- Xu
- 13,795,231
Bài viết: 2022 



Đề kiểm tra đọc hiểu truyện ngắn Giăng sáng (Nam Cao) bao gồm hệ thống các câu hỏi phân bố theo 4 cấp độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao giúp các bạn học sinh củng cố lại phần kiến thức đã học và kỹ năng làm bài đọc hiểu. Mời các bạn cùng tham khảo:
Đọc đoạn trích sau:
Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định thể loại, đề tài của văn bản.
Câu 2. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Chỉ ra sự chuyển dịch điểm nhìn trong truyện.
Câu 3. Truyện được kể chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật nào? Tác dụng của việc chọn điểm nhìn.
Câu 4. Nhận xét về cuộc sống của gia đình Điền.
Câu 5. Hình ảnh người vợ nhếch nhác, thô tháp khiến Điền nghĩ đến những điều gì?
Câu 6. Theo em, quan niệm về nghệ thuật của Điền (cũng là của Nam Cao) được thể hiện rõ nhất qua câu văn nào? Em hiểu như thế nào về câu văn đó?
Câu 7. Truyện góp phần thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ trước Cách mạng tháng Tám, theo em, bi kịch đó là gì?
Câu 8. Em có suy nghĩ như thế nào về mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực qua câu chuyện trên?
Câu 9. Khái quát nội dung chính của truyện.
Câu 10. Nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao là gì?
Gợi ý trả lời câu hỏi:
Câu 1.
- Thể loại: Truyện ngắn;
- Đề tài của văn bản: Đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
Câu 2.
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba (người kể chuyện giấu mình).
- Sự chuyển dịch điểm nhìn trong truyện: Điểm nhìn của người kể chuyện có sự dịch chuyển sang nhân vật Điền, vợ Điền.
Câu 3.
- Truyện được kể chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật Điền.
- Tác dụng của việc chọn điểm nhìn: Điểm nhìn từ nhân vật Điền tạo nên sự phong phú, linh hoạt cho ngôn ngữ trần thuật, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật Điền thêm sâu sắc.
Câu 4.
- Cuộc sống của gia đình Điền được miêu tả qua những chi tiết: Thị (vợ Điền) phải nhịn ăn, nhịn mặc nhường chồng, bán yếm, bán áo mua thuốc cho chồng; con cái nheo nhóc, ôm đau khóc mếu; Vợ Ðiền khổ, con Ðiền khổ, cha mẹ Ðiền khổ.
- Qua đó có thể thấy cuộc sống của gia đình Điền quá nghèo khổ, nhếch nhác.
Câu 5. Hình ảnh người vợ nhếch nhác, thô tháp khiến Điền nghĩ đến những điều đẹp đẽ, thơ mộng: Ðiền ước ao một cái mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay ve vuốt; Điền nghĩ về những cô gái yêu kiều, nhàn nhã, họ sẽ đọc sẽ quý trọng văn Điền, yêu Điền, gửi cho Điền những bức thư xinh đẹp; Ðiền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với những người đàn bà đẹp chỉ biết trang điểm và yêu đương
Câu 6.
- Quan niệm về nghệ thuật của Điền (cũng là của Nam Cao) được thể hiện rõ nhất qua câu văn: Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than..
- Câu văn trên có nghĩa: Nghệ thuật đích thực không thể chỉ phản ảnh cái vẻ bề ngoài xinh đẹp, thơ mộng của cuộc sống. Nghệ thuật đích thực phải bắt nguồn từ cuộc đời thực, phản ánh chân thực những chuyển biến xã hội đang diễn ra trong cuộc đời, dù cuộc đời có khổ ải, lầm than, xấu xí. Đây chính là phát ngôn cho quan điểm văn chương cần coi trọng tính hiện thực, mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Câu 7. Truyện góp phần thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ trước Cách mạng tháng Tám, bi kịch đó là bi kịch của những văn nghệ sĩ yêu văn chương, khao khát sống một cuộc đời có ích, khao khát viết lên những tác phẩm giá trị. Nhưng cuối cùng lại bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất. Họ không thực hiện được giấc mộng văn chương của mình, sống trong day dứt, đau khổ. Tuy vậy, họ không đánh mất mình, họ vẫn đấu tranh cho lẽ sống đẹp.
Câu 8. Mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực qua câu chuyện trên:
Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK và like bài viết để đọc tiếp nha!
Đọc hiểu: Giăng sáng - Nam Cao
Ngữ văn 11 - Chương trình mới
Ngữ văn 11 - Chương trình mới
Đọc đoạn trích sau:
Vợ Ðiền hôm nay luật quật suốt cả ngày. Con ở xin đi ăn giỗ một hôm. Thị lại phải dệt vải lấy tấm vải để mai đi bán về đưa lãi nợ. Dệt xong thị vội vàng đi đòi món tiền. Về đến nhà, con bé khóc hết hơi. Con lớn thì lem luốc, mũi dãi nguếch ngoác bôi đầy mặt. Nhà cửa còn bề bộn. Con ở vẫn chưa về. Mình thị biết xoay sở làm sao kịp? Thị thấy lòng sôi lên sùng sục, thị giậm chân bành bạch kêu trời. Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu nhàu trống không. Rồi thị bế con đi nằm sớm. Ðứa con lớn thút thít khóc chán cũng lăn ra ngủ. Mình Ðiền ngồi ngoài sân. Ðiền cố thản nhiên. Nhưng da mặt cứ rồm rộm; nó có vẻ dày lên và tê tê. Ðiền thấy gần như tủi cực. Vợ Ðiền có lẽ rất yêu Ðiền. Nhưng thị chỉ biết rằng người ta cần ăn cơm, mặc áo và uống thuốc khi đau ốm. Thị chỉ cố lo cho chồng ba thức ấy. Thị nhịn ăn để chồng ăn. Thị nhịn mặc cho chồng mặc. Thị bán đến cả yếm, áo để lo thuốc thang cho chồng. Thị tưởng thế là chồng sung sướng lắm. Nhưng không phải, Ðiền đã quen với những tình cảm nồng nàn và những lời nói vuốt ve. Nét mặt cau có, ngôn ngữ cục cằn, và nhất là cái lối yêu quá đơn sơ - có thể nói thô sơ - của vợ Ðiền làm cho Ðiền khổ. Ðiền thấy cái đời tình cảm của Ðiền thiếu thốn. Ðiền không được yêu ai. Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi.. Trên kia, giăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa mới có nhân tình. Gió nhẹ nhàng đặt trên lá những bước chân vũ nữ. Những tàu lá chuối láng trăng đưa đẩy.. Ðiền nghĩ đến những người đàn bà nhàn hạ, vừa tắm bằng một thứ nước thơm tho, mặc áo lụa xanh, ngả tấm thân mềm trên chiếc ghế xích đu và đưa đẩy đôi chân thưỡn thẹo..
Tại sao Ðiền lại vụt nghĩ đến những hình ảnh lả lơi ấy? Chính Ðiền cũng không thể hiểu. Có lẽ Ðiền ước ao một cái mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay ve vuốt. Có những người đàn bà đẹp, yêu rất khéo, bởi họ được ăn ngon, mặc đẹp, chăm sóc thịt da và chẳng làm gì cả. Phải rồi, vợ Ðiền chỉ là một kẻ tục tằn. Thị chẳng đáng cho Ðiền yêu quý. Cũng chẳng đáng cho Ðiền thương hại. Ðiền phải đi. Ði để giữ cho lòng mình tươi lâu. Ðiền sẽ làm bất cứ cái gì đó để có ăn. Rồi Ðiền bình tĩnh viết. Có như vậy Ðiền viết mới ra hồn được. Lời phải đẹp. Ý phải thanh cao. Ngọn bút của Ðiền mới khơi nguồn cho những tình cảm đầy thơ mộng. Nghệ thuật chính là cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa..
Ðiền lại thấy hiện ra cái bóng dáng yêu kiều của những người đàn bà nhàn nhã ngả mình trên những cái ghế xích-đu nhún nhảy.. Những người ấy sẽ đọc văn Ðiền. Lòng họ đẹp thêm lên. Họ sẽ yêu Ðiền. Họ sẽ gửi cho Ðiền những bức thư xinh xinh ướp nước hoa. Tưởng tượng của Ðiền tỏa rộng ra như một ánh trăng. Ðiền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với những người đàn bà đẹp chỉ biết trang điểm và yêu đương. Những tiếng gắt gỏng ở trong nhà lại đưa ra. Vụt cái, trăng mất đẹp. Ðiền cúi mặt, bẽn lẽn như bị bắt gặp làm việc xấu. Ðiền lắng tai nghe. Tiếng vợ Ðiền gay gắt hỏi:
- Làm sao thế?
Ðứa con gái vừa mếu máo vừa đáp lại.
- Con đau bụng.
- Giời ơi là giời!
Ấy là tiếng vợ Ðiền rên lên. Rồi thị mắng con:
- Ăn bậy lắm! Chết là phải, còn kêu ai?
Ðứa con không dám khóc to. Nó chỉ oằn oại và rít nho nhỏ trong cổ họng. Thỉnh thoảng nó không còn sức nén, tiếng khóc bật ra Ðiền nghe một vài tiếng nức nở như tiếng người nôn oẹ, Ðiền vẫn ngồi cúi mặt. Một nỗi chua xót gần như là thuộc về thể chất, ứ lên trong lòng Ðiền. Nó dâng lên đến cổ, xông lên óc. Nước mắt Ðiền ứa ra.
Vợ Ðiền gượng nhẹ đặt đứa con đang ngủ mệt xuống võng. Thị cầm một con dao ra vườn moi mấy nhánh gừng về rửa sạch, giã ra. Thị vắt thêm vào đấy nửa quả chanh. Thứ thuốc bách bệnh của con nhà nghèo chỉ gồm có thế. Thị gạn lấy nước đem lại cho con. Con bé mới ngửi thấy hơi gừng đã sợ. Nó mím chặt môi. Dỗ thế nào nó cũng không chịu uống. Thị phải bế nó, đặt nằm ngửa trên đùi, một tay thị đỡ đầu, một tay thị kề chén nước gừng vào tận môi con. Con bé mím môi thật chặt. Bực mình thị quát:
- Há mồm ra!
Con bé khóc. Thế là cốc nước gừng đã dốc tuột vào mồm nó. Nó giãy lên như đỉa phải vôi. Nó phun phè phè. Nó gào lên. Bao nhiêu nước gừng bắn ra áo mẹ. Thằng cu con giật mình, khóc thét lên. Vợ Ðiền tức quá, phát đen đét vào lưng con bé ốm và quăng nó xuống giường như quăng một con mèo:
- Kệ cha mày! Cho mày chết đi!
Con bé vừa gào vừa van lạy:
- Con lạy bu; Con cay lắm! Con lạy bu! Cay mồm..
- Mày câm ngay không tao tát cho vỡ mặt.
Nó vẫn không chịu lặng. Thị sừng sộ, chực vồ lấy nó:
- Mày có câm không nào?
Nó sợ quá đành phải nín. Nhưng những tiếng rên nho nhỏ vẫn còn thoát ra.. Ðiền thương con lắm. Vút cái, Ðiền thấy Ðiền không thể nào đi được. Ðiền không thể sung sướng khi con Ðiền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than? Không, không, Ðiền không thể nào mơ mộng được. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết những ước mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Ðiền cái thứ văn chương của bọn nhàn rỗi quá. Ðiền muốn tránh sự thực, nhưng trốn tránh làm sao được? Vợ Ðiền khổ, con Ðiền khổ, cha mẹ Ðiền khổ. Chính Ðiền cũng khổ. Bao nhiêu người nữa, cùng một cảnh, khổ như Ðiền! Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta. Tiếng đau khổ vang dội lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Ðiền. Ðiền chẳng cần đi đâu cả. Ðiền chẳng cần trốn tránh, Ðiền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời..
.. Sáng hôm sau, Ðiền ngồi viết. Giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng, tiếng léo xéo đòi nợ ngoài đầu xóm. Và cả tiếng chửi bới của một người láng giềng ban đêm mất gà.

Trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định thể loại, đề tài của văn bản.
Câu 2. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Chỉ ra sự chuyển dịch điểm nhìn trong truyện.
Câu 3. Truyện được kể chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật nào? Tác dụng của việc chọn điểm nhìn.
Câu 4. Nhận xét về cuộc sống của gia đình Điền.
Câu 5. Hình ảnh người vợ nhếch nhác, thô tháp khiến Điền nghĩ đến những điều gì?
Câu 6. Theo em, quan niệm về nghệ thuật của Điền (cũng là của Nam Cao) được thể hiện rõ nhất qua câu văn nào? Em hiểu như thế nào về câu văn đó?
Câu 7. Truyện góp phần thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ trước Cách mạng tháng Tám, theo em, bi kịch đó là gì?
Câu 8. Em có suy nghĩ như thế nào về mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực qua câu chuyện trên?
Câu 9. Khái quát nội dung chính của truyện.
Câu 10. Nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao là gì?
Gợi ý trả lời câu hỏi:
Câu 1.
- Thể loại: Truyện ngắn;
- Đề tài của văn bản: Đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
Câu 2.
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba (người kể chuyện giấu mình).
- Sự chuyển dịch điểm nhìn trong truyện: Điểm nhìn của người kể chuyện có sự dịch chuyển sang nhân vật Điền, vợ Điền.
Câu 3.
- Truyện được kể chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật Điền.
- Tác dụng của việc chọn điểm nhìn: Điểm nhìn từ nhân vật Điền tạo nên sự phong phú, linh hoạt cho ngôn ngữ trần thuật, giúp cho việc khắc họa tâm lí nhân vật Điền thêm sâu sắc.
Câu 4.
- Cuộc sống của gia đình Điền được miêu tả qua những chi tiết: Thị (vợ Điền) phải nhịn ăn, nhịn mặc nhường chồng, bán yếm, bán áo mua thuốc cho chồng; con cái nheo nhóc, ôm đau khóc mếu; Vợ Ðiền khổ, con Ðiền khổ, cha mẹ Ðiền khổ.
- Qua đó có thể thấy cuộc sống của gia đình Điền quá nghèo khổ, nhếch nhác.
Câu 5. Hình ảnh người vợ nhếch nhác, thô tháp khiến Điền nghĩ đến những điều đẹp đẽ, thơ mộng: Ðiền ước ao một cái mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay ve vuốt; Điền nghĩ về những cô gái yêu kiều, nhàn nhã, họ sẽ đọc sẽ quý trọng văn Điền, yêu Điền, gửi cho Điền những bức thư xinh đẹp; Ðiền nghĩ đến những cuộc tình duyên lãng mạn với những người đàn bà đẹp chỉ biết trang điểm và yêu đương
Câu 6.
- Quan niệm về nghệ thuật của Điền (cũng là của Nam Cao) được thể hiện rõ nhất qua câu văn: Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than..
- Câu văn trên có nghĩa: Nghệ thuật đích thực không thể chỉ phản ảnh cái vẻ bề ngoài xinh đẹp, thơ mộng của cuộc sống. Nghệ thuật đích thực phải bắt nguồn từ cuộc đời thực, phản ánh chân thực những chuyển biến xã hội đang diễn ra trong cuộc đời, dù cuộc đời có khổ ải, lầm than, xấu xí. Đây chính là phát ngôn cho quan điểm văn chương cần coi trọng tính hiện thực, mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Câu 7. Truyện góp phần thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ trước Cách mạng tháng Tám, bi kịch đó là bi kịch của những văn nghệ sĩ yêu văn chương, khao khát sống một cuộc đời có ích, khao khát viết lên những tác phẩm giá trị. Nhưng cuối cùng lại bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất. Họ không thực hiện được giấc mộng văn chương của mình, sống trong day dứt, đau khổ. Tuy vậy, họ không đánh mất mình, họ vẫn đấu tranh cho lẽ sống đẹp.
Câu 8. Mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực qua câu chuyện trên:
Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK và like bài viết để đọc tiếp nha!
Bạn cần đăng nhập và nhấn Thích để xem
Chỉnh sửa cuối: