước Tề là Trần Hằng biết nước Ngô bị quân Việt đánh thua, không lo gì đến cường địch ở mặt ngoài nữa, còn mặt trong thì chỉ ngại có Hám Chỉ mà thôi, mới sai bọn Trần Nghịch và Trần Báo giết chết Hàm Chỉ. Tề Giản công sợ hãi bỏ chạy. Trần Hằng đuổi theo mà giết, lại giết hết cả đảng phái họ Hám, rồi lập em Tề Giản công là Vu Lậu làm vua, tức là Tề Bình công. Ông Khổng Tử nghe tin Trần Hằng giết Tề Giản công, vào tâu với Lỗ Ai công, xin đem quân đi đánh. Lỗ Ai công bảo ông Khổng Tử nói với ba nhà (Mạnh, Thúc, Quý). Ông Khổng Tử than rằng: - Tôi chỉ biết có vua Lỗ, chứ không biết ba nhà là ai. Trần Hằng cũng sợ chư hầu đem quân tiến đánh, bao nhiêu những đất chiếm được của Lỗ, Vệ đều trả lại cả, phía bắc kết giao với bốn quan khanh nước Tấn, phía nam kết giao với Ngô và Việt. Lại theo lối Trần Vô Vũ khi trước đem tiền, thóc cấp phát cho những kẻ nghèo khổ, người trong nước ai cũng bằng lòng. Trần Hằng lập mưu trừ dần đảng Bão, Án, Cao, Quốc và các công tộc, chiếm lấy quá nửa nước Tề làm phong ấp của mình. Lại tuyển con gái trong nước từ bảy thước trở lên, để ở hậu phòng cả thảy đến 100 người tha hồ cho tân khách ra vào, không cấm đoán gì cả. Sinh được con trai hơn 70 người. Muốn dùng kế ấy để làm cho họ Trần chóng cường thịnh. Sau các quan đại phu và ấp tể ở nước Tề đều là họ Trần cả. Lại nói chuyện Thế tử Khoái Quý nước Vệ ở Thích Ấp, con là Vệ Xuất công (Chiếp) đem người trong nước ra để chống cự với Khoái Quý. Quan Đại phu là Cao Sài can ngăn, Khoái Quý không nghe. Chị gái Khoái Quý gả cho quan Đại phu là Khổng Ngữ, sinh người con tên gọi Khổng Ly, lại nối chức làm đại phu, cầm quyền chính nước Vệ. Gia thần họ Khổng là Hồn Lương Phu tư thông với nàng Khổng Cơ (tức là chị gái Khoái Quý). Nàng Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu đi sang Thích Ấp hỏi thăm người em là Khoái Quý. Khoái Quý cầm lấy tay mà bảo rằng: - Nhà ngươi làm thế nào mà giúp cho ta về nước làm vua thì ta cho nhà ngươi được đội mũ miện và đi xe hiên, dẫu có tội đáng chết, cũng tha cho ba lần. Hồn Lương Phu về, nói với nàng Khổng Cơ. Nàng Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu ăn mặc giả đàn bà sang đón Khoái Quý về. Đang đêm khuya, Hồn Lương Phu và Khoái Quý cùng ăn mặc đàn bà, kẻ dũng sĩ là Thạch Khất và Mạnh Áp làm người dong xe, cùng ngồi xe ôn xa giả là tỳ thiếp lẻn vào trong thành, nấp ở nhà nàng Khổng Cơ. Khổng Cơ nói: - Công việc nước nhà đều ở con ta cả, nay con ta đang uống rượu ở trong cung, ta nên đón lúc về mà bắt hiếp phải làm thì mới thành sự được. Khổng Cơ bảo Thạch Khất, Mạnh Áp và Hồn Lương Phu đều mặc giáp đeo gươm để đợi, còn Khoái Quý thì phục ở trên đài. Được một lúc, Khổng Ly ở trong cung say rượu trở về. Nàng Khổng Cơ gọi mà bảo rằng: - Trong họ cha mẹ thì ai là thân hơn cả? Khổng Ly nói: - Họ về bên cha thì có bác chú, họ về bên mẹ thì có cậu mà thôi. Nàng Khổng Cơ nói: - Con biết cậu là người rất thân của mẹ, sao con không giúp cho Khoái Quý? Khổng Ly nói: - Tiên quân khi xưa bỏ con lập cháu, vậy nên con không dám trái mệnh. Khổng Ly đứng ngay dậy, bỏ đi ra nhà xí. Nàng Khổng Cơ sai Thạch Khất và Mạnh Áp đứng chờ ở ngoài nhà xí, đợi khi Khổng Ly ra thì nắm lấy mà bảo rằng: - Thế tử cho đến triệu. Chúng kéo Khổng Ly lên trên đài để yết kiến Khoái Quý. Nàng Khổng Cơ đã đứng sẵn ở bên cạnh mà quát to lên rằng: - Khổng Ly! Sao con không lạy Thế tử đi? Khổng Ly bất đắc dĩ phải sụp lạy. Nàng Khổng Cơ nói: - Ngày nay con có chịu theo cậu hay không? Khổng Ly nói: - Xin vâng mệnh! Nàng Khổng Cơ liền giết một con hà để lấy máu, sai Khoái Quý và Khổng Ly ăn thề với nhau. Nàng Khổng Cơ bảo Thạch Khất và Mạnh Áp giữ Khổng Ly ở trên đài, rồi sai Hồn Lương Phu đem gia giáp của Khổng Ly vào đánh Vệ Xuất công. Vệ Xuất công đang say rượu sắp đi nghỉ, nghe nói có loạn, sai nội thị đi triệu Khổng Ly. Nội thị nói: - Chính Khổng Ly nổi loạn! Vệ Xuất công kinh sợ, tức khắc lấy hết các đồ bảo khí trốn sang nước Lỗ. Các quan triều thần ai không muốn theo Khoái Quý đều bỏ trốn cả. Trọng Do là gia thần Khổng Ly, bấy giờ đang ở ngoài thành, nghe tin Khổng Ly bị hiếp toan vào thành để cứu, gặp quan đại phu là Cao Sài ở trong thành ra bảo Trọng Do rằng: - Cửa thành đã đóng rồi. Quyền chính không ở tay nhà ngươi thì lúc hoạn nạn, can gì mà nhà ngươi dự đến. Trọng Do nói: - Ta chỉ ghét những người ăn lộc của người ta mà lại trốn tránh lúc hoạn nạn, vậy nên mới tới đây. Gặp bấy giờ có người ở trong thành đi ra. Trọng Do nhân khi cửa ngỏ, liền vào trong thành, đi thẳng đến dưới đài, gọi to lên rằng: - Trọng Do ở đây, quan đại phu họ Khổng cứ xuống! Khổng Ly không dám thưa. Trọng Do toan đốt đài. Khoái Quý sợ, sai Thạch Khất và Mạnh Áp cầm giáo xuống đài để đánh nhau với Trọng Do. Trọng Do cầm kiếm để đối địch. Hai ngọn kích của Thạch Khất và Mạnh Áp cùng xúm lại đâm Trọng Do, lại bị chém đứt cái giải mũ, Trọng Do bị thương nặng, lúc sắp chết nói: - Cứ theo trong lễ thì người quân tử dẫu chết cũng không chịu bỏ mũ! Trọng Do nói xong, còn buộc giải mũ lại, rồi mới chết. Khổng Ly lập Khoái Quý lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang công. Lỗ Trang công lập người con thứ là Tật làm thế tử, cho Hồn Lương Phu làm quan khanh. Bấy giờ Không Tử ở nước Vệ nghe tin Khoái Quý nổi loạn, bảo các học trò rằng: - Có việc loạn này thì Cao Sài sắp về đây mà Trọng Do thì chết mất! Các học trò hỏi: - Tại sao thầy biết? Ông Khổng Tử nói: - Cao Sài biết theo đại nghĩa thì tất toàn thân được, còn như Trọng Do hiếu dũng mà khinh sinh, tài nào khỏi chết. Nói chưa dứt lời thì quả nhiên thấy Cao Sài chạy về. Thầy trò trông thấy nhau, nửa thương nửa mừng. Bỗng có sứ giả nước Vệ đến, nói với ông Khổng Tử rằng: - Chúa công ta mới lập, mến tiếng phu tử, nhân có món ăn ngon, sai tôi đem dâng. Ông Khổng Tử nhận lấy, rồi mở ra xem thì thấy một lọ mắm, liền sai đậy lại và bảo sứ giả rằng: - Thứ mắm này làm bằng thịt học trò ta là Trọng Do, có phải không? Sứ giả kinh sợ mà nói rằng: - Phải! Nhưng tại sao phu tử lại biết? Ông Khổng Tử nói: - Nếu không phải vua Vệ thì khi nào lại ban cho thế này! Ông Khổng Tử sai học trò đem chôn, rồi khóc mà than rằng: - Ta vẫn thường lo cho Trọng Do bất đắc kỳ tử, nay quả nhiên như thế. Sứ giả cáo từ lui về. Chưa được bao lâu thì ông Khổng Tử cũng bị bệnh rồi mất. Năm ấy ngoài 73 tuổi. Bấy giờ đang là ngày Kỷ Sửu tháng 4 mùa hạ, năm thứ 41 đời Chu Cảnh Vương. Các học trò đưa linh cữu ngài ra an táng tại Khúc Phụ, mộ ngài to rộng những một khoảnh đất, các cây cối ở đấy, chim chóc không dám đến đậu. Lũy triều vẫn phong là "Đại Thành chí thánh Văn Tuyên Vương", nay lại đổi làm "Đại Thành chí thánh Tiên Sư", thiên hạ đều lập văn miếu để thờ mỗi năm hai lần cúng tế. Con cháu ông Khổng Tử, nối đời được là Diễn Thánh công. Lại nói chuyện Vệ Trang công (Khoái Quý) nghi Khổng Ly là đảng của Vệ Xuất công (Chiếp), mới cho uống rượu say rồi đuổi đi nước khác. Khổng Ly chạy sang nước Tống. Vệ Trang công thấy kho tàng trống không cả, mới gọi Hồn Lương Phu vào thương nghị rằng: - Nhà ngươi có nghĩ kế gì để lấy lại được các đồ bảo khí hay không? Hồn Lương Phu mật tâu rằng: - Vong quân bây giờ cũng là con chúa công, sao chúa công không triệu về. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 83 Diệp Công khởi binh đánh Vu Thắng Câu Tiễn báo thù giết Phù Sai Bấm để xem Vệ Thành công thấy bao nhiêu bảo khí ở trong kho tàng bị Vệ Xuất công lấy đem đi cả, mới bàn mưu với Hồn Lương Phu. Hồn Lương Phu nói: - Vong quân bây giờ cũng là con của chúa công, sao Chúa công không triệu về. Hễ vong quân về thì lấy lại được các đồ bảo khí. Có đứa tiểu nội thị nghe được câu ấy ra nói riêng với thế tử Tật. Thế tử Tật sai mấy người tráng sĩ đem một con hà đi theo mà lẻn vào trong cung, hiếp Vệ Trang công phải uống máu ăn thề, cấm không được triệu vong quân và bắt phải giết Hồn Lương Phu. Vệ Trang công nói: - Việc không triệu Chiếp về thì dễ lắm, còn Hồn Lương Phu thì khi trước ta có thề với hắn, tha cho ba tội chết, biết làm thế nào? Thế tử Tật nói: - Đợi khi có bốn tội thì phải giết đi! Vệ Trang công thuận cho. Chưa được bao lâu, Vệ Trang công mới làm cái Hổ Mạc, triệu các quan đại phu vào để ăn mừng. Hồn Lương Phu mặc áo tử y hồ cừu mà đến. Khi ngồi ăn lại không cởi thanh kiếm. Thế tử Tật sai lực sĩ lôi Hồn Lương Phu ra chém. Hồn Lương Phu nói: - Tôi có tội gì đâu! Thế tử Tật kể tội rằng: - Bề tôi vào yết kiến vua, đã có đồ thường phục; khi ăn phải cởi bỏ thanh kiếm. Thế mà nhà ngươi dám mặc tử y, đó là một tội; dám mặc hồ cừu, đó là hai tội; không cởi bỏ thanh kiếm, đó là ba tội! Hồn Lương Phu kêu rằng: - Chúa công đã có ước với tôi: Tha cho ba tội chết! Thế tử Tật nói: - Vong quân là con mà dám chống cự với cha, thế là đại nghịch bất hiếu, sao nhà ngươi muốn triệu về, có phải là bốn tội đó không? Hồn Lương Phu không trả lời được nữa, cúi đầu chịu chết chém. Mấy hôm sau, Vệ Trang công nằm mộng thấy con ma xõa tóc mà kêu rằng: - Ta đây là Hồn Lương Phu, đã kêu trời không có tội! Vệ Trang công sai Tư Di bói xem tốt xấu thế nào? Tư Di nói: - Không hại chi cả. Khi cáo từ lui ra, nói chuyện với người khác rằng: - Hồn oan đã báo thù như vậy thì thật là cái điềm thân chết nước loạn! Tư Di liền bỏ trốn sang nước Tống. Vệ Trang công lên làm vua được hai năm, không sang triều cống nước Tấn. Quan thượng khanh nước Tấn là Triệu Ưởng đem quân đánh Vệ. Người nước Vệ đuổi Vệ Trang công. Vệ Trang công chạy sang nước Nhung, bị người nước Nhung giết chết, lại giết cả thế tử Tật. Người nước Vệ lập Công tử Ban Sư lên nối ngôi. Trần Hằng nước Tề đem quân cứu Vệ. Bắt Ban Sư và lập Công tử Khởi (thứ đệ của Khoái Quý). Quan đại phu nước Vệ là Thạch Phố đuổi Công tử Khởi, lại đón Vệ Xuất công về làm vua. Vệ Xuất công về, lại đuổi Thạch Phố. Các quan đại phu không bằng lòng lại đuổi Vệ Xuất công. Vệ Xuất công chạy sang nước Việt. Người nước Vệ lập Công tử Mạc (cũng là thứ đệ của Vệ Xuất công), tức là Vệ Điệu công. Từ đấy nước Vệ vẫn thần phục nước Tấn, thế nước mỗi ngày một suy yếu. Lại nói chuyện Bạch công Thắng (Công tử Thắng được phong là Bạch công, mới lấy Bạch làm họ) từ khi về nước Sở, nghĩ đến cái thù người nước Trịnh giết cha, vẫn muốn báo lại, chỉ vì Ngũ Viên là ân nhân của Bạch công Thắng, mà Ngũ Viên khi trước đã cứu Trịnh, vả lại Trịnh thần phục Sở Chiêu Vương, cũng không có điều gì thất lễ, vậy nên Bạch công Thắng không nói ra. Khi Sở Chiêu Vương mất rồi, quan lệnh doãn là Công tử Thân và quan tư mã là Công tử Kết lập con nàng Việt Nữ tên là Chương lên nối ngôi, tức là Sở Huệ Vương. Bạch công Thắng tự nghĩ mình là con thế tử Kiến trước, tất thế nào Công tử Thân cũng phải triệu mình đến để cùng cầm quyền chính nước Sở, nhưng không thấy Công tử Thân triệu, lại không thấy phong thêm tước lộc cho, có ý tức giận, đến khi nghe tin Ngũ Viên chết, liền nói: - Bây giờ tức là lúc ta nên báo thù nước Trịnh! Bạch công Thắng sai người xin với Công tử Thân rằng: - Nước Trịnh hại cha tôi khi xưa, quan lệnh doãn đã có biết, nếu tôi không báo thù thì còn ra người thế nào được! Quan lệnh doãn thương cha tôi là người vô tội thì xin cho một toán quân sang kể tội mà đánh nước Trịnh, tôi xin làm tiền khu, dầu chết cũng không hối hận. Công tử Thân từ chối rằng: - Nay tân vương mới lập, trong nước chưa yên, nhà ngươi hãy đợi thư thả. Bạch công Thắng mượn việc phòng bị nước Ngô, sai kẻ gia thần là Thạch Khất đắp một cái thành và luyện tập quân sĩ. Bạch công Thắng lại nói với Công tử Thân xin đem quân bản bộ của mình đi đánh Trịnh. Công tử Thân thuận cho. Bạch công Thắng chưa kịp đem quân đi thì Triệu Ưởng nước Tấn đã đem quân đánh Trịnh. Nước Trịnh sang cầu cứu với nước Sở. Công tử Thân lại đem quân cứu Trịnh. Nước Tấn rút quân về. Công tử Thân cùng với nước Trịnh ăn thề, rồi cũng rút quân. Bạch công Thắng giận lắm, nói: - Không đánh Trịnh mà lại cứu Trịnh, thế thì quan lệnh doãn định lừa ta! Ta phải giết quan lệnh doãn trước, rồi sau sẽ đánh Trịnh. Bạch công Thắng bàn mưu với một người trong họ là Bạch Thiện ở đất Lễ Phong. Bạch Thiện nói: - Ta theo nhà ngươi mà làm loạn nước thì ta bất trung với vua, ta bội nhà ngươi mà bỏ tình riêng thì là bất nhân với người trong họ. Bạch Thiện bỏ không ăn lộc, về nơi điền dã, tưới vườn làm ruộng, suốt một đời người. Người nước Sở gọi tên cái vườn của Bạch Thiện ở là "Bạch Thiện tướng quân dược phố". Bạch công Thắng nghe tin Bạch Thiện không đến, nổi giận nói rằng: - Không có Bạch Thiện thì dễ thường ta không giết nổi lệnh doãn hay sao! Bạch công Thắng nói xong, liền gọi Thạch Khất đến bảo rằng: - Định giết quan lệnh doãn và quan tư mã, mỗi người phỏng độ 500 quân có địch nổi không? Thạch Khất nói: - Chưa đủ! Ở Thi Nam có kẻ dũng sĩ tên gọi Hùng Nghi Liêu, nếu được người ấy thì khỏe bằng 500 người. Bạch công Thắng liền cùng với Thạch Khất đi sang Thi Nam vào yết kiến Hùng Nghi Liêu. Hùng Nghi Liêu kinh sợ nói rằng: - Vương tôn là bậc quý nhân, chẳng hay tới đây có việc gì? Bạch công Thắng nói: - Ta có một việc, muốn bàn mưu với nhà ngươi! Nói xong, liền bảo cho biết việc định giết Công tử Thân, Hùng Nghi Liêu lắc đầu nói rằng: - Quan lệnh doãn có công với nước mà không thù gì với tôi cả, tôi không dám làm việc ấy. Bạch công Thắng nổi giận, tuốt gươm trỏ vào cổ Hùng Nghi Liêu bảo rằng: - Nếu nhà ngươi không theo thì ta giết nhà ngươi trước! Hùng Nghi Liêu vẫn cứ nghiễm nhiên, thong dong bảo rằng: - Ngài định giết tôi, khác nào như giết con kiến, can gì phải nổi giận! Bạch công Thắng vứt thanh kiếm xuống đất khen rằng: - Nhà ngươi thật là dũng sĩ, ta thử đó mà thôi! Bạch công Thắng mời Hùng Nghi Liêu lên xe rồi đem về, đãi lấy lễ thượng tân. Hùng Nghi Liêu cảm ơn, bằng lòng theo Bạch công Thắng. Khi vua Ngô là Phù Sai hội chư hầu ở Hoàng Trì, nước Sở sợ nước Ngô mạnh, truyền cho biên bị phải phòng giữ nghiêm mật. Bạch công Thắng nói thác là quân Ngô định lẻn đánh nước Sở, rồi lại đem quân cướp bờ cõi nước Ngô, có lấy được ít đồ khí giới, liền khoe khoang mà nói dối là thắng to lắm, xin đem những đồ khí giới bắt được, thân hành về dâng vua Sở, để tỏ quốc uy. Công tử Thân không biết là kế giả, liền thuận cho. Bạch công Thắng đem đồ giáp binh của mình, đóng làm hơn một trăm xe, nói là đồ lấy được của quân Ngô, sai 1.000 tráng sĩ đưa về triều để dâng nộp. Sở Huệ công đang ngồi ở trên điện. Công tử Thân và Công tử Kết đứng hầu hai bên. Bạch công Thắng vào yết kiến. Sở Huệ Vương trông thấy ở dưới thềm có hai viên tướng quân mình mặc áo giáp, mới hỏi là ai. Bạch công Thắng trả lời: - Đó là hai viên bộ hạ của tôi, tên gọi là Thạch Khất và Hùng Nghi Liêu, có công đánh Ngô đó! Nói xong, Bạch công Thắng giơ tay vẫy hai người. Hai người toan bước lên thềm, Công tử Kết mắng rằng: - Đại vương ta đang ngự trên điện, biên thần chỉ cho lạy ở dưới thềm, không được phép lên. Thạch Khất và Hùng Nghi Liêu cứ rảo bước tiến lên. Công tử Kết sai thị vệ ngăn lại. Hùng Nghi Liêu gạt mạnh một cái, các thị vệ ngã lăn cả, rồi hai người cứ việc tiến. Thạch Khất rút gươm đánh Công tử Thân. Hùng Nghi Liêu rút gươm đánh Công tử Kết. Bạch công Thắng quát to lên bảo các tráng sĩ rằng: - Sao các ngươi không tiến cả lên? Một nghìn tráng sĩ đều cầm binh khí tiến vào. Bạch công Thắng giữ chặt lấy Sở Huệ Vương, không cho cựa quậy. Thạch Khất trói Công tử Thân lại. Các quan triều thần đều sợ khiếp đảm. Chỉ có Công tử Kết vốn là người dũng lực, rút ngay được ngọn kích ở trên điện, giao chiến với Hùng Nghi Liêu, Hùng Nghi Liêu bỏ thanh gươm xuống, rồi cướp lấy ngọn kích của Công tử Kết. Công tử Kết nhặt lấy thanh gươm chém vào vai bên tả Hùng Nghi Liêu. Hùng Nghi Liêu cũng đâm trúng vào bụng Công tử Kết. Hai người hăng quá, thành ra cùng chết ở nơi điện đình. Công tử Thân bảo Bạch công Thắng rằng: - Mày sang ăn nhờ ở nước Ngô, ta nghĩ tình cốt nhục, triệu mày về nước, phong làm tước công, nào ta có phụ bạc gì với mày mà mày làm phản. Bạch công Thắng nói: - Nước Trịnh giết cha ta. Mày cùng nước Trịnh giảng hòa thì mày tức là nước Trịnh. Ta vì cha ta báo thù, chứ ta có nghĩ gì đến tình riêng! Công tử Thân than rằng: - Tiếc thay! Ta không nghe lời Thẩm Chư Lương ngày trước. Bạch công Thắng chém đầu Công tử Thân, rồi căng xác ở trong triều. Thạch Khất nói: - Nếu không giết vua đi thì việc không xong được. Bạch công Thắng nói: - Đứa nhụ tử ấy cũng không có tội gì, thôi thì bỏ đi là xong. Bạch công Thắng truyền giam Sở Huệ Vương ở Cao Phủ. Bạch công Thắng muốn lập Công tử Khải (con Sở Bình Vương) lên làm vua. Công tử Khải cố ý xin từ chối. Bạch công Thắng giết chết. Thạch Khất lại khuyên Bạch công Thắng lên làm vua. Bạch công Thắng nói: - Các huyện công còn nhiều, ta nên triệu cả đến. Bạch công Thắng đóng quân ở nhà Thái Miếu. Quan đại phu là Quản Tu (dòng dõi Quản Trọng, trốn sang ở nước Sở), đem quân đánh Bạch công Thắng. Đánh nhau trong ba ngày, quân Quản Tu thua, Quản Tu bị giết. Ngữ Công Dương mật sai người đào chân tường Cao Phủ làm một cái huyệt nhỏ. Đang đêm lẻn vào đem Sở Huệ Vương ra, trốn ở trong cung Sở Chiêu Vương phu nhân (tức là Việt Nữ). Diệp Công là Phẩm Chư Lương nghe tin, đem quân đất Diệp về Sở. Mới về đến ngoài cõi, đã thấy nhân dân nước Sở kéo nhau ra đón. Ai trông thấy Diệp Công chưa đội mũ trụ, mặc áo giáp, đều ngạc nhiên nói rằng: - Sao ngài không đội mũ trụ! Người trong nước mong ngài đến, khác nào như con đỏ mong cha mẹ, vạn nhất mà mũi tên của quân giặc, nó phạm tới ngài thì chẳng phụ lòng người trong nước lắm ru! Diệp Công liền mặc áo giáp, đội mũ trụ ra đi. Đi đến gần đô thành, lại gặp nhân dân ra đón, trông thấy Diệp Công đội mũ trụ, lại ngạc nhiên nói rằng: - Sao ngài lại đội mũ trụ! Người trong nước mong ngài đến, khác nào như năm mất mùa mà mong thóc gạo, được trông thấy mặt ngài thì mừng như sống lại. Dẫu kẻ già, người trẻ, ai cũng liều chết giúp ngài. Cớ sao ngài lại đội mũ trụ để che kín mặt đi, khiến cho người ta cũng có bụng hồ nghi mà không cố sức! Diệp Công liền bỏ mũ trụ xuống mà đi. Diệp Công biết lòng dân về với mình, mới cắm lá cờ đại bái ở trên xe. Châm Doãn Cố thấy Bạch công Thắng cho người triệu, toan đem tư thuộc vào thành, sau trông thấy lá cờ đại bái có đề chữ "Diệp", liền theo Diệp Công. Người nước Sở trông thấy Diệp Công đến, mở toang cửa thành ra đón. Diệp Công đem quân đánh Bạch công Thắng ở nhà Thái Miếu, Thạch Khất bị thua, vực Bạch công Thắng lên xe, rồi trốn sang Long Sơn, định chạy sang nước khác. Diệp Công đem quân đuổi theo. Bạch công Thắng tự thắt cổ mà chết. Thạch Khất đem chôn ở phía sau núi. Diệp Công đem quân đến bắt sống được Thạch Khất, hỏi Thạch Khất rằng: - Bạch công Thắng ở đâu? Thạch Khất nói: - Đã tự tử chết rồi! Diệp Công lại hỏi: - Xác chôn ở đâu? Thạch Khất nhất định không nói ra. Diệp Công truyền đem một cái vạc nước đun sôi để ở trước mặt Thạch Khất bảo rằng: - Nếu không nói thì sẽ bị mổ. Thạch Khất cởi ngay áo ra, rồi cười bảo rằng: - Việc thành thì được làm quan to, việc chẳng thành thì sẽ bị mổ đó là lẽ thường! Khi nào ta lại chịu bán cái xác người chết để cầu thoát nạn hay sao! Thạch Khất nói xong, liền nhảy vào trong vạc, thân thể nát nhừ ra. Diệp Công không tìm thấy xác Bạch công Thắng. Diệp Công đón Sở Huệ Vương lại về làm vua. Bấy giờ nước Trần nhân thấy nước Sở mất mùa, đem quân sang xâm lấn nước Sở. Diệp Công tâu Sở Huệ Vương rồi đem quân diệt nước Trần. Diệp Công cho con Công tử Thân là Ninh nối làm lệnh doãn, cho con Công tử Kết là Khoan nối làm tư mã, còn mình thì cáo lão trở về đất Diệp. Nước Sở đã nguy mà từ đó lại được yên, bấy giờ là năm thứ 42 đời Chu Kinh Vương. Năm ấy, vua Việt là Câu Tiễn cho người do thám, biết từ khi quân Ngô lui rồi chỉ say mê tửu sắc chẳng thiết gì triều chính, vả lại mấy năm mất mùa luôn, lòng dân ta oán. Câu Tiễn liền cử đại binh sang đánh Ngô. Quân Việt vừa đến ngoài cõi, Câu Tiễn trông thấy trên đường cái có một con ễnh ương lớn trợn mắt phình bụng, ra ý tức giận. Câu Tiễn đang ngồi xe, cúi đầu vào cái thức để tỏ lòng kính. Mọi người chung quanh đều hỏi: - Đại Vương thấy gì mà kính như vậy? Câu Tiễn nói: - Ta trông thấy con ễnh ương tức giận khác nào như quân sĩ trong khi đang lâm trận, vậy nên ta kính. Các quân sĩ đều bảo nhau rằng: - Con ễnh ương tức giận mà đại vương còn có lòng kính. Chúng ta cố công luyện tập trong mấy năm nay lại không bằng con ễnh ương hay sao. Bấy giờ quân sĩ đều khuyên bảo nhau liều chết để đánh giặc. Người trong nước tiễn đưa con em đi tòng chinh, đều khóc từ giã rằng: - Chuyến đi này mà không diệt được Ngô thì quyết không trở về nữa. Câu Tiễn lại hạ lệnh cho các quân sĩ rằng: - Ai mà hai cha con cùng ở lính thì cho cha về, hai anh em cùng ở lính thì cho anh về; có cha mẹ mà không anh em thì cho về để nuôi cha mẹ; có tật bệnh không thể đi lính được thì cũng chu cấp thuốc men lương thực cho. Quân sĩ cảm cái ơn ấy đều reo hò mừng rỡ. Khi đi đến bờ sông, chém kẻ có tội để giữ binh pháp, quân sĩ rất nghiêm chỉnh. Vua Ngô là Phù Sai nghe tin quân Việt lại đến, cũng đem hết quân ra bờ sông để đối địch. Quân Việt đóng đồn ở bờ sông phía Nam. Quân Ngô đóng đồn ở bờ sông phía Bắc. Câu Tiễn chia quân ra làm hai đạo: Phạm Lãi coi đạo hữu quân. Văn Chủng coi đạo tả quân. Đội quân tử 6.000 người, theo Câu Tiễn đi giữa. Hai bên định đến sáng hôm sau thì cùng nhau giao chiến ở giữa dòng sông. Tối hôm trước, Câu Tiễn truyền cho trung quân im lặng theo dòng sông mà lên trước năm dặm để đợi quân Ngô, dặn đến nửa đêm thì nổi hiệu trống mà tiến. Lại truyền cho hữu quân im lặng theo dòng sông lên trước mười dặm đợi khi tả quân tiếp chiến thì đổ ra đánh, đều dùng trống lớn để làm cho tiếng trống vang khắp gần xa. Quân Ngô đến nửa đêm, bỗng nghe tiếng trống ầm trời, biết là quân Việt đến đánh lén, vội vàng đốt đuốc lên soi, chưa trông rõ gì cả, lại nghe có tiếng trống ở phía xa nổi lên, quân Việt hai mặt vây kín quân Ngô lại. Phù Sai kinh sợ, vội vàng chia quân ra đối địch, chẳng ngờ Câu Tiễn đem 6.000 quân, nhân khi trời tối, lẻn vào trong trận quân Ngô. Bấy giờ trời mới sáng, quân Ngô trông thấy trước sau tả hữu chỗ nào cũng là quân Việt, biết mình không thể địch nổi, vội vàng bỏ chạy. Câu Tiễn đem quân đuổi theo. Theo kịp đến đất Lập Trạch, lại đánh nhau một trận nữa. Quân Ngô lại thua. Quân Ngô đánh luôn ba trận, đều thua cả ba. Tướng nước Ngô là bọn Tào Cô và Từ Môn Sào đều chết trận cả. Phù Sai chạy thẳng về đô thành, đóng chặt cửa lại. Câu Tiễn theo con đường Hoành Sơn để tiến quân, lại đắp một cái thành ở ngoài Tư môn, gọi là Việt Thành, muốn để làm cho nước Ngô phải khốn quẫn. Câu Tiễn vây Ngô lâu ngày, người nước Ngô khốn quẫn quá. Bá Hi cáo ốm không dám ra. Phù Sai sai Vương tôn Lạc trần vai áo, quỳ xuống đất mà tiến sang tâu với Câu Tiễn rằng: - Cô thần là Phù Sai ngày trước đắc tội ở Cối Kê, nhưng không dám trái mệnh, được cùng với đại vương giảng hòa: Nay đại vương cất quân sang đánh cô thần, cô thần cũng mong đại vương nghĩ đến việc Cối Kê trước mà xá tội cho. Câu Tiễn có ý không nỡ, đã toan cho hòa. Phạm Lãi nói với Câu Tiễn rằng: - Đại Vương ngày đêm lo nghĩ, mưu tính trong 20 năm, nay sắp thành công mà lại bỏ đi là nghĩa làm sao! Nghe Phạm Lãi nói, Câu Tiễn mới không cho hòa. Sứ giả nước Ngô đi lại bảy lượt mà Văn Chủng và Phạm Lãi nhất định không nghe, lại nổi hiệu trống đánh thành. Người nước Ngô không thể đánh lại được nữa. Phạm Lãi và Văn Chủng bàn nhau muốn phá Tư môn vào. Đêm hôm ấy, trông thấy trên cửa thành có treo cái đầu Ngũ Viên, mặt to bằng bánh xe, mắt sáng như lửa điện, râu và tóc đứng dựng cả lên, sáng rực trong mười dặm. Tướng sĩ nước Việt, ai cũng sợ hãi, đều đóng quân lại. Đến nửa đêm hôm ấy, bỗng có mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm, đá vụn và cát bay mù cả lên, nhanh hơn tên nỏ. Quân Việt gặp chẳng chết thì cũng bị thương, dây thuyền đứt hết, không nối liền với nhau được. Phạm Lãi và Văn Chủng lo sợ, trong khi đang mưa, trần vai áo đến cửa thành mà sụp lạy để tạ tội. Được một lúc thì thấy gió mưa im lặng cả. Phạm Lãi và Văn Chủng đang ngồi ngủ gà để đợi trời sáng bỗng chiêm bao thấy Ngũ Viên ngồi trên một cái xe thắng con ngựa trắng đi đến, mũ áo chỉnh tề cũng như lúc sống, bảo Phạm Lãi và Văn Chủng rằng: - Khi trước ta biết quân Việt thế nào rồi cũng kéo đến, có xin treo đầu ta ở Đông môn để được mắt trông thấy, chẳng ngờ vua Ngô đem treo đầu ta ở Nam môn. Lòng trung của ta chưa tuyệt, ta không nỡ khiến cho bọn ngươi chui qua đầu ta mà vào, vậy mới nổi cơn mưa gió để làm cho quân Việt phải lui. Nhưng lòng trời đã định cho quân Việt chiếm lấy nước Ngô thì ta cũng không thể nào ngăn cấm được. Bọn ngươi muốn vào thì đi theo phía Đông môn, ta sẽ vì bọn ngươi mà mở đường cho. Hai người cùng chiêm bao như nhau, liền nói với Câu Tiễn. Câu Tiễn sai người khai một con kinh từ phía Nam qua phía Đông, khi khai đến Xa môn và Tượng môn thì bỗng thấy nước ở Thái Hồ từ Tư môn chảy vào, làn sóng dữ dội, làm thành một cái đại huyệt, có nhiều các giống cá chuyên, cá phù theo nước kéo vào. Phạm Lãi nói: - Ấy là Ngũ Viên mở đường cho quân ta đi đó! Phạm Lãi nói xong, tức khắc kéo quân vào thành. Phù Sai nghe tin quân Việt vào thành. Bá Hi đã xin hàng, liền cùng với Vương tôn Lạc và ba con chạy sang Dương Sơn, đi suốt ngày suốt đêm, bụng đói miệng khát, hai mắt hoa mờ. Các người chạy theo bứt được một nắm lúa đạo sống, đem xát đi rồi đưa cho Phù Sai. Phù Sai ăn xong, ngồi xuống đất, lấy tay vục nước ở ngòi lên uống lại hỏi: - Ta vừa ăn thứ gì thế? Các người nói: - Đó là lúa đạo sống. Phù Sai nói: - Công tôn Thánh ngày trước bảo ta rồi phải chạy vất vả không kịp nấu cơm ăn, chính là thế này. Vương tôn Lạc nói: - Ăn no rồi thì xin đi. Phía trước có một cái hang sâu, ta hãy tránh vào đấy. Phù Sai nói: - Yêu ngôn đã hợp thì sắp đến ngày chết, ta còn tránh làm gì nữa. Nói xong, cứ ngồi ở Dương Sơn, bảo Vương tôn Lạc rằng: - Ngày trước ta giết Công tôn Thánh, ném ở trên đỉnh núi này, chẳng hay còn có thiêng hay không? Vương tôn Lạc nói: - Đại vương thử gọi xem! Phù Sai gọi to lên rằng: - Công tôn Thánh! Trong núi cũng có tiếng nói theo rằng: - Công tôn Thánh! Ba lần gọi mà đều nghe thấy có tiếng nói theo. Phù Sai kinh sợ, lại thiên sang ở Vu Toại. Câu Tiễn lại đem 1.000 quân đuổi theo, vây kín mấy dặm. Phù Sai viết một bức thư, buộc đầu mũi tên, bắn vào trong đám quân Việt. Quân Việt nhặt được, đệ trình Phạm Lãi và Văn Chủng. Phạm Lãi và Văn Chủng cùng mở ra xem. Thư rằng: "Ta nghe giảo thỏ đã chết thì tẩu cẩu tất bị mổ; địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn. Sao quan đại phu không lưu cho nước Ngô tôi còn lại một chút, để làm cái dư địa sau này". Văn Chủng cũng viết một bức thư buộc vào mũi tên mà đáp lại rằng: "Nước Ngô có sáu điều lỗi to: Giết kẻ trung thần là Ngũ Viên, đó là một điều lỗi to; giết kẻ trung thần là Công tôn Thánh, đó là hai điều lỗi to; quan thái tể Bá Hi là người sàm nịnh mà lại tin dùng, đó là ba điều lỗi to; Tề, Tấn vô tội mà đem quân sang đánh, đó là bốn điều lỗi to; Ngô, Việt cùng tiếp giáp nhau mà hay sang xâm nhiễu, đó là năm điều lỗi to; nước Việt giết tiên vương nước Ngô, mà nước Ngô không biết báo thù lại dung túng quân giặc để gây nên tai vạ, đó là sáu điều lỗi to. Có sáu điều lỗi to ấy thì tài nào mà không mất nước! Ngày xưa trời đem nước Việt cho Ngô, Ngô không chịu nhận; nay trời lại đem nước Ngô cho Việt, khi nào Việt lại dám trái mệnh trời!" Phù Sai tiếp được thư, đọc đến điều lỗi thứ sáu, ứa nước mắt mà nói rằng: - Ta quên kẻ thù của tiên vương mà không giết Câu Tiễn, là kẻ bất hiếu, vì thế mà trời không tựa nước Ngô nữa! Vương tôn Lạc nói - Tôi xin sang yết kiến vua Việt một lần nữa để mà cố kêu lại. Phù Sai nói: - Ta cũng không muốn về nước nữa! Nếu vua Việt cho ta làm phụ dung, để đời đời thần phục nước Việt thì ta cũng đành lòng. Vương tôn Lạc sang đến quân Việt. Phạm Lãi và Văn Chủng không tiếp. Câu Tiễn trông thấy sứ giả nước Ngô khóc lóc mà về, liền động lòng thương, sai người bảo Phù Sai rằng: - Ta nghĩ tình nhà vua ngày trước xin để nhà vua ở đất Dũng Đông, cấp cho 500 nóc nhà để trọn đời nhà vua. Phù Sai sụt sùi đáp rằng: - Đại vương thương tình mà xá cho Ngô thì Ngô cũng tức là một nơi ngoại phủ của đại vương đó. Nếu đại vương phá xã tắc, bỏ tôn miếu mà đem 500 nóc nhà cấp cho tôi thì tôi nay già rồi, không thể chịu được cái nhục ấy, còn sống làm gì nữa! Sứ giả nước Việt về rồi, Phù Sai cũng vẫn chưa chịu tự tử. Câu Tiễn bảo Phạm Lãi và Văn Chủng rằng: - Sao hai người không bắt Phù Sai mà giết đi cho rồi? Phạm Lãi và Văn Chủng nói: - Phù Sai cũng là một ông vua, chúng tôi không dám giết. Xin đại vương phụng mệnh trời mà làm chớ nên để chậm. Câu Tiễn liền chống thanh kiếm đứng ở trước quân, sai người bảo Phù Sai rằng: - Ở đời, chẳng có ông vua nào vạn tuế, tổng chi một chết là xong! Can gì lại đợi cho quân ta kề gươm đến tận cổ! Phù Sai thở dài mấy tiếng, ngoảnh trông bốn mặt khóc than rằng: - Ta giết trung thần là Ngũ Viên và Công tôn Thánh, nay ta phải tự tử cũng là muộn lắm rồi! Phù Sai lại bảo các người chung quanh rằng: - Giả sử chết mà có biết thì ta còn mặt mũi nào mà trông thấy Ngũ Viên và Công tôn Thánh ở dưới suối vàng. Âu là lấy ba bức lụa mà phủ mặt đi cho ta! Nói xong, Phù Sai rút gươm đâm cổ chết. Vương tôn Lạc cởi áo để phủ mặt cho Phù Sai rồi lấy dây lưng thắt cổ chết ở bên cạnh. Câu Tiễn truyền theo hầu lễ chôn Phù Sai ở Dương Sơn, lại sai quân sĩ mỗi người một sọt đất đắp vào, chỉ trong một lúc thành ra đại chủng. Còn ba con Phù Sai, đem đày ở Long Vĩ Sơn. Câu Tiễn vào Cô Tô Thành, ngự ở trong cung vua Ngô. Các quan triều thần vào lạy mừng. Quan Thái tể là Bá Hi cũng ở trong hàng ấy cậy có cái ơn chu toàn cho Câu Tiễn ngày trước coi bộ khoe khoang. Câu Tiễn bảo Bá Hi rằng: - Nhà ngươi là quan thái tể nước Ngô, khi nào ta dám xử như vậy! Vua Ngô ở Dương Sơn, sao nhà ngươi không đi theo. Bá Hi thẹn mà lui ra. Câu Tiễn sai lực sĩ bắt giết đi, lại diệt cả gia tộc mà bảo rằng: - Thế là ta báo thù cho Ngũ Viên đó! Câu Tiễn phủ dụ dân Ngô rồi đem quân qua sông Giang, sông Hoài cùng với Tề, Tấn, Tống, Lỗ và chư hầu hội ở Thư Châu (đất nước Tề). Sai người đem lễ vật vào cống thiên tử nhà Chu. Bấy giờ Chu Kính Vương đã mất, thái tử Nhân lên nối ngôi, tức là Chu Nguyên Vương. Chu Nguyên Vương đem cổn miện, khuê bích, đồng cung, hồ thỉ ban cho Câu Tiễn, sai làm bá chủ ở Đông phương. Câu Tiễn vâng mệnh. Chư hầu đều sai sứ đến mừng. Bấy giờ nước Sở đã diệt nước Trần, cũng sợ binh uy nước Việt, sai sứ đến mừng. Câu Tiễn cắt đất ở sông Hoài để cho nước Sở; cắt đất ở phía Đông sông Từ, vuông trăm dặm để cho nước Lỗ, những đất mà nước Ngô chiếm được của nước Tống khi trước lại đem trả Tống. Chư hầu đều mến phục, tôn Câu Tiễn làm bá chủ. Câu Tiễn về đến nước Ngô, sai người lập Hạ Đài ở đất Cối Kê, để rửa lại cái thẹn bị thua khi trước; lại bày tiệc ở trên Văn Đài nước Ngô, cùng với các quan uống rượu vui, sai nhạc công tấu khúc Phạt Ngô. Nhạc công gảy đàn cầm mà hát rằng: "Đại vương ta thần vũ binh uy. Muốn trừ vô đạo hỏi nhật kỳ. Phạm Lãi, Văn Chủng liền tâu quỳ: Ngô giết trung thần Ngũ Tử Tư. Nay chẳng đánh Ngô còn đợi chi? Mưu thần phụng mệnh ngay tức thì! Mở mang nghìn dặm một trận đi. Công nghiệp lừng lẫy nên nhớ ghi. Thưởng phạt xứng đáng chẳng tiếc gì. Vua tôi vui chén hồ mấy khi!" Các quan trên đài đều tươi cười cả, chỉ có Câu Tiễn nét mặt không được vui. Phạm Lãi thấy vậy phàn nàn một mình rằng: - Đại vương không muốn nói đến công kẻ hầu hạ thế là cái mối nghi kỵ đã trông thấy rồi! Ngày hôm sau Phạm Lãi vào cáo từ với Câu Tiễn rằng: - Tôi nghe nói vua nhục thì bề tôi nên chết. Khi trước đại vương bị nhục ở Cối Kê mà tôi không chết là định ẩn nhẫn để báo thù nước Ngô; nay nước Ngô đã diệt rồi, xin đại vương gia ân cho cái thân già yếu này được về nghỉ. Câu Tiễn ứa nước mắt khóc, ướt đầm cả áo mà bảo rằng: - Ta nhờ sức nhà ngươi mà được như thế này, đang nghĩ để đền công lại, cớ sao nhà ngươi lại nỡ bỏ ta mà đi. Nhà ngươi ở lại thì ta giao quyền chính cho, nếu đi thì vợ con nhà ngươi, ta sẽ giết hết. Phạm Lãi nói: - Giết tôi thì hơn chứ vợ con tôi có tội gì. Thôi thì sống chết cũng tùy ý đại vương, tôi chẳng nghĩ chi cả! Đêm hôm ấy, Phạm Lãi đi một chiếc thuyền nhỏ, ra Tề Nữ Môn qua Tam Giang vào Ngũ Hồ. Ngày hôm sau, Câu Tiễn sai người triệu Phạm Lãi thì Phạm Lãi đã đi rồi. Câu Tiễn sầm nét mặt lại mà bảo Văn Chủng rằng: - Có thể đuổi theo bắt lại được Phạm Lãi không? Văn Chủng nói: - Mưu trí của Phạm Lãi, quỷ thần khó lường được ta không nên đuổi theo. Văn Chủng lui ra. Có người mang một bức thư của Phạm Lãi. Thư rằng: "Vua Ngô có nói:" Giảo thỏ đã chết thì tẩu cẩu tất bị mổ; địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn "ngài không nhớ hay sao! Vua Việt môi dài mỏ quạ, là người nhẫn nhục mà ghét kẻ có công. Cùng ở lúc hoạn nạn thì được chớ cùng ở lúc an lạc thì không toàn, nay ngài không đi, tất có tai vạ". Văn Chủng xem xong, muốn hỏi người đưa thư thì người đưa thư đã đi đâu mất rồi. Văn Chủng có ý buồn rầu, nhưng vẫn chưa tin lời Phạm Lãi, liền phàn nàn rằng: - Thiếu Bá (tên tự của Phạm Lãi) xử như thế cũng khí quá! Mấy hôm sau, Câu Tiễn rút quân về Việt, đem cả Tây Thi về. Câu Tiễn phu nhân mật sai người bắt Tây Thi đem ra bờ sông, buộc viên đá lớn vào, rồi đẩy xuống sông mà bảo rằng: - Nó là cái vật vong quốc, còn để làm gì! Người sau không rõ chuyện ấy, ngoa truyền là: Phạm Lãi đem Tây Thi đi Ngũ Hồ, mới có hai câu thơ rằng: "Đem Tây Thi đi là có ý Sợ còn nghiêng nước hại quân vương!" Xét thực ra thì Phạm Lãi đi có một mình, đến vợ con cũng còn bỏ lại, huống chi là Tây Thi. Lại có người nói Phạm Lãi mê Tây Thi, mới lập kế đem đẩy xuống sông, đó cũng là nói lầm. La Ẩn có thơ cãi oan cho Tây Thi rằng: "Nước nhà còn, mất bởi cơ trời. Sao cứ Tây Thi đổ lỗi hoài! Tây tử nếu làm Ngô mất nước. Thì sau Việt mất bởi vì ai?" Câu Tiễn nghĩ công của Phạm Lãi, đem một trăm dặm đất phong cho vợ con. Lại sai thợ tượng đúc một pho tượng Phạm Lãi bằng vàng để ở bên cạnh, trông như Phạm Lãi còn sống. Phạm Lãi từ Ngũ Hồ đi ra bể, bỗng một hôm về đem cả vợ con đi, sang ở nước Tề, đổi tên là Chi Di Tử Bì, làm quan thượng khanh. Chưa được bao lâu lại từ chức về ẩn ở Đào Sơn, chăn nuôi các giống vật, sinh sản được lợi kể hàng 1.000 nén vàng, tự xưng là Đào Chu Công. Sách "Trí phú kỳ thư" tức là của Đào Chu Công làm ra. Câu Tiễn không ban thưởng cái công diệt Ngô, lại không chia cho các quan một thước đất nào cả, và có ý khinh rẻ những kẻ công thần. Kế Nghê giả cách điên dại, rồi xin từ chức. Bọn Duệ Dung cũng nhiều người cáo lão. Văn Chủng nhớ lời nói của Phạm Lãi, cáo ốm không vào triều. Những cận thần của Câu Tiễn, có kẻ không bằng lòng với Văn Chủng liền nói dèm rằng: - Văn Chủng tự nghĩ rằng công to mà thưởng ít, có ý oán vọng vậy nên không vào triều. Câu Tiễn vốn biết cái tài của Văn Chủng, nghĩ thầm: Ngô đã diệt rồi, còn dùng chi nữa, sợ khi hắn làm loạn, chẳng ai trị nổi, nhưng muốn trừ đi, lại không có cớ gì. Bấy giờ Lỗ Ai Công cùng ba nhà (Mạnh, Trọng, Quý) có hiềm khích, muốn mượn quân nước Việt trừ bỏ ba nhà, mới giả cách sang chầu nước Việt để mượn quân. Câu Tiễn lo Văn Chủng phản, không dám phát binh. Lỗ Ai Công chết tại nước Việt. Một hôm, Câu Tiễn đến thăm bệnh Văn Chủng. Văn Chủng làm ra dáng đau ốm, gượng dậy nghênh tiếp. Câu Tiễn liền cởi thanh kiếm ra ngồi, bảo Văn Chủng rằng: - Ta nghe người chí sĩ không lo thân mình chết, mà lo đạo mình không được làm. Nhà ngươi có bảy thuật ta mới thi hành có ba mà Ngô đã diệt; còn thừa bốn thuật nhà ngươi định dùng làm gì? Văn Chủng nói: - Tôi cũng không biết dùng để làm gì cho được! Câu Tiễn nói: - Xin nhà ngươi đem bốn thuật ấy mà giúp cho tiền nhân nước Ngô ở dưới âm phủ, phỏng có nên chăng? Câu Tiễn nói xong lên xe đi về, bỏ thanh kiếm đeo lại ở chỗ ngồi, Văn Chủng cầm lấy xem thì vỏ kiếm có hai chữ Chúc Lâu, tức là thanh kiếm của Phù Sai đưa cho Ngũ Viên để tự tử khi trước. Văn Chủng ngửa mặt lên trời than rằng: - Cổ nhân có nói "Ơn to thì không báo nữa" ta không nghe lời Thiếu Bá (tên tự của Phạm Lãi) đến nỗi bị giết, chẳng cũng ngu lắm ru! Văn Chủng lại cười nói rằng: - Nhà bàn luận đời sau, tất đem ta mà sánh với Ngũ Viên thì còn oán hận gì nữa. Văn Chủng nói xong liền cầm kiếm tự tử. Câu Tiễn nghe tin Văn Chủng chết, mừng lắm đem ra chôn ở Ngọa Long Sơn. Sau người ta gọi núi ấy là Chủng Sơn. Chôn chưa được một năm thì nước bể dâng lên đánh lở linh cữu xuống bể. Câu Tiễn làm vua được 27 năm thì chết, tức là năm thứ bảy đời Chu Nguyên Vương. Con cháu sau nối đời xưng bá. Lại nói chuyện sáu quan khanh nước Tấn, từ khi Phạm Thị và Trung Hàng thị mất đi rồi, chỉ còn có bốn quan khanh là Trí, Triệu, Hàn, Ngụy mà thôi. Trí thị, Tuân thị và Phạm thị nguyên cùng là họ Tuân, vì muốn phân biệt, mới theo lối Trí Oánh, đổi là Trí thị. Bấy giờ Trí Dao cầm quyền chính gọi là Trí Bá. Bốn quan khanh nghe tin họ Điền giết vua chuyên quyền mà chư hầu không ai đánh, đều bàn nhau chiếm đất để làm phong ấp. Phần đất của Tấn Xuất công, lại ít không bằng bốn quan khanh. Hãy nói chuyện Triệu Giản Tử tên Ưởng sinh được mấy người con: Con trưởng tên là Bá Lỗ, còn người con nhỏ nhất tên Vô Tuất, là con một người tiện tỳ. Có người thầy tướng tên gọi Cô Bố, tên tự là Tứ Khanh đi đến nước Tấn. Triệu Ưởng sai gọi đến để xem tướng cho các con. Tử Khanh nói: - Không ai đáng làm tướng quân. Triệu Ưởng than rằng: - Nếu vậy thì họ Triệu ta suy mất! Tử Khanh nói: - Lúc tôi đến đây, có gặp một chàng trẻ tuổi đi ở đường mà kẻ theo hầu đều là người trong phủ ngài, ý chừng cậu ấy là con ngài có phải không? Triệu Ưởng nói: - Đấy là đứa con nhỏ của ta, tên gọi Vô Tuất, là con một người tiện tỳ, không đáng kể đến. Tử Khanh nói: - Trời có lòng bỏ thì dẫu quý cũng hóa tiện, trời có lòng tựa thì dẫu tiện cũng hóa quý. Cậu ấy cốt tướng khác các Công tử. Tôi chưa được xem rõ, ngài nên cho gọi đến. Triệu Ưởng sai người gọi Võ Tuất đến. Tử Khanh trông thấy, vội vàng đứng dậy vái chào mà nói rằng: - Thật là một vị tướng quân! Triệu Ưởng cười mà không nói gì cả. Hôm khác, gọi các con đến để hỏi xem việc học vấn ra sao. Vô Tuất hỏi đâu nói đấy, lời lẽ phân minh. Triệu Ưởng biết là người hiền, liền bỏ Bá Lỗ, lập Vô Tuất làm đích tử. Một hôm, Trí Bá giận nước Trịnh không đến triều, muốn cùng Triệu Ưởng đánh Trịnh. Gặp khi Triệu Ưởng ốm, sai Vô Tuất đi thay. Trí Bá đem rượu đổ cho Vô Tuất uống. Vô Tuất không thể uống được. Trí Bá đang say nổi giận, cầm chén rượu ném vào mặt Vô Tuất, bị thương chảy máu. Tướng sĩ họ Triệu đều giận muốn đánh Trí Bá. Vô Tuất nói: - Đó là một điều nhỏ, ta nên nhẫn nhục. Khi Trí Bá rút quân về nước, lại nói là lỗi của Vô Tuất, muốn cho Triệu Ưởng bỏ Vô Tuất, nhưng Triệu Ưởng không theo. Từ bấy giờ Vô Tuất thành ra có hiềm khích với Trí Bá. Triệu Ưởng ốm nặng, bảo Vô Tuất rằng: - Ngày khác nước Tấn có loạn, chỉ đất Tấn Dương có thể trông cậy được. Con nên nhớ lời. Nói xong, Triệu Ưởng mất. Vô Tuất thay ngôi Triệu Ưởng, tức là Triệu Tương Tử. Đó là năm thứ hai đời Chu Định Vương (tên là Giới, con Nguyên Vương). Bấy giờ Tấn Xuất công giận bốn quan khanh chuyên quyền, mật sai người mượn quân Tề và quân Lỗ về đánh bốn quan khanh. Điền thị nước Tề cùng ba nhà nước Lỗ lại đem các mưu ấy bảo Trí Bá. Trí Bá giận lắm, cùng với Hàn Khanh Tử là Hổ Ngụy Hoàn Tử là Câu, Triệu Tương Tử là Vô Tuất hợp quân bốn nhà lại để đánh đuổi Tấn Xuất công. Tấn Xuất công chạy sang nước Tề. Trí Bá lập cháu tằng tôn Tấn Chiêu công là Kiên lên nối ngôi, tức là Tấn Ai công. Từ bấy giờ quyền chính nước Tấn đều về tay Trí Bá (tức là Trí Dao). Trí Bá có ý muốn chiếm nước Tấn, triệu các gia thần đến để thương nghị. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 84 Trí Bá tháo nước vào Tấn Dương thành Dự Nhượng đánh áo của Triệu Tương Tử Bấm để xem Trí Bá tên là Dao, cháu của Trí Vũ Tử (Lịch), con Trí Tuyên Tử (Từ Ngô). Khi trước Từ Ngô muốn lập người con nối bàn với người trong họ. Từ Ngô nói: - Ta muốn lập Dao thì thế nào? Trí Quả nói: - Không bằng lập Tiêu. Từ Ngô nói: - Tài trí của Tiêu đều kém Dao, không bằng lập Dao. Trí Quả nói: - Dao có năm điều sở trường hơn người, chỉ có một điều sở đoản mà thôi. Râu đẹp mà dài hơn người, cưỡi ngựa bắn cung giỏi hơn người, nhiều kỹ nghệ hơn người, cương nghị quả cảm hơn người, trí xảo biện luận hơn người, nhưng mà tham tàn bất nhân, đó là một điều sở đoản. Đem năm điều sở trường đè lấn người ta mà lại thêm một nỗi bất nhân thì còn ai dung được. Nếu mà lập Dao, họ Trí tất diệt! Từ Ngô không cho làm phải, cứ lập Dao làm đích tử. Trí Quả than rằng: - Ta không đổi họ khác e có ngày vạ lây! Trí Quả liền vào yết kiến quan thái sử, xin đổi họ, tự xưng là Phụ thị. Khi Từ Ngô mất, Dao nối ngôi, chuyên cầm quyền chính nước Tấn, trong có bọn Trí Khai, Trí Quốc là thân thuộc, ngoài có bọn Hi Tì. Dự Nhượng làm tay chân, quyền to thế trọng, mới có ý muốn chiếm nước Tấn, mật triệu các gia thần đến để thương nghị. Mưu sĩ là Hi Tì nói: - Bốn quan khanh quyền lực bằng nhau, nếu một nhà nào làm trước thì ba nhà nọ tất chống cự lại. Vậy muốn chiếm lấy nước Tấn thì phải trừ bớt cái thế mạnh của ba nhà. Trí Bá hỏi: - Dùng cách gì trừ bớt được? Hi Tì nói: - Nay nước Việt đang thịnh, nước Tấn ta mất quyền chủ minh, ngài mượn việc cất quân tranh bá với Việt rồi giả cách truyền mệnh của vua Tấn, bắt ba nhà (Hàn, Triệu, Ngụy) kia mỗi nhà phải nộp vào công gia 100 dặm đất, để thu thứ thuế ấy làm quân phí. Ba nhà chịu nộp thì thành ra ta thêm được 300 dặm đất. Họ Trí ta cường thịnh lên bao nhiêu thì ba nhà kia suy yếu đi bấy nhiêu; nếu không chịu nộp thì bấy giờ ta phụng mệnh vua Tấn, đem quân trừ diệt đi, ấy là cái phép "Muốn ăn quả thì bóc vỏ trước" đó! Trí Bá hỏi: - Kế ấy dẫu diệu, nhưng trong ba nhà thì nên trị nhà nào trước? Hi Tì nói: - Họ Trí ta vẫn thân với Hàn, Ngụy mà có hiềm khích với Triệu. Ta nên trước Hàn sau Ngụy, Hàn, Ngụy đã theo thì Triệu tất cũng không dám trái mệnh. Trí Bá liền sai Trí Khai đến yết kiến Hàn Hổ (tức là Hàn Khang Tử). Hàn Hổ mời vào. Trí Khai nói: - Anh tôi phụng mệnh vua Tấn sắp quân đánh Việt, truyền cho ba quan khanh mỗi nhà phải nộp vào công gia 100 dặm đất, để thu thứ thuế ấy làm quân phí. Anh tôi sai tôi đến nói, xin ngài giao lại địa đồ cho. Hàn Hổ nói: - Nhà ngươi hãy về trước, ngày mai ta sẽ trả lời. Trí Khai lui về. Hàn Hổ họp các gia thần lại thương nghị rằng: - Trí Bá định mượn tiếng vua Tấn để trừ bớt thế lực ba nhà, vậy mới xin cắt đất. Ta muốn đem quân trừ thằng giặc ấy trước, các ngươi nghĩ thế nào? Mưu sĩ là Đoàn Qui nói: - Trí Bá tham mà không chán, giả mệnh vua để cắt đất của ta nếu ta đánh lại thì tức là chống cự với vua, kẻ kia lại mượn kế mà trị tội. Chi bằng ta chịu cho hắn, hắn đã được đất của ta thì tất lại đòi cắt đất của Triệu, Ngụy nữa. Triệu, Ngụy không theo, tất sinh sự đánh nhau, bấy giờ ta sẽ ngồi xem bên nào thắng bên nào bại. Hàn Hổ lấy làm phải, sai Đoàn Qui vẽ một bức địa đồ 100 dặm đất, ngày hôm sau thân hành đem sang dâng Trí Bá. Trí Bá mừng lắm, bày tiệc ở trên Lam Đài để thết Hàn Hổ. Uống rượu được nửa chừng. Trí Bá sai người đem một bức tranh để ở trên ghế, cùng với Hàn Hổ cùng xem, tức là bức tranh vẽ Biện Trang Tử nước Lỗ đâm chết ba con hổ. Trên có đề bài tán rằng: "Ba hổ cắn một dê. Tài nào khỏi tranh cạnh. Đợi xem cuộc đánh xong. Hẳn có ngày mỏi mệt. Một tay đâm ba hổ. Biện Trang thật đáng khen!" Trí Bá nói đùa với Hàn Hổ rằng: - Tôi thường xét xem sử sách, trong các nước cũng có kẻ cùng tên với ngài: Tề có Cao Hổ, Trịnh có Hàn Hổ cùng với ngài cả thẩy là ba.. Bấy giờ Đoàn Qui đứng bên cạnh, nói với Trí Bá rằng: - Cứ theo trong lễ thì không nên động chạm đến tên húy của nhau. Ngài nói đùa chủ tôi như vậy, chẳng cũng quá lắm ru! Đoàn Qui vốn người lùn bé, đứng bên cạnh Trí Bá, chỉ cao đến dưới vú. Trí Bá lấy tay vỗ vào trán Đoàn Qui bảo rằng: - Thằng trẻ ranh này biết gì mà cũng nói láo! Miếng đồ ăn thừa tức là mày đó chăng! Nói xong lại vỗ tay cười rầm lên. Đoàn Qui không dám nói lại, rồi đưa mắt nhìn Hàn Hổ. Hàn Hổ giả cách say rượu, nhắm mắt lại mà đáp rằng: - Trí Bá nói phải lắm! Nói xong, Hàn Hổ cáo từ lui ra. Trí Quốc nghe nói liền vào can Trí Bá rằng: - Ngài đã bỡn cợt Hàn Hổ lại còn khinh bỉ Đoàn Qui, thế tất người ta phải căm thù ta lắm. Nếu ta không phòng bị, chắc có ngày tai vạ. Trí Bá trợn mắt quát to lên mắng: - Ta không hại ai thì thôi, còn ai hại ta nổi. Trí Quốc nói: - Giống ong kiến còn hại được người, huống chi là bọn quan tướng! Ngài không phòng bị thì ngày khác hối lại không kịp! Trí Bá nói: - Ta sẽ bắt chước Biện Trang Tử một tay đâm chết ba hổ, lo gì đến những giống ong kiến! Trí Quốc thở dài lui ra. Ngày hôm sau Trí Bá lại sai Trí Khai sang đòi cắt đất của Ngụy Câu (tức là Ngụy Hoàn Tử). Ngụy Câu toan chống cự lại. Mưu thần là Nhâm Dương nói: - Hắn đã đòi đất thì ta cứ cho. Kẻ mất đất tất sợ, kẻ được đất tất kiêu. Kẻ kiêu thì tất khinh người, ta sợ thì tất ta phải tương thân; đem quân tương thân mà đánh kẻ khinh người thì Trí thị còn gì mà không phải mất. Ngụy Câu khen phải, rồi cũng đem 100 dặm đất nộp cho Trí Bá. Trí Bá sai người anh là Trí Tiêu sang nói với Triệu Vô Tuất (tức là Triệu Tương Tử) đòi lấy đất Sài Cao Lang. Triệu Vô Tuất nghĩ đến thù xưa liền nổi giận nói rằng: - Thổ địa là của đời trước để lại sao ta dám bỏ. Hàn và Ngụy có đất thì cứ mà nộp, chứ ta đây không theo lối ô mị ấy. Trí Tiêu về nói với Trí Bá. Trí Bá giận lắm, sai người ước với Hàn, Ngụy cùng đem quân đánh họ Triệu. Hẹn khi diệt được họ Triệu rồi thì bao nhiêu đất của họ Triệu cùng nhau chia ba. Hàn Hổ và Ngụy Câu vừa sợ thế lực của họ Trí, vừa tham thổ địa của họ Triệu, đều đem quân theo Trí Bá. Trung quân là Trí Bá, hữu quân là Hàn Hổ và tả quân là Ngụy Câu cùng kéo nhau sang Triệu phủ định bắt Triệu Vô Tuất. Mưu thần của họ Triệu là Trương Mạnh Đàm bảo Triệu Vô Tuất rằng: - Quân ta ít không thể địch nổi, ngài nên mau mau tránh đi. Triệu Vô Tuất nói: - Biết đi đâu cho yên được? Trương Mạnh Đàm nói: - Không gì bằng đi ra Tấn Dương. Khi trước Đổng An Vu có lập ra công cung ở trong thành ấy, lại nhờ có Doãn Đạc đã sửa sang rất kỹ. Dân ở đấy đội ơn Doãn Đạc khoan tuất trong mấy mươi năm tất cũng một lòng trung ái. Khi tiên quân lâm chung, có dặn ta rằng: "Ngày khác nước Tấn có loạn, chỉ đất Tấn Dương có thể trông cậy được". Ngài nên đi mau, chớ có chậm trễ. Triệu Vô Tuất liền cùng với gia thần là bọn Trương Mạnh Đàm, Cao Bách thẳng đường chạy ra Tấn Dương. Trí Bá đem quân Hàn và quân Ngụy đuổi theo Triệu Vô Tuất. Triệu Vô Tuất có kẻ gia thần tên gọi Nguyên Quá đi chậm lại sau, gặp một vị thần nhân ở giữa đường, đứng trong đám mây, chỉ trông thấy đầu đội mũ kim quan mình mặc áo cẩm bào, còn mặt thì mập mờ không được rõ, cầm hai đoạn trúc giao cho Nguyên Quá mà dặn rằng: - Nhà ngươi đưa hộ cho Triệu Vô Tuất. Nguyên Quá theo kịp Triệu Vô Tuất, kể những sự trông thấy và đưa nộp hai đoạn trúc. Triệu Vô Tuất bửa hai đoạn trúc ra xem. Trong đoạn trúc có hai hàng chữ đỏ rằng: "Ta bảo cho Triệu Vô Tuất biết: Ta đây là Hoắc Sơn Thần, phụng mệnh trời đến ngày Bính Tuất tháng ba này thì cho nhà ngươi diệt được họ Trí". Triệu Vô Tuất giấu kín chuyện ấy, rồi đi sang Tấn Dương. Trăm họ cảm cái ân đức của Doãn Đạc, kẻ già người trẻ đều kéo nhau ra, nghênh tiếp Triệu Vô Tuất vào thành, đóng ở công cung. Triệu Vô Tuất thấy lòng dân yêu mến, lại thấy Tấn Dương thành quách bền chặt, kho tàng đầy rẫy, trong bụng hơi được yên, liền hiểu dụ cho trăm họ đều lên mặt thành để mà canh giữ. Khi kiểm duyệt lại các đồ binh khí, thấy qua kích đều hư nát, tên bắn không được đủ 1.000 chiếc. Triệu Vô Tuất có ý không được vui mà bảo Trương Mạnh Đàm rằng: - Giữ thành thì không gì tốt bằng tên bắn, nay tên bắn chỉ có mấy trăm, không đủ phân phát, biết làm thế nào? Trương Mạnh Đàm nói: - Tôi nghe khi trước Đổng An Vu ở Tấn Dương này, đem cỏ địch, cỏ cao và gỗ khổ, gỗ sở ghép lại làm tường nhà công cung. Sao ngài không phá bức tường ra để nghiệm xem hư thực thế nào. Triệu Vô Tuất sai người phá bức tường ra, quả nhiên là những vật liệu dùng làm tên bắn được. Triệu Vô Tuất nói: - Tên bắn đã đủ rồi, nhưng lấy đồng đâu mà đúc binh khí? Trương Mạnh Đàm nói: - Khi trước Đổng An Vu lập ra công cung bao nhiêu cột đều làm bằng đồng tốt cả, bây giờ phá ra mà đúc binh khí thì lo gì thiếu dùng. Triệu Vô Tuất phá các cột ra, quả nhiên là một thứ đồng thực tốt, liền sai thợ đúc làm các thứ: Kiếm, kích, đao, sang. Thứ nào cũng tinh lợi cả. Ai nấy đều được vững lòng. Triệu Vô Tuất nói: - Xem thế này thì biết trị nước cần phải có hiền thần! Nhờ có Đổng An Vu mà đủ được binh khí, nhờ có Doãn Đạc mà thu phục được dân tâm, ấy là trời tựa họ Triệu ta đó! Trí Bá và Hàn, Ngụy đem quân đến, chia làm ba đại dinh, đóng liền với nhau, vây kín thành Tấn Dương lại. Dân trong thành Tấn Dương đều kéo nhau đến công cung để đợi lệnh. Triệu Vô Tuất gọi Trương Mạnh Đàm đến thương nghị. Trương Mạnh Đàm nói: - Kẻ kia nhiều mà ta ít, đánh vị tất đã được, chi bằng ta dùng cách cố thủ, để đợi quân họ có biến. Hàn và Ngụy không thù gì với ta, chẳng qua chỉ sợ thế Trí Bá mà phải theo. Hai nhà ấy phải cắt đất, cũng không bằng lòng, dầu theo Trí Bá, nhưng sự đồng tâm thì thật là không có, chỉ trong mấy tháng, tất có ngày nghi kỵ lẫn nhau, tài nào lâu được. Triệu Vô Tuất nghe lời, phủ dụ trăm họ, rồi bảo nên hợp lực để cố thủ. Quân dân đều khuyên nhau, dẫu đàn bà trẻ con cũng xin liều chết. Quân giặc đến gần thành, đều cùng nhau giương nỏ ra bắn. Trí Bá cùng Hàn, Ngụy cố vây trong một năm mà không thể phá vỡ. Trí Bá ngồi trên một cái xe nhỏ, đi chung quanh thành, khen rằng: - Cái thành này bền như sắt, còn phá sao nổi! Trí Bá đang nghĩ vơ vẩn, đi đến một quả núi, trông thấy dưới chân núi ấy có nhiều ngọn suối, nước chảy cuồn cuộn, đi về phía Đông, liền gọi thổ dân ra hỏi. Thổ dân trả lời rằng: - Núi này gọi là Long Sơn. Trên núi có nhiều đá lớn như cái bịch, vậy nên lại gọi là Huyền Bịch Sơn. Sông Tấn Thủy chảy về phía Đông, hợp với sông Phần Thủy. Núi này tức là chỗ phát nguyên đó. Trí Bá hỏi: - Ở đây cách thành Tấn Dương chừng bao nhiêu dặm? Thổ dân nói: - Từ đây đến cửa Tây thành Tấn Dương độ 10 dặm đường. Trí Bá trèo lên núi, trông về sông Tấn Thủy; lại đi quanh về phía Đông Bắc thành Tấn Dương, xem xét hồi lâu, rồi sực nghĩ ra mà nói rằng: - Ta nghĩ được kế để phá thành này rồi! Nói xong, liền về trại, mời Hàn Hổ và Ngụy Câu đến để thương nghị, muốn tháo nước vào thành Tấn Dương. Hàn Hổ nói: - Tấn Thủy chảy về phía Đông, làm thế nào cho chảy về phía Tây được? Trí Bá nói: - Ta không định tháo nước sông Tấn Thủy. Sông Tấn Thủy phát nguyên ở Long Sơn, nước chảy như thác; nếu ta đào một cái cừ lớn ở Long Sơn để làm chỗ chứa nước, rồi ngăn nước sông Tấn Thủy, không cho chảy về Tấn Xuyên thì thế tất chảy phải vào cái cừ lớn. Nay mai sắp có mưa xuân, tất nước nguồn lên to đợi khi nước nguồn lên, phá đê cho chảy vào thành, như thế thì người trong thành đều hóa ra cá hết! Hàn Hổ và Ngụy Câu đồng thanh khen rằng: - Kế ấy rất diệu! Trí Bá nói: - Nay ta nên chia nhau mỗi người giữ một đường: Quân Hàn giữ đường Đông, Quân Ngụy giữ đường Nam nên cố gia công ngày đêm phòng thủ; còn tôi thì đem quân sang đóng tại Long Sơn giữ hai đường Tây và Bắc, chuyên đốc về việc khai cừ đắp đê. Hàn Hổ và Ngụy Câu vâng mệnh đem quân đi. Trí Bá truyền cho quân sĩ đem thuổng cuốc ra đào một cái cừ ở phía Bắc sông Tấn Thủy; còn bao nhiêu những ngọn suối ở các nơi chảy xuống, đều đắp chắn ngang; lại đắp hai cái đê cao ở hai bên cừ; phàm những chỗ khe núi nước chảy, đều có đê chắn. Các ngọn suối ấy đầy ứ, không tiết đi đâu được, lại phải chảy về phía Bắc, rót vào cái cừ; bấy giờ đem các tấm sắt mà chắn ngang thủy khẩu, khiến cho nước tích lại đấy mà không tiêu đi được. Một tháng sau, quả nhiên mưa xuân nhiều lắm, nước suối đầy rẫy, cao bằng mặt đê. Trí Bá sai người khơi mặt phía Bắc, cho nước chảy ra, rót vào trong thành Tấn Dương. Bấy giờ thành Tấn Dương dẫu bị vây, nhưng trăm họ giàu có, không đến nỗi đói rét vả lại cơ chỉ bền chặt, dẫu có mưa xuân ướt át, nhưng cũng không tổn hại chút nào. Qua mấy hôm sau, bỗng thấy nước chảy vào trong thành, bao nhiêu cửa nhà, nếu không xiêu đổ thì cũng ngập lụt, trăm họ đều phải bắc gác lên mà ở. Nhà công cung dẫu cao, Triệu Vô Tuất cũng không dám ở yên, thường cùng với Trương Mạnh Đàm ngồi bè trúc, đi tuần chung quanh thành, nghe tiếng nước chảy ầm ầm, trông ra ngoài thành, bát ngát không biết đâu là bờ, chỉ bốn năm thước nữa thì ngập khỏi mặt thành. Triệu Vô Tuất kinh sợ, nhưng còn mừng rằng quân dân trong thành ngày đêm phòng thủ, chưa hề trễ biếng. Trăm họ đều xin liều chết cố giữ, không dám hai lòng. Triệu Vô Tuất nói: - Ngày nay mới biết cái công của Doãn Đạc! Triệu Vô Tuất nói riêng với Trương Mạnh Đàm rằng: - Lòng dân dẫu vững, nhưng thế nước không lui, nay mai nước nguồn còn lên nữa thì người trong thành đều hóa ra cá hết, biết làm thế nào? Hoắc Sơn Thần chẳng qua cũng dối ta mà thôi. Trương Mạnh Đàm nói: - Hàn và Ngụy phải nộp đất, chưa chắc đã bằng lòng, ngày nay đem quân theo là sợ thế mà thôi. Đêm hôm nay tôi xin lẻn ra ngoài thành bảo Hàn và Ngụy đánh lại Trí Bá mới có thể thoát nạn được. Triệu Vô Tuất nói: - Quân vây nước ngập, dẫu chắp cánh cũng khó lòng mà bay ra! Trương Mạnh Đàm nói: - Tôi đã có kế, ngài không phải lo. Ngài nên sai các tướng sắp sẵn thuyền bè và đồ binh khí, may mà trời có lòng tựa, tôi nói đắt lời thì chắc có ngày lấy được đầu Trí Bá! Triệu Vô Tuất nghe lời. Trương Mạnh Đàm biết Hàn Hổ đóng quân ở Đông môn, mới ăn mặc giả làm quân Trí Bá, đang đêm trèo qua thành lẻn ra, đến dinh Hàn Hổ, nói với quân Hàn Hổ rằng: - Trí nguyên súy sai ta đến đây, có việc cơ mật! Hàn Hổ sai người gọi vào. Bấy giờ phép quân nghiêm mật, phàm các người xin yết kiến, đều phải khám xét thật kỹ, rồi mới cho vào. Trương Mạnh Đàm ăn mặc theo lối quân Trí Bá, trong mình lại không có giấy má gì cả, vậy quân Hàn Hổ cũng không có ý nghi ngờ, Trương Mạnh Đàm đã được vào yết kiến Hàn Hổ, xin đuổi hết người chung quanh đi để nói. Hàn Hổ đuổi hết người chung quanh rồi hỏi. Trương Mạnh Đàm nói: - Tôi không phải là quân Trí Bá, chính là bề tôi họ Triệu, tên gọi Trương Mạnh Đàm. Chủ tôi bị vây đã lâu, e rằng một mai thân chết nhà diệt, không bởi đâu mà giãi tỏ được tâm phúc của mình, vậy có sai tôi giả làm quân Trí Bá, đêm lẻn đến đây, để vào nói với tướng quân. Tướng quân cho nói thì tôi mới dám nói; bằng không thì tôi xin chết ngay ở trước mặt tướng quân. Hàn Hổ nói: - Nhà ngươi cứ nói, hễ phải thì ta theo. Trương Mạnh Đàm nói: - Ngày xưa sáu quan khanh hòa thuận với nhau, cùng cầm quyền chính nước Tấn, từ khi Phạm thị và Trung Hàng không được lòng dân, đến nỗi tiệt diệt, nay chỉ còn có bốn nhà là: Trí, Hàn, Ngụy, Triệu mà thôi. Trí Bá bỗng dưng muốn chiếm lấy đất Sài Cao Lang của họ Triệu, chủ tôi nghĩ là đất của tiền nhân để lại, không nỡ cắt bỏ, cũng chưa hề đắc tội gì với Trí Bá. Trí Bá cậy mạnh, hợp quân với Hàn và Ngụy, định diệt họ Triệu, họ Triệu đã diệt rồi thì cái họa ấy tất cũng có ngày lây đến Hàn, Ngụy! Hàn Hổ ngẫm nghĩ hồi lâu, chưa trả lời thế nào. Trương Mạnh Đàm lại nói: - Ngày nay Hàn, Ngụy theo Trí Bá mà đánh Triệu là mong khi phá được thành rồi cùng nhau chia ba đất của họ Triệu, nhưng sao chẳng nghĩ Hàn, Ngụy mới rồi cũng phải cắt trăm dặm đất đem nộp Trí Bá, ấy là đất của tiền nhân để lại mà kẻ kia còn nhỏ dãi muốn chiếm lấy được, thế mà Hàn, Ngụy không dám nói một câu nào để chống lại, huống chi là đất của người khác! Họ Triệu diệt thì họ Trí càng mạnh, bấy giờ Hàn, Ngụy có dám kể cái công lao ngày nay để tranh nhiều ít hay không? Giả sử ngày nay được chia ba đất của họ Triệu, chắc đâu rằng sau này họ Trí lại không đòi đất nữa hay sao! Xin tướng quân nên nghĩ cho kỹ. Hàn Hổ nói: - Ý nhà ngươi thế nào. Trương Mạnh Đàm nói: - Cứ như ý tôi thiển nghĩ thì chi bằng hòa riêng với chủ tôi mà phản lại Trí Bá. Đằng nào cũng được chia đất, mà đất Trí Bá lại nhiều hơn đất họ Triệu. Vả lại trừ được cái tai họa mai sau. Ta cùng bênh vực lẫn nhau, chẳng cũng hay lắm ru! Hàn Hổ nói: - Nhà ngươi nói cũng có lẽ phải để ta bàn với họ Ngụy. Nhà ngươi hãy đi, ba ngày nữa tới đây, ta sẽ trả lời. Trương Mạnh Đàm nói: - Tôi liều chết cố sống mà đến được đây, có phải dễ đâu. Tai mắt quân sĩ, khó lòng mà giữ cho khỏi tiết lộ được, xin ở đây ba ngày để đợi lệnh tướng quân. Hàn Hổ mật sai người gọi Đoàn Qui đến, đem lời nói của Trương Mạnh Đàm bảo Đoàn Qui. Đoàn Qui khi trước bị Trí Bá khinh bỉ, vẫn còn căm tức chưa quên, mới khen mưu của Trương Mạnh Đàm là phải. Hàn Hổ cho Trương Mạnh Đàm vào yết kiến Đoàn Qui, Đoàn Qui mời Trương Mạnh Đàm vào ngồi ở trong màn để nói chuyện. Hai người kết nạp với nhau rất thân thiết. Ngày hôm sau, Đoàn Qui phụng mệnh Hàn Hổ sang dinh Ngụy Câu, đem lời nói của Trương Mạnh Đàm thuật lại cho Ngụy Câu nghe, và xin Ngụy Câu quyết định. Ngụy Câu nói: - Đứa cuồng tặc ấy kiêu ngạo vô lễ, ta cũng căm tức, nhưng nó như con hổ, chỉ sợ trói không được nó, lại bị nó cắn mà thôi. Đoàn Qui nói: - Ta không thể dung được Trí Bá, thế tất như vậy! Để đến sau này mới hối hận lại sao bằng làm ngay từ bây giờ. Họ Triệu gần mất nhờ chúng ta cứu cho thì tất cảm ơn nhiều lắm, chẳng hơn là ta cứ đồng sự với kẻ hung bạo kia hay sao! Ngụy Câu nói: - Việc này phải nghĩ kỹ mới được, không nên vội vàng. Đoàn Qui cáo từ lui về. Ngày hôm sau, Trí Bá bày tiệc ở Huyền Bịch Sơn, mời Hàn, Ngụy đến uống rượu để cùng xem nước. Uống rượu đến nửa chừng, nét mặt Trí Bá có ý mừng rỡ, trỏ thành Tấn Dương mà bảo Hàn, Ngụy rằng: - Chỉ còn ba bản (mỗi bản là ba thước) nữa thì ngập thành. Bây giờ ta mới biết thế nước có thể mất nước người ta được! Nước Tấn ta, núi sông hiểm trở, như Phần Thủy, Cối Thủy, Tấn Thủy, Giáng Thủy, đều là sông to cả, nhưng cứ như ý ta nghĩ thì thế nước không trông cậy được, lại chỉ nghề làm cho chóng mất nước mà thôi! Ngụy Câu sẽ lấy cánh tay chạm vào Hàn Hổ. Hàn Hổ cũng lấy chân bấm Ngụy Câu. Hai người nhìn nhau, có ý sợ hãi. Một lúc thì tiệc tan, hai người cùng nhau cáo từ lui về. Hi Tì bảo Trí Bá rằng: - Hàn, Ngụy tất làm phản! Trí Bá nói: - Sao nhà ngươi lại biết! Hi Tì nói: - Tôi chưa nghe lời nói, đã trông sắc mặt. Ngài có ước với hai nhà: "Hễ diệt họ Triệu rồi thì chia ba đất của họ Triệu" nay họ Triệu đã sắp diệt chẳng thấy hai nhà mừng rỡ về sự được đất mà lại có ý lo buồn, xem thế thì biết là tất làm phản. Trí Bá nói: - Ta cùng với hai nhà, đang đồng sự với nhau, kẻ kia có lo gì! Hi Tì nói: - Ngài nói: "Thế nước không trông cậy được, chỉ nghề làm cho chóng mất nước" thế thì Tấn Thủy tháo vào Tấn Dương được, chắc là Phần Thủy có thể tháo được vào An Ấp (Ngụy Đô), Giáng Thủy có thể tháo vào Bình Dương (Hàn Đô). Ngài nói như vậy, hai nhà tài nào mà chẳng phải lo! Ngày hôm sau Hàn Hổ và Ngụy Câu cũng đem rượu đến dinh Trí Bá để tạ lại bữa tiệc hôm trước. Trí Bá cầm chén rượu sắp uống bảo Hàn, Ngụy rằng: - Tôi vốn tính thẳng có điều gì hay nói ngay không để trong bụng được. Mới rồi có người bảo tôi rằng hai vị tướng quân muốn làm phản, chẳng hay có thực thế không? Hàn Hổ và Ngụy Câu đồng thanh đáp rằng: - Vậy thì quan nguyên súy có tin hay chăng? Trí Bá nói: - Nếu ta tin lời thì khi nào ta lại còn hỏi hai tướng quân. Hàn Hổ nói: - Tôi nghe họ Triệu chịu tốn nhiều tiền để làm cho ba chúng ta phải ly gián nhau, đó tất là kẻ sàm thần ăn lễ của họ Triệu, muốn khiến cho nguyên súy nghi hai chúng tôi mà trễ việc vây đánh, may ra họ có cơ thoát họa được chăng. Ngụy Câu cũng nói: - Lời nói ấy rất phải! Nay họ Triệu gần diệt, ai lại không mong rằng sắp được chia đất, khi nào chịu bỏ cái cầm chắc ở trước mắt, mà gây cái vạ khôn lường về mai sau hay sao! Trí Bá cười nói rằng: - Tôi cũng biết hai ngài tất không có bụng ấy, chẳng qua là Hi Tì lo xa đó thôi! Hàn Hổ nói: - Nguyên Súy ngày nay dẫu không tin, tôi sợ một mai lại có người nói, khiến cho lòng trung thành của hai chúng tôi không giãi tỏ ra được, chẳng hóa ra mắc mưu của đứa sàm thần lắm ru! Trí Bá rót chén rượu xuống đất thề rằng: - Từ rày về sau, ai còn ngờ vực nhau thì xin như chén rượu này! Hàn Hổ và Ngụy Câu chắp tay lạy tạ. Ngày hôm ấy uống rượu rất vui, gần chiều mới tan. Hi Tì nói với Trí Bá rằng: - Sao ngài lại đem lời nói của tôi tiết lộ với Hàn, Ngụy? Trí Bá hỏi lại: - Sao nhà ngươi lại biết? Hi Tì nói: - Mới rồi tôi gặp Hàn, Ngụy ở Viên môn, hai người cùng trừng mắt nhìn tôi, rồi đi thật mau, là bởi vì tôi biết tính họ vậy nên họ có ý sợ mà hoảng hốt như thế! Trí Bá cười nói rằng: - Ta đã cùng với Hàn, Ngụy rót rượu thề, quyết không bao giờ có ngờ vực nhau, nhà ngươi chớ nói càn mà làm mất hòa khí. Hi Tì lui ra than rằng: - Số mệnh của Trí Bá chẳng còn bao lâu nữa! Hi Tì giả cách bị bệnh cảm hàn, nói dối đi tìm thầy thuốc, rồi bỏ trốn sang nước Tần. Hàn Hổ và Ngụy Câu từ khi ở dinh Trí Bá ra về, cùng bàn định nhau, uống máu ăn thề với Trương Mạnh Đàm hẹn đến nửa đêm hôm sau thì phá đê cho nước lui, hễ thấy nước lui thì họ Triệu ở trong thành đem quân ra để cùng bắt Trí Bá. Trương Mạnh Đàm vâng lệnh vào thành báo tin cho Triệu Vô Tuất biết. Triệu Vô Tuất mừng lắm, truyền cho quân sĩ sửa soạn để tiếp ứng. Đến nửa đêm hôm sau, Hàn Hổ và Ngụy Câu mật sai người giết những quân sĩ giữ đê, và khai một thủy khẩu ở về phía Tây. Nước chảy ra phía Tây, lại rót vào dinh Trí Bá, quân Trí Bá náo động cả lên. Trí Bá đang ngủ giật mình tỉnh dậy thì nước đã ngập đến giường nằm, nệm áo ướt hết. Trí Bá vẫn tưởng là quân sĩ tuần phòng trễ biếng, đến nỗi chân đê thẩm lậu, vội vàng sai người đi chữa đê. Được một lúc thế nước càng to, may nhờ có bọn Trí Quốc và Dự Nhượng đem thủy quân đến đón, vực Trí Bá vào trong thuyền; ngoảnh lại trong dinh trại thì làn sóng cuồn cuộn, ngập chìm tất cả. Lương thực khí giới trôi hết sạch. Quân sĩ trong dinh đều nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Trí Bá đang trong cơn sầu thảm, lại bỗng nghe tiếng trống rầm trời, quân Hàn và quân Ngụy đều chèo thuyền theo dòng nước kéo đến, chém giết quân Trí Bá, lại reo to lên rằng: - Ai bắt sống Trí Dao (Trí Bá tên là Dao) thì được trọng thưởng. Trí Bá than rằng: - Bởi ta không nghe lời Hi Tì, thành ra mắc lừa! Dự Nhượng nói: - Việc đã gấp lắm! Ngài nên tránh về phía sau Long Sơn, rồi trốn sang Tần mượn quân, để mặc tôi liều chết chống nhau với quân giặc. Trí Bá theo lời, cùng với Trí Quốc chèo thuyền đi về phía sau Long Sơn. Ai ngờ Triệu Vô Tuất đã biết trước là Trí Bá định trốn sang nước Tần, liền sai Trương Mạnh Đàm theo Hàn, Ngụy đuổi đánh quân Trí Bá, còn mình thì đem một toán quân phục ở sau Long Sơn để đón đường bắt Trí Bá. Triệu Vô Tuất trói Trí Bá rồi kể tội mà đem chém đi. Trí Quốc nhảy xuống nước tự tử. Dự Nhượng cố sức nghênh chiến, nhưng quân sĩ tan vỡ mất cả, lại nghe tin Trí Bá đã bị bắt mới thay hình đổi dạng trốn vào Thạch Thất Sơn. Quân Trí Bá chết sạch, chẳng còn người nào. Triệu Vô Tuất tra lịch xem thì hôm ấy chính là ngày Bính Tuất tháng ba, Mấy lời thiên thần nói trong đoạn tre ngày trước, bây giờ quả nghiệm. Ba nhà (Hàn, Triệu, Ngụy) thu quân về cả một nơi, rồi phá hết đê chắn khi trước khiến cho nước lại chảy về phía Đông rót vào Tấn Xuyên. Nước ở trong thành Tấn Dương mới rút đi hết. Triệu Vô Tuất phủ dụ trăm họ, rồi bảo Hàn, Ngụy rằng: - Tôi nhờ sức hai ngài mà giữ được cái thành này thật là may lắm. Nhưng Trí Bá dẫu chết, tộc đảng này còn, nếu ta cắt cỏ chưa trừ gốc thì có ngày lại nẩy mầm! Hàn Hổ và Ngụy Câu nói: - Ta nên diệt hết tộc đảng, để cho hả tấm lòng căm tức của chúng ta. Triệu Vô Tuất liền cùng với Hàn, Ngụy trở về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) vu cho Trí thị cái tội phản nghịch, vây nhà Trí thị, bao nhiêu trai gái già trẻ, giết sạch cả, chỉ có một mình Trí Quả đã đổi ra Phụ thị, mới được thoát nạn, bấy giờ mới biết Trí Quả là người cao kiến. Những đất của Hàn, Ngụy nộp cho Trí Bá khi trước, bây giờ lại thu về cả, lại đem bao nhiêu đất của Trí Bá, ba nhà chia nhau, không nộp vào công gia một chút nào. Bấy giờ đang là năm thứ 16 đời Chu Trịnh định vương. Triệu Vô Tuất bàn đến cái công giữ thành Tấn Dương. Mọi người đều nhường Trương Mạnh Đàm đứng đầu. Triệu Vô Tuất không nghe, cho Cao Hách đứng đầu. Trương Mạnh Đàm nói: - Trong khi thành Tấn Dương bị vây, không thấy Cao Hách có bày mưu gì hoặc là làm việc gì cả, mà nay lại được đứng đầu nhận thưởng, thế thì tôi không hiểu ra làm sao? Triệu Vô Tuất nói: - Trong khi khốn ách, ta thấy mọi người đều hoảng hốt, chỉ có Cao Hách là vẫn kính cẩn mà giữ lễ như thường. Kẻ có công dẫu được việc trong một thời, nhưng kẻ biết giữ điều lễ, mới thật là gương cho muôn thuở, như thế mà đứng đầu nhận thưởng, chẳng cũng đáng lắm ru! Trương Mạnh Đàm có ý thẹn mà chịu phục. Triệu Vô Tuất cảm ơn Hoắc Sơn Thần, lập đền thờ ở Hoắc Sơn rồi cho Nguyên Quá nối đời giữ việc cúng tế. Triệu Vô Tuất còn căm tức Trí Bá lắm, mới đem cái sọ đầu lâu của Trí Bá, dùng làm đồ đi tiểu tiện. Dự Nhượng ở Thạch Thất Sơn nghe biết việc ấy, khóc mà nói rằng: - Kẻ sĩ vì người tri kỷ thì dẫu chết cũng đáng. Ta chịu ơn sâu của Trí thị, nay Trí thị đã bị diệt, lại còn làm nhục đến nắm xương tàn, như thế mà ta tham sống không báo thù thì sao gọi là người được! Dự Nhượng nói xong, liền đổi họ tên, giả làm những đứa phu dịch, giắt một con dao nhọn, lẻn vào trong nhà xí của họ Triệu, định chờ khi Triệu Vô Tuất ra xí thì đâm chết. Khi Triệu Vô Tuất định ra xí, bỗng thấy động lòng, sai người ra tìm trong nhà xí thì bắt được Dự Nhượng. Triệu Vô Tuất hỏi Dự Nhượng rằng: - Nhà ngươi giắt con dao nhọn này, chực đâm ta đó chăng? Dự Nhượng nghiễm nhiên đáp rằng: - Ta là bề tôi họ Trí, vì họ Trí mà báo thù! Mọi người nói với Triệu Vô Tuất rằng: - Người này phản nghịch nên giết! Triệu Vô Tuất gạt đi nói rằng: - Trí thị đã diệt rồi, mà Dự Nhượng còn vì Trí thị báo thù, thế thì thật là nghĩa sĩ! Ta không nên giết kẻ nghĩa sĩ. Triệu Vô Tuất truyền tha cho Dự Nhượng. Khi Dự Nhượng lui ra, Triệu Vô Tuất lại gọi lại hỏi rằng: - Nay ta tha cho nhà ngươi, nhà ngươi có khỏi thù ta không? Dự Nhượng nói: - Tha tôi bây giờ là cái ơn riêng của ngài, nhưng việc báo thù là điều nghĩa lớn của tôi. Mọi người nói với Triệu Vô Tuất rằng: - Người này vô lễ, nếu tha thì tất lại làm càn! Triệu Vô Tuất nói: - Ta đã hẹn tha cho rồi, có lẽ nào lại thất tín, từ nay về sau, ta phải có ý phòng giữ mới được. Ngay ngày hôm ấy, truyền sửa sang thành Tấn Dương, để về đấy mà tránh cái vạ Dự Nhượng. Dự Nhượng về nhà, cả ngày chỉ nghĩ cách báo thù nhưng chưa tìm được kế. Người vợ khuyên Dự Nhượng theo làm tôi Hàn, Ngụy để cầu phú quý. Dự Nhượng nổi giận, đứng phắt dậy bỏ đi, lại vào Tấn Dương, nhưng sợ có người biết mặt, mới xén râu cạo lông mày, sơn mình để giả làm đứa hóa hủi, đi ăn mày ở chợ. Người vợ tìm chồng ra đến chợ, nghe tiếng kêu gào, kinh sợ nói rằng: - Đó chính là tiếng chồng ta rồi! Khi đến gần tận nơi nhìn xem, lại nói rằng: - Tiếng thì giống mà người không phải! Người vợ lại bỏ đi. Dự Nhượng hiềm về nỗi tiếng nói còn giống lại nuốt than để cho khản tiếng đi, rồi lại đi ăn mày ở chợ. Lần sau, vợ nghe tiếng cũng không lấy làm ngạc nhiên nữa. Có người bạn vốn biết cái chí của Dự Nhượng, trông thấy người ăn mày như thế, nghi là Dự Nhượng. Thử sẽ gọi tên thì quả nhiên là Dự Nhượng thật, liền mời về nhà thết cơm, rượu và bảo rằng: - Ngô huynh quyết chí báo thù như thế, mà chưa tìm được kế báo thù. Cứ như cái tài Ngô huynh mà giả cách đầu với họ Triệu, chắc là họ Triệu trọng dụng, bấy giờ thừa cơ khởi sự thật dễ như trở bàn tay, can gì phải liều thân hoại thể chịu khổ như thế này! Dự Nhượng nói: - Nếu tôi đã làm tôi họ Triệu mà lại đâm họ Triệu thì là một kẻ ăn ở hai lòng. Nay tôi sơn mình nuốt than, báo thù cho Trí Bá, chính là muốn khiến cho những kẻ làm tôi mà ăn ở hai lòng ấy, nghe tiếng tôi cũng phải hổ thẹn. Tôi xin từ biệt Ngô huynh từ đây, không trông thấy nhau nữa! Dự Nhượng lại đi sang Tấn Dương ăn mày như trước mà không ai biết cả. Triệu Vô Tuất ở Tấn Dương, xem cái cừ của Trí Bá làm nên khi trước, không thể bỏ đi được liền sai người bắc một cái cầu ở trên cừ, để tiện đường đi lại gọi tên là Xích Kiều. Khi cầu đã làm xong, Triệu Vô Tuất định ra xem. Dự Nhượng biết trước là Triệu Vô Tuất thế nào cũng ra xem cầu lại giắt con dao nhọn, giả cách làm người chết, nằm phục ở dưới gậm cầu. Khi xe Triệu Vô Tuất gần đến Xích Kiều, con ngựa kéo xe bỗng hí lên mà lùi trở lại. Người dong xe ra roi để đánh mà cũng không chịu đi. Trương Mạnh Đàm nói: - Tôi nghe con ngựa hay thì không làm hại chủ. Nay con ngựa này không chịu qua cầu, tất là có quân gian ẩn phục, ta nên phải xét kỹ. Triệu Vô Tuất dừng xe lại, rồi sai quân sĩ đi sục tìm. Quân sĩ bảo rằng: - Dưới gậm cầu tịnh không có quân gian nào cả, chỉ có một cái xác người chết nằm gục ở đấy mà thôi. Triệu Vô Tuất nói: - Cầu mới làm xong, sao đã có xác người chết, đó tất là Dự Nhượng! Triệu Vô Tuất sai người lôi ra, hình dung dẫu khác, nhưng còn có thể nhận được. Triệu Vô Tuất mắng rằng: - Khi trước ta đã trái phép mà tha cho nhà ngươi, nay nhà ngươi lại còn có ý mà mưu giết ta thì trời nào có tựa! Triệu Vô Tuất sai người đem đi chém. Dự Nhượng kêu trời, nước mắt lẫn máu chảy xuống ròng ròng. Mọi người đều bảo Dự Nhượng rằng: - Nhà ngươi sợ chết hay sao! Dự Nhượng nói: - Không phải ta sợ chết, ta tiếc rằng sau khi ta chết rồi, không ai báo thù nữa! Triệu Vô Tuất gọi Dự Nhượng lại hỏi rằng: - Khi trước nhà ngươi thờ Phạm thị, Phạm thị bị Trí Bá diệt, nhà ngươi tham sống mà thờ Trí Bá, không báo thù cho Phạm thị. Nay Trí Bá chết, nhà ngươi cố hết sức để báo thù là cớ làm sao? Dự Nhượng nói: - Khi trước ta thờ Phạm thị, Phạm thị đãi ta là chúng nhân, nên ta cũng lấy lòng chúng nhân mà xử lại; nay ta thờ Trí thị. Trí thị nhường cơm xẻ áo cho ta, đãi ta là quốc sĩ thì ta cũng lấy lòng quốc sĩ mà xử lại, chứ so sánh thế nào được. Triệu Vô Tuất nói: - Bụng nhà ngươi như sắt đá, không chịu đổi dời thì ta không thể tha được nữa! Triệu Vô Tuất liền cởi thanh kiếm đeo đưa cho Dự Nhượng để Dự Nhượng tự tử. Dự Nhượng nói: - Kẻ trung thần không lo sự chết, bậc minh chủ không bỏ điều nghĩa. Ngài tha tôi một lần, cũng đã quá lắm rồi, bây giờ tôi nào mong sống nữa. Nhưng tôi hai lần báo thù mà cũng không được thì lòng uất ức của tôi bao giờ cho nguôi! Xin ngài cởi áo, cho tôi được đánh mấy cái vào áo, gọi là chút nghĩa báo thù thì dẫu tôi chết cũng hả! Triệu Vô Tuất thương tình, cởi áo cẩm bào, sai người đưa cho Dự Nhượng. Dự Nhượng tay cầm thanh kiếm, trừng mắt nhìn áo cẩm bào, tưởng như là đối với Triệu Vô Tuất, nhảy lên ba lần mà đánh ba cái, rồi nói rằng: - Ngày nay ta mới báo thù được cho Trí Bá! Nói xong liền đâm cổ mà chết. Cái cầu ấy sau đổi tên là Dự Nhượng Kiều. Triệu Vô Tuất trông thấy Dự Nhượng tự tử, có lòng thương xót, truyền thu táng cho tử tế. Quân sĩ nhặt áo cẩm bào đệ trình Triệu Vô Tuất. Triệu Vô Tuất nhìn xem thì thấy những vết chém đều có máu tươi cả, ấy là bởi cái lòng tinh thành của Dự Nhượng cảm động mà thành ra. Triệu Vô Tuất kinh sợ, từ bấy giờ sinh bệnh. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 85 Vì việc nước, Nhạc Dương bỏ con Hại tiền dân, Hà Bá lấy vợ Bấm để xem Triệu Vô Tuất bị Dự Nhượng đánh vào áo ba lần. Khi Dự Nhượng đã chết rồi, Triệu Vô Tuất cởi áo ra xem thì những chỗ áo bị đánh, đều có vết máu, từ bấy giờ mắc bệnh mấy năm không khỏi. Triệu Vô Tuất sinh được năm con, nhân nghĩ đến anh mình là Bá Lỗ vì mình mà phải bỏ, muốn lập con Bá Lỗ là Chu để nối nghiệp; nhưng Chu lại chết trước, mới lập con Chu là Cán làm thế tử. Khi Triệu Vô Tuất gần mất, bảo Triệu Cán rằng: - Ta và Hàn, Ngụy cùng diệt Trí thị, mở mang bờ cõi, nay nhân dân đều yêu mến ta, ta nên ước với Hàn, Ngụy thừa cơ chia ba nước Tấn, lập ra miếu xã, truyền cho con cháu đời sau. Nếu để chậm mấy năm, mà nước Tấn lại có vua hiền, cầm giữ quốc chính, thu nhập nhân tâm thì dòng dõi họ Triệu ta, khó lòng mà bảo toàn được. Triệu Vô Tuất nói xong thì mất, Triệu Cán làm ma xong liền đem lời di chúc nói với Hàn Hổ. Bấy giờ đang năm thứ tư đời Chu Khảo Vương. Tấn Ai công mất, con là Liễu nối ngôi tức là Tấn U công. Hàn Hổ và Ngụy Câu hợp mưu, để Giáng Châu và Khúc Ốc làm đất ăn lộc của Tấn U công, còn bao nhiêu chia ba gọi là Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy). Tấn U công hèn yếu, lại phải đến triều kiến ba nhà, chẳng còn ra thể thống vua tôi gì nữa. Quan tướng quốc nước Tề là Điền Bân nghe tin ba nhà chiếm lấy thổ địa nước Tấn, cũng đem anh em họ hàng ra, cho làm Đô ấp đại phu tất cả, lại sai sứ sang mừng ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy, cùng nhau giao hiếu. Từ bấy giờ Điền, Hàn, Triệu, Ngụy bốn nhà vẫn sai sứ đi lại với nhau, vua Tề và vua Tấn chỉ ngồi trơ như tượng gỗ mà thôi. Bấy giờ Chu Khảo Vương phong người em là Yết ở Hà Nam thành để nối quan chức Chu Công. Con nhỏ của Yết là Ban lại biệt phong ở đất Củng. Nhân đất Củng ở phía đông Hà Nam thành, mới gọi là Đông Chu Công, mà gọi Hà Nam thành là Tây Chu Công. Chu Khảo Vương mất, con là Ngọ lên nối ngôi, tức là Uy Liệt Vương. Năm đầu đời Uy Liệt Vương, Triệu Cán mất, con là Triệu Tịch nối nghiệp (sau làm Triệu Liệt Hầu). Còn Hàn Kiền (cháu Hàn Hổ, con Hàn Khả Chương, sau làm Hàn Cảnh Hầu) nối nghiệp họ Hàn; Ngụy Tư (cháu Ngụy Câu, con Ngụy Độ, sau làm Ngụy Văn Hầu) nối nghiệp họ Ngụy; Điền Hòa (cháu Điền Bàn, con Điền Bạch, sau làm Tề Thái công) nối nghiệp họ Điền. Bốn nhà kết ước với nhau, định cùng giúp nhau cho thành đại sự. Năm thứ 23 đời Chu Uy Liệt Vương, bỗng có sét đánh vào chín cái đỉnh của nhà Chu. Cái đỉnh nào cũng lay động cả. Ba nhà (Hàn, Triệu, Ngụy) bàn riêng với nhau rằng: - Chín cái đỉnh là đồ quý truyền đời của nhà Chu nay bỗng lay động thế là vận nhà Chu đã sắp hết. Chúng ta lập nước đã lâu mà chưa chính danh hiệu, nên nhân lúc nhà Chu suy yếu này, sai sứ vào thỉnh mệnh thiên tử, xin làm chư hầu; thiên tử sợ thế chúng ta thì tất phải cho. Như thế thì giữ được phú quý mà khỏi mang tiếng thí nghịch, chẳng cũng hay lắm ru! Ba nhà liền cùng nhau sai người tâm phúc vào tâu với thiên tử nhà Chu; họ Ngụy sai Điền Văn, họ Triệu sai Công Trọng Liên, họ Hàn sai Hiệp Lũy mang các đồ lễ vật vào tiến cống Chu Uy Liệt Vương và xin Chu Uy Liệt Vương phong cho làm chư hầu, Chu Uy Liệt Vương hỏi: - Thổ địa nước Tấn đều về tay ba nhà cả hay sao? Sứ họ Ngụy là Điền Văn nói: - Vua Tấn không giữ nổi quyền chính, khiến cho trong nước đều nổi loạn; ba nhà chúng tôi đem binh lực đi dẹp loạn mà chiếm được thổ địa, chứ không phải là cướp của vua Tấn. Chu Uy Liệt Vương lại hỏi: - Ba nhà đã muốn làm chư hầu, sao không tự lập phải nói với trẫm? Sứ họ Triệu là Công Trọng Liên nói: - Cứ như binh lực của ba nhà chúng tôi thì có thể lập được, nhưng còn muốn thỉnh mệnh là không dám vượt quyền thiên tử ở trên. Nếu thiên tử phong cho ba nhà chúng tôi làm chư hầu, để nối đời giữ bụng trung trinh mà làm phên giậu cho nhà Chu thì chẳng cũng lợi lắm ru! Chu Uy Liệt Vương bằng lòng, liền truyền mệnh phong cho Triệu Tịch làm Triệu Hầu, Hàn Kiều làm Hàn Hầu, Ngụy Tư làm Ngụy Hầu, đều ban cho đủ các thứ phủ miện, khuê bích. Ba nhà đem vương mệnh tuyên bá cho trong nước biết, rồi Triệu Hầu đóng đô ở Trung Mâu. Hàn Hầu đóng đô ở Bình Dương. Ngụy Hầu đóng đô ở An Ấp, đều lập ra tôn miếu xã tắc. Lại sai sứ đi thông báo với chư hầu. Các nước chư hầu cũng nhiều nước đến mừng, chỉ có nước Tần từ khi bỏ Tấn theo Sở, không thông hiếu với trung quốc; trung quốc cũng đãi Tần như là di địch, bởi vậy Tần không đến mừng. Chưa được bao lâu ba nhà bỏ Tấn Tĩnh công (cháu Tấn U công), thiên ra ở đất Thuần Lưu, còn bao nhiêu thổ địa, lại chia nhau lấy nốt. Nước Tấn từ đời Đường Thúc đến đời Tĩnh Công, cả thảy 29 đời thì tuyệt. Lại nói chuyện trong ba nhà (Hàn, Triệu, Ngụy), chỉ có Ngụy Văn Hầu (tức là Ngụy Tư) là hiền hơn cả. Bây giờ có một người học trò giỏi của Khổng Tử tên gọi Bốc Thương, tên tự là Tử Hạ dạy học ở Tây Hà. Ngụy Văn Hầu vẫn theo học Tử Hạ. Ngụy Thành tiến dẫn Điền Tử Phương là người hiền, Ngụy Văn Hầu cùng với Điền Tử Phương làm bạn. Ngụy Thành lại nói: - Đoàn Can Mộc ở Tây Hà là người có đức hạnh, vẫn ẩn cư không chịu ra làm quan. Ngụy Văn Hầu truyền thắng xe để đến yết kiến. Đoàn Can Mộc nghe tiếng xe ngựa đến cửa, trèo qua tường sau mà tránh mặt. Ngụy Văn Hầu khen rằng: - Thế mới thật là bậc cao sĩ! Liền ở lại Tây Hà trong một tháng, ngày nào cũng đến cửa xin yết kiến. Khi đi gần đến nhà, đã cúi đầu vào cái thức không dám ngồi nghiễm nhiên ở trên xe. Đoàn Can Mộc thấy lòng thành như vậy, bất đắc dĩ phải ra tiếp kiến, Ngụy Văn Hầu mời lên xe đem về, cũng tôn kính làm bậc thượng tân như Điền Tử Phương. Các hiền sĩ ở bốn phương nghe tiếng đều đến cả. Lại được bọn mưu sĩ như: Lý Khắc, Địch Hoàng, Điền Văn, Nhâm Tọa đều làm quan ở trong triều. Bấy giờ nhân tài không nước nào thịnh bằng nước Ngụy. Người nước Tấn muốn đánh nước Ngụy, nhưng sợ về nhiều nhân tài, lại không dám đánh. Ngụy Văn Hầu có hẹn với chức Ngu nhân đến giờ ngọ thì đi săn ở ngoài cõi. Buổi sáng hôm ấy trời mưa rét lắm. Ngụy Văn Hầu ban rượu cho các quan uống. Vua tôi đang cùng nhau uống rượu vui vẻ, Ngụy Văn Hầu hỏi nội thị rằng: - Bây giờ đã đến giờ ngọ chưa? Nội thị nói: - Vừa đúng giờ Ngọ! Ngụy Văn Hầu vội vàng sai bãi tiệc, truyền thắng xe ngựa để đi săn. Nội thị nói: - Trời mưa không thể đi săn được, dẫu có đi cũng uổng công mà thôi. Ngụy Văn Hầu nói: - Ta có hẹn với chức Ngu nhân tất là người ta chờ ta ở ngoài cõi, dẫu không săn được, ta cũng phải đi để cho khỏi phụ ước. Người trong nước thấy Ngụy Văn Hầu đang mưa mà đi, đều lấy làm lạ, sau nghe chuyện biết là theo lời ước của chức Ngu nhân, liền bảo nhau rằng: - Như thế là chúa công không chịu thất tín với ai! Từ bấy giờ bao nhiêu chính lệnh thi hành không ai dám trái ý. Phía Đông nước Tấn, có nước Trung Sơn là giống Xích Địch, cũng gọi là Tiên Ngu. Từ đời Tấn Chiêu công. Trung Sơn mới chịu xin hòa; đến khi ba nhà chia nhau nước Tấn thì Trung Sơn không thuộc vào nước nào cả. Vua Trung Sơn là Cơ Quật thường thích uống rượu, khinh bỏ các quan đại thần, thân yêu những lũ tiểu nhân, nhân dân nước Trung Sơn lấy làm khổ lắm. Ngụy Văn Hầu có ý muốn đánh. Ngụy Thành nói với Ngụy Văn Hầu rằng: - Nước Trung Sơn ở phía Tây gần Triệu mà phía Nam xa Ngụy nếu ta đánh được cũng vị tất đã giữ nổi. Ngụy Văn Hầu nói: - Nếu ta không đánh mà để cho Triệu được Trung Sơn thì thế Triệu càng mạnh thế lắm. Địch Hoàng nói: - Tôi xin cử một người tên gọi Nhạc Dương là người ở đất Cốc Khâu nước ta. Người ấy văn vũ toàn tài, có thể làm đại tướng được. Ngụy Văn Hầu nói: - Xem thế nào mà biết? Địch Hoàng nói: - Một hôm, Nhạc Dương bắt được thoi vàng ở dọc đường mang về, người vợ mắng rằng: "Chí sĩ không uống nước suối Đạo tuyền, liêm giả không nhận đồ ăn ta lai, thoi vàng này không biết lai lịch thế nào, cớ sao lại lấy, để mang tiếng xấu". Nhạc Dương cảm lời nói của vợ, liền đem thoi vàng vứt ra ngoài đồng, rồi từ giã vợ sang du học ở nước Lỗ và nước Vệ. Học được hơn một năm trở về, người vợ đang dệt cửi, hỏi chồng học đã thành nghề chưa? Nhạc Dương nói chưa! Người vợ cầm dao cắt đứt khung cửi. Nhạc Dương hỏi: Tại làm sao? Người vợ nói: "Học có thành nghề thì mới được, cũng như lụa có thành tấm thì mới mặc được, nay phu quân học chưa thành nghề mà đã về thì có khác gì cái khung cửi đứt hay không". Nhạc Dương nghĩ ra, lại bỏ đi học, bảy năm không trở về. Bây giờ người ấy hiện ở nước nhà, thực có đại chí, không chịu làm nhỏ, sao chúa công không dùng. Ngụy Văn Hầu liền sai Địch Hoàng đem xe đi triệu Nhạc Dương. Mọi người can rằng: - Chúng tôi nghe Nhạc Dương có người con là Nhạc Thư hiện đang làm quan Trung Sơn dùng như thế sao được. Địch Hoàng nói: - Nhạc Dương là một kẻ ham lập công danh. Người con ở Trung Sơn đã vì vua Trung Sơn mà triệu Nhạc Dương; Nhạc Dương cho vua Trung Sơn là vô đạo mà không chịu theo. Nếu chúa công giao quyền cho Nhạc Dương thì lo gì không thành công được. Ngụy Văn Hầu nghe lời, Nhạc Dương theo Địch Hoàng vào yết kiến. Ngụy Văn Hầu bảo Nhạc Dương rằng: - Ta muốn đem việc đánh Trung Sơn giao cho nhà ngươi nhưng nhà người có người con làm quan với Trung Sơn thì biết làm thế nào? Nhạc Dương nói: - Kẻ trượng phu đã một lòng vì chủ, khi nào lại đem tư tình mà bỏ công sự hay sao? Nếu tôi không diệt được Trung Sơn thì xin chịu tội chết. Ngụy Văn Hầu mừng lắm, nói: - Nhà ngươi chắc được như vậy thì ta cũng tin lời. Nói xong liền cho Nhạc Dương làm Nguyên Súy, Tây Môn Báo làm tiên phong, đem năm vạn quân sang đánh Trung Sơn. Vua Trung Sơn là Cơ Quật sai quân đại tướng là Cổ Tu đóng quân ở Thâu Sơn để chống nhau với quân Ngụy. Nhạc Dương đóng quân ở Văn Sơn. Hai bên giữ nhau hơn một tháng mà chưa chia thắng phụ. Nhạc Dương bảo Tây Môn Báo rằng: - Ta đã đoan ở trước mặt chúa công thế nào cũng diệt được Trung Sơn, nay đem quân ra đây hơn một tháng mà chưa thành công chi cả, nghĩ cũng nên thẹn. Ta xem Thâu Sơn có nhiều cây thâu thụ nếu được một người can đảm đem quân lẻn đến, phóng hỏa đốt rừng thì quân họ tất loạn, bấy giờ ta thừa cơ tiến đánh, chắc có thể phá được. Tây Môn Báo xin đi. Bây giờ đang mùa thu tháng tám, vua Trung Sơn là Sơn Quật sai sứ đem rượu tiết dê đến Thâu Sơn để ban cho Cổ Tu. Cổ Tu nhân đêm sáng trăng, đem ra uống chơi, vui chén chẳng nghĩ gì đến công việc. Canh ba đêm hôm ấy, Tây Môn Báo đem quân lẻn đến, mỗi người cầm một bó đuốc bằng cành cây khô, trong có vật dẫn hỏa, đốt cây thâu thụ. Cổ Tu đang say rượu, thấy ngọn lửa cháy đến dinh trại, đem quân đi cứu hỏa, nhưng khắp vùng Thâu Sơn, chỗ nào cũng có lửa cháy, không thể cứu xiết. Quân Trung Sơn náo động. Cổ Tu biết ở phía trước có quân Ngụy, liền chạy về sau phía núi, lại gặp Nhạc Dương đã đem quân đón đánh. Quân Trung Sơn thua to. Cổ Tu chạy thoát được, trốn về Bạch Dương Quan. Quân Ngụy đuổi đánh. Cổ Tu lại bỏ Bạch Dương Quan mà chạy. Nhạc Dương kéo quân thẳng tiến, đi đến đâu phá vỡ đến đấy. Cổ Tu chạy về yết kiến Cơ Quật, nói Nhạc Dương là người trí dũng không thể địch nổi. Được một lúc thì Nhạc Dương đem quân đến vây. Cơ Quật giận lắm. Quan đại phu là Công tôn Tiên nói với Cơ Quật rằng: - Nhạc Dương tức là thân phụ Nhạc Thư. Nhạc Thư hiện đang làm quan ở nước ta, ta nên sai Nhạc Thư trèo lên mặt thành mà bảo thân phụ rút quân, đó là thượng sách. Cơ Quật bảo Nhạc Thư rằng: - Nhà ngươi bảo được thân phụ nhà ngươi rút quân đi thì ta sẽ phong đại ấp cho. Nhạc Thư nói: - Thân phụ tôi khi trước không chịu làm quan với Trung Sơn mà nay làm quan với Ngụy, tất có lòng vì Ngụy, tôi nói cũng không nổi. Cơ Quật cố ép mãi, Nhạc Thư bất đắc dĩ phải trèo lên mặt thành, xin tiếp kiến Nhạc Dương. Nhạc Dương mặc áo giáp đứng trên xe, trông thấy Nhạc Thư, liền mắng ngay rằng: - Người quân tử không ở nước ngụy, không nhờ triều loạn. Nay mày tham phú quý mà theo Trung Sơn, ta phụng mệnh chúa công đem quân đến đánh, mày nên bảo vua Trung Sơn mau mau đầu hàng đi thì cha con còn có thể gặp nhau được. Nhạc Thư nói: - Hàng hay không là quyền của vua Trung Sơn, con không được biết, nhưng xin cha hãy tạm hoãn đừng đánh vội, để chúng tôi còn bàn định với nhau. Nhạc Dương nói: - Ta hãy tạm hoãn cho một tháng để toàn cái tình cha con. Vua tôi mày nên bàn định mau mau, chớ để lỡ việc. Nhạc Dương liền truyền lệnh tạm hoãn không đánh vội. Cơ Quật chắc Nhạc Dương là người yêu con, chẳng dám đánh nào, cứ bỏ liều chẳng nghĩ chi cả. Khi quá một tháng, Nhạc Dương sai người hỏi. Cơ Quật lại sai Nhạc Thư xin một hẹn nữa. Nhạc Dương lại cho một tháng. Như thế đã ba lần, Tây Môn Báo nói với Nhạc Dương rằng: - Quan nguyên súy không muốn hạ Trung Sơn hay sao? Sao để lâu mà không đánh làm vậy. Nhạc Dương nói: - Vua Trung Sơn không biết thương dân, vậy nên ta đánh, nếu ta đánh gấp thì làm hại dân. Ta ba lần khoan hẹn cho, chẳng những vì tình cha con, cũng là muốn để thu lấy lòng dân đó. Các người tả hữu Ngụy Văn Hầu thấy Nhạc Dương là người tân tiến mà được làm quan to, đều có ý bất bình, đến khi nghe tin Nhạc Dương ba lần đình chiến, liền gièm với Ngụy Văn Hầu rằng: - Nhạc Dương đánh Trung Sơn được luôn mấy trận, chỉ vì một câu nói của Nhạc Thư mà ba tháng nay không đánh nữa, đủ biết là cái tình cha con. Nếu chúa công không triệu về thì chúng tôi e rằng hao quân tốn của, không ích gì cả. Ngụy Văn Hầu không đáp, rồi hỏi Địch Hoàng. Địch Hoàng nói: - Tất là Nhạc Dương có mưu kế gì đây chúa công chớ ngại. Từ bấy giờ các quan đua nhau dâng thư. Người thì nói vua Trung Sơn sắp đem nửa nước chia cho Nhạc Dương; người thì nói Nhạc Dương bàn mưu với Trung Sơn để cùng đánh nước Ngụy. Ngụy Văn Hầu đều bỏ cả những bức thư ấy vào trong cái tráp, thỉnh thoảng lại sai người ra thăm Nhạc Dương, và lập sẵn phủ đệ đợi khi Nhạc Dương về ở. Nhạc Dương cảm cái ơn ấy, thấy Trung Sơn không chịu hàng, thân đốc tướng sĩ cố sức đánh thành. Thành Trung Sơn dày dạn, lương thực rất nhiều, Cổ Tu và Công tôn Tiêu ngày đêm tuần phòng, cố sức chống giữ, Nhạc Dương đánh trong mấy tháng mà không phá được, có ý tức giận, mới cùng Tây Môn Báo thân hành ra đứng ở trước trận thúc quân tiến vào. Cổ Tu đang đứng chỉ bảo quân sĩ, bỗng bị mũi tên trúng vào đầu chết, Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng: - Việc đã nguy cấp lắm rồi! Tôi còn một kế, có thể lui được quân Ngụy. Cơ Quật hỏi: - Kế gì? Công tôn Tiêu nói: - Nhạc Thư ba lần xin khoan hạn mà Nhạc Dương đều cho cả, thế thì đủ biết là có bụng yêu con, nay ta trói Nhạc Thư treo lên trên cầu, nếu Nhạc Dương không rút quân thì ta sẽ giết đi. Bắt Nhạc Thư phải kêu khóc mà xin, chắc là Nhạc Dương không dám đánh nữa. Cơ Quật nghe lời. Nhạc Thư ở trên cầu kêu khóc mà gọi Nhạc Dương. Nhạc Dương trông thấy mắng rằng: - Mày là đứa không ra gì! Làm quan ở nước người ta, đã không biết bày mưu lập kế, để mong chiến thắng lại không tùy cơ ứng biến, để cầu giảng hòa, bây giờ lại còn kêu khóc làm gì. Nhạc Dương liền giương cung toan bắn Nhạc Thư. Nhạc Thư kêu rầm lên, mới được tha xuống, vào nói với Cơ Quật rằng: - Thân phụ tôi vì việc nước mà chẳng nghĩ gì đến tình cha con! Thôi thì chúa công liệu kế mà chống giữ, tôi xin chết ở trước mặt chúa công để tỏ cái tội không lui được quân giặc. Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng: - Người cha đánh thành tức là người con có tội, cũng nên cho chết. Cơ Quật nói: - Không phải là lỗi ở Nhạc Thư. Công tôn Tiêu nói: - Hễ Nhạc Thư chết thì tôi có cách lui được quân giặc. Cơ Quật liền cầm thanh kiếm đưa cho Nhạc Thư. Nhạc Thư đâm cổ chết. Công tôn Tiêu nói: - Tình người ta không gì bằng cha con. Nay mổ Nhạc Thư rồi đem nấu canh mà đưa cho Nhạc Dương; Nhạc Dương trông thấy bát canh tất phải thương xót khóc lóc, không thiết gì đến việc chiến tranh. Bấy giờ chúa công đem quân ra đại chiến một trận, may có thể thắng được. Cơ Quật bất đắc dĩ phải theo, truyền đem thịt Nhạc Thư nấu canh, và cả thủ cấp nữa, đưa sang cho Nhạc Dương mà bảo rằng: - Chúa công tôi thấy tiểu tướng quân (trỏ Nhạc Thư) không lui được quân Ngụy, đã giết và mổ ra rồi, nay đem bát canh sang dâng ngài, tiểu tướng quân còn có vợ con, nếu Ngài cứ đánh thành thì chúa công tôi sẽ giết nốt. Nhạc Dương trông thấy thủ cấp của con, liền quát to lên mắng rằng: - Thằng bất hiếu kia mày theo đứa vô đạo hôn quân thì mày đáng chết lắm! Mắng xong, cầm ngay lấy bát canh ăn hết cả. Ăn xong bảo sứ giả rằng: - Vua ngươi cho canh, khi phá thành rồi ta sẽ tạ ơn. Ta đây cũng có vạc dầu để đợi vua ngươi đó! Sứ giả về báo với Cơ Quật. Cơ Quật biết là Nhạc Dương không có lòng thương con, lại thấy đánh thành gấp lắm, e khi thành phá thì sẽ bị nhục, liền vào hậu cung thắt cổ chết. Công tôn Tiêu mở cửa thành xin hàng. Nhạc Dương kể cái tội xiểm nịnh làm hại nước rồi đem chém đi. Nhạc Dương giao 5.000 quân cho Tây Môn Báo đóng giữ ở đấy. Nhạc Dương thu hết các đồ bảo ngọc, rút quân về Ngụy. Ngụy Văn Hầu nghe tin Nhạc Dương thành công, thân hành ra cửa thành đón và ủy lạo rằng: - Tướng quân vì việc nước mà bỏ con, thực là cái lỗi tại ta đó! Nhạc Dương sụp lạy nói rằng: - Khi nào chúng tôi dám nghĩ tình riêng mà phụ tấm lòng chúa công đã ủy thác cho. Nhạc Dương triều kiến xong, đệ trình bức địa đồ nước Trung Sơn, và các bảo ngọc. Ngụy Văn Hầu bày tiệc ở trên nội đài, tay cầm chén rượu đưa cho Nhạc Dương. Nhạc Dương nhận lấy uống, nét mặt kiêu ngạo có ý cậy công. Tiệc xong, Ngụy Văn Hầu sai nội thị đem hai cái tráp niêm phong rất kỹ đưa cho Nhạc Dương mang về. Nhạc Dương vẫn tưởng là trong tráp ấy có các thứ vàng ngọc, chúa công sợ các quan ghen tị, nên niêm phong kín mà tặng cho. Chẳng ngờ đến lúc mở ra thì thấy toàn là những tờ tâu của các quan, trong tờ tâu đều nói Nhạc Dương là người phản bạn. Nhạc Dương kinh sợ nói rằng: - Xem thế này thì biết trong triều nhiều người phỉ báng mình, nếu chúa công không dốc lòng tin thì mình cũng khó lòng mà thành công được. Ngày hôm sau, vào triều tạ ân. Ngụy Văn Hầu ban cho thượng thưởng. Nhạc Dương sụp lạy từ chức nói rằng: - Diệt được nước Trung Sơn là nhờ cái lòng tin cậy của chúa công, tôi dẫu ra sức ở ngoài cũng chẳng có công gì! Ngụy Văn Hầu nói: - Phi ta không dùng được tướng quân mà phi tướng quân thì cũng không làm nổi được những công việc của ta! Nhưng tướng quân đã khó nhọc lắm rồi âu là ta phong ấp cho tướng quân, để tướng quân về nghỉ. Nói xong, liền đem đất Linh Thọ (đất nước Trung Sơn) phong cho Nhạc Dương gọi là Linh Thọ quan, rồi bãi hết binh quyền. Địch Hoàng nói với Ngụy Văn Hầu rằng: - Chúa công đã biết cái tài Nhạc Dương thì sao không sai đem quân ra giữ biên giới mà lại cho về nghỉ như vậy? Ngụy Văn Hầu cười mà không trả lời. Địch Hoàng lui ra, hỏi lại Lý Khắc. Lý Khắc nói: - Nhạc Dương đến con còn không có lòng yêu, huống chi là người khác! Cũng vì lẽ ấy mà Quản Trọng ngày xưa nghi Dịch Nha đó! Địch Hoàng mới nghĩ ra. Ngụy Văn Hầu nghĩ Trung Sơn là nơi xa lánh, tất phải được người thân tín đóng giữ thì mới khỏi lo ngại, liền cho thế tử Kích làm Trung Sơn quân. Thế tử Kích phụng mệnh ra đi gặp Điền Tử Phương đang ngồi một cái xe cũ đi đến; thế tử Kích vội vàng xuống xe, chắp tay đứng ở bên đường. Điền Tử Phương cứ nghiễm nhiên đi thẳng, chẳng thèm ngoảnh lại. Thế tử Kích không bằng lòng, sai người nắm xe lại hỏi rằng: - Tôi xin hỏi ngài: Người phú quý nên kiêu ngạo hay là người bần tiện nên kiêu ngạo? Điền Tử Phương cười bảo rằng: - Từ xưa đến nay chỉ có người bần tiện mới dám kiêu ngạo, chứ người phú quý khi nào dám kiêu ngạo! Vua mà kiêu ngạo thì mất nước, quan mà kiêu ngạo thì mất nhà, xem như Sở Linh Vương và Trí Bá thì đủ biết cái phú quý không thể cậy được. Còn như người bần tiện, ăn chẳng qua rau dưa, mặc chẳng qua xồi vải, thế nào cũng xong, còn phải cần ai! Ông vua nào biết mà theo ý mình thì mình ở; nếu không thì mình bỏ đi, chẳng ai cấm được. Chu Vũ Vương ngày xưa giết được vua Trụ mà không bắt nạt nổi hai kẻ sĩ ở Thú Dương, thế thì cái bần tiện đáng quý biết dường nào! Thế tử Kích có ý thẹn, xin lỗi rồi đi. Ngụy Văn Hầu nghe nói Điền Tử Phương không chịu khuất thế tử Kích, lại càng kính trọng lắm. Bấy giờ chức thái thú ở Nghiệp Đô đang khuyết, Địch Hoàng nói với Ngụy Văn Hầu rằng: - Nghiệp Đô ở giữa khoảng Thượng Đảng và Hàm Đan tiếp giáp với Hàn và Triệu, tất phải tìm người giỏi thì mới trấn thủ được. Tôi tưởng nên dùng Tây Môn Báo. Ngụy Văn Hầu cho Tây Môn Báo ra trấn thủ ở Nghiệp Đô. Tây Môn Báo khi mới đến Nghiệp Đô, trông thấy phong cảnh tiêu điều, nhân dân thưa ít, liền triệu các phụ lão đến để hỏi. Các phụ lão đều nói: - Dân chúng tôi khổ về một nỗi Hà Bá lấy vợ! Tây Môn Báo nói: - Quái lạ! Hà Bá lấy vợ thế nào? Các ngươi nói rõ cho ta nghe. Các phụ lão nói: - Sông Chương Thủy phát nguyên từ Cô Lĩnh, qua Sa Thành chảy đến Nghiệp Đô này, gọi là sông Chương Hà, Hà Bá tức là thần con sông ấy. Thần thích vợ đẹp, mỗi năm bắt dân phải nộp một người. Chịu nộp thì mưa thuận gió hòa, hoa màu tươi tốt, nếu không thì thần phạt, dâng nước lên làm hại cửa nhà. Tây Môn Báo nói: - Ai xướng thủy ra việc ấy? Các phụ lão nói: - Bọn đồng cốt ở ấp tôi xướng thủy ra việc ấy. Dân chúng tôi sợ cái hại nước lụt, vậy phải thuận theo. Mỗi năm các hào trưởng trong làng cùng bọn đồng cốt bổ cho dân phải nộp mấy trăm vạn quan tiền, dùng một phần làm phí tổn lấy vợ cho Hà Bá còn thì chia nhau. Tây Môn Báo hỏi: - Chúng nó chia nhau mà dân lại không nói câu gì hay sao? Các phụ lão nói: - Bọn đồng cốt để giữ việc cầu cúng, còn các hào trưởng trong làng có cái công thu bổ thì họ cũng phải ăn vào đấy, chúng tôi đâu dám phàn nàn! Nhưng có một điều rất khổ là cứ về đầu năm, bọn đồng cốt thấy con gái nhà ai hơi có nhan sắc thì bảo người con gái ấy đáng làm vợ Hà Bá, có chịu lễ nhiều tiền thì họ mới tha, lại bắt người khác. Bọn đồng cốt lập một cái nhà trai cung ở bờ sông màn che trướng phủ, toàn đồ mới cả; bắt đứa con gái ấy tắm gội thay áo rồi cho ở đấy, chọn được ngày tốt, đem đứa con gái ấy để ngồi vào cái thuyền bằng cỏ, thả ra giữa dòng sông, đi được độ vài mươi dặm thì tự khắc chìm mất. Dân chúng tôi khổ về những sự phiền phí ấy, cũng có người thương con gái quá, không muốn nộp cho Hà Bá thì đem con trốn đi, vì thế mà trong thành mỗi ngày một vắng vẻ. Tây Môn Báo hỏi: - Ấp các ngươi đã bị lụt bao giờ chưa? Các phụ lão nói: - Năm nào dân chúng tôi cũng chịu nộp con gái, vậy nên thần không trách phạt bao giờ! Nhưng ấp chúng tôi đất cao, đường xa, nước sông khó vận tới được, dẫu chẳng bị lụt mà thỉnh thoảng lại phải một năm tiêu khô cũng hại lắm thay! Tây Môn Báo nói: - Thần đã thiêng như vậy hôm nào nộp con gái, để ta cũng đến, rồi ta sẽ cầu đảo cho các ngươi. Khi tới kỳ, các phụ lão đến bẩm, Tây Môn Báo đội mũ, mặc áo nghiêm chỉnh thân hành ra đứng ở bờ sông. Phàm những quan thuộc trong ấp, tam lão và các hào trưởng lý dịch đều đến đông đủ. Dân kéo ra xem, kể hàng nghìn người. Bọn tam lão và hào trưởng đưa một bà đồng già ra, trông mặt có ý kiêu ngạo. Các đệ tử hơn 20 người khăn áo sặc sỡ, đều xách lẵng hương đi theo sau. Tây Môn Báo bảo bà đồng già ấy rằng: - Dám phiền nhà ngươi gọi vợ Hà Bá ra đây cho ta xem mặt. Bà đồng sai đệ tử gọi đến. Tây Môn Báo trông thấy người con gái ấy nhan sắc tầm thường, liền bảo bà đồng và tam lão rằng: - Hà Bá là một bậc quý thần, phải tìm người con gái rất đẹp thì mới xứng đáng. Người này không được. Ta phiền nhà ngươi xuống nói với Hà Bá rằng vâng lời quan thái thú, xin tìm người con gái khác rất đẹp, hôm sau sẽ nộp. Tây Môn Báo sai ngay mấy tên lính ôm bà đồng ném xuống sông, mọi người chung quanh, ai cũng kinh sợ mất vía. Tây Môn Báo cứ ngồi yên để đợi. Được hồi lâu, Tây Môn Báo nói: - Bà đồng tuổi đã già, không được việc! Xuống sông bấy lâu mà chưa thấy về trả lời. Các đệ tử nên đi giục hộ ta. Tây Môn Báo lại sai lại sai quân ôm một cô đệ tử mà vất xuống sông. Được ít lâu, Tây Môn Báo lại nói: - Đệ tử đi mãi chưa về! Nói xong lại sai một đệ tử khác đi giục. Tây Môn Báo lại chê là chậm, lại bắt người nữa đi. Cả thảy ba đệ tử xuống sông, đều không thấy trở về. Tây Môn Báo nói với tam lão rằng: - Bọn ấy đều là đàn bà nói năng không rõ, phiền tam lão xuống hộ để cho được minh bạch. Tam lão từ chối. Tây Môn Báo quát to lên rằng: - Đi mau! Thế nào về trả lời ngay cho ta biết! Quân lính lôi ngay tam lão, đẩy xuống dưới sông, không cho nói năng gì nữa. Người xem chung quanh ai cũng khiếp sợ. Tây Môn Báo vẫn chắp tay đứng ở bờ sông để đợi lệnh, trông rất nghiêm kính. Trong một hồi lâu nữa, Tây Môn Báo lại nói: - Tam lão già cả, cũng chẳng làm nên việc, phải phiền đến các hào trưởng mới được. Bọn hào trưởng mặt như chàm đổ, mình nhường dẽ run, đều sụp lạy kêu van không dám ngẩng cổ dạy. Tây Môn Báo nói: - Hãy đợi một lúc nữa. Mọi người đều run sợ. Lại quá một khắc nữa. Tây Môn Báo nói: - Nước sông chảy cuồn cuộn, nào thấy Hà Bá ở đâu! Chúng bay làm hại bao nhiêu con gái ở dân này, cái tội ấy chúng bay phải đền mạng! Mọi người đều sụp lạy kêu rằng: - Xưa nay chúng tôi vẫn bị đám đồng cốt lừa dối, chứ không phải tội chúng tôi. Tây Môn Báo nói: - Bà đồng đã chết rồi, từ nay về sau nếu ai còn nói đến việc Hà Bá lấy vợ nữa thì bắt ngay người ấy làm mối, xuống nói với Hà Bá. Còn bọn hào trưởng kia thu bao nhiêu tiền của dân thì bây giờ phải đem trả lại hết. Tây Môn Báo lại truyền cho phụ lão chọn những trai lành, người nào lớn tuổi mà chưa có vợ thì đem nữ đệ tử mà gả cho. Từ bấy giờ mất thói đồng cốt. Những dân đi trốn khi trước, lại đem nhau về cả. Tây Môn Báo lại xem xét địa thế, bắt dân đào 12 cái ngòi thông với sông Chương Thủy cho thế nước rút bớt đi. Các ruộng ở khoảng giữa, được nước ngòi chảy vào, lại tránh khỏi cái hại tiêu khô, lúa má tốt lắm, dân được vui vẻ. Ngụy Văn Hầu bảo Địch Hoàng rằng: - Ta nghe nhà ngươi sai Nhạc Dương đánh Trung Sơn, sai Tây Môn Báo trị Nghiệp Đô đều được việc cả, ta lấy làm may mắn lắm. Nay Tây Hà ở về phía Tây nước Ngụy ta, tiếp giáp với nước Tần, quân Tần vẫn sang quấy nhiễu, nhà ngươi nghĩ hộ ta xem người nào có thể ra trấn thủ ở đấy được? Địch Hoàng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp lại rằng: - Tôi xin cử một người họ Ngô tên Khởi. Người ấy có tài làm đại tướng, nay từ nước Lỗ chạy sang nước ta. Chúa công nên mau mau triệu đến mà dùng lấy, nếu chậm thì hắn lại đi nước khác mất. Ngụy Văn Hầu nói: - Ngô Khởi có phải là người giết vợ để cầu làm tướng nước Lỗ đó không? Ta nghe nói người ấy tham tài hiếu sắc, tính lại tàn nhẫn, dùng thế nào được? Địch Hoàng nói: - Tôi cử Ngô Khởi là cốt lấy người thành công được việc cho chúa công thôi, còn phẩm hạnh thì có kể làm chi. Ngụy Văn Hầu nói: - Nhà ngươi hãy thử triệu đến cho ta xem. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 86 Ngô Khởi giết vợ để cầu quan Trâu Kỵ gảy đàn được làm tướng Bấm để xem Ngô Khởi vốn người nước Vệ. Lúc bé còn ở trong làng, người mẹ thường trách mắng về tội du đãng hay chơi nghề đánh gươm. Ngô Khởi cắn cánh tay chảy máu ra mà thề với mẹ rằng: - Từ nay trở đi, con xin từ giã mẹ, đi du học phương khác. Nếu không làm nên khanh tướng lên xe xuống ngựa, cờ mở trống dong thì con quyết không về nước Vệ mà trông thấy mẹ nữa! Người mẹ khóc mà giữ ở nhà. Ngô Khởi chẳng ngoảnh cổ lại, cứ việc ra thẳng cửa Bắc, đi sang nước Lỗ, vào học thầy Tăng Sâm, là học trò giỏi của ông Khổng Tử. Ngô Khởi ngày đêm chăm chỉ, không quản khó nhọc. Quan đại phu nước Tề là Điền Cư đến nước Lỗ, khen Ngô Khởi là người ham học, mới thử hỏi chuyện thì thấy ứng đối trơn như nước chảy, liền gả con gái cho. Ngô Khởi học Tăng Sâm được mấy năm, Tăng Sâm biết là nhà Ngô Khởi còn có mẹ già, mới hỏi Ngô Khởi rằng: - Con đi học đã lâu ngày, mà không về thăm mẹ thì sao cho đành lòng? Ngô Khởi nói: - Con đã thề rằng nếu không làm nên khanh tướng thì không trở về nước Vệ nữa! Tăng Sâm nói: - Đối với người khác thì mới nên thề, còn mẹ thì thề sao được! Từ bấy giờ Tăng Sâm có lòng ghét Ngô Khởi. Chưa được bao lâu, có tin đồn rằng mẹ Ngô Khởi đã chết, Ngô Khởi ngửa mặt lên trời kêu to ba tiếng, rồi lại chùi nước mắt mà đọc sách như thường. Tăng Sâm giận mà nói rằng: - Ngô Khởi không về để tang mẹ, thế là người quên gốc! Nước không gốc thì tất phải kiệt, cây không gốc thì tất phải gãy, người mà không gốc thì sống sao được! Ngô Khởi không phải là học trò ta! Tăng Sâm sai học trò đuổi Ngô Khởi ra không cho học nữa! Ngô Khởi bỏ đạo nho, đi học binh pháp. Trong ba năm, học đã thành nghề, mới xin làm quan ở nước Lỗ. Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu, thường cùng với Ngô Khởi bàn việc binh, biết Ngô Khởi là người tài giỏi, nói với Lỗ Mục công, dùng cho làm quan đại phu. Từ đó Ngô Khởi có lương bổng, mới mua tỳ thiếp để cầu vui. Bấy giờ quan tướng quốc nước Tề là Điền Hòa, muốn cướp nước Tề, nhưng sợ nước Lỗ là Tuế nhân với Tề, lại đem quân đến hỏi tội chăng, mới nhân cái thù ở Nghệ Lăng khi trước, mà sang đánh Lỗ, định dùng binh lực để làm cho Lỗ phải sợ. Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu nói với Lỗ Mục công rằng: - Muốn lui quân Tề, trừ phi dùng được Ngô Khởi. Lỗ Mục công ngoài miệng ầm ừ lấy làm phải, nhưng vẫn không chịu dùng. Đến khi nghe tin quân Tề đã chiếm mất Thanh ấp. Công Nghi Hưu lại tâu rằng: - Tôi đã nói Ngô Khởi nên dùng, sao chúa công không theo? Lỗ Mục công nói: - Ta vẫn biết Ngô Khởi là người tài giỏi, nhưng hắn lại kết duyên với con gái họ Điền nước Tề. Tình người ta còn gì yêu hơn vợ chồng, tài nào không có ý thiên vị. Bởi vậy mà ta ngần ngại chưa dám quyết. Công Nghi Hưu cáo từ lui về. Ngô Khởi đã chờ ở tướng phủ mà hỏi rằng: - Quân Tề kéo sang nhiều lắm, chẳng hay chúa công đã tìm được lương tướng chưa? Ngày nay tôi không dám khoe khoang mà tự tiến mình tới, nhưng chắc rằng nếu cho tôi làm tướng thì quân Tề chẳng còn một mống nào trở về được! Công Nghi Hưu nói: - Tôi đã có nói đến hai, ba lần, nhưng chúa công thấy nhà ngươi kết hôn với họ Điền, vì thế mà nghi ngờ không quyết. Ngô Khởi nói: - Muốn làm cho chúa công khỏi nghi ngờ, điều ấy thực rất dễ. Ngô Khởi liền về nhà hỏi vợ là Điền thị rằng: - Người ta quý về có vợ là nghĩa làm sao? Điền thị nói: - Quý về có vợ là người vợ biết trông nom việc cửa nhà để giúp cho chồng làm nên kia khác! Ngô Khởi nói: - Người chồng làm đến khanh tướng, quyền cao chức trọng, nức tiếng thơm danh, thế mới thật là làm nên. Có phải vợ mong cho chồng được như thế không? Điền thị nói: - Phải! Ngô Khởi nói: - Ta muốn cầu nàng một việc, xin nàng giúp ta thì mới thành công được. Điền thị nói: - Tôi là đàn bà, có đâu lại giúp phu quân được thành công. Ngô Khởi nói: - Nay quân Tề đánh Lỗ, vua Lỗ muốn cho làm tướng, chỉ vì ta kết hôn với nàng là dòng dõi họ Điền ở nước Tề, vậy nên nghi ngờ mà không dùng. Nếu ta được cái thủ cấp nàng đem dâng vua Lỗ thì vua Lỗ không nghi ngờ được nữa, mà ta mới làm nên được công danh. Điền thị kinh sợ, vừa toan mở miệng nói thì Ngô Khởi tuốt gươm. Điền thị đã rơi đầu xuống đất rồi! Ngô Khởi lấy lụa bọc đầu Điền thị đưa vào yết kiến Lỗ Mục công mà tâu rằng: - Tôi có lòng báo quốc, chỉ vì vợ tôi mà chúa công nghi ngờ, nay tôi chém đầu vợ tôi, để tỏ là người một lòng vì nước Lỗ. Lỗ Mục công có ý không vui mà nói rằng: - Quan đại phu lầm rồi. Được ít lâu thì Công Nghi Hưu vào yết kiến. Lỗ Mục công bảo Công Nghi Hưu rằng: - Ngô Khởi giết vợ để cầu làm tướng, thế là một người tàn nhẫn trong bụng khó lường lắm. Công Nghi Hưu nói: - Ngô Khởi không quý vợ mà ham công danh, nếu chúa công bỏ không dùng thì hắn lại giúp Tề. Lỗ Mục công nghe lời cho Ngô Khởi làm đại tướng. Tiết Liễu và Thân Tường làm phó tướng, đem hai vạn quân ra đánh quân Tề, Ngô Khởi từ khi làm đại tướng, cơm ăn áo mặc cũng đều một thứ như các quân sĩ khác, nằm không trải nệm, đi không ngồi xe, trông thấy quân sĩ khiêng vác nặng nề cũng đến làm hộ. Một tên quân có bệnh đau nhọt, Ngô Khởi thân hành chạy chữa thuốc thang, rồi ghé miệng hút mủ cho nó. Quân sĩ cảm cái ơn Ngô Khởi, khác nào như tình cha con, đều day tay mắm miệng xin cố sức đánh giặc. Quan tướng quốc nước Tề là Điền Hòa đem đại tướng là Điền Kỵ và Đoàn Bằng kéo quân thẳng tới cõi Nam Bì nước Lỗ, nghe tin Ngô Khởi làm đại tướng nước Lỗ, cười bảo rằng: - Người ấy là rể họ Điền, chỉ nghề hiếu sắc, có biết việc quân lữ là cái gì! Nước Lỗ đến ngày suy đốn, vậy nên dùng người ấy. Đến khi hai bên đóng đồn giáp nhau, Điền Hòa không thấy Ngô Khởi ra khiêu chiến, mới mật sai người dò xem Ngô Khởi làm gì, thì Ngô Khởi đang cùng với một tên quân hèn mạt nhất đám ấy trải chiếu xuống đất ngồi, chia canh cùng ăn. Sứ giả về báo, Điền Hòa cười nói rằng: - Phép làm đại tướng có tôn nghiêm thì quân sĩ mới sợ, quân sĩ có sợ thì mới chịu cố sức đánh. Nay Ngô Khởi cử động như thế, còn dùng quân thế nào được, ta chẳng lo gì! Điền Hòa lại sai Trương Sửu giả cách sang xin giảng hòa, để dò thăm xem cách chiến thủ của Ngô Khởi ra sao. Ngô Khởi đem quân tinh nhuệ giấu ở phía sau, rồi dàn những quân lão nhược ra, lại giả cách cung kính mà tiếp đãi Trương Sửu. Trương Sửu hỏi: - Tôi nghe đồn tướng quân giết vợ để cầu làm tướng có phải không? Ngô Khởi sợ hãi đáp rằng: - Tôi dầu hèn mạt, cũng đã có học ở cửa thánh, khi nào dám làm những việc bất tình như vậy! Nội nhân tôi nhân khi bệnh mất, lại gặp có việc quân lữ, người nghe tin đồn bậy, chứ không phải thực. Trương Sửu nói: - Nếu tướng quân còn nghĩ đến tình họ Điền thì xin cùng với tướng quân tôi giảng hòa. Ngô Khởi nói: - Tôi đây là thư sinh, có đâu dám chống nhau với Điền thị, nếu cho giảng hòa thì chúng tôi thật mãn nguyện lắm. Ngô Khởi mời Trương Sửu ở lại trong quân, uống rượu vui trong ba ngày, rồi mới cho về, tuyệt nhiên không nói gì đến việc binh. Khi Trương Sửu sắp đi Ngô Khởi lại dặn đi dặn lại để nhờ Trương Sửu nói hộ. Trương Sửu cáo từ lui về. Ngô Khởi tức khắc điều binh khiển tướng, chia làm ba toán quân lẻn đường theo sang. Điền Hòa được tin Trương Sửu về nói, có ý khinh quân Ngô Khởi là lão nhược, không lo sợ gì cả. Bỗng nghe thấy tiếng trống vang rầm ở ngoài cửa viên môn, quân Lỗ thình lình kéo đến Điền Hòa kinh sợ, ngựa không kịp đóng yên, xe không kịp thắng ngựa, quân sĩ đều náo loạn. Điền Kỵ đem bộ binh ra nghênh chiến Đoàn Bằng truyền cho quân sĩ sửa soạn để tiếp ứng. Chẳng ngờ hai toán quân của Tiết Liễu và Thân Tường ở hai bên tả hữu xông vào giáp chiến. Quân Tề thua to, người chết như rạ. Quân Lỗ đuổi theo mãi đến đất Bình Lục (đất nước Tề) mới trở về. Lỗ Mục công bằng lòng lắm, cho Ngô Khởi làm thượng khanh. Điền Hòa trách Trương Sửu về tội làm hỏng việc. Trương Sửu nói: - Tôi chỉ thấy như thế, nào ngờ đâu là Ngô Khởi đánh lừa. Điền Hòa thở dài mà than rằng: - Ngô Khởi dụng binh, chẳng khác gì Tôn Vũ và Nhương Thư thuở xưa. Nếu Lỗ cứ dùng hắn mãi thì nước Tề ta khó yên được. Ta muốn sai một người sang Lỗ, mật cùng với Ngô Khởi giao thông để hai bên không xâm phạm nhau. Nhà ngươi có đi được không? - Tôi xin liều mình sang Lỗ một phen để chuộc lại cái tội trước. Điền Hòa mới tìm hai người mỹ nữ và một nghìn nén hoàng kim, giao cho Trương Sửu. Trương Sửu giả cách làm lái buôn đem sang nước Lỗ, vào lễ riêng Ngô Khởi. Ngô Khởi vốn là người tham tài hiếu sắc, thấy Trương Sửu đưa đến, liền nhận ngay rồi bảo Trương Sửu rằng: - Nhà ngươi nói lại với quan tướng quốc nước Tề. Giả sử nước Tề không xâm nước Lỗ thì khi nào nước Lỗ lại đánh nước Tề. Khi Trương Sửu trở về, cố ý hở chuyện cho mọi người ở Lỗ Thành biết, vì thế mà mọi người đều tuyên truyền về việc Ngô Khởi ăn lễ của nước Tề. Lỗ Mục công nghe biết chuyện ấy, liền phàn nàn rằng: - Ta đã biết bụng Ngô Khởi không thể lường được! Lỗ Mục công toan cách chức và trị tội Ngô Khởi. Ngô Khởi sợ hãi, bỏ nhà trốn sang nước Ngụy, trọ ở nhà Địch Hoàng. Gặp bấy giờ Ngụy Văn Hầu đang bàn với Địch Hoàng, không biết sai ai trấn thủ Tây Hà cho được. Địch Hoàng mới tiến dẫn Ngô Khởi. Ngụy Văn Hầu triệu Ngô Khởi vào rồi bảo Ngô Khởi rằng: - Ta nghe tướng quân làm quan ở nước Lỗ, cớ sao nay lại trốn sang nước ta? Ngô Khởi nói: - Vua nước Lỗ nghe lời đứa xu nịnh, không có lòng tin tôi vậy nên tôi phải trốn sang đây. Nay chúa công có lòng khiêm tốn, biết dùng kẻ sĩ, các người hào kiệt, ai cũng muốn theo. Vậy tôi cũng xin cầm roi mà theo hầu ở trước ngựa chúa công, nếu chúa công dùng cho thì dẫu thịt nát xương mòn, tôi cũng không dám hối hận. Ngụy Văn Hầu phong cho Ngô Khởi làm quan trấn thủ ở Tây Hà. Ngô Khởi đến Tây Hà, sửa sang thành quách, luyện tập quân sĩ, hết lòng thương yêu kẻ dưới, cũng như khi còn làm tướng ở nước Lỗ. Lại đắp một cái thành chống nhau với nước Tần gọi tên là Ngô Thành. Bấy giờ Tần Huệ công mất, thế tử Xuất lên nối ngôi. Nguyên Tần Huệ công là con Tần Giản công. Tần Giản công là chú Tần Linh công. Đang khi Tần Linh công mất, con là Sư Thấp, tuổi hãy còn nhỏ, các quan triều thần mới lập Tần Giản công lên nối ngôi. Sau ba lần truyền ngôi đến thế tử Xuất thì bấy giờ Sư Thấp đã trưởng thành. Sư Thấp bảo các quan triều thần rằng: - Nước Tần này vốn là nước của thân phụ ta, ta có tội gì mà các ngươi bỏ ta không lập? Các quan triều thần không biết trả lời ra thế nào, mới cùng nhau giết thế tử Xuất mà lập Sư Thấp tức là Tần Hiếu công. Ngô Khởi nhân khi nước Tần lắm việc, đem quân đánh lén nước Tần, chiếm lấy năm thành. Nước Hàn và nước Ngụy thấy Ngô Khởi đánh được nước Tần, đều đến chúc mừng. Ngụy Văn Hầu khen cái công Địch Hoàng tiến dẫn được người giỏi, định cho Địch Hoàng làm quan tướng quốc, mới hỏi Lý Khắc. Lý Khắc nói: - Không bằng cho Ngụy Thành là hơn. Ngụy Văn Hầu gật đầu. Lý Khắc lui ra. Địch Hoàng đón mà hỏi rằng: - Tôi nghe nói chúa công muốn chọn quan tướng quốc mà hỏi ý ông, chẳng hay ông có biết chúa công đã cho ai chưa? Lý Khắc nói: - Chúa công đã định cho Ngụy Thành. Địch Hoàng hầm hầm nổi giận nói rằng: - Chúa công muốn đánh Trung Sơn, tôi tiến dẫn Nhạc Dương; chúa công lo không có ai giữ đất Nghiệp, tôi tiến dẫn Tây Môn Báo; chúa công lo không có ai giữ Tây Hà, tôi tiến dẫn Ngô Khởi. Cớ sao tôi lại không bằng Ngụy Thành? Lý Khắc nói: - Ngụy Thành tiến dẫn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương và Đoàn Can Mộc, hoặc làm thầy chúa công, hoặc làm bạn chúa công; còn những người của ông tiến dẫn thì chúa công chỉ dùng làm bề tôi được mà thôi. Ngụy Thành ăn lộc kể có 1.000 chung, mà vẫn đem cái lộc ấy để đãi các người hiền sĩ; còn lộc của ông thì ông chỉ để nuôi vợ con mà thôi. Ông ví với Ngụy Thành sao được. Địch Hoàng sụp lạy hai lạy xin lỗi rằng: - Bỉ nhân nói lỡ lời, từ nay xin theo làm đệ tử. Từ bấy giờ nước Ngụy, tướng văn và tướng võ đều có người giỏi cả, trong nước được yên ổn. Quan tướng quốc nước Tề là Điền Hòa thấy nước Ngụy cường thịnh, lại nghe tiếng Ngụy Văn Hầu là người hiền, thiên hạ ai cũng trọng, Điền Hòa mới kết giao với Ngụy rồi thiên Tề Khang công ra một nơi bãi bể, cấp cho một thành để lấy lương ăn, còn bao nhiêu thì Điền Hòa chiếm cứ tất cả. Lại sai sứ sang nói với Ngụy Văn Hầu, nhờ tâu hộ với thiên tử nhà Chu, muốn viện cái lệ Tam Tấn, cũng được phong làm chư hầu. Chu Uy Liệt Vương đã mất, con là An Vương (Kiên) lên nối ngôi, lại càng suy nhược lắm. Bấy giờ, tức là năm thứ 13 đời Chu An Vương. Chu An Vương theo lời xin của Ngụy Văn Hầu, phong cho Điền Hòa làm Tề Hầu, tức là Điền thái công. Từ khi Công tử Hoàn nước Tần chạy sang nước Tề, mà họ Khương ở nước Tề thành ra tuyệt tự. Bấy giờ Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) đều đua nhau chọn người tài giỏi cho làm tướng quốc, vì thế mà cái quyền quan tướng quốc hệ trọng lắm. Tướng quốc nước Triệu là Công Trọng Liên. Tướng quốc nước Hàn là Hiệp Lũy. Nay hãy nói chuyện Hiệp Lũy. Khi Hiệp Lũy hãy còn hàn vi, cùng với người Bộc Dương (đất nước Vệ) là Nghiêm Toại, tên tự là Trọng Tử, cùng kết giao với nhau. Hiệp Lũy nghèo mà Nghiêm Toại giàu. Hiệp Lũy vẫn ăn nhờ Nghiêm Toại. Nghiêm Toại lại đem 1.000 nén vàng giúp cho Hiệp Lũy, để Hiệp Lũy có tiền mà đi du lịch các nước, Hiệp Lũy nhờ thế mà sang được nước Hàn, làm quan đến tướng quốc. Hiệp Lũy đã cầm quyền chính nước Hàn, có tiếng là người cẩn trọng, không ai được vào yết kiến riêng bao giờ. Nghiêm Toại sang nước Hàn, muốn vào yết kiến Hiệp Lũy để nhờ Hiệp Lũy tiến dẫn cho. Nghiêm Toại đợi hơn một tháng mà không được vào yết kiến, mới đem tiền bạc lễ đút các người cận thần để xin vào yết kiến Hàn Liệt hầu, Hàn Liệt hầu bằng lòng muốn dùng cho làm quan. Hiệp Lũy lại nói với Hàn Liệt hầu kể những điều dở của Nghiêm Toại, và ngăn Hàn Liệt hầu không nên dùng. Nghiêm Toại biết vậy, căm tức vô cùng, mới bỏ nước Hàn đi chu du thiên hạ, để tìm kẻ dũng sĩ đâm chết Hiệp Lũy. Đi đến nước Tề, trông thấy trong đám đồ tể làm thịt trâu có một người tay cầm cái búa lớn, đang bổ con trâu. Nhát búa hạ đến đâu thì gân cốt của con trâu đứt phăng phăng ra đến đấy, không có ý khó nhọc chút nào cả. Cái búa nặng ước chừng hơn 30 cân. Nghiêm Toại lấy làm lạ, đứng ngắm nghía mà nhìn kỹ người ấy thì thấy người ấy mình cao tám thước, mắt tròn râu vểnh, xương trán cao gồ, tiếng nói không giống tiếng người nước Tề. Nghiêm Toại mới hỏi họ tên và lai lịch thì người ấy đáp rằng: - Tôi họ Nhiếp, tên gọi là Chính, vốn người nước Ngụy, quê ở Chỉ Ấp. Chỉ vì tôi hay thẳng tính cho nên đắc tội ở chốn hương thôn, phải đem mẹ và chị trốn sang đây, làm nghề đồ tể kiếm ăn lần hồi cho qua ngày tháng. Nhiếp Chính lại hỏi họ tên Nghiêm Toại. Nghiêm Toại cũng bảo thực cả, rồi cáo từ mà đi. Đến sáng hôm sau, Nghiêm Toại đội mũ mặc áo, đến tận nhà Nhiếp Chính, mời Nhiếp Chính ra quán uống rượu. Uống rượu vừa mới được ba tuần thì Nghiêm Toại đưa một trăm nén vàng để tặng Nhiếp Chính. Nhiếp Chính thấy cho nhiều như vậy, có ý lấy làm lạ. Nghiêm Toại nói: - Tôi nghe nói ông có lão mẫu, vậy xin dâng của này để ông phụng dưỡng. Nhiếp Chính nói: - Ông cho tiền để tôi phụng dưỡng lão mẫu tôi, thế thì tất ông có bụng muốn dùng tôi làm việc gì đó. Nếu ông không bảo rõ thì tôi quyết không dám nhận. Nghiêm Toại mới kể hết đầu đuôi việc Hiệp Lũy phụ ân cho Nhiếp Chính nghe và nói muốn giết chết Hiệp Lũy để báo thù. Nhiếp Chính nói: - Ngày xưa Chuyên Chư đã có câu rằng: "Lão mẫu hãy còn thì không dám đem thân giúp ai cả", vậy thì việc này cũng khó nghĩ lắm. Ông cho tôi quyết không dám nhận. Nghiêm Toại nói: - Tôi mến cái bụng cao nghĩa của ông, xin kết làm anh em, khi nào dám trái tấm lòng hiếu dưỡng của ông mà cầu nên việc riêng của mình. Nhiếp Chính bất đắc dĩ mới nhận vàng, đem một nửa cho người chị là nàng Doanh, còn một nửa thì ngày nào cũng mua của ngon vật lạ, phụng dưỡng bà mẹ. Được hơn một năm thì bà mẹ Nhiếp Chính chết, Nghiêm Toại lại đến khóc viếng, rồi lo việc tang lễ giúp Nhiếp Chính. Khi an táng xong, Nhiếp Chính nói với Nghiêm Toại rằng: - Cái thân tôi ngày nay là cái thân của túc hạ đó. Túc hạ muốn dùng làm việc gì, tôi cũng không dám tiếc. Nghiêm Toại mới hỏi cái kế để báo thù Hiệp Lũy. Nhiếp Chính nói: - Quan tướng quốc là một bậc tôn quý, ra vào lúc nào cũng có quân sĩ hộ vệ, ta nên phải dụng mưu mới xong, chứ không phải chỉ lấy sức khỏe mà làm được. Tôi xin giắt một con dao nhọn đi, rồi rình lúc bất ngờ mà đâm chết. Nay tôi xin từ biệt túc hạ, không bao giờ lại được trông thấy túc hạ nữa! Mà túc hạ cũng không nên hỏi đến việc tôi làm. Nhiếp Chính đến nước Hàn, ngủ ở ngoài cõi, tĩnh sĩ trong ba ngày, đến sáng sớm ngày thứ tư, đi vào trong thành. Gặp bấy giờ Hiệp Lũy ở trong triều ra, xe xe ngựa ngựa, quân sĩ cầm giáo đi hộ vệ chung quanh, đi nhanh như bay. Nhiếp Chính theo đến tướng phủ. Hiệp Lũy xuống xe, vào ngồi trong phủ để xử quyết mọi việc. Từ cửa lớn vào đến thềm nhà, chỗ nào cũng có quân đứng cả. Nhiếp Chính đứng xa mà trông thì thấy Hiệp Lũy ngồi tựa một cái thư án, chung quanh có các người đang cầm giấy mà đứng hầu bẩm rất đông. Một lúc thì các công việc xong, sắp sửa tan hầu, Nhiếp Chính nhân lúc Hiệp Lũy đã mỏi mệt, mới giả cách nói có việc cần kíp vào bẩm quan tướng quốc, rồi cứ việc ở ngoài cửa đi sấn thẳng vào. Giáp sĩ, kẻ nào ngăn lại thì đều bị Nhiếp Chính gạt ngã hết cả. Nhiếp Chính vào thẳng đến công đường rút con dao nhọn để đâm Hiệp Lũy. Hiệp Lũy sợ chạy. Chạy chưa khỏi chỗ ngồi thì bị lưỡi dao đâm trúng vào bụng mà chết. Trong phủ náo động cả lên, đều kêu có giặc, rồi đóng cửa phủ lại để bắt Nhiếp Chính. Nhiếp Chính đánh chết mấy người nữa, rồi liệu biết mình không thể thoát ra được, lại sợ người ta biết mình là ai, mới vội vàng cầm dao đâm nát mặt ra, và khoét bỏ hai con mắt, sau lại đâm cổ mà chết. Tức khắc có người phi báo Hàn Liệt hầu. Hàn Liệt hầu hỏi giặc là người nào, không ai biết cả. Hàn Liệt hầu truyền đem thây giặc chăng bày ra ở giữa chợ, rồi treo giải: Hễ ai biết được họ tên và lai lịch người ấy mà cáo tỏ ra thì thưởng cho 1.000 nén vàng, để muốn báo thù cho quan tướng quốc là Hiệp Lũy. Treo giải trong 10 ngày, kẻ đi người lại, đông như kiến cỏ, mà tuyệt nhiên chẳng ai biết cả. Việc ấy đồn đến nước Ngụy, người chị Nhiếp Chính ở làng Chỉ Ấp tên là nàng Doanh nghe tin liền lăn khóc mà nói rằng: - Người ấy tất là em ta đó mà thôi. Nàng Doanh chít khăn trắng rồi đi sang nước Hàn, trông thấy thây Nhiếp Chính chăng bày ở giữa chợ, chạy đến ôm lấy mà khóc lóc rất thảm thương. Kẻ thị lại (chức coi chợ) bắt mà hỏi rằng: - Nàng với người chết đó là thế nào? Nàng Doanh nói: - Người chết đó là em tôi, tên gọi Nhiếp Chính, tôi đây là chị ruột hắn tên gọi là Doanh đó! Em tôi nguyên ở Chỉ Ấp, vốn là người võ dũng. Hắn biết việc đâm chết quan tướng quốc này là trọng tội, sợ di lụy đến tôi, vậy nên hắn khoét mắt rạch mặt ra để không ai nhận được, thế thì có lẽ nào tôi lại tiếc thân tôi mà khiến cho em tôi mai một, chẳng ai biết đến hay sao. Thị lại nói: - Người chết đó đã là em nàng thì tất nàng biết cái cớ vì sao mà hắn dám làm càn như vậy. Nếu nàng nói rõ người nào xui giục hắn, thì ta sẽ tâu với chúa công tha tội chết cho nàng. Nàng Doanh nói: - Tôi có sợ chết thì tôi đã không dám tới đây. Em tôi vì người khác báo thù mà không tiếc cái thân, đi giết một ông tướng quốc. Tôi không nói rõ tên ra thì làm mất cái tiếng của em tôi, mà nếu tôi nói rõ việc này ra thì lại làm cho em tôi mất điều nghĩa. Nàng Doanh liền đập đầu vào cái cột đá ở chợ mà chết. Thị lại vào báo với Hàn Liệt hầu, Hàn Liệt hầu ngợi khen, truyền đem thu táng cho nàng Doanh và Nhiếp Chính, rồi phong Hàn Sơn Kiên làm tướng quốc để thay Hiệp Lũy. Hàn Liệt hầu truyền cho con là Hàn Văn hầu, Hàn Văn hầu truyền cho Hàn Ai hầu. Hàn Ai hầu cùng với Hàn Sơn Kiên bất hòa với nhau. Hàn Sơn Kiên mới thừa cơ giết chết Hàn Ai hầu. Các quan đại thần cùng nhau giết Hàn Sơn Kiên mà lập con Hàn Ai hầu là Nhược Sơn, tức là Hàn Y hầu. Đến đời con Hàn Y hầu là Hàn Chiêu hầu, dùng Thân Bất Hại làm tướng quốc. Thân Bất Hại tinh về cái học hình danh vì thế mà nước Hàn thịnh trị. Lại nói chuyện năm thứ 15 đời Chu An Vương. Ngụy Văn Hầu (Tư) ốm nặng, triệu thế tử Kích ở nước Trung Sơn về. Nước Triệu nghe tin thế tử Kích rời bỏ Trung Sơn, liền đem quân sang đánh mà chiếm lấy. Từ bấy giờ Ngụy và Triệu có hiềm khích với nhau. Thế tử Kích về Ngụy thì Ngụy Văn Hầu đã mất rồi, thế tử Kích mới làm chủ tang rồi lên nối ngôi, tức là Ngụy Vũ hầu. Ngụy Vũ hầu phong Điền Văn làm quan tướng quốc. Ngô Khởi ở Tây Hà vào triều, vẫn tự đắc là mình có công to, thế nào cũng được làm tướng quốc, đến khi nghe nói Điền Văn đã được làm tướng quốc rồi, có ý không bằng lòng, hầm hầm nổi giận mà lui ra. Ra đến ngoài cửa triều môn, bỗng gặp Điền Văn. Ngô Khởi đón mà bảo rằng: - Ông có biết cái công Ngô Khởi những thế nào không? Nay tôi xin nói cho ông nghe. Điền Văn chắp tay đáp rằng: - Vâng! Xin ông cho tôi nghe. Ngô Khởi nói: - Làm tướng đem quân đi đánh giặc mà khiến cho quân sĩ nghe tiếng trống có thể quên chết được, thế thì ông đã bằng Ngô Khởi hay chưa? Điền Văn nói: - Tôi không bằng! Ngô Khởi nói: - Trị trăm quan, thân muôn dân, mà khiến cho phủ khố đều được sung thực, thế thì ông đã bằng Ngô Khởi hay chưa? Điền Văn nói: - Tôi không bằng! Ngô Khởi nói: - Lại trấn thủ ở Tây Hà, mà quân Tần không dám xâm phạm đến bờ cõi, Hàn và Triệu đều phải kính phục, thế thì ông đã bằng Ngô Khởi hay chưa? Điền Văn lại nói: - Tôi không bằng! Ngô Khởi nói: - Ba điều ấy ông đều kém tôi, thế mà ngôi ông ở trên tôi là nghĩa làm sao? Điền Văn nói: - Chúa công cho tôi là một huân cựu đời trước mà phong làm tướng quốc, tôi thực lấy làm hổ thẹn lắm, nhưng ngày nay tân quân hãy còn ít tuổi, các đại thần và trăm họ chưa có lòng tin theo, tôi thiết tưởng không phải là lúc ta nên kể công vội. Ngô Khởi cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp rằng: - Ông nói cũng có lẽ phải! Nhưng ngôi tướng quốc thế nào cũng phải nhường cho tôi. Nội thị nghe biết chuyện hai người ấy tranh công với nhau như thế, vào tâu với Ngụy Vũ hầu. Ngụy Vũ hầu biết Ngô Khởi có lòng oán vọng mới lưu Ngô Khởi ở lại, mà chọn người khác sai đi trấn thủ Tây Hà. Ngô Khởi sợ Ngụy Vũ hầu giết, liền bỏ trốn sang nước Sở. Sở Điệu Vương (Hùng Nghi) vốn nghe tiếng Ngô Khởi là người tài, tức khắc cho làm quan tướng quốc. Ngô Khởi cảm cái ân ấy vô cùng, có ý hăng hái, muốn cố giúp cho nước Sở được cường thịnh, mới xin với Sở Điệu Vương rằng: - Nước Sở ta, đất rộng mấy nghìn dặm vuông, quân giáp sĩ có hơn trăm vạn, đáng lẽ thì đè ép được chư hầu mà nối đời làm minh chủ mới phải, thế mà nay vẫn không hơn được các nước là bởi chưa biết cái đạo nuôi quân. Cái đạo nuôi quân, trước hết phải cấp lương cho hậu thì họ mới chịu hết sức, nay trong triều có nhiều chức quan không cần, các họ công tộc đã sơ viễn, cũng ăn hại của kho nhà nước, còn lương chiến sĩ thì cấp cho chẳng được bao nhiêu, thế mà muốn khiến cho họ phải vì nước liều mình, chẳng cũng khó lắm ru! Nếu đại vương chịu theo kế tôi, thải bớt những chức quan không cần đi, triệt bớt lương những họ đã xa đi, để đem bổng lộc ấy mà cấp cho chiến sĩ. Như thế mà nước không cường thịnh thì tôi xin chịu tội chết. Sở Điệu Vương theo kế ấy. Các quan triều thần đều can Sở Điệu Vương không nên dùng lời nói của Ngô Khởi. Sở Điệu Vương không nghe, liền giao cho Ngô Khởi sửa lại quan chế, tước bỏ những chức quan không cần, kể hàng mấy trăm viên, con các quan đại thần, không được dựa dẫm mà ăn lộc của nhà nước; lại định lệ cho họ công tộc từ năm đời trở lên thì phải đi kiếm lấy mà ăn, cũng coi như các hạng dân thường vậy, còn từ năm đời trở xuống thì cân nhắc họ gần họ xa mà lương nhiều hoặc ít vậy. Vì thế mà sổ chi tiêu mỗi năm dư ra kể hàng mấy vạn. Rồi kén những quân tinh nhuệ trong nước sớm tối luyện tập, xét ai là người tài giỏi thì cho ăn nhiều lương, có người được tăng lương gấp mấy lần trước. Bởi thế mà quân sĩ đều có lòng ganh đua nhau, binh lực nước Sở mạnh hơn cả thiên hạ, Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) và Tề, Tần, nước nào cũng kính sợ. Suốt đời Sở Điệu Vương, không nước nào dám đem quân đến đánh. Đến khi Sở Điệu Vương mất, chưa kịp khâm liệm thì những con em các nhà quý thích đại thần đều thừa cơ nổi loạn, định giết Ngô Khởi. Ngô Khởi chạy vào nơi cung tẩm, chúng đem cung tên đuổi theo. Ngô Khởi biết sức mình không địch nổi, mới ôm lấy thi thể Sở Điệu Vương. Chúng giương cung ra bắn thì cả thi thể Sở Điệu Vương cũng bị mấy mũi tên. Ngô Khởi kêu to lên rằng: - Tôi dẫu chết cũng không dám tiếc, nhưng các ngươi căm tức đại vương mà bắn thi thể, thế thì cái tội đại nghịch bất đạo ấy, khi nào lại trốn ra ngoài vòng pháp luật nước Sở được. Ngô Khởi nói xong thì chết. Chúng nghe lời Ngô Khởi nói, sợ mà tan ra. Thái tử Hùng Tang lên nối ngôi, tức là Sở Túc Vương. Được hơn một tháng Sở Túc Vương xét đến chỉ tội bắn thi thể Sở Điệu Vương, liền sai em là Hùng Lương Phu đem quân đi bắt những đảng khởi loạn mà giết đi, cả thẩy hơn 70 nhà. Lại nói chuyện Điền Hòa từ khi lên làm vua nước Tề, được hai năm thì mất. Điền Hòa truyền cho Điền Ngọ, Điền Ngọ truyền cho Điền Nhân Tề. Năm Điền Nhân Tề lên nối ngôi, tức là năm thứ 23 đời Chu An Vương. Điền Nhân Tề cậy nước mình giàu mạnh, thấy Ngô và Việt xưng vương, trong khi sứ mệnh hai nước đi lại, đều dùng vương hiệu. Điền Nhân Tề cũng không chịu kém Ngô và Việt, mới tiếm hiệu xưng vương tức là Tề Uy Vương. Ngụy Hầu nghe thấy nước Tề xưng vương, liền nói: - Khi nào Ngụy lại chịu không bằng Tề! Bấy giờ cũng tự xưng là Ngụy Vương (tức là Lương Huệ Vương mà ông Mạnh Tử vào yết kiến đó). Tề Uy Vương từ khi lên làm vua, say đắm tửu sắc, lại ham mê âm nhạc, không nghĩ gì đến quốc chính. Trong khoảng chín năm. Hàn, Ngụy, Lỗ, Triệu đều đem quân đến đánh, các tướng ở ngoài bờ cõi thường bị thua luôn. Một hôm có một người thư sinh, xin vào yết kiến, tự xưng họ Trâu, tên Kỵ, nguyên người bản quốc, có biết gảy đàn cầm, nghe nói đại vương thích âm nhạc, nên tìm đến. Tề Uy Vương cho triệu vào, mời ngồi, sai người đặt một cái ghế ở trước mặt, rồi đưa cây đàn cầm ra. Trâu Kỵ lên dây đàn mà không gảy. Tề Uy Vương hỏi rằng: - Tiên sinh đã là người khéo gảy đàn cầm thì tiên sinh nên cho ta nghe một bài. Nay tiên sinh lên dây mà không gảy, dễ thường cái đàn này không được tốt chăng, hay là tiên sinh có ý chê ta không biết nghe đàn đó? Trâu Kỵ đặt cây đàn cầm xuống, ngồi nghiêm nét mặt đáp rằng: - Tôi biết là biết cầm lý, còn như tiếng chỉ đường tơ là việc của bọn nhạc công, tôi dẫu biết cũng không đáng gảy hầu đại vương làm gì. Tề Uy Vương nói: - Cầm lý thế nào? Xin tiên sinh cho nghe. Trâu Kỵ nói: - Cầm tức là cấm, nghĩa là cấm chỉ những sự dâm tà thì mới giữ được chính đạo. Vua Phục Hi đời xưa chế ra đàn cầm, đàn cầm có năm dây, dây lớn là vua, dây nhỏ là bề tôi, đến đời vua Văn Vương và Vũ Vương, mỗi ngài lại thêm một dây nữa, để hợp cái tình ý vua tôi, xem thế đủ biết rằng vua tôi có tương đắc nhau thì chính lệnh mới được hòa hợp, dẫu cái đạo trị nước, cũng chẳng qua như thế mà thôi. Tề Uy Vương nói: - Tiên sinh nói phải lắm! Nhưng tiên sinh đã biết cầm lý thì tất biết cầm âm, xin tiên sinh hãy thử gảy chơi một khúc. Trâu Kỵ nói: - Tôi học nghề đàn thì phải biết các lẽ chơi đàn; đại vương lo việc nước, há lại không biết cái đạo trị nước hay sao! Nay đại vương bỏ nước mà không trị, có khác gì tôi ôm đàn mà không gảy hay không? Tôi ôm cầm mà không gảy thì đại vương không được thỏa lòng, thế thì đại vương bỏ nước mà không trị, chắc là muôn dân cũng không được thỏa lòng vậy. Tề Uy Vương ngạc nhiên nói rằng: - Thế là tiên sinh mượn cây đàn để can ta đó! Ta đã hiểu ý rồi. Tề Uy Vương mời Trâu Kỵ lưu lại ở nhà hữu thất. Đến sáng ngày hôm sau, Tề Uy Vương tắm gội sạch sẽ, rồi triệu Trâu Kỵ vào, cùng bàn việc nước, Trâu Kỵ khuyên Tề Uy Vương tiết bớt những sự tửu sắc, tin dùng kẻ trung lương, trừ bỏ đứa gian nịnh, lại luyện tập quân sĩ để kinh doanh về nghiệp bá vương. Tề Uy Vương bằng lòng lắm, tức khắc cho Trâu Kỵ làm tướng quốc. Bấy giờ có kẻ biện sĩ là Thuần Vu Khôn, thấy Trâu Kỵ chỉ nói mấy câu mà được làm tướng quốc, có ý không phục, mới đem đồ đảng sang yết kiến Trâu Kỵ. Trâu Kỵ tiếp đãi rất lễ phép, Thuần Vu Khôn, nét mặt kiêu ngạo, nghiễm nhiên ngồi ghế trên mà bảo Trâu Kỵ rằng: - Tôi có thiển nghĩ được mấy điều, muốn giãi bày để quan tướng quốc nghe, chẳng biết có nên không? Trâu Kỵ nói: - Xin cứ cho nghe. Thuần Vu Khôn nói: - Con không lìa mẹ, vợ không lìa chồng. Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! Từ nay chúng tôi không dám rời bên cạnh vua. Thuần Vu Khôn lại nói: - Dùng gỗ cức làm bánh xe, lại bôi thêm mỡ lợn, thế thì trơn hoạt lắm rồi, nhưng nếu làm cái lỗ vuông thì cũng không thể nào mà chuyển vận được. Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! Tôi không dám làm điều gì trái nhân tính. Thuần Vu Khôn lại nói: - Cánh cung dẫu cứng đến đâu, cũng có lúc trễ, các dòng nước chảy ra bể, tự nhiên mà hợp. Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! Từ nay tôi phải yêu mến muôn dân. Thuần Vu Khôn lại nói: - Áo hồ cừu dẫu nát, không nên đem da chó mà vá vào. - Xin vâng! Tôi xin kén chọn người hiền mà dùng, không dám cho kẻ bất tiếu lẫn vào đó! Thuần Vu Khôn lại nói: - Bức cốc không so sánh từng phân từng thốn thì không thành sự được; cầm sắt không so sánh dây hoãn dây cấp thì không thành luật được. Trâu Kỵ nói: - Xin vâng! Tôi xin sửa soạn pháp luật để giám đốc những kẻ gian lại. Thuần Vu Khôn nín lặng, sụp lạy hai lạy rồi ra. Khi đã ra cửa, những đồ đảng hỏi Thuần Vu Khôn rằng: - Lúc nhà thầy mới vào yết kiến quan tướng quốc thì sao thầy có ý kiêu ngạo, đến lúc lui ra thì sao thầy lại chịu khuất mà sụp lạy hai lạy? Thuần Vu Khôn nói: - Ta mới ngỏ ý thử năm điều, quan tướng quốc đều hiểu ý ta mà ứng khẩu trả lời ngay được, thế là một bậc đại tài, ta không thể theo kịp. Từ bấy giờ các biện sĩ nghe tiếng Trâu Kỵ, không ai dám đến nước Tề. Trâu Kỵ cũng dùng lời nói Thuần Vu Khôn, mà hết lòng lo việc chính trị thường dò xét trong bọn các quan ấp tể xem ai hiền, ai không hiền. Bấy giờ các quan trong triều, ai cũng khen quan đại phu đất A là người hiền, mà chê quan đại phu đất Tức Mặc, Trâu Kỵ nói với Tề Uy Vương, rồi sai người đi dò xét xem hư thực thế nào. Khi đã dò xét được sự thực rồi, Tề Uy Vương cho triệu hai quan đại phu đất A và đất Tức Mặc đến. Quan đại phu đất Tức Mặc đến trước, Tề Uy Vương chẳng nói chi cả, các quan trong triều đều ngơ ngác, không hiểu ra sao. Chưa được bao lâu, quan đại phu đất A cũng đến. Tề Uy Vương truyền họp tất cả các quan triều thần lại để định thưởng phạt. Các triều thần ai cũng nghĩ thầm trong bụng rằng: Quan đại phu đất A phen này tất được trọng thưởng, mà quan đại phu đất Tức Mặc thì sắp có tai vạ đến nơi. Khi các quan văn võ đã vào triều kiến cả rồi. Tề Uy Vương gọi quan đại phu đất Tức Mặc đến trước mặt bảo rằng: - Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ ở đất Tức Mặc, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời chê bai. Ta sai người đến dò xét đất Tức Mặc thì thấy ruộng nương mở rộng, nhân dân giàu có, việc quan không chậm trễ, cả một phương đông ấy được yên. Thế là bởi nhà ngươi chuyên lòng trị dân, mà không chịu lễ đút những người tả hữu gần ta, thành ra bị họ chê bai đó. Nhà ngươi thật là một ông quan hiền. Nói xong, liền gia phong cho, rồi lại gọi quan đại phu đất A đến mà bảo rằng: - Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ đất A, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời khen ngợi. Ta sai người đến dò xét đất A thì thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rét, hôm trước quân Triệu đến xâm lấn bờ cõi mà nhà ngươi không biết cứu. Thế là nhà ngươi chỉ đem tiền đút lót những người tả hữu gần ta, thành ra được họ khen ngợi đó. Nhà ngươi thật là một ông quan rất dở. Quan đại phu đất A sụp lạy xin đổi lỗi. Tề Uy Vương không nghe, truyền lực sĩ đem vạc dầu ra nấu lên. Vạc dầu đang sôi sùng sục, Tề Uy Vương sai trói quan đại phu đất A mà bỏ vào. Lại bắt cả những người xưa nay vẫn khen quan đại phu đất A mà chê bai quan đại phu đất Tức Mặc hàng mấy mươi người đến mà trách mắng rằng: - Các ngươi đều là người tả hữu gần ta, tức là tai mắt của ta, các ngươi lại tham của ăn lễ, phải nói ra trái, trái nói ra phải, để lừa dối ta, thế thì ta còn dùng các ngươi được việc gì nữa! Nên đem mà mổ cả đi. Chúng đều khóc lóc kêu van. Tề Uy Vương vẫn còn hầm hầm nổi giận, chọn lấy hơn 10 người, toàn là những người xưa nay mình có lòng thân yêu, đem ra mà mổ. Chúng đều run sợ. Từ bấy giờ Tề Uy Vương kén chọn những người hiền tài, cho đi trấn thủ các quận. Sai Đàn Tử đi trấn thủ Nam Thành để chống cự với Sở; Điền Miện đi trấn thủ Cao Đường để chống cự với Triệu; Kiềm Phu đi trấn thủ Từ Châu để chống cự với Yên. Còn quan tư khấu và tư mã, cũng đều chọn được người giỏi cả, vì thế mà trong nước cường thịnh. Các nước chư hầu đều phải sợ hãi. Tề Uy Vương đem đất Hạ Bì phong cho Trâu Kỵ mà bảo rằng: - Làm thành được cái chí của ta là nhờ công nhà ngươi đó. Ta đặt tên cho nhà ngươi là Thành Hầu. Trâu Kỵ tạ ân xong lại tâu rằng: - Trong năm đời làm bá chủ thì Tề Hoàn công và Tấn Văn công là thịnh hơn cả, mà cái cớ sở dĩ thịnh được như thế, là nhờ về cái tiếng biết tôn thiên tử nhà Chu. Nay nhà Chu dẫu suy, chín cái đỉnh còn đó, sao đại vương không vào triều thiên tử nhà Chu, để mượn cái uy lệnh thiên tử mà sai khiến chư hầu. Nếu như vậy thì cái sự nghiệp của đại vương, cũng chẳng kém gì Tề Hoàn công và Tấn Văn công thủa trước. Tề Uy Vương nói: - Ta đã tiếm hiệu xưng vương, có lẽ nào Tề Vương lại vào triều Chu Vương hay sao! Trâu Kỵ nói: - Ta xưng vương nghĩa là để tỏ cái sự ta hùng trưởng hơn các nước chư hầu, chứ không phải là xưng vương để đối địch với thiên tử. Khi đại vương vào triều thiên tử, hãy tạm xưng Tề Hầu, như thế thì thiên tử tất yêu cái đức khiêm cung của đại vương, mà gia phong cho đại vương vậy. Tề Uy Vương bằng lòng, tức khắc vào triều thiên tử nhà Chu. Bấy giờ là năm thứ sáu đời Chu Liệt Vương, nhà Chu suy yếu, đã lâu không thấy các nước chư hầu vào triều, nay thấy Tề Uy Vương đến thì trên dưới đều vui vẻ mừng rỡ. Chu Liệt Vương đem hết các đồ châu bảo ra tặng cho Tề Uy Vương. Khi Tề Uy Vương từ nhà Chu trở về nước Tề, ai trông thấy cũng ca tụng là người hiền đức. Bấy giờ thiên hạ có bẩy nước lớn là Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Hàn, Yên và Tần. Trong bẩy nước ấy đất rộng binh cường, đại lược đều nhau: Còn các nước khác như nước Việt, dẫu có xưng vương, nhưng mỗi ngày một suy yếu, đến như Tống, Lỗ, Vệ và Trịnh thì lại càng không đáng nói đến. Từ khi Tề Uy Vương làm bá chủ thì Sở, Ngụy, Hàn, Triệu và Yên, năm nước ấy đều chịu kém nước Tề, trong khi hội họp, vẫn tôn nước Tề làm chủ minh, chỉ có Tần là một nước ở xa lánh về phía Tây Nhung, các nước trung quốc thường khinh bỉ không hay thông hiếu với Tần. Đời Tần Hiến công bỗng có mưa vàng trong ba ngày, quan thái sử nhà Chu tên là Thiêm than rằng: - Đất nước Tần nguyên là đất của nhà Chu chia cho, chỉ hơn trăm năm thì tất lại hợp, mà sẽ có đời nên nghiệp bá vương. Nay trời mưa vàng ở nước Tần, tức là cái điềm ấy đó! Đến khi Tần Hiến công mất, con là Tần Hiếu công lên nối ngôi. Tần Hiếu công lấy việc không được dự hội với trung quốc làm xấu hổ, mới hạ lệnh vời người hiền. Lệnh rằng: "Các tân khách và triều thần ai có mưu kế gì lạ làm cho nước Tần được cường thịnh thì xin dùng làm đại thần và phong cho đại ấp". Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 87 Vệ Ưởng hết lòng giúp Tần Hiếu công Quỉ Cốc truyền phép cho Tề Tôn Tẫn Bấm để xem Người nước Vệ có Công tôn Ưởng, vốn chuyên học về 'hình danh' thấy nước Vệ nhỏ yếu, không đủ thi thố tài năng của mình, mới bỏ nước Vệ đi sang nước Ngụy, muốn xin vào làm tôi quan tướng quốc nước Ngụy là Điền Văn. Bấy giờ Điền Văn đã mất, Công tôn Tọa thay làm tướng quốc, Vệ Ưởng (tức là Công tôn Ưởng) mới vào làm tôi Công tôn Tọa. Công tôn Tọa biết Vệ Ưởng là người có tài, liền nói với Ngụy Huệ Vương cho làm chức trung thứ tử (tức là thuộc viên của quan tướng quốc). Mỗi khi có việc quan trọng thì Công tôn Tọa lại bàn với Vệ Ưởng. Vệ Ưởng nghị luận đều vỡ lẽ cả. Công tôn Tọa có lòng yêu mến, muốn tiến dẫn cho Vệ Ưởng làm quan to, nhưng chưa kịp tiến dẫn thì Công tôn Tọa bị bệnh. Ngụy Huệ Vương thân hành đến hỏi thăm, thấy Công tôn Tọa bệnh nguy lắm, chỉ còn thoi thóp thở mà thôi. Ngụy Huệ Vương mới ứa nước mắt khóc mà hỏi rằng: - Chẳng may quan tướng quốc không khỏi thì ta biết giao việc nước cho ai được? Công tôn Tọa nói: - Chức trung thứ tử là Vệ Ưởng. Người ấy tuổi dẫu còn trẻ, nhưng là một bậc kỳ tài trong đời bây giờ. Nếu đại vương giao hết quyền chính cho người ấy thì thật hơn gấp mười lần tôi đó. Ngụy Huệ Vương nín lặng. Công tôn Tọa lại nói: - Nếu đại vương không dùng Vệ Ưởng thì nên giết đi, chớ để cho hắn đi khỏi, mà nước khác người ta dùng mất thì lại hại cho nước Ngụy ta về sau này. Ngụy Huệ Vương nhận lời. Khi đã lên xe trở về. Ngụy Huệ Vương mới thở dài than rằng: - Công tôn Tọa trong khi ốm nặng thành ra mê lẫn, thậm chí xui ta giao quyền chính cho Vệ Ưởng! Lại bảo ta rằng "Không dùng thì phải giết đi". Chao ôi! Vệ Ưởng làm gì nổi! Công tôn Tọa há không phải là mê lẫn hay sao! Ngụy Huệ Vương đi khỏi rồi, Công tôn Tọa gọi Vệ Ưởng đến cạnh giường nằm bảo rằng: - Vừa rồi, ta có nói với đại vương, muốn cho đại vương dùng nhà ngươi. Đại vương không nghe. Ta lại có nói: Nếu không dùng thì nên giết đi. Đại vương nhận lời. Nay ta bảo thực với nhà ngươi, nhà ngươi nên mau mau trốn đi, kẻo có tai vạ. Vệ Ưởng nói: - Đại vương đã không biết nghe lời quan tướng quốc mà dùng tôi, thì khi nào lại biết nghe lời quan tướng quốc mà giết tôi được! Vệ Ưởng không chịu đi trốn. Quan đại phu là Công tử Cùng có quen Vệ Ưởng, lại tiến dẫn với Ngụy Huệ Vương. Ngụy Huệ Vương cũng không biết dùng. Đến bấy giờ Vệ Ưởng nghe tin Tần Hiếu công hạ lệnh cầu người hiền, mới bỏ Ngụy sang Tần, xin vào yết kiến một người bế thần (bề tôi mà được vua yêu) của Tần Hiếu công tên gọi Cảnh Giám. Cảnh Giám cùng với Vệ Ưởng thương nghị việc nước, biết Vệ Ưởng là người có tài, liền vào tâu với Tần Hiếu công. Tần Hiếu công cho triệu vào, hỏi về đạo trị nước. Vệ Ưởng viện dẫn các đời vua như: Phục Hi, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn để trả lời. Vệ Ưởng nói chưa hết lời thì Tần Hiếu công đã ngủ rồi. Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào yết kiến, Tần Hiếu công trách mắng rằng: - Vệ Ưởng là kẻ gàn dở! Nói toàn những chuyện viển vông không thể dùng được, sao nhà ngươi lại tiến dẫn cho ta? Khi Cảnh Giám lui về, bảo Vệ Ưởng rằng: - Tôi đưa tiên sinh vào yết kiến chúa công, sao tiên sinh lại nói những chuyện viển vông, không thể dùng được, để khiến cho chúa công chán mà không muốn nghe. Vệ Ưởng nói: - Tôi đem đế đạo nói với chúa công, nhưng chúa công không hiểu, vậy ông hãy xin cho tôi vào yết kiến một lần nữa. Cảnh Giám nói: - Chúa công đã có ý không bằng lòng, nếu không để chậm độ năm ngày nữa thì không nên nói vội. Quá năm ngày. Cảnh Giám lại vào tâu với Tần Hiếu công rằng: - Vệ Ưởng chưa được nói hết lời, xin chúa công cho vào yết kiến lần nữa. Tần Hiếu công lại triệu Vệ Ưởng vào. Vệ Ưởng giãi bày những công việc của vua Hạ Vũ và vua Thang, vua Vũ thuở xưa. Tần Hiếu công nói: - Nhà ngươi thật là một người học rộng nhớ nhiều, nhưng cổ kim mỗi lúc một khác, nhà ngươi nói như thế thì dùng sao được. Tần Hiếu công sai đuổi Vệ Ưởng ra. Cảnh Giám đứng chờ ngoài cửa, trông thấy Vệ Ưởng ở trong cung đi ra, đón mà hỏi rằng: - Ngày hôm nay thế nào? Vệ Ưởng nói: - Tôi đem vương đạo nói với chúa công, chúa công còn chưa bằng lòng. Cảnh Giám nói: - Ông vua dùng người khác nào như kẻ đi bắn dùng cái cung, chỉ mong sao cho sớm tối có lợi ngay. Nay tiên sinh bỏ cái lợi trước mắt mà đi nói những chuyện đế vương thì hợp ý thế nào được! Vệ Ưởng nói: - Lúc trước tôi chưa biết ý chúa công thế nào, tôi sợ chúa công có chí cao mà tôi lại nói thấp chăng, vậy nên tôi phải nói như thế để dò ý. Nay đã dò được ý rồi, giả sử tôi được yết kiến chúa công một lần nữa thì lo gì mà không hợp. Cảnh Giám nói: - Tiên sinh hai lần vào yết kiến, mà đều làm trái ý chúa công tôi cả, khi nào tôi lại còn dám nói nữa để khiến cho chúa công tôi nổi giận. Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào triều tạ tội, không dám nói đến Vệ Ưởng nữa. Khi Cảnh Giám lui về, Vệ Ưởng lại hỏi rằng: - Ông có tâu với chúa công, xin cho tôi vào yết kiến nữa không? Cảnh Giám nói: - Không! Vệ Ưởng nói: - Tiếc thay cho chúa công có cái lệnh cầu hiền mà không biết dùng. Thôi thì tôi cũng xin cáo từ mà đi. Cảnh Giám nói: - Tiên sinh định đi đâu? Vệ Ưởng nói: - Chư hầu còn sáu nước lớn nữa, há lại không có một ông vua nào hiếu hiền hơn vua nước Tần hay sao! Mà há lại không được một người nào chịu hết lòng để tiến hiền hơn ông nữa hay sao! Tôi sẽ đi tìm được những nơi như thế. Cảnh Giám nói: - Tiên sinh hãy thư thả, đợi trong năm ngày nữa, rồi tôi sẽ lại tâu. Quá năm ngày nữa, Cảnh Giám đứng hầu Tần Hiếu công. Tần Hiếu công đang uống rượu, bỗng thấy chim hồng bay qua, liền dừng chén rượu thở dài. Cảnh Giám tâu rằng: - Chúa công trông thấy chim hồng bay qua mà thở dài là ý làm sao? Tần Hiếu công nói: - Ngày xưa Tề Hoàn công có nói: "Ta được Quản Trọng, khác nào như chim hồng có lông cánh" nay ta hạ lệnh cầu hiền đã mấy tháng rồi, mà không được một người tài giỏi nào đến, khác nào như chim hồng có chí bay nhảy mà không được lông cánh giúp cho, bởi vậy mà ta buồn rầu. Cảnh Giám tâu rằng: - Vệ Ưởng có ba thuật: Đế, vương, bá khi trước vào yết kiến chúa công, đã nói những công việc đế vương, nay còn bá thuật, muốn xin nói nốt, chúa công thử bớt thì giờ mà nghe xem ra sao. Tần Hiếu công nghe nói hai chữ bá thuật, lấy làm hợp ý, liền sai Cảnh Giám đi triệu Vệ Ưởng. Vệ Ưởng vào, Tần Hiếu công hỏi rằng: - Nhà ngươi có bá thuật, sao không nói trước cho ta nghe. Vệ Ưởng nói: - Không phải là tôi không muốn nói, nhưng bá thuật cùng với đế vương khác nhau: Đế vương thì cốt thuận dân tình mà bá thuật thì tất phải trái dân mới được. Tần Hiếu công biến sắc mặt, rồi chống thanh kiếm nói rằng: - Bá thuật, cứ gì phải trái dân tình mới làm được. Vệ Ưởng nói: - Đàn cầm, đàn sắt không được êm ái thì tất phải thay dây mà gióng lại, nếu việc chính trị mà không đổi lại thì bao giờ cho chỉnh đốn được, vì bọn tiểu dân nó chỉ cầu yên trong một lúc, mà không nghĩ gì đến cái lợi trăm năm. Ngày xưa Quản Trọng giúp Tề Hoàn công, đặt ra phép nội chính và phép quân lệnh, chia nước Tề ra làm 25 hương, đổi hết những pháp luật cũ của nước Tề, vậy thì bọn tiểu dân há lại vui lòng mà tin theo được hay sao! Đến khi nước được cường thịnh, dân được sung sướng, bấy giờ mới biết Quản Trọng là một bậc đại tài! Tần Hiếu công nói: - Nhà ngươi thật có cái thuật như Quản Trọng thì ta xin giao hết quyền chính cho nhà ngươi, nhưng chẳng hay cái thuật của nhà ngươi như thế nào? Vệ Ưởng nói: - Nước có giàu thì mới dùng binh được, binh có mạnh thì mới phá giặc được. Nay muốn cho nước giàu thì không gì bằng mở mang ruộng nương, muốn cho binh mạnh thì không gì bằng luyện tập chiến trận; dụ lấy trọng thưởng thì dân mới biết theo, hiếp lấy trọng phạt thì dân mới biết sợ; thi hành chính lệnh, lại tất phải thủ tín và quả quyết, như thế mà nước không giàu, binh không mạnh thì còn có lẽ nào! Tần Hiếu công nói: - Nếu vậy thì hay lắm! Cái thuật ấy ta có thể theo được. Vệ Ưởng nói: - Cái thuật giàu mạnh này, nếu không có người giỏi thì cũng không thi hành được. Đã được người giỏi mà mình không biết chuyên tâm để dùng người ta thì cũng không thi hành được. Đã chuyên tâm dùng người ta mà lại còn nghe người này người khác nói, đổi ý luôn luôn thì cũng không tài nào thi hành được. Tần Hiếu công nói: - Ta muốn nghe cho hết cái thuật của nhà ngươi, cớ sao nhà ngươi lại vội cáo từ làm vậy? Vệ Ưởng nói: - Hãy xin chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày xem nên chăng thế nào, bấy giờ tôi sẽ xin nói hết. Khi Vệ Ưởng lui về, Cảnh Giám lại trách rằng: - Chúa công đã hai, ba lần khen phải, sao tiên sinh không nhân dịp ấy mà giãi bày hết để uẩn, lại còn muốn cho chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày rồi mới chịu nói, thế chẳng hóa ra mình bắt bí chúa công hay sao! Vệ Ưởng nói: - Tôi xem ý chúa công chưa nhất định, nếu không như vậy thì e rồi lại đổi ý mà thôi. Đến sáng hôm sau, Tần Hiếu công sai người đến triệu Vệ Ưởng. Vệ Ưởng từ chối rằng: - Hôm qua tôi đã tâu với chúa công rồi! Chưa được ba ngày thì tôi không dám vào yết kiến. Cảnh Giám lại khuyên Vệ Ưởng chớ từ chối. Vệ Ưởng nói: - Tôi vừa mới đính ước với chúa công mà nay đã thất tín ngay, thế thì sau này tôi còn thủ tín với chúa công sao được. Bấy giờ Cảnh Giám mới chịu phục. Đến ngày thứ ba, Tần Hiếu công sai người đem xe đến đón. Vệ Ưởng lại vào yết kiến. Tần Hiếu công mời ngồi để hỏi chuyện. Vệ Ưởng mới kể hết những công việc nên thay đổi về chính trị nước Tần. Hai bên vấn đáp nhau, suốt trong ba ngày ba đêm, mà Tần Hiếu công không chút mỏi mệt, liền cho Vệ Ưởng làm chức tả thứ sử và thưởng 500 nén vàng. Lại hiểu dụ cho các triều thần biết rằng việc chính trị trong nước, từ nay trở đi, đều phải theo quan Tả thứ sử, nếu ai dám trái ý quan Tả thứ sử thì sẽ bị trọng tội. Các triều thần đều sợ một phép. Vệ Ưởng định hạ cái lệnh biến pháp, đã đem chương trình thương nghị với Tần Hiếu công nhưng sợ dân không tin theo, chưa dám thi hành, mới nghĩ ra một kế, đem một cây gỗ dài ba trượng để ở cửa Nam chợ Hàm Dương, rồi hạ lệnh rằng: "Ai vác được cây gỗ này sang cửa Bắc thì thưởng cho 10 nén vàng". Người xem rất đông, mà ai cũng nghi ngờ không hiểu ra làm sao, không ai dám nhận vác cây gỗ ấy cả. Vệ Ưởng nói: - Không ai chịu nhận vác, hoặc là còn chê ít tiền chăng? Nói xong, liền cải lệnh thưởng 50 nén vàng. Nhân dân lại càng nghi ngờ lắm. Sau có một người đứng ra nói rằng: - Nước Tần ta xưa nay không có trọng thưởng như thế bao giờ, nay bỗng có cái lệnh ấy thì tất có kế nghị chi đây, nhưng dẫu không được 50 nén vàng nữa thì cũng tất phải được ít nhiều. Người ấy nói xong, liền vác cây gỗ ấy đem dựng ở cửa Bắc. Khi người ấy vác cây gỗ đi thì trăm họ theo xem, đông như kiến cỏ. Chức thị lại chạy vào nói với Vệ Ưởng. Vệ Ưởng gọi người ấy vào khen rằng: - Nhà ngươi thật là một người lương dân, biết theo lệnh ta. Vệ Ưởng đem 50 nén vàng thưởng cho người ấy và bảo rằng: - Ta quyết không bao giờ chịu thất tín với dân trong nước. Mọi người thấy vậy đều huyên truyền bảo nhau: Quan tả thứ sử đã hạ lệnh gì thì quyết thi hành cho được, chứ không hề thất tín. Ngày hôm sau, Vệ Ưởng đem tân lệnh ra ban bố. Đó là năm thứ mười đời Chu Hiến Vương. Tân lệnh như sau: -1. Định đô: Đất Hàm Dương là nơi danh thắng ở nước Tần, núi quanh sông bọc, rất là hiểm trở, nay ta phải thiên đô sang đấy để định vương nghiệp - 2. Kiến huyện: Phàm những nơi thôn trấn trong nước, đều đặt làm huyện. Mỗi huyện đặt một viên lệnh thừa, để đốc hành tân pháp. Ai trái lệnh thì tùy theo nặng nhẹ mà bắt tội. - 3. Tịch thổ: Phàm những đất bỏ hoang ở ngoài cõi, trừ những đường xe ngựa phải đi, và những lối bờ ruộng không kể, còn thì bắt dân phụ cận tại đấy phải khai khẩn thành điền. Đợi khi đã thành thục rồi, bấy giờ tính theo từng bộ mà chia mẫu, để bắt phải nộp thuế. Cứ sáu thước là một bộ, 240 bộ là một mẫu. Nếu quá thước thì là gian dối, tịch biên ruộng mà sung công. - 4. Định phú: Phàm thuế ruộng cứ chiếu từng mẫu mà thu, chứ không dùng phép "Tỉnh điền nhất thất". Bao nhiêu ruộng đều là quan điền cả, trăm họ không được riêng một thước một tấc nào. - 5. Bản phú: Con trai phải cày ruộng, con gái phải dệt cửi. Ai cày được nhiều thóc hoặc dệt được nhiều lụa thì gọi là lương dân, được miễn dịch trong một nhà. Người nào nghèo khổ quá thì thu vào làm nô bộc các nhà quan gia. Ai bỏ tro ra ngoài đường thì tức là lười biếng, không thiết việc làm ruộng sẽ có trị tội. Nghề làm thợ và nghề đi buôn thì đánh thuế nặng. Người nào có hai con trai thì phải phân dị, bắt nộp đinh tiền, nếu không phân dị thì mỗi người phải nộp hai khóa. - 6. Khuyến chiến: Cứ theo quân công mà định quan tước. Ai chém được một cái đầu giặc thì thưởng cho một cấp; ai lui một bước thì chém ngay. Kẻ có công nhiều thì được thưởng, xe đi và đồ mặc, tùy ý muốn hoa mỹ thế nào cũng được, không có hạn cấm. Kẻ nào vô công thì dẫu nhà giàu đến đâu cũng chỉ cho mặc quần áo nâu vải mà thôi. Họ tôn thất, thân hay là sơ đều tùy theo quân công nhiều hay ít. Ra chiến trận mà không có công thì tước bỏ thuộc tịch đi, cũng coi như dân thường vậy. Phàm nhà dân có việc tranh đấu riêng thì vô luận phải hay trái, đều bị chết chém. - 7. Cấm gian: Cứ năm nhà gọi là bảo, 10 nhà gọi là liên. Một nhà có lỗi thì 9 nhà phải tố cáo, nếu không tố cáo thì cả 10 nhà cùng phải tội chết chém ngang lưng. Ai biết cáo tỏ sự gian thì cũng coi như là đánh được quân giặc, cũng có được thưởng. Cáo tỏ một đứa gian thì được thưởng một cấp, nếu chứa người có tội thì cũng coi như người có tội. Các nhà hàng cơm cho người ngủ trọ, đều phải có giấy khám nghiệm, nếu không thì không được cho trọ. Phàm dân, hễ một người có tội thì cửa nhà đều phải tịch biên sung công. Tân lệnh ấy đã yết ra, trăm họ đều nghị luận rối rít, kẻ thì nói rằng bất tiện, người thì nói rằng tiện. Vệ Ưởng sai bắt cả vào mà trách mắng rằng: - Chúng bay nghe lệnh, chỉ nên một lòng mà tin theo. Nói bất tiện là đứa ngang ngạnh, mà nói tiện cũng lại là đứa ô mị, đều không phải lương dân. Vệ Ưởng truyền biên lấy họ tên, đem đày ra ngoài biên cảnh tất cả. Quan đại phu là Cam Long và Đỗ Trí vì tội nghị luận tân lệnh, đều phải giáng làm thứ dân. Từ bấy giờ mọi người đều khiếp sợ, không ai dám nói câu gì. Trong khi đi đường, chỉ đưa mắt nhìn nhau mà thôi. Vệ Ưởng sửa sang cung khuyết ở đất Hàm Dương, rồi chọn ngày thiên đô. Thế tử Tứ có ý không thuận, và lại chê tân lệnh là không phải. Vệ Ưởng nổi giận nói rằng: - Pháp luật không thi hành được là bởi tự người trên. Nay thế tử là con nối vua, không thể gia hình được, nhưng nếu tha mà không trị tội thì thành ra trái phép. Vệ Ưởng liền tâu với Tần Hiếu công, xin bắt tội quan thái sư và quan thái phó là quan dạy ngôi thế tử học. Quan thái sư là Công tôn Giả bị thích chữ chàm vào mặt. Quan thái phó là Công tử Kiền bị cắt mũi. Trăm họ thấy vậy đều bảo nhau rằng: - Ngôi thế tử trái lệnh mà quan thái sư và quan thái phó còn phải gia hình, huống chi là người khác. Vệ Ưởng biết lòng dân đã định, tức khắc thiên đô sang đất Hàm Dương. Chia nước Tần làm 31 huyện. Khai khẩn ruộng nương, tăng thuế được hơn 500 vạn. Vệ Ưởng thường thân hành đến bến sông Vị, tra xét tù đồ, trong một ngày mà giết hơn 700 người, máu chảy đỏ cả sông Vị, tiếng khóc vang trời. Trăm họ ai cũng kinh sợ: Đêm ngủ có khi giật mình, từ bấy giờ của bỏ rơi đường cái, cũng chẳng ai dám nhặt. Trong nước không có trộm giặc. Dân chỉ hăng hái về việc công chiến mà không ai dám tư đấu. Nước Tần giàu mạnh hơn các nước, bấy giờ mới đem quân đánh Sở, chiếm lấy đất Thương Ư. Lại mở được hơn 600 dặm đất ở ngoài Vũ Quan. Vua Hiển Vương nhà Chu sai sứ phong cho Tần làm phương bá. Các nước chư hầu đều đến chúc mừng. Bấy giờ nước Ngụy xưng vương, có ý muốn thôn tính nước Hàn và nước Triệu, nghe tin nước Tần dùng Vệ Ưởng, mới thở dài mà than rằng: - Tiếc thay ta không biết nghe lời Công tôn Tọa. Bấy giờ bọn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương đều tạ thế cả. Ngụy Huệ Vương mới chịu bỏ nhiều lễ vật để vời lấy các người hào kiệt bốn phương. Có người nước Trâu là ông Mạnh Kha, tên tự là Tử Dư. Ông Mạnh Kha là học trò của Tử Tư (tức là Khổng Cấp), mà ông Tử Tư là cháu đích tôn ông khổng Tử. Ông Mạnh Kha có chí muốn cứu đời, nghe tin Ngụy Huệ Vương cầu hiền, mới từ nước Trâu đi sang nước Ngụy. Ngụy Huệ Vương thân hành ra ngoài cõi để nghênh tiếp, rồi hỏi ông Mạnh Kha về đạo lợi nước. Ông Mạnh Kha nói: - Tôi chỉ biết có nhân nghĩa, chứ không biết có điều lợi. Ngụy Vương cho lời nói ấy là viển vông mà không biết dùng. Lại nói chuyện đất Dương Thành thuộc về địa phận nhà Chu, có một chỗ tên gọi là Quỉ Cốc, vì chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải là chỗ người ở, vậy nên mới đặt tên là Quỉ Cốc. Trong núi ấy có một người ẩn sĩ, họ Vương tên Hủ, người về đời Tấn Bình công. Nguyên trước ở Văn Mộng Sơn cùng với người nước Tống là Mặc Địch cùng hái thuốc tu đạo tại đấy. Mặc Địch không có vợ con gì cả, chỉ phát nguyện đi chu du thiên hạ, theo một chủ nghĩa kiêm ái mà cứu thế độ dân; còn Vương Hủ thì ẩn ở núi Quỉ Cốc. Người ta vẫn gọi là Quỉ Cốc tiên sinh. Quỉ Cốc tiên sinh là người thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy thứ học vấn, không mấy người theo kịp. Mấy thứ học vấn là: 1. Số học, nhật nguyệt tượng vĩ đều thu cả ở trong bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm; 2. Binh học, lục thao tam lược, biến hóa vô cùng, bày trận hành binh, quỉ thần khôn biết; 3. Du học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn đương; 4. Xuất thế học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên. Tiên sinh ấy đã có cái thuật tu tiên như thế, làm sao còn khuất thân ở lại cõi trần? Đó là vì tiên sinh muốn siêu độ cho mấy người đệ tử thông minh, cùng về tiên cảnh, cho nên mới mượn nơi Quỉ Cốc để nương mình. Ban đầu đôi khi đi vào chợ, xem bói cho mọi người nói những điều tốt xấu dữ lành đều linh nghiệm cả, rồi dần dần có nhiều người mến thuật của tiên sinh, kéo nhau đến xin học, tiên sinh xem xét tư chất của từng người, ai học được thuật gì thì truyền thụ cho thuật ấy, có ý vừa để gây dựng lấy một số nhân tài giúp việc cho bảy nước, vừa dò xem người nào có tiên cốt để cùng bàn việc lìa bỏ cõi đời trần tục đến ở một cái thế giới thanh cao. Tiên sinh ở đó không biết đã bao nhiêu năm, học trò đến học không biết có bao nhiêu người, ai đến cũng dung, mà ai bỏ đi cũng không giữ lại. Trong số học trò, đồng thời có mấy người có tiếng là Tôn Tẫn người nước Tề, Bàng Quyên, Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương, Tẫn và Quyên kết làm anh em cùng học binh pháp, Tần và Nghi kết làm anh em cùng học du thuyết, mỗi đằng chuyên trị một học thuật riêng. Nói riêng về Bàng Quyên học binh pháp đã hơn ba năm, tự cho mình là đã giỏi lắm, một hôm đi xách nước, qua dưới chân núi, thấy người đi đường nói nước Ngụy xuất nhiều tiền để chiêu hiền, cầu người làm tướng văn tướng võ, trong lòng khấp khởi, muốn giã từ tiên sinh xuống núi đi đến nước Ngụy để tỏ tài, lại sợ tiên sinh không cho, trong lòng trù trừ muốn nói mà không dám nói. Nhưng tiên sinh trông nét mặt xét tình đã thừa biết ý riêng của Bàng Quyên, cười mà bảo rằng: - Thời vận của nhà ngươi đã đến, sao không xuống núi mà đi cầu lấy giàu sang? Bàng Quyên nghe lời tiên sinh nói chính hợp ý mình, liền quì xuống nói rằng: - Đệ tử cũng đã có ý ấy, nhưng không biết chuyến đi này có được hài lòng không? Tiên sinh nói: - Nhà ngươi đi hái một cành hoa đem về đây để ta xem cho. Bàng Quyên đi xuống núi tìm hoa, bấy giờ là tháng sáu, khí trời nóng nực, cây cối ít có hoa nở. Bàng Quyên loanh quanh tìm mãi chỉ thấy một nhánh hoa cỏ, liền nhổ lấy cả gốc, toan đem về trình sư phụ, bỗng lại nghĩ thứ hoa này chất mềm thân yếu không phải là vật quí giá, bèn quăng bỏ xuống đất rồi đi tìm một hồi nữa, nhưng không sao tìm được thứ hoa nào khác, bất đắc dĩ lại đi đến chỗ cũ nhặt lấy nhành hoa đã quăng bỏ, để vào trong tay áo, về nói với tiên sinh rằng: - Trong núi không có hoa. Tiên sinh nói: - Không có hoa thì cái gì ở trong tay áo nhà ngươi kia? Bàng Quyên không giấu được phải lấy ra đưa trình, nhành hoa ấy bị nhổ lên và bị phơi nắng, nên đã héo rũ, tiên sinh nói: - Nhà ngươi có biết tên thứ hoa này là gì không, tức là hoa mã đâu linh, mỗi lần nó nở ra 12 cái, ứng vào cái số năm được vẻ vang của nhà ngươi. Hoa này hái ở Quỉ Cốc, thấy mặt trời thì héo, bên chữ "quỉ" có chữ "ủy" nhà ngươi tất xuất thân ở nước Ngụy. Bàng Quyên nghĩ thầm lấy làm lạ, tiên sinh lại nói. - Sau này nhà ngươi sẽ vì việc lừa dối người mà bị người ta lừa dối lại, vậy nên lấy điều đó làm răn. Ta có tám chữ này nhà ngươi nên nhớ lấy đừng quên "Gặp dê thì vinh, gặp ngựa thì hỏng". Bàng Quyên lạy hai lạy rồi nói rằng: - Lời giáo huấn của tôn sư, đệ tử xin một lòng ghi nhận. Khi ra đi, Tôn Tẫn tiễn xuống dưới chân núi, Bàng Quyên nói: - Đệ cùng anh có nghĩa kết giao, thề cùng giàu sang, chuyến đi này nếu gặp bước tiến thân, đệ tất phải tiến cử ngô huynh để cùng lập cơ nghiệp. Tôn Tẫn nói: - Hiền đệ có giữ được như lời không? Bàng Quyên nói: - Nếu đệ có sai lời, sẽ phải chết ở dưới muôn mũi tên. Tôn Tẫn nói: - Đa tạ hậu tình, cần gì phải thề độc như thế. Nói xong, hai người cùng gạt lệ chia tay, Tôn Tẫn trở về núi, tiên sinh thấy rơm rớm nước mắt, hỏi rằng: - Bàng Quyên đi, ngươi tiếc nhớ lắm phải không? Tôn Tẫn nói: - Nghĩ tình đồng học, sao khỏi tiếc nhớ nhau. Tiên sinh hỏi: - Ngươi bảo cái tài Bàng Quyên có đáng làm đại tướng không? Tẫn nói: - Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, khi nào lại không làm được? Tiên sinh nói: - Không làm được! Không làm được! Tôn Tẫn lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì, tiên sinh không nói. Đến hôm sau, bảo các học trò rằng: - Ban đêm ta rất ghét tiếng chuột kêu, các anh phải thay nhau thức mà đuổi chuột cho ta. Các học trò vâng lời, khi đến lượt Tôn Tẫn phải thức, tiên sinh lấy ở dưới gối ra một cuốn sách, bảo Tẫn rằng: - Đây là 13 thiên binh pháp của ông nội ngươi là Tôn Vũ Tử, xưa kia ông ngươi đem dâng vua Hạp Lư nước Ngô, Hạp Lư theo dùng, phá tan được quân Sở, sau Hạp Lư tiếc quyển sách ấy không muốn truyền bá cho mọi người, bèn làm một cái hòm sắt, để cuốn sách ấy vào cất giấu ở trong khe cột Cô Tô Đài. Từ khi quân Việt đốt đài, cuốn sách ấy chẳng còn ai biết đến nữa. Ta vốn có chơi với ông ngươi, được xem sách ấy, tự ta chú giải, những điều bí mật trong sự hành binh đều ở trong sách ấy, chưa từng cẩu thả giao cho ai, nay thấy ngươi có lòng trung hậu nên ta giao cho. Tôn Tẫn nói: - Đệ tử cha mẹ mất sớm lại gặp lúc nước nhiều biến cố, họ hàng mỗi người đi một nơi, dẫu biết tổ phụ có cuốn sách ấy, nhưng không ai truyền bảo cho, tôn sư đã có chú giải, sao không truyền cả cho Bàng Quyên lại chỉ truyền riêng cho Tẫn này? Tiên sinh nói: - Được cuốn sách này, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì làm hại to, Quyên không phải là người tốt, khi nào ta lại giao cho được. Tẫn bèn đem về buồng nằm, ngày đêm nghiền đọc. Sau đó ba ngày, tiên sinh đòi lấy cuốn sách, Tôn Tẫn đem nộp, tiên sinh theo từng thiên hỏi lại, Tẫn đối đáp trôi chảy không sót một chữ nào, tiên sinh mừng mà nói rằng: - Ngươi biết dụng tâm như thế, tổ phụ ngươi dù đã qua đời, cũng như còn sống vậy. Lại nói Bàng Quyên biệt Tôn Tẫn, đi thẳng đến nước Ngụy, đem binh pháp vào cầu quan tướng quốc là Vương Thác. Vương Thác tiến vào Huệ Vương. Khi Bàng Quyên vào chầu, chính gặp lúc người nhà bếp dâng món dê hầm ở trước mặt Huệ Vương. Huệ Vương vừa cầm đũa, Quyên mừng nghĩ thầm thầy ta nói gặp dê thì vinh, lời nói ấy quả không sai. Huệ Vương thấy Bàng Quyên tướng mạo đường đường, buông đũa đứng dậy đón chào, Bàng Quyên sụp lạy hai lạy, Huệ Vương nâng dậy, hỏi học về môn gì, Quyên thưa rằng: - Tôi học Quỉ Cốc tiên sinh, về đạo dụng binh, riêng học được phần tinh túy. Rồi chỉ vạch tâu bày, có điều gì đem ra nói hết. Huệ Vương hỏi: - Nước ta Đông có nước Tề, Tây có nước Tần, Nam có nước Sở, Bắc có các nước Hàn, Triệu, Yên, đều ngang sức cả, mà nước Triệu cướp đất Trung Sơn của ta, thù ấy chưa báo, tiên sinh có kế gì giúp ta không? Bàng Quyên nói: - Đại vương chẳng dùng tôi thì thôi, nếu dùng tôi làm tướng, thì đánh trận nào được trận ấy, đánh thành nào được thành ấy, có thể kiêm tính được cả thiên hạ, lo gì sáu nước kia. Huệ Vương nói: - Tiên sinh nói quá, e rằng khó làm được như lời. Quyên nói: - Tôi tự lượng cái tài tôi, chắc có thể thu được sáu nước vào trong tay, nếu có sai lỗi, xin cam chịu tội. Huệ Vương bằng lòng lắm, cử ngay làm nguyên súy và kiêm chức quân sư, con trai Quyên là Bàng Anh, cháu là Bàng Thông, Bàng Mai đều phong làm tướng. Quyên luyện binh huấn võ, trước lấn các nước nhỏ là Vệ, Tống, thường thường đắc thắng, vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ đều rủ nhau đến chầu, lại gặp quân Tề lấn cõi, Quyên mang quân đánh lui được, tự cho là công to, hết sức khoe khoang. Bấy giờ Mặc Địch đi ngao du các danh sơn, nhân qua Quỉ Cốc vào thăm bạn, gặp Tôn Tẫn cùng nhau đàm luận, đều hợp ý nhau lắm, bèn bảo Tẫn rằng: - Anh học nghiệp đã thành, sao không ra mà lập công danh, lại cứ ở chúi mãi trong nơi rừng núi? Tẫn nói: - Tôi có người bạn học là Bàng Quyên ra làm quan ở nước Ngụy, có hẹn khi nào đắc chí, sẽ tiến dẫn nhau, vì vậy nên tôi phải chờ đợi. Mặc Địch nói: - Quyên đã làm tướng nước Ngụy rồi, vậy tôi xin vì anh đến nước Ngụy để xem xét ý Quyên thế nào. Mặc Địch từ biệt, đi đến nước Ngụy, nghe Bàng Quyên cậy tài, nói quá không thẹn, biết là không có ý tiến dẫn Tôn Tẫn, bèn đổi mặc quần áo người nhà quê, cầu vào yết kiến Ngụy Huệ Vương. Huệ Vương vốn biết tiếng Mặc Địch, xuống thềm đón vào, hỏi về binh pháp, Mặc Địch kể những điều đại lược. Huệ Vương mừng lắm, muốn giữ lại cho làm quan, Mặc Địch nói rằng: - Tôi quen tính quê mùa, không quen mặc áo đội mũ, có biết người cháu Tôn Vũ Tử tên là Tẫn, thực đáng tài đại tướng, tôi thực không bao giờ theo kịp, nay người ấy ở ẩn trong Quỉ Cốc, đại vương sao không cho triệu đến dùng. Huệ Vương nói: - Tôn Tẫn học ở Quỉ Cốc tức là đồng môn với Bàng Quyên, vậy nhà ngươi xem sức học của hai người, ai hơn ai? Mặc Địch nói: - Tẫn cùng Quyên dẫu là đồng học, nhưng Tẫn riêng được các điều bí truyền của tổ phụ, dẫu cả thiên hạ cũng không ai đối địch được, nữa là Bàng Quyên! Mặc Địch từ tạ đi ra. Huệ Vương lập tức cho đòi Bàng Quyên vào hỏi rằng: - Ta nghe người cùng học với nhà ngươi là Tôn Tẫn, học riêng được những binh pháp bí truyền của Tôn Vũ Tử, tài giỏi không ai bằng, sao tướng quân chẳng vì quả nhân triệu đến. Bàng Quyên nói: - Hạ thần không phải là không biết tài của Tôn Tẫn, nhưng nghĩ Tẫn là người nước Tề, họ hàng đều ở nước Tề, nay nếu làm quan với Ngụy, thì tất thế nào hắn cũng coi Tề hơn, vì vậy hạ thần không dám tiến cử. Huệ Vương nói: - Kẻ sĩ bao giờ cũng chết với tri kỷ, hà cứ phải người bản quốc mới dùng được ư? Bàng Quyên nói: - Đại vương đã muốn triệu Tôn Tẫn, hạ thần xin viết thư gọi đến. Bàng Quyên dẫu không nói gì, nhưng trong lòng trù trừ, nghĩ thầm binh quyền nước Ngụy ngày nay ở trong tay mình, nếu Tôn Tẫn đến thì hắn sẽ cướp mất, nhưng Ngụy Vương đã bảo thì thế nào cũng phải vâng lời, âu là đợi khi hắn đến sẽ lập kế mà hại, ngăn trở đường tiến dụng của hắn lại càng hay lắm. Nghĩ vậy rồi viết một phong thư dâng trình Huệ Vương xem. Huệ Vương dùng cỗ xe tứ mã, đồ lễ hoàng kim bạch bích, sai người cầm phong thư của Bàng Quyên đi đến Quỉ Cốc đón Tôn Tẫn. Tôn Tẫn bóc thư ra xem, đại ý nói: "Quyên này nhờ ơn anh, đến yết Ngụy Vương được trọng dụng ngay. Mấy lời hẹn nhau trong khi từ biệt, vẫn ghi nhớ bên lòng, nay xin tiến cử lên Ngụy Vương, và phái người đến đón để cùng đệ lập nên cơ nghiệp". Tôn Tẫn đem thư trình Quỉ Cốc tiên sinh, tiên sinh biết Bàng Quyên đã được trọng dụng, nay có thư đến đón Tôn Tẫn, lại không có một chữ nào hỏi thăm thầy, thực là người phụ bạc quên gốc, không đáng kể đến. Nhưng Bàng Quyên là người kiêu ngạo ghen ghét, nếu Tôn Tẫn đi thì không thể nào dung nhau được, muốn bảo hắn đừng đi, nhưng e phụ lòng Ngụy Vương, thôi đành cứ để cho đi vậy. Liền bảo Tôn Tẫn cũng đi lấy một cành hoa núi để bói xem tốt xấu thế nào. Bấy giờ là tiết tháng chín, Tẫn thấy cái bình ở trên án có cắm một cành hoa cúc, bèn rút lấy đem trình, rồi lại đem cắm trả ngay vào trong bình, tiên sinh liền đoán rằng: - Cành hoa này đã bị bẻ không được hoàn hảo, nhưng tính chịu rét, tuyết sương dầu dãi cũng không rụng, dẫu có bị tàn hại cũng không hề gì, vả cắm để trong bình, mọi người đều quý trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc nên cùng loài với chung đỉnh, chắc rồi ra sẽ có danh tiếng lẫy lừng. Nhưng cành hoa này qua hai lần cất nhắc, rồi lại cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi nhất thời chưa thể đắc ý được, mà kết cục sẽ làm nên ở nơi quê mình. Vậy ta sẽ thêm đổi chữ tên cho, có thể mong tiến thủ được. Tiên sinh bèn đem chữ tên là "Tân" thêm một chữ ở bên tả thành ra chữ "Tẫn". Theo nghĩa chữ thì là một thứ cực hình chặt chân, nay Quỉ Cốc tiên sinh đổi như thế là biết trước Tôn Tẫn thế nào cũng bị chặt chân, nhưng cơ trời không dám tiết lộ cho ai biết. Khi Tôn Tẫn ra đi, tiên sinh lại trao cho một cái cẩm nang, dặn kỹ hễ khi nào gặp việc nguy cấp quá mới được mở ra xem. Tôn Tẫn lạy từ tiên sinh, theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, lên xe cùng đi, Tô Tần, Trương Nghi đứng bên cạnh đều tỏ ý hâm mộ, bàn riêng với nhau rồi cũng xin về để lập công danh. Tiên sinh nói: - Trong đời này thực hiếm có người thông minh, lấy cái tư chất của hai trò nếu chịu kiên tâm học đạo có thể thành tiên, cớ sao còn muốn dấn mình vào chốn trần ai, cam để cho những cái hư lợi phù danh bó buộc. Tần, Nghi đồng thanh đáp rằng: - Gỗ tốt không thể xếp bỏ một xó, gươm sắc không thể xếp bỏ trong hòm, tháng trọn ngày qua, thời giờ khôn chuộc, anh em tôi nhờ ơn thầy dạy bảo, cũng muốn nhân thời lập cơ nghiệp để tiếng lại đời sau. Tiên sinh nói: - Trong hai trò, có trò nào chịu ở lại làm bạn với ta không? Tần, Nghi đều muốn đi, không ai chịu ở lại, tiên sinh ép không được, phàn nàn ở đời ít có người biết tu tiên, rồi xem bói cho mỗi người một quẻ, đoán rằng Tần trước lành sau dữ, Nghi trước dữ sau lành. Tần gặp gỡ ngay, còn Nghi thì sự nghiệp muộn màng. Tiên sinh lại nói: - Ta xem hai trò Tôn, Bàng thế không dung nhau được, tất sẽ có việc làm hại nhau, còn hai trò mai sau tưởng cùng nên nhường nhịn để thành danh dự và giữ toàn cái tình đồng học ngày nay. Hai người đập đầu xin chịu lời dạy, tiên sinh lại đem hai cuốn sách chia tặng hai người, Tần, Nghi cùng nhìn xem thì đều là quyển Thái công âm phù thiên, cùng nói rằng: - Sách này đệ tử học thuộc lòng đã lâu, ngày nay tiên sinh lại ban cho, chẳng hay có dùng vào việc gì được không? Tiên sinh nói: - Các trò dẫu học thuộc rồi, nhưng chưa nhận được chỗ tinh túy, chuyến đi này nếu chưa đắc ý, thì nên đem sách này nghiền ngẫm lại, tất có tiến ích. Ta từ đây cũng đi tiêu dao ngoài bể, không còn ở lại nơi Quỉ Cốc này nữa. Tần, Nghi đều từ biệt ra đi, sau đó vài hôm, tiên sinh cũng bỏ Quỉ Cốc đi mất, có người nói là tiên sinh đã thành tiên xa lánh cõi trần. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 88 Tôn Tẫn giả rồ thoát họa Bàng Quyên bại trận Quế Lăng Bấm để xem Lại nói Tôn Tẫn khi đến nước Ngụy, ở trong phủ Bàng Quyên, tạ ơn đã tiến dẫn mình. Quyên có ý lên mặt. Tẫn lại thuật việc tiên sinh đổi tên, tên mình là "Tân" ra "Tẫn". Quyên nói: - Chữ "Tẫn" ấy có nghĩa không hay, sao lại đổi như thế? Tẫn nói: - Tiên sinh đặt cho thế nào phải theo như thế, không dám trái lệnh. Ngày hôm sau cùng vào triều yết kiến Huệ Vương. Huệ Vương xuống thềm đón tiếp, tỏ ý cung kính lắm, Tẫn lại tâu rằng: - Hạ thần là kẻ thất phu ở thôn dã, đại vương quá yêu ban cho lễ đón lấy làm xấu hổ lắm. Huệ Vương nói: - Mặc Tử có nói tiên sinh riêng được bí truyền của Tôn Vũ nên quả nhân khát vọng lắm, nay đã hạ cố đến, quả nhân xiết bao vui lòng. Huệ Vương bèn hỏi Bàng Quyên rằng: - Quả nhân muốn phong Tôn tiên sinh làm phó quân sư, cùng ngươi giữ binh quyền, ý ngươi nghĩ thế nào? Bàng Quyên nói: - Hạ thần với Tôn Tẫn là bạn đồng song. Tẫn là bậc anh của hạ thần, lẽ nào lại để anh làm phó, chi bằng hãy tạm bái làm khách khanh, đợi có công hạ thần sẽ xin nhường chức, chịu ở dưới quyền. Huệ Vương chuẩn tâu, liền bái Tôn Tẫn làm khách khanh, cho ở phủ riêng như Bàng Quyên. Chức khách khanh nghĩa là coi như khách, không coi làm tôi, cái ý Bàng Quyên muốn mượn cớ ấy để một mình giữ lấy binh quyền không chia cho Tôn Tẫn, tuy tử tế mà thực là thâm hiểm. Từ đó Tôn, Bàng năng đi lại với nhau, Bàng Quyên nghĩ thầm Tôn Tẫn đã có bí truyền, chưa thấy thổ lộ, tất phải dụng ý hỏi dò, bèn đặt tiệc mời Tẫn, trong lúc uống rượu cùng nói về binh cơ, Tôn Tẫn đối đáp trôi chảy, đến khi Tẫn hỏi Quyên mấy điều thì Quyên chẳng đáp được câu nào, bèn giả cách hỏi rằng: - Những điều ấy có phải ở trong binh pháp Tôn Vũ Tử đó không? Tẫn đáp rằng phải, Quyên nói: - Ấy trước đệ cũng được tiên sinh truyền thụ cho, vì không dụng tâm, nên quên hết cả, nay được mượn xem lại, xin cám ơn vô cùng. Tẫn nói: - Sách ấy do tiên sinh chú giải rõ ràng, khác với nguyên bản, tiên sinh chỉ cho mượn xem ba ngày, rồi lại đòi lại, cũng không có bản sao. Quyên hỏi: - Ngô huynh có còn nhớ không? Tẫn nói: - Tôi cũng còn nhớ lõm bõm. Quyên muốn được Tẫn truyền bảo cho, nhưng chưa có thể nói ngay được. Cách đó mấy ngày, Huệ Vương muốn thử tài Tôn tẫn, bày cuộc duyệt võ ở giáo trường, bảo Tôn, Bàng cùng diễn binh pháp. Những trận của Bàng Quyên bày, Tẫn xem qua, nói ngay được là trận ấy trận nọ, trận nào nên phá bằng phép nào. Đến khi Tẫn bày một trận, Quyên mờ mịt không biết, hỏi thầm Tẫn là trận gì, Tẫn nói đó là trận "điên đảo bát môn". Quyên lại hỏi trận ấy có biến không, Tẫn nói nếu đánh thì nó biến ra trận trường xà. Quyên liền lẻn đến tâu với Huệ Vương, đến khi Huệ Vương hỏi lại Tôn Tẫn, thấy nói đúng như lời Quyên, tin rằng tài Quyên cũng không kém gì Tẫn, trong lòng càng mừng, chỉ có Quyên, sau khi về phủ, nghĩ thầm tài Tẫn thực hơn mình nhiều, nếu không trừ đi, tất có ngày sẽ bị đè bẹp, nghĩ ra một kế, trong lúc cùng Tẫn họp mặt, hỏi rằng: - Họ hàng đại huynh đều ở nước Tề, nay đại huynh đã làm quan nước Ngụy, sao không cho đón cả đến đây, để cùng hưởng phú quí? Tẫn chảy nước mắt nói rằng: - Đại huynh chưa rõ cái cảnh khổ nhà tôi, tôi lên bốn mồ côi mẹ, lên chín mồ côi cha, nhờ có ông chú là Tôn Kiều nuôi cho, chú tôi làm quan với Tề Khang công, sau Điền Thái công đuổi Khang công ra bể, các bề tôi phần nhiều bị giết, họ hàng tôi tan đi mỗi nơi. Chú tôi và hai anh họ tôi là Tôn Bình, Tôn Trác, đem tôi chạy sang đất nhà Chu tránh nạn, vì gặp năm mất mùa lại đem gửi tôi đi một nơi, thế là từ đó tôi bị lưu lạc một mình. Sau tôi lớn lên, nghe nói Quỉ Cốc tiên sinh đạo cao học rộng, liền một mình đến xin học, từ đó chẳng còn được biết tin gì về quê quán, nữa là họ hàng thì còn biết đâu mà hỏi nữa. Quyên lại hỏi: - Vậy thế đại huynh có còn tưởng nhớ phần mộ ông cha ở quê hương không? Tẫn nói: - Người ta không phải cỏ cây, khi nào lại quên được gốc rễ, khi tôi ra đi, tiên sinh cũng nói là kết cục sẽ lập công danh ở quê hương cũ, nhưng nay đã làm tôi nước Ngụy, việc đó không nên nói đến nữa. Bàng Quyên giả ý nói rằng: - Đại huynh nói phải lắm, đại trượng phu tùy chốn lập công, cần gì cứ phải ở quê hương cũ. Cách đó nửa năm, Tôn Tẫn đều quên những lời đã nói, một hôm vừa đi chầu về, bỗng có một người nói tiếng Sơn Đông, xưng tên là Đinh Ất, quê ở Lâm Tri, đi buôn bán ở đất Chu, Tôn Bình, Tôn Trác có nhờ cầm phong thư đến Quỉ Cốc đưa cho Tẫn, nhưng đến đó nghe Tẫn đã ra làm quan với Ngụy, nên phải đến đây. Nói xong đưa phong thư ra, Tẫn đón lấy bóc ra xem, trong thư đại ý kể lể gặp lúc không may, nhà cửa lìa tan, anh em mỗi người một nơi. Nay nhờ vua Tề thương hại, triệu về làng cũ, nên muốn gọi Tẫn trở về, để anh em lại được họp mặt và khôi phục lại cơ nghiệp nhà. Tẫn thấy là thư của hai anh, cảm động quá phát khóc, rồi khoản đãi Đinh Ất, viết một phong thư trả lời nhờ đưa lại cho hai anh, trong thư đại ý nói dẫu nhớ quê hương, nhưng đã làm quan với Ngụy, chưa có thể về được, đợi bao giờ lập nên công nghiệp, bấy giờ sẽ liệu về. Đinh Ất nhận phong thư và một đĩnh vàng của Tẫn cho làm lộ phí, từ tạ ra đi, ai ngờ tên Đinh Ất ấy chẳng phải là khách buôn, chính là tên Từ Giáp của Quyên sai giả mạo để đánh lừa và làm hại Tẫn đó. Số là Quyên nhân đã hỏi biết cảnh nhà của Tẫn, liền mạo viết một bức thư của Tôn Bình, Tôn Trác rồi sai Từ Giáp giả làm Đinh Ất, đến đưa cho Tẫn, Tẫn tin làm thực, viết thư trả lời, Quyên liền bắt chước tự dạng, viết thêm vào bên dưới mấy câu, nói: "Em dẫu làm quan với Ngụy, nhưng nghĩ đến nước cũ lòng riêng vẫn canh cánh khôn khuây. Bất nhật em sẽ liệu về để lại được cùng nhau một nhà sum họp, nếu vua Tề có lòng yêu mến đến mà dùng em thì em xin hết sức giúp". Rồi Quyên lập tức vào chầu Ngụy vương đuổi các người hầu ra chỗ khác, dâng trình bức thư nói rõ là Tôn Tẫn có lòng phản Ngụy theo Tề, vừa rồi tư thông với sứ Tề, Quyên dò biết sai người chẹn đường bắt được bức thư này. Huệ Vương xem xong nói rằng: - Tôn Tẫn lòng nhớ nước cũ, có lẽ cho là quả nhân chưa trọng dụng, chưa thi thố được hết tài chăng? Bàng Quyên nói: - Tổ phụ Tẫn là Tôn Vũ Tử làm đại tướng nước Ngô, về sau cũng lại về với nước Tề, quê cha đất tổ, ai là người quên được. Đại vương dẫu trọng dụng Tẫn, mà lòng Tẫn đã quyến luyến nước Tề, tất không khi nào chịu vì Ngụy ra sức, và tài Tẫn không kém gì hạ thần, nếu nước Tề dùng làm tướng tất sẽ cùng Ngụy tranh hùng, đó là một sự lo lớn cho đại vương về sau này, chi bằng giết quách. Huệ Vương nói: - Tôn Tẫn vì nhận lời quả nhân mà đến, nay tội trạng chưa rõ lại vội giết đi, e rằng thiên hạ sẽ chê trách quả nhân là khinh kẻ sĩ vậy. Quyên thưa rằng: - Đại vương nói rất phải, hạ thần xin khuyên dỗ Tôn Tẫn, nếu hắn chịu ở lại nước Ngụy, đại vương sẽ trọng gia quan tước, bằng không đại vương sẽ giao cho hạ thần nghị tội, hạ thần sẽ có cách khu xử. Bàng Quyên vái từ Huệ Vương lui ra, đi đến ngay phủ Tôn Tẫn hỏi rằng: - Nghe nói đại huynh nhận được thư nhà gửi đến phải không? Tôn Tẫn vốn lòng thực thà đáp rằng có, rồi thuật lời trong thư của hai anh mong mỏi mình mau trở về quê hương. Bàng Quyên nói: - Đi đâu nhớ nhà thường tình ai chẳng thế, sao đại huynh chẳng vào chầu Ngụy vương xin phép lấy một hai tháng về thăm phần mộ tổ tiên rồi sau lại đến. Tẫn nói: - E rằng đại vương sinh lòng ngờ mà không cho phép chăng? Quyên nói: - Anh cứ xin xem, tôi sẽ nói giúp. Tẫn xin vâng mà nhờ nói hộ, ngay đêm ấy, Quyên vào nói với Huệ Vương rằng: - Hạ thần đã hết lời khuyên dỗ mà Tẫn không chịu ở, lại có lời oán vọng, nếu hắn có dâng biểu xin phép nghỉ, đại vương nên kể cái tội tư thông với sứ Tề. Huệ Vương gật đầu, hôm sau Tôn Tẫn quả dâng biểu xin nghỉ hơn tháng về nước Tề thăm mộ tổ tiên. Huệ Vương xem tờ biểu nổi giận, phê ngay mấy câu ở bên dưới rằng: "Tôn Tẫn tư thông với sứ Tề, ngày nay cáo về, rõ ràng có ý phản Ngụy, thực đã phụ lòng ủy nhiệm của quả nhân, nên cách bỏ quan tước, giao cho phủ quân sư hỏi tội". Ty quân chính phụng mệnh, lập tức bắt Tôn Tẫn đến phủ quân sư, Bàng Quyên trông thấy giả cách sợ hãi hỏi rằng: - Đại huynh làm sao lại phải như thế? Ty quân chính tuyên mệnh Huệ Vương, Bàng Quyên lĩnh chỉ xong, liền bảo Tẫn rằng: - Đại huynh bị cái kỳ oan ấy, tiểu đệ sẽ vào chầu hết sức đảm bảo cho đại huynh. Nói xong, đi ngay vào triều, tâu với Huệ Vương rằng: - Tôn Tẫn dẫu có tội tư thông với Tề, nhưng tội không đến nỗi chết, cứ như ý ngu của hạ thần, chi bằng chặt chân và thích chữ, khiến thành phế nhân suốt đời không thể trở về đất cũ, vừa giữ được toàn mệnh cho hắn mà không có sự lo về sau. Huệ Vương khen phải, Bàng Quyên trở về phủ, bảo Tôn Tẫn rằng: - Đại vương giận lắm, muốn giết đại huynh, tiểu đệ phải kêu mãi và hết sức đảm bảo, mới được toàn tính mệnh, nhưng phải chặt chân và thích chữ vào mặt, đó là theo pháp luật nước Ngụy, không phải là tiểu đệ không hết sức kêu xin. Tôn Tẫn nói: - Tiên sinh đã nói dẫu có bị tàn hại cũng không hề chi, nay được giữ toàn thủ lĩnh là nhờ ơn đại huynh, không dám quên báo. Bàng Quyên bèn sai đao phủ trói Tôn Tẫn lại chặt bỏ hai xương bánh chè ở hai đầu gối. Tẫn kêu rú lên một tiếng rồi ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự, hồi lâu mới tỉnh. Lại dùng kim châm vào mặt thành bốn chữ "tư thông ngoại quốc", lấy mực bôi vào. Bàng Quyên giả ý kêu khóc, lấy thuốc rịt đầu gối, dùng lụa quấn bọc, sai người khiêng ra ngoài thư quán, dùng lời ngon ngọt để an ủi. Chừng hơn một tháng, Tôn Tẫn vết đau đã liền, nhưng vì mất xương bánh chè, hai chân kém sức không đi lại được, chỉ xếp vòng tròn ngồi. Tôn Tẫn đã thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn Bàng Quyên cung ba bữa, không hề có ý nghĩ gì khác. Bàng Quyên bèn nhờ Tẫn truyền bảo cho những bài của Quỉ Cốc tiên sinh chú giải binh pháp của Tôn Vũ Tử, Tẫn nhận lời ngay. Quyên đưa mộc giản nhờ Tẫn viết ra, Tẫn viết mười phần chưa được một. Có tên thương đầu là Thành Nhi, Quyên sai ở đó hầu hạ Tôn Tẫn, thấy Tẫn vô tội bị oan, trong lòng thương xót. Bỗng Quyên cho gọi nó đến hỏi Tẫn viết mỗi ngày được mấy bản, nó nói Tẫn vì bị chặt chân, ngồi rất khó khăn nên mỗi ngày chỉ viết được hai ba bản. Quyên giận bảo Thành Nhi rằng: - Nó viết chậm thế thì bao giờ cho xong, ngươi phải thúc giục luôn cho ta. Thành Nhi lui ra hỏi tên hầu cận Bàng Quyên rằng: - Quân sư nhờ Tôn quân viết, sao lại thúc giục như thế? Tên hầu cận nói: - Ngươi không biết, quân sư đối với Tôn quân, ngoài mặt dẫu thương xót, nhưng trong lòng thực ghen ghét, sở dĩ còn giữ toàn tính mệnh cho Tôn quân là vì muốn Tôn quân truyền bảo binh thư cho, chờ khi viết xong, sẽ không cho ăn uống nữa, để phải chết đói, đó là việc kín, ngươi chớ nên tiết lộ. Thành Nhi biết thế, về mật bảo cho Tôn Tẫn biết, Tẫn cả sợ, nghĩ thầm, Bàng Quyên đã bất nghĩa như thế, há nên còn truyền bảo binh pháp. Lại nghĩ nếu không viết, tất nó nổi giận sẽ giết ta ngay. Nghĩ mãi muốn cầu kế thoát thân, sực nhớ khi ra đi Quỉ Cốc tiên sinh có trao cho một cái cẩm nang, dặn khi nào nguy cấp quá mới được mở ra xem, nay chính là lúc nên mở ra. Tôn Tẫn bèn mở cẩm nang ra xem, là một bức lụa vàng, ở trong có viết ba chữ "giả cách điên". Biết vậy, buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm mới bưng lên, cầm đũa chực ăn, bỗng làm ra dáng mê man mà nôn ọe, hồi lâu nổi giận, giương mắt hét to rằng: - Mày sao dùng thuốc độc hại ta Rồi vứt cả bình ăn xuống đất, lấy những bản mộc giản đã viết rồi châm lửa đốt bỏ, miệng cứ làm nhàm mắng chửi mãi không thôi. Thành Nhi không biết là giả cách, vội đi báo Bàng Quyên. Ngày hôm sau Quyên thân tự đến xem, Tẫn đờm dãi đầy mặt, phục xuống đất cười khà khà, bỗng lại khóc òa lên. Quyên hỏi: - Đại huynh làm sao mà cười, làm sao lại khóc? Tẫn nói: - Ta cười là cười vua Ngụy muốn hại mệnh ta, ta có vạn thiên binh giúp sức, làm gì được ta. Ta khóc là khóc nước Ngụy không có Tôn Tẫn, thì không có ai làm đại tướng. Nói rồi lại giương mắt nhìn Quyên, rồi cứ dập đầu lạy hoài, miệng nói xin Quỉ Cốc tiên sinh cứu mệnh. Quyên nói: - Tôi là Bàng Quyên đây, đại huynh chớ nhận lầm. Tẫn nắm chặt lấy áo Quyên không chịu buông, miệng cứ kêu tiên sinh cứu mệnh. Quyên sai các người theo hầu giằng ra, hỏi Thành Nhi là Tôn Tẫn phát bệnh từ bao giờ. Thành Nhi nói là phát từ ban đêm. Quyên lên xe về phủ, trong lòng nghi hoặc, sợ Tẫn giả cách điên, muốn thử xem thực giả, sai người khiêng đặt vào trong chuồng lợn rất bẩn thỉu, Tẫn xõa tóc che mặt, nghiêng mình nằm. Quyên lại sai người đem rượu cơm đến nói dối là mình thương tiên sinh bị chặt chân, gọi là tỏ lòng kính mến, nguyên súy không biết đâu. Tẫn biết là mưu lừa dối của Quyên, trợn mắt mắng rằng: - Mày lại đem thuốc độc hại ta à? Nói rồi đổ bỏ cơm rượu xuống đất, tên kia lại nhặt đống cơm cho chó ăn và lấy cục bùn đưa cho, Tẫn cầm lấy ăn ngay, tên kia về báo Quyên. Quyên chắc là điên rồ thật, không lấy làm lo, từ đó thả lỏng Tôn Tẫn, mặc cho ra vào, Tẫn hoặc sớm đi chiều về lại cứ nằm ở trong chuồng lợn, hoặc đi mà không về, nằm đất nằm cát ở đường chợ, hoặc cười nói, hoặc kêu khóc, nhiều người biết là Tôn khách khanh, thương bị tàn phế, phần nhiều cho ăn uống, Tẫn hoặc ăn, hoặc chẳng ăn, nói lảm nhảm luôn mồm, không ai biết là giả cách điên. Tuy vậy Bàng Quyên vẫn còn lo, hạ lệnh cho địa phương mỗi ngày sáng ra phải trình báo Tẫn ở đâu. Bấy giờ Mặc Địch sang chơi nước Tề ở nhà Điền Kỵ. Có người học trò là Cầm Hoạt mới ở nước Ngụy đến. Mặc Địch hỏi thăm Tôn Tẫn ở nước Ngụy có đắc ý không, Cầm Hoạt đem việc Tôn Tẫn bị chặt chân thuật cho Mặc Địch nghe, Mặc Địch nói: - Ta vốn muốn tiến cử hắn, ngờ đâu lại thành ra làm hại hắn. Mặc Địch liền đem tài học của Tôn Tẫn và việc Bàng Quyên ghen ghét, nói với Điền Kỵ. Điền Kỵ vào tâu ngay với Uy Vương, Uy Vương muốn đem quân đón Tôn Tẫn về nước. Điền Kỵ nói: - Bàng Quyên đã không muốn cho Tẫn làm quan ở Ngụy, khi nào còn muốn cho làm quan ở Tề, muốn đón Tôn Tẫn phải dùng cách bí mật đem về mới được. Uy Vương liền sai Thuần Vu Khôn mượn tiếng sang Ngụy dâng trà, Cầm Hoạt giả làm kẻ hầu đi theo. Sang đến Ngụy, sau khi vào chầu Huệ Vương, ra ở ngoài nhà trạm, Cầm Hoạt thấy Tẫn điên, không cùng nói chuyện, nửa đêm lẻn đến thăm, Tẫn tựa lưng vào lan can giếng mà ngồi, thấy Cầm Hoạt chỉ giương mắt nhìn không nói. Cầm Hoạt ứa nước mắt nói rằng: - Tôn Tử khổ đến thế ư? Có biết Cầm Hoạt này không? Thầy tôi có kể nỗi oan của Tôn khanh với vua Tề, vua Tề rất thương mến, nay sai ông Thuần Vu đến đây, không phải là vì việc dâng trà, thực là muốn đem Tôn Khanh về Tề để báo cái thù chặt chân đó thôi. Tôn Tẫn chảy nước mắt như mưa, hồi lâu nói rằng: - Tôi đã chắc là chết rấp ở ngòi rãnh, không ngờ ngày nay lại có cơ hội này. Nhưng Bàng Quyên vẫn ngờ vực lắm, e không thể đem tôi đi lọt được chăng? Cầm Hoạt nói: - Tôi đã định kế rồi, Tôn Khanh không phải quá lo, chờ khi nào đi, sẽ đến đón ngay, nhưng xin cứ gặp nhau ở đây, chớ dời đi nơi khác. Hôm sau Huệ Vương khoản đãi Thuần Vu Khôn, biết Khôn là người biện luận giỏi, nên tặng vàng lụa rất nhiều, Khôn từ tạ Huệ Vương, chực đi, Bàng Quyên lại đặt rượu ở trường đình tiễn hành. Đêm trước Cầm Hoạt đã đem Tôn Tẫn giấu kín ở trong một cái xe êm, đem quần áo của Tẫn cho một tên đầy tớ là Vương Nghĩa mặc, bù đầu xõa tóc, lấy bùn đất bôi vào mặt giả làm Tôn Tẫn, địa phương cứ thế trình báo, nên Bàng Quyên không ngờ. Thuần Vu Khôn từ biệt Bàng Quyên, bảo Cầm Hoạt cho xe đi trước và đi thật nhanh, còn mình thì đi áp hậu. Mấy ngày sau Vương Nghĩa cũng thoát thân chạy theo, quan địa phương thấy những quần áo bẩn thỉu quăng bỏ ở trên mặt đất, không thấy Tôn tẫn đâu liền đi báo Bàng Quyên, Quyên nghi là Tẫn nhảy xuống giếng tự tử, sai người mò vớt không được, lại cho đi dò hỏi khắp nơi cũng không thấy tông tích đâu, sợ Ngụy Vương trách hỏi, bèn tâu là Tôn Tẫn bị chết đuối, cũng không ngờ là Tôn Tẫn đã về nước Tề rồi. Lại nói Thuần Vu Khôn đã mang được Tôn Tẫn ra khỏi đất Ngụy, mới cho đem tắm rửa và thay quần áo, khi về đến Lâm Tri, Điền Kỵ thân đi đón ở ngoài 10 dặm, nói với Uy Vương, cho đem xe êm chở vào triều. Uy Vương hỏi về binh pháp, muốn cho làm quan ngay, Tẫn nói: - Hạ thần chưa có chút công gì, không dám nhận chức, vả lại Bàng Quyên nếu biết hạ thần làm quan với Tề lại sinh lòng ghen ghét, chi bằng hãy tạm giấu đi, đợi có việc gì dùng đến, hạ thần sẽ xin ra sức. Uy Vương nghe lời, cho ở nhà Điền Kỵ. Điền Kỵ tôn làm bực thượng khách. Tôn Tẫn muốn cùng Cầm Hoạt đi tạ ân Mặc Địch thì hai thầy trò đã bỏ đi từ lúc nào rồi, Tẫn phàn nàn mãi, rồi sai người hỏi dò tin Tôn Bình, Tôn Trác, thì chẳng thấy tăm hơi, mới biết là Bàng Quyên đánh lừa. Tề Uy Vương lúc rỗi, thường cùng các Công tử trong tôn tộc cưỡi ngựa bắn cung, đánh cuộc làm vui. Điền Kỵ vì sức ngựa kém, nên thường thua cuộc, một hôm Điền Kỵ đưa Tôn Tẫn cùng đến trường bắn xem bắn, thấy sức ngựa của Điền Kỵ không kém lắm mà ba vòng đều thua cả, bèn bảo Điền Kỵ rằng: - Ngày mai ngài lại đánh cuộc, tôi sẽ có cách làm cho được cuộc. Điền Kỵ nói: - Tiên sinh nếu quả làm cho tôi tất được, tôi sẽ cùng đại vương đánh cuộc một nghìn vàng. Tẫn bảo Điền Kỵ vào tâu xin Uy Vương. Uy Vương nhận lời. Đến ngày thi, các Công tử sắp sửa xe ngựa, đều đến trường thi, nhân dân họp xem đến vài nghìn người. Điền Kỵ hỏi Tẫn rằng: - Cách quyết thắng của tiên sinh thế nào, một nghìn vàng đánh cuộc không phải chuyện chơi. Tôn Tẫn nói: - Những ngựa tốt ở nước Tề đều họp cả ở trong chuồng nhà vua, ngài nếu cứ theo thứ đệ mà thi thì khó được lắm. Nhưng tôi có thể dùng thuật mà được cuộc. Ngài nên biết đã chia ra vòng đua, tất có chia ra ba hạng nhất, nhì, ba; đem con ngựa hạng ba của ngài, thi với con ngựa hạng nhất của vua, rồi đem con ngựa hạng nhất thi với con ngựa hạng nhì của vua, đem con ngựa hạng nhì thi với con ngựa hạng ba của vua, ngài dẫu bị thua một vòng tất còn được hai vòng. Điền Kỵ phục là thuật giỏi, rồi dùng yên vàng nệm gấm thắng vào con ngựa hạng ba, giả làm con ngựa hạng nhất, cùng Uy Vương đánh cuộc một vòng trước. Sức ngựa kém nhau xa quá, Điền Kỵ lại mất nghìn vàng. Uy Vương cả cười, Điền Kỵ nói: - Còn hai vòng nữa nếu tôi thua cả, bấy giờ ngài sẽ cười. Đến khi thi hai vòng thứ hai và thứ ba, ngựa của Điền Kỵ quả đều thắng cả, được cuộc một nghìn vàng, Điền Kỵ liền tâu rằng: - Sự được cuộc hôm nay, không phải sức của hạ thần, đều là cách của Tôn Tử bảo cho biết. Uy Vương lấy làm khen ngợi, cho rằng một việc nhỏ mọn như thế, đã đủ thấy cái trí khôn của Tôn Tử, từ đó càng thêm kính trọng, ban thưởng cho rất nhiều. Lại nói chuyện Ngụy Huệ Vương đã bỏ Tôn Tẫn, giao việc khôi phục đất Trung Sơn cho Bàng Quyên. Bàng Quyên lấy cớ đất Trung Sơn ở xa xin hãy đem quân đánh Hàm Đan để báo cái thù nước Triệu lấy mất đất Trung Sơn, rồi mang 500 cỗ xe đi đánh, vây thành Hàm Đan, quân Triệu bị thua, Triệu Thành Hầu đem đất Trung Sơn đút cho Tề để cầu cứu. Tề Uy Vương đã biết tài Tôn Tẫn, cử làm đại tướng, Tôn Tẫn từ tốn nói rằng: - Hạ thần đã là kẻ bị hành hình mà sống thừa, nếu cho làm chủ tướng, e quân địch sẽ cười là nước Tề không có tướng tài, xin đại vương cử Điền Kỵ làm tướng thì hơn. Uy Vương bèn cử Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư, cứ ở luôn trong xe, ngầm bày mưu kế mà không để lộ tên ra. Điền Kỵ muốn đem binh đi cứu Hàm Đan, Tôn Tẫn ngăn rằng: - Tướng nước Triệu không đương nổi Bàng Quyên, khi quân ta đi đến Hàm Đan, thì thành đã hạ rồi, chi bằng cứ đóng quân ở giữa đường, nói rêu rao lên rằng muốn đánh Tương Lăng, Bàng Quyên tất phải quay về, bấy giờ ta sẽ đón đánh, thế nào cũng được. Điền Kỵ theo lời, quả nhiên tướng Triệu là Ngưu Tuyền chờ mãi quân Tề không đến, thế cùng phải đem thành Hàm Đan đầu hàng Bàng Quyên. Bàng Quyên sai người báo tiệp cho vua Ngụy biết, đang muốn tiến quân, thì được tin Tề sai Điền Kỵ mang quân đánh Tương Lăng, hoảng sợ, vội rút quân trở về, khi còn cách Quế Lăng chừng 20 dặm, thì đã gặp quân Tề. Nguyên Tôn Tẫn đã liệu biết quân Ngụy tất đến, sai nha tướng là Viên Đạt đem ba nghìn quân chẹn đường khiêu chiến, cháu họ Bàng Quyên là Bàng Thông lĩnh tiền đội đến trước, liền xông vào đánh, chừng hơn 20 hiệp, Viên Đạt giả cách thua bỏ chạy, Bàng Thông sợ kế không dám đuổi theo, trở lại bẩm Bàng Quyên. Quyên giận mắng rằng: - Tên tiểu tướng ấy không bắt nổi, còn bắt thế nào được Điền Kỵ. Nói rồi dẫn đại quân đến nơi, khi sắp đến Quế Lăng, thấy trước mặt quân Tề bày thành trận thế, nhìn xem rõ ràng là trận pháp điên đảo bát môn khi Tôn Tẫn mới đến nước Ngụy đã bày ra, trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm Điền Kỵ làm sao lại biết được trận pháp này, hay là Tôn Tẫn đã lẻn về nước Tề và liền bày thành trận thế. Bên quân Tề, Điền Kỵ cưỡi ngựa ra trận, gọi tướng Ngụy có tay nào giỏi ra nói chuyện, Bàng Quyên cưỡi ngựa xông ra, bảo Điền Kỵ rằng: - Tề với Ngụy vẫn có hòa hiếu, Ngụy đánh Triệu, có dự gì đến nước Tề, mà nước Tề lại sinh sự như vậy? Điền Kỵ nói: - Triệu đem đất Trung Sơn dâng cho chúa công ta, chúa công ta sai mang quân đến cứu, nếu nước Ngụy cũng cắt vài quận đem dâng, ta lập tức rút quân về. Quyên nổi giận nói rằng: - Ngươi có bản lĩnh gì mà dám đối địch với ta? Điền Kỵ nói: - Nếu ngươi đã tự đắc là có bản lĩnh, vậy ngươi có biết trận pháp của ta đây không? Quyên nói: - Đó là trận pháp điên đảo bát môn, ta học thầy Quỉ Cốc tử, ngươi ăn cắp được ở đâu một vài cái, lại dám hỏi ta, ở nước ta dù đứa trẻ con lên ba cũng đều biết cả. Điền Kỵ nói: - Ngươi đã biết, thế ngươi có dám đánh không? Bàng Quyên dù không biết cách phá, nhưng sợ thất thể, nên phải làm ra mặt thông hiểu, trả lời quyết đánh, rồi gọi ba tướng Bàng Thông, Bàng Anh, Bàng Mao, lên bảo rằng: - Ta đã nghe Tôn Tẫn giảng về trận pháp này, hơi biết cách phá, nhưng trận pháp này có thể biến ra trận trường xà, đánh giữa thì đầu đuôi đều ứng, người đánh không khéo là bị vây hãm. Nay ta vào đánh trận này, ba người đều lĩnh một đạo quân, hễ thấy trận biến là ba đội đều tiến, khiến cho đầu đuôi không thể ứng nhau được, thì trận có thể phá được. Bàng Quyên phân phó đã xong liền tự mình dẫn năm nghìn quân, xông vào đánh trận. Vào đến trong trận, thấy tám mặt mỗi mặt một sắc cờ, rối mắt không nhận được ra thế nào, xông bên Đông, đột bên Tây, chỗ nào cũng thấy gươm giáo như rừng, không sao tìm được lối ra, rồi thấy tiếng chiêng tiếng trống đều đánh và tiếng người reo hò vang động một góc trời, trên các lá cờ đều thấy có ba chữ "Quân sư Tôn", sợ quá, nghĩ thầm thằng què đã trốn về nước Tề, ta mắc mưu nó rồi. Đang cơn nguy cấp, may được Bàng Anh, Bàng Thông dẫn hai đạo quân xông vào phá vòng vây cứu ra, năm nghìn quân tiên phong bị giết hết không còn một người nào, còn Bàng Mao cũng bị Điền Anh giết chết, thiệt hại cộng hơn hai vạn quân, Bàng Quyên biết rõ là Tôn Tẫn ở trong quân Tề rồi, sợ quá, cùng Bàng Anh, Bàng Thông bèn bỏ dinh trại, luôn ban đêm trốn về nước Ngụy, Huệ Vương nghĩ đến cái công lấy được Hàm Đan, nên tha tội cho. Tề Uy Vương từ đó tin dùng Điền Kỵ, Tôn Tẫn đem binh quyền giao cho, Trâu Kỵ sợ Điền Kỵ sau này thay mình làm tướng quốc, bèn cùng môn khách là Công tôn Duyệt bàn cách để đánh đổ Điền Kỵ và Tôn Tẫn, lại vừa gặp lúc Bàng Quyên sai người đem lễ đút nghìn vàng, yêu cầu nước Tề bỏ Điền Kỵ và Tôn Tẫn đi. Trâu Kỵ bèn sai Công tôn Duyệt giả làm người nhà Điền Kỵ, đem tiền nhờ một lão thầy bói ở Ngũ Cổ, nói Điền Kỵ nay có binh quyền ở tay, muốn mưu việc lớn, nhờ đoán xem tốt xấu thế nào. Lão thầy bói chối là việc bội nghịch không dám dự nghe, Công tôn Duyệt nói không xem cho thì thôi, xin giữ kín đừng tiết lộ cho ai biết. Công tôn Duyệt vừa đi ra, thì sai nhân của Trâu Kỵ đã ập vào bắt lão thầy bói, hạch tội là xem bói cho kẻ loạn thần. Rồi đó Trâu Kỵ vào ngay chầu Uy Vương, tâu việc Điền Kỵ xem bói, và dẫn cả lão thầy bói đến làm chứng. Uy Vương quả đem lòng ngờ, hằng ngày sai người dò xét sự cử động của Điền Kỵ, Điền Kỵ biết chuyện, bèn thác bệnh giao trả binh quyền, Tôn Tẫn cũng từ chức quân sư, Bàng Quyên nghe tin, trong lòng vui sướng quá, cho là từ nay có thể hoành hành thiên hạ, rồi xin với vua Ngụy cho được cùng thái tử Thân mang đại quân đi đánh nước Hàn để phá trước cái kế định của Hàn chực giúp Triệu để đánh nước Ngụy. Quay về bài gốc 0SHARES