Chương 20
Thời giờ còn lại trong ngày trôi qua thật yên ả. Cơn bão làm chúng tôi ướt sũng đã bắt đầu dịu lại.
Sau buổi phỏng vấn ấm áp với Larsen Sói, người kỹ sư thứ tư và ba thợ tra dầu được trang bị các loại trang phục từ tủ lương hiện vật dành cho thủy thủ, sau đó họ được phân công nghe lệnh các tổ thuyền của thợ săn và đội gác ở trên tàu, cuối cùng họ phải vào ở trong khoang mũi. Họ đều có ý muốn phản kháng nhưng chẳng được tích sự gì. Họ vẫn luôn giữ thái độ kính sợ sau khi chứng kiến bản chất con người Larsen Sói, nên dù cảm thấy khó chịu nhưng họ vẫn nhanh chóng tiến vào khoang mũi, và rồi chẳng chút tư tưởng chống đối nào nữa cả.
Cô Brewster – người mà chúng tôi được biết tên nhờ một vị kỹ sư – cứ ngủ li bì.
Trong giờ ăn tối, tôi yêu cầu đám thợ săn nói nhỏ tiếng để không làm phiền cô; mãi đến sáng hôm sau cô mới chịu xuất hiện. Tôi cố tình dọn riêng phần ăn cho cô, nhưng Larsen Sói đã can thiệp. "Cô ta quá cao quý nên không chịu ngồi vào bàn cabin và gia nhập hội cabin hả?" là nguyên văn mệnh lệnh ông ta.
Việc cô ngồi vào bàn cũng có cái thú vị riêng. Các thợ săn im thin thít. Chỉ có Jock Horner và Smoke là không biết xấu hổ, hai người này cứ lén liếc nhìn cô, họ thậm chí còn tham gia trò chuyện. Bốn người đàn ông còn lại lúc nào cũng dán mắt vào đĩa rồi nhai đều đều, đôi tai họ nhúc nhích cùng nhịp với cổ họng, chẳng khác nào đôi tai của những con thú.
Lúc đầu Larsen Sói rất ít nói, hầu như chỉ khi được hỏi đến thì ông ta mới trả lời. Nguyên nhân không phải vì ông ta xấu hổ. Hoàn toàn ngược lại. Người phụ nữ này là một kiểu người mới mẻ đối với ông, một giống loài hoàn toàn khác với những gì ông ta từng biết đến, vì thế ông thấy tò mò. Ông quan sát cô, đôi mắt hiếm khi rời khỏi khuôn mặt nữ tính ấy trừ khi ông cần dõi theo chuyển động của tay và vai cô. Tôi cũng quan sát cô, dù thực ra tôi là người duy trì cuộc đối thoại thì tôi vẫn tự biết mình vốn hơi nhút nhát và thiếu bình tĩnh. Phong thái của ông ta thì hoàn hảo, sự tự tin không gì có thể lay chuyển được toát ra từ tận bên trong; ông không sợ phụ nữ cũng như không sợ bão tố và chiến đấu.
"Khi nào chúng ta cập bến Yokohama?" Cô ấy quay sang nhìn thẳng vào mắt ông ta và hỏi.
Một câu hỏi thật thẳng thắn. Dù mắt vẫn dán vào đĩa, cổ họng của mọi người đều ngưng hoạt động, đôi tai ngừng lắc lư, ai cũng đều chăm chú lắng nghe câu trả lời.
"Bốn tháng, cũng có thể là ba tháng nữa nếu mùa săn kết thúc sớm," Larsen Sói đáp.
Cô hít thở sâu rồi lắp bắp nói:
"Tôi.. tôi nghĩ.. tôi tưởng rằng rằng Yokohama chỉ còn cách một ngày thuyền. Nơi đó.." Nói đến đây thì cô ngừng lại, liếc nhìn quanh chiếc bàn nơi những khuôn mặt không biểu cảm vẫn đang nhìn chằm chằm vào đĩa.
"Thật vô lí," cô kết luận.
"Câu hỏi đó cô nên nói với anh Van Weyden đây," ông đáp, cúi đầu về phía tôi, mắt hấp háy tinh nghịch. "Cô có thể coi anh Van Weyden là người có uy quyền trong những lĩnh vực kiểu đó. Tôi chỉ là một thủy thủ, nên cách tôi nhìn nhận sự việc có chút khác biệt. Cô có lẽ đã không may khi phải ở chung với chúng tôi, nhưng đó lại là điều may mắn của chúng tôi." Ông nhìn cô mỉm cười. Cô cụp mắt trước ánh nhìn của ông ta, nhưng sau đó lại ngẩng lên bướng bỉnh nhìn tôi. Tôi đọc được câu hỏi không thành lời trong ánh mắt đó: Có đúng không? Nhưng tôi đã quyết đóng vai trung lập nên không trả lời.
"Anh nghĩ sao?" cô gặng hỏi.
"Thật không may," tôi nói, "đặc biệt là nếu cô đã kế hoạch về vài tháng tới. Nhưng cô nói cô đến Nhật vì lí do sức khỏe, nên tôi có thể đảm bảo với rằng không có nơi nào giúp cho cải thiện sức khỏe của cô nhiều hơn trên tàu Bóng Ma đâu."
Mắt cô lóe lên vẻ phẫn nộ, lần này đến lượt tôi cụp mắt, tôi cảm thấy mặt mình ửng đỏ dưới ánh nhìn của cô ấy. Thật hèn nhát, nhưng tôi còn biết làm gì đây?
"Đây là lời của kẻ có quyền, anh Van Weyden nhỉ." Larsen Sói cười.
Tôi gật đầu, và sau khi bình tĩnh lại, cô háo hức chờ đợi.
"Hiện giờ khó mà nói gì được," Larsen Sói tiếp lời: "Nhưng anh ta đã cải thiện nhiều lắm đấy. Cô nên gặp anh ta lúc mới lên tàu. Trông đến là khẳng khiu, tội nghiệp đến khó mà mường tượng được. Đúng không Kerfoot?"
Vì bị gọi đích danh nên Kerfoot sợ đến mức đánh rơi dao xuống sàn, tuy nhiên anh ta vẫn ậm ừ tỏ vẻ đồng ý.
"Đã cải thiện bản thân nhờ gọt vỏ khoai tây và rửa bát đĩa. Phải không Kerfoot?" Tiếng ậm ừ đó lại vang lên.
"Giờ hãy nhìn anh ta đi. Không lực lưỡng nhưng vẫn cơ bắp hơn thời mới đặt chân lên tàu. Hơn nữa, giờ anh ta đã có thể đứng vững. Nhìn anh ta bây giờ cô sẽ không nghĩ vậy, nhưng hồi đầu anh ta không thể đứng vững một mình được." Đám thợ săn cười khúc khích, riêng cô lại nhìn tôi đầy thông cảm, và chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ bù đắp những lời mỉa mai của Larsen Sói. Thật ra, đã lâu rồi tôi mới cảm thấy dịu lòng khi được đồng cảm, tới nỗi tôi nguyện ý làm nô lệ cho cô. Nhưng tôi rất bực tức với Larsen Sói. Ông đang thách thức dũng khí của tôi bằng những lời gièm pha, thách thức đôi chân mà ông ta tự cho là đã mang lại cho tôi.
"Có lẽ tôi vừa mới học được cách đứng trên đôi chân của mình," tôi vặn lại. "Nhưng tôi chưa từng dùng chân giẫm lên người khác."
Ông ta khinh bỉ nhìn tôi. "Anh chỉ mới hoàn thành phân nửa chương trình giáo dục thôi," ông cộc lốc đáp lời rồi quay sang cô. "Tàu Bóng Ma của chúng tôi rất hiếu khách. Anh Van Weyden đây cũng cảm thấy điều đó. Chúng tôi làm mọi thứ để giúp khách cảm thấy như ở nhà, đúng không anh Van Weyden?"
"Ngay cả khi phải lột vỏ khoai tây và rửa bát đĩa," tôi trả lời, "đó là còn chưa nói đến việc vặn cổ người khác một cách thân thiện."
"Tôi hi vọng cô đừng chỉ vì anh Van Weyden mà có ấn tượng sai lầm về chúng tôi," ông ta ngắt lời bằng cách giả vờ lo lắng. "Cô sẽ tự khám phá ra thôi cô Brewster, ông ta lúc nào cũng buộc dao găm trên dây nịt, một điều – e hèm –bất thường nhất mà chỉ huy tàu có thể làm. Dù rất đáng kính, nhưng đôi lúc anh Van Weyden có hơi.. tôi nên nói thế nào nhỉ? Ờm, hung hăng, nên cẩn trọng là tốt hơn. Lúc bình tĩnh anh ta khá lí trí và tử tế, như bây giờ ấy, có điều anh ta sẽ không phủ nhận mới hôm qua anh ta còn đe dọa mạng sống của tôi đâu."
Tôi suýt bị nghẹn, mắt trừng tóe lửa. Ông ta chuyển sự chú ý đến tôi.
"Nhìn anh ta đi. Anh ta còn không thể khống chế mình khi đang có mặt cô. Dù sao anh ta cũng không quen với sự hiện diện của phụ nữ. Tôi sẽ phải tự trang bị vài thứ vũ khí trước khi bước lên boong tàu cùng anh ta thôi." Ông lắc đầu buồn bã, lẩm bẩm, "Tệ quá, quá tệ," còn những tên thợ săn thì cười ha hả.
Chất giọng trầm từ biển cả của những người đàn ông này ầm ầm vang rung trong không gian chật hẹp tạo ra một hiệu ứng hoang dại. Khung cảnh đó thật dữ dội, và đó là lần đầu tiên tôi nhận thức được vai trò của mình trước người phụ nữ kì lạ trong môi trường xa lạ này. Tôi biết những người đàn ông này, biết được lối tư duy của họ, tôi cũng là một trong số họ, sống cuộc đời săn bắt hải cẩu, sử dụng những đồng tiền nhờ săn bắt hải cẩu, dồn suy nghĩ nhiều vào việc săn bắt hải cẩu. Tôi chẳng cảm thấy những bộ quần áo thô ráp, những khuôn mặt thô lỗ, tiếng cười ồn ào, những bức tường cabin lắc lư và những chiếc đèn biển đung đưa có gì kì lạ.
Tôi phết bơ lên một lát bánh mì và vô tình nhìn bàn tay mình. Các khớp ngón tay bị lột da và phồng lên thấy rõ, ngón tay sưng vù, viền móng tay sạm đen. Tôi cảm nhận được râu mọc trên cổ dày như lớp khăn quàng, tôi biết cánh tay áo khoác của tôi đã rách toạc và một chiếc nút trên cổ áo màu xanh dương mà tôi đang mặc đã biến mất. Chiếc dao găm Larsen Sói nhắc đến đang nằm trong vỏ dao trên hông tôi. Nó nằm ở đó rất tự nhiên – tự nhiên đến mức trước đó tôi chưa từng tưởng tượng mình thiếu nó được, nhưng khi tôi nhìn vào nó bằng đôi mắt của cô, tôi chợt hiểu nó và những điều liên quan đến nó dưới đôi mắt ấy đều hết sức kì lạ.
Cô đoán được thái độ nhạo báng trong lời nói của Larsen Sói, một lần nữa, cô lại dành cho tôi một ánh nhìn thông cảm. Nhưng trong ánh mắt đó còn có sự hoang mang. Thái độ nhạo báng kia khiến cô càng bối rối không hiểu tình hình nơi đây, "Nếu có tàu khác đi ngang qua. Có lẽ tôi sẽ chuyển sang đó," cô đề nghị.
"Không có tàu nào đi ngang qua đâu, trừ những tàu săn khác," Larsen Sói đáp lời.
"Tôi không có quần áo, tôi chẳng có gì hết," cô phản đối. "Thưa ông, hình như ông không nhận ra, tôi không phải đàn ông, tôi không quen với lối sống lang thang, bất cần mà ông và người của ông đang đeo đuổi."
"Cô nên làm quen với nó càng sớm càng tốt," ông nói. "Tôi sẽ cấp cho cô vải, kim và chỉ," ông nói thêm. "Tôi hi vọng việc tự may cho mình một hai cái váy không phải là điều gì quá khó khăn và khủng khiếp với cô." Miệng cô nhăn nhó khó chịu như để thể hiện cho mọi người hiểu rằng mình không biết may đồ. Đồng thời, thể hiện luôn cả nỗi sợ hãi, hoang mang mà cô dũng cảm nỗ lực che đậy ra trước mắt tôi.
"Tôi nghĩ cô cũng quen với việc được người khác hầu hạ như anh Van Weyden đây. Tôi nghĩ tự mình lao động cũng chẳng làm cô trật khớp xương đâu. Nhân tiện, cô làm nghề gì vậy?" Cô ném cho ông ta một cái nhìn kinh ngạc không hề giấu diếm.
"Tôi không có ý xúc phạm cô, xin hãy tin tôi. Ai cũng có nhu cầu ăn uống, vì thế họ làm ra thứ gì đó để đổi lấy đồ ăn. Những gã đàn ông này bắn hải cẩu để sống; tôi lái con tàu buồm này cũng vì lí do tương tự; còn anh Van Weyden đây có thể ở đây và được ăn uống là nhờ hỗ trợ tôi. Vậy còn cô, cô làm gì nào?" Cô nhún vai.
"Cô tự kiếm ăn hay phải chờ người khác dâng đến miệng vậy?"
"Tôi rất tiếc là hầu hết quãng đời này tôi đều được người khác nuôi sống," cô cười, lấy hết dũng khí để đối đáp câu hỏi của ông, nhưng tôi lại nhìn thấy nỗi sợ trong mắt cô ngày càng lớn khi nhìn Larsen Sói.
"Tôi đoán có người dọn giường cho cô luôn, đúng không?"
"Tôi tự dọn giường," cô đáp.
"Thường xuyên sao?" Cô lắc đầu ra vẻ buồn bã.
"Cô biết người ta làm gì với những người đàn ông nghèo ở Hoa Kì không biết tự mình kiếm tiền như cô không?"
"Tôi không biết," giọng cô van lơn. "Họ làm gì với những người đàn ông nghèo giống như tôi vậy?"
"Họ đưa chúng vào tù. Tội không tự mình kiếm sống, trong trường hợp này được gọi là tội lang thang. Nếu ra cũng hay lải nhải những câu hỏi về đúng và sai như anh Van Weyden đây, ra sẽ hỏi rằng, cô có quyền gì được sống nếu cô không làm bất cứ điều gì cho thấy mình xứng đáng được sống?"
"Nhưng ông không phải anh Van Weyden nên tôi không cần phải trả lời, đúng không nào?" Cô tươi cười dù trong đáy mắt tràn ngập sự sợ hãi, cảnh tượng bi thương này làm tôi rất đau lòng. Tôi thấy mình phải can thiệp và dẫn dắt cuộc đối thoại sang hướng khác.
"Cô đã từng kiếm được bất kì đô la bằng chính sức lao động của mình chưa?" Ông ta gặng hỏi bằng giọng không khoan nhượng đầy đắc thắng khi đã biết chắc câu trả lời.
"Có chứ," cô chậm rãi trả lời, bộ mặt ỉu xìu của ông ta chút nữa làm tôi cười phá lên. "Tôi nhớ lúc còn nhỏ cha tôi từng cho tôi một đô la vì tôi đã giữ im lặng trong năm phút."
Ông mỉm cười đầy thỏa mãn.
"Nhưng chuyện đó đã lâu rồi," cô tiếp tục. "Và hiếm khi có người lại yêu cầu một cô bé chín tuổi phải tự kiếm sống. Tuy nhiên, bây giờ," cô ngừng một chút rồi nói tiếp, "mỗi năm tôi kiếm được khoảng một ngàn tám trăm đô la." Đột nhiên mọi con mắt đều rời khỏi đĩa và nhất loạt nhìn cô ấy. Một phụ nữ kiếm được một ngàn tám trăm đô la mỗi năm thật sự rất đáng để chiêm ngưỡng. Larsen Sói không hề giấu giếm sự ngưỡng mộ.
"Tiền lương hay tiền trả theo sản phẩm?" Ông ta hỏi. "Trả theo sản phẩm," cô nhanh chóng trả lời.
"Một ngàn tám trăm," ông nhẩm tính. "Như vậy mỗi tháng cô kiếm được một trăm năm mươi đô la. Này cô Brewster, con tàu Bóng Ma không hề nhỏ đâu. Trong thời gian cô ở với chúng tôi thì hãy tự xem là mình đang được trả lương nhé." Cô chẳng hề đáp lại. Cô vẫn chưa quen với những ý tưởng bất chợt của ông nên chưa thể bình thản chấp nhận chúng.
"Tôi quên hỏi," ông nhẹ nhàng nói tiếp, "về bản chất công việc của cô. Cô tạo ra những mặt hàng gì? Cô cần những công cụ và nguyên liệu gì?"
"Giấy và mực," cô cười. "À! Còn có máy đánh chữ nữa."
"Cô chính là Maud Brewster," tôi cất tiếng, giọng chậm rãi và chắc nịch như thể đang buộc tội.
Cô ấy ngước lên nhìn tôi đầy tò mò.
"Sao ông biết?"
"Là cô phải không?" Tôi gặng hỏi.
Cô gật đầu thừa nhận thân phận của mình. Giờ thì đến lượt Larsen Sói bối rối. Cái tên và phép thuật của những cái tên không có ý nghĩa gì với ông. Nhưng tôi lại cảm thấy tự hào vì nó có ý nghĩa với tôi, và đây cũng là lần đầu tiên dù đang chán nản nhưng tôi lại có thể tự tin nhận ra rằng mình có điểm vượt trội hơn ông ta.
"Tôi nhớ mình từng viết bài bình luận về một cuốn nhỏ.." Tôi tùy ý bắt chuyện, bỗng nhiên cô ngắt lời tôi.
"Ông!" Cô kêu lên. "Ông là.." Lúc này cô ấy trợn tròn mắt nhìn tôi đầy kinh ngạc.
Đến lượt tôi gật đầu thừa nhận thân phận của mình.
"Humphrey Van Weyden," cô kết luận; sau đó tiếp lời cùng một tiếng thở phào nhẹ nhõm mà không biết rằng bản thân đã thoải mái nhìn Larsen Sói, "Tôi đã rất vui."
"Tôi vẫn nhớ bài bình luận đó," cô vội vã nói, sau đó chợt nhớ ra câu nhận xét không đầu không đuôi lúc nãy, "bài bình luận đó tâng bốc quá mức."
"Đâu có." Tôi quả quyết phủ nhận. "Cô đã hoài nghi khả năng đánh giá sáng suốt của tôi và khiến cho tác phẩm của tôi mất giá trị, hơn nữa, những người bạn phê bình của tôi đều đứng về phía tôi."
"Tôi chắc rằng anh rất tử tế," cô thì thầm; ngữ điệu và lời nói bình thường kết hợp lại gợi nhớ cho tôi về cuộc sống ngày xưa ở phía bên kia thế giới, khiến tôi thoáng rùng mình vì những kí ức và nỗi nhớ nhà sâu sắc.
"Cô là Maud Brewster," tôi nhìn cô ấy và nghiêm nghị nói.
"Còn anh là Humphrey Van Weyden," cô ấy nói, nhìn lại tôi với thái độ nghiêm nghị và ngạc nhiên.
"Thật kì lạ! Không thể hiểu nổi. Chúng tôi chắc chắn ngòi bút tỉnh táo của ông không thể viết ra những câu chuyện tình lãng mạn hoang dại trên biển."
"Tôi không phải đang đi thu thập tư liệu để viết đâu, tôi nói thật đấy," tôi trả lời. "Tôi không có năng khiếu và hứng thú với sáng tác tiểu thuyết."
"Vậy anh nói tôi nghe đi, tại sao anh lúc nào cũng chôn chân ở California vậy?" cô ấy lại hỏi.
"Điều đó không giống con người anh. Người phương Đông chúng tôi ít khi gặp được người như anh – thật ra là hầu như chưa từng gặp Trưởng Khoa văn ngữ Hoa Kì đệ nhị[1] ." Tôi cúi đầu và từ chối lời khen ngợi. "Suýt chút nữa tôi đã gặp anh ở Philadelphia, về sự kiện Browning hay gì đó mà anh tới đó thuyết trình đấy. Chuyến xe lửa của tôi trễ mất bốn giờ đồng hồ."
Và rồi chúng tôi quên mất mình đang ở đâu, chúng tôi bỏ rơi Larsen Sói, khiến ông im lặng trong suốt cuộc trò chuyện. Những người thợ săn rời bàn để lên boong tàu nhưng chúng tôi vẫn còn nói chuyện. Chỉ còn một mình Larsen Sói ở lại. Đột nhiên tôi nhớ đến ông và nhìn thấy ông ngả người khỏi bàn, tò mò lắng nghe cuộc nói chuyện kì quặc của chúng tôi về một thế giới mà ông chưa từng biết.
Tôi đột ngột im bặt. Hiện tại đầy hiểm nguy và lo lắng lại bủa vây lấy tôi bằng một sức mạnh khiến tôi choáng váng. Cô Brewster cũng cảm thấy như vậy, một nỗi sợ hãi không tên choán ngợp ánh mắt cô khi cô ấy nhìn Larsen Sói.
Ông đứng lên cười đầy gượng gạo. Tiếng cười nghe như tiếng kim loại.
"Ồ, đừng để ý đến tôi," ông vừa nói vừa vẫy tay một cách tự ti.
"Đừng quan tâm tôi. Cứ nói tiếp đi, tôi xin hai người đấy." Nhưng cánh cổng ngôn từ đã đóng chặt, chúng tôi đồng loạt đứng dậy khỏi bàn và lúng túng cười.
[1] Trưởng khoa Văn ngữ Hoa Kì tức William Dean Howells, tác gia có thật có ảnh hưởng lớn, có biệt danh The Dean of American Letters. Ông cũng là biên tập của tờ báo Đại Tây Dương được nhắc ở đầu truyện. Tác giả đang ví Humphrey Van Weyden là một ngài William Dean Howells thứ hai.
Sau buổi phỏng vấn ấm áp với Larsen Sói, người kỹ sư thứ tư và ba thợ tra dầu được trang bị các loại trang phục từ tủ lương hiện vật dành cho thủy thủ, sau đó họ được phân công nghe lệnh các tổ thuyền của thợ săn và đội gác ở trên tàu, cuối cùng họ phải vào ở trong khoang mũi. Họ đều có ý muốn phản kháng nhưng chẳng được tích sự gì. Họ vẫn luôn giữ thái độ kính sợ sau khi chứng kiến bản chất con người Larsen Sói, nên dù cảm thấy khó chịu nhưng họ vẫn nhanh chóng tiến vào khoang mũi, và rồi chẳng chút tư tưởng chống đối nào nữa cả.
Cô Brewster – người mà chúng tôi được biết tên nhờ một vị kỹ sư – cứ ngủ li bì.
Trong giờ ăn tối, tôi yêu cầu đám thợ săn nói nhỏ tiếng để không làm phiền cô; mãi đến sáng hôm sau cô mới chịu xuất hiện. Tôi cố tình dọn riêng phần ăn cho cô, nhưng Larsen Sói đã can thiệp. "Cô ta quá cao quý nên không chịu ngồi vào bàn cabin và gia nhập hội cabin hả?" là nguyên văn mệnh lệnh ông ta.
Việc cô ngồi vào bàn cũng có cái thú vị riêng. Các thợ săn im thin thít. Chỉ có Jock Horner và Smoke là không biết xấu hổ, hai người này cứ lén liếc nhìn cô, họ thậm chí còn tham gia trò chuyện. Bốn người đàn ông còn lại lúc nào cũng dán mắt vào đĩa rồi nhai đều đều, đôi tai họ nhúc nhích cùng nhịp với cổ họng, chẳng khác nào đôi tai của những con thú.
Lúc đầu Larsen Sói rất ít nói, hầu như chỉ khi được hỏi đến thì ông ta mới trả lời. Nguyên nhân không phải vì ông ta xấu hổ. Hoàn toàn ngược lại. Người phụ nữ này là một kiểu người mới mẻ đối với ông, một giống loài hoàn toàn khác với những gì ông ta từng biết đến, vì thế ông thấy tò mò. Ông quan sát cô, đôi mắt hiếm khi rời khỏi khuôn mặt nữ tính ấy trừ khi ông cần dõi theo chuyển động của tay và vai cô. Tôi cũng quan sát cô, dù thực ra tôi là người duy trì cuộc đối thoại thì tôi vẫn tự biết mình vốn hơi nhút nhát và thiếu bình tĩnh. Phong thái của ông ta thì hoàn hảo, sự tự tin không gì có thể lay chuyển được toát ra từ tận bên trong; ông không sợ phụ nữ cũng như không sợ bão tố và chiến đấu.
"Khi nào chúng ta cập bến Yokohama?" Cô ấy quay sang nhìn thẳng vào mắt ông ta và hỏi.
Một câu hỏi thật thẳng thắn. Dù mắt vẫn dán vào đĩa, cổ họng của mọi người đều ngưng hoạt động, đôi tai ngừng lắc lư, ai cũng đều chăm chú lắng nghe câu trả lời.
"Bốn tháng, cũng có thể là ba tháng nữa nếu mùa săn kết thúc sớm," Larsen Sói đáp.
Cô hít thở sâu rồi lắp bắp nói:
"Tôi.. tôi nghĩ.. tôi tưởng rằng rằng Yokohama chỉ còn cách một ngày thuyền. Nơi đó.." Nói đến đây thì cô ngừng lại, liếc nhìn quanh chiếc bàn nơi những khuôn mặt không biểu cảm vẫn đang nhìn chằm chằm vào đĩa.
"Thật vô lí," cô kết luận.
"Câu hỏi đó cô nên nói với anh Van Weyden đây," ông đáp, cúi đầu về phía tôi, mắt hấp háy tinh nghịch. "Cô có thể coi anh Van Weyden là người có uy quyền trong những lĩnh vực kiểu đó. Tôi chỉ là một thủy thủ, nên cách tôi nhìn nhận sự việc có chút khác biệt. Cô có lẽ đã không may khi phải ở chung với chúng tôi, nhưng đó lại là điều may mắn của chúng tôi." Ông nhìn cô mỉm cười. Cô cụp mắt trước ánh nhìn của ông ta, nhưng sau đó lại ngẩng lên bướng bỉnh nhìn tôi. Tôi đọc được câu hỏi không thành lời trong ánh mắt đó: Có đúng không? Nhưng tôi đã quyết đóng vai trung lập nên không trả lời.
"Anh nghĩ sao?" cô gặng hỏi.
"Thật không may," tôi nói, "đặc biệt là nếu cô đã kế hoạch về vài tháng tới. Nhưng cô nói cô đến Nhật vì lí do sức khỏe, nên tôi có thể đảm bảo với rằng không có nơi nào giúp cho cải thiện sức khỏe của cô nhiều hơn trên tàu Bóng Ma đâu."
Mắt cô lóe lên vẻ phẫn nộ, lần này đến lượt tôi cụp mắt, tôi cảm thấy mặt mình ửng đỏ dưới ánh nhìn của cô ấy. Thật hèn nhát, nhưng tôi còn biết làm gì đây?
"Đây là lời của kẻ có quyền, anh Van Weyden nhỉ." Larsen Sói cười.
Tôi gật đầu, và sau khi bình tĩnh lại, cô háo hức chờ đợi.
"Hiện giờ khó mà nói gì được," Larsen Sói tiếp lời: "Nhưng anh ta đã cải thiện nhiều lắm đấy. Cô nên gặp anh ta lúc mới lên tàu. Trông đến là khẳng khiu, tội nghiệp đến khó mà mường tượng được. Đúng không Kerfoot?"
Vì bị gọi đích danh nên Kerfoot sợ đến mức đánh rơi dao xuống sàn, tuy nhiên anh ta vẫn ậm ừ tỏ vẻ đồng ý.
"Đã cải thiện bản thân nhờ gọt vỏ khoai tây và rửa bát đĩa. Phải không Kerfoot?" Tiếng ậm ừ đó lại vang lên.
"Giờ hãy nhìn anh ta đi. Không lực lưỡng nhưng vẫn cơ bắp hơn thời mới đặt chân lên tàu. Hơn nữa, giờ anh ta đã có thể đứng vững. Nhìn anh ta bây giờ cô sẽ không nghĩ vậy, nhưng hồi đầu anh ta không thể đứng vững một mình được." Đám thợ săn cười khúc khích, riêng cô lại nhìn tôi đầy thông cảm, và chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ bù đắp những lời mỉa mai của Larsen Sói. Thật ra, đã lâu rồi tôi mới cảm thấy dịu lòng khi được đồng cảm, tới nỗi tôi nguyện ý làm nô lệ cho cô. Nhưng tôi rất bực tức với Larsen Sói. Ông đang thách thức dũng khí của tôi bằng những lời gièm pha, thách thức đôi chân mà ông ta tự cho là đã mang lại cho tôi.
"Có lẽ tôi vừa mới học được cách đứng trên đôi chân của mình," tôi vặn lại. "Nhưng tôi chưa từng dùng chân giẫm lên người khác."
Ông ta khinh bỉ nhìn tôi. "Anh chỉ mới hoàn thành phân nửa chương trình giáo dục thôi," ông cộc lốc đáp lời rồi quay sang cô. "Tàu Bóng Ma của chúng tôi rất hiếu khách. Anh Van Weyden đây cũng cảm thấy điều đó. Chúng tôi làm mọi thứ để giúp khách cảm thấy như ở nhà, đúng không anh Van Weyden?"
"Ngay cả khi phải lột vỏ khoai tây và rửa bát đĩa," tôi trả lời, "đó là còn chưa nói đến việc vặn cổ người khác một cách thân thiện."
"Tôi hi vọng cô đừng chỉ vì anh Van Weyden mà có ấn tượng sai lầm về chúng tôi," ông ta ngắt lời bằng cách giả vờ lo lắng. "Cô sẽ tự khám phá ra thôi cô Brewster, ông ta lúc nào cũng buộc dao găm trên dây nịt, một điều – e hèm –bất thường nhất mà chỉ huy tàu có thể làm. Dù rất đáng kính, nhưng đôi lúc anh Van Weyden có hơi.. tôi nên nói thế nào nhỉ? Ờm, hung hăng, nên cẩn trọng là tốt hơn. Lúc bình tĩnh anh ta khá lí trí và tử tế, như bây giờ ấy, có điều anh ta sẽ không phủ nhận mới hôm qua anh ta còn đe dọa mạng sống của tôi đâu."
Tôi suýt bị nghẹn, mắt trừng tóe lửa. Ông ta chuyển sự chú ý đến tôi.
"Nhìn anh ta đi. Anh ta còn không thể khống chế mình khi đang có mặt cô. Dù sao anh ta cũng không quen với sự hiện diện của phụ nữ. Tôi sẽ phải tự trang bị vài thứ vũ khí trước khi bước lên boong tàu cùng anh ta thôi." Ông lắc đầu buồn bã, lẩm bẩm, "Tệ quá, quá tệ," còn những tên thợ săn thì cười ha hả.
Chất giọng trầm từ biển cả của những người đàn ông này ầm ầm vang rung trong không gian chật hẹp tạo ra một hiệu ứng hoang dại. Khung cảnh đó thật dữ dội, và đó là lần đầu tiên tôi nhận thức được vai trò của mình trước người phụ nữ kì lạ trong môi trường xa lạ này. Tôi biết những người đàn ông này, biết được lối tư duy của họ, tôi cũng là một trong số họ, sống cuộc đời săn bắt hải cẩu, sử dụng những đồng tiền nhờ săn bắt hải cẩu, dồn suy nghĩ nhiều vào việc săn bắt hải cẩu. Tôi chẳng cảm thấy những bộ quần áo thô ráp, những khuôn mặt thô lỗ, tiếng cười ồn ào, những bức tường cabin lắc lư và những chiếc đèn biển đung đưa có gì kì lạ.
Tôi phết bơ lên một lát bánh mì và vô tình nhìn bàn tay mình. Các khớp ngón tay bị lột da và phồng lên thấy rõ, ngón tay sưng vù, viền móng tay sạm đen. Tôi cảm nhận được râu mọc trên cổ dày như lớp khăn quàng, tôi biết cánh tay áo khoác của tôi đã rách toạc và một chiếc nút trên cổ áo màu xanh dương mà tôi đang mặc đã biến mất. Chiếc dao găm Larsen Sói nhắc đến đang nằm trong vỏ dao trên hông tôi. Nó nằm ở đó rất tự nhiên – tự nhiên đến mức trước đó tôi chưa từng tưởng tượng mình thiếu nó được, nhưng khi tôi nhìn vào nó bằng đôi mắt của cô, tôi chợt hiểu nó và những điều liên quan đến nó dưới đôi mắt ấy đều hết sức kì lạ.
Cô đoán được thái độ nhạo báng trong lời nói của Larsen Sói, một lần nữa, cô lại dành cho tôi một ánh nhìn thông cảm. Nhưng trong ánh mắt đó còn có sự hoang mang. Thái độ nhạo báng kia khiến cô càng bối rối không hiểu tình hình nơi đây, "Nếu có tàu khác đi ngang qua. Có lẽ tôi sẽ chuyển sang đó," cô đề nghị.
"Không có tàu nào đi ngang qua đâu, trừ những tàu săn khác," Larsen Sói đáp lời.
"Tôi không có quần áo, tôi chẳng có gì hết," cô phản đối. "Thưa ông, hình như ông không nhận ra, tôi không phải đàn ông, tôi không quen với lối sống lang thang, bất cần mà ông và người của ông đang đeo đuổi."
"Cô nên làm quen với nó càng sớm càng tốt," ông nói. "Tôi sẽ cấp cho cô vải, kim và chỉ," ông nói thêm. "Tôi hi vọng việc tự may cho mình một hai cái váy không phải là điều gì quá khó khăn và khủng khiếp với cô." Miệng cô nhăn nhó khó chịu như để thể hiện cho mọi người hiểu rằng mình không biết may đồ. Đồng thời, thể hiện luôn cả nỗi sợ hãi, hoang mang mà cô dũng cảm nỗ lực che đậy ra trước mắt tôi.
"Tôi nghĩ cô cũng quen với việc được người khác hầu hạ như anh Van Weyden đây. Tôi nghĩ tự mình lao động cũng chẳng làm cô trật khớp xương đâu. Nhân tiện, cô làm nghề gì vậy?" Cô ném cho ông ta một cái nhìn kinh ngạc không hề giấu diếm.
"Tôi không có ý xúc phạm cô, xin hãy tin tôi. Ai cũng có nhu cầu ăn uống, vì thế họ làm ra thứ gì đó để đổi lấy đồ ăn. Những gã đàn ông này bắn hải cẩu để sống; tôi lái con tàu buồm này cũng vì lí do tương tự; còn anh Van Weyden đây có thể ở đây và được ăn uống là nhờ hỗ trợ tôi. Vậy còn cô, cô làm gì nào?" Cô nhún vai.
"Cô tự kiếm ăn hay phải chờ người khác dâng đến miệng vậy?"
"Tôi rất tiếc là hầu hết quãng đời này tôi đều được người khác nuôi sống," cô cười, lấy hết dũng khí để đối đáp câu hỏi của ông, nhưng tôi lại nhìn thấy nỗi sợ trong mắt cô ngày càng lớn khi nhìn Larsen Sói.
"Tôi đoán có người dọn giường cho cô luôn, đúng không?"
"Tôi tự dọn giường," cô đáp.
"Thường xuyên sao?" Cô lắc đầu ra vẻ buồn bã.
"Cô biết người ta làm gì với những người đàn ông nghèo ở Hoa Kì không biết tự mình kiếm tiền như cô không?"
"Tôi không biết," giọng cô van lơn. "Họ làm gì với những người đàn ông nghèo giống như tôi vậy?"
"Họ đưa chúng vào tù. Tội không tự mình kiếm sống, trong trường hợp này được gọi là tội lang thang. Nếu ra cũng hay lải nhải những câu hỏi về đúng và sai như anh Van Weyden đây, ra sẽ hỏi rằng, cô có quyền gì được sống nếu cô không làm bất cứ điều gì cho thấy mình xứng đáng được sống?"
"Nhưng ông không phải anh Van Weyden nên tôi không cần phải trả lời, đúng không nào?" Cô tươi cười dù trong đáy mắt tràn ngập sự sợ hãi, cảnh tượng bi thương này làm tôi rất đau lòng. Tôi thấy mình phải can thiệp và dẫn dắt cuộc đối thoại sang hướng khác.
"Cô đã từng kiếm được bất kì đô la bằng chính sức lao động của mình chưa?" Ông ta gặng hỏi bằng giọng không khoan nhượng đầy đắc thắng khi đã biết chắc câu trả lời.
"Có chứ," cô chậm rãi trả lời, bộ mặt ỉu xìu của ông ta chút nữa làm tôi cười phá lên. "Tôi nhớ lúc còn nhỏ cha tôi từng cho tôi một đô la vì tôi đã giữ im lặng trong năm phút."
Ông mỉm cười đầy thỏa mãn.
"Nhưng chuyện đó đã lâu rồi," cô tiếp tục. "Và hiếm khi có người lại yêu cầu một cô bé chín tuổi phải tự kiếm sống. Tuy nhiên, bây giờ," cô ngừng một chút rồi nói tiếp, "mỗi năm tôi kiếm được khoảng một ngàn tám trăm đô la." Đột nhiên mọi con mắt đều rời khỏi đĩa và nhất loạt nhìn cô ấy. Một phụ nữ kiếm được một ngàn tám trăm đô la mỗi năm thật sự rất đáng để chiêm ngưỡng. Larsen Sói không hề giấu giếm sự ngưỡng mộ.
"Tiền lương hay tiền trả theo sản phẩm?" Ông ta hỏi. "Trả theo sản phẩm," cô nhanh chóng trả lời.
"Một ngàn tám trăm," ông nhẩm tính. "Như vậy mỗi tháng cô kiếm được một trăm năm mươi đô la. Này cô Brewster, con tàu Bóng Ma không hề nhỏ đâu. Trong thời gian cô ở với chúng tôi thì hãy tự xem là mình đang được trả lương nhé." Cô chẳng hề đáp lại. Cô vẫn chưa quen với những ý tưởng bất chợt của ông nên chưa thể bình thản chấp nhận chúng.
"Tôi quên hỏi," ông nhẹ nhàng nói tiếp, "về bản chất công việc của cô. Cô tạo ra những mặt hàng gì? Cô cần những công cụ và nguyên liệu gì?"
"Giấy và mực," cô cười. "À! Còn có máy đánh chữ nữa."
"Cô chính là Maud Brewster," tôi cất tiếng, giọng chậm rãi và chắc nịch như thể đang buộc tội.
Cô ấy ngước lên nhìn tôi đầy tò mò.
"Sao ông biết?"
"Là cô phải không?" Tôi gặng hỏi.
Cô gật đầu thừa nhận thân phận của mình. Giờ thì đến lượt Larsen Sói bối rối. Cái tên và phép thuật của những cái tên không có ý nghĩa gì với ông. Nhưng tôi lại cảm thấy tự hào vì nó có ý nghĩa với tôi, và đây cũng là lần đầu tiên dù đang chán nản nhưng tôi lại có thể tự tin nhận ra rằng mình có điểm vượt trội hơn ông ta.
"Tôi nhớ mình từng viết bài bình luận về một cuốn nhỏ.." Tôi tùy ý bắt chuyện, bỗng nhiên cô ngắt lời tôi.
"Ông!" Cô kêu lên. "Ông là.." Lúc này cô ấy trợn tròn mắt nhìn tôi đầy kinh ngạc.
Đến lượt tôi gật đầu thừa nhận thân phận của mình.
"Humphrey Van Weyden," cô kết luận; sau đó tiếp lời cùng một tiếng thở phào nhẹ nhõm mà không biết rằng bản thân đã thoải mái nhìn Larsen Sói, "Tôi đã rất vui."
"Tôi vẫn nhớ bài bình luận đó," cô vội vã nói, sau đó chợt nhớ ra câu nhận xét không đầu không đuôi lúc nãy, "bài bình luận đó tâng bốc quá mức."
"Đâu có." Tôi quả quyết phủ nhận. "Cô đã hoài nghi khả năng đánh giá sáng suốt của tôi và khiến cho tác phẩm của tôi mất giá trị, hơn nữa, những người bạn phê bình của tôi đều đứng về phía tôi."
"Tôi chắc rằng anh rất tử tế," cô thì thầm; ngữ điệu và lời nói bình thường kết hợp lại gợi nhớ cho tôi về cuộc sống ngày xưa ở phía bên kia thế giới, khiến tôi thoáng rùng mình vì những kí ức và nỗi nhớ nhà sâu sắc.
"Cô là Maud Brewster," tôi nhìn cô ấy và nghiêm nghị nói.
"Còn anh là Humphrey Van Weyden," cô ấy nói, nhìn lại tôi với thái độ nghiêm nghị và ngạc nhiên.
"Thật kì lạ! Không thể hiểu nổi. Chúng tôi chắc chắn ngòi bút tỉnh táo của ông không thể viết ra những câu chuyện tình lãng mạn hoang dại trên biển."
"Tôi không phải đang đi thu thập tư liệu để viết đâu, tôi nói thật đấy," tôi trả lời. "Tôi không có năng khiếu và hứng thú với sáng tác tiểu thuyết."
"Vậy anh nói tôi nghe đi, tại sao anh lúc nào cũng chôn chân ở California vậy?" cô ấy lại hỏi.
"Điều đó không giống con người anh. Người phương Đông chúng tôi ít khi gặp được người như anh – thật ra là hầu như chưa từng gặp Trưởng Khoa văn ngữ Hoa Kì đệ nhị[1] ." Tôi cúi đầu và từ chối lời khen ngợi. "Suýt chút nữa tôi đã gặp anh ở Philadelphia, về sự kiện Browning hay gì đó mà anh tới đó thuyết trình đấy. Chuyến xe lửa của tôi trễ mất bốn giờ đồng hồ."
Và rồi chúng tôi quên mất mình đang ở đâu, chúng tôi bỏ rơi Larsen Sói, khiến ông im lặng trong suốt cuộc trò chuyện. Những người thợ săn rời bàn để lên boong tàu nhưng chúng tôi vẫn còn nói chuyện. Chỉ còn một mình Larsen Sói ở lại. Đột nhiên tôi nhớ đến ông và nhìn thấy ông ngả người khỏi bàn, tò mò lắng nghe cuộc nói chuyện kì quặc của chúng tôi về một thế giới mà ông chưa từng biết.
Tôi đột ngột im bặt. Hiện tại đầy hiểm nguy và lo lắng lại bủa vây lấy tôi bằng một sức mạnh khiến tôi choáng váng. Cô Brewster cũng cảm thấy như vậy, một nỗi sợ hãi không tên choán ngợp ánh mắt cô khi cô ấy nhìn Larsen Sói.
Ông đứng lên cười đầy gượng gạo. Tiếng cười nghe như tiếng kim loại.
"Ồ, đừng để ý đến tôi," ông vừa nói vừa vẫy tay một cách tự ti.
"Đừng quan tâm tôi. Cứ nói tiếp đi, tôi xin hai người đấy." Nhưng cánh cổng ngôn từ đã đóng chặt, chúng tôi đồng loạt đứng dậy khỏi bàn và lúng túng cười.
[1] Trưởng khoa Văn ngữ Hoa Kì tức William Dean Howells, tác gia có thật có ảnh hưởng lớn, có biệt danh The Dean of American Letters. Ông cũng là biên tập của tờ báo Đại Tây Dương được nhắc ở đầu truyện. Tác giả đang ví Humphrey Van Weyden là một ngài William Dean Howells thứ hai.