1. Thể hiện qua niềm tự hào sâu sắc về đất nước, về dân tộc - Nguyễn Trãi đã nêu lên chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt từ thực tiễn lịch sử: "Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác" Xuất phát từ lòng yêu nước, Nguyễn Trãi tuyên bố rằng nước Đại Việt ta có nền văn hiến độc lập, bờ cõi đất nước phân chia rõ ràng. Nước ta đã trải qua một khoảng thời gian thăng trầm và biến cố để dựng nước và giữ nước, để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nếu như trong "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt, ý thức dân tộc được xác định chủ yếu trên hai yếu tố: Lãnh thổ và chủ quyền thì đến Bình Ngô đại cáo, ba yếu tố nữa được bổ sung: Văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử. Sâu sắc vì quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được "văn hiến" là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. So với chúng ta ngày nay, học thuyết đó rất gần gũi và vẫn còn giá trị thời sự. - Khi nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Đại Việt, để tăng thêm sức thuyết phục, Nguyễn Trãi còn dùng phép so sánh, đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc: "Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có." Không còn là sự khẳng định mông lung về bờ cõi trong "thiên thư" như cách nói của Lý Thường Kiệt nữa mà dẫn chứng được đưa ra rõ ràng để khẳng định nước ta là một nước có nền độc lập tự chủ từ lâu đời. Đây là tầm cao trong tư tưởng Nguyễn Trãi. Không chỉ vậy, tinh thần yêu nước còn thể hiện rõ nét thông qua việc tác giả khẳng định nước ta "hào kiệt đời nào cũng có" và nêu ra một loạt hệ quả tất yếu mà giặc ngoại xâm tự chuốc lấy khi xâm lược nước ta "Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã". 2. Thể hiện qua việc vạch trần những âm mưu đê hèn và tội ác cùng cực của giặc Minh - Nguyễn Trãi dùng lời lẽ đanh thép để lên án tố cáo âm mưu cướp nước, vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hồ" của nhà Minh: "Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa, Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh." - Bên cạnh việc vạch rõ bộ mặt thật của nhà Minh, Nguyễn Trãi còn lên án kịch liệt những chủ trương cai trị phản nhân đạo, những tội ác không thể dung thứ của giặc Minh: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ." Đứng trên lập trường nhân bản, Nguyễn Trãi đã tố cáo chủ trương cai trị thâm độc, hành động diệt chủng đầy man rợ của giặc Minh. Tội ác kinh hoàng của giặc Minh đã được sử ghi chép lại: Rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người lấy dầu, phanh thây phụ nữ có thai.. nay được Nguyễn Trãi khái quát lại bằng hai hình tượng "nướng dân đen", "vùi con đỏ". Chí căm hờn của Nguyễn Trãi càng nung nấu sôi sục hơn bởi lũ ngoại ban vơ vét tài nguyên đất nước, bắt đóng thuế khóa nặng nề, bắt dân ta làm chuyện nguy hiểm đến tính mạng, coi mạng sống dân ta thật khác nào cỏ cây: "Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc." Hơn thế chúng còn ra tay hủy hoại môi trường sống của người dân. Người dân vô tội phải sống trong cảnh lầm than, chịu đựng bao nhiêu khổ sở, cái chết đang chờ họ trong chính con sông và cánh rừng của quê hương, đất nước "chốn chốn lưới giăng", "nơi nơi cạm đặt". Tác giả còn sử dụng nghệ thuật tương phản để khắc họ rõ hơn sự tàn độc của quân Minh: Dân ta thì nheo nhóc, góa bụa, phải lao động phục dịch vất vả còn quân thù thì "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán". Tất cả tội ác tột cùng của giặc Minh được tổng kết bằng hai câu thơ: "Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay nước Nam Hải không rửa sạch mùi" Có thể nói, chính quyền sống của người dân trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ để tác giả viết nên bản cáo trạng đầy đanh thép và thống thiết. Bằng giọng điệu lúc đau đớn, xót xa, lúc lại ngập tràn căm thù sâu sắc và kết hợp với một loạt các hình ảnh mang giá trị biểu cảm, diễn tả sự vô cùng tận, không thể đong đếm qua điển cố "nước Đông Hải", "trúc Nam Sơn" đã bộc lộ tội ác tày đình của cùng tấm lòng yêu nước, thương dân vô hạn của Nguyễn Trãi. 3. Thể hiện qua niềm hứng khởi dạt dào ca ngợi những chiến công - Tinh thần yêu nước còn được bộc lộ rất rõ trong quá trình tác giả thuật lại cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, đầy vất vả mà cũng lắm vẻ vang. Giai đoạn đầu đầy cuộc khởi nghĩa bắt đầu với đầy khó khăn và thách thức. Trước hết, Nguyễn Trãi ca ngợi chủ soái của nghĩa quân- người anh hùng tiêu biểu nhất cho tinh thần yêu nước của cả dân tộc, đại diện cho ý chí quyết tâm dẹp giặc ngoại xâm, là niềm tự hào, hy vọng của cả một dân tộc đang lầm than. Chúng ta có thể thấy rằng tác giả đã thông qua việc bộc lộ vẻ đẹp của Lê Lợi để khéo léo thể hiện tinh thần yêu nước chung của nhân dân Đại Việt: "Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.." Lê Lợi có nguồn gốc xuất thân bình thường nhưng lại nung nấu niềm căm hận giặc sâu sắc. Ông có hoài bão lớn và quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng của mình. Ở giai đoạn đầu, phía quân thù đang mạnh, "hung đồ ngang dọc", thả sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế, còn phía ta thì "Tuấn kiệt như sao buổi sáng. Nhân tài như lá mùa thu". Thế nhưng với sự nhiệt huyết cùng lòng yêu nước nồng nàn, Lê Lợi cùng nghĩa quân đã vượt qua vô vàn khó khăn gian khổ: Thiếu nhân tài, thiếu quân, thiếu lương để đi đến tổng phản công dành thắng lợi. Khắc họa hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật ý chí sắt đá và hoài bão cao đẹp của người anh hùng áo vải. - Tinh thần yêu nước còn thể hiện ấn tượng và rõ nét hơn cả phải kể đến quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy anh dũng, kiên cường của dân tộc ta. Đó là biểu hiện rõ nét nhất, mạnh mẽ nhất cho lòng tự tôn dân tộc, quyết tâm bảo vệ mảnh đất quê hương bằng mọi giá. Cuộc khởi nghĩa đã đi từ những ngày thiếu thốn, khó khăn gian khổ nhất, vừa thiếu hụt người tài ra giúp nước, lực lượng quân đội còn non yếu, lương thực khan hiếm, trái lại quân thù thì người đông thế mạnh. Thế nhưng nghĩa quân Lam Sơn chưa từng vì điều đó mà trở nên kiệt quệ, hao mòn ý chí, ngược lại chính trong gian nan, khắc khổ và sự căm thù giặc sâu sắc thì ngọn lửa yêu nước lại càng được thổi bùng lên bất diệt, trở thành sức mạnh không kẻ thù nào chống lại được. Từ tinh thần yêu nước của quân dân đã hình thành nên sự đoàn kết, thống nhất trong nghĩa quân "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới. Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào". Hình ảnh vừa hào hùng vừa pha chút lãng mạn, thể hiện sự hòa thành một khối và tinh thần bền bỉ chiến đấu, không bị khuất phục của nhân dân ta. - Tinh thần yêu nước còn là niềm tự hào mãnh liệt của Nguyễn Trãi khi nhắc đến những chiến công oanh liệt của dân tộc ta. Trong những cuộc chiến ác liệt, tinh thần yêu nước được thể thông qua sự dũng mãnh, xông pha giết giặc của các tướng sĩ "Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật. Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay", "Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm. Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.".. Sĩ khí dâng cao, khi kẻ địch tiếp tục mang quân chi viện, ta lại mau chóng "chặt mũi tiên phong", "tuyệt nguồn lương thực", quân ta thừa thắng xông lên khiến giặc trở tay không kịp "trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế", "trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu", Lương Minh tử vong, Bá Khánh cùng kế phải tự vẫn.. Hình tượng kẻ thù thảm hại, nhục nhã tìm đường tháo chạy càng làm tôn thêm khí thế hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Phải nói rằng nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng vô cùng vang dội, khiến kẻ thù nghe tiếng mà sợ hãi khôn cùng. Sự hòa quyện giữa hình tượng, âm thanh, nhạc điệu đã tái hiện lại một cách chân thật bức tranh chiến trận hào hùng và quá trình tổng phản công thắng lợi của cuộc khởi nghĩa: "Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông." Một Đại Việt nhỏ bé cả về lãnh thổ lẫn quân đội, nhưng lại có thể chiến thắng vẻ vang như thế càng chứng minh được tinh thần yêu nước sâu sắc đã thành truyền thống từ bao đời nay cùng với tinh thần đoàn kết một lòng quyết tâm chống giặc. Kết thúc trận chiến, chúng ta đã không chọn cách đuổi cùng diệt tận mà lại "Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh", "Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa". Đó cũng là một biểu hiện rất tinh tế của lòng yêu nước, bởi đất nước ta bấy lâu bị tàn phá nặng nề, việc cần làm là khôi phục nguyên khí của quốc gia, chứ không phải theo đuổi cuộc chiến, gây thù hằn sâu sắc với giặc Minh. Việc mở đường hiếu sinh cho chúng trở thành một hành động nhân văn bảo vệ đất nước, nhân dân khiến nhà Minh tạm thời không dám manh động, lại làm việc bất nghĩa, để quân dân ta được nghỉ sức xây dựng lại đất nước. Đấy mới là tinh thần yêu nước chân chính. 4. Thể hiện qua lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền của dân tộc Cuối cùng trong phần kết của bài cáo, tinh thần yêu nước lần nữa được khẳng định thông qua việc Nguyễn Trãi tuyên bố nền độc lập chủ quyền của dân tộc bằng giọng văn hùng hồn, sắc sảo, kiêu hãnh: "Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm" Cuộc chiến kết thúc, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, khai sinh ra một triều đại thịnh trị lâu dài. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cũng không quên rút ra những bài học cho hậu thế về sau, thể hiện sự chu toàn, cũng như tấm lòng lo nghĩ cho muôn dân. Tác giả đã khẳng định quy luật tuần hoàn bất biến của lịch sử, của trời đất "Càn khôn bĩ rồi lại thái. Nhật nguyệt hối rồi lại minh" nhưng ông tin tưởng vào vận mệnh và sức mạnh của dân tộc có thể xoay chuyển càn khôn. Viễn cảnh của đất nước mở ra trước mắt thật tươi sáng, huy hoàng, giống như Nguyễn Trãi luôn mong ước "Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng. Dân giàu đủ khắp đoài phương." Bên cạnh đó, tác giả còn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với truyền thống ngàn đời của dân tộc "Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ" và sức mạnh của quân dân "Một cỗ nhung y chiến thắng. Nên công oanh liệt ngàn năm". Hai câu kết của Bản Tuyên ngôn nhắc mọi người tự hào về quá khứ, yêu thêm hiện tại và hướng đến tương lai, mở ra một kỉ nguyên huy hoàng xây dựng đất nước đẹp tươi và bền vững. Để vận nước được lâu bền, ta phải lấy nhân dân làm gốc, lấy tư tưởng nhân nghĩa làm đầu, phải tuân theo "thiên mệnh", ghi nhớ công lao của cha ông đã hy sinh cho Tổ quốc, đừng vì sống trong cảnh thanh bình mà quên mất những ngày gian khó.