Bình Ngô đại cáo là gì? Ý nghĩa nhan đề Bình Ngô Đại Cáo

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Mẩu Tũn, 20 Tháng năm 2022.

  1. Mẩu Tũn

    Bài viết:
    310
    Bình Ngô đại cáo là gì? Giải thích nhan đề bình Ngô đại cáo

    Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện lịch sử quan trọng đánh dấu chủ quyền nước Đại Việt ta mà còn được coi là áng thiên cổ hùng văn. Trong đó thể hiện sâu sắc tư tưởng của Nguyễn Trãi - một danh nhân văn hóa thế giới đồng thời đó còn là niềm tự hào về những chiến tích vẻ vang của dân tộc.

    Tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở chương trình THCS và THPT. Đã bao giờ bạn tự hỏi: Vì sao Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo? Tại sao quân Minh được gọi là giặc Ngô? Nhan đề Bình Ngô đại cáo có ý nghĩa gì? Để hiểu thêm về tác phẩm mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới nhé.

    [​IMG]

    Bình ngô đại cáo là gì?

    Bình Ngô đại cáo (chữ Hán: 平吳大誥) là bài cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài Nam quốc Sơn Hà .

    Văn bản bình Ngô đại cáo

    [​IMG]

    Tác phẩm Đại cáo Bình Ngô - Nguyễn Trãi.​

    Phiên âm Hán Việt

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:

    Cái văn:

    Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

    Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.

    Duy ngã Đại Việt chi quốc,

    Thực vi văn hiến chi bang.

    Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

    Nam bắc chi phong tục diệc dị.

    Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, [1]

    Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.

    Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

    Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

    Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

    Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

    Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

    Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải. [2]

    Kê chư vãng cổ,

    Quyết hữu minh trưng.

    Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,

    Trí sử nhân tâm chi oán bạn.

    Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

    Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.

    Hân thương sinh ư ngược diệm,

    Hãm xích tử ư họa khanh.

    Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

    Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.

    Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;

    Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.

    Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

    Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.

    Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

    Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.

    Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

    Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

    Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

    Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

    Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

    Lư diêm chi trữ trục giai không.

    Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,

    Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

    Thần dân chi sở cộng phẫn,

    Thiên địa chi sở bất dung.

    Dư:

    Phấn tích Lam Sơn,

    Thê thân hoang dã.

    Niệm thế thù khởi khả cộng đái,

    Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

    Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,

    Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.

    Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

    Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

    Đồ hồi chi chí

    Ngộ mị bất vong.

    Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

    Chính tặc thế phương trương chi nhật.

    Nại dĩ:

    Nhân tài thu diệp,

    Tuấn kiệt thần tinh.

    Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,

    Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

    Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

    Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

    Nhiên kỳ:

    Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

    Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.

    Phẫn hung đồ chi vị diệt,

    Niệm quốc bộ chi tao truân.

    Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

    Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

    Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

    Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

    Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

    Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

    Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

    Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

    Tốt năng:

    Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

    Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.

    Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

    Trà Lân chi trúc phá khôi phi.

    Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

    Quân thanh dĩ chi đại chấn.

    Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

    Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

    Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

    Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

    Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

    Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

    Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

    Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

    Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

    Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

    Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

    Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

    Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

    Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

    Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,

    Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.

    Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

    Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.

    Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,

    Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.

    Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

    Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

    Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;

    Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.

    Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,

    Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

    Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

    Bỉ tự đảo qua tương công.

    Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

    Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

    Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,

    Thân mệnh trảo nha chi thần.

    Ẩm tượng nhi hà thủy càn,

    Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

    Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

    Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

    Quyết hội nghĩ ư băng đê,

    Chấn cương phong ư cảo diệp.

    Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

    Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.

    Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,

    Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.

    Phong vân vị chi biến sắc,

    Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

    Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

    Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

    Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;

    Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

    Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,

    Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.

    Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

    Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

    Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;

    Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.

    Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

    Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

    Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

    Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

    Xã tắc dĩ chi điện an,

    Sơn xuyên dĩ chi cải quán.

    Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

    Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

    Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

    Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.

    Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

    Ô hô!

    Nhất nhung đại định,

    Ngật thành vô cạnh chi công;

    Tứ hải vĩnh thanh,

    Đản bố duy tân chi cáo.

    Bá cáo hà nhĩ,

    Hàm sử văn tri.

    Dịch nghĩa (Bản dịch của Ngô Tất Tố)

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.

    Từng nghe:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

    Như nước Đại Việt ta từ trước

    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

    Núi sông bờ cõi đã chia

    Phong tục Bắc Nam cũng khác

    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

    Song hào kiệt thời nào cũng có.

    Cho nên:

    Lưu Cung tham công nên thất bại,

    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,

    Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô

    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

    Việc xưa xem xét,

    Chứng cớ còn ghi.

    Vừa rồi:

    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

    Để trong nước lòng dân oán hận.

    Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,

    Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

    Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

    Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

    Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

    Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,

    Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

    Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.

    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;

    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

    Nặng nề những nổi phu phen,

    Tan tác cả nghề canh cửi.

    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

    Lẽ nào trời đất dung tha,

    Ai bảo thần dân chịu được?

    Ta đây:

    Núi Lam sơn dấy nghĩa

    Chốn hoang dã nương mình

    Ngẫm thù lớn há đội trời chung

    Căm giặc nước thề không cùng sống

    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

    Chính lúc quân thù đang mạnh.

    Lại ngặt vì:

    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

    Nhân tài như lá mùa thu,

    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,

    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

    Thế mà:

    Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.

    Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

    Phần vì giận quân thù ngang dọc,

    Phần vì lo vận nước khó khăn,

    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

    Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

    Ta gắng trí khắc phục gian nan.

    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

    Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

    Â₫



    Trọn hay:

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

    Lấy chí nhân để thay cường bạo.

    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

    Sĩ khí đã hăng

    Quân thanh càng mạnh.

    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

    Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

    Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

    Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

    Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu

    Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy

    Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.

    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,

    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.

    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ

    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.

    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

    Bởi thế:

    Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không n, gừng

    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

    Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

    Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong

    Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực

    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá

    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

    Lại thêm quân bốn mặt vây thành

    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc

    Sĩ tốt kén người hùng hổ

    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

    Voi uống nước, nước sông phải cạn.

    Đánh một trận, sạch không kình ngạc

    Đánh hai trận tan tác chim muông.

    Cơn gió to trút sạch lá khô,

    Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

    Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

    Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

    Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

    Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!

    Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

    Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

    Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

    Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

    Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

    Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng

    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

    Chẳng những mưu kế kì diệu

    Cũng là chưa thấy xưa nay

    Xã tắc từ đây vững bền

    Giang sơn từ đây đổi mới

    Càn khôn bĩ rồi lại thái

    Nhật nguyệt hối rồi lại minh

    Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

    Muôn thuở nền thái bình vững chắc

    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

    Than ôi!

    Một cỗ nhung y chiến thắng,

    Nên công oanh liệt ngàn năm

    Bốn phương biển cả thanh bình,

    Ban chiếu duy tân khắp chốn.

    Xa gần bá cáo,

    Ai nấy đều hay.

    Tại sao gọi là bình Ngô đại cáo mà không phải là bình Minh đại cáo?

    Mùa xuân 1428, sau khi cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi. Nguyễn Trãi đã viết "Bình Ngô đại cáo", áng thiên cổ hùng văn tuyên cáo kết thúc cuộc chiến chống ách đô hộ phương Bắc thắng lợi, giành lại độc lập cho Đại Việt. Cho đến nay có nhiều ý kiến thắc mắc tại sao lại là "Bình Ngô đại cáo" mà không phải là "Bình Minh đại cáo"? Có người cho rằng vì người Việt ta từ xưa, luôn gọi bọn xâm lược phương Bắc là giặc Ngô, nên Nguyễn Trãi đã viết bài cáo của mình với nhan đề là Bình Ngô. Theo lịch sử ghi lại thì Minh Thái Tổ tức Chu Nguyên Chương người khai nghiệp nhà Minh, thuở chưa xưng đế đã có lúc tự xưng là Ngô quốc công, rồi được tấn phong là Ngô vương. Vậy khi nói đến tiếng Ngô là đã nói đến nhà Minh.

    Hơn nữa về đối ngoại nước ta là nước nhỏ, Trung Quốc là một nước lớn nếu ta nói thẳng "Bình Minh đại cáo" thì sẽ làm mất mặt nước lớn có khả năng sẽ xảy ra chiến tranh không cần thiết. Cũng như Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh trong tập "Đường kách mệnh" tại sao không gọi là "đường cách mạng". Đó chính là cái tâm, cái tầm và cái tài của những nhà tư tưởng văn hóa lớn của dân tộc.

    Ý nghĩa nhan đề bình Ngô đại cáo

    Nhan đề có ý nghĩa sau:

    - Đại: Lớn.

    - Cáo: Báo cáo.

    - Bình: Dẹp yên giặc, bình định xong.

    - Ngô: Giặc Ngô (Nhà Minh Trung Quốc).

    Vậy ta có thể hiểu Đại cáo bình Ngô là bản cáo lớn gửi đến quốc dân đồng bào về chiến thắng oanh liệt của quân dân ta đánh tan quân Ngô (Giặc Minh). Bài cáo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi thay mặt vua Lê Thái Tổ soạn thảo trình bày sự gian khổ của 10 năm kháng chiến và tổng kết thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh. Đây được xem là văn kiện lịch sử quan trọng, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt.

    Tư tưởng bao trùm xuyên suốt bài cáo là gì?

    Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân là tư tưởng bao trùm và xuyên suốt bài cáo.

    Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là phải giữ "yên dân'. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải" trừ bạo "là từ những kẻ sách nhiễu dân.

    Giá trị nội dung, nghệ thuật bài bình Ngô đại cáo

    - Giá trị nội dung


    + Bình Ngô đại cáo là bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại, nêu cao lòng tự hào, niềm hân hoan vô hạn trước thắng lợi của chính nghĩa, ca ngợi tài năng lãnh đạo cà khí phách hào hùng của dân tộc.

    +Đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.

    + Được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai sau Nam quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt.

    -Giá trị nghệ thuật

    +" Bình Ngô đại cáo "của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố trữ tình.

    +Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: Liệt kể, phóng đại, so sánh, đối lập..

    Các đề văn về bình Ngô đại cáo.

    - Dạng đọc hiểu

    Đọc văn bản sau:

    1) Sông núi nước Nam, vua Nam ở

    Rành rành định phận tại sách trời

    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

    (Sông núi nước Nam, SGK, Ngữ văn 7)

    (2)" Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. "

    Như nước Đại Việt ta từ trước,

    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

    Núi, sông bờ cõi đã chia,

    Phong tục Bắc Nam cũng khác.

    Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.

    Song hào kiệt đời nào cũng có."

    (Đại cáo Bình Ngô – Nguyễn Trãi , Ngữ văn 10, Tập hai, tr. 17- NXB Giáo dục, 2006)

    Thực hiện các yêu cầu sau:

    Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản (2)

    Câu 2: Giải thích ý nghĩa các từ: Nhân nghĩa, yên dân, trừ bạo trong văn bản (2)

    Câu 3: Xác định điểm giống nhau và khác nhau trong nội dung khẳng định lời Tuyên ngôn độc lập của 2 văn bản trên?

    Câu 4: Từ 2 văn bản, viết một văn ngắn (5 đến 7 dòng) trình bày suy nghĩ của em về ý thức bảo vệ tổ quốc của tuổi trẻ trong giai đoạn hiện nay.

    - Dạng viết bài văn.

    Đề 1: Phân tích tác phẩm Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi

    Đề 2: Chứng minh rằng: "Bình Ngô đại cáo" là áng thiên cổ hùng văn.

    Đề 3: Chứng minh rằng: Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập.

    Đề 4: Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong bài Đại cáo Bình Ngô- Nguyễn Trãi.

    Đề 5: Phân tích nghệ thuật lập luận trong "Bình Ngô đại cáo" Nguyễn Trãi.
     
    Chỉnh sửa cuối: 25 Tháng năm 2022
  2. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,908
    Cô: Nhan đề "Bình Ngô đại cáo" có nghĩa là gì?

    Trò 1: Em không biết.

    Cô: Bình là gì? Ngô là gì? Đại và cáo nghĩa Hán Việt là gì?

    Trò 2, 3, 4: Bình là bình luận, bình là bình yên; Ngô là tướng giặc họ Ngô; Đại là vĩ đại; Cáo là tố cáo tội ác.

    Cô: Em ghép nghĩa lại xem?

    Trò đứng trơ như đá; cô cũng đóng băng luôn. Có khi nào các cháu hiểu là: Tố cáo sự bình yên của tướng giặc Ngô vĩ đại? Ặc ặc..
     
    Chỉnh sửa cuối: 12 Tháng hai 2023
  3. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Theo mình hiểu thì từ Cáo ở đây có lẽ là Cáo trong từ Cáo thị thì đúng hơn là Báo cáo ^^

    Vì báo cáo là thường sử dụng trong trường hợp báo cáo tình hình với cấp trên, tình hình nội bộ, có những điều không thể cho người ngoài biết được, còn cáo thị thì từ thị có nghĩa là cho biết, cáo thị là phổ biến cho dân chúng biết.
     
  4. Mẩu Tũn

    Bài viết:
    310
    Cảm ơn anh đã góp ý, một phát hiện khá lí thú ạ. Ngày xưa khi xem phim Trung Quốc, e thấy khi muốn thông báo một việc gì đó, vua chúa thường ra lệnh cho lính đi dán cáo thị để người dân được biết, lúc đó người dân sẽ phải nhìn, xem và đọc cáo thị để biết nội dung. Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2, nên khi xem xét lại trong trường hợp này theo em nên dùng "tuyên cáo" hoặc "bố cáo" thì hợp lý hơn ạ.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...