Đông Chu Liệt Quốc - Phùng Mộng Long

Discussion in 'Văn Học' started by Phan Kim Tiên, Dec 9, 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 59 Tư Đồng cậy thế Tấn Lệ công Triệu Vũ báo thù Đồ Ngạn Giả

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quan trung quân nguyên soái nước Sở là công tử Trắc, vốn là người nghiện rượu, mỗi lần uống kể hàng trăm bầu không thôi, mỗi lần say kể hàng suốt ngày không tỉnh. Sở Cung Vương vẫn biết như vậy, trong khi đi trận thường nghiêm cấm công tử Trắc uống rượu. Bấy giờ Tấn và Sở gây việc tranh chiến, công tử Trắc đang làm trung quân nguyên soái, không dám uống một hớp rượu nào cả. Khi Sở Cung Vương bị mũi tên trở về vừa thẹn vừa giận, công tử Trắc nói với Sở Cung Vương rằng: - Nay quân hai bên đều đã mỏi mệt, ngày mai đại vương hãy cho đình chiến một hôm, để tôi xin nghĩ kỹ mưu kế mà báo thù lại nước Tấn. Công tử Trắc về dinh, ngồi đến nửa đêm, chưa nghĩ được mưu kế gì. Có một tên người nhà là Cốc Dương, vốn là đầy tớ thân cận của công tử Trắc, trông thấy công tử Trắc lo nghĩ buồn rầu, nhân có giấu được ba lọ rượu thật ngon, liền hâm một lọ, đem dâng công tử Trắc. Công tử Trắc cầm ngửi chén rượu, ngạc nhiên hỏi rằng: - Rượu à! Cốc Dương dẫu biết là công tử Trắc muốn uống, nhưng sợ người xung quanh lộ chuyện ra ngoài, mới giả cách nói: - Không phải rượu, đây là nước tiêu thang đó! Công tử Trắc hiểu ý, uống một hơi hết ngay. Vị ngọt hương thơm, không biết thế nào mà kể! Uống xong lại hỏi: - Còn nước tiêu thang không? Cốc Dương nói: - Bẩm còn! Cốc Dương lại rót một chén đầy dâng. Công tử Trắc lâu ngày thèm rượu quá, cứ gọi Cốc Dương lấy nước tiêu thang mãi. Rót xong liền uống, uống xong lại gọi, thành ra uống nhiều quá, say lử người ra, rồi nằm phục trên chiếu mà ngủ. Sở Cung Vương nghe tin quân Tấn định đến ngày hôm sau thì giao chiến mà quân Lỗ và quân Vệ cũng đến đánh giúp vội vàng sai nội thị đi triệu công tử Trắc để thương nghị mưu kế. Ai ngờ công tử Trắc đã bị ma men làm cho mê mẩn, say tít cung thang, gọi cũng chẳng thưa, lôi cũng chẳng dậy, chỉ ngửi thấy mùi rượu nồng nực cả lên. Nội thị vào tâu với Sở Cung Vương. Sở Cung Vương lại sai người gọi, cả thẩy đến mười tin luôn, nhưng càng gọi gấp bao nhiêu thì công tử Trắc lại càng ngủ lỳ bấy nhiêu. Cốc Dương thấy vậy, khóc mà nói rằng: - Ta yêu nguyên soái mà dâng rượu, ai ngờ thành ra hại nguyên soái! Nay đại vương biết thì tính mệnh ta cũng khó mà toàn vẹn được, chi bằng ta trốn đi. Sở Cung Vương thấy công tử Trắc không đến, không biết làm thế nào, mới phải sai người triệu công tử Anh Tề. Công tử Anh Tề vốn phản đối công tử Trắc, liền tâu Sở Cung Vương rằng: - Tôi đã biết là quân Tấn mạnh thế lắm, không thể đánh được, vậy nên lúc trước vẫn không muốn cứu Trịnh. Việc này đều tại quan tư mã (trỏ công tử Trắc) cả, nay quan tư mã tham chén quá say, tôi cũng không biết mưu kế gì cho được, chi bằng đêm hôm nay rút quân về, để tránh khỏi những sự thảm nhục. Sở Cung Vương nói: - Đã đành rằng thế, nhưng nay quan tư mã say rượu quá, tất bị quân Tấn bắt được, chẳng nhục quốc thể lắm ru! Sở Cung Vương gọi Dưỡng Do Cơ vào và bảo rằng: - Ta giao cho nhà ngươi phải ủng hộ quan tư mã về nước. Nói xong, hạ lệnh rút quân. Trịnh Thành công đem quân đi tiễn ra khỏi địa giới. Chỉ còn Dưỡng Do Cơ ở lại sau. Dưỡng Do Cơ nghĩ thầm: Bây giờ đợi cho quan tư mã tỉnh rượu thì biết đến bao giờ! Dưỡng Do Cơ sai người vực công tử Trắc dậy, đem một cái dây da trói lại, rồi để lên xe, cho theo toán quân đi trước, còn mình thì cùng với ba trăm quân cung tên, thong thả đi sau. Sáng hôm sau, quân Tấn mở cửa dinh ra để giao chiến, kéo thẳng đến dinh quân Sở, chẳng thấy một người nào cả, biết là quân Sở đã trốn đi rồi. Loan Thư toan đem quân đuổi theo. Sĩ Nhiếp cố ý can. Loan Thư lại nghe báo khắp địa giới nước Trịnh, chỗ nào cũng có quân phòng thủ, biết là thế không làm gì nổi, mới truyền rút quân trở về nước Tấn. Quân Lỗ và quân Vệ đều về nước cả. Công tử Trắc đi được năm mươi dặm đường, dần dần tỉnh rượu, thấy tay chân đều vướng bận, mới kêu ầm lên rằng: - Ô hay! Ai trói ta thế này? Quân sĩ nói: - Quan tư mã say rượu quá, Dưỡng tướng quân (tức là Dưỡng Do Cơ) sợ đi xe không vững, vậy nên phải làm như thế. Nói xong, liền cởi trói cho công tử Trắc. Công tử Trắc hai mắt hãy còn hoa mờ cả lên, ngoảnh lại hỏi quân sĩ rằng: - Xe ngựa ta đi đâu thế này? Quân sĩ nói: - Đường về nước ta đó! Công tử Trắc lại hỏi: - Tại sao lại về? Quân sĩ nói: - Đêm qua đại vương mấy lần ra triệu quan tư mã, vì quan tư mã say rượu quá, vậy nên đại vương sợ quân Tấn đến đánh, không có ai chống lại nổi, đã phải rút quân trở về. Công tử Trắc khóe mà nói rằng: - Cốc Dương làm hại ta rồi! Công tử Trắc truyền gọi Cốc Dương thì ra Cốc Dương đã trốn đi đâu mất. Sở Cung Vương đi khỏi hai trăm dặm, mới được yên lòng. Lại sợ công tử Trắc lo tội mà tự tử, mới sai người truyền bảo rằng: - Ngày Tử Ngọc (tên tự Thành Đắc Thần) thua trận mà bị tội, là vì khi bấy giờ tiên quân ta không đi; nay ta thân hành đem quân đi thì tội tại ta, không dự gì đến quan tư mã. Công tử Anh Tề muốn cho công tử Trắc tự tử mà chết, sai người nói với công tử Trắc rằng: - Việc Tử Ngọc ngày xưa thua trận mà tự tử, hẳn quan tư mã cũng đã biết; giả sử đại vương không trị tội, quan tư mã còn mặt mũi nào mà nhìn quân sĩ ngày nay! Công tử Trắc nghe nói, thở dài mà than rằng: - Quan lệnh doãn (tức là công tử Anh Tề) trách ta thế là phải lắm, có lẽ nào ta lại dám tham sống làm gì! Nói xong, công tử Trắc tự thắt cổ mà chết. Sở Cung Vương thương tiếc, không biết thế nào mà kể! Tấn Lệ công thắng được quân Sở, tự lấy làm thiên hạ vô địch, càng có ý kiêu ngạo lắm. Sĩ Nhiếp biết là thế nào nước Tấn cũng loạn, đem lòng lo nghĩ, thành ra ốm nặng, liền sai quan thái chúc cúng thần, để khấn xin cho được chóng chết. Chưa được bao lâu thì Sĩ Nhiếp chết. Bấy giờ Tư Đồng là người khéo nịnh hót, Tấn Lệ công có lòng tin yêu, muốn cho làm quan khanh, nhưng ngặt vì một nỗi chức quan khanh không khuyết. Tư Đồng mới tâu với Tấn Lệ công rằng: - Nay ba họ Khước đều giữ binh quyền, vây cánh to lắm, làm nhiều điều trái phép, chỉ sợ sau này lại sinh lòng phản nghịch, ta nên trừ trước đi; nếu trừ được họ Khước thì chức quan khanh khuyết nhiều, bấy giờ tùy ý chúa công, yêu ai thì cho người ấy. Tấn Lệ công nói: - Họ Khước chưa có sự gì phản nghịch cả, mà ta giết đi thì e rằng các quan triều thần không ai chịu phục. Tư Đồng lại tâu rằng: - Trận đánh ở Yên Lăng, Khước Chí đã vây vua Trịnh, mà cùng vua Trịnh tư ước, rồi tha cho đi, xem thế thì biết là tất có tư thông với Sở. Chúa công nên gọi Hùng Phiệt (con Sở Cung Vương bị quân Tấn bắt được) vào mà hỏi thì tự khắc biết rõ sự thực. Tấn Lệ công sai Tư Đồng đi gọi Hùng Phiệt. Tư Đồng bảo Hùng Phiệt rằng: - Công tử có muốn về nước Sở không? Hùng Phiệt nói: - Tôi muốn về lắm, nhưng làm thế nào mà về được? Tư Đồng nói: - Công tử nghe ta điều này thì ta sẽ xin cho công tử được về. Hùng Phiệt nói: - Ngài bảo gì, tôi xin vâng mệnh! Tư Đồng liền ghé tai xui Hùng Phiệt, khi vào yết kiến Tấn Lệ công thì nói vu tội cho Khước Chí. Khi Hùng Phiệt vào yết kiến, Tấn Lệ công đuổi hết người xung quanh đi, rồi hỏi Hùng Phiệt rằng: - Khước Chí có tư thông với nước Sở ngươi hay không? Nhà ngươi nên nói thật thì ta sẽ cho nhà ngươi về nước. Hùng Phiệt tâu rằng: - Chúa công có tha tội thì tôi mới dám nói. Tấn Lệ công nói: - Ta đang muốn cho nhà ngươi nói thật, khi nào lại còn bắt tội! Hùng Phiệt nói: - Khước Chí cùng công tử Anh Tề nước tôi, hai người chơi thân với nhau, vẫn có thư tín đi lại, nói: "Nhà vua không tin quan đại thần, ngày đêm chơi bời, khiến cho nhân dân đều oán, không đáng làm vua; hiện nay ai cũng nhớ đến vua Tương công ngày xưa. Vua Tương công có người cháu tên là Chu, nếu quân Tấn thua trận thì ta sẽ lập Chu lên làm vua mà thần phục nước Sở". Tôi chỉ biết có một việc ấy, còn việc gì khác, thật quả tôi không được biết. Hùng Phiệt nói chưa dứt lời thì Tư Đồng lại tâu rằng: - Thảo nào mà trận đánh nhau ở Yên Lăng ngày trước, Khước Thù cùng công tử Anh Tề đối trận mà không bắn một phát tên nào, đủ biết là có ý tư thông với nước Sở. Xem thế thì việc Khước Chí tha vua Trịnh, còn ngờ gì nữa! Nếu chúa công chưa tin thì nên sai Khước Chí sang nhà Chu hiến tiệp, rồi cho người đi rình, tất nhiên thế nào Khước Chí cũng tư thông với Công tôn Chu để cùng nhau thương nghị. Tấn Lệ công khen phải, liền sai Khước Chí sang nhà Chu hiến tiệp. Tư Đồng mật sai người bảo Công tôn Chu rằng: - Quyền chính nước Tấn, một nửa ở tay họ Khước, nay Khước Chí sang hiến tiệp, công tôn nên nhân tiện cùng với Khước Chí giao kết thì sau này công tôn về nước, có phải cũng được thêm vây cánh hay không? Công tôn Chu lấy làm phải, khi Khước Chí đến, Công tôn Chu vào yết kiến, rồi hỏi thăm những công việc nước nhà, Khước Chí đều bảo thật tất cả. Hai người cùng nhau thương nghị trong nửa ngày trời. Tấn Lệ công sai người rình biết sự thể như vậy, liền cho lời nói Hùng Phiệt là thật, mới có ý muốn trừ đảng họ Khước. Một hôm, Tấn Lệ công cùng với cung nữ uống rượu, sai người nội thị là Mạnh Chương đi mua thịt hươu gấp lắm, để vội về làm tiệc. Bấy giờ trong chợ hết cả thịt hươu, lại vừa gặp Khước Chí đi săn về qua đến chợ, trên xe có mang theo một con hươu. Mạnh Chương chẳng hỏi gì cả, lấy ngay con hươu ấy đem đi. Khước Chí giận lắm, giương cung bắn chết Mạnh Chương, rồi lấy lại con hươu. Tấn Lệ công nghe tin nổi giận nói rằng: - Khước Chí khinh ta quá lắm! Nói xong, liền triệu bọn Tư Đồng, Di Dương Ngũ và Trường Ngư Kiểu đến bàn việc giết Khước Chí. Tư Đồng nói: - Ta giết Khước Chí thì Khước Kỳ và Khước Thù tất làm phản, chi bằng ta trừ cả đi. Di Dương Ngũ nói: - Đêm hôm nay ta nhân lúc bất ngờ, phụng mệnh chúa công đem quân lẻn đến thì có thể bắt được. Trường Ngư Kiểu nói: - Trong ba họ Khước cũng có nhiều quân sĩ lắm, nếu ta đến bắt mà không được thì lại di họa đến chúa công. Nay Khước Chí kiêm chức tư khấu, Khước Thù kiêm chức sĩ sư, chi bằng ta mượn việc kiện tụng để nhân tiện mà giết đi, rồi các ngươi đem quân tiếp ứng. Tấn Lệ công nói: - Kế ấy hay lắm! Để ta sai kẻ lực sĩ là Thanh Phí Khôi đi giúp nhà ngươi. Trường Ngư Kiểu dò biết hôm ấy ba họ Khước hội nghị ở nhà Giảng Vũ, liền cùng với Thanh Phí Khôi đem tiết gà bôi vào mặt, giả hình làm hai người đánh nhau, mỗi người tay cầm một con dao, kéo nhau vào nhà Giảng Vũ để kiện phải trái. Khước Thù không biết là kế giả, mới ngồi hỏi kiện. Thanh Phí Khôi giả cách đến gần bẩm nhỏ, rồi rút dao đâm trúng vào lưng Khước Thù. Khước Thù ngã lăn xuống đất. Khước Kỳ vội vàng giơ dao chém Thanh Phí Khôi, lại bị Trường Ngư Kiểu xông đến, hai người giao chiến với nhau, Khước Chí tức khắc chạy ra, lên xe bỏ trốn. Thanh Phí Khôi vội vàng đâm thêm Khước Thù một nhát nữa thấy Khước Thù đã chết rồi, cũng xông lại để đánh Khước Kỳ. Khước Kỳ dẫu là vũ tướng, nhưng Thanh Phí Khôi có sức khỏe lạ thường. Vả Trường Ngư Kiểu cũng là một tay nhanh nhẹn, một mình Khước Kỳ địch sao nổi hai người, cũng bị Thanh Phí Khôi đâm chết. Trường Ngư Kiểu thấy Khước Chí bỏ chạy, liền rủ nhau đuổi theo. Khước Chí đang chạy, lại gặp Tư Đồng và Di Dương Ngũ quát to lên rằng: - Ta phụng mệnh chúa công đi bắt bọn phản nghịch là họ Khước, chớ để cho nó chạy thoát được! Khước Chí sợ hãi, quay xe trở lại, vừa gặp Trường Ngư Kiểu đi đến nơi. Trường Ngư Kiểu nhảy ngay lên xe Khước Chí, rồi chém lấy đầu. Thanh Phí Khôi cũng chém lấy đầu Khước Kỳ và Khước Thù đem về nộp Tấn Lệ công. Quan thượng quân phó tướng là Tuân Yển nghe tin chủ soái của mình là Khước Kỳ bị hại, không biết người nào nổi loạn, tức thì đi xe thẳng tới triều môn để định vào tâu với Tấn Lệ công, rồi xin phụng mệnh cử binh đi đánh. Quan trung quân nguyên soái là Loan Thư cũng nghe tin ấy, vội vàng thẳng tới triều môn. Khi Loan Thư và Tuân Yển tới triều môn thì vừa gặp Tư Đồng kéo đến, Loan Thư và Tuân Yển nổi giận mắng rằng: - Ta tưởng là người nào nổi loạn, chẳng ngờ là lũ chuột này! Triều môn là một nơi cấm địa, sao nhà ngươi lại dám đem quân tới đây? Tư Đồng chẳng trả lời làm sao cả, liền bảo các quân sĩ rằng: - Loan Thư và Tuân Yển cùng với họ Khước hợp mưu phản nghịch, quân sĩ xông vào mà bắt, ai bắt được sẽ có trọng thưởng. Quân sĩ xúm lại nắm lấy Loan Thư và Tuân Yển kéo vào trong triều. Tấn Lệ công nghe tin bọn Trường Ngư Kiểu đã giết được ba họ Khước rồi, vội vàng ra ngự triều, lại thêm thấy quân sĩ kéo đến, giật mình kinh sợ mà hỏi Tư Đồng rằng: - Tội nhân đã giết được rồi, sao quân sĩ còn tụ hội đông như vậy? Tư Đồng tâu rằng: - Hiện bắt được kẻ đồng đảng với bọn phản nghịch là Loan Thư và Tuân Yển, xin chúa công xử đoán. Tấn Lệ công nói: - Việc này có can dự gì đến Loan Thư và Tuân Yển? Trường Ngư Kiểu quỳ gần trước mặt Tấn Lệ công mà tâu rằng: - Loan Thư vốn là người đồng đảng với họ Khước, Tuân Yển lại là bộ tướng của Khước Kỳ, nay ba họ Khước bị giết thì Loan Thư và Tuân Yển tất không yên tâm, rồi lại báo thù cho họ Khước, nếu chúa công không giết Loan Thư và Tuân Yển đi, thì khó lòng yên việc được! Tấn Lệ công nói: - Một lúc mà giết ba họ Khước, lại giết lây đến họ khác nữa thì ta không đành lòng! Tấn Lệ công truyền tha cho Loan Thư và Tuân Yển. Loan Thư và Tuân Yển tạ ơn lui ra. Trường Ngư Kiểu thở dài mà than rằng: - Chúa công không nỡ giết hai người ấy, nhưng ta chỉ e hai người ấy lại giết chúa công mà thôi. Nói xong liền bỏ trốn sang nước Tây Nhung. Tấn Lệ công trọng thưởng cho quân sĩ, rồi truyền đem đầu ba họ Khước ra bêu ở chốn triều môn trong ba ngày. Bao nhiêu những tộc đảng họ Khước còn đang làm quan ở trong triều, đều bị cách chức đuổi về cả; lại phong chức cho Tư Đồng thay Khước Kỳ làm thượng quân nguyên soái, Di Dương Ngũ thay Khước Thù làm tân quân nguyên soái, Thanh Phí Khôi thay Khước Chí làm tân quân phó tướng. Công tử Hùng Phiệt được tha về nước Sở. Loan Thư và Tuân Yển có ý thẹn mặt, không muốn đồng sự với Tư Đồng, thường cáo ốm không vào triều. Tư Đồng chắc đã có Tấn Lệ công cũng chẳng lấy làm nghĩ. Một hôm, Tấn Lệ công và Tư Đồng ra chơi nhà Tượng Lệ Thị ở phía Nam Thái Âm Sơn, cách kinh thành hơn hai mươi dặm, đi đã ba hôm chưa về. Tuân Yển nói riêng với Loan Thư rằng: - Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết. Nay chúng ta cáo ốm không vào triều, dẫu không việc gì, nhưng sau này bọn Tư Đồng sinh nghi thì tất lại vu cho ta có lòng oán vọng, ta e rằng cái vạ họ Khước khó lòng mà tránh khỏi được! Loan Thư nói: - Vậy thì biết làm thế nào? Tuân Yển nói: - Làm quan đại thần, nên lấy nước làm trọng, lấy vua làm khinh. Nay trong tay nhà ngươi cũng có kể hàng trăm vạn quân, nếu lập vua khác, ai là người dám trái ý. Loan Thư nói: - Có chắc làm nổi không? Tuân Yển nói: - Con giao long còn ở dưới vực sâu thì không ai dám làm gì, chứ đã lên cạn chỉ một đứa trẻ con cũng có thể trị nổi! Nay chúa công ra chơi nhà Tượng Lệ Thị, ba ngày chưa về, ấy tức là con giao long đã lên cạn đó, còn ngại cái gì! Loan Thư thở dài mà rằng: - Nhà ta mấy đời nay trung với Tấn, nay vì việc nước mà phải dùng kế này, thế nào mai sau cũng mang tiếng thí nghịch. Loan Thư và Tuân Yển giả cách nói đã khỏi bệnh, có việc cần kíp, muốn yết kiến Tấn Lệ công, rồi một mặt sai Trình Hoạt đem ba trăm quân phục sẵn ở Thái Âm Sơn. Loan Thư và Tuân Yển đến nhà Tượng Lệ Thị tâu với Tấn Lệ công rằng: - Chúa công bỏ việc triều chính, đi chơi đã ba ngày nay chưa về, khiến cho đám quan dân đều có lòng trông đợi, vậy chúng tôi đến đây để đón thánh giá về triều. Tấn Lệ công không thể từ chối được phải lên xe về triều. Tư Đồng đi trước, Loan Thư và Tuân Yển theo sau. Đi đến Thái Âm Sơn, bỗng nghe có tiếng súng nổ, phục binh đổ ra giết chết Tư Đồng. Tấn Lệ công kinh sợ, ở trên xe ngã lăn xuống đất. Loan Thư và Tuân Yển truyền cho quân sĩ bắt đem giam vào một nơi rồi đóng quân ở Thái Âm Sơn. Loan Thư bảo Tuân Yển rằng: - Ta chỉ e Sĩ Mang và Hàn Quyết sau này lại có ý khác, chi bằng ta sai người giả cách phụng mệnh chúa công đi triệu đến đây. Tuân Yển khen phải, liền sai người đi triệu Sĩ Mang và Hàn Quyết. Sứ giả đến triệu Sĩ Mang. Sĩ Mang hỏi: - Chúa công triệu ta có việc gì? Sứ giả luống cuống, không biết đàng nào mà trả lời Sĩ Mang nói: - Việc này đáng nghi lắm! Sĩ Mang sai người nhà dò thám xem Hàn Quyết có đi hay không thì ra Hàn Quyết cũng cáo ốm không chịu đi. Sĩ Mang nói: - Thế mới biết kiến thức của người trí giả thường vẫn giống nhau! Loan Thư thấy Sĩ Mang và Hàn Quyết không đến, lại hỏi Tuân Yển rằng: - Việc này tính thế nào? Tuân Yển nói: - Nhà ngươi đã cưỡi lên lưng hổ, lại còn định xuống hay sao! Loan Thư hiểu ý gật đầu, đêm hôm ấy sai Trình Hoạt dâng thuốc độc cho Tấn Lệ công uống vào chết ngay. Loan Thư truyền làm lễ an táng ở ngoài cửa Đông Môn. Sĩ Mang và Hàn Quyết nghe tin, cũng vội vàng đến để chịu tang, nhưng không hỏi gì về việc tại sao mà Tấn Lệ công chết. Khi an táng đã xong rồi, Loan Thư họp các quan đại phu ở trong triều để bàn lập vua mới. Tuân Yển nói: - Ngày trước việc ba họ Khước bị giết, Tư Đồng nói dèm bảo họ Khước muốn lập công tôn Chu lên làm vua, đó thành ra một lời sấm ngữ, ta nên đón mà lập công tôn Chu. Các quan đại phu đều bằng lòng cả. Loan Thư liền sai Tuân Doanh sang nhà Chu đón công tôn Chu về làm vua. Bấy giờ công tôn Chu đã mười bốn tuổi, người vốn thông minh, lại có trí lược, thấy Tuân Doanh đến đón, hỏi hết sự thể đầu đuôi, rồi cùng với Tuân Doanh trở về nước Tấn. Về đến đất Thanh Nguyên, Loan Thư, Tuân Yển, Sĩ Mang, Hàn Quyết cùng các quan đại phu đều họp ở đấy để nghinh tiếp. Công tôn Chu bảo các quan rằng: - Ta đây ở nước ngoài đã lâu, cũng chẳng muốn về nước cũ làm gì, huống chi lại còn mong làm vua! Nhưng làm vua chỉ quý về một điều chính lệnh ở trong tay mình, nếu lập lên làm vua mà không theo chính lệnh thì chẳng thà đừng lập! Các ngươi có chịu một lòng tin theo chính lệnh của ta hay không, cốt ở lúc này, bằng không thì các ngươi lập người khác, chứ ta không theo một cái hư danh để theo lối cũ như Châu Bồ làm vua ngày trước. Bọn Loan Thư đều sợ hãi sụp lạy mà nói rằng: - Chúng tôi mong vua hiền để mà thờ, có đâu lại dám trái mệnh. Khi lui ra ngoài, Loan Thư bảo các quan rằng: - Vua mới ngày nay không ví như vua cũ được. Chúng ta nên giữ gìn cẩn thận mới phải! Công tôn Chu tiến vào kinh thành, làm lễ cáo nhà Thái Miếu rồi lên nối ngôi, tức là Tấn Điệu công. Ngày hôm sau, Tấn Điệu công kể tội bọn Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi, truyền cho quân sĩ đem ra chém tại triều môn, còn những tộc đảng đều đuổi sang nước khác; lại đem việc Tấn Lệ công chết, đổ tội cho Trình Hoạt, bắt đem căng thây ở ngoài chợ. Loan Thư thấy vậy khiếp đảm kinh hồn, suốt đêm không ngủ, ngày hôm sau tức khắc xin cáo lão, rồi tiến dẫn Hàn Quyết thay mình. Chưa được bao lâu Loan Thư sợ quá, thành bệnh nặng rồi chết. Tấn Điệu công nghe nói Hàn Quyết là người hiền, cho làm chức trung quân nguyên soái thay Loan Thư. Hàn Quyết giả cách vào tạ ơn, rồi tâu riêng với Tấn Điệu công rằng: - Chúng tôi nhờ công đời trước mới được thế này, mà công đời trước thì không ai hơn họ Triệu: Triệu Thôi giúp vua Văn công. Triệu Thuẫn giúp vua Tương công đều một lòng vì nước, giúp nên công việc bá chủ; đến đời vua Linh công, dùng kẻ gian thần là Đồ Ngạn Giả. Đồ Ngạn Giả lập mưu giết Triệu Thuẫn, Triệu Thuẫn phải chạy trốn mới được thoát nạn. Sau vua Linh công bị giết, vua Cảnh công nối ngôi, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả nhân khi Triệu Thuẫn đã chết rồi, vu cho tội thí nghịch, rồi bắt giết cả nhà họ Triệu. Việc ấy dân trong nước ai cũng tức thay, may mà họ Triệu còn sót được một người con tên là Triệu Vũ. Nay chúa công đã trị tội bọn Di Dương Ngũ thì cũng nên nghĩ lại công họ Triệu ngày xưa! Tấn Điệu công nói: - Việc ấy ta cũng nghe nói, hiện nay Triệu Vũ ở đâu? Hàn Quyết nói: - Bấy giờ Triệu Vũ mới sinh. Đồ Ngạn Giả tìm bắt gấp lắm, có hai người môn khách họ Triệu là công tôn Chử Cữu và Trình Anh; công tôn Chử Cữu đem một đứa bé khác liều mình chịu chết để cứu thoát Triệu Vũ; còn Trình Anh đem Triệu Vũ vào giấu ở trong núi Mạnh Sơn, đã mười lăm năm nay rồi! Tấn Điệu công nói: - Nhà ngươi vì ta đi triệu về đây. Hàn Quyết nói: - Đồ Ngạn Giả còn ở trong triều, chúa công nên bí mật mới được. Tấn Điệu công nói: - Ta đã biết rồi! Hàn Quyết cáo từ lui ra, rồi thân hành đến núi Mạnh Sơn để đón Triệu Vũ và Trình Anh. Hàn Quyết đưa Triệu Vũ vào yết kiến Tấn Điệu công. Tấn Điệu công giấu Triệu Vũ ở trong cung, rồi giả cách nói có bệnh ốm. Hàn Quyết đem các quan triều thần vào cung để vấn an, Đồ Ngạn Giả cũng theo vào. Tấn Điệu công nói: - Các người có biết vì cớ gì mà ta thành bệnh ốm hay không? Chỉ vì trong sổ công lao có một điều chưa minh, vậy nên trong lòng ta không được khoan khoái. Các quan đại phu đều sụp lạy mà hỏi rằng: - Chẳng hay trong sổ công lao có điều gì chưa minh, xin chúa công dạy cho biết. Tấn Điệu công nói: - Triệu Thôi, Triệu Thuẫn đều có công to với nước, mà nỡ nào để cho tuyệt tự! Các quan đồng thanh đáp rằng: - Họ Triệu bị diệt tộc đã mười lăm năm nay, bây giờ chúa công dẫu nhờ công họ Triệu cũng chẳng còn ai mà phong được! Tấn Điệu công truyền gọi Triệu Vũ ra chào các quan triều thần. Các quan triều thần đều hỏi: - Chẳng hay tiểu lang quân này là người nào? Hàn Quyết nói: - Ấy tức cô nhi họ Triệu tên gọi Triệu Vũ đó! Còn cô nhi bị giết ngày trước là con Trình Anh, chứ không phải Triệu Vũ. Đồ Ngạn Giả bấy giờ chẳng còn hồn vía nào cả, như một người vay, cứ phủ phục ở dưới đất, không biết nói ra làm sao. Tấn Điệu công nói: - Việc này đều tại Đồ Ngạn Giả làm ra, nếu không diệt tộc Đồ Ngạn Giả thì sao cho thỏa chí oan hồn họ Triệu! Tấn Điệu công truyền đem Đồ Ngạn Giả ra chém, lại sai Hàn Quyết và Triệu Vũ đem quân vây nhà Đồ Ngạn Giả, bất cứ già trẻ lớn bé, đều giết sạch cả. Triệu Vũ xin đem đầu Đồ Ngạn Giả ra tế ở trước mộ Triệu Sóc, người nước Tấn ai cũng lấy làm hả lòng. Tấn Điệu công đã giết Đồ Ngạn Giả rồi, liền cho Triệu Vũ thay Đồ Ngạn Giả làm chức tư khấu, bao nhiêu lộc điền khi trước đều cấp cho Triệu Vũ tất cả. Tấn Điệu công lại nghe nói Trình Anh là người có nghĩa, muốn dùng làm chức quân chính. Trình Anh nói chuyện với mọi người rằng: - Lúc trước ta không chết vội là vì cô nhi họ Triệu, nay cô nhi họ Triệu đã báo được thù xưa rồi, có lẽ nào dám tham phú quý mà để cho công tôn Chử Cữu chịu chết một mình hay sao, âu là ta thác xuống suối vàng báo tin cho công tôn Chử Cữu biết. Trình Anh nói xong, đâm cổ chết, Triệu Vũ ôm lấy thi thể Trình Anh mà khóc, rồi tâu với Tấn Điệu công, xin thiên cả ngôi mộ công tôn Chử Cữu cùng chôn ở Vân Trung Sơn, gọi là "Nghĩa Chủng". Triệu Vũ nhớ ơn Trình Anh, để tang ba năm. Tấn Điệu công đã phong chức cho Triệu Vũ, lại sai người sang nước Tống gọi Triệu Thắng về, phong cho đất Hàm Đan. Bấy giờ Tấn Điệu công biết chọn những người tài giỏi, dùng cho làm quan, bởi vậy trong đám các quan triều thần, người nào cũng xứng đáng cả. Hãy kể mấy quan có danh tiếng như sau: 1. Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái; 2. Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; 3. Tuân Danh làm thượng quân nguyên soái; 4. Tuân Yển làm thượng quân phó tướng; 5. Loan Áp (con Loan Thư) làm hạ quân nguyên soái; 6. Sĩ Phường (con Sĩ Hội) làm hạ quân phó tướng; 7. Triệu Vũ làm tân quân nguyên soái; 8. Ngụy Tướng (con Ngụy Xứng) làm tân quân phó tướng; 9. Kỳ Hề làm trung quân úy; 10. Dương Thiệt Chức làm trung quân phó úy; 11. Ngụy Giáng (con Ngụy Thù) làm trung quân tư mã, coi việc thưởng phạt quân sĩ; 12. Chương Lão làm chức hậu yêm, coi việc tuần phòng; 13. Hàn Vô Kỵ (con Hàn Quyết) làm công tộc đại phu, coi việc dạy bảo con em các nhà công tộc; 14. Giả Tân làm tư thông; 15. Sĩ Ốc Trọc làm thái phó, coi việc dạy bảo thế tử; 16. Loan Củ làm thân quân nhúng ngự; 17. Tuân Tân làm xa hữu tướng quân; 18. Trình Trinh làm tán bộc, coi việc ngựa xe của vua; 19. Đạc Ất Khấu làm dư úy; 20. Tịch Yển làm dư tư mã. Các quan triều thần đã được nhiều người tài giỏi, cùng nhau chỉnh đốn lại chính trị trong nước, nhân dân cũng lấy làm bằng lòng. Các nước chư hầu như Tống, Lỗ v. V. Đều đến triều cống. Chỉ có Trịnh Thành công cảm cái ơn Sở Cung Vương vì mình mà phải tổn thương mất một con mắt, bởi vậy không chịu theo Tấn. Sở Cung Vương nghe tin Tấn Lệ công bị giết có ý mừng rỡ, đang nghĩ kế để báo thù: Lại nghe nói Tấn Điệu công biết thu dùng những người tài giỏi, trong ngoài ai cũng mến phục, có cơ lại làm được bá chủ, liền triệu các quan triều thần vào để thương nghị, muốn tìm cách làm nhiễu loạn Trung Nguyên, khiến cho nước Tấn không làm bá chủ được. Quan lệnh doãn là công tử Anh Tề chịu bó tay, không nghĩ được mưu kế gì cả. Công tử Nhâm Phu nói với Sở Cung Vương rằng "Các nước chư hầu ở trung nguyên, có nước Tống là một nước lớn, mà ở giữa khoảng nước Ngô và nước Tấn, nếu ta muốn nhiễu loạn trung nguyên thì nên bắt đầu từ Tống trước. Nay quan đại phu nước Tống là Ngư Thạch, Hướng Vi Nhân, Lâm Chu, Hướng Đái và Ngư Phủ, cả thẩy năm người, cùng với quan hữu sư là Hoa Nguyên có ác cảm, bỏ trốn sang ở nước Sở ta, nếu ta giúp binh lực cho bọn ấy, sai về đánh Tống, hễ đánh được Tống thì ta lại phong cho. Đó thật là một kế dùng quân giặc lại đánh quân giặc, vì Tấn không cứu Tống thì bỏ mất chư hầu, mà cứu Tống thì phải giao chiến với bọn Ngư Thạch, bấy giờ ta chỉ việc ngồi mà đợi xem thắng bại". Sở Cung Vương theo mưu ấy, liền sai công tử Nhâm Phu làm đại tướng dùng bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đem đại binh tiến sang đánh nước Tống.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  2. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 60 Tuân Dinh hiến kế chia quân ngạch Chư hầu đem binh vây Bức Dương

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sở Cung Vương dùng mưu kế của quan hữu doãn là công tử Nhâm Phu, thân thống đại binh, cùng với Trịnh Thành công sang đánh Tống, sai bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đánh được đất Bành Thành, cho bọn Ngư Thạch đóng quân ở đấy. Sở Cung Vương bảo bọn Ngư Thạch rằng: - Nước Tống đang giao thông với Ngô để chống cự nước Sở ta, mà đất Bành Thành này lại là một chỗ tiếp giáp Ngô và Tấn. Nay ta cho các ngươi đóng quân ở đây, tiến đánh thì có thể xâm chiếm được địa giới nước Tống, lui giữ thì cũng có thể ngăn trở được lối đi lại của quân Tấn và Ngô, vậy các ngươi nên phải cẩn thận, chớ để phụ tấm lòng của ta đã ủy thác cho các ngươi đó! Sở Cung Vương trở về nước Sở. Cuối năm ấy, Tống Thành công sai quan đại phu là Lão Tá đem quân vây đất Bành Thành. Ngư Trạch đem quân ra nghênh chiến, bị Lão Tá đánh thua. Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin đất Bành Thành bị vây, đem quân đến cứu. Lão Tá cậy có sức mạnh, xông vào trong đám quân Sở, liền bị mũi tên mà chết. Công tử Anh Tề tiến binh sang xâm phạm nước Tống. Tống Thành công kinh sợ, sai quan hữu sư là Hoa Nguyên sang cáo cấp với nước Tấn. Hàn Quyết nói với Tấn Điệu công rằng: - Ngày xưa vua Văn công ta làm được bá chủ cũng bởi có việc cứu nước Tống. Cái cơ hay dở, ở một việc này, ta nên đem quân sang cứu mới phải. Hàn Quyết liền sai sứ đi mượn quân các nước chư hầu. Tấn Điệu công thân thống đại binh đến đóng ở đất Đài Cốc. Công tử Anh Tề nghe tin quân Tấn kéo đến, tức khắc rút quân trở về nước Sở. Đến năm sau, Tấn Điệu công đem quân tám nước chư hầu là: Tống, Lỗ, Vệ, Tào, Cử, Châu, Đằng và Tiết đến vây đất Bành Thành. Quan đại phu nước Tống là Hướng Thú sai quân sĩ đứng lên trên xe, gọi người trong thành mà bảo rằng: - Ngư Thạch là một đứa phản tặc, không thể dung tha được, nay nước Tấn sắp đem hai mươi vạn quân, đạp đổ cái thành này, không để sót một ngọn cỏ. Bọn các ngươi, nếu biết lẽ phải, nên bắt đứa phản tặc ấy đem nộp, chớ để cho những người vô tội cũng bị chết lây. Dân trong Bình Thành nghe thấy, biết là Ngư Thạch trái lẽ, liền mở cửa thành ra để đón quân Tấn. Tấn Điệu công tiến vào trong thành. Quân Sở bỏ chạy cả. Hàn Quyết bắt được Ngư Thạch, Loan Áp và Tuân Yển được Ngư Phủ. Hướng Thú (quan đại phu nước Tống) bắt được Hướng Vi Nhân và Hướng Đài, Trọng Tôn Miệt (quan đại phu nước Lỗ) bắt được Lân Chu đều giải đến nộp Tấn Điệu công. Tấn Điệu công truyền đem bọn Ngư Thạch ra chém, rồi kéo quân sang hỏi tội nước Trịnh. Quan hữu doãn nước Sở là công tôn Nhâm Phu đem quân sang xâm phạm địa giới nước Tống, để làm kế cứu Trịnh. Các nước chư hầu lại đem quân sang cứu Tống, rồi cùng nhau rút quân về nước cả. Năm ấy Chu Giản Vương mất, thái tử Tiết Tâm lên nối ngôi, tức là Chu Linh Vương. Chu Linh Vương từ khi mới sinh ra, phía trên miệng đã có râu ria mọc, bởi vậy người nhà Chu cũng gọi là Tỳ Vương. Năm đầu đời vua Tỳ Vương nhà Chu, Trịnh Thành công ốm nặng, bảo quan thượng khanh là công tử Phi rằng: - Vua Sở vì đem quân sang cứu nước ta mà bị thương hỏng mất một mắt, chưa bao giờ ta dám quên cái ơn ấy, sau khi ta chết các ngươi chớ có bội nước Sở. Trịnh Thành công nói xong thì chết. Bọn công tử Phi lập thế tử Khôn Ngoan lên nối ngôi, tức là Trịnh Hi công. Tấn Điệu công thấy người nước Trịnh chưa phục mới đại hội chư hầu ở Thích Địa (đất nước Vệ) để bàn việc đánh Trịnh. Quan đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Miệt hiến kế rằng: - Đất nước Trịnh không đâu hiểm bằng cửa quan Hổ Lao, đó là một chỗ Trịnh và Sở giao thông với nhau, nếu ta đắp một cái thành, rồi đóng quân để chẹn ngang chỗ ấy thì nước Trịnh tất phải theo ta. Vu Thần hiến kế rằng: - Sở và Ngô chỉ cách nhau một con sông, năm trước tôi sang sứ nước Ngô có ước với Ngô để cùng đánh Sở, từ bấy giờ nước Ngô thường sang xâm nhiễu những nước phụ thuộc của nước Sở, người nước Sở lấy làm khổ lắm. Nay ta lại sai sứ sang bảo Ngô đánh Sở; nước Sở phía Đông khổ về nước Ngô, thì phía Bắc tất không cùng tranh nhau nước Trịnh được. Tấn Điệu công theo cả hai kế. Bấy giờ, Tề Linh công cũng sai thế tử Quang cùng với quan thượng khanh là Thôi Trữ sang dự hội để mà vâng mệnh nước Tấn. Tấn Điệu công họp quân các nước chư hầu đắp thành ở cửa quan Hổ Lao, rồi lấy quân các nước: Nước lớn một nghìn quân, nước nhỏ năm trăm hoặc ba trăm quân, cho đóng giữ ở đấy. Trịnh Hi công sợ hãi, xin giảng hòa với nước Tấn. Quan trung quân úy nước Tấn là Kỳ Hề, đã ngoài bảy mươi tuổi, cáo xin về nghỉ. Tấn Điệu công hỏi: - Có người nào thay nhà ngươi được không? Kỳ Hề nói: - Không ai bằng Giải Hổ (con Giải Dương). Tấn Điệu công nói: - Ta nghe Giải Hổ là người thù với nhà ngươi, sao nhà ngươi lại còn tiến dẫn? Kỳ Hề nói: - Chúa công hỏi người nào có thể dùng được, chứ có phải là hỏi người thù của tôi đâu! Tấn Điệu công sai người đi triệu Giải Hổ, Giải Hổ chưa kịp đến nhậm chức thì đã ốm chết. Tấn Điệu công lại hỏi Kỳ Hề rằng: - Trừ Giải Hổ không kể, nhà ngươi còn biết ai nữa không? Kỳ Hề nói: - Thế thì không ai bằng Kỳ Ngọ! Tấn Điệu công nói: - Kỳ Ngọ có phải con nhà ngươi đó không? Kỳ Hề nói: - Chúa công hỏi người nào có thể dùng được, chứ có phải là hỏi người con của tôi đâu! Tấn Điệu công nói: - Nay quan trung quân phó úy là Dương Thiệt Chức cũng chết, nhà ngươi lại vì ta chọn hộ một người khác để thay. Kỳ Hề nói: - Dương Thiệt Chức có hai con là: Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật. Hai người ấy đều hiền cả, chúa công muốn dùng người nào thì dùng. Tấn Điệu công theo lời, cho Kỳ Ngọ làm trung quân úy, Dương Thiệt Xích làm trung quân phó úy. Các quan đại phu ai cũng bằng lòng. Con Vu Thần là Vu Hồ Dung phụng mệnh Tấn Điệu công sang sứ nước Ngô, vào yết kiến vua Ngô là Thọ Mộng, xin mượn quân để đánh Sở. Thọ Mộng thuận cho, sai thế tử Chư Phàn làm tướng, luyện quân ở bên sông Trường Giang. Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin ấy, liền tâu với Sở Cung Vương rằng: - Quân Ngô chưa sang nước Sở ta bao giờ, nếu đã sang được một lần thì rồi lại sang quấy mãi, chi bằng ta đánh trước đi là hơn. Sở Cung Vương khen phải. Công tử Anh Tề tuyển chọn hai vạn thủy quân qua sông Trường Giang, phá đất Cưu Tư của nước Ngô; lại toan thuận dòng sông mà kéo quân thẳng xuống. Tướng nước Sở là Đặng Sưu nói với công tử Anh Tề rằng: - Sông Trường Giang này nước đang chảy xiết, tiến dễ mà lui khó, tôi xin đem một toán quân đi trước, nếu được lợi thì tiến, mà không lợi thì chẳng đến nỗi thua to. Quan nguyên soái cứ đóng quân ở Hách Sơn, rồi tùy cơ ứng biến, mới giữ vạn toàn được. Công tử Anh Tề khen phải, tức khắc cho Đặng Sưu đem một toán quân đi, toàn những quân kinh binh, một người có thể địch nổi mười người, cả thẩy một trăm chiếc thuyền. Thế tử Chư Phàn nghe tin đất Cưu Tư bị quân Sở chiếm mất, liền bảo các tướng rằng: - Quân Sở đã chiếm được đất Cưu Tư thì tất thừa thế kéo xuống, ta phải phòng bị trước mới được. Thế tử Chư Phàn sai công tử Di Muội đem một toán quân vài mươi chiếc thuyền ra Lương Sơn để làm kế dụ quân Sở: Còn công tử Dư Sài (em công tử Chư Phàn) đem một toán quân ra phục sẵn ở Thái Thạch Cảng. Đặng Sưu (tướng nước Sở) đem quân ra Hách Sơn, trông thấy ở Lương Sơn có binh thuyền của nước Ngô, vội vàng ra sức tiến đánh. Công tử Di Muội giả cách thua chạy. Đặng Sưu thúc quân đuổi theo, qua Thái Thạch Cảng, lại gặp đại binh của công tử Chư Phàn đến. Hai bên giao chiến với nhau. Đánh nhau được mười hợp thì công tử Dư Sài ở Thái Thạch Cảng đem phục binh đổ ra, theo phía sau đánh ập lại, tên bắn như mưa. Đặng Sưu bị ba phát tên vào mặt, rồi lại rút tên ra mà cố sức đánh. Công tử Di Muội truyền cho quân sĩ cầm giáo đâm vào thuyền quân Sở. Thuyền quân Sở vỡ đắm rất nhiều, Đặng Sưu bị bắt, tự tử mà chết. Quân Sở cũng chết hại rất nhiều. Công tử Anh Tề sợ tội, toan giấu sự thua trận đi, không tâu cho Sở Cung Vương biết, ai ngờ thế tử Chư Phàn thừa thắng đem quân tiến đánh, công tử Anh Tề thua to chạy về. Đất Cưu Tư lại thuộc về nước Ngô. Công tử Anh Tề tức giận thành bệnh, chưa về đến kinh thành nước Sở thì chết, Sở Cung Vương liền cho quan hữu doãn là công tử Nhâm Phu làm lệnh doãn. Công tử Nhâm Phu tính hay tham bỉ, thường bắt các nước phụ thuộc phải lễ đút, Trần Thành công không thể chịu được, mới sai Viên Kiều Như (cháu bốn đời Viên Đào Đồ) sang xin theo Tấn. Sở Cung Vương thấy nước Trần theo Tấn, đổ tội cho công tử Nhâm Phu, rồi đem giết đi; lại dùng người em là công tử Trịnh (tên tự là Tử Nang) làm lệnh doãn, cử binh sang đánh Trần. Bấy giờ Trần Thành công (Ngọ) chết, thế tử Nhược lên nối ngôi, tức là Trần Ai công. Trần Ai công sợ nước Sở thế mạnh, lại xin theo Sở. Tấn Điệu công nghe tin giận, toan cử binh cùng Sở tranh nhau nước Trần, bỗng nghe báo có vua nước Vô Chung là Gia Phủ sai quan đại phu là Mạnh Lạc đem những da hổ, da báo cả thẩy một trăm chiếc đèn dâng Tấn Điệu công và tâu rằng: - Các nước Sơn Nhung, từ khi Tề Hoàn công đem quân đi đánh, đã dẹp yên tất cả, mới rồi nhân nước Yên và Tần suy yếu, các nước Sơn Nhung lại sang xâm nhiễu, chúa công tôi nghe nói nhà vua ngày nay lại noi theo cái công nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở xưa, đã có tuyên bá cho các nước Sơn Nhung biết, vậy các nước ấy muốn giảng hòa, xin nhà vua định liệu. Tấn Điệu công hợp các tướng lại để thương nghị. Các tướng đều nói rằng: - Quân rợ mọi ấy không biết lẽ phải, ta nên đem quân đi đánh. Vua Tề Hoàn công thuở xưa, cũng phải trước đánh Sơn Nhung, sau đánh nước Sở, mới làm nên được bá chủ. Quan tư mã là Ngụy Giáng can rằng: - Không nên! Nay ta mới thâu phục được chư hầu, mà đã đem quân đi đánh Sơn Nhung thì quân Sở tất thừa hư sang quấy nhiễu, bấy giờ chư hầu lại bỏ Tấn theo Sở mà thôi. Sơn Nhung là giống cầm thú, chư hầu là tình anh em, nay bắt được giống cầm thú mà bỏ mất tình anh em, sao gọi là kế hay được! Tấn Điệu công nói: - Vậy thì ta có nên giảng hòa với các nước Sơn Nhung không? Ngụy Giáng nói: - Giảng hòa với các nước Sơn Nhung có năm điều lợi: Sơn Nhung tiếp giáp với nước ta, nhiều đất bỏ hoang, ta có thể mở rộng đất được, đó là một điều lợi: Sơn Nhung không quấy nhiễu ta nữa thì những dân ở bờ cõi được yên nghiệp làm ăn, đó là hai điều lợi; Quân sĩ của ta không phải khó nhọc về sự đánh dẹp đó là ba điều lợi; Sơn Nhung đã thần phục thì các nước chư hầu cũng phải sợ hãi, đó là bốn điều lợi; Ta không phải lo về mặt Bắc (tức là phía Sơn Nhung) thì có thể dốc một lòng mà mở mang về mặt Nam (tức là phía nước Sở) được, đó là năm điều lợi. Có 5 điều lợi ấy can gì mà chúa công không theo. Tấn Điệu công bằng lòng, liền sai Ngụy Giáng làm sứ thần đi giảng hòa với các nước Sơn Nhung. Ngụy Giáng cùng với Mạnh Lạc (quan đại phu nước Vô Chung) đến nước Vô Chung, để cùng với vua nước Vô Chung là Gia Phủ thương nghị việc giảng hòa. Gia Phủ sai người đi triệu các nước Sơn Nhung mà bảo rằng: - Nay vua Tấn làm bá chủ ở Trung Nguyên, có sai sứ thần sang đây, để cùng với các nước ngươi giảng hòa. Các nước ngươi nên một lòng thần phục, từ đây trở đi không được quấy nhiễu. Các nước Sơn Nhung đều xin ăn thề, lại bảo nhau đem các đồ thổ sản đến dâng Ngụy Giáng, Ngụy Giáng nhất định không lấy gì cả. Các nước Sơn Nhung đều khen Ngụy Giáng là liêm khiết, lại càng có ý kính trọng. Ngụy Giáng về tâu lại với Tấn Điệu công, Tấn Điệu công bằng lòng. Bấy giờ quan lệnh doãn nước Sở là công tử Trịnh, chỉ vì cửa quan Hổ Lao có quân Tấn đóng, vậy không dám kéo qua sông Dĩ Thủy, phải theo đường nước Hứa mà tiến sang nước Trịnh. Trịnh Hi công (Khôn Ngoan) sợ lắm, họp sáu quan khanh lại để thương nghị. Trong sáu quan khanh kể tên sau: 1. Công tử Phi, tên tự là Tử Tứ; 2. Công tử Phát, tên tự là Tử Quốc; 3. Công tử Gia, tên tự là Tử Khổng (Ba người này đều là con Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công là hàng thúc tổ phụ) ; 4. Công tôn Chiếp, tên tự là Tử Nhĩ (con công tử Khứ Tật) ; 5; Công tôn Mại, tên tự là Tử Kiều (con công tử Yển) ; 6. Công tôn Xá, tên tự là Tử Triền (con công tử Hỉ) (Ba người này đều là cháu Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc phụ). Sáu quan khanh ấy đều là bậc trên Trịnh Hi công cả; chuyên giữ quyền chính nước Trịnh, mà Trịnh Hi công lại là người kiêu ngạo, không biết kính trọng, bởi vậy vua tôi vẫn bất hòa với nhau, nhất là công tử Phi lại càng bất hòa lắm. Trong khi hội nghị, Trịnh Hi công chủ ý muốn cố giữ để đợi quân Tấn đến cứu. Công tử Phi nói: - Tục ngữ có câu rằng: "Nước xa không cứu được lửa gần", chi bằng ta theo Sở. Trịnh Hi công nói: - Tấn và Sở chẳng nước nào thương ta cả, ta cũng chẳng cứ phải chọn nước nào, hễ nước nào mạnh thế thì ta theo, nay ta cứ đem lễ vật ra đợi sẵn ở ngoài cõi, Sở đến thì ăn thề với Sở, mà Tấn đến thì ăn thề với Tấn. Hai nước mạnh chọi nhau mãi thì tất phải một nước thua, bấy giờ ta xem nước nào thắng thì ta theo để giữ cho nhân dân được yên ổn thế là hay hơn cả! Trịnh Hi công không theo lời, lại bảo công tử Phi rằng: - Cứ như lời của nhà ngươi thì nước Trịnh ta chỉ những ăn thề mà không năm nào được yên cả. Trịnh Hi công sai sứ sang cầu cứu nước Tấn. Các quan đại phu đều sợ trái ý công tử Phi, không ai dám đi sứ. Trịnh Hi công giận lắm, thân hành đi lấy. Đêm hôm ấy Trịnh Hi công ngủ ở nhà quán xá, công tử Phi sai người đến giết, rồi nói dối là Trịnh Hi công ngộ cảm mà chết, lập ngươi em là Gia lên nối ngôi, tức là Trịnh Giản công. Công tử Phi sai người nói dối quân Sở rằng: - Việc theo Tấn đều là tự ý Khôn Ngoan (tức là Trịnh Hi công), nay Khôn Ngoan đã chết rồi, vậy nước tôi lại xin theo quý quốc. Công tử Trinh nước Sở lại cho nước Trịnh giảng hòa. Tấn Điệu công nghe tin nước Trịnh lại theo Sở, liền hỏi các quan đại phu rằng: - Nay Trần và Trịnh cùng theo Sở cả, ta nên đánh nước nào trước? Tuân Dinh nói: - Nước Trần nhỏ mọn, dẫu có theo ta hay không, cũng không quan hệ gì cả; còn nước Trịnh là một nơi trọng yếu, nếu muốn làm bá chủ tất phải đi thu phục nước Trịnh. Thà mất mười nước Trần, chứ không nên bỏ mất một nước Trịnh! Hàn Quyết nói: - Tử Vũ (tên tự của Tuân Dinh) là người có kiến thức, tất thu phục được nước Trịnh, tôi nay tuổi già sức yếu, xin đem chức trung quân nguyên soái nhường lại cho Tử Vũ. Tấn Điệu công không cho. Hàn Quyết cố xin mãi. Tấn Điệu công bất đắc dĩ phải cho Tuân Dinh thay Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái, đem đại binh đi đánh Trịnh. Quân Tấn kéo đến cửa quan Hổ Lao. Người nước Trịnh xin ăn thề, Tuân Dinh thuận cho. Đến lúc Tấn về, Sở Cung Vương lại thân hành đem quân sang đánh Trịnh. Người nước Trịnh lại theo Sở, Tấn Điệu công giận lắm, hỏi các quan đại phu rằng: - Người nước Trịnh phản phúc, quân ta đến thì theo, quân ta về lại phản, nay muốn làm cho người nước Trịnh phải một lòng theo ta thì nên dùng kế gì? Tuân Dinh hiến kế rằng: - Nước Tấn ta không thu phục được nước Trịnh là vì người nước Sở cố sức mà tranh. Nay muốn thu phục được nước Trịnh thì tất phải đối địch với Sở, mà muốn làm cho Sở phải khốn quẫn thì nên dùng một kế: Dĩ dật đãi lao. Tấn Điệu công nói: - Thế nào gọi là: Dĩ dật đãi lao? Tuân Dinh nói: - Quân nước mình không nên dùng luôn, dùng luôn thì người mình nhọc; quân chư hấu không nên lấy luôn, lấy luôn thì chư hầu oán. Trong nhọc mà ngoài oán, cứ như thế thì không bao giờ thắng được nước Sở. Tôi xin chia ra làm ba đạo quân, mỗi đạo lại có mấy nước chư hầu phụ thuộc vào để thay đổi nhau mà đối địch với quân Sở. Sở tiến thì ta lui, Sở lui thì ta tiến, đem một đạo quân của ta mà làm cho nước Sở không lúc nào được yên, như thế thì nước Sở khốn quẫn, bấy giờ nước Trịnh tất phải một lòng theo ta. Tấn Điệu công khen phải, liền sai Tuân Dinh luyện quân ở đất Khúc Lương, chia làm ba đạo để định phép thay đổi nhau. Tuân Dinh trèo lên tướng đàn. Trên tướng đàn có cắm một lá cờ đại bái sắc vàng, trong đề mấy chữ trung quân nguyên soái Trí, dưới tướng đài chia quân ra làm ba đạo: - Đạo thứ nhất, thượng quân nguyên soái là Tuân Yển, phó tướng là Hàn Khởi, ba nước: Lỗ, Tào, Châu đem quân theo vào đạo ấy; trung quân phó tướng là Phạm Mang (tức là Sĩ Mang, sau đổi làm họ Phạm) đi tiếp ứng. - Đạo thứ hai, hạ quân nguyên soái là Loan Áp, phó tướng là Sĩ Phương, ba nước: Tề, Đằng, Tiết đem quân theo vào đạo ấy; trung quân thượng đại phu là Ngụy Hiệt đi tiếp ứng. - Đạo thứ ba, tân quân nguyên soái là Triệu Vũ, phó tướng là Ngụy Tướng, ba nước: Tống, Vệ, Nghệ đem quân theo vào đạo ấy; trung quân hạ đại phu là Tuân Hội đi tiếp ứng. Tuân Dinh truyền lệnh rằng: - Trong ba đạo quân, cứ thay đổi đi đánh Trịnh, hễ Trịnh chịu giảng hòa thì lại rút về ngay, cấm giao chiến với quân Sở. Công tử Dương Can là em cùng mẹ với Tấn Điệu công, mới mười chín tuổi, đang làm chức trung quân nhung ngự, tính khí hãy còn hăng hái, chưa từng ra trận bao giờ, nghe nói Tuân Dinh luyện quân để sắp đi đánh Trịnh, vẫn múa tay hoa chân, chỉ mong được ra nơi chiến trường, nhưng không thấy Tuân Dinh dùng đến, mới tình nguyện xin đi tiên phong. Tuân Dinh nói: - Ngày nay ta luyện quân là chỉ muốn tiến cho chóng, lại thoái cho chóng, không cần đánh được quân giặc, tiểu tướng quân dẫu khỏe mạnh, cũng không dùng làm gì! Công tử Dương Can cố ý xin mãi. Tuân Dinh nói: - Tiểu tướng quân đã cố ý xin như vậy thì cho làm bộ hạ quan Tuân đại phu (tức là Tuân Hội) để tiếp ứng đạo tân quân. Công tử Dương Can nói: - Đạo tân quân đến lần thứ ba mới ra đánh thì đợi sao cho được, xin cho thuộc vào đạo thượng quân. Tuân Dinh không cho. Công tử Dương Can cậy thế là em Tấn Điệu công, đem ngay quân bản bộ của mình, đi theo vào toán quân Phạm Mang. Quan tư mã là Ngụy Giáng trông thấy công tử Dương Can dám rẽ hàng quân để đi lên trước, liền đánh trống mà tuyên cáo với các tướng rằng: - Công tử Dương Can dám trái tướng lệnh, đi loạn hàng quân, tội đáng chết chém, nay nể là em chúa công, vậy phải giết người dong xe để thay mạng. Ngụy Giáng truyền cho quân sĩ bắt người dong xe đem chém, công tử Dương Can căm tức vô cùng, vội vàng vào thuật chuyện lại cho Tấn Điệu công biết và khóc mà nói rằng: - Ngụy Giáng khinh bỉ như vậy thì tôi không còn mặt mũi nào mà trông thấy các tướng nữa! Tấn Điệu công vốn có lòng yêu em, không kịp hỏi rõ, liền nổi giận mà nói rằng: - Ngụy Giáng làm nhục em ta, ta tất phải giết không thể tha. Tấn Điệu công truyền gọi quan trung quân phó úy là Dương Thiệt Chức, sai đi bắt Ngụy Giáng. Dương Thiệt Chức nói với Tấn Điệu công rằng: - Ngụy Giáng là người có chí khí xưa nay vẫn không tránh những việc khó khăn, không chối những điều tội lỗi. Nếu việc quân xong tất nhiên thế nào cũng đến đây tạ tội, bất tất phải cho đi triệu. Được một lúc thì quả nhiên Ngụy Giáng đến, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm tờ tâu, sắp sửa vào triều để tạ tội, vừa đến triều môn thì nghe tin Tấn Điệu công toan sai người đi bắt mình, liền nổi cơn tức giận, giao tờ tâu cho người nhà, rồi toan cầm kiếm để tự tử. Bỗng có hai viên quan ở đâu hăm hở chạy đến, tức là quan hạ quân phó tướng Sĩ Phường và quan chủ - hậu đại phu Trương Lão, Sĩ Phường và Trương Lão trông thấy Ngụy Giáng toan tự tử, vội giằng lấy thanh kiếm mà nói rằng: - Chúng tôi nghe nói quan tư mã (trỏ Ngụy Giáng) vào triều, tất là vì việc công tử Dương Can, vậy chúng tôi vội vàng tới đây, định cùng nhau vào tâu để chúa công biết, chẳng hay vì cớ gì mà quan tư mã lại liều mình như thế? Ngụy Giáng thuật lại những chuyện Tấn Điệu công toan sai Dương Thiệt Chức đi bắt mình. Sĩ Phường và Trương Lão nói: - Quan tư mã cứ theo phép công mà làm, can gì lại phải liều mình! Âu là để chúng tôi vào tâu với chúa công. Sĩ Phường và Trương Lão đem tờ tâu của Ngụy Giáng vào dâng Tấn Điệu công. Tấn Điệu công mở ra xem. Trong tờ tâu đại lược như sau: "Chúa công không chê tôi là một kẻ hèn mạt mà sai tôi làm chức tư mã. Tôi nghe nói việc quân quan hệ ở quan nguyên soái, mà quan nguyên soái quan hệ ở mệnh lệnh; chỉ vì không theo mệnh lệnh mà trận Hà Khúc và trận Bí Thành ngày xưa đến nỗi bị thua. Mới rồi tôi có giết một kẻ không theo mệnh lệnh để giữ lấy chức phận quan tư mã. Việc ấy xúc phạm đến ngự đệ, vậy tôi biết tội đã nhiều, xin chịu một gươm ở bên cạnh để chúa công khỏi trái với tấm lòng thân ái ngự đệ". Tấn Điệu công xem xong hỏi Sĩ Phường và Trương Lão rằng: - Ngụy Giáng bây giờ ở đâu? Sĩ Phường và Trương Lão nói: - Ngụy Giáng sợ tội đã toan tự tử, chúng tôi cố can mãi, hiện bây giờ đang đứng ngoài cửa cung. Tấn Điệu công hoảng hốt đứng dậy, không kịp xỏ giầy, liền bước ngay ra ngoài cửa cung, cầm lấy tay Ngụy Giáng mà bảo rằng: - Câu nói của ta là tình riêng, việc làm của nhà ngươi là phép công. Ta không biết dạy em để phạm đến phép công, đó là lỗi tại ta, chứ nhà ngươi có hề chi! Dương Thiệt Chức ở bên cạnh nói to lên rằng: - Chúa công đã xá tội cho thì Ngụy Giáng nên lui ra. Ngụy Giáng lạy tạ. Dương Thiệt Chức cùng với Sĩ Phường và Trương Lão cùng lạy Tấn Điệu công mà chúc mừng rằng: - Chúa công có người bề tôi biết giữ phép như thế, chắc là nên được nghiệp bá chủ! Bốn người cùng cáo từ Tấn Điệu công rồi lui về. Tấn Điệu công vào cung sỉ mắng công tử Dương Can là người không biết giữ phép, suýt nữa thì khiến cho ta mang tiếng xấu, giết lầm một người tướng yêu mến của ta! Tấn Điệu công lại sai nội thị giải công tử Dương Can đến một quan công tộc đại phu là Hàn Vô Kỵ để bắt phải học lễ trong ba tháng, rồi mới được vào yết kiến. Công tử Dương Can lấy làm hổ thẹn vô cùng. Tuân Dinh chia quân xong vừa toan đi đánh Trịnh bỗng có sứ thần nước Tống đưa văn thư đến. Tấn Điệu công mở xem mới biết nước Sở và nước Trịnh thường đem quân qua nước Bức Dương sang xâm phạm địa giới nước Tống. Vì thế nước Tống phải sai sứ sang cáo cấp với nước Tấn. Quan thượng quân nguyên soái là Tuân Yển nói với Tấn Điệu công rằng: - Nước Sở đã thu phục được Trần và Trịnh rồi mà lại sang xâm phạm nước Tống là có ý muốn cùng nước Tấn ta tranh nghiệp bá chủ. Nay nước Bức Dương là con đường của quân Sở sang đánh Tống, nếu ta đem quân thẳng tiến Bức Dương thì chỉ đánh một trận có thể chiếm lấy được, rồi phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú ở đấy, vì hắn có công ở trận Bành Thành khi trước, để hắn ở đấy mà chẹn đường quân Sở, cũng là một kế hay! Tuân Dinh nói: - Bức Dương dẫu nhỏ, nhưng thành quách vững bền lắm, nếu ta đánh mà không được, tất bị các nước người ta chê cười. Quan trung quân phó tướng là Sĩ Mang nói: - Trận Bành Thành, ta đang đánh Trịnh thì Sở xâm Tống để cứu Trịnh; trận Hổ Lao, ta đang cùng với Trịnh giảng hòa thì Sở lại xâm Tống để báo thù. Vậy ta muốn thu phục nước Trịnh thì trước hết phải lập mưu giữ vững nước Tống mới được. Tuân Yển nói phải đó! Tuân Dinh nói: - Hai ngươi có chắc là diệt được nước Bức Dương hay không? Tuân Yển và Sĩ Mang đồng thanh đáp rằng: - Xin nguyên soái cứ chắc ở hai chúng tôi, nếu không thành công thì hai chúng tôi xin chịu tội. Tấn Điệu công nói: - Bá Du (tên tự của Tuân Yển) khởi xướng lên mà Bá Hà (tên tự của Sĩ Mang) giúp vào thì lo gì không được thành công. Tấn Điệu công liền phái đạo quân thứ nhất đi đánh Bức Dương. Nước Lỗ, nước Tào và nước Châu đem quân theo vào đạo ấy. Quan đại phu Bức Dương nói với vua Bức Dương rằng: - Quân Lỗ đóng ở Bắc môn, ta giả cách mở cửa thành ra đánh, khiến cho quân Lỗ kéo vào; chờ khi vào được nửa chừng, bấy giờ ta hạ cánh cửa treo ở trên xuống mà chặn ngang. Quân Lỗ đã thua thì quân Tào, quân Châu tất sợ, tự khắc khí thế của nước Tấn cũng phải nhụt đi! Vua Bức Dương dùng kế ấy. Tướng nước Lỗ là Mạnh Tôn Miệt (tức là Trọng Tôn Miệt) đem bộ thuộc của mình là Thúc Lương Ngột (thân phục đức Khổng Tử), Tần Cận Phụ và Địch Tây Di đánh cửa Bắc môn. Tần Cận Phụ và Địch Tây Di trông thấy cánh cửa treo mở lên, liền cậy sức khỏe tiến vào trước. Thúc Lương Ngột đi theo sau. Bỗng nghe trên mặt thành có tiếng cót két thì cánh cửa treo buông sầm ngay xuống ngay giữa đỉnh đầu Thúc Lương Ngột. Thúc Lương Ngột tức khắc ném cái giáo xuống đất hai tay nâng đỡ cánh cửa từ từ đẩy lên. Toàn hậu đội nước Lỗ thấy vậy, nổi hiệu thu quân. Tần Cận Phụ và Địch Tây Di vội vàng quay mình trở ra. Tướng Bức Dương là Vân Ban ở trong thành đem quân đuổi theo, trông thấy Thúc Lương Ngột đang giơ tay đỡ cánh cửa treo để cho quân Lỗ lui ra, liền giật mình kinh sợ, nghĩ thầm trong lòng rằng: Cánh cửa treo tự trên buồng xuống, nặng kể có nghìn cân, nếu không sức khỏe đỡ lên thế nào nổi, nay ta ra tới đấy mà bị người ấy buông xuống thì phỏng còn gì là tính mệnh. Vân Ban không dám đuổi theo nữa, mới dừng xe lại đứng xem. Thúc Lương Ngột đợi cho quân mình lui ra hết, rồi quát to lên rằng: - Ta đây là một người danh tướng nước Lỗ, tên gọi Thúc Lương Ngột, có ai muốn ra đối địch thì nhân khi ta chưa buông tay này nên mau mau mà ra. Người trong thành không ai dám nói gì cả. Vân Ban giương cung toan bắn. Thúc Lương Ngột nghiêng mình trở ra, rồi buông hai tay không đỡ nữa. Cánh cửa treo lại sập thẳng xuống đất. Thúc Lương Ngột về dinh bảo Tần Cận Phụ và Địch Tây Di rằng: - Tính mệnh hai tướng quân vừa rồi thật ở trong tay ta! Tần Phụ Cận nói: - Nếu hậu đội không nổi hiệu thu quân thì chúng ta cố sức xông vào đã phá vỡ thành Bức Dương rồi! Địch Tây Di nói: - Để đến ngày mai chỉ một mình ta phá vỡ thành Bức Dương cho họ biết cái tài lực nước Lỗ. Ngày hôm sau Mạnh Tôn Miệt lại đem quân đến dưới thành để khiêu chiến, chia quân ra từng đội, mỗi đội năm trăm người. Địch Tây Di nói: - Ta không cần phải ai giúp, chỉ một mình ta là một đội! Địch Tây Di đem áo giáp buộc vào một cái bánh xe, để giương lên làm mộc, rồi cầm cái giáo thật dài, vừa múa vừa xông vào, chạy nhanh như bay. Quân Bức Dương đứng trên mặt thành, trông thấy Địch Tây Di hăng hái như vậy, mới dòng tấm vải xuống mà bảo rằng: - Ta dòng dây cho mà lên, có ai dám lên thì mới cho là giỏi! Nói chưa dứt lời thì trong đám quân Lỗ có một viên tướng bước ra đáp rằng: - Khi nào lại không dám! Viên tướng ấy tức là Tần Cận Phụ. Tần Cận Phụ hai tay bíu vào tấm vải rồi leo lên. Khi gần đến mặt thành thì quân Bức Dương lấy dao cắt đứt tấm vải. Tần Cận Phụ đang ở lưng chừng ngã lăn xuống đất. Thành Bức Dương cao kể mấy nhận (mỗi nhận tám thước), cứ như người khác mà ngã thì chẳng chết cũng bị trọng thương, thế mà Tần Cận Phụ không hề chi cả. Quân Bức Dương lại dòng tấm vải xuống bảo rằng: - Còn dám lên nữa không? Tần Cận Phụ đáp rằng: - Khi nào lại không dám! Tần Cận Phụ bíu tấm vải leo lên, lại bị quân trên mặt thành cắt đứt tấm vải ngã lăn xuống đất. Tần Cận Phụ vừa đứng dậy được thì quân trên mặt thành lại dòng tấm vải xuống hỏi tiếp: - Nào, nào! Còn dám lên nữa hay là thôi đấy! Tần Cận Phụ lại hăng hái đáp lại: - Nếu không dám lên thì sao gọi là người giỏi! Nói xong lại leo lên như trước. Quân Bức Dương ở trên mặt thành trông thấy Tần Cận Phụ đã hai lần ngã mà vẫn dám lên, cũng có ý run sợ, khi giơ dao cắt tấm vải, bị Tần Cận Phụ nắm mà kéo xuống. Người ấy ngã, chết ngay lập tức. Tần Cận Phụ cũng ngã theo xuống, lại gọi quân trên mặt thành mà bảo rằng: - Các ngươi còn dám dòng vải xuống nữa hay thôi? Quân Bức Dương đáp rằng: - Đã biết tài lực của tướng quân rồi, không dám dòng vải xuống nữa! Tần Cận Phụ sai đem ba đoạn vải ấy đưa khắp cho quân sĩ xem, mọi người đều lắc đầu le lưỡi. Mạnh Tôn Miệt khen rằng: - Kinh Thi có câu: "Sức khỏe như hổ", ba tướng (trỏ Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di) nay thật đương nổi câu ấy! Vân Ban thấy các tướng nước Lỗ đều mạnh tựa như thế, không dám ra đánh, truyền cho quân sĩ cố giữ thế thủ. Quân các nước vây thành Bức Dương đã hai mươi ngày mà chưa phá nổi, bỗng trời mưa to lắm. Trên mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, quân sĩ sợ hoảng cả lên. Tuân Yển và Sĩ Mang tướng nước Tấn vội vàng vào thương nghị với Tuân Dinh để xin rút quân về.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  3. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 61 Tấn Điệu công cử binh đánh Sở Tôn Lâm Phủ nổi loạn đuổi vua

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quân Tấn và quân chư hầu vây thành Bức Dương trong 24 ngày mà chưa phá vỡ, bỗng trời mưa to lắm, trên mặt đất bị nước ngập sâu ba thước. Tuân Yển và Sĩ Mang lo sợ, vào nói với Tuân Dinh rằng: - Chúng tôi vẫn tưởng là thành nhỏ dễ đánh, ai ngờ vây mãi không phá được mà trời lại mưa to, nay đang mùa hạ, lại là mùa nước lên, sông Bào Thủy ở phía Tây, sông Tiết Thủy ở phía Đông Bắc, hai sông ấy đều thông nhau với sông Tứ Thủy, vạn nhất trời mưa mãi, nước mấy sông ấy tràn đến thì khó lòng mà thu quân được, chi bằng ta tạm rút về, rồi sau sẽ liệu. Tuân Dinh nổi giận, cầm cái ghế đang ngồi ném xuống trước mặt Tuân Yển và Sĩ Mang mà mắng rằng: - Ta đã bảo thành ấy dẫu nhỏ nhưng vững bền lắm, chưa dễ phá nổi, các ngươi dám tự quyết là đánh được; khi ở trước mặt chúa công, các ngươi cố ý xin đi đánh, để khiến cho ta phải đem quân tới đây. Nay đánh mãi không được, vừa gặp trời mưa, đã muốn rút quân về. Các ngươi muốn đến đây thì dễ, chứ muốn rút về thì khó, ta hạn cho bảy ngày nữa, nếu các ngươi không phá vỡ thành Bức Dương, ta sẽ chém đầu đi! Thôi muốn tốt thì lui ra, chớ vào yết kiến ta làm chi! Tuân Yển và Sĩ Mang sợ hãi, xám xanh cả mặt, vâng dạ mà lui ra, bảo các tướng bộ thuộc của mình rằng: - Quan nguyên soái nghiêm hạn trong 7 ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì chém đầu chúng ta; nay ta cũng nghiêm hạn cho các ngươi nếu trong 6 ngày nữa mà không phá vỡ thì ta cũng chém đâu các ngươi trước, rồi ta sẽ tự tử để giữ lấy quân pháp. Các tướng đều sợ hãi nhìn nhau. Tuân Yển và Sĩ Mang nói: - Quân pháp không phải là nói đùa, chúng ta phải xông pha tên đạn, ngày đêm có tiến mà không thoái. Nói xong, sai người ước với quân nước Lỗ, nước Tào và nước Châu để cùng nhau cố đánh. Bấy giờ thế nước đã hơi lui, Tuân Yển và Sĩ Mang thúc quân tiến đánh; tên đạn ở trên mặt thành bắn xuống như mưa, mà Tuân Yển và Sĩ Mang nhất định không tránh. Sau trong thành hết cả tên đạn, Tuân Yển mới bắc thang trèo lên, Sĩ Mang cũng lên theo, quân tướng các nước đều lục tục kéo nhau lên cả, Vân Ban đánh lại không nổi, chết ở trong đám loạn quân. Tuân Dinh vào thành, vua Bức Dương đem các quan triều thần ra xin hàng. Tấn Điệu công lo không đánh được thành Bức Dương, lại sai hai nghìn quân tinh binh đến để đánh giúp. Khi đi đến đất Sở Khâu (đất nước Vệ), nghe tin Tuân Dinh đã hạ được thành Bức Dương rồi, liền sai sứ đến nước Tống, đem thành Bức Dương phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú. Hướng Thú cùng với Tống Bình công thân hành đến đất Sở Khâu yết kiến Tấn Điệu công. Hướng Thú chối từ nhận phong, Tấn Điệu công liền giao cho Tống Bình công. Tuân Dinh đem những chuyện can đảm và dũng lực của 3 tướng (Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di) nước Lỗ thuật lại cho Tấn Điệu công biết, Tấn Điệu công đều ban thưởng cho, các tướng nước Lỗ lạy tạ, rồi thu quân về. Tấn Điệu công trách vua Bức Dương về tội khi trước giúp Sở, giáng làm thứ nhân, lại chọn một người trong tộc đảng của vua Bức Dương cho ở đất Hoắc Thành để giữ lấy việc cúng tế. Mùa thu năm ấy, Tuân Hội tạ thế, Tấn Điệu công thấy Ngụy Giáng là người biết giữ phép, cho thay Tuân Hội làm chức tân quân phó tướng; cho Trương Lão thay Ngụy Giáng làm chức tư mã. Mùa đông năm ấy, đạo quân thứ hai của Tấn lại sang đánh Trịnh, đóng đồn ở đất Ngưu Thủ (đất nước Trịnh) và đất Hổ Lao. Gặp bấy giờ người nước Trịnh là Úy Chỉ nổi loạn, giết công tử Phi, công tử Phát và công tử Triệt ở Tây Cung. Con công tử Tứ là công tôn Hạ (tên tự là Tử Tây) và con công tử Phát là công tôn Kiều (tên tự là Tử Sản) đều đem quân đi đánh Úy Chỉ. Úy Chỉ chạy về Bắc Cung, công tôn Mại giảng hòa để khiến cho quân Tấn lui về, khi quân Tấn đã lui rồi cũng đem quân đuổi đánh, liền giết chết được đảng Úy Chỉ, rồi lập công tử Gia làm thượng khanh. Loan Áp nói với Tuân Dinh rằng: - Ta nên nhân lúc nước Trịnh có loạn mà tiến đánh ngay thì tất có thể phá được. Tuân Dinh nói: - Nếu ta nhân lúc người ta có loạn mà đánh thì là bất nghĩa. Tuân Dinh truyền hoãn binh không đánh vội. Quan thượng khanh nước Trịnh là công tử Gia xin giảng hòa, Tuân Dinh thuận cho. Đến lúc công tử Trinh nước Sở đem quân cứu Trịnh thì quân Tấn đã rút về rồi. Nước Trịnh lại cùng với nước Sở giảng hòa. Năm sau, Tấn Điệu công lại cho đạo quân thứ ba sang đánh Trịnh. Toàn quân của Hướng Thú nước Tống kéo đến cửa Đông Môn. Quan thượng khanh nước Vệ là Tôn Lâm Phủ đem quân đóng ở Bắc Bỉ. Quan hạ quân nguyên soái nước Tấn là Triệu Vũ đóng ở ngoài Tây Giao. Tuân Dinh đem đại quân từ đất Bắc Lâm kéo qua phía Tây, tiến đến Nam môn, rồi sai người ước với các toán quân cùng vây nước Trịnh. Trịnh Giản công sợ lắm, lại xin giảng hòa. Tuân Dinh lại thuận cho, rồi lui quân về địa giới nước Tống. Trịnh Giản công thân hành đến khao thưởng quân sĩ cùng với Tuân Dinh uống máu ăn thề. Sở Cung Vương giận lắm, sai công tử Trinh sang mượn quân Tần để về đánh Trịnh. Bây giờ Sở Cung Vương phu nhân là em gái Tần Cảnh công (con Tần Hoàn công) hai nước đang có tình thân hiếu với nhau. Tần Cảnh công mới sai quan đại tướng là Doanh Thiêm đem quân sang giúp nước Sở. Sở Cung Vương đem đại binh thẳng đường sang Huỳnh Dương và đoan quyết rằng: - Lần này không diệt được nước Trịnh thì không chịu rút quân về. Trịnh Giản công từ khi giảng hòa với Tấn, biết chắc chắn rằng thế nào nước Sở cũng lại đem quân sang đánh, mới họp các quan triều thần lại để thương nghị. Các quan đại phu đều nói: - Hiện nay thế lực nước Tấn hơn Sở nhiều lắm, chỉ vì quân Tấn đi thì mau mà đến thì chậm, không mấy khi gặp được quân Sở để quyết thư hùng, thành ra hai bên cứ tranh nhau mãi; nếu quân Tấn giao chiến một trận thì quân Sở tự biết sức kém mà phải tránh xa, bấy giờ ta có thể một lòng theo Tấn được. Công tôn Xá Chi hiến kế rằng: - Ta muốn cho Tấn giao chiến thì phải làm cho Tấn tức giận, mà muốn làm cho Tấn tức giận thì không gì bằng đánh Tống. Nay Tống đang giao hiếu với Tấn, vậy ta buổi sớm đánh Tống thì buổi chiều quân Tấn tất sang đánh ta. Quân Tấn đến mau thì quân Sở chưa lui, bấy giờ ta sẽ có cớ mà nói với quân Sở. Các quan đại phu đều khen phải. Trong khi đang hội nghị thì có người báo tin nước Sở sang mượn quân nước Tần. Công tôn Xá Chi mừng mà nói rằng: - Đó là lòng trời khiến cho ta phải theo Tấn! Các quan đại phu đều không hiểu là ý làm sao. Công tôn Xá Chi nói: - Sở và Tấn cùng sang đánh thì nước Trịnh ta chịu thế nào nổi, chi bằng ta sai người ra nghênh tiếp quân Sở, rồi xui sang đánh Tống. Một là tránh khỏi cái hại quân Sở, hai là làm cho quân Tấn tức giận, có phải là được cả đôi đường không. Trịnh Giản công theo kế ấy, liền sai công tôn Xá Chi qua sông Dĩnh Thủy, đi chưa được một xá thì gặp quân Sở. Công tôn Xá Chi xuống xe, sụp lạy ở trước ngựa Sở Cung Vương, Sở Cung Vương sầm nét mặt hỏi rằng: - Nước Trịnh ngươi phản phúc không thực, ta định đem quân đến hỏi tội, nay nhà ngươi tới đây là có ý gì? Công tôn Xá Chi nói: - Chúa công tôi vẫn mến đức đại vương, sợ uy đại vương, muốn suốt đời nương tựa dưới bóng đại vương, không bao giờ dám đổi ý; ngặt vì nước Tấn bạo ngược, cùng với nước Tống xâm nhiễu nước tôi. Chúa công tôi sợ nước nhà bị tàn phá, bất đắc dĩ phải giảng hòa để quân Tấn lui về, khi quân Tấn đã lui rồi thì nước tôi lại là một nước phụ thuộc của đại vương. Chúa công tôi sợ đại vương không thấu cái nông nỗi ấy, nên sai tôi đến đây để giãi bày tâm sự, nếu đại vương sang hỏi tội nước Tống thì chúa công tôi xin đi làm tiên phong. Sở Cung Vương đổi giận làm lành bảo rằng: - Nếu vua Trịnh muốn theo ta đánh Tống thì còn nói gì nữa! Công tôn Xá Chi nói: - Khi tới đây thì chúa công đã sửa soạn quân sĩ để chực đón đại vương ở Đông Bỉ rồi! Sở Cung Vương nói: - Đã đành rằng thế, nhưng quân Tần hẹn ta hội ở đất Huỳnh Dương, ta phải đợi quân Tần mới được. Công tôn Xá Chi nói: - Nước Tần xa cách, tất phải qua Tấn và Chu mới sang đến nước tôi, đại vương sai sứ đi ngăn lại cũng có thể kịp; cứ như uy linh đại vương và thế lực quân sĩ thì cần gì phải mượn đến quân Tần! Sở Cung Vương bằng lòng, liền sai sứ đi tạ quân Tần để cho quân Tần trở về, rồi cùng với công tôn Xá Chi đi về phía Đông. Đi đến đất Hữu Sầm thì thấy Trịnh Giản công đã đem quân ra nghênh tiếp, liền cùng nhau sang đánh Tống, cướp phá địa giới nước Tống, rồi rút quân về. Tống Bình công sai Hướng Thú sang cáo cấp với nước Tấn, và kể chuyện nước Trịnh hợp quân với nước Sở. Tấn Điệu công tức thì nổi giận lại truyền cho đạo quân thứ nhất tiến sang đánh Trịnh. Tuân Dinh nói với Tấn Điệu công rằng: - Nước Sở phải sang mượn quân nước Tần là vì nước Sở trong mấy năm nay chỉ những đi lại mà không thể chịu được sự lao khổ; lần này sang đánh, ta nên tỏ cho nước Trịnh biết những sự cường thịnh của ta thì tự khắc nước Trịnh không dám theo Sở nữa! Tấn Điệu công khen phải, liền đại hội chư hầu là: Tống, Lỗ, Vệ, Tề, Tào, Cử, Châu, Đằng, Tiết, Kỷ và Tiểu Châu cùng đem quân sang đánh Trịnh, diễu quân ở phía Đông môn nước Trịnh, bắt được tù binh nước Trịnh rất nhiều. Trịnh Giản công bảo công tôn Xá Chi rằng: - Nhà ngươi muốn làm cho nước Tấn tức giận, để phải đem quân đến ngay, nay quả nhiên đến thật, nhà người tính thế nào? Công tôn Xá Chi nói: - Tôi xin một mặt sai người giảng hòa với Tấn, một mặt sai người cầu cứu với Sở. Quân Sở đến thì tất phải giao chiến với Tấn, bấy giờ ta chọn nước nào thắng thì theo; nếu quân Sở không đến thì ta giảng hòa với Tấn, rồi đem vàng ngọc mà lễ đút nước Tấn, để Tấn hết lòng bênh vực cho ta, ta còn lo gì nước Sở nữa! Trịnh Giản công khen phải, liền sai quan đại phu là Bá Biền sang giảng hòa với quân Tấn, và sai công tôn Lương Tiêu cùng quan thái tể là Thạch Sước sang nói với Sở Cung Vương rằng: - Hiện nay nước Tấn lại đem quân 11 nước chư hầu đến đánh nước tôi, nước tôi khó lòng mà giữ nổi, xin đại vương sang dẹp hộ quân Tấn, nếu không thì nước tôi bất đắc dĩ lại phải giảng hòa với Tấn, đại vương tha lỗi cho. Sở Cung Vương nổi giận, gọi công tử Trinh đến để hỏi kế. Công tử Trinh nói: - Quân ta mới rút về, chưa được nghỉ ngơi, đã đi thế nào được, chi bằng ta hãy nhường nước Trịnh cho Tấn, lo gì không có ngày lấy lại. Sở Cung Vương vẫn chưa nguôi cơn giận, truyền giam công tôn Lương Tiêu và Thạch Sước, không cho về nước. Tấn Điệu công đóng quân ở đất Tiêu Ngư. Sứ nước Trịnh là Bá Biền xin vào yết kiến, Tấn Điệu công cho vào, rồi nghiêm nét mặt hỏi Bá Biền rằng: - Nước ngươi chỉ mượn việc giảng hòa mà nói dối ta đã nhiều lần rồi! Lần này lại còn muốn dùng kế để hoãn binh hay sao! Bá Biền sụp lạy nói rằng: - Chúa công tôi hiện đã sai sứ sang tuyệt giao với quân Sở, có đâu còn dám hai lòng! Tấn Điệu công nói: - Ta đem lòng thành tín mà đãi nước ngươi, nếu nước người còn phản phúc nữa thì chẳng những một mình ta tức giận, các nước chư hầu cùng tức giận cả. Thôi thì nhà ngươi hãy về bàn lại với vua Trịnh. Bá Biền lại nói: - Chúa công tôi thành kính sai tôi tới đấy, thật là muốn một lòng thần phục nhà vua, xin nhà vua chớ nghi ngại. Tấn Điệu công nói: - Nếu vậy thì vua Trịnh phải ăn thề. Tấn Điệu công sai quan tân quân nguyên soái là Triệu Vũ cùng với Bá Biền vào thành để uống máu ăn thề với Trịnh Giản công. Trịnh Giản công xin thân hành đến dinh quân Tấn để cùng với các nước chư hầu ăn thề. Tấn Điệu công nói: - Nếu vua Trịnh có lòng thành tín thì tự khắc quỷ thần chứng giám, hà tất phải ăn thề một lần nữa! Tấn Điệu công truyền tha hết những tù binh nước Trịnh, và nghiêm cấm các quân không ai được xâm phạm một chút gì; còn toán quân của Hổ Lao cũng sai rút về hết, để mặc cho quân Trịnh giữ lấy. Các nước chư hầu đều can rằng: - Nước Trịnh chưa có thể tin được, nếu còn đem lòng phản phúc thì ta lại phải cho quân sang đóng Hổ Lao, chẳng cũng thêm khó một lần nữa! Tấn Điệu công nói: - Lâu nay tướng sĩ các nước khó nhọc về việc đánh Trịnh, nay ta muốn đem lòng thành tín mà đãi nước Trịnh, ta đã không phụ nước Trịnh thì nước Trịnh tất nhiên thế nào cũng không nỡ phụ ta! Nói xong liền bảo Trịnh Giản công rằng: - Ta biết nước Trịnh cũng khổ về việc tranh chiến mà muốn cùng nước Trịnh yên nghỉ; từ nay trở đi, theo Tấn hay là theo Sở, tùy ý nước Trịnh, ta cũng không cưỡng. Trịnh Giản công cảm động, ứa hai hàng nước mắt khóc mà nói rằng: - Nhà vua đem lòng thành tín mà đãi nước tôi, khi nào nước tôi còn dám làm phản! Trịnh Giản công cáo từ lui ra. Ngày hôm sau, Trịnh Giản công sai công tôn Xá Chi đem 3 người nhạc sư, 16 người nữ nhạc, 36 cái ca chung và cái bác khánh, 30 người nữ công, cùng các thứ binh xa, đến dâng Tấn Điệu công. Tấn Điệu công nhận, rồi đem 8 người nữ nhạc, 12 cái ca chung thưởng cho Ngụy Giáng mà bảo rằng: - Nhà ngươi khuyên ta giảng hòa với các nước Sơn Nhung, khiến cho chư hầu thân ái với ta, vậy ta xin với nhà ngươi cùng hưởng cái thú vui này. Tấn Điệu công lại đem một phần binh xa thưởng cho Tuân Dinh mà bảo rằng: - Nhà ngươi khuyên ta chia quân để làm cho Sở phải khốn quẫn, nay nước Trịnh chịu thần phục ta, cũng là công của nhà ngươi. Ngụy Giáng và Tuân Dinh đều từ chối mà nói rằng: - Đó là nhờ cái uy linh của chúa công, và cái công lao của các nước chư hầu chứ chúng tôi có tài lực gì! Tấn Điệu công nói: - Nếu không có hai ngươi thì sao ta được như thế này! Hai ngươi chớ từ chối. Ngụy Giáng và Tuân Dinh cùng nhau lạy tạ. Các nước chư hầu đều rút quân về nước cả. Tấn Điệu công sai người sang sứ các nước để tạ lại cái công khó nhọc đem quân đi giúp. Các nước chư hầu đều được bằng lòng. Từ bấy giờ nước Trịnh một lòng theo Tấn. Khi trước Tần Cảnh công đem quân sang đánh Tấn để cứu nước Trịnh, đánh được quân Tấn ở đất Lịch Địa, sau nghe tin nước Trịnh đã đầu hàng nước Tấn, liền rút quân về. Năm sau vua nước Ngô là Thọ Mộng ốm nặng gọi 4 con trai là: Chư Phàn, Dư Sái, Di Muội và Quý Trát đến bên cạnh giường nằm mà bảo rằng: - Trong 4 anh em mày, chỉ có Quý Trát là hiền hơn cả, nếu lập Quý Trát thì có thể làm cho nước Ngô ta được thịnh; xưa nay ta vẫn muốn lập Quý Trát làm thế tử, nhưng Quý Trát cố ý từ chối. Vậy thì khi ta chết rồi Chư Phàn truyền cho Dư Sái, Dư Sái truyền cho Di Muội, Di Muội truyền cho Quý Trát, cứ thay đổi nhau mà truyền cho em, chứ không được truyền cho con, cốt để cho Quý Trát được lên làm vua mà giữ lấy cơ nghiệp nước nhà, nếu ai trái mệnh ta, tức là bất hiếu. Vua nước Ngô nói xong thì chết. Chư Phàn nhường ngôi cho Quý Trát mà nói rằng: - Ấy là theo cái ý muốn của thân phụ ta đó! Quý Trát nói: - Khi thân phụ ta hãy còn, em đã cố từ ngôi thế tử, huống chi nay thân phụ tạ thế rồi, em lại nhận lấy ngôi vua hay sao! Nếu anh cố nhường thì em xin trốn sang nước khác. Chư Phàn bất đắc dĩ mới phải lên nối ngôi. Tấn Điệu công sai sứ sang nước Ngô để viếng tang vua cũ và chúc mừng vua mới. Qua năm sau, tướng nước Tấn là Tuân Dinh, Sĩ Phường và Ngụy Tướng đều ốm chết cả. Tấn Điệu công lại luyện quân ở Miêu Sơn muốn cho Sĩ Mang làm trung quân nguyên soái. Sĩ Mang từ chối mà nói rằng: - Bá Du (tên tự của Tuân Yển) còn nhiều tuổi hơn tôi, tôi xin nhường Bá Du. Tấn Điệu công liền cho Tuân Yển được thay Tuân Dinh làm trung quân nguyên soái, Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; lại muốn cho Hàn Khởi làm thượng quân nguyên soái. Hàn Khởi nói: - Triệu Vũ là người hiền hơn tôi, tôi xin nhường Triệu Vũ. Tấn Điệu công liền cho Triệu Vũ thay Tuân Yển làm thượng quân nguyên soái, Hàn Khởi làm thượng quân phó tướng. Loan Áp vẫn làm hạ quân nguyên soái như cũ, Ngụy Giáng làm hạ quân phó tướng. Còn đạo tân quân chưa có ai làm nguyên soái, Tấn Điệu công nói: - Chẳng thà để ngôi không mà đợi người hiền, còn hơn dùng những người không xứng chức! Tấn Điệu công truyền cho bộ thuộc tân quân hãy phụ theo vào đạo hạ quân. Các quan đại phu đều nói: - Chúa công ta dùng người thật là cẩn thận lắm! Từ bấy giờ ai cũng cố giữ bổn phận, không dám trễ biếng. Nước Tấn lại cường thịnh, nối được cơ nghiệp như đời Tấn Văn công và Tấn Tương công thủa xưa. Sau Tấn Điệu công lại bỏ bớt đạo tân quân, chỉ còn có 3 đạo (thượng quân, trung quân và hạ quân) để giữ lễ chư hầu. Năm ấy Sở Cung Vương (Thẩm) chết, thế tử Chiêu lên nối ngôi, tức là Sở Khanh Vương. Vua nước Ngô là Chư Phàn sai quan đại tướng là Công Tử Đảng đem quân đi đánh Sở. Tướng nước Sở là Dưỡng Do Cơ đem quân ra nghênh chiến, bắn chết công tử Đảng. Quân nước Ngô bị thua rút về. Chư Phàn (vua nước Ngô) sai sứ sang cáo cấp với Tấn Điệu công. Tấn Điệu công hội chư hầu ở Hướng Địa để thương nghị. Quan đại phu nước Tấn là Dương Thiệt Bật (con thứ Dương Thiệt Chức) nói với Tấn Điệu công: - Nước Ngô nhân khi nước Sở có tang mà đem quân sang đánh thì thua là phải, can gì mà giúp; còn Tần là một nước láng giềng với ta, vả cùng ta có tình thân thuộc, mà khi trước lại theo Sở cứu Trịnh, đánh thua quân ta ở Lịch Địa, việc ấy nên báo thù. Nếu ta đánh được quân Tần thì thế lực nước Sở phải suy kém đi. Tấn Điệu công khen phải, liền sai Tuân Yển đem quân cùng với các nước chư hầu đi đánh Tần, còn mình thì đóng quân ngoài cõi để đợi tin tức. Tần Cảnh công nghe nói quân Tấn sắp đến, sai người đem mấy bì thuốc độc bỏ chìm ở thượng lưu sông Kinh Thủy. Quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng với quân nước Cử sang đó uống phải nước sông, nhiều người bị thuốc độc chết. Các toán quân khác không ai dám sang đó nữa. Quan đại phu nước Trịnh là công tôn Kiền đem quân tiến sang, Bắc Cung Quát theo sau, từ bấy giờ các toán quân đều kéo nhau sang cả, đóng đồn ở Vực Lâm. Quan trung quân nguyên soái nước Tấn là Tuân Yển truyền lệnh cho các quân đều sửa soạn sẵn, để đến gà gáy hôm sau cứ theo đầu ngựa mình quay về phía nào thì đi phía ấy. Quan hạ quân nguyên soái là Loan Áp vốn không phục Tuân Yển, nghe thấy truyền lệnh như vậy nổi giận mà rằng: - Việc quân phải bàn với người nọ người kia, nếu mình có ý kiến gì cũng nên nói rõ cho người ta biết, có lẽ nào trong 3 đạo quân mà chỉ nom về đầu ngựa của một người! Đây ta cũng là hạ quân nguyên soái, đầu ngựa ta chỉ muốn quay về phía Đông. Loan Áp liền đem quân bộ thuộc rút về phía Đông. Quan hạ quân phó tướng là Ngụy Giáng nói: - Chức phận ta phải theo quan nguyên soái của ta, không theo lệnh Tuân Yển được! Ngụy Giáng cũng theo Loan Áp rút quân về. Tuân Yển nói: - Ta truyền lệnh không rõ, đó là lỗi của ta, nay các tướng đã không theo lệnh thì còn thành công sao được! Tuân Yển truyền cho các nước chư hầu đều rút quân về cả. Nước Tấn cũng rút quân về. Bấy giờ Loan Hàm làm chức nhung hữu ở đạo hạ quân, nhất định không chịu, bảo người con Phạm Mang (tức Sĩ Mang) là Phạm Ưởng rằng: - Ngày nay chỉ cốt sang báo thù nước Tần, nếu không thành công thì lại càng thêm xấu hổ. Hai anh em ta (Loan Hoàn là em Loan Áp) có lẽ nào lại cùng rút quân về, nhà ngươi có dám cùng ta sang đánh quân Tần hay không? Phạm Ưởng nói: - Nhà ngươi còn biết nghĩ đến điều quốc sỉ, sao tôi lại không theo. Phạm Ưởng cùng với Loan Hàm đem quân sang đánh nước Tần. Tần Cảnh công đang sai người đi do thám xem tình hình quân Tấn thế nào, bỗng thấy có một toán tiến đến, Tần Cảnh công sai công tử Vô Địa đem quân ra nghênh chiến. Loan Hàm và Phạm Ưởng hai người càng cố sức tiến đánh, giết được quân Tần nhiều lắm. Quân Tần sợ hãi, đã toan bỏ chạy, nhưng trông thấy toán quân của Loan Hàm và Phạm Ưởng không có quân tiếp ứng, liền nổi hiệu trống rồi đem quân vây kín xung quanh. Phạm Ưởng bảo Loan Hàm rằng: - Quân Tần thế mạnh lắm, không thể đương nổi! Loan Hàm không nghe, lại gặp có đại binh của tướng nước Tần là Doanh Thiềm kéo đến. Loan Hàm lại cố sức xung đột, một tay giết chết được mấy người nữa, rồi bị luôn bảy mũi tên mà chết. Phạm Ưởng cố sức phá vòng vây chạy thoát. Loan Áp trông thấy Phạm Ưởng về một mình, liền hỏi: - Em ta đâu? Phạm Ưởng nói: - Đã mắc nạn ở trong đám quân Tần rồi! Loan Áp nổi giận, cầm giáo đâm theo Phạm Ưởng. Phạm Ưởng không dám chống lại, ù té bỏ chạy. Loan Áp đuổi theo. Người cha Phạm Ưởng là Phạm Mang ngăn Loan Áp lại mà bảo rằng: - Sao nữ tế lại quá giận như vậy! Loan Áp vẫn còn hầm hầm nổi giận, quát to lên rằng: - Con ông rủ em tôi cùng sang đánh quân Tần, nay em tôi chết trận mà con ông sống về, thế có phải là con ông giết em tôi hay không? Ông chịu đuổi nó đi, tôi còn có thể tha thứ được, nếu không thì tôi tất phải giết nó để đền mạng cho em tôi! Phạm Mang nói: - Việc đó ta không được biết, âu là để ta đuổi nó đi! Phạm Ưởng nghe nói liền bỏ trốn sang nước Tần, đem sự tình đầu đuôi thuật lại cho Tần Cảnh công nghe. Tần Cảnh công mừng lắm, đãi lấy lễ thượng khanh. Một hôm, Tần Cảnh công hỏi Phạm Ưởng rằng: - Vua Tấn là người thế nào? Phạm Ưởng nói: - Là một ông vua hiền, biết người mà khéo dùng. Tần Cảnh công lại hỏi: - Các quan đại phu nước Tấn, ai hiền hơn cả? Phạm Ưởng nói: - Triệu Vũ, Ngụy Giáng, Dương Thiệt Bật, Trương Lão, Kỳ Ngọ và cha tôi là Phạm Mang đều là những bậc tài giỏi cả; còn các quan công khanh khác cũng đều biết giữ phép, làm cho trọn chức phận của mình, tôi chưa dám khinh thường mà bàn hết được. Tần Cảnh công lại hỏi: - Thế thì trong các quan đại phu nước Tấn, người nào có cơ suy vong trước? Phạm Ưởng nói: - Có họ Loan muốn suy vong trước. Tần Cảnh công nói: - Ý chừng vì cớ xa xỉ phải không? Phạm Ưởng nói: - Loan Áp dẫu xa xỉ cũng chưa việc gì, đến đời con là Loan Doanh thì tất không khỏi nạn được! Tần Cảnh công hỏi: - Tại cớ làm sao! Phạm Ưởng nói: - Loan Thư ngày xưa thương dân trọng sĩ, lòng người ai cũng yêu mến, bởi vậy dẫu có việc giết vua mà trong nước không ai nói đến, là vì nhờ có cái ân đức cũ; nay Loan Thư đã chết đi rồi, mà Loan Doanh lại là người không có nhân chính, tài nào giữ cho khỏi suy vong được! Tần Cảnh công khen rằng: - Nhà ngươi thật là một người hiểu lẽ lắm! Tần Cảnh công nhân có Phạm Ưởng, liền giao kết với Phạm Mang rồi sai người sang giảng hòa với nước Tấn, và xin cho Phạm Ưởng được phục chức, Tấn Điệu công thuận cho. Phạm Ưởng về nước Tấn, Tấn Điệu công cho Phạm Ưởng cùng Loan Doanh đều làm quan công tộc đại phu, và bảo Loan Áp không được thù oán Phạm Ưởng nữa. Từ bấy giờ Tần và Tấn lại giảng hòa với nhau. Đến năm ấy Loan Áp chết, con là Loan Doanh thay làm hạ quân phó tướng. Lại nói chuyện Vệ Hiến công tên là Hãn, thay cha là Vệ Định công lên nối ngôi vua, trong khi có tang mà không thương xót chút nào. Bà đích mẫu Vệ Hiến công thấy vậy, biết là không thể làm vua được, vẫn thường thường đem lời khuyên bảo, mà Vệ Hiến công không nghe; đến lúc hết tang, lại càng phóng túng lắm, chỉ tin dùng đứa xu nịnh, ham mê sự chơi bời, chẳng thiết gì đến chính trị cả. Vệ Định công ngày xưa có người em cùng mẹ là công tử Hắc Bối, vẫn cậy thế chuyên quyền; con công tử Hắc Bối là công tôn Phiếu lại nối tước của cha làm quan đại phu, cũng là một người có quyền lược. Quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ, quan á khanh là Ninh Thực thấy Vệ Hiến công vô đạo, đều cùng với công tôn Phiếu kết giao. Tôn Lâm Phủ lại mật kết với nước Tấn để làm ngoại viện, và đem những đồ bảo ngọc thiên sang Thích Địa (Ấp ăn lộc của Tôn Lâm Phủ), cho vợ con về đấy. Vệ Hiến công nghi Tôn Lâm Phủ có lòng làm phản, chưa dám nói ra. Một hôm, Vệ Hiến công hẹn Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực cùng đến ăn cơm trưa. Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực mặc đồ triều phục đứng đợi ở ngoài cung môn từ sáng đến trưa mà không thấy lệnh truyền cho vào; ở trong cung cũng không thấy có một người nào đi ra cả. Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực sinh nghi. Vả trông trời đã xế chiều, cũng có ý mệt nhọc, mới cùng nhau gõ cửa xin vào yết kiến. Nội thị nói: - Chúa công đang tập bắn ở sau vườn. Hai ngài có muốn yết kiến thì mời hai ngài vào đây. Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực nổi giận, nhưng cũng cố nhịn đói mà vào thẳng sau vườn, trông thấy Vệ Hiến công đang đội cái mũ da (thứ mũ dùng để đi săn) cùng với xạ sư là công tôn Đinh thị bắn. Vệ Hiến công trông thấy Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đến trước mặt, không bỏ cái mũ da xuống, lại đeo cung vào nách mà hỏi rằng: - Hai ngươi hôm nay đến đây có việc gì? Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đồng thanh đáp rằng: - Chúng tôi thấy chúa công hẹn cho ăn cơm trưa, chầu chực đến giờ, bụng đã đói lắm, không dám trái lệnh, vậy phải vào đây. Vệ Hiến công nói: - Ta ham bắn quá, thành ra quên mất, thôi thì hai ngươi hãy lui về, để đến hôm khác! Vệ Hiến công nói xong thì vừa gặp có đàn chim bay qua, vừa bay vừa kêu, Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng: - Ta cùng nhà ngươi bắn thi đàn chim này! Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực hổ thẹn lui ra. Tôn Lâm Phủ nói riêng với Ninh Thực rằng: - Chúa công ham mê chơi bời, chỉ yêu những đứa tiểu nhân, không biết kính trọng các quan đại thần, chúng ta sau này khó lòng mà khỏi hại được, biết làm thế nào? Ninh Thực nói: - Chúa công vô đạo thì chỉ hại thân mà thôi, chứ hại chúng ta thế nào nổi? Tôn Lâm Phủ hỏi: - Ta muốn lập công tôn Phiếu làm vua, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ninh Thực nói: - Việc ấy rất phải! Ta cùng nhà ngươi sẽ liệu thế mà làm. Hai người từ biệt nhau rồi về. Tôn Lâm Phủ về nhà, ăn cơm xong, ngay đêm hôm ấy sai người sang Thích Địa gọi bọn gia thần là Dữu Công Sai và Doãn Công Đà sửa soạn quân mã định nổi loạn, lại sai người con trưởng là Tôn Khoái vào yết kiến Vệ Hiến công, để dò xem ý tứ ra sao. Tôn Khoái vào tâu với Vệ Hiến công rằng: - Cha tôi là Tôn Lâm Phủ bị bệnh cảm phong, phải về dưỡng bệnh ở bến sông Hà, xin chúa công miễn thứ cho. Vệ Hiến công cười bảo rằng: - Cha ngươi chỉ vì đói quá mà thành bệnh đó thôi, nay ta không dám để cho nhà ngươi lại đói nữa! Vệ Hiến công truyền nội thị đem rượu ra cho Tôn Khoái uống, lại gọi nhạc công ra để hát. Quan thái sư tâu với Vệ Hiến công rằng: - Chẳng hay chúa công dạy hát bài gì? Vệ Hiến công nói: - Có chương cuối cùng trong thơ "Xảo ngôn" thật hợp với thời sự ngày nay, nhà ngươi hát bài ấy. Quan thái sư tâu rằng: - Bài thơ ấy ý không được hay, tôi thiết tưởng trong khi tiệc vui, không nên hát đến. Có một người nhạc công là Sư Tào nói át đi rằng. - Chúa công dạy bài hát gì thì cứ bài hát ấy, can gì lại nói lôi thôi! Nguyên Sư Tào gẩy đàn cầm hay lắm. Vệ Hiến công sai dạy một người thiếp yêu. Người thiếp yêu không nghe lời dạy. Sư Tào đánh 10 roi. Người thiếp yêu ấy vào mách với Vệ Hiến công. Vệ Hiến công đánh Sư Tào 300 roi ở trước mặt người thiếp yêu, bởi vậy Sư Tào căm tức, bấy giờ biết bài thơ ấy không hay, mà cố ý muốn hát, để làm cho Tôn Khoái phải tức giận. Sư Tào liền cất giọng hát rằng: "Kẻ kia là ai, ở bến sông Hà; không tài lực gì, mà muốn nổi loạn!" Chủ ý Vệ Hiến công là nhân thấy Tôn Lâm Phủ ở bến sông Hà có ý muốn nổi loạn, nên mượn câu hát, để khiến cho Tôn Lâm Phủ phải sợ. Tôn Khoái nghe câu hát, không bằng lòng, xin cáo từ lui ra. Vệ Hiến công nói: - Mới rồi bài hát của Sư Tào, nhà ngươi về nên thuật lại cho cha ngươi biết; cha ngươi dẫu ở xa, nhưng có điều gì, đây ta cũng biết cả, nên phải giữ gìn bệnh thể. Tôn Khoái sụp lạy lui ra, về nói chuyện lại với Tôn Lâm Phủ. Tôn Lâm Phủ nói: - Chúa công đã ghét ta quá lắm, chẳng lẽ ta cứ ngồi mà chịu chết hay sao! Có Cừ Viên (tên tự là Bá Ngọc, làm quan đại phu nước Vệ) là người hiền, nếu người ấy chịu đồng mưu với ta thì làm gì mà chẳng xong việc! Tôn Lâm Phủ lẻn đến yết kiến Cừ Viên mà bảo rằng: - Chúa công vô đạo nhà ngươi cũng đã biết, ta chỉ e rằng có ngày mất nước thì làm thế nào? Cừ Viên nói: - Bề tôi thờ vua, điều gì can được thì can, điều gì không can được thì đành bỏ mà đi, còn điều khác tôi không dám biết. Tôn Lâm Phủ liệu chừng Cừ Viên không thể lay động được, mới cáo từ trở về.. Ngay ngày hôm ấy, Cừ Viên bỏ trốn sang nước Lỗ. Tôn Lâm Phủ họp quân ở Khâu Cung để sắp đánh Vệ Hiến công. Vệ Hiến công sợ, sai sứ đến Khâu Cung giảng hòa với Tôn Lâm Phủ, Tôn Lâm Phủ bắt mà giết đi. Vệ Hiến công sai người rình xem Ninh Thực làm gì, thấy Ninh Thực đang sắp quân để tiếp ứng cho Tôn Lâm Phủ. Vệ Hiến công lại sai người gọi Bắc Cung Quát. Bắc Cung Quát cáo ốm không đến. Công tôn Đinh nói với Vệ Hiến công rằng: - Bây giờ việc đã nguy cấp, nên mau mau trốn sang nước khác còn có ngày lại trở về được. Vệ Hiến công liền đem một toán quân mở cửa Đông, định thẳng đường trốn sang nước Tề. Công tôn Đinh mang cung tên đi theo. Tôn Khoái và Tôn Gia (con thứ của Tôn Lâm Phủ) hai anh em đuổi theo đến Hà Trạch, đánh giáp một trận, toán quân của Vệ Hiến công bỏ chạy tán loạn cả, chỉ còn độ hơn mười người mà thôi; may nhờ có công tôn Đinh bắn giỏi lắm, không sai một phát nào, người nào đến gần, đều bị tên mà chết, bởi vậy mới bảo toàn cho Vệ Hiến công chạy thoát được. Tôn Khoái và Tôn Gia không dám đuổi theo nữa mà phải trở về, vừa đi được ba dặm thì thấy Dữu Công Sai và Doãn Công Đà đem quân đến, nói là vâng lệnh Tôn Lâm Phủ đi đuổi bắt Vệ Hiến công. Tôn Khoái và Tôn Gia nói: - Có một người bắn giỏi lắm, các tướng nên phải phòng bị mới được. Dữu Công Sai nói: - Người ấy chắc là thầy ta, tên gọi công tôn Đinh đó! (Nguyên Doãn Công Đà học nghề bắn của Dữu Công Sai, Dữu Công Sai, lại học nghề bắn của công tôn Đinh, ba người cùng một môn phái, cho nên đều biết tài nhau cả). Doãn Công Đà nói: - Hôn quân đi cũng chưa xa, ta hãy cố đuổi theo. Đuổi theo 15 dặm nữa thì vừa kịp Vệ Hiến công. Người dong xe của Vệ Hiến công bị thương, công tôn Đinh phải cầm cương xe cho Vệ Hiến công. Công tôn Đinh ngoảnh lại, trông thấy Dữu Công Sai còn ở đằng xa, mới bảo Vệ Hiến công rằng: - Người đuổi theo ấy là học trò tôi đó. Có lẽ nào học trò lại hại thầy, chúa công chớ ngại! Công tôn Đinh dừng xe lại để đợi. Dữu Công Sai đi đến nơi, ngoảnh lại bảo Doãn Công Đà rằng: - Thật là thầy ta rồi! Nói xong, liền xuống xe sụp lạy. Công tôn Đinh chào lại rồi vẫy tay bảo đi. Dữu Công Sai trèo lên xe mà nói rằng: - Công việc ngày nay, người nào cũng vì chủ mà làm. Nếu ta bắn thì bội thầy, mà không bắn thì là bội chủ; nay ta có một cách khiến cho trọn vẹn được cả đôi đàng! Dữu Công Sai liền cầm cái tên gõ xuống bánh xe, bẻ đầu mũi nhọn đi, rồi nói to lên rằng: - Xin thầy chớ sợ! Dữu Công Sai nói xong, bắn luôn bốn phát tên; phát trước trúng vào cái thức (cái chắn ngang ở trước mặt), phát sau trúng vào cái chẩn (cái chắn ngang ở sau lưng), còn hai phát nữa trúng vào hai bên tả hữu, chỉ trừ có Vệ Hiến công và công tôn Đinh ngồi ở giữa xe là không can gì! Dữu Công Sai bắn xong, tức khắc quay xe trở về. Công tôn Đinh cũng giục ngựa tiến đi mau. Doãn Công Đà lúc trước trông thấy Vệ Hiến công, đã toan giương cung ra bắn, nhưng vì có Dữu Công Sai là thầy mình ở đấy, vậy phải nhường quyền cho thầy. Khi về đến nửa đường, có ý hối lại, mới bảo Dữu Công Sai rằng: - Thầy cùng với công tôn Đinh là nghĩa thầy trò, vậy phải dụng tình như thế; còn như tôi đã cách đi một tầng rồi, thế thì ơn thầy chưa trọng bằng mệnh chủ, nếu không cố thành công, thì chẳng hóa ra bội chủ lắm ru! Dữu Công Sai nói: - Thầy ta (trỏ công tôn Đinh) bắn giỏi lắm, không kém gì Dưỡng Do Cơ, nhà ngươi không địch nổi đâu, khéo chẳng có mất mạng! Doãn Công Đà không tin lời Dữu Công Sai, lại quay đi đuổi theo Vệ Hiến công.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  4. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 62 Chư hầu đem quân vây Tề quốc Vua Tấn lập kế đuổi Loan Doanh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Doãn Công Đà không tin lời Dữu Công Sai, lại quay đi đuổi theo Vệ Hiến công. Đi được hơn 20 dặm, vừa theo kịp đến nơi. Công tôn Đinh hỏi rằng: - Nhà ngươi theo ta để làm gì? Doãn Công Đà nói: - Thầy ta là Dữu Công Sai, cùng với nhà ngươi là tình thầy trò; ta đây dẫu là học trò Dữu Công Sai, nhưng chưa hề có học nhà ngươi một ngày nào cả, vậy thì ta coi nhà ngươi khác nào như người qua đường mà thôi, có lẽ nào vì người qua đường mà bỏ công nghĩa hay sao! Công tôn Đinh nói: - Nhà ngươi đã học nghề bắn của Dữu Công Sai thì cũng nên biết cái nghề ấy từ đâu mà ra! Làm người chớ nên quên gốc, mau mau trở về đi, kẻo mất cả tử tế! Doãn Công Đà không nghe lời giương cung ra bắn công tôn Đinh. Công tôn Đinh chẳng sợ hãi chút nào cả, sẽ đưa dây cương cho Vệ Hiến công, rồi chờ khi mũi tên đến, giơ tay bắt lấy, bỏ vào cung bắn trả Doãn Công Đà. Doãn Công Đà nghiêng mình để tránh thì mũi tên trúng ngay vào cánh tay tả, vội vàng bỏ chạy. Công tôn Đinh lại bắn thêm một phát nữa. Doãn Công Đà chết ngay lập tức. Quân sĩ sợ hãi, bỏ xe chạy trốn. Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng: - Nếu không nhờ có thần tiễn của nhà ngươi thì tính mạng ta còn gì! Công tôn Đinh lại cầm lấy dây cương giục ngựa đi mau. Đi được hơn 10 dặm, lại thấy phía sau có một toán quân kéo đến. Vệ Hiến công nói: - Lại có quân đuổi theo thì làm thế nào mà chạy cho thoát được! Khi toán quân đi đến nơi thì hóa ra người em cùng mẹ với Vệ Hiến công là công tử Chuyên cố theo để hộ giá. Vệ Hiến công mới được yên lòng, liền cùng nhau chạy sang nước Tề. Tề Linh công cho ở Lai Thành. Tôn Lâm Phủ đã đuổi Vệ Hiến công rồi, mới bàn với Ninh Thực lập công tử Phiếu lên nối ngôi, tức là Vệ Thương công. Tôn Lâm Phủ lại sai người báo tin cho Tấn Điệu công biết. Tấn Điệu công hỏi Tuân Yển rằng: - Nước Vệ đuổi vua nọ lập vua kia, sao hợp lẽ phải, ta nên xử ra làm sao? Tuân Yển nói: - Vua Vệ vô đạo, chư hầu ai cũng biết, nay quan dân nước Vệ đều bằng lòng lập công tử Phiếu, âu là ta cứ mặc kệ thì hơn. Tấn Điệu công theo lời. Tề Linh công nghe tin Tấn Điệu công không hỏi cái tội đuổi vua của Ninh Thực nước Vệ, liền thở dài mà than rằng: - Vua Tấn đã có ý lười biếng rồi! Ta không nhân dịp này mà tranh lấy nghiệp bá chủ, còn đợi đến bao giờ! Tề Linh công đem quân sang cướp phá ấp Thành của nước Lỗ. Nguyên Tề Linh công lấy con gái nước Lỗ là Nhan Cơ làm phu nhân, không có con; người thiếp là Dung Cơ, sinh được một người con tên là Quang. Tề Linh công lập làm thế tử. Sau đó Tề Linh công lại có một người thiếp yêu là Nhung Tử, cũng không có con, em gái Nhung Tử là Trung Tử, sinh được một người con tên là Nha. Nhung Tử nhận Nha làm con mình. Tề Linh công lại có người vợ khác nữa sinh ra công tử Chử Cữu, nhưng Tề Linh công không có lòng yêu. Nhung Tử cậy thế Tề Linh công yêu, đòi lập Nha làm thế tử. Tề Linh công thuận cho. Trung Tử can rằng: - Chúa công lập Quang làm thế tử, kể đã lâu ngày! Thế tử Quang lại đã nhiều lần dự hội với chư hầu, nay tự nhiên vô cớ mà bỏ đi thì e rằng người trong nước không phục, sau không hối lại được nữa! Tề Linh công nói: - Bỏ hay là lập, quyền ở trong tay ta ai dám không phục. Tề Linh công sai thế tử Quang đem quân ra trấn thủ ở Tức Mặc. Thế tử Quang vừa đi xong thì Tề Linh công truyền lệnh bỏ thế tử Quang mà lập Nha làm thế tử; lại cho quan thượng khanh là Cao Hậu (con Cao Quốc) làm thái phó, và kẻ tự nhân là Túc Sa Vệ làm thiếu phó để dạy thế tử Nha. Lỗ Tương công nghe tin thế tử Quang phải bỏ, sai sứ sang hỏi xem vì cớ gì, Tề Linh công không thể trả lời được, lại lo nước Lỗ giúp thế tử Quang mà tranh nhau với thế tử Nha, liền đem quân đánh Lỗ, là có ý muốn dọa nước Lỗ, rồi sau sẽ giết thế tử Quang. Lỗ Tương công sai người sang cáo cấp với Tấn Điệu công. Gặp bấy giờ Tấn Điệu công ốm nặng, không sang cứu Lỗ được. Cuối năm ấy Tấn Điệu công mất, thế tử Bưu lên nối ngôi tức là Tấn Bình công. Lỗ Tương công lại sai sứ viếng tang và cáo cấp với Tấn Bình công. Tuân Yển nói với Tấn Bình công rằng: - Đợi sang mùa xuân, ta sẽ đại hội chư hầu, nếu nước Tề không đến, bấy giờ đem quân đi đánh, cũng chưa có gì làm chậm. Năm sau, Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Khứu Lương. Tề Linh công không đến, cho quan đại phu là Cao Hậu đi thay. Tuân Yển nổi giận, toan bắt giam Cao Hậu. Cao Hậu trốn về, lại đem quân cướp phá ấp Phường của nước Lỗ, giết quan trấn thủ ở ấp Phường là Tang Niên. Thúc Tôn Báo nước Lỗ lại sang nước Tấn cầu cứu. Tấn Bình công liền sai Tuân Yển họp quân các nước chư hầu cùng sang đánh Tề. Tuân Yển vừa điểm duyệt quân mã xong, đêm hôm ấy nằm mộng thấy một người sứ giả mình mặc áo vàng, tay cầm cuốn văn thư, đến bắt Tuân Yển đi đối chứng. Tuân Yển đi theo người sứ giả. Đi đến một nơi dinh tòa to lớn, trên có đức vương giả ngồi, mũ cao áo dài. Sứ giả liền bảo Tuân Yển quỳ xuống dưới sân, Tuân Yển trông thấy những người cùng quỳ với mình là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt, Tư Đồng, Trường Ngư Kiểu và một bọn người nhà ba họ Khước. Trong lòng Tuân Yển lấy làm quái lạ, lại nghe thấy bọn Tư Đồng cùng với ba họ Khước cãi lý nhau lâu lắm, nhưng nghe không được rõ. Được một lúc thì thấy ngục tốt giải bọn ấy đi chỗ khác, chỉ còn có bốn người ở lại là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt và Tuân Yển mà thôi. Tấn Lệ công kể hết sự tình đầu đuôi trong khi bị giết. Loan Thư cãi rằng: - Việc ấy tự Trình Hoạt hạ thủ! Trình Hoạt nói: - Việc ấy chủ mưu tự Loan Thư, tôi chẳng qua phụng mệnh mà làm, sao lại đổ tội cho tôi được! Đức vương giả ở trên điện giáng chỉ rằng: - Lúc bấy giờ Loan Thư cầm quyền chính, nên trị tội thủ ác, làm cho trong 5 năm nữa thì con cháu phải tuyệt diệt. Tấn Lệ công có ý tức giận mà rằng: - Việc ấy cũng bởi tay Tuân Yển, sao Tuân Yển lại được vô tội. Tấn Lệ công liền đứng ngay dậy, cầm giáo đánh vào đầu Tuân Yển. Trong khi bấy giờ, Tuân Yển thấy đầu mình rơi xuống trước mặt, vội vàng lấy tay nhặt đầu, quỳ xuống mà đặt lên cổ, rồi chạy ra ngoài cửa điện. Tuân Yển đang chạy thì gặp người thầy đồng ở đất Ngạnh Dương tên gọi là Linh Cao. Linh Cao bảo Tuân Yển rằng: - Sao đầu nhà ngươi lại lệch như thế kia! Linh Cao lấy tay chữa lại, Tuân Yển đau quá, rồi sực tỉnh dậy thành ra một giấc chiêm bao, nghĩ thầm lấy làm lạ. Ngày hôm sau, Tuân Yển vào triều, quả nhiên lại gặp Linh Cao ở giữa đường. Tuân Yển cho Linh Cao lên ngồi cùng xe, rồi kể chuyện chiêm bao cho nghe. Linh Cao nói: - Thế là oan gia nó báo, sắp chết đến nơi! Tuân Yển hỏi: - Nay ta sang đánh Tề, phỏng có kịp hay không? Linh Cao nói: - Còn có thể đánh được nước Tề! Tuân Yển liền hội quân các nước chư hầu cùng sang đánh Tề. Cả thẩy 12 đạo quân là: 1. Tấn, 2. Tống, 3. Lỗ, 4. Vệ, 5. Trịnh, 6. Tào, 7. Cử, 8. Châu, 9. Đằng, 10. Tiết, 11. Kỷ, 12. Tiểu Châu. Tề Linh công sai quan thượng khanh là Cao Hậu giúp thế tử Nha giữ nước, còn mình thì đem đại binh ra đóng ở thành Bình Âm. Phía Nam thành Bình Âm có cái Phương môn. Tề Linh công sai Kỳ Quý Phủ đào một dãy hào sâu ở ngoài Phương môn, bề ngang rộng một dặm rồi tuyển quân tinh binh ra phòng giữ ở đấy. Bọn Túc Sa Vệ nói với Tề Linh công rằng: - Quân 12 nước vị tất đã đồng tâm được, ta nên nhân lúc mới đến mà đánh ngay, phá được một đạo thì các đạo đều sợ mất vía cả; nếu không đánh thì phải tìm nơi hiểm yếu mà giữ, chứ chắc gì ở một dãy hào phía ngoài Phương môn. Tề Linh công nói: - Một dãy hào sâu như thế, có họa bay thì mới sang được! Tuân Yển nghe nói quân Tề đào hào để giữ, cười bảo rằng: - Quân Tề sợ ta rồi, tất không dám giao chiến với ta, ta nên dùng kế mà phá vỡ! Tuân Yển truyền cho quân Lỗ, Vệ đi đường Tu Câu; quân Châu, Cử đi đường Thành Dương, đều qua đất Lang Gia tiến vào, còn mình thì đem đại binh qua đất Bình Âm, hẹn nhau cùng hội tại dưới thành Lâm Tri (kinh thành nước Tề). Bốn nước (Lỗ, Vệ, Châu, Cử) đều phụng mệnh đem quân đi. Tuân Yển lại sai quan tư mã là Trương Quân Thần (con Trương Lão) đi cắm cờ ở các nơi rừng núi, bó cỏ giả làm hình người, rồi mặc giáp vào, đặt ngồi trên xe và đem một cành cây buộc ở sau xe, khiến cho khi xe đi thì cát bụi bay rầm cả lên để làm nghi binh. Tuân Yển truyền cho quân sĩ, xe nào cũng phải chất đầy gỗ đá, và mỗi người lại mang thêm một bì đất; khi đến Phương môn, bao nhiêu những gỗ đá trong xe ném cả xuống đấy, lại bỏ mấy vạn cái bì đất xuống đấy nữa, thành ra chỉ trong một lúc mà chỗ hào sâu ấy lấp phẳng như mặt đất. Quân Tấn kéo ồ cả sang. Quân Tề không thể đương nổi, chết hại rất nhiều. Kỳ Quý Phủ suýt nữa bị quân Tấn bắt, bỏ trốn vào trong thành Bình Âm, tâu với Tề Linh công, Tề Linh công kinh sợ, mới trèo lên núi Vu Sơn đứng xem thì thấy ở trong rừng chỗ nào cũng có cờ cắm, giật mình nói rằng: - Quân các nước chư hầu, sao nhiều như vậy, âu là ta phải bỏ chạy. Tề Linh công hỏi các tướng xem ai là người dám đi hậu điến. Túc Sa Vệ nói: - Tôi xin đem một toán quân đi hậu điến, chúa công chớ có lo ngại! Tề Linh công mừng lắm. Bỗng có hai viên tướng tâu với Tề Linh công rằng: - Đường đường một nước Tề ta, lại không có người dũng sĩ nào mà phải dùng đến kẻ tự nhân (trỏ Túc Sa Vệ) đi hậu điến hay sao! Nếu vậy thì nước người ta cũng cười mình lắm! Hai chúng tôi xin để cho Túc Sa Vệ đi trước. Hai viên tướng ấy tức là Thực Sước và Quách Tối, vốn là hai tay dũng sĩ, sức địch muôn người. Tề Linh công nói: - Nếu được hai tướng quân đi hậu điến thì ta còn lo gì nữa. Túc Sa Vệ thấy Tề Linh công không dùng mình, hổ thẹn mà lui ra, bất đắc dĩ phải theo Tề Linh công đi trước. Đi được hơn 20 dặm đến chỗ Thạch Môn Sơn là một nơi hiểm yếu, hai bên đều núi đá cả, chỉ có một lối đi ở giữa, Túc Sa Vệ căm tức Thực Sước và Quách Tối, có ý muốn làm hại, mới đợi cho quân Tề đi hết rồi đem hơn 30 cỗ ngựa, giết chết cả đi mà bỏ lấp ở ngang đường, lại đem mấy cỗ xe lớn, cũng bỏ ở đấy. Thực Sước và Quách Tối lững thững đem quân đi sau; khi đi đến Thạch Môn Sơn, thấy ngựa chết và xe lổng chổng ngang đường, không đi qua được, mới bảo nhau rằng: - Đây tất là Túc Sa Vệ căm thù hai ta mà làm ra thế này! Hai người vội vàng truyền cho quân sĩ khiêng những xác ngựa và xe ấy bỏ đi chỗ khác, nhưng đường hẹp khó khiêng, thành ra tốn nhiều công lắm, mãi không đi được. Tướng nước Tấn là Châu Sước đem quân đuổi tới. Thực Sước vừa toan quay xe lại để nghênh chiến thì Châu Sước bắn ngay một phát tên, trúng vào vai bên tả của Thực Sước, Quách Tối giương cung toan bắn Châu Sước. Thực Sước lấy tay gạt đi không cho bắn. Châu Sước thấy vậy, cũng không bắn nữa. Thực Sước không sợ hãi gì cả, giơ tay rút mũi tên ra mà hỏi Châu Sước rằng: - Nhà ngươi là ai? Mà bắn trúng được vai Thực Sước này, cũng đáng khen cho là người giỏi! Xin nhà ngươi nói rõ họ tên? Châu Sước nói: - Ta đây là danh tướng nước Tấn, tên gọi Châu Sước. Thực Sước nói: - Nhà ngươi có biết ta là ai không? Danh tướng nước Tề tên gọi Thực Sước đây! Nhà ngươi không nghe thấy người ta có câu rằng: "Đừng có láo xược, sợ hai ông Sước!" Ta cùng nhà ngươi đều nổi tiếng là kẻ dũng sĩ, vậy thì yêu nhau vì tài, nỡ nào mà lại hại nhau! Châu Sước nói: - Nhà ngươi nói dẫu phải, nhưng người nào vì chủ người ấy, thế tất phải như vậy. Nếu nhà ngươi chịu đầu hàng thì tiểu tướng này có thể bảo toàn được cho nhà ngươi không chết. Thực Sước hỏi: - Hay là nhà ngươi lại nói dối ta? Châu Sước nói: - Nhà ngươi không tin thì ta xin thề: Nếu ta không bảo toàn được cho nhà ngươi, ta xin chết theo! Thực Sước nói: - Tính mệnh Quách Tối, ta cũng giao cho nhà ngươi đó! Thực Sước cùng với Quách Tối và các quân sĩ đều xin đầu hàng cả. Châu Sước đem Thực Sước và Quách Tối về nộp Tuân Yển, lại nói cho Tuân Yển biết hai tướng là người tài giỏi nên dùng. Tuân Yển truyền giam lại để đợi khi thu quân về rồi sẽ định liệu. Đại binh nước Tấn qua thành Bình Âm, thẳng đường tiến vào kinh thành nước Tề, quân Lỗ, Vệ, Châu, Cử cũng đều đến cả, vây kín bốn mặt thành Lâm Tri (tức là kinh thành nước Tề) rồi đốt phá nhiều nơi. Tề Linh công sợ hãi, mở cửa Đông ra chạy. Cao Hậu nghe nói, vội vàng chạy theo rút gươm cắt dây cương xe đi, rồi khóc mà can rằng: - Quân các nước dẫu hăng hái, nhưng đi xa như vậy, tất có sinh biến, chẳng bao lâu rồi cũng phải rút về. Nay chúa công bỏ đi thì kinh thành không thể giữ nổi, xin chúa công hãy ở lại 10 ngày nữa, nếu thế lực cùng quá, bấy giờ sẽ chạy, cũng chưa lấy gì làm chậm. Tề Linh công mới ở lại, không bỏ chạy nữa. Cao Hậu đốc thúc quân dân hết sức chống giữ. Quân các nước vây thành, đến ngày thứ sáu, bỗng có sứ nước Trịnh đem một phong thư của quan đại phu nước Trịnh là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ đến phi báo với Trịnh Giản công, trong thư có một việc cơ mật rất khẩn yếu. Trịnh Giản công mở ra xem, đại lược như sau: "Tôi là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ phụng mệnh chúa công cùng với Tử Khổng (tức là công tử Gia) giữ nước, chẳng ngờ Tử Khổng có lòng phản nghịch, tư thông với Sở, toan làm nội ứng cho quân Sở vào đánh Trịnh. Hiện nay quân Sở đã đóng ở đất Ngư Lăng, chẳng bao lâu sẽ kéo đến nơi, việc nguy cấp lắm, vậy xin chúa công tức khắc rút quân về mà cứu lấy nước nhà." Trịnh Giản công sợ lắm, đem ngay bức thư ấy vào trình Tấn Bình công. Tấn Bình công triệu Tuân Yển đến để thương nghị. Tuân Yển nói: - Quân ta thẳng đường kéo vào Lâm Tri, đang muốn thừa cơ phá vỡ nước Tề, nay nước Tề chưa phá vỡ được, mà nước Trịnh lại có quân Sở đến đánh; nếu để cho Trịnh mất nước thì lỗi tại ta, chi bằng ta hãy rút quân về cứu nước Trịnh. Lần này ta dẫu không phá vỡ nước Tề, nhưng vua Tề chắc cũng kinh sợ mà từ sau không dám xâm phạm nước Lỗ nữa! Tấn Bình công khen phải, liền rút quân về. Trịnh Giản công cáo từ với Tấn Bình công rồi xin về trước. Tấn Bình công thấy quân Sở lại sang đánh Trịnh, có ý lấy làm lo, khi về đến đất Chúc A, cùng với các vua chư hầu uống rượu mà không được vui vẻ. Quan thái sư coi về việc nhạc, tức là Sư Khoáng tâu với Tấn Bình công rằng: - Tôi xin dùng âm luật mà bói xem tốt xấu thế nào. Sư Khoáng liền thổi ống luật, hát khúc nam phong, rồi lại hát khúc bắc phong thì thấy êm ái dễ nghe, mà khúc nam phong không mạnh, lại có nhiều tiếng túc sát. Sư Khoáng nói: - Khúc nam phong (trỏ nước Sở) không mạnh thì quân Sở chẳng những không công trạng, lại sắp có tai vạ, chỉ trong 3 ngày nữa, ta sẽ biết tin. Nguyên Sư Khoáng tên tự Tử Giã, là người học trò thông minh thứ nhất ở nước Tấn, lúc bé học âm luật, thường bực mình về nỗi không được chuyên, mới phàn nàn rằng: Nghề không được tinh là tại bụng nghĩ nhiều thứ, bụng nghĩ nhiều thứ là tại con mắt hay nhìn, liền lấy lá ngải đốt mù mắt đi, để chuyên tâm về đường âm luật, bởi vậy tinh nghề âm luật lắm, nghe tiếng chim kêu cũng có thể biết được tốt xấu. Bấy giờ làm quan thái sư ở nước Tấn, coi về việc nhạc, Tấn Bình công tin yêu lắm, đi đâu cũng đem đi theo. Tấn Bình công nghe Sư Khoáng nói như vậy, liền đóng quân lại, rồi sai người đi dò thám xem tin tức quân Sở ra làm sao. Chưa được 3 ngày, có quan đại phu nước Trịnh là công tôn Mại đến báo tin quân Sở đã lui rồi. Tấn Bình công lấy làm lạ, liền hỏi kỹ đầu đuôi. Công tôn Mại nói: - Nước Sở, thì khi Tử Canh (tức là công tử Ngọ) thay Tử Mang (tức là công tử Trinh) làm lệnh doãn, muốn báo cái thù đời trước, mới lập quân đánh Trịnh, Công tử Gia (nước Trịnh) tư thông với Sở, hẹn khi quân Sở đến thì giả cách nghênh chiến để đem quân ra đón. May nhờ có công tôn Xá Chi và công tôn Hạ biết cái mưu ấy, đem quân giữ thành, rồi nghiêm cấm những kẻ ra vào, công tử Gia không dám ra đón quân Sở. Tử Canh (quan lệnh doãn nước Sở) đem quân qua sông Dĩnh Thủy, không thấy công tử Gia ra đón, liền đóng đồn ở dưới núi Ngư Sĩ, gặp trời mưa tuyết, mấy ngày không thôi, trong dinh nước sâu hơn thước, quân sĩ đều tìm chỗ cao để ẩn mưa, rét quá, chết hại rất nhiều, ai cũng có lòng oán. Tử Canh bất đắc dĩ phải rút quân về! Nay chúa công tôi đã trị tội giết chết công tử Gia rồi, sợ phiền đến quân các nước, vậy có sai tôi đi đến đây, để tâu với nhà vua. Tấn Bình công mừng lắm, nói: - Tử Giã (tên tự của Sư Khoáng), thật là thánh về nghề âm luật. Tấn Bình công truyền cho các nước chư hầu đều rút quân về, Tuân Yển về đến nửa đường, bỗng nhiên trên đầu nẩy một cái ung, đau lắm không thể chịu được, mới ở lại đất Chước Ung. Được hai tháng thì cái ung ấy vỡ, rồi lồi mắt ra mà chết. Thực Sước và Quách Tối nhân dịp Tuân Yển chết, phá cũi mà ra, trốn về nước Tề. Phạm Mang và con Tuân Yển là Tuân Ngô đưa linh cữu Tuân Yển về nước Tấn. Tấn Bình công cho Phạm Mang thay Tuân Yển làm trung quân nguyên soái, và cho Tuân Ngô thay Phạm Mang làm trung quân phó tướng. Tháng 5 ấy, Tề Linh công có bệnh ốm, quan đại phu là Thôi Chữ bàn mưu với Khánh Phong, sai người đem xe đón thế tử Quang ở Tức Mặc về. Khánh Phong đang đêm đem quân gọi cửa quan thái phó là Cao Hậu (về đảng thế tử Nha). Cao Hậu mở cửa ra đón, Khánh Phong bắt mà giết đi. Thế tử Quang và Thôi Chữ vào cung, giết nàng Nhung Tử (mẹ nuôi thế tử Nha), lại giết cả thế tử Nha. Tề Linh công nghe tin kinh sợ, hộc máu ra đằng miệng mà chết. Thế tử Quang lên nối ngôi, tức là Tề Trang công. Chức tự nhân là Túc Sa Vệ đem gia quyến chạy sang ở Cao Đường. Tề Trang công sai Khánh Phong đem quân đi đuổi. Tức Sa Vệ chiếm cứ Cao Đường mà chống cự lại. Tề Trang công đem đại binh đến vây, đã hơn một tháng mà chưa phá vỡ được. Công Lũ người ở Cao Đường vốn có dũng lực, Túc Sa Vệ dùng để giữ cửa Đông. Công Lũ biết Túc Sa Vệ là không thành sự được, mới đứng trên mặt thành bắn một bức thư xuống ước với Tề Trang công, xin đến nửa đêm hôm ấy thì làm nội ứng cho quân Tề trèo qua phía Đông Bắc vào thành. Tề Trang công có ý không tin. Thực Sước và Quách Tối nói với Tề Trang công rằng: - Việc ấy hai chúng tôi xin đi, để báo lại cái thù Túc Sa Vệ làm hại hai chúng tôi ở Thạch Môn khi trước. Tề Trang công nói: - Các ngươi đi trước, phải cẩn thận mới được, rồi ta sẽ đem quân tiếp ứng. Thực Sước và Quách Tối đem quân tới phía Đông Bắc chờ đến nửa đêm, bỗng thấy ở trên mặt thành có dòng mấy cái thừng xuống. Thực Sước và Quách Tối cùng các quân sĩ đều bíu thừng leo lên. Công Lũ đưa vào bắt Túc Sa Vệ. Quách Tối mở cửa thành cho quân Tề kéo ồ vào, trong thành náo động, cùng giết lẫn nhau, ước độ một trống canh mới thôi. Tề Trang công vào thành. Công Lũ và Thực Sước trói Túc Sa Vệ giải đến trước mặt Tề Trang công. Tề Trang công xỉ mắng Túc Sa Vệ và bảo rằng: - Ta có phụ bạc gì mày, mà mày lại giúp công tử Nha để hại ta, nay công tử Nha còn đâu! Mày đã giúp công tử Nha thì cho xuống âm phủ để mà giúp một thể. Túc Sa Vệ cúi đầu không nói gì cả. Tề Trang công truyền đem Túc Sa Vệ ra chém, lấy thịt làm mắm, chia cho các quan mỗi người một ít; lại cho Công Lũ trấn ở Cao Đường, rồi rút quân trở về. Quan thượng khanh nước Tấn là Phạm Mang vì lần trước đánh Tề chưa được thành công lại tâu với Tấn Bình công, xin đem quân sang đánh. Khi kéo quân đến sông Hoàng Hà, nghe tin Tề Linh công mất, bảo các quân sĩ rằng: - Nước Tề mới có tang mà đem quân sang đánh thì là bất nhân! Phạm Mang nói xong, liền đem quân về. Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Trang công rằng: - Nước Tấn thấy ta có tang mà không sang đánh, nếu ta bội Tấn thì là bất nghĩa, chi bằng ta cùng Tần giảng hòa, khiến cho hai nước khỏi sự binh đao khổ sở. Án Anh tên tự là Bình Trọng, mình không đầy 5 thước, vốn là một người hiền sĩ thứ nhất ở nước Tề. Tề Trang công cũng sợ quân Tấn lại đến đánh, mới phải nghe lời Án Anh, sai người sang xin lỗi nước Tấn. Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Thiền Uyên cùng với Tề Trang công uống máu ăn thề, từ bấy giờ hai nước giảng hòa với nhau. Lại nói chuyện quan hạ quân phó tướng là Loan Doanh, tức là con Loan Áp. Loan Áp là con rể Phạm Mang. Con gái Phạm Mang gả cho Loan Áp, tên gọi nàng Loan Kỳ. Bấy giờ họ Loan kể từ Loan Tân, Loan Thành, Loan Chi, Loan Thuẫn, Loan Thư, Loan Áp cho chí Loan Doanh cả thẩy bảy đời cùng làm khanh tướng quyền quý không ai bằng, các quan văn võ trong triều, nửa là môn hạ, nửa là thân thuộc. Loan Doanh lại là người biết khiêm kính, phóng tài hóa thu nhân tâm, vậy nên các tử sĩ như Châu Sước, Hình Khoái, Hoàng Uyên, và Cơ Di, đều về tay Loan Doanh cả. Lại có Đốc Nhung là một người vũ dũng, sức mang nổi mấy nghìn cân nặng, tay cầm hai cái kích đâm đâu thì trúng đấy, không ai địch nổi, lúc nào cũng theo hầu ở cạnh mình Loan Doanh. Còn bọn gia thần của Loan Doanh như: Hạnh Du và Châu Tân (em Châu Sước), không biết bao nhiêu mà kể. Khi Loan Áp (cha Loan Doanh) chết, vợ là nàng Loan Kỳ mới 40 tuổi, chưa dứt hẳn được lòng tình dục, mỗi khi Châu Tân vào phủ để trình bẩm Loan Doanh về việc gì thì nàng Loan Kỳ lại đứng đằng sau bình phong dòm ra, trông thấy Châu Tân là người đẹp trai, liền sai một đứa thị nữ bảo y, rồi cùng Châu Tân tư thông với nhau. Nàng Loan Kỳ đem những quý vật trong nhà tặng cho Châu Tân. Khi Loan Doanh theo Tấn Bình công đi đánh Tề, Châu Tân công nhiên ngủ ở trong phòng ngủ, không còn sợ hãi gì nữa. Loan Doanh về, nghe biết chuyện ấy nhưng ngại vì thể diện thân mẫu mình, mới mượn việc khác để trừng trị những quân sĩ canh cửa, nghiêm cấm bọn gia thần tự do xuất nhập. Nàng Loan Kỳ bấy giờ một là thẹn quá hóa giận, hai là tình dục khôn chừa, ba là sợ Loan Doanh làm hại mất tính mệnh Châu Tân, nhân khi về mừng sinh nhật người cha là Phạm Mang, liền nói với cha rằng: - Loan Doanh sắp nổi loạn, biết làm thế nào? Phạm Mang nói: - Sự thể đầu đuôi thế nào, kể rõ cho ta biết! Nàng Loan Kỳ nói: - Loan Doanh vẫn thường nói: "Phạm Ưởng giết chú ta (trỏ Loan Hàm), cha ta khi trước đuổi đi, nay còn cho về nước, đã khỏi tội chết lại được làm quan, họ Phạm mỗi ngày một thịnh thì họ Loan mỗi ngày một suy, ta chết thì thôi, chứ làm thế nào cũng giết họ Phạm", bởi vậy ngày đêm cùng với bọn Trí Khởi, Dương Thiệt Hổ tụ họp ở trong nhà kín, bàn mưu muốn đuổi hết các quan đại phu để lập bè đảng mình, vì sợ con tiết lộ chuyện ấy ra, vậy nên truyền quân sĩ canh cửa, nghiêm cấm con về thăm nhà. Hôm nay con miễn cưỡng về đây, ngày khác vị tất đã lại được trông thấy thân phụ, tình cha con với nhau, con xin nói thật. Bấy giờ Phạm Ưởng đứng bên cạnh cũng nói thêm vào rằng: - Con cũng nghe nói như vậy, nay thật quả nhiên! Kẻ kia vây cánh nhiều lắm, ta phải phòng bị trước mới được. Một con trai và một con gái, cùng nói như nhau, tài nào mà Phạm Mang không phải tin lời. Phạm Mang liền mật tấu với Tấn Bình công, xin đuổi họ Loan. Tấn Bình công hỏi riêng quan đại phu là Dương Tất. Dương Tất vốn ghét họ Loan mà yêu họ Phạm, mới nói với Tấn Bình công rằng: - Loan Thư ngày xưa, chính là giết vua Lệ công ta, mà được truyền đời cho đến Loan Doanh, nay chúa công trị họ Loan đi, để tỏ cái tội thí nghịch thì thật là một điều đại phúc của nước nhà. Tấn Bình công nói: - Loan Thư có cái tiếng lập tiên quân ta, còn tội trạng Loan Doanh thì chưa được rõ, làm thế nào mà trừ được? Dương Tất nói: - Loan Thư mượn tiếng lập tiên quân ta để che điều tội ác của mình. Tiên quân ta quên cái thù chung mà nhớ cái ơn riêng, nay chúa công lại ngơ đi thì hại càng to lắm! Nếu tội trạng của Loan Doanh chưa rõ, ta nên trừ bỏ những vây cánh mà xá tội cho hắn, đợi khi hắn có nổi loạn, bấy giờ ta sẽ trọng trị. Tấn Bình công khen phải, rồi triệu Phạm Mang vào cung để bàn về việc trừ đảng họ Loan. Phạm Mang nói: - Loan Doanh ở nhà mà mình trừ bỏ đảng hắn thì khác nào như giục hắn nổi loạn, chi bằng chúa công sai hắn đi đắp thành ở Trứ Ấp. Hắn đã đi rồi thì đảng hắn không có ai làm chủ, mới có thể trừ bỏ được! Tấn Bình công khen phải, liền sai Loan Doanh đi đắp thành ở Trứ Ấp. Khi Loan Doanh sắp đi, người trong đảng Loan Doanh là Cơ Di can rằng: - Họ Loan ta nhiều người oán lắm, hẳn ngài cũng đã biết. Việc đắp thành này không phải là việc cấp, can gì phải sai đến ngài, âu là ngài thử chối từ, dò xem ý chúa công ra làm sao để mà phòng bị. Loan Doanh nói: - Mệnh vua, sao ta lại chối từ! Ta mà có tội thì dẫu chết cũng không nên tránh, nhược bằng không tội thì người trong nước đều có lòng thương ta, ai hại ta nổi! Loan Doanh liền sai Đốc Nhung dong xe, thẳng đường tiến sang Trứ Ấp. Loan Doanh đi được 3 ngày. Tấn Bình công ra coi triều, bảo các quan đại phu rằng: - Cái tội thí nghịch của Loan Thư ngày trước, ta chưa trừng trị, mà nay con cháu đầy trong triều, ta lấy làm xấu hổ lắm, các quan nghĩ thế nào? Các quan đại phu đồng thanh đáp rằng: - Nên đuổi họ Loan! Tấn Bình công truyền đem tội trạng Loan Doanh yết thị ở quốc môn, rồi sai Dương Tất đem quân đi đuổi Loan Doanh. Bao nhiêu tộc đảng ở trong nước đều đuổi tất cả. Loan Nhạc và Loan Phường đem người nhà cùng với Châu Sước, Hình Khoái đi theo Loan Doanh. Còn bọn Dương Thiệt Hổ cũng đi theo sau, khi ra đến cửa thành đã đóng chặt rồi, nghe tin quan quân đi tìm bắt đảng phái họ Loan mới tụ hội người nhà, định đến đêm hôm ấy nổi loạn, phá cửa Đông môn mà ra. Họ Triệu có người môn khách tên là Chương Giám ở cạnh nhà Dương Thiệt Hổ, nghe được cái mưu ấy, đến báo với họ Triệu. Họ Triệu sang nói với Phạm Mang. Phạm Mang liền sai con là Phạm Ưởng đem 300 quân đến vây nhà Dương Thiệt Hổ.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  5. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 63 Kỳ Hề ra sức cứu Dương Thiệt Phạm Ưởng lập kế hiếp Ngụy Thư

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cơ Di đang ở trong nhà Dương Thiệt Hổ, đợi Hoàng Uyên đến để định nửa đêm hôm ấy thì nổi loạn, chẳng ngờ Phạm Ưởng đem quân vây nhà Dương Thiệt Hổ, bao nhiêu gia đinh của Dương Thiệt Hổ ở mặt ngoài không dám tụ tập, đều bỏ đi cả. Dương Thiệt Hổ bắc thang trèo lên mặt tường hỏi Phạm Ưởng rằng: - Tiểu tướng quân đem quân tới đây có việc gì? Phạm Ưởng nói: - Nhà ngươi xưa nay vẫn là đảng Loan Doanh, nay lại định mưu phá vỡ cửa thành để ra tiếp ứng đó tức là tội phản nghịch. Ta phụng mệnh chúa công đến đây để bắt nhà ngươi. Dương Thiệt Hổ nói: - Ta có thế bao giờ! Việc này tự ai nói ra? Phạm Ưởng liền gọi Chương Giám đến trước mặt để làm chứng. Dương Thiệt Hổ vốn người khỏe lắm, lấy tay cậy một viên đá trên mặt tường, ném trúng vào đỉnh đầu Chương Giám. Chương Giám vỡ đầu ra. Phạm Ưởng giận lắm, truyền quân sĩ phóng hỏa đốt cháy nhà Dương Thiệt Hổ. Dương Thiệt Hổ vội vàng nói với Cơ Di rằng: - Chúng ta chẳng thà liều chết, còn hơn ngồi để đợi trói. Dương Thiệt Hổ cầm cái kích xông ra trước. Cơ Di cầm thanh kiếm theo sau. Hai người cùng quát rầm lên, rồi xông qua đám lửa mà ra. Phạm Ưởng trông thấy, truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn. Hai người bị mũi tên lăn xuống, quân sĩ dùng câu liêm lôi ra thì đã gần chết rồi, liền trói lại để trên xe. Quan trung quân phó tướng là Tuân Ngô cũng đem quân đến tiếp ứng. Đi đến nửa đường thì gặp Hoàng Uyên. Hoàng Uyên cũng bị Tuân Ngô bắt được. Bây giờ Phạm Ưởng và Tuân Ngô hợp quân làm một, rồi giải Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên đến nộp quan trung quân nguyên soái là Phạm Mang. Phạm Mang nói: - Đảng họ Loan còn nhiều, chỉ bắt có 3 người này thì chưa trừ hết được. Phạm Mang chia quân đi tầm nã các nơi. Trong thành Giáng Đô đêm hôm ấy xiết bao huyên náo. Khi trời sáng rõ, Phạm Ưởng bắt Tri Khởi, Tịch Yển và Châu Tân; Tuân Ngô bắt được bọn Trung Hàng Hỉ, Tân Du, Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều giải đến triều môn để đợi lệnh Tấn Bình công. Lại nói chuyện Dương Thiệt Xích, tên tự là Bá Hoa, Dương Thiệt Bật, tên tự là Thúc Hường cùng với Dương Thiệt Hổ dẫu đều là con Dương Thiệt Chức cả, nhưng Dương Thiệt Hổ là con người thứ mẫu sinh ra. Mẹ Dương Thiệt Hổ nguyên trước là thị tì của vợ Dương Thiệt Chức, nhan sắc xinh đẹp. Dương Thiệt Chức muốn lấy, mà vợ Dương Thiệt Chức không cho. Bấy giờ Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều đã lớn tuổi, can mẹ không nên ghen. Người mẹ cười bảo rằng: - Ta có phải là người ghen đâu! Nhưng ta nghe nói người nào đẹp lắm thì lại hại nhiều, thí dụ như chỗ núi cao vực lớn thường hay sinh ra giống long xà. Ta e rằng lúc đã sinh ra giống long xà thì lại làm tai vạ cho chúng bay về sau đó. Bọn Dương Thiệt Xích cố ý nói mãi, người mẹ mới cho Dương Thiệt Chức lấy, sau sinh ra Dương Thiệt Hổ. Khi Dương Thiệt Hổ đã lớn lên, mặt đẹp như người mẹ mà có sức khỏe lạ thường, Loan Doanh yêu lắm. Bởi Dương Thiệt Hổ là người thân của Loan Doanh, thành ra Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều bị bắt cả. Quan đại phu là Nhạc Vương Phụ, tên tự là Phúc Ngư, vốn là người tin yêu của Tấn Bình công, Nhạc Vương Phụ xưa nay nghe tiếng anh em Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật là người hiền, vẫn muốn kết giao mà chưa được, bấy giờ thấy nói hai người bị bắt, mới vội vàng đi đến triều môn. Khi đến triều môn, vừa gặp Dương Thiệt Bật. Nhạc Vương Phụ phủ dụ bảo rằng: - Nhà ngươi chớ lo! Ta vào yết kiến chúa công, thế nào cũng cố sức xin cho nhà ngươi. Dương Thiệt Bật nín lặng, không nói gì cả. Nhạc Vương Phụ có ý thẹn. Dương Thiệt Xích nghe nói, liền trách mắng Dương Thiệt Bật rằng: - Anh em ta ngày nay mà chết thì họ Dương Thiệt không còn một ai nữa! Nhạc Vương Phụ nay đang được chúa công tin yêu, nói gì nghe nấy, nếu nhờ hắn nói giùm một tiếng, may ra có được tha chăng, cớ sao em lại nín lặng, không có ý cầu cạnh người ta. Dương Thiệt Bật cười nói rằng: - Người ta chết sống đã có số mệnh. Nếu lòng trời giúp ta thì nhờ có quan lão đại phu họ Kỳ (tức là Kỳ Hề), chứ Nhạc Vương Phụ làm gì được! Dương Thiệt Xích nói: - Nhạc Vương Phụ lúc nào cũng hầu liền ở bên cạnh chúa công mà em bảo rằng không làm gì được; còn quan lão đại phu họ Kỳ đã cáo lão về nhà rồi, em lại bảo rằng nhờ có người ấy, ta thật không hiểu ra làm sao! Dương Thiệt Bật nói: - Nhạc Vương Phụ chẳng qua chỉ xu nịnh mà thôi, chúa công bảo phải thì rằng phải, bảo trái thì rằng trái; còn như quan lão đại phu họ Kỳ, thấy ai là bậc hiền tài thì bất cứ kẻ thù hay người thân, cũng đều tiến cử cho chúa công biết, có lẽ nào lại bỏ sót họ Dương ta hay sao! Được một lúc, Tấn Bình công ra ngự triều. Phạm Mang đem những tên người bị bắt trong đảng họ Loan, tâu với Tấn Bình công, Tấn Bình công trông thấy tên mấy anh em Dương Thiệt Xích, cũng có ý nghi, mới hỏi Nhạc Vương Phụ rằng: - Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật có dự đến cái mưu của Dương Thiệt Hổ hay không? Nhạc Vương Phụ vẫn căm về việc Dương Thiệt Bật không chịu nói với mình, mới tâu Tấn Bình công rằng: - Còn ai thân hơn anh em, có lẽ nào lại không biết! Tấn Bình công truyền đem giam cả vào ngục, để giao cho quan tư khấu nghị tội. Bấy giờ Kỳ Hề đã cáo lão về ở đất Kỳ, con là Kỳ Ngọ là bạn đồng liêu với Dương Thiệt Xích, liền sai người phi báo cho cha biết, để cha viết thư đưa về Phạm Mang mà xin tha cho Dương Thiệt Xích. Kỳ Hề nghe tin, giật mình nói rằng: - Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều là người hiền ở nước Tấn ta, nay có việc oan uổng lạ lùng thế này, ta nên thân hành đi cứu. Kỳ Hề tức khắc đi xe thẳng tới kinh thành, chưa kịp đến hỏi Kỳ Ngọ, liền vào yết kiến Phạm Mang. Phạm Mang nói: - Quan đại phu già yếu mà chịu dầm sương dãi gió tới đây, tất có muốn chỉ bảo điều gì chăng? Kỳ Hề nói: - Tôi vì một việc quan hệ đến nước nhà mà tới đây, chứ không phải việc thường! Phạm Mang kinh sợ hỏi rằng: - Chẳng hay việc gì mà để lão đại phu phải phiền lòng như vậy? Kỳ Hề nói: - Nước nhà mà giữ yên được là nhờ về người hiền. Dương Thiệt Chức khi trước có công với nước Tấn ta, con là Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều nối được nghiệp cha, nay chỉ vì một người con thứ không ra gì mà giết tất cả thì phỏng có đáng tiếc hay không? Ngày xưa Khước Nhuế phản nghịch mà con là Khước Khuyết vẫn được làm quan. Cha con cũng không can liên với nhau nữa là anh em! Nhà ngươi đem một lòng thù riêng mà giết hại kẻ vô tội, ta lấy làm nguy cho nước Tấn lắm! Phạm Mang vội vàng đứng dậy xin lỗi rằng: - Quan lão đại phu dạy phải lắm! Nhưng chúa công còn chưa nguôi cơn giận, xin quan lão đại phu cùng tôi vào triều để tâu với chúa công. Phạm Mang cùng Kỳ Hề lên xe vào triều, tâu với Tấn Bình công rằng: - Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật không giống tính Dương Thiệt Hổ, tất không dự biết đến việc họ Loan. Vả cái công lao của Dương Thiệt Chức thủa xưa, chớ nên quên vội! Tấn Bình công nghĩ ra, liền tha cho Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều được nguyên chức, còn Trí Khởi, Trung Hàng Hỉ, Tịch Yển, Châu Tân và Tân Du đều phải giáng làm thứ nhân, chỉ có Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên phải xử tử mà thôi. Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật được tha, vào triều lạy tạ. Khi trở ra về, Dương Thiệt Xích bảo Dương Thiệt Bật rằng: - Ta nên đến tạ ơn quan lão đại phu họ Kỳ. Dương Thiệt Bật nói: - Quan lão đại phu họ Kỳ vì nước mà nói, có phải là vì riêng ta đâu, cần gì phải tạ! Nói xong, liền lên xe về nhà. Dương Thiệt Xích không đành lòng, thân hành đến nhà Kỳ Ngọ, để xin yết kiến Kỳ Hề. Kỳ Ngọ nói: - Thân phụ tôi vào yết kiến chúa công, rồi trở về đất Kỳ ngay, có ở lại đây đâu! Dương Thiệt Xích nói: - Quan lão đại phu họ Kỳ vốn không nghĩ đến sự làm ơn cho ta. Thế mới biết kiến thức của ta không bằng Dương Thiệt Bật! Châu Tân từ khi bị cách chức vẫn đi lại với nàng Loan Kỳ (mẹ Loan Doanh, con gái Phạm Mang). Phạm Mang nghe biết việc ấy, sai kẻ lực sĩ đến tận nhà mà đâm chết Châu Tân. Quan trấn thủ ở đất Khúc Ốc tên gọi Tư Ngọ, nguyên trước là môn khách của Loan Thư. Loan Doanh đi qua Khúc Ốc, Tư Ngọ cung cấp rất trọng hậu. Loan Doanh nói đến việc đắp thành ở Trứ Ấp. Tư Ngọ hẹn xin đem quân ở Khúc Ốc sang giúp. Loan Doanh ở lại Khúc Ốc trong ba ngày. Bọn Loan Nhạc đến báo tin, nói Dương Tất đã đem quân đuổi theo. Đốc Nhung (là người dong xe của Loan Doanh) nói: - Nếu Dương Tất đến đây thì chống cự lại, vị tất đã làm gì nổi! Châu Sước và Hình Khoái (hai người đều là bộ hạ của Loan Doanh) nói: - Chỉ vì việc ấy chúng tôi sợ ân chủ thiếu người, vậy phải đến đây để phù tá. Loan Doanh nói: - Nào ta có tội gì đâu, chẳng qua họ thù oán mà vu cho ta, nếu ta chống cự thì kẻ kia lại có cớ mà nói, chi bằng ta trốn đi, để đợi khi chúa công xét rõ lại. Tư Ngọ cũng can rằng không nên chống cự. Loan Doanh vội vàng từ biệt Tư Ngọ rồi trốn sang nước Sở. Khi Dương Tất đem quân đến Trứ Ấp, người Trứ Ấp nói với Dương Tất rằng: - Loan Doanh chưa tới đây, mới đến Khúc Ốc, đã bỏ trốn rồi. Dương Tất lại thu quân về, trong khi đi đường, tuyên bá những tội trạng của họ Loan. Dân nước Tấn đều biết họ Loan là bậc công thần. Vả Loan Doanh là người quảng đại bác ái, vậy nên ai cũng thương xót. Phạm Mang nói với Tấn Bình công nghiêm cấm họ Loan đi theo Loan Doanh, ai theo thì bắt tội chết. Kẻ gia thần của Loan Doanh là Tân Du nghe tin Loan Doanh ở nước Sở liền đem mấy xe gia tài đi theo. Ra đến cửa thành bị quân sĩ bắt được, đem nộp Tấn Bình công. Tấn Bình công hỏi Tân Du rằng: - Ta đã có lời nghiêm cấm, sao nhà ngươi dám trái lệnh? Tân Du sụp lạy nói rằng: - Tôi ngu dốt lắm! Không hiểu chúa công cấm theo họ Loan là nghĩa làm sao? Tấn Bình công nói: - Theo họ Loan tức là không có vua, vậy nên ta cấm. Tân Du nói: - Nếu cấm kẻ không có vua thì tôi tất là không chết! Tôi nghe nói mình làm tôi người nào thì người ấy tức là vua mình, ông cha nhà tôi đã 3 đời làm tôi họ Loan thì họ Loan tức là vua của tôi, chỉ vì tôi không dám quên vua, vậy nên phải theo họ Loan cớ sao lại cấm! Vả Loan Doanh dẫu có tội, chúa công đuổi đi mà không nỡ giết, cũng là nghĩ đến cái công lao về đời trước của họ Loan, mà muốn bảo toàn cho Loan Doanh. Nay Loan Doanh bơ vơ ở nơi đất khách, đồ dùng không có, áo mặc không đủ, một mai vì thế mà chết đi thì có phải cái nhân đức của chúa công không được trọn vẹn. Tôi đi chuyến này là muốn giữ hết cái trung nghĩa của tôi, mà nêu được cái nhân đức của chúa công đó! Tấn Bình công bằng lòng bảo rằng: - Nhà ngươi ở lại đây để thờ ta, ta sẽ đem cái lộc của họ Loan cho nhà ngươi. Tân Du nói: - Tôi đã nói họ Loan là vua của tôi, nếu tôi bỏ vua ấy mà theo vua khác thì sao cấm được những kẻ không có vua! Chúa công mà giữ tôi thì tôi xin tự tử. Tấn Bình công nói: - Thôi thì ta cũng nghe lời mà cho nhà ngươi đi, để nhà ngươi giữ được cái chí ấy. Tân Du lạy tạ, rồi đem mấy xe gia tài, cứ việc ngang nhiên thẳng cửa thành đi ra. Loan Doanh ở địa giới nước Sở đã được mấy tháng, toan vào Dĩnh Đô yết kiến vua Sở, nhưng nghĩ thầm rằng ông cha mình đã mấy đời giúp Tấn để cừu địch với Sở, giả sử vua Sở không dung ta thì làm thế nào; lại toan đi sang nước Tề, chỉ vì tiền lưng hết sạch cả, không thể đi được, may gặp Tân Du đem mấy xe gia tài đến, bấy giờ Loan Doanh mới sửa soạn để đi sang nước Tề. Tề Trang công từ khi thua Tấn ở trận Bình Âm, lấy làm xấu hổ, muốn dùng những kẻ dũng sĩ, đặt ra một đội Dũng Tước, cho ăn lộc bằng các quan đại phu, tìm những người mang nổi nghìn cân, bắn trúng qua bảy lần áo giáp thì cho sung vào đội ấy. Trước đã có Thực Sước và Quách Tối, sau lại được bọn Giả Cử, Bính Cư, công tôn Ngao, Phong Cụ, Tạc Phủ, Tương Doãn và Lâu Yên, cả thẩy 9 người. Tề Trang công ngày nào cũng triệu vào trong cung, cùng nhau bắn bia hay là đấu kiếm để làm trò vui. Một hôm, Tề Trang công ngự triều nghe báo có quan đại phu nước Tấn là Loan Doanh bị đuổi trốn sang nước Tề, liền mừng mà nói rằng: - Ta vẫn muốn báo thù nước Tấn, nay có Loan Doanh đến thì thật là được việc cho ta! Tề Trang công toan sai người đi nghênh tiếp Loan Doanh. Quan đại phu là Án Anh can rằng: - Không nên! Nước nhỏ thờ nước lớn, nên phải giữ điều tín. Ta mới cùng nước Tấn ăn thề, mà nay lại dung nạp Loan Doanh, giả sử người nước Tấn đến trách thì ta biết nói thế nào? Tề Trang công cười to lên mà bảo Án Anh rằng: - Nhà ngươi nói thế là sai lầm! Nước Tề ta cùng nước Tấn ngang hàng với nhau, sao lại gọi là lớn với nhỏ? Ngày trước ta chịu thề với Tấn, chẳng qua chỉ vì sự nguy cấp trong một thời mà thôi, chứ có lẽ nào ta lại chịu thần phục nước Tấn mãi như Lỗ, Vệ, Tào và Châu hay sao? Tề Trang công không nghe lời Án Anh, liền sai người đi đón Loan Doanh vào triều. Loan Doanh sụp lạy Tề Trang công, vừa khóc vừa kể hết những nông nỗi bị đuổi. Tề Trang công nói: - Nhà ngươi chớ lo! Ta sẽ giúp nhà ngươi lại được về nước Tấn. Loan Doanh lạy tạ. Tề Trang công bầy tiệc thết đãi. Trong khi ăn tiệc, Châu Sước và Hình Khoái đứng hầu ở bên cạnh Loan Doanh, Tề Trang công trông thấy Châu Sước và Hình Khoái thân thể to lớn liền hỏi họ tên. Hai người nói thực cả. Tề Trang công nói: - Trận đánh ở Bình Âm khi trước mà bắt được Thực Sước và Quách Tối của ta có phải là hai người đó không? Châu Sước và Hình Khoái sụp lạy xin lỗi. Tề Trang công nói: - Ta mến tiếng các ngươi đã lâu lắm! Tề Trang công truyền dọn cơm rượu cho hai người ăn uống. Lại bảo Loan Doanh rằng: - Ta muốn phiền nhà ngươi một điều, nhà ngươi chớ nên từ chối. Loan Doanh nói: - Nếu chúa công có cần đến điều gì thì dẫu thân thể chúng tôi cũng không dám tiếc. Tề Trang công nói: - Ta không dám phiền gì cả, chỉ xin mượn hai người dũng sĩ để làm bạn với ta. Loan Doanh không dám từ chối, phải nhận lời ngay, rồi hầm hầm lên xe, trở về nhà công quán, vừa đi vừa phàn nàn rằng: - May mà hắn chưa trông thấy Đốc Nhung, chẳng có thì cũng chiếm mất thôi. Tề Trang công được Châu Sước và Hình Khoái, sung vào ở cuối hàng Dũng Tước, Châu Sước và Hình Khoái có ý không phục. Một hôm Châu Sước và Hình Khoái cùng với Thực Sước và Quách Tối đứng hầu ở bên cạnh Tề Trang công. Châu Sước và Hình Khoái giả cách ngạc nhiên trỏ vào mặt Thực Sước và Quách Tối bảo rằng: - Hai ngươi là tù nhân ở nước ta, làm sao lại được đến đây? Quách Tối nói: - Ngày trước chúng ta bị Túc Sa Vệ đánh lừa, chứ không như các ngươi phải theo người ta đi trốn. Châu Sước giận lắm nói: - Mày như miếng thịt ở trong miệng ta, lại còn dám cựa quậy hay sao! Thực Sước cũng nổi giận, nói: - Ngày nay mày ở trong nước ta, tức là miếng thịt ở trong mâm cơm của ta đó! Hình Khoái nói: - Các ngươi đã không bằng lòng với ta thì ta lại xin về với chủ cũ (trỏ Loan Doanh). Quách Tối nói: - Đường đường một nước Tề, có lẽ cứ phải nhờ đến hai người mới được hay sao! Bốn người cãi nhau, mặt đỏ bừng bừng, đều rút gươm ra đánh nhau. Tề Trang công dùng lời nói ngọt để khuyên can, và đem rượu cho uống, lại bảo Châu Sước và Hình Khoái rằng: - Ta vẫn biết hai ngươi không chịu ở dưới người! Tề Trang công liền đổi tên Dũng Tước chia làm hai ban: 1. Hữu ban là Long Tước thì Châu Sước và Hình Khoái cầm đầu, lại chọn được người nước Tề là Lư Bồ Quý và Vương Hà thuộc về ban ấy; 2. Tả ban là Hổ Tước thì Thực Sước và Quách Tối cầm đầu, còn bọn Giả Cử thuộc về ban ấy. Các người được dự vào trong hai ban ấy đều lấy làm vinh hạnh, chỉ có Châu Sước, Hình Khoái, Thực Sước và Quách Tối, bốn người ấy không hòa thuận với nhau mà thôi. Bấy giờ Thôi Chữ và Khánh Phong có công lập Tề Trang công đều được làm thượng khanh, cầm quyền chính trong nước, Tề Trang công thường vẫn đến nhà hai người để uống rượu mua vui, hoặc là bắn bia đấu kiếm, không còn phân biệt vua tôi chi nữa. Vợ cả Thôi Chữ sinh được hai con là Thôi Thành và Thôi Cương; cách mấy năm sau thì người vợ ấy chết. Thôi Chữ lại kết duyên với em gái Đông Quách Yển. Em gái Đông Quách Yển nguyên trước là vợ Đường công vẫn gọi là nàng Đường Khương sinh được một con, tên gọi là Đường Vô Cữu. Khi Đường công chết, Thôi Chữ đến viếng tang, trông thấy nàng Đường Khương có sắc đẹp, mới nói với Đông Quách Yển xin cưới làm vợ kế, cũng sinh được một con, tên gọi là Thôi Minh. Thôi Chữ yêu nàng Đường Khương lắm, liền dùng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu làm gia thần, đem con nhỏ là Thôi Minh ủy thác cho; lại bảo nàng Đường Khương rằng: - Đợi khi nào Thôi Minh khôn lớn, sẽ lập làm đích tử. Một hôm, Tề Trang công uống rượu ở nhà Thôi Chữ. Thôi Chữ sai Đường Khương ra mời rượu. Tề Trang công trông thấy người đẹp, liền đút tiền cho Đông Quách Yển để tư thông với nàng Đường Khương. Thôi Chữ dần dần biết chuyện, gọi hỏi nàng Đường Khương, nàng Đường Khương nói: - Thật có như vậy! Kẻ kia cậy thế là vua một nước mà bắt hiếp thì thiếp chống cự lại thế nào được! Thôi Chữ nói: - Vậy thì làm sao mà nàng không nói với ta? Đường Khương nói: - Thiếp tự nghĩ mình có tội, nên không dám nói. Thôi Chữ nín lặng hồi lâu, rồi nói: - Việc ấy không can dự gì đến nàng! Từ bấy giờ Thôi Chữ có ý muốn giết Tề Trang công. Vua nước Ngô là Chư Phàn sai người sang nước Tấn cầu hôn. Tấn Bình công gả con gái cho. Tề Trang công bàn mưu với Thôi Chữ rằng: - Ta muốn giúp cho Loan Doanh trở về nước Tấn mà chưa được dịp nào, nghe nói quan trấn thủ ở Khúc Ốc là người thân với Loan Doanh, nay ta muốn mượn việc tống dắng mà đưa Loan Doanh về Khúc Ốc, để khiến cho Loan Doanh lẻn đánh nước Tấn phỏng có nên chăng? Thôi Chữ đang căm tức Tề Trang công muốn cho Tề Trang công kết oán với Tấn, đợi khi nước Tấn đem quân sang đánh thì đổ lỗi cho Tề Trang công mà giết đi, để du nịnh nước Tấn, bấy giờ Tề Trang công muốn giúp cho Loan Doanh, chính là trúng phải kế ấy. Thôi Chữ liền nói với Tề Trang công rằng: - Người Khúc Ốc dẫu vì họ Loan, nhưng vị tất đã làm gì nổi, chúa công nên đem một toán quân đi tiếp ứng, giả cách nói sang đánh Vệ, rồi cùng với Loan Doanh hai mặt đánh ụp vào, mới có thể phá vỡ được nước Tấn. Tề Trang công khen phải, rồi đem cái mưu ấy nói với Loan Doanh. Loan Doanh mừng lắm. Kẻ gia thần của Loan Doanh là Tân Du can rằng: - Tôi theo ngài tới đây là để tận trung với ngài, vậy thì tôi cũng muốn cho ngài tận trung với vua Tấn. Loan Doanh nói: - Nhưng vua Tấn không nhận ta là bề tôi thì biết làm thế nào? Tân Du nói: - Ngày xưa vua Trụ giam vua Văn Vương ở ngục Dữu Lý, mà vua Văn Vương vẫn một lòng thần phục vua Trụ; nay vua Tấn chẳng nghĩ đến công lao của họ Loan ta trước mà đuổi ngài khiến ngài phải lưu lạc ở nước ngoài, ai là người không thương xót. Nếu ngài làm điều bất trung thì trong khoảng trời đất, còn ai dung ngài nữa! Loan Doanh không nghe. Tân Du khóc mà nói rằng: - Nếu vậy thì ngài đi chuyến này, không khỏi chết được, tôi xin liều chết để tiễn chân ngài. Tân Du nói xong rút gươm đâm cổ mà chết. Tề Trang công tìm một người con gái trong họ để làm dắng nữ, sai quan đại phu là Tích Quy Phủ đưa sang nước Tấn; rồi dùng nhiều xe kín, để Loan Doanh và nhiều đảng phái ngồi ở trong xe, đưa đến Khúc Ốc. Châu Sước và Hình Khoái xin theo Loan Doanh. Tề Trang công sợ Châu Sước và Hình Khoái về nước Tấn mất, mới sai Thực Sước và Quách Tối đi thay, lại dặn Thực Sước và Quách Tối rằng: - Hai ngươi theo quan tướng quân họ Loan cũng tức như là theo ta! Khi đến Khúc Ốc Loan Doanh lẻn vào trong thành, đang đêm gọi cửa nhà quan trấn thủ ở đấy là Tư Ngọ. Tư Ngọ kinh sợ không biết việc gì. Khi mở cửa ra trông thấy Loan Doanh, liền giật mình mà hỏi rằng: - Sao ngài lại đến đây được? Loan Doanh nói: - Xin vào nhà kín để nói chuyện. Tư Ngọ liền mời Loan Doanh vào trong nhà kín. Loan Doanh cầm lấy tay Tư Ngọ, muốn nói mà chưa nói, tự nhiên nước mắt chảy xuống ròng ròng. Tư Ngọ nói: - Ngài có việc gì, xin cứ nói cho biết, can gì mà thương khóc như vậy! Loan Doanh liền gạt nước mắt nói rằng: - Tôi chỉ vì các họ Phạm, họ Triệu thù oán mà đến nỗi phải lưu lạc ở nước ngoài, nay vua Tề thương tôi là người vô tội, đưa tôi tới đây, mà quân Tề cũng sắp sửa đến sau. Nếu nhà ngươi chịu đem quân Khúc Ốc vào đánh Giáng Đô thì quân Tề đánh mặt ngoài, chúng ta đánh mặt trong, chắc là phải vỡ. Khi bấy giờ ta bắt những kẻ thù oán với ta mà giết chết đi, rồi phụng mệnh vua Tấn để giảng hòa với Tề. Họ Loan mà nổi lên được, chỉ cốt ở một việc này mà thôi. Tư Ngọ nói: - Thế nước Tấn đang mạnh, các nhà họ Phạm và họ Triệu vẫn hòa thuận với nhau, tôi sợ chưa làm gì nổi, lại thêm hại vào mình. Loan Doanh nói: - Ta có kẻ dũng sĩ là Đốc Nhung, một người có thể đương nổi một toán quân. Vả Thực Sước và Quách Tối đều là bậc anh tài ở nước Tề bây giờ; còn Loan Nhạc và Loan Phường cũng đều sức khỏe bắn giỏi, như thế thì nước Tần dẫu mạnh, cũng chẳng sợ gì! Ngày xưa ta giúp Ngụy Giáng ở đạo hạ quân, cháu hắn là Ngụy Thư có nhờ vả điều gì, ta vẫn trông nom cho cả, kẻ kia vẫn muốn báo ơn ta; nếu được họ Ngụy làm nội ứng thì mười phần xong được đến tám chín. Vạn nhất không thành mà chết, ta cũng thỏa lòng! Tư Ngọ nói: - Đợi đến ngày mai, tôi sẽ dò xem nhân tâm thế nào mới có thể làm được. Bọn Loan Doanh cùng nhau ẩn trong nhà kín. Đến ngày hôm sau, Tư Ngọ giả cách nói có nằm mộng thấy Cung Thế Tử (tức là Thân Sinh), rồi sửa lễ vào nhà thờ Cung Thế Tử để tế. Tế xong, mời tất cả các quan thuộc đến uống rượu, Loan Doanh phục sẵn sau bình phong. Khi uống rượu được ba tuần thì bọn âm nhạc cất tiếng lên. Tư Ngọ liền gạt đi mà nói rằng: - Ngày xưa Cung Thế Tử chết oan bây giờ chúng ta nỡ nào ngồi mà nghe âm nhạc! Mọi người nghe nói, đều có ý cảm động. Tư Ngọ lại nói: - Bề tôi cũng như con. Nay họ Loan mấy đời có công to, mà cả triều cố ý dèm pha, để đến nỗi phải đuổi, phỏng có khác gì Cung Thế Tử hay không! Mọi người đều nói: - Việc ấy, cả nước ai cũng bất bình! Chẳng hay chàng nhụ tử họ Loan còn có thể về nước được không? Tư Ngọ nói: - Giả sử nhụ tử họ Loan bây giờ đã về ở đây thì các ngươi định xử ra làm sao? Mọi người đều nói: - Nếu được chàng nhụ tử họ Loan làm chủ thì chúng tôi xin hết sức, dẫu chết cũng đành lòng! Trong bọn ngồi ở đấy, có nhiều người chảy nước mắt khóc. Tư Ngọ nói: - Các ngươi chớ phiền; chàng nhụ tử họ Loan hiện ở đây rồi! Tư Ngọ vừa nói xong thì Loan Doanh ở phía sau bình phong đi ra vái chào mọi người. Mọi người đều sụp lạy. Loan Doanh thuật lại đầu đuôi vì cớ gì mà về được nước Tấn, lại nói với mọi người rằng: - Nếu được trở về Giáng Đô thì dẫu chết cũng thỏa lòng! Mọi người đều hớn hở xin theo. Ngày hôm ấy, uống rượu rất vui rồi tan. Đến hôm sau, Loan Doanh viết một tờ mật thư, nhờ người lái buôn tại Khúc Ốc đưa đến cho Ngụy Thư ở Giáng Đô. Ngụy Thư cũng thấy việc họ Triệu và họ Phạm làm tàn ác quá, khi tiếp được mật thư, liền viết thư trả lời rằng: - Chúng tôi vẫn mặc sẵn áo giáp ở trong mình để đợi. Khi nào quân Khúc Ốc đến, xin ra nghênh tiếp. Loan Doanh được tin mừng lắm. Tư Giáp đem quân Khúc Ốc giao cho Loan Doanh. Những tộc đảng họ Loan, người nào tráng kiện đều xin theo cả, chỉ có người già yếu mới chịu ở lại Khúc Ốc. Đốc Nhung làm tiên phong. Thực Sước và Loan Nhạc ở bên hữu. Quách Tối và Loan Phường ở bên tả. Đêm hôm ấy thẳng đường tiến về Giang Đô. Từ Khúc Ốc đến Giáng Đô chỉ cách nhau có 60 dặm, đi một đêm đến nơi ngay, rồi phá lần thành ngoài mà vào, tiến thẳng đến Nam môn mà người Giáng Đô không ai biết gì cả. Những quân sĩ canh giữ ở cửa thành, không kịp phòng bị, chỉ trong một hồi lâu, bị Đốc Nhung phá vỡ. Quân Loan Doanh kéo ồ vào thành, như vào một nơi không có người ở. Bấy giờ Phạm Mang ở nhà, vừa ăn cơm sáng xong bỗng thấy Nhạc Vương Phụ hoảng hốt chạy đến báo việc Loan Doanh đã vào Nam môn. Phạm Mang giật mình kinh sợ, liền gọi con là Phạm Ưởng đem quân ra chống cự. Nhạc Vương Phụ nói: - Việc đã nguy cấp lắm! Ta nên đưa chúa công chạy vào cố cung thì mới có thể giữ vững được. Phạm Mang lo trong nước có người làm nội ứng cho họ Loan. Nhạc Vương Phụ nói: - Các quan đại phu đều ghét họ Loan cả, chỉ đáng lo có một mình họ Ngụy mà thôi; nếu ta phụng mệnh chúa công đi triệu ngay đến đây thì có thể giữ được. Phạm Mang khen phải, liền sai Phạm Ưởng phụng mệnh đến triệu Ngụy Thư. Nhạc Vương Phụ nói: - Việc chưa rõ thế nào, hãy nên kín tiếng mới được! Tấn Bình công đang có tang, Phạm Mang và Nhạc Vương Phụ đều mặc áo giáp ở trong, rồi phủ đồ tang phục ở ngoài, trùm kín đầu lại, đi thẳng vào cung, tâu với Tấn Bình công, lại đưa Tấn Bình công chạy vào cố cung. Phạm Ưởng đến nhà Ngụy Thư, trông thấy quân sĩ ở nhà Ngụy Thư đứng sắp hàng cả ở ngoài cửa, Ngụy Thư mặc đồ nhung phục ngồi ở trên xe, toan đi đón Loan Doanh. Phạm Ưởng chạy ngay đến trước mặt mà bảo Ngụy Thư rằng: - Họ Loan nổi loạn, nay chúa công đang ở cố cung, cha tôi và các quan đại thần đều họp ở đấy cả, có sai tôi đến đây đón ngài. Ngụy Thư chưa kịp trả lời. Phạm Ưởng nhảy ngay lên xe, tay phải cầm gươm, tay trái nắm lấy đai Ngụy Thư, làm cho Ngụy Thư kinh sợ không biết nói thế nào được nữa, rồi Phạm Ưởng truyền cho người dong xe đi mau. Người dong xe hỏi đi về phía nào? Phạm Ưởng quát to lên rằng: - Đi sang cố cung! Bấy giờ xe Ngụy Thư đi thẳng sang cố cung.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  6. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 64 Đường nghìn dặm, Tân Du theo chủ Lệ hai hàng, Mạnh Khương khóc chồng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Phạm Mang dẫu sai con là Phạm Ưởng đi triệu Ngụy Thư, nhưng chưa biết hay dở thế nào, trong lòng áy náy, không thể đánh được, mới trèo lên mặt thành để nom, trông thấy Phạm Ưởng và Ngụy Thư cùng ngồi một xe ở phía xa đi đến, liền mừng mà nói rằng: - Nếu vậy thì họ Loan thật là thế cô, chẳng làm gì nổi! Nói xong, truyền mở cửa cung đón vào. Ngụy Thư trông thấy Phạm Mang, nét mặt có ý hoảng hốt. Phạm Mang cầm lấy tay mà bảo rằng: - Người ngoài không hiểu rõ, bảo là tướng quân tư thông với họ Loan, nhưng tôi đây vẫn biết tướng quân không phải là người như thế. Nếu tướng quân vì tôi mà diệt được họ Loan, tôi xin đem đất Khúc Ốc đền công cho tướng quân. Khi bấy giờ Ngụy Thư đã vào trong lao lung của Phạm Mang rồi, bất đắc dĩ phải vâng mệnh, rồi cùng vào yết kiến Tấn Bình công để bàn mưu dẹp giặc. Được một lúc thì Triệu Vũ, Tuân Ngô, Trí Sóc, Hàn Vô Kỵ (con trưởng Hàn Quyết), Hàn Khởi (con thứ Hàn Quyết), Kỳ Ngọ, Dương Thiệt Xích, Dương Thiệt Bật và Trương Mạnh Địch đều lục tục đến cả. Mỗi người lại đem theo một toán quân, rất nghiêm chỉnh! Cố cung có hai cửa quan. Phạm Mang sai Triệu Vũ và Tuân Ngô giữ cửa Nam quan; anh em Hàn Vô Kỵ giữ cửa Bắc quan; còn bọn Kỳ Ngọ thì đi tuần xung quanh bốn mặt. Hai cha con Phạm Mang và Phạm Ưởng cứ ở liền bên cạnh Tấn Bình công. Loan Doanh tiến quân vào trong thành không thấy Ngụy Thư ra đón, có ý nghi ngờ, mới đóng quân ở Thị Khẩu, rồi sai người đi dò thám tin tức. Quân thám tử về báo với Loan Doanh rằng: - Vua Tấn đã chạy vào cố cung, nhân dân đều theo vào đấy cả, cả Ngụy Thư cũng vào. Loan Doanh nổi giận nói: - Ngụy Thư đánh lừa ta! Ta mà gặp mặt thì quyết đâm cho một nhát! Loan Doanh vỗ vào lưng Đốc Nhung mà bảo rằng: - Nhà ngươi cố sức phá vỡ cố cung thì ta không dám quên công. Đốc Nhung nói: - Tôi xin chia quân làm đôi, tôi đánh Nam quan; còn ngài thì đem các tướng đánh Bắc quan, thử xem ai vào được trước! Bấy giờ Thực Sước và Quách Tối dẫu theo Loan Doanh, nhưng vẫn căm tức Châu Sước và Hình Khoái, mà Châu Sước và Hình Khoái lại là người của Loan Doanh đem sang nước Tề, để khiến cho Tề Trang công tin yêu Châu Sước và Hình Khoái mà khinh bỉ Thực Sước và Quách Tối, bởi vậy Thực Sước và Quách Tối thành ra căm tức Loan Doanh. Huống chi Loan Doanh động mở miệng ra thì chỉ khoe khoang cái tài giỏi của Đốc Nhung mà không nghĩ gì đến Thực Sước và Quách Tối cả, như thế thì khi nào Thực Sước và Quách Tối lại chịu cố sức. Loan Doanh trông cậy có một mình Đốc Nhung, bấy giờ Đốc Nhung tay cầm hai cái kích, ngồi xe đi thẳng tới cố cung, đứng ngoài cửa Nam quan xem tình thế, rồi đi đi lại lại, uy phong lẫm lẫm, khác nào như một vị hung thần giáng hạ, quân Tấn vốn biết là người vũ dũng, ai trông thấy đều sợ khiếp đảm. Triệu Vũ cũng tấm tắc khen tài. Bộ hạ của Triệu Vũ có hai viên dũng tướng, tên gọi Giải Ung và Giải Túc là anh em ruột với nhau, xưa nay đã có tiếng là người giỏi đánh giáo. Giải Ung và Giải Túc nghe thấy chủ tướng (trỏ Triệu Vũ) mình khen Đốc Nhung, có ý không phục nói với Triệu Vũ rằng: - Đốc Nhung dẫu giỏi, anh em tôi cũng xin đem một toán quân ra để bắt sống. Triệu Vũ nói: - Nhà ngươi nên cẩn thận, chớ có khinh thường. Giải Ung và Giải Túc mở cửa quan ra, đứng ở phía trong lần hào, quát to lên bảo Đốc Nhung rằng: - Nhà ngươi có phải Đốc Nhung không? Ta tiếc cho nhà ngươi là một anh hùng mà lại đi theo đứa phản nghịch! Mau mau đầu hàng đi thì còn có thể đổi họa làm phúc được. Đốc Nhung nghe nói nổi giận, truyền cho quân sĩ lấp một khúc hào để sang. Quân sĩ còn đang đội đất, vác đá để lấp hào. Đốc Nhung nóng nẩy, cầm hai ngọn kích chống thẳng xuống đất, rồi nhảy vót qua bên kia hào. Giải Ung và Giải Túc giật mình kinh sợ cùng cầm giáo đến đánh Đốc Nhung. Đốc Nhung hai tay cầm hai cái kích để đánh Giải Ung và Giải Túc. Đốc Nhung mạnh sức quá, đánh gẫy cái giáo của Giải Túc. Giải Túc vội vàng bỏ chạy. Giải Ung run sợ, bị Đốc Nhung đâm cho một ngọn kích ngã lăn xuống đất. Đốc Nhung lại đi đuổi theo Giải Túc. Giải Túc mạnh lắm, chạy thẳng đến Bắc môn, leo thành mà vào. Đốc Nhung không đuổi kịp, liền quay lại định đâm chết Giải Ung thì quân sĩ nước Tấn đã cứu Giải Ung đem vào cửa quan rồi. Đốc Nhung tức giận, chống cái kích xuống đất mà quát to lên rằng: - Còn ai dám ra đối địch với ta nữa không? Trong cửa quan không ai dám ra cả. Đốc Nhung về dinh, rồi truyền cho quân sĩ sửa soạn để ngày mai lại đánh. Giải Ung bị thương nặng quá, đêm hôm ấy chết. Triệu Vũ thương xót vô cùng. Giải Túc nói: - Ngày mai tôi xin ra quyết chiến một trận nữa để báo thù cho anh tôi. Tôi dẫu chết cũng được thỏa lòng! Tuân Ngô nói với Triệu Vũ rằng: - Bộ hạ ta, có một tướng gọi là Mâu Đăng, hắn có hai người con là Mâu Cương và Mâu Kính. Hai người ấy đều có sức khỏe mang nổi nghìn cân, hiện đang thuộc về đạo quân thị vệ của chúa công, tôi xin bảo Mâu Đăng tức khắc gọi hai con đến, để sáng mai cùng ra trận với Giải Túc. Ba người đánh một thì khi nào lại đến nỗi thua được! Triệu Vũ nói: - Nếu vậy thì hay lắm! Tuân Ngô bảo Mâu Đăng đi gọi hai con. Sáng sớm hôm sau, Mâu Cương và Mâu Kinh đều đến cả. Triệu Vũ trông thấy thân thể to lớn và mạnh mẽ, liền phủ dụ mấy câu, rồi sai cùng với Giải Túc ra trận. Sáng hôm sau, quân Đốc Nhung đã lấp bằng được một khúc hào, tiến thẳng dưới cửa quan để khiêu chiến. Mâu Cương, Mâu Kính và Giải Túc mở cửa quan ra. Đốc Nhung quát to lên rằng: - Chúng bay không sợ chết à? Ba người không nói năng gì cả, xúm lại đánh Đốc Nhung. Đốc Nhung chẳng sợ hãi chút nào, đang ngồi trên xe, nhảy xổ xuống đất, hai tay tầm hai cái kích, múa lên mà đánh. Trục xe của Mâu Cương, bị Đốc Nhung đánh gẫy, Mâu Cương bất đắc dĩ cũng phải ở trên xe nhẩy xuống, lại bị Đốc Nhung đánh một ngọn kích chết ngay. Mâu Kinh giận lắm, cố sức xông vào, nhưng không thể nào vào được. Mâu Đăng ở trên cửa quan, liền nổi hiệu thu quân, rồi mở cửa cho Mâu Cương và Giải Túc vào. Đốc Nhung truyền cho quân sĩ phá cửa quan. Trên cửa quan bắn xuống, tên đạn như mưa, quân sĩ nhiều người bị thương. Đốc Nhung vẫn không sợ hãi chút nào, thật là một viên dũng tướng. Triệu Vũ và Tuân Ngô thua luôn hai trận, sai người cáo cấp với Phạm Mang. Phạm Mang nói: - Một mình Đốc Nhung còn không đánh nổi thì dẹp thế nào được đảng họ Loan. Đêm hôm ấy, Phạm Mang đốt đèn ngồi, nét mặt buồn bã. Có một người đứng hầu bên cạnh, sụp lạy hỏi rằng: - Quan nguyên soái nét mặt buồn bã, ý chừng lo về việc Đốc Nhung, phải không? Phạm Mang nhìn xem ai liền nhận ra Phi Báo, Phi Báo nguyên là một người thủ hạ của Đồ Ngạn Giả, tên gọi là Phi Thành, sau vì việc Đồ Ngạn Giả mà phải tội, sung vào làm lệ nhân để phục dịch việc quan. Phạm Mang nghe Phi Báo nói, lấy làm lạ, liền hỏi Phi Báo rằng: - Nhà ngươi có kế gì trừ được Đốc Nhung thì ta trọng thưởng cho. Phi Báo nói: - Tôi là một người có tên trong sổ tội ác, dẫu tài giỏi đến đâu, cũng không bao giờ tiến thân được; nếu quan nguyên soái xóa tên tôi ở trong sổ tội án đi thì tôi xin giết Đốc Nhung để đền ơn lại. Phạm Mang nói: - Nhà ngươi giết được Đốc Nhung thì ta sẽ tâu với chúa công đốt cả sổ tội án đi, mà dùng nhà ngươi làm trung quân nha tướng. Phi Báo nói: - Quan nguyên soái chớ nên thất tín! Phạm Mang thề rằng: - Nếu ta thất tín thì xin có mặt trời soi xét! Nhưng chẳng hay nhà ngươi phải dùng bao nhiêu quân mã? Phi Báo nói: - Khi trước Đốc Nhung còn ở Giáng Đô, có quen với tôi, vẫn cùng tôi đấu võ. Người ấy tính nóng nảy, chỉ thích đánh nhau độc lực, nếu dùng quân mã thì không thể đánh được. Tôi xin đi một mình, tự khắc có kế bắt được Đốc Nhung. Phạm Mang nói: - Hay là nhà ngươi lại định trốn đi mà không trở lại nữa? Phi Báo nói: - Tôi còn mẹ già, năm nay 78 tuổi, còn có con nhỏ, vợ dại, sao tôi lại chịu làm điều bất trung bất hiếu ấy, để phạm tội lần nữa! Nếu tôi trái lời thì cũng xin có mặt trời soi xét! Phạm Mang mừng lắm, cho Phi Báo ăn cơm uống rượu, và thưởng cho một bộ áo giáp. Phi Báo trong mặc áo giáp, ngoài mặc áo nhung, đầu đội mũ cao, chân đi giày cỏ, lưng giắt con dao nhọn, tay cầm một cái dùi đồng nặng 52 cân, từ biệt Phạm Mang mà nói rằng: - Tôi đi chuyến này, giết được Đốc Nhung thì thôi, bằng không thì cũng chết vì tay Đốc Nhung, quyết không cùng sống được. Phạm Mang nói: - Ta cũng thân hành ra để xem nhà ngươi cố sức. Phạm Mang truyền thắng xe, rồi cùng với Phi Báo đi đến cửa Nam quan. Triệu Vũ và Tuân Ngô ra tiếp kiến Phạm Mang, kể chuyện Đốc Nhung tài giỏi, làm hại mất hai tướng. Phạm Mang nói: - Ngày nay Phi Báo xin một mình ra trận, chỉ nhờ về hồng phúc của chúa công ta. Phạm Mang nói chưa dứt lời thì Đốc Nhung đã đến khiêu chiến ngoài cửa quan. Phi Báo đứng trên cửa quan, gọi Đốc Nhung mà bảo rằng: - Nhà ngươi có còn nhớ Phi Đại, (Báo Hành Đại vậy nên Phi Báo tự xưng là Phi Đại, năm xưa vẫn thường gọi như thế) hay không? Đốc Nhung nói: - Nay Phi Đại cũng định liều chết mà ra đó chăng? Phi Báo nói: - Ai sợ nhà ngươi, chớ Phi Báo quyết không sợ! Nhà ngươi nên truyền cho quân sĩ lui lại phía sau, rồi hai ta cùng nhau giao chiến, hai tay chọi với hai tay, binh khí chọi với binh khí, thử xem ai sống ai chết, để lưu tiếng anh hùng về mai sau này! Đốc Nhung nói: - Nhà ngươi nói hợp ý ta lắm! Đốc Nhung truyền cho quân sĩ lui lại phía sau. Phi Báo mở cửa quan ra, giao chiến với Đốc Nhung. Hai bên đánh nhau hơn 20 hiệp, chưa phân thắng bại. Phi Báo giả cách nói: - Khoan đã! Ta còn dở có một chút việc cần! Phi Báo trông thấy phía Tây có một chỗ tường thấp, liền chạy thẳng vào đấy. Đốc Nhung đuổi theo, quát to lên rằng: - Chạy đàng nào cho thoát! Bọn Phạm Mang đứng ở trên cửa quan, trông thấy Đốc Nhung đang đuổi theo Phi Báo, đều sợ toát mồ hôi ra, ai ngờ Phi Báo dụng kế, khi chạy đến chỗ tường thấp, nhảy qua vào phía trong. Đốc Nhung cũng nhảy theo vào. Phi Báo nấp dưới cây lớn, chờ khi Đốc Nhung nhảy vào; nhân lúc bất ngờ, cầm dùi đồng đánh ngay một cái trúng vào giữa đầu. Đốc Nhung vỡ óc ra mà chết, chân phải còn đá vào ngực Phi Báo, bật mất một mảnh giáp. Phi Báo rút lưỡi dao nhọn cắt lấy đầu Đốc Nhung, rồi lại nhảy qua tường ra. Trên cửa quan nom thấy Phi Báo tay xách một cái đầu lâu, đầm đìa những máu, biết là đã giết được Đốc Nhung, liền mở rộng cửa quan, Giải Túc và Mâu Cương đem quân ra đuổi đánh. Quân họ Loan thua chạy, một nửa bị giết, một nửa đầu hàng, không mấy người trốn thoát. Phạm Mang rót một chén rượu, ngửa mặt lên trời mà chúc rằng: - Thế này mới thật là nhờ cái hồng phúc của chúa công ta! Chúc xong, lại rót một chén rượu thưởng cho Phi Báo, rồi đưa Phi Báo vào yết kiến Tấn Bình công. Tấn Bình công ghi công của Phi Báo, cho vào bậc thứ nhất. Loan Doanh đem quân đánh cửa Bắc quan, lúc trước được tin thắng trận của Đốc Nhung, Loan Doanh bảo các tướng sĩ rằng: - Nếu ta có hai Đốc Nhung thì cố cung này còn gì mà không phá vỡ! Thực Sước nghe nói, ra hiệu lấy chân dẫm vào chân Quách Tối, Quách Tối cũng đưa mắt đáp lại. Hai người đều cúi đầu, chẳng nói câu gì. Loan Nhạc và Loan Phường muốn lập công trạng, cố xông pha tên đạn để đánh Bắc quan. Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi Nhân thấy Nam quan thua luôn, cũng không dám ra đánh, chỉ giữ thế thủ mà thôi. Đến ngày thứ ba, Loan Doanh tiếp được tin Đốc Nhung bị giết, toán quân đều tan mất cả, tay chân run sợ, không biết làm ra thế nào, mới gọi Thực Sước và Quách Tối đến thương nghị. Thực Sước và Quách Tối cười mà nói rằng: - Đốc Nhung còn bị thua, huống chi là chúng tôi! Loan Doanh nước mắt chảy xuống ròng ròng. Loan Nhạc nói: - Chúng ta liều chết để mà cố đánh. Canh ba đêm hôm nay truyền cho quân sĩ phóng hỏa đốt cửa quan, may ra có thể vào được! Loan Doanh nghe theo kế ấy. Tấn Bình công thấy Đốc Nhung chết, mở tiệc ăn mừng. Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi cũng đều đến dự tiệc. Khi tiệc vừa tan, Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi trở về Bắc quan, bỗng thấy lửa cháy ngút trời, quân sĩ của Loan Doanh phá cửa quan tiến vào, Loan Nhạc đi trước, Loan Phường theo sau, chiếm được một lần cửa ngoài. Bọn Hàn Vô Kỵ lui vào giữ lần cửa trong, rồi sai người cáo cấp với Phạm Mang sai Ngụy Thư ra Nam quan, để thay cho Tuân Ngô đem quân về Bắc quan đánh giúp. Anh em Hàn Vô Kỵ cùng với Tấn Bình công trèo lên trên đài, trông thấy quân Loan Doanh đóng ở lần cửa ngoài im lặng như tờ. Phạm Mang nói: - Đó tất là có kế! Nên truyền cho quân sĩ ra sức phòng giữ. Đêm hôm ấy, quân Loan Doanh lại phóng hỏa đốt cửa quan, nhưng quân Tấn phòng bị sẵn, chăng mấy lần da trâu có tẩm nước, lửa không thấu qua được. Phạm Mang nói: - Giặc đã tiến đến tận nơi, nếu ta để lâu không dẹp được thì quân Tề lại thừa thế sang đánh, thật là nguy cho nước nhà lắm! Phạm Mang sai con là Phạm Ưởng cùng Phi Báo đem một toán quân, đi qua cửa Nam quan vòng qua cửa Bắc quan, để đánh mặt ngoài, hẹn đúng thời khắc cho anh em Hàn Vô Kỵ biết, đợi khi bấy giờ thì Tuân Ngô cùng Mâu Cương đem một toán quân mở cửa quan đánh ra, khiến cho quân Loan Doanh hai mặt bị đánh không tài nào mà xoay kịp. Lại sai Triệu Vũ và Ngụy Thư đem quân đóng ở ngoài phía Nam để đón đường Loan Doanh thua chạy. Phạm Mang truyền bảo đâu đấy, lại phụng Tấn Bình công lên đài để đứng xem. Phạm Ưởng lúc đi, nói với Phạm Mang rằng: - Con hãy còn trẻ tuổi, chưa có trọng vọng, xin mượn hiệu cờ đạo trung quân. Phạm Mang thuận cho. Phạm Ưởng cầm kiếm lên xe, cầm cờ đại bái mà đi ra cửa Nam quan; lúc sắp đi, bảo những người thuộc hạ rằng: - Trận đánh ngày nay, có tiến không thoái. Chẳng may mà thua thì ta quyết tự vẫn trước, chứ không để cho các ngươi chết một mình. Quân sĩ nghe nói, đều vui lòng xin theo. Tuân Ngô vâng lời Phạm Mang, truyền cho quân sĩ sửa soạn sẵn để đợi lệnh khai chiến. Được một lúc, Tuân Ngô trông thấy quân Loan Doanh rối loạn, lui ra lần cửa ngoài, biết là toán quân của Phạm Ưởng đã đến, liền nổi hiệu trống, mở rộng cửa quan, Mâu Cương đi trước, Tuân Ngô theo sau, đem quân ra đánh. Loan Doanh cũng sợ quân Tấn trong ngoài giáp công, đã sai Loan Phường lấp lần cửa ngoài, chia quân canh giữ. Toán quân của Tuân Ngô không thể ra được. Khi Phạm Ưởng đem quân đến. Loan Doanh trông thấy lá cờ đại bái, giật mình kinh sợ mà nói: - Nguyên soái nước Tấn thân hành đến đây hay sao! Loan Doanh sai người đi dò thám, mới biết là toán quân của Phạm Ưởng. Loan Doanh nói: - Nếu vậy thì không sợ! Loan Nhạc truyền cho các quân sĩ giương cung ra bắn. Em Loan Nhạc là Loan Vinh can rằng: - Quân ta nên phải hà tiện mũi tên mới được, chứ bắn hão cũng vô ích! Loan Nhạc mới không bắn nữa. Được một lúc, Loan Vinh trông thấy có một cái xe ở đằng xa đi đến, trong xe có một viên tướng mũ mao áo bào, hình dung cổ quái, liền trỏ mà bảo Loan Nhạc rằng: - Người ấy tên gọi Phi Báo, tức là người giết Đốc Nhung của ta đó, nên bắn chết đi! Loan Nhạc nói: - Đợi hắn đến gần độ một trăm bước, bấy giờ ta sẽ bắn. Nói chưa dứt lời, lại thấy có một cái xe ở bên đi ngang qua. Loan Nhạc nhìn rõ trong xe là Phạm Ưởng, mới nghĩ thầm rằng: - Ta bắn giết Phạm Ưởng, chẳng còn hơn bắn giết Phi Báo hay sao! Liền đuổi theo Phạm Ưởng mà bắn. Loan Nhạc xưa nay bắn cung, trăm phát trúng cả trăm, chẳng ngờ một phát tên ấy lại thành ra không trúng. Phạm Ưởng ngoảnh lại, trông thấy Loan Nhạc, quát to mắng rằng: - Phản tặc! Mày gần chết đến nơi, lại còn bắn ta! Loan Nhạc quay xe lui chạy, không phải sợ Phạm Ưởng, mà chỉ vì phát tên ấy bắn không trúng, vậy nên định dụ hắn đuổi theo đến gần, rồi sẽ bắn phát khác. Thực Sước và Quách Tối trông thấy, sợ Loan Nhạc bắn trúng, lại thành công được, mới reo ầm lên rằng: - Quân họ Loan thua rồi! Người trong xe nghe tiếng kêu, lại ngỡ là toán quân khác bị thua, ngẩng đầu trông bốn mặt, cầm cương không vững, ngựa lồng chạy quanh, bánh xe va phải cây hòe ở bên đường, rồi đổ ở đấy. Loan Nhạc ngã lăn xuống đất, vừa gặp Phi Báo đi đến, Phi Báo tức khắc đâm chết Loan Nhạc. Loan Vinh sợ hãi vội vàng bỏ chạy. Thực Sước và Quách Tối cũng không dám trở về nước Tề, Thực Sước chạy sang nước Vệ, Quách Tối chạy sang nước Tần. Loan Doanh nghe tin Loan Nhạc chết, vật mình lăn khóc, quân sĩ đều có lòng thương. Loan Phường với Loan Doanh chạy về phía Nam. Tuân Ngô và Phạm Ưởng hợp quân đuổi theo. Loan Phường liều chết cố đánh một trận, quân Tấn mới chịu lui về. Loan Doanh và Loan Phường đều bị trọng thương, đi được một quãng đường, lại gặp toán quân của Ngụy Thư. Loan Doanh ứa nước mắt và bảo Ngụy Thư rằng: - Tướng quân không nhớ năm xưa tôi còn là đồng sự với tướng quân hay sao? Nay tôi đành phận chết vào tay tướng quân. Ngụy Thư không nỡ giết, liền tránh cho Loan Doanh chạy đi. Loan Doanh và Loan Phường chạy về Khúc Ốc. Được một lúc, Triệu Vũ đi đến, hỏi Ngụy Thư rằng: - Loan Doanh đi qua, sao không đuổi theo mà bắt lấy? Ngụy Thư nói: - Kẻ kia như con cá trong hũ, tự khắc đã có người nhà bếp làm thịt. Tôi nghĩ đến cái tình tiên nhân tôi ngày xưa, vậy nên không nỡ cầm đao mà giết. Triệu Vũ nghe nói, cũng động lòng thương, không đuổi theo nữa. Phạm Mang biết là Loan Doanh đã chạy qua mà Ngụy Thư tha cho đi, nhưng làm ngơ không nói đến, liền bảo Phạm Ưởng rằng: - Quân của Loan Doanh là người Khúc Ốc. Kẻ kia vây cánh đã hết cả, nhà ngươi chỉ đem một toán quân vây Khúc Ốc thì tự khắc dẹp xong. Tuân Ngô cũng xin theo. Phạm Mang thuận cho. Phạm Ưởng và Tuân Ngô đem quân vây Khúc Ốc. Phạm Mang lại mời Tấn Bình công trở về cung cũ, rồi đem sổ tội án đốt bỏ đi, thành ra vì một Phi Báo mà cả thảy hơn 20 nhà cùng được khỏi tội. Phạm Mang lại xin cho Phi Báo làm trung quân nha tướng. Tề Trang công từ khi giúp quân cho Loan Doanh trở về nước Tấn, cũng sửa soạn quân mã, cho Vương Tôn Huy làm đại tướng, Thân Tiên Ngu làm phó tướng, Châu Sước và Hình Khoái làm tiên phong, Án Ly làm hợp hậu, còn bọn Giả Cử thì cho đi hộ giá, chọn ngày cất quân, để sang đánh nước Vệ. Người nước Vệ cố giữ không dám ra đánh. Quân Tề kéo thẳng qua đất Đế Khâu sang địa giới nước Tấn, đánh lấy đất Triều Ca. Tề Trang công lên núi Triêu Dương để khao quân, rồi chia làm hai đạo: Vương Tôn Huy đi về phía tả, qua ải Mạnh Môn; Tề Trang công cùng hai đạo Long Tước và Hổ Tước đi về phía hữu, qua Cơ Sơn. Hai đạo hẹn nhau cùng kéo đến Thái Hàng Sơn thì hợp làm một. Khi Tề Trang công đi đến Cơ Sơn, Hình Khoái đêm ngủ trần ở dưới chân núi, bị con rắn độc cắn, sưng bụng lên mà chết. Tề Trang công thương tiếc vô cùng. Khi hai đạo quân đến Thái Hàng Sơn, Tề Trang công trèo lên ngọn núi, nom về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để nghĩ kế đánh Tấn; bỗng nghe Loan Doanh đã thua chạy về Khúc Ốc, đại binh nước Tấn đuổi theo, cũng sắp đến nơi, liền thở dài than rằng: - Nếu vậy thì hỏng việc rồi, còn làm gì được nữa! Nói xong, truyền rút quân về. Quan trấn thủ ở đất Hàm Đan là Triệu Thắng (con Triệu Chiên) đem quân đuổi theo. Tề Trang công tưởng là đại binh nước Tấn, vội vàng bỏ chạy, chỉ để Án Ly ở lại sao mà đối địch. Án Ly thua trận, bị Triệu Thắng chém chết. Phạm Ưởng và Tuân Ngô vây thành Khúc Ốc hơn một tháng, bọn Loan Doanh đánh lại không nổi, trong thành chết mất quá nửa đành chịu vỡ tan. Tư Ngọ rút gươm đâm cổ chết. Loan Doanh và Loan Vinh đều bị bắt cả. Loan Doanh phàn nàn rằng: - Tiếc thay ta không nghe lời Tân Du, đến nỗi thế này! Tuân Ngô muốn giam Loan Doanh để giải về Giáng Đô, Phạm Ưởng bảo Tuân Ngô rằng: - Chúa công ta không quyết đoán, vạn nhất hắn kêu van mà lại tha thì kẻ thù của ta, bao giờ cho trừ được! Đêm hôm ấy, mật sai người thắt cổ Loan Doanh mà giết chết đi, lại giết cả Loan Vinh nữa. Bao nhiêu những tộc đảng họ Loan, giết chết sạch cả, chỉ có Loan Phường trèo qua thành trốn sang nước Tống được. Bọn Phạm Ưởng rút quân về. Tấn Bình công đem việc họ Loan bá cáo cho các nước chư hầu biết. Các nước chư hầu phần nhiều sai người đến chúc mừng. Phạm Mang nước Tấn xin cáo lão về nghỉ. Tấn Bình Công cho Triệu Vũ thay cầm quyền chính. Tề Trang công chưa đánh được nước Tấn vẫn còn căm tức, khi vào đến địa giới nước Tề, không chịu vào vội mà bảo các tướng sĩ rằng: - Trận Bình Âm ngày trước, người nước Cử lại toan lẻn đánh vào Tề, thù ấy ta phải báo lại mới được! Tề Trang công liền đóng đồn ở ngoài thành để điểm duyệt quân mã. Tề Trang công trọng đãi bọn Châu Sước và Giả Cử, cho mỗi người 5 cỗ xe, gọi là ngũ thặng tân. Giả Cử khen người Lâm Tri là Hoa Chu và Kỷ Lương có tài võ dũng. Tề Trang công tức khắc cho triệu Hoa Chu và Kỷ Lương vào yết kiến Tề Trang công. Tề Trang công cho hai người chung nhau một cỗ xe để đi theo quân mà lập công trạng. Hoa Chu lui về giận lắm, không ăn cơm và bảo Kỷ Lương rằng: - Chúa công đặt ra ngũ thặng tân là vì cái tài vũ dũng, nay triệu hai ta đến, cũng vì cái tài vũ dũng. Thế mà kẻ kia thì mỗi người được 5 cỗ xe, chúng ta hai người chung nhau một cỗ, có phải là biết dùng ta đâu chẳng qua làm nhục ta đó mà thôi, chi bằng ta từ chối mà đi phương khác. Kỷ Lương nói: - Tôi còn có mẹ già, để tôi xin hỏi mẹ tôi đã. Kỷ Lương về hỏi người mẹ. Người mẹ nói: - Mày sống mà vô nghĩa, chết mà vô danh thì dẫu được dự vào ngũ thặng tân, người ta cũng cười mày. Mày nên phải cố gắng chớ nên trái mệnh vua. Kỷ Lương đem lời nói của người mẹ, thuật lại cho Hoa Chu nghe, Hoa Chu nói: - Người đàn bà còn không quên mệnh vua, huống chi là ta! Hoa Chu cùng với Kỷ Lương theo hầu Tề Trang công. Tề Trang công nghỉ trong 3 ngày, rồi để Vương Tôn Huy đóng quân ở lại, còn mình thì đem đại binh đi đánh nước Cử. Hoa Chu và Kỷ Lương cùng xin đi tiền đội. Tề Trang công hỏi rằng: - Hai ngươi muốn dùng bao nhiêu quân mã? Hoa Chu và Kỷ Lương nói: - Chúa công cho hai chúng tôi chung nhau một cỗ xe, cũng đã đủ rồi, chúng tôi xin đi trước. Tề Trang công muốn thử tài, cười cho đi. Hoa Chu và Kỷ Lương thay đổi nhau cầm cương xe. Khi sắp đi, hai người phàn nàn rằng: - Giả sử có một người nữa làm xa hữu thì có thể đương nổi một đội! Có người lính trẻ tuổi chạy đến nói rằng: - Tôi là người bản quốc, tên gọi Thấp Hầu Trọng. Tôi mến cái tài võ dũng của hai tướng quân, nên muốn theo. Ba người cùng ngồi một xe, thẳng đường tiến sang nước Cử. Ngày hôm sau, vua nước Cử là Lê Tị công biết quân Tề sắp đến thân hành đem 300 giáp sĩ ra đi tuần, gặp xe Hoa Chu và Kỷ Lương toan bắt lại hỏi, Hoa Chu và Kỷ Lương trừng mắt quát to lên rằng: - Hai ta là tướng nước Tề, có ai dám cùng ta quyết chiến hay không? Lê Tị công giật mình kinh sợ, nhưng không thấy có quân tiếp ứng, mới truyền cho quân sĩ vây kín lại. Hoa Chu và Kỷ Lương bảo Thấp Trọng Hầu rằng: - Nhà ngươi cứ đánh trống luôn cho ta! Hai người nói xong, mỗi người cầm một cái kích, xuống xe xông vào đánh, quân nước Cử chết đến một nửa. Lê Tị công nói: - Ta đã biết cái võ dũng của hai tướng quân rồi, hai tướng quân chớ nên tử chiến ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Cử. Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh đáp rằng: - Nếu bỏ nước mà về với giặc thì sao gọi là trung; đã phụng mệnh vua mà không hết lòng thì sao gọi là tín. Tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là bổn phận làm tướng còn cái lợi nước Cử, tôi nào dám nghĩ đến! Hai người lại cầm kích tiến đánh. Lê Tị công không thể đương nổi, vội vàng bỏ chạy. Đại binh của Tề Trang công đến nơi, nghe nói Hoa Chu và Kỷ Lương thắng được quân Cử, sai sứ triệu mà bảo rằng: - Ta đã biết cái tài của hai tướng quân rồi, hai tướng quân bất tất phải tiến đánh nữa, ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Tề. Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh mà đáp rằng: - Chúa công đặt ra ngũ thặng tân mà tôi không được dự, thế là bỉ cái tài của tôi; nay lại đem lợi phủ dụ, thế là khinh cái bụng của tôi. Tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là bổn phận làm tướng; còn cái lợi nước Tề, tôi nào dám nghĩ đến! Hai người liền chắp tay vái sứ giả rồi lại thẳng đường tiến vào cửa thành nước Cử. Lê Tị công sai người đào sẵn một ngòi chắn ngang đường, rồi đốt than ở dưới. Lửa cháy ngùn ngụt lên, Hoa Chu và Kỷ Lương không thể bước qua được, Thấp Hầu Trọng nói: - Người ta dám liều chết thì mới được danh tiếng về đời sau! Tôi có thể khiến cho hai tướng quân qua ngòi được! Thấp Hầu Trọng cắp một cái mộc nằm đè lên trên đống than lửa để cho Hoa Chu và Kỷ Lương dẫm mà đi qua. Hoa Chu và Kỷ Lương bước qua được cái ngòi, ngoảnh lại trông Thấp Hầu Trọng đã cháy xém cả người rồi! Hoa Chu và Kỷ Lương liền đứng nhìn mà khóc. Được một lúc, Kỷ Lương gạt nước mắt, Hoa Chu còn khóc chưa thôi. Kỷ Lương nói: - Nhà ngươi sợ chết hay sao! Làm sao mà khóc lâu như thế! Hoa Chu nói: - Nào ta có sợ chết đâu; chỉ tiếc thay cho người này cũng võ dũng như ta, mà lại chết trước ta, nên ta thương lắm! Lê Tị công thấy Hoa Chu và Kỷ Lương đã qua được ngòi lửa, vội vàng truyền cho quân sĩ phục sẵn ở hai bên cửa thành đợi khi đến gần thì bắn. Hoa Chu và Kỷ Lương thẳng cửa tiến vào, quân sĩ hai bên bắn ra như mưa. Hoa Chu và Kỷ Lương đến nơi, lại giết chết được 27 người nữa. Kỷ Lương bị thương nặng mà chết ngay. Hoa Chu bị mấy mươi mũi tên không thể đánh được nữa, chịu cho người nước Cử bắt, nhưng chưa tắt hơi, Lê Tị công sai đem vào trong thành. Tề Trang công tiếp được sứ giả về nói, biết là Hoa Chu và Kỷ Lương có lòng quyết tử, liền dẫn đại binh đến theo. Khi đến cửa thành nước Cử, nghe nói 3 người đều chết cả, tức thì nổi giận, toan thúc quân tiến đánh, Lê Tị công sai sứ đến xin lỗi với Tề Trang công rằng: - Chúa công tôi trông thấy xe đi, không biết là đại quốc sai đến, vậy nên lầm lỡ mà trót xâm phạm. Vả đại quốc chết có 3 người mà nước tôi bị giết hơn trăm người rồi; kẻ kia có ý liều chết chứ không phải là tại nước tôi. Chúa công tôi sợ uy đại quốc, sai tôi đến đây tạ tội, từ nay trở đi, xin một lòng triều cống nước Tề, không dám sai lời. Tề Trang công còn chưa nguôi cơn giận, không thuận cho giảng hòa. Lê Tị công lại sai sứ ra cố xin, xin đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả, lại xin đem vàng lụa sang khao thưởng quân sĩ. Tề Trang công còn chưa thuận cho, bỗng tiếp được tin cấp báo của Vương Tôn Huy, nói: - Vua Tấn cùng với vua các nước Tống, Lỗ, Vệ, Trịnh hội nhau ở đất Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề, xin mời chúa công mau mau rút quân về nước. Tề Trang công mới cho nước Cử giảng hòa. Lê Tị công đem vàng lụa sang khao thưởng cho quân nước Tề, lại đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả. Còn thi thể Thấp Hầu Trọng ở trong đống lửa đã hóa ra tro rồi, không còn gì nữa. Tề Trang công ngay ngày hôm ấy, truyền rút quân về, sai đem thi thể Kỷ Lương quàn ở ngoài cõi nước Tề. Khi Tề Trang công về đến nơi, gặp vợ Kỷ Lương là nàng Mạnh Khương ra đón thi thể chồng ở ngoài cõi. Tề Trang công dừng xe, sai sứ đến viếng. Nàng Mạnh Khương nói với sứ giả rằng: - Chồng thiếp có tội thì không dám nhận lời viếng của chúa công, nhược bằng vô tội thì chồng thiếp cũng còn cái túp lều của tiền nhân để lại, chứ chỗ này có phải chỗ viếng tang đâu, thiếp không dám nhận. Tề Trang công có ý thẹn nói rằng: - Đó là điều lỗi của ta! Tề Trang công sai sứ đến tận nhà Kỷ Lương để viếng tang. Nàng Mạnh Khương lúc sắp đem linh cữu chồng chôn ở ngoài thành, ôm linh cữu mà khóc, nước mắt ràn rụa, sau hết nước mắt, chảy máu tươi ra, tự nhiên thành nước Tề lở mất mấy thước, người ta bảo rằng vì cái tình thương của nàng Mạnh Khương cảm động, đến nỗi như thế. Hoa Chu về đến nước Tề, vết đau nặng quá, chưa được bao lâu cũng chết. Vợ Hoa Chu khóc chồng, cũng bội phần thương xót. Năm ấy nước lên to lắm, sông Hoàng Hà đầy tràn, mặt nước sâu hơn thước. Tấn Bình công lại thôi không đánh Tề nữa. Quan hữu khanh nước Tề là Thôi Chữ, ghét Tề Trang công dâm loạn, vẫn muốn đợi quân Tấn đến đánh thì thừa cơ khởi sự, đã cùng với quan tả khanh là Khánh Phong thương nghị định khi nào sự thành, chia đôi nước Tề. Sau Khi nghe Tấn Bình công vì nước lụt mà hoãn việc đánh Tề, trong lòng uất ức. Bấy giờ Tề Trang công có một người nội thị tên gọi Giả Thụ, vì một việc nhỏ mà bị Tề Trang công đánh 100 roi. Thôi Chữ biết là Giả Thụ oán giận, liền đút tiền cho để kết làm tâm phúc, phàm Tề Trang công làm việc gì thì Giả Thụ đều đến báo cho Thôi Chữ biết.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  7. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 65 Thôi Chữ phục quân giết Tề Trang Ninh Hỉ lập mưu giết Vệ Hiến

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vua nước Cử là Lê Tị công nhân vì giảng hòa với nước Tề, năm ấy tuân hành sang Lâm Tri (kinh thành nước Tề) để triều cống. Tề Trang công mừng lắm, bày tiệc ở Bắc Bỉ để thết đãi Lê Tị công. Phủ đệ của Thôi Chữ cũng ở Bắc Bỉ. Thôi Chữ định thừa cơ để giết Tề Trang công, mới giả cách cáo ốm, không đến dự tiệc rồi mật sai người tâm phúc đến hỏi tin Giả Thụ. Giả Thụ mật báo rằng: - Chúa công định tiệc xong thì đến thăm quan tướng quốc. Thôi Chữ cười nói rằng: - Chúa công có nghĩ gì đến bệnh của ta, ta có bệnh thì chúa công càng có lợi, chẳng qua chỉ muốn làm việc vô sỉ đó thôi! Thôi Chữ lại bảo vợ là nàng Đường Khương rằng: - Ngày nay ta muốn trừ bỏ đứa vô đạo hôn quân ấy đi, nàng chịu theo kế ta thì ta không nói sự xấu của nàng, ngay sau lại lập con nàng làm đích tử, nếu nàng không theo lời nói của ta thì ta chém đầu mẹ con nàng trước. Nàng Đường Khương nói: - Vợ thì phải theo chồng. Ngài bảo gì mà thiếp chẳng theo. Thôi Chữ sai Đường Vô Cữu phục quân ở hai bên cạnh nhà, Thôi Thành và Thôi Cương phục quân ở bên trong cửa, Đông Quách Yển phục quân ở bên ngoài cửa, hẹn nhau đến bấy giờ thì rung chuông làm hiệu, lại sai người mật báo cho Giả Thụ biết. Tề Trang công say mê nàng Đường Khương quên ăn quên ngủ, chẳng lúc nào không nghĩ đến, chỉ vì Thôi Chữ phòng giữ nghiêm mật, vậy nên không dám thường thường vãng lai, hôm ấy nghe nói Thôi Chữ cáo ốm, lấy làm may lắm, thần hồn mê mẩn, tưởng ngay đến nàng Đường Khương, trong khi ngự yến với Lê Tị công, chỉ qua loa cho xong việc thì thôi, rồi đi thẳng đến nhà Thôi Chữ để thăm bệnh. Người canh cửa nhà Thôi Chữ nói dối rằng: - Quan tướng quốc tôi đau nặng quá! Hiện uống thuốc xong vừa mới đi nằm. Tề Trang công hỏi: - Nằm ở chỗ nào? Người canh cửa nói: - Nằm ở ngoại tẩm. Tề Trang công mừng lắm, đi thẳng vào nội thất. Bấy giờ Châu Sước, Giả Cử, công tôn Ngao và lũ người theo hầu. Giả Thụ bảo rằng: - Tính chúa công ta xưa nay, hẳn các người đã biết, sao các người không đứng cả ra bên ngoài, theo vào làm gì để kinh động quan tướng quốc. Bọn Châu Sước khen phải, liền đứng cả ngoài cửa. Chỉ có Giả Cử không chịu ra ngoài mà nói rằng: - Một mình ta đứng lại đây thì phỏng có hại gì! Nói xong liền đứng ở nhà giữa. Giả Thụ đóng cửa giữa, rồi đi trở vào. Người canh cửa cũng đóng cửa lớn ở ngoài mà khóa chặt lại. Tề Trang công vào đến nội thất. Nàng Đường Khương trang điểm rất lịch sự ra đón, nhưng chưa kịp nói một câu nào thì có đứa thị tỳ chạy đến bảo nàng Đường Khương rằng: - Quan tướng quốc kêu khô miệng, muốn uống nước mật thang. Nàng Đường Khương nói với Tề Trang công rằng: - Thiếp đi lấy nước mật thang đã, rồi thiếp sẽ đến ngay. Nàng Đường Khương theo đứa thị tỳ rón rén qua cửa ngang rồi đi. Tề Trang công tựa bao lơn đứng đợi. Đợi mãi không thấy, bỗng nghe dưới nhà có tiếng gươm giáo, Tề Trang công ngạc nhiên nói rằng: - Quái lạ! Ở chỗ này lại có quân sĩ hay sao! Tề Trang công liền gọi Giả Thụ không thấy Giả Thụ thưa. Được một lúc quân sĩ hai bên đổ ra. Tề Trang công kinh sợ, biết rằng có biến, vội vàng chạy ra cửa sau thì cửa sau đã đóng chặt rồi. Tề Trang công sức khỏe, phá cửa mà ra, trèo lên trên một cái lầu. Đường Vô Cữu đem quân giáp sĩ vây lầu quát to lên rằng: - Ta phụng mệnh quan tướng quốc đến bắt dâm tặc! Tề Trang công đứng trên lầu bảo Đường Vô Cữu rằng: - Ta là vua nhà ngươi, nhà ngươi tha cho ta! Đường Vô Cữu nói: - Quan tướng quốc truyền như vậy ta không dám trái mệnh. Tề Trang công nói: - Quan tướng quốc ở đâu? Ta xin thề rằng ta không làm hại gì quan tướng quốc cả! Đường Vô Cữu nói: - Quan tướng quốc ốm, không thể đến đây được! Tề Trang công nói: - Ta biết tội của ta rồi! Nhà ngươi khoan cho ta được vào nhà Thái Miếu mà tự tử để tạ lại quan tướng quốc, phỏng có nên chăng? Đường Vô Cữu nói: - Chúng ta chỉ biết bắt những đứa dâm tặc, chứ không biết vua là ai cả; thôi thì liệu mà tự tử ngay đi, chớ để phải chịu nhục. Tề Trang công bất đắc dĩ nhảy qua cửa sổ, trèo lên hoa đài toan leo tường để chạy. Đường Vô Cữu giương cung bắn theo, trúng ngay vào đùi chân bên tả của Tề Trang công. Tề Trang công ở trên tường ngã lăn xuống đất. Quân giáp sĩ kéo đến, đâm chết Tề Trang công. Đường Vô Cữu sai người rung mấy tiếng chuông làm hiệu. Bấy giờ trời đã mờ tối, Giả Cử ở nhà giữa, lắng nghe thấy mấy tiếng chuông, lại thấy Giả Thụ mở cửa, cầm đèn đi ra mà bảo rằng: - Trong nhà có giặc, chúa công sai triệu nhà ngươi, nhà ngươi vào trước đi để ta còn ra báo với bọn Châu Sước. Giả Cử nói: - Đưa đèn cho ta! Giả Thụ đưa đèn cho Giả Cử, giả cách tuột tay rơi xuống đất, đèn tắt. Giả Cử cầm kiếm đi dò mà vào. Vào đến cửa giữa, Giả Cử vướng dây ngã xuống đất. Thôi Cương ở bên cửa chạy ra, giết chết Giả Cử. Bọn Châu Sước ở ngoài cửa, không biết chuyện gì cả. Đông Quách Yển giả cách thân tình, mời sang một cái nhà bên thắp đèn uống rượu; lại bảo bọn Châu Sước hãy cởi bỏ kiếm ra, để ngồi uống rượu cho vui, rồi cả các người theo hầu đều được uống rượu. Đang uống rượu, bỗng nghe thấy trong nhà Thôi Chữ có tiếng chuông rung, Đông Quách Yển nói: - Chắc bây giờ chúa công ta đang uống rượu! Châu Sước nói: - Vậy chúa công ta không e quan tướng quốc à! Đông Quách Yển nói: - Quan tướng quốc ốm nặng, còn phải e gì nữa! Được một lúc lại nghe tiếng chuông rung. Đông Quách Yển nói: - Để tôi vào xem có việc gì chăng? Đông Quách Yển vừa đi khỏi thì quân giáp sĩ đổ ra. Bọn Châu Sước vội vàng tìm kiếm thì ra Đông Quách Yển đã sai người lấy trộm mất từ bao giờ rồi! Châu Sước giận lắm, trông thấy trước cửa có viên đá, liền vác viên đá ấy để đánh; chẳng ngờ Lũ Nhân vừa đi đến nơi, Châu Sước đánh lầm phải. Lũ Nhân gãy một chân. Châu Sước sợ hãi bỏ chạy. Công tôn Ngao nhổ cái cọc buộc ngựa mà múa. Quân giáp sĩ nhiều người bị thương. Sau quân giáp sĩ giơ đuốc đốt. Công tôn Ngao cháy hết cả râu tóc. Bấy giờ cửa lớn bỗng thấy mở toang. Thôi Thành và Thôi Cương lại đem quân giáp sĩ ở trong kéo ra. Công tôn Ngao giơ tay nắm gãy cánh tay của Thôi Thành. Thôi Cương cầm kích đâm chết công tôn Ngao, lại giết chết cả Lũ Nhân nữa. Châu Sước cướp được cái kích của quân giáp sĩ, lại quay lại để đánh. Đông Quách Yển quát to lên rằng: - Hôn quân dâm loạn, đã bị giết rồi! Không can dự gì đến các ngươi cả, sao các ngươi chẳng lưu cái thân lại, để mà thờ vua mới? Châu Sước ném cái kích xuống đất mà nói rằng: - Ta là một người đi trốn, chịu ơn trọng đãi của vua Tề, nay đã không cứu được vua Tề, mà lại làm hại Lũ Nhân, chẳng qua cũng là tại trời! Ta nên liều mình báo ơn vua Tề, chứ nỡ nào mà tham sống để mang tiếng cười ở nước Tề và nước Tấn hay sao! Nói xong, liền đập đầu vào tường đá. Ba bốn viên đá vỡ tung ra, đầu của Châu Sước cũng vỡ. Bính Sư nghe tin Tề Trang công chết cũng tự đâm cổ chết ở ngoài triều môn. Phong Cụ thắt cổ chết ở trong nhà. Đạc Phủ và Trương Doãn rủ nhau đến khóc Tề Trang công, đi đến nửa đường, nghe tin bọn Giả Cử chết cả cũng đều tự tử. Vương Hà rủ Lư Bồ Quí cùng tử tiết. Lư Bồ Quí nói: - Chết cũng vô ích! Chi bằng ta trốn đi, rồi sau sẽ liệu, may ra có một người nào trở về được thì ta lại tiến dẫn cho nhau. Vương Hà nói: - Nếu vậy thì xin ăn thề. Thề xong, Vương Hà bỏ trốn sang nước Cử. Lư Bồ Quí lúc sắp đi, bảo em là Lư Bồ Miết rằng: - Chúa công đặt ra dũng tước là cần để hộ giá, nay ta vì chúa công mà chết, cũng không ích gì cả. Ta đi rồi, nhà ngươi cố cầu cạnh mà làm tôi Thôi Chữ và Khánh Phong để xin cho ta về, bấy giờ ta sẽ vì chúa công mà báo thù thì dẫu chết cũng đáng! Lư Bồ Miết nhận lời. Lư Bồ Quí trốn sang nước Tấn. Lư Bồ Miết xin vào làm tôi Khánh Phong. Khánh Phong dùng làm gia thần. Thân Tiên Ngu trốn sang nước Sở, sau làm quan hữu doãn ở nước Sở. Bấy giờ các quan đại phu nước Tề, nghe tin Thôi Chữ nổi loạn đều đóng cửa đợi tin, không ai dám đến cả, chỉ có Án Anh đến thẳng tận nhà Thôi Chữ, gối đầu vào đùi Tề Trang công mà khóc. Khi Án Anh ra về, Đường Vô Cữu bảo Thôi Chữ rằng: - Tất phải giết Án Anh đi thì mới khỏi có kẻ bỉ báng! Thôi Chữ nói: - Án Anh vốn có tiếng là người hiền, nếu ta giết đi thì sợ mất lòng người trong nước! Án Anh đến bảo Trần Tu Vô (cháu tằng tôn Trần Kính Trọng) rằng: - Sao nhà ngươi không bàn lập vua mới? Trần Tu Vô nói: - Thế thần nước Tề ta thì có họ Cao, họ Quốc, mà cầm quyền chính ngày nay thì có họ Thôi, họ Khánh, chứ tôi làm gì nổi! Án Anh về, Trần Tu Vô nói: - Loạn tặc ở trong triều, ta không nên cùng hắn đồng sự. Nói xong, liền bỏ sang nước Tống. Án Anh lại đến nói với Cao Chỉ và Quốc Hạ. Cao Chỉ và Quốc Hạ đều nói: - Việc ấy quyền tại họ Thôi và họ Khánh, tôi làm gì nổi! Án Anh thở dài mà về. Khánh Phong sai con là Khánh Xá đi bắt những dư đảng của Tề Trang công, đuổi giết gần hết, rồi đem xe đón Thôi Chữ vào triều. Thôi Chữ sai người đi triệu họ Cao và họ Quốc đến để bàn lập vua mới. Họ Cao và họ Quốc nhường quyền cho Thôi Chữ và Khánh Phong. Khánh Phong lại nhường quyền cho Thôi Chữ. Thôi Chữ nói: - Con vua Linh công là công tử Chử Cữu, năm nay đã lớn tuổi. Người mẹ là con gái quan đại phu nước Lỗ tên gọi Thúc Tôn Kiều Như. Lập người ấy thì ta có thể giao hiếu với nước Lỗ được. Các quan triều thần đều vâng dạ xin theo. Thôi Chữ lập công tử Chử Cữu lên làm vua, tức Tề Cảnh công. Bấy giờ Tề Cảnh công hãy còn nhỏ, Thôi Chữ tự lập là hữu tướng, lại lập Khánh Phong làm tả tướng, cùng với các quan triều thần ăn thề ở nhà Thái Miếu rằng: - Các ngươi, hễ ai không đồng tâm với họ Thôi và họ Khánh thì đã có mặt trời soi xét! Thôi Chữ thề xong đến Khánh Phong rồi đến họ Cao với họ Quốc, cũng theo lời thề ấy, khi đến Án Anh, Án Anh ngửa mặt lên trời mà thề rằng: - Nếu các ngươi biết tận trung với vua để làm lợi cho nước mà tôi không đồng tâm thì xin có mặt trời soi xét! Thôi Chữ và Khánh Phong đều sầm nét mặt lại. Cao Chỉ và Quốc Hạ nói: - Việc hai tướng quốc làm ngày nay, chính là việc trung vua lợi nước đó! Thôi Chữ và Khánh Phong mới bằng lòng. Bấy giờ vua nước Cử là Lê Tị công hãy còn ở nước Tề, Thôi Chữ và Khánh Phong phụng Tề Cảnh công ăn thề với Lê Tị công. Lê Tị công trở về nước Cử. Thôi Chữ sai Đường Vô Cữu đem những thi thể Châu Sước và Tề Trang công cùng chôn ở Bắc Quách, giảm bớt lễ số, không cho dùng binh khí; bảo rằng sợ lại loạn ở dưới âm phủ! Thôi Chữ sai Thái Sử Bá chép vào sử là bị bệnh sốt rét mà chết. Thái Sử Bá không nghe, biên vào thẻ rằng: "Ngày Ất hợi, tháng 5, mùa hạ, Thôi Chữ giết vua là Quang (tên Tề Trang công)" Thôi Chữ trông thấy nổi giận, giết Thái Sử Bá. Thái Sử Bá có ba người em là Trọng, Thúc, Quí. Trọng lại chép như trước. Thôi Chữ lại giết đi. Thúc cũng chép như thế. Thôi Chữ lại giết. Quí lại chép. Thôi Chữ cầm lấy cái thẻ mà bảo Quí rằng: - Ba anh mày đều chết cả, còn mày không sợ chết à? Nếu mày chịu chép khác đi thì ta tha chết cho. Quí nói: - Có thế nào thì chép thế là cái bổn phận của nhà làm sử, nếu trái bổn phận mà sống thì thà chết còn hơn! Ngày xưa Triệu Xuyên giết Tấn Linh công, quan thái sử Đổng Thừa thấy Triệu Thuẫn là chính khanh mà không biết trị tội quân giặc, còn chép rằng: "Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao" mà Triệu Thuẫn không lấy làm quái. Thế thì biết bổn phận nhà sử không thể bỏ được! Giả sử tôi không chép, thiên hạ tất cũng có người khác chép! Tôi không chép cũng không thể che được sự xấu của quan tướng quốc, mà lại để cho thức giả người ta chê cười, vậy tôi liều chết mà chép, còn tùy ý quan tướng quốc! Thôi Chữ thở dài than rằng: - Ta sợ nước nhà nghiêng đổ, bất đắc dĩ mà phải làm việc này! Nhà ngươi dẫu chép thẳng, thiên hạ tất cũng xét tấm lòng cho ta! Nói xong, liền ném cái thẻ đưa trả Quí. Quí cầm cái thẻ đi ra, sắp đến cửa Sử Quán, lại gặp Nam sử thị hỏi đi đâu. Nam sử thị nói: - Ta nghe nói anh em nhà ngươi đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày Ất hợi, tháng 5, mùa hạ mới rồi, vậy nên ta cầm thẻ để đem chép. Quí đưa cái thẻ của mình chép cho xem. Nam sử thị mới về. Thôi Chữ lấy việc Thái Sử Quí chép làm xấu hổ, mới đổ tội cho Giả Thụ mà giết đi. Tấn Bình công thấy nước sông đã rút xuống, lại họp chư hầu ở Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề. Thôi Chữ sai quan tể tướng là Khánh Phong đem việc Tề Trang công chết cáo với quân Tấn và nói rằng: - Triều thần chúng tôi sợ đại quốc đến đánh thì không giữ yên được nước nhà, vậy đã thay đại quốc mà trị kẻ có tội rồi. Nay vua mới chúng tôi là Chử Cữu, xin một lòng thần phục đại quốc. Khi trước đại quốc đã chiếm đất Triều Ca thì lại xin đem đất ấy dâng đại quốc. Thôi Chữ sai đem các đồ tế khí và các đồ nhạc khí sang dâng Tấn Bình công, lại đem lễ vật biếu các vua chư hầu nữa. Tấn Bình công bằng lòng, rút quân về nước. Các vua chư hầu cũng đều về cả. Từ bấy giờ Tề và Tấn lại giảng hòa với nhau. Thực Sước ở nước Vệ, nghe nói Châu Sước và Hình Khoái đều chết cả, lại trở về nước Tề. Khi Vệ Hiến công (Hãn) trốn sang nước Tề vốn biết Thực Sước là người võ dũng, sai công tôn Đinh đem lễ vật đến triệu. Thực Sước lại theo Vệ Hiến công. Năm ấy, vua nước Ngô là Chư Phàn sang đánh Sở đi qua đất Sào. Tướng đất Sào là Ngưu Thần đứng ở bên cái tường thấp bắn chết Chư Phàn. Các quan triều thần nước Ngô theo lời dặn của Thọ Mộng khi gần chết, mới lập em Chư Phàn là Dư Sái lên làm vua. Dư Sái nói: - Anh ta không phải vì đất Sào mà chết, chẳng qua theo lời dặn của tiên vương (trỏ Thọ Mộng) mà cố ý liều chết, để cho chóng truyền ngôi đến Quí Trát (em Dư Sái) đó thôi. Từ bấy giờ Dư Sái đêm nào cũng khấn trời để cầu chóng chết. Các quan đều nói: - Người ta ai cũng muốn thọ, nay đại vương lại muốn được chóng chết, chẳng cũng trái tính lắm ru! Dư Sái nói: - Vua Thái Vương ta ngày xưa bỏ con trưởng lập con nhỏ, mới nên được đại nghiệp, nay anh em ta là bốn người, cứ theo thứ tự mà truyền cho nhau. Nếu ai cũng thọ cả thì Quí Trát già mất! Bởi vậy ta phải cầu chóng chết. Lại nói chuyện quan đại phu nước Vệ là Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đã đuổi Vệ Hiến công (Hãn), mới lập em Vệ Hiến công là Phiên lên làm vua tức là Vệ Thương công. Sau Ninh Thực ốm nặng, bảo con là Ninh Hỉ rằng: - Họ Ninh ta mấy đời nay vẫn một lòng trung quân. Việc đuổi vua này là tự họ Tôn cả, chứ ta không có ý gì, thế mà người trong nước đều bảo họ Tôn và họ Ninh đuổi vua, ta không thể nào giải tỏ ra được, sau này còn mặt mũi nào mà trông thấy tổ phụ ở dưới đất! Con làm thế nào mà đem được vua cũ về để che lỗi cho ta, thế mới là hiếu tử; nếu không thì dẫu con có cúng tế, cha cũng không hưởng đâu! Ninh Hỉ sụp lạy, vừa khóc vừa nói: - Con xin cố gắng. Ninh Hỉ nối cha làm chức tả tướng, từ bấy giờ có chí muốn đem Vệ Hiến công về, ngặt vì Thương công vẫn đi dự hội với các vua chư hầu trong nước không có biến cố gì cả; quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ lại là cừu địch với Vệ Hiến công, bởi vậy không thể làm thế nào được. Năm thứ 24 đời Chu Linh Vương, Vệ Hiến công chiếm được đất Di Nghi, mới sai công tôn Đinh lẻn vào thành Đế Khâu bảo Ninh Hỉ rằng: - Nhà ngươi biết đổi lại cái ý của cha mà giúp cho ta về nước thì quyền chính nước Vệ, ta giao hết cho nhà ngươi, ta chỉ giữ một việc cúng tế ma thôi. Ninh Hỉ vẫn nhớ lời cha dặn, nay lại thấy Vệ Hiến công nói giao hết quyền chính cho, lấy làm mừng lắm, nhưng nghĩ thầm trong lòng rằng: - Bây giờ vua Vệ đang mong về nước, cho nên dỗ ngọt ta, đến khi về rồi, lại sinh lòng khác, bấy giờ biết là thế nào? Công tử Chuyên là người hiền mà thủ tín, nếu hắn nhận cho một lời thì sau này không thể sai được. Nghĩ xong liền viết một tờ mật thư đưa lại cho Vệ Hiến công. Trong thư đại lược nói rằng: "Đó là quốc gia đại sự, một mình tôi không thể làm nổi. Người trong nước ngày nay ai cũng có lòng tin lời Tử Tiên (tên tự của công tử Chuyên), nếu hắn nhận cho một lời thì mới có thể bàn định được". Vệ Hiến công bảo công tử Chuyên rằng: - Ta phục quốc được là nhờ Ninh Hỉ, ngô đệ nên vì ta mà đi một chút. Công tử Chuyên dẫu đã vâng lời, nhưng vẫn nấn ná không chịu đi. Vệ Hiến công cố giục mãi. Công tử Chuyên nói: - Thiên hạ có ông vua nào lại không quyền chính! Chúa công bảo rằng giao hết quyền chính cho Ninh Hỉ, tôi chắc sau này tất không giữ lời được, chẳng hóa ra khiến cho tôi thất tín với Ninh Hỉ lắm ru! Bởi vậy mà tôi không dám vâng mệnh. Vệ Hiến công nói: - Nay ta nương náu ở đây thì lấy đâu ra quyền chính. Nếu ta giữ được việc cúng tế tiền nhân, cũng đủ mãn nguyện rồi, khi nào lại dám sai lời để di lụy đến ngô đệ. Công tử Chuyên nói: - Chúa công đã nhất quyết thì tôi nào dám từ chối để hỏng việc của chúa công. Nói xong liền lẻn sang Đế Khâu, vào yết kiến Ninh Hỉ lại thuật cái ước của Vệ Hiến công. Ninh Hỉ nói: - Nếu công tử nhận lời cho thì tôi xin hết sức! Công tử Chuyên ngửa mặt lên trời mà thề rằng: - Nếu tôi trái lời thì không được ăn thóc của nước Vệ! Ninh Hỉ nói: - Lời thề của công tử, vững như núi Thái Sơn! Công tử Chuyên về, thuật lại cho Vệ Hiến công nghe. Ninh Hỉ đem lời dặn của cha nói với Cừ Viên. Cừ Viên bưng tai chạy, vừa chạy vừa nói: - Tôi đã không dự đến việc vua đi, đâu có dám biết việc vua về! Cừ Viên bỏ nước Vệ sang ở nước Lỗ. Ninh Hỉ lại nói với quan đại phu là Thạch Ác (con Thạch Giả, cháu Thạch Tắc) và Bắc Cung Di (con Bắc Cung Quát), Thạch Ác và Bắc Cung Di đều tán thành vào. Ninh Hỉ lại nói với Hữu tể Cốc. Hữu tể Cốc gạt đi mà bảo rằng: - Không nên! Vua mới lập nên, đã 11 năm trời chưa có điều gì thất đức, nay định đem vua cũ về, tất phải bỏ vua mới. Nếu vậy thì cha con nhà ngươi, hai đời đều có tội cả, thiên hạ còn ai tha được nữa! Ninh Hỉ nói: - Ta chịu lời dặn của tiền nhân ta, việc này không thể nào mà thôi được! Hữu tể Cốc nói: - Ta thử đi yết kiến vua cũ, để xem tính hạnh bây giờ thế nào rồi mới có thể bàn được. Ninh Hỉ khen phải. Hữu tể Cốc lẻn sang Di Nghi, xin vào yết kiến Vệ Hiến công. Vệ Hiến công đang rửa chân, nghe tin Hữu tể Cốc đến, không kịp xỏ giày, đi đất ra, hớn hở bảo Hữu tể Cốc rằng: - Nhà ngươi từ chỗ quan tả tướng (trỏ Ninh Hỉ) đến đây tất có tin hay. Hữu tể Cốc nói: - Tôi tiện đường sang thẳng đây, quan tả tướng không biết. Vệ Hiến công nói: - Sao nhà ngươi không về nói với quan tả tướng mau mau giúp việc cho ta. Quan tả tướng dẫu không muốn đem ta về, nhưng lại không muốn cầm quyền chính nước Vệ hay sao! Hữu tể Cốc nói: - Làm vua chỉ sướng về có quyền chính, nếu không quyền chính thì làm vua làm gì! Vệ Hiến công nói: - Không phải thế! Làm vua chỉ cốt được danh hiệu tôn quí, ăn ngon mặc tốt, lên xe xuống ngựa, cửa cao nhà rộng, của lắm tiền nhiều, vào trong thì vui thú với đám phi tần, ra ngoài thì rong chơi về sự săn bắn, cứ gì phải có cầm quyền chính, mới lấy làm sướng hay sao! Hữu tể Cốc nín lặng lui ra, lại vào yết kiến công tử Chuyên. Hữu tể Cốc thuật những lời nói của Vệ Hiến công cho công tử Chuyên nghe. Công tử Chuyên nói: - Bởi chúa công lưu lạc lâu ngày mong được về nước, cho nên nói như vậy! Chứ làm vua thì cốt phải kính lễ đại thần, thu dụng hiền tài, làm việc gì phải có lòng nhân, nói câu gì phải giữ chữ tín, như vậy thì mới được cái danh hiệu tôn quí của ông vua. Chúa công còn lạ gì mà không biết điều ấy! Hữu tể Cốc về bảo Ninh Hỉ rằng: - Ta vào yết kiến chúa công, nghe câu nói thêm bẩn cả tai! Chúa công vẫn giữ thói cũ. Ninh Hỉ nói: - Nhà ngươi có vào yết kiến công tử Chuyên hay không? Hữu tể Cốc nói: - Công tử Chuyên nói phải lắm nhưng chắc rằng chúa công không theo được! Ninh Hỉ nói: - Ta chắc có công tử Chuyên, vả lại ta vâng lời dạy của tiên phu ta thuở xưa, làm thế nào thì ta cũng phải giúp! Hữu tể Cốc nói: - Nếu muốn khởi sự, nên phải đợi thời. Bấy giờ Tôn Lâm Phủ đã già, cùng với con trưởng là Tôn Khoái về ở Thích Ấp; còn để cho hai con thứ là Tôn Gia và Tôn Tương ở trong triều. Tôn Gia phụng mệnh Vệ Thương công sang sứ nước Tề, chỉ có một mình Tôn Tương ở nhà. Gặp bấy giờ Vệ Hiến công lại sai công tôn Đinh đến giục Ninh Hỉ khởi sự, Hữu tể Cốc mới bảo Ninh Hỉ rằng: - Nhà ngươi muốn khởi sự, nên nhân dịp lúc này! Ta bắt được Tôn Tương thì làm xong việc! Ninh Hỉ khen phải, liền sai Hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến bắt Tôn Tương. Phủ đệ của họ Tôn kiên cố lắm, không kém gì cung vua, lại có hai viên gia tướng Ung Thư và Chử Đái thay nhau đi tuần phòng. Hôm ấy, Chử Đái đang đi tuần, trông thấy Hữu tể Cốc đem quân đến, vội vàng đóng cửa, trèo lên trên lầu đứng hỏi. Hữu tể Cốc nói: - Ta muốn thương nghị với Tôn tướng quân (trỏ Tôn Tương) có một việc cần. Chử Đái nói: - Muốn thương nghị việc gì, sao được đem quân đến? Nói xong toan giương cung ra bắn. Hữu tể Cốc vội vàng lui lại, rồi thúc quân phá cửa. Tôn Tương thân hành đứng ở trên cửa để đốc quân chống giữ. Chử Đái truyền cho quân sĩ giương cung chõ ra cửa sổ mà bắn. Người nào đến gần, liền bắn chết ngay. Ung Thư nghe nói có giặc, cũng đem quân đến tiếp ứng. Hữu tể Cốc biết chừng đánh không nổi, rút quân trở về. Tôn Tương thúc quân đuổi theo. Khi đến nơi, Tôn Tương cầm cái câu liêm móc vào xe của Hữu tể Cốc mà lôi lại. Hữu tể Cốc kêu ầm lên, bảo công tôn Đinh bắn mau. Công tôn Đinh nhìn thấy Tôn Tương, liền giương cung ra, bắn trúng vào ngực. Ung Thư và Chử Đái vội vàng cứu lấy Tôn Tương đem về. Hữu Tề Cốc về nói với Ninh Hỉ rằng: - Nhà họ Tôn khó đánh lắm! Nếu không nhờ thần tiễn của công tôn Đinh bắn trúng Tôn Tương thì hắn còn đuổi theo tôi mãi. Ninh Hỉ nói: - Lần thứ nhất mà đã đánh không được hắn thì lần sau càng khó đánh nữa! Nhưng đã bắn được Tôn Tương thì quân sĩ tất nhiên rối loạn, đêm hôm nay ta lẻn đến mà đánh, nếu không thành công, ta tức khắc trốn đi, để tránh tai vạ. Ta cùng họ Tôn quyết không có thể cùng đứng được. Nói xong liền một mặt sắp sửa đồ đạc, cho vợ con ra ngoài cõi trước, phòng khi thua quân, thoát thân không kịp; lại một mặt sai người đi do thám tin tức nhà họ Tôn. Quân thám tử về báo rằng: - Trong nhà họ Tôn, nghe có tiếng khóc. Kẻ ra người vào coi bộ hoảng hốt. Ninh Hỉ nói: - Đó tức là Tôn Tương bị thương nặng mà chết rồi! Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Bắc Cung Di đến, nói Tôn Tương đã chết, nên đánh ngay mới được. Canh 3 đêm hôm ấy, Ninh Hỉ cùng với Bắc Cung Di, Hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến nhà họ Tôn. Ung Thư và Chử Đái đang ôm lấy thi thể của Tôn Tương mà khóc, nghe báo có quân họ Ninh đến liền mặc áo giáp lên ngựa thì quân họ Ninh đã phá vỡ lần cửa ngoài. Bọn Ung Thư vội vàng đóng cửa giữa lại, nhưng quân sĩ bỏ chạy tán loạn cả, không có người chống giữ, cũng bị quân họ Ninh phá vỡ. Ung Thư trèo qua tường sau mà trốn, chạy sang Thích Ấp. Chử Đái chết ở trong đám loạn quân. Bấy giờ trời đã sáng rõ. Ninh Hỉ chém lấy đầu Tôn Tương, đem vào yết kiến Vệ Thương công và nói với Vệ Thương công rằng: - Họ Tôn chuyên quyền đã lâu, vẫn có ý phản nghịch, tôi đã đem quân đến đánh, chém được đầu Tôn Tương đây rồi! Vệ Thương công nói: - Họ Tôn phản nghịch, sao nhà ngươi không nói trước với ta, đã chẳng coi ta ra gì thì còn yết kiến ta làm gì nữa! Ninh Hỉ đứng dậy, rút gươm nói rằng: - Chúa công bởi họ Tôn lập nên, không phải là phụng mệnh tiên quân, nay dân nước Vệ đều có lòng nhớ vua cũ, xin chúa công nhường ngôi lại, để nên được cái đức Nghiêu, Thuấn. Vệ Thương công nổi giận nói: - Nhà ngươi tự tiện giết kẻ thế thần, toan sự bỏ vua, chính là người bề tôi phản nghịch! Ta lên làm vua đã 13 năm trời nay, thà chết thì thôi, chứ không chịu nhục! Vệ Thương công tức thì cầm giáo đuổi theo Ninh Hỉ. Ninh Hỉ lui ra ngoài công môn, Vệ Thương công trông thấy quân họ Ninh đã đứng đầy cả ngoài cửa, mới lùi trở lại. Ninh Hỉ truyền cho quân sĩ xông vào bắt Vệ Thương công. Thế tử Đốc nghe biến, cầm gươm đến cứu, cũng bị công tôn Đinh đâm chết. Ninh Hỉ đem Vệ Thương công giam trong nhà Thái Miếu, rồi bắt phải uống thuốc độc mà chết. Ninh Hỉ sai người đi đón vợ con về nơi phủ đệ, và họp các quan triều thần bàn đón vua cũ (tức là Vệ Hiến công). Các quan đều đến cả, chỉ có Thái Thúc Nghi (con Vệ Thành công, cháu Vệ Văn công), đã hơn 60 tuổi, cáo ốm không đến. Có người hỏi tại làm sao, Thái Thúc Nghi nói: - Mới và cũ đều là vua cả! Nhà nước không may có những chuyện như thế này, lão thần nỡ nào dự biết đến. Ninh Hỉ thiên những cung quyến của Vệ Thương công ra ngoài rồi quét dọn cung thất, sai Hữu tể Cốc, Bắc Cung Di và công tôn Đinh sang Di Nghi đón Vệ Hiến công về. Vệ Hiến công đi gấp trong 3 ngày tới nơi. Quan đại phu là công tôn Miễn Dư ra nghênh tiếp tận ngoài cõi. Vệ Hiến công cảm tình ấy, cầm lấy tay mà bảo rằng: - Chẳng ngờ ngày nay lại là vua tôi! Từ bấy giờ Vệ Hiến công yêu công tôn Miễn Dư lắm. Vệ Hiến công vào yết nhà Thái Miếu, rồi ra coi triều, các quan đều đến lạy mừng cả, chỉ có Thái Thúc Nghi cáo ốm không vào triều. Vệ Hiến công sai người trách rằng: - Nhà ngươi không muốn cho ta về nước hay sao, sao lại chống cự với ta làm vậy? Thái Thúc Nghi nói: - Ngày xưa chúa công đi, tôi không theo được, thế là một tội; khi chúa công ở ngoài, tôi không có tin tức gì đi lại chúa công, thế là hai tội; khi chúa công muốn về tôi không dự biết việc gì cả, thế là ba tội. Nếu chúa công đem ba tội ấy mà trách tôi thì tôi tránh sao cho khỏi chết. Thái Thúc Nghi sai người nhà thắng xe, toan trốn đi nước khác. Vệ Hiến công thân hành đến để mời ở lại. Thái Thúc Nghi trông thấy Vệ Hiến công, nước mắt chảy xuống ròng ròng, tâu xin làm lễ an táng cho Vệ Thương công. Vệ Hiến công thuận cho, bấy giờ Thái Thúc Nghi mới chịu ở lại nhận chức. Vệ Hiến công giao hết quyền chính cho Ninh Hỉ, lại phong cho thực ấp 3.000 nhà. Bọn Bắc Cung Di, Hữu tể Cốc, Thạch Ác, và công tôn Miễn Dư, đều thăng tước lộc. Công tôn Đinh và Thực Sước, có công tòng vong, công tôn Vô Địa và công tôn Thần, đời cha tử tiết bởi vậy đều được phong làm đại phu. Còn bọn Thái Thúc Nghi, Tề Ác, Khổng Cơ và Chử Sư Giáp đều nguyên chức cũ. Vệ Hiến công lại sai người sang nước Lỗ triệu Cừ Viên về phục chức cho. Tôn Gia khi trước phụng mệnh Vệ Thương công đi sứ Tề, về đến nửa đường, nghe tin biến loạn, liền chạy thẳng sang Thích Ấp. Tôn Lâm Phủ biết là Vệ Hiến công tất không để cho mình được yên, mới đem việc Ninh Hỉ nói với Tấn Bình công, và xin Tấn Bình công cho quân sang giữ hộ Thích Ấp. Tấn Bình công cho 300 quân sang giúp. Tôn Lâm Phủ để cho quân Tấn đóng đồn ở đất Mao Thị, tại phía đông Thích Ấp. Tôn Khoái can Tôn Lâm Phủ rằng: - Quân Tấn đóng ở đấy mà ít như thế thì chống cự lại với quân Vệ sau nổi! Tôn Lâm Phủ cười nói rằng: - Có 300 quân ấy, ta cũng không ích gì. Ta chỉ để ở đấy cho quân Vệ giết cả đi thì tất nhiên nước Tấn nổi giận mà hết lòng giúp ta vậy! Tôn Khoái chịu là cao kiến. Ninh Hỉ nghe tin Tôn Lâm Phủ mượn quân nước Tấn, mà nước Tấn chỉ có 300 quân sang, mừng mà nói rằng: - Nếu nước Tấn thực lòng giúp Tôn Lâm Phủ thì khi nào lại chỉ cho có 300 quân sang! Ninh Hỉ liền sai Thực Sước đem 1.000 quân đi đánh đất Mao Thị.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  8. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 66 Miễn Dư giết hại nhà Ninh Hỉ Thôi Chữ mắc lừa mưu Khánh Phong

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thực Sước đem 1.000 quân sang đánh quân Tấn giết chết sạch cả, chiếm lấy đất Mao Thị, rồi sai người báo tin với Ninh Hỉ, Tôn Lâm Phủ nghe nói quân Vệ sang đánh đất Mao Thị, liền sai Tôn Khoái và Ung Thư đem quân đến cứu. Tôn Khoái sai người dò thám biết là quân Tấn đã chết hết cả, lại biết Thực Sước là một tướng có tiếng võ dũng ở nước Tề, không dám đối địch, liền rút quân về báo với Tôn Lâm Phủ. Tôn Lâm Phủ nổi giận nói rằng: - Một mình Thực Sước mà không dám đối địch, huống chi là đại binh nước Vệ thì làm thế nào! Nhà ngươi phải đi lần nữa, nếu không thành công, chớ nhìn mặt ta! Tôn Khoái buồn rầu mà lủi ra, cùng với Ung Thư thương nghị. Ung Thư nói: - Một mình Thực Sước, địch nổi muôn người, khó lòng đánh nổi, ta nên phải dùng kế mà lừa thì mới được! Tôn Khoái nói: - Phía tây đất Mao Thị, có một chỗ tên gọi Vi Thôn, chung quanh cây cối rậm rạp; giữa thôn có một cái núi đất nhỏ, ta sai người đào hố ở chân núi, lấy cỏ phủ kín đi. Nhà ngươi dụ hắn đến đây, rồi ta đóng quân ở trên núi, xỉ mắng cho hắn một lúc, tất nhiên hắn phải nổi giận mà xông lên đánh ta thì mắc kế của ta đó! Ung Thư nghe lời, đem quân sang đất Mao Thị, giả cách đi do thám. Khi gặp quân Thực Sước, làm ra dáng sợ hãi, quay đầu bỏ chạy. Thực Sước cậy có sức khỏe, lại thấy Ung Thư ít quân, tức khắc đuổi theo. Ung Thư chạy quanh mãi về đến Vi Thôn, rồi tắt vào trong đám cây rậm. Thực Sước nghi trong đám cây rậm có quân phục, không dám tiến vào; bỗng trông thấy trên ngọn núi đất có một toán quân và một viên tướng hãy còn trẻ tuổi. Viên tướng ấy réo tên Thực Sước mắng rằng: - Mày là một đứa không ra gì ở nước Tề, họ Loan đã phải thải bỏ mày đi, không thể dùng được; nay mày đem thân sang ăn hại nước Vệ chẳng biết xấu hổ, lại còn thò mặt ra. Mày không biết họ Tôn ta là một nhà thế thần đã 8 đời nay, mà mày dám xâm phạm, thế thì mày thật là không bằng giống cầm thú! Thực Sước nghe nói nổi giận. Trong quân Thực Sước có người biết mặt Tôn Khoái, mới nói với Thực Sước rằng: - Viên tướng ấy là con trưởng của Tôn Lâm Phủ, tên gọi Tôn Khoái. Thực Sước nói: - Ta bắt được Tôn Khoái, tức là trừ được nửa Tôn Lâm Phủ! Thực Sước tức thì giục ngựa thẳng tới chân núi, chẳng ngờ cả người lẫn ngựa ngã lăn xuống hố. Tôn Khoái đã sai quân sĩ sắp sẵn cung tên, để khi Thực Sước ngã xuống thì xúm lại mà bắn. Thực Sước chết ở dưới hố. Tôn Khoái dùng câu liêm kéo thi thể Thực Sước lên rồi cắt lấy đầu đem về nộp Tôn Lâm Phủ. Tôn Lâm Phủ nói: - Bây giờ quân Tấn trách ta không cứu để cho quân Tấn bị giết thì ta có lỗi, chi bằng ta giấu việc này đi mà nói là thua. Nói xong liền sai Ung Thư sang cấp báo với nước Tấn. Tấn Bình công nghe tin quân Tấn bị giết, có ý giận, sai quan chính khanh là Triệu Vũ đại hội chư hầu ở đất Thiền Uyên, sắp đem quân đánh Vệ. Vệ Hiến công và Ninh Hỉ thân hành sang nước Tấn để kể tội Tôn Lâm Phủ. Tấn Bình công bắt mà giam lại. Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Cảnh công rằng: - Vua Tấn vì Tôn Lâm Phủ mà bắt vua Vệ, như thế thì những đứa cường thần đều cậy quyền mà làm càn! Chúa công nên sang xin với vua Tấn, khiến cho trọn cái ơn khi trước đã cứu vua Vệ. Tề Cảnh công khen phải, liền sai sứ ước với Trịnh Giản công để cùng sang nước Tấn mà xin hộ cho vua Vệ. Tấn Bình công dẫu có ý nể, nhưng trước đã nghe lời Tôn Lâm Phủ, vậy nên chưa chịu tha. Án Anh nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng: - Nước Tấn là bá chủ thì bổn phận nước Tấn nên phải đè nén kẻ cường bạo, bênh vực kẻ yếu. Tôn Lâm Phủ khi trước đuổi vua, đã không đem quân đến đánh, nay lại vì Tôn Lâm Phủ mà bắt vua Vệ, như thế thì phỏng còn ai dám làm vua nữa. Ngày xưa vua Văn công nghe lầm lời nói của Nguyên Huyến mà bắt Vệ Thành công đem nộp thiên tử nhà Chu, thiên tử nhà Chu còn cho là trái lẽ, vua Văn công xấu hổ phải tha, huống chi mình là chư hầu mà lại bắt giam vua chư hầu là nghĩa làm sao? Các ngươi không biết can, thế là vào đảng với bề tôi mà đè nén vua, tài nào cho khỏi mang tiếng! Tôi e rằng nước Tấn không giữ được nghiệp bá chủ, vậy nên phải nói riêng với nhà ngươi. Dương Thiệt Bật liền nói với Triệu Vũ để cố xin Tấn Bình công. Tấn Bình công tha cho Vệ Hiến công về nước, nhưng vẫn không chịu tha Ninh Hỉ. Hữu tể Cốc bảo Vệ Hiến Công đem 12 người nữ nhạc sang dâng Tấn Bình công để xin chuộc Ninh Hỉ. Tấn Bình công bằng lòng, tha cho Ninh Hỉ về, Ninh Hỉ từ khi về, càng có ý kiêu ngạo, việc gì cũng tự tiện quyết đoán, không bẩm mệnh Vệ Hiến công. Các quan đại phu vẫn đến họp ở nhà riêng của Ninh Hỉ để bàn việc chính trị. Vệ Hiến công chỉ ngồi chắp tay, không dự một việc gì cả. Bấy giờ quan tả sư nước Tống là Hướng Thú (cháu huyền tôn của Tống Hoàn công) có quen Triệu Vũ nước Tấn, lại quen cả lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến nữa. Hướng Thú sang sứ nước Sở, nói đến việc Hoa Nguyên nước Tống ngày xưa, muốn cho Tấn và Sở giảng hòa với nhau. Khuất Kiến nói: - Việc ấy rất hay! Chỉ vì chư hầu chia bè đảng, thành ra khó giảng hòa; bây giờ khiến cho những nước phụ thuộc Tấn và Sở đều sang triều cống lẫn nhau, coi nhau như một nhà thì sự chiến tranh mới có thể thôi đi được. Hướng Thú khen phải, liền xướng nghị việc vua Tấn và vua Sở hội nhau ở nước Tống để cùng nhau giảng hòa. Nước Sở từ đời Cung Vương đến bấy giờ thường bị nước Ngô xâm nhiễu, Khuất Kiến muốn kết liên với Tấn để được chuyên một mặt chống cự nước Ngô; còn Triệu Vũ thì nhân thấy quân Sở hay sang đánh Trịnh, cũng muốn giảng hòa để cho được yên việc, bởi vậy việc hai bên đều thuận theo cả, sai sứ đi bảo các nước phụ thuộc với mình. Khi sứ nước Tấn đến nước Vệ, Ninh Hỉ không báo cho Vệ Hiến công biết, liền sai Thạch Ác đi dự hội. Vệ Hiến công nghe nói giận lắm, phàn nàn với công tôn Miễn Dư. Công tôn Miễn Dư nói: - Tôi xin lấy lẽ phải mà đến trách bảo Ninh Hỉ. Công tôn Miễn Dư liền đến bảo Ninh Hỉ rằng: - Hội với chư hầu là một việc lớn, sao ngài lại không báo cho chúa công biết. Ninh Hỉ không bằng lòng nói rằng: - Khi trước công tử Chuyên đã có ước với ta, ta có ví như các bề tôi khác như thế nào được! Công tôn Miễn Dư về nói với Vệ Hiến công rằng: - Ninh Hỉ vô lễ quá lắm! Sao chúa công không giết đi. Vệ Hiến công nói: - Nếu không có Ninh Hỉ thì sao ta được thế này! Ta đã có lời ước, không nên hối lại. Công tôn Miễn Dư nói: - Tôi chịu ơn chúa công không biết lấy gì đến đáp lại được, xin tự đem gia thuộc mà trừ bỏ họ Ninh đi, nếu thành sự thì lợi cho chúa công mà không thành thì chỉ một mình tôi chịu hại thôi. Vệ Hiến công nói: - Nhà ngươi liệu mà làm, chớ để di lụy đến ta. Công tôn Miễn đến bảo hai người em họ là công tôn Vô Địa và công tôn Thần rằng: - Quan tướng quốc (trỏ Ninh Hỉ) chuyên quyền, các ngươi hẳn đã biết! Chúa công ta cứ giữ một điều tín nhỏ, mà ẩn nhẫn không chịu nói, mai sau thế lực hắn một ngày một to thì tai vạ cũng chẳng kém gì họ Tôn trước, biết làm thế nào? Công tôn Vô Địa và công tôn Thần nói: - Sao không giết đi! Công tôn Miễn Dư nói: - Ta đã nói với chúa công, nhưng chúa công không theo, chi bằng chúng ta nổi lên mà giết hắn, may mà thành sự thì phúc cho chúa công, nhược bằng không thành thì chúng ta trốn sang nước khác là cùng! Công tôn Vô Địa nói: - Hai anh em tôi xin hết sức về chuyện ấy! Công tôn Miễn Dư xin uống máu ăn thề. Bấy giờ nhà Ninh Hỉ đang mở tiệc xuân yến, công tôn Vô Địa bảo công tôn Miễn Dư rằng: - Nhà Ninh Hỉ đang mở tiệc xuân yến, tất không có phòng bị, để tôi xin thử vào trước, rồi nhà ngươi kế sau. Công tôn Miễn Dư nói: - Sao không bói xem! Công tôn Vô Địa nói: - Việc tất phải làm, còn bói chi nữa? Công tôn Vô Địa và công tôn Thần đem quân đến nhà Ninh Hỉ. Phía trong cửa nhà Ninh Hỉ xưa nay vẫn có đặt một cái máy cạm. Cái máy cạm ấy, đào đất làm hố sâu, trên lát ván gỗ, dưới có cựa gà; hễ chạm phải cựa gà thì cái ván gỗ ấy bật lên mà người ngã lăn xuống hố. Ban ngày cất đi, đêm lại bày ra, để phòng giữ quân gian. Ngày hôm ấy, nhà Ninh Hỉ nhân mở tiệc xuân yến, bao nhiêu người họp cả ở nhà trong, đang xem làm trò, không có ai trông cửa, mới bày cái máy cạm ấy ra để khỏi phải canh giữ, công tôn Vô Địa không biết, chạm phải cựa gà, ngã lăn xuống hố. Người nhà Ninh Hỉ kinh sợ, tranh nhau kéo ra để bắt, bắt được công tôn Vô Địa, công tôn Thần cầm giáo đến cứu, người nhà Ninh Hỉ đông lắm, không thể địch nổi, liền bị giết chết. Ninh Hỉ hỏi công tôn Vô Địa rằng: - Ai xui nhà ngươi đến đây? Công tôn Vô Địa trừng mắt mắng rằng: - Mày cậy công mà chuyên quyền, làm tôi không trung. Anh em ta vì nước mà giết mày, nay sự không thành là tại số mệnh, chứ nào có ai xui ta được! Ninh Hỉ giận lắm, trói công tôn Vô Địa vào cột, đánh cho đến chết, rồi mới đem chém. Hữu tể Cốc nghe tin Ninh Hỉ bắt được quân gian, đang đêm đi xe đến để hỏi thăm. Người nhà Ninh Hỉ vừa mới ra mở cửa thì gặp công tôn Miễn Dư đem quân đến; công tôn Miễn Dư thừa cơ lẻn vào, chém ngay Hữu tể Cốc ở bên ngoài cửa. Người nhà Ninh Hỉ, bấy giờ náo động cả lên. Ninh Hỉ trong khi hoảng hốt, chưa hiểu đầu đuôi, liền hỏi: - Người nào nổi loạn làm vậy? Công tôn Miễn Dư nói: - Cả nước đều một lòng như thế, định hỏi người nào! Ninh Hỉ sợ hãi bỏ chạy. Công tôn Miễn Dư cầm gươm đuổi theo, chạy quanh cái cột ba vòng. Ninh Hỉ bị hai lưỡi gươm, chết ở chân cột. Công tôn Miễn Dư giết hết người nhà Ninh Hỉ, rồi về báo với Vệ Hiến công. Vệ Hiến công truyền đem thi thể Ninh Hỉ và Hữu tể Cốc đặt ở trong triều. Công tử Chuyên nghe nói đi đất vào thẳng trong triều, ôm lấy thi thể Ninh Hỉ mà khóc rằng: - Không phải là chúa công thất tín, chính tại ta lừa nhà ngươi. Nhà ngươi chết, ta còn mặt mũi nào đứng ở trong triều nước Vệ này nữa! Khóc xong, lại kêu trời ba tiếng thật to, rồi trở về nhà, tức khắc đem cả vợ con trốn sang nước Tấn. Vệ Hiến công sai người mời ở lại. Công tử Chuyên không nghe. Khi đi đến sông Hà, Vệ Hiến công lại sai quan đại phu là Tề Ác đuổi theo mời lại. Công tử Chuyên nói: - Muốn cho ta trở về nước Vệ, trừ phi làm thế nào mà khiến cho Ninh Hỉ sống lại mới được. Tề Ác cố ý khuyên can mãi. Công tử Chuyên đem 2 con trĩ đứng trước mặt Tề Ác, rút gươm cắt đầu đi mà thề rằng: - Tôi và vợ con tôi từ đây trở đi, còn đứng ở đất nước Vệ, ăn thóc nước Vệ nữa thì chết như đôi trĩ này! Tề Ác biết là không thể nói được phải quay trở về. Công tử Chuyên trốn sang nước Tấn, ẩn ở đất Hàm Đan. Vợ chồng con cái làm nghề khâu giầy để kiếm ăn, cả đời không nói gì đến chuyện nước Vệ nữa. Tề Ác về nói với Vệ Hiến công. Vệ Hiến công thở dài, truyền mai táng cho Ninh Hỉ và Hữu tể Cốc, lại muốn lập công tôn Miễn Dư làm chức chính khanh, công tôn Miễn Dư nói: - Tôi chưa có danh vọng gì cả, xin chúa công hãy cho Thái Thúc Nghi. Vệ Hiến công liền cho Thái Thúc Nghi coi giữ quyền chính. Từ bấy giờ nước Vệ mới được yên ổn. Lại nói chuyện quan tả sư nước Tống xướng nghị việc Tấn, Sở bãi binh, bấy giờ quan chính khanh nước Tấn là Triệu Vũ, quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến đều đến hội ở nước Tống; các quan đại phu các nước cũng đều lục tục đến cả. Thuộc quốc của nước Tấn là Lỗ, Vệ, Trịnh theo nước Tấn đóng dinh ở ở phía tả, thuộc quốc của nước Sở là Sái, Trần, Hứa theo nước Sở đóng dinh ở phía hữu. Nước Tống là địa chủ, không cần phải nói đến. Hai bên nghị định: Cứ chiếu lệ đến kỳ triều sính thì thuộc quốc nước Sở đến triều sính nước Tấn, mà thuộc quốc nước Tấn đến triều sính nước Sở. Còn nước lớn như Tề, Tần thì cho là địch thể, không kể vào số thuộc quốc. Thuộc quốc nhỏ của Tấn như Châu, Cử, Đằng, Tiết; thuộc quốc nhỏ của Sở như Đốn, Hồ, Thẩm, Mi. Nước nào có thể triều sính được thì tùy ý, bằng không thì cho phụ theo với các nước lân cận. Nghị định như vậy rồi sắp sửa cùng nhau uống máu ăn thề ở Tây môn nước Tống. Khuất Kiến nước Sở mật truyền cho quân sĩ đều mặc áo giáp ở trong mình, để định đến lúc ăn thề thì xông vào mà giết Triệu Vũ nước Tấn. Bá Châu Lê cố can. Khuất Kiến mới thôi. Triệu Vũ nghe nói quân Sở có mặc áo giáp ở trong, mới hỏi Dương Thiệt Bật để nghĩ cách phòng bị. Dương Thiệt Bật nói: - Hội thề lần này cốt để bãi binh, nếu nước Sở làm như vậy thì nước Sở thất tín với chư hầu trước, chư hầu còn ai phục nữa, ngài nên thủ tín, không can chi mà lo ngại! Đến lúc sắp hội thề, Khuất Kiến nước Sở muốn vào sáp huyết trước, sai Hướng Thú truyền bảo cho nước Tấn biết. Hướng Thú đến dinh quân Tấn, không dám nói ra; người theo hầu phải nói thay cho Hướng Thú. Triệu Vũ (nước Tấn) nói: - Tiên quân ta là vua Văn công ngày xưa, phụng mệnh thiên tử nhà Chu ở đất Tiễn Thổ, làm chủ chư hầu, sao nước Sở lại trước Tấn được? Hướng Thú về, thuật chuyện lại với Khuất Kiến, Khuất Kiến nói: - Nếu nói vương mệnh thì nước Sở ta cũng phụng mệnh vua Huệ Vương nhà Chu. Tấn và Sở ngang hàng với nhau. Tấn làm chủ đã lâu ngày nên phải nhường lại cho Sở; nếu không thì ra Sở vẫn phải chịu kém Tấn, sao gọi là ngang hàng được! Hướng Thú lại sang nói lại với Triệu Vũ. Triệu Vũ nhất định không nghe. Dương Thiệt Bật bảo Triệu Vũ rằng: - Làm bá chủ cốt ở đức, chứ không ở thế! Có đức thì dẫu sáp huyết sau, chư hầu người ta vẫn tin theo; không có đức thì dẫu sáp huyết trước, chư hầu người ta cũng làm phản. Vả chăng hội thề lần này là chủ ý để bãi binh, mà bãi binh là một việc lợi cho thiên hạ, nếu tranh nhau sáp huyết thì phải dụng binh, dụng binh thì phải thất tín, ngài nên nhường cho Sở. Triệu Vũ nghe lời, nhường cho nước Sở sáp huyết trước. Hai bên uống máu ăn thề với nhau, rồi tan về cả. Quan đại phu nước Vệ là Thạch Ác đang dự hội, nghe tin Ninh Hỉ bị giết, không dám trở về nước Vệ, liền theo Triệu Vũ chạy sang nước Tấn. Quan hữu tướng nước Tề là Thôi Chữ từ khi giết vua Trang công, lập vua Cảnh công, uy danh lừng lẫy ở nước Tề. Quan tả tướng là Khánh Phong, tính hay uống rượu, lại hay đi săn bắn, không mấy khi ở nhà, bởi vậy quyền chính trong tay Thôi Chữ cả. Thôi Chữ lại còn ngang ngược lắm. Khánh Phong trong lòng cũng hơi có ý ghét. Thôi Chữ nguyên trước có hẹn với nàng Đường Khương định lập Thôi Minh làm đích tử, nhưng thấy trưởng tử là Thôi Thành bị gãy cánh tay, không nỡ nói ra. Thôi Thành biết ý, xin nhường ngôi đích tử lại cho Thôi Minh, mà xin cho đất Thôi Ấp để dưỡng lão. Thôi Chữ thuận cho. Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe mà nói rằng: - Thôi Ấp tất phải để cho đích tử! Thôi Chữ bảo Thôi Thành rằng: - Ta muốn định đem Thôi Ấp phong cho nhà ngươi, nhưng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe, biết làm thế nào! Thôi Thành nói chuyện với Thôi Cương. Thôi Cương nói: - Ngồi đích tử ta còn nhường cho, mà lại tiếc ta một chỗ Thôi Ấp hay sao? Cha ta hãy còn mà bọn Đông Quách Yển đã ngang ngược như thế; huống chi khi cha ta mất thì anh em chúng ta dẫu cầu làm đầy tớ cũng vị tất đã được! Thôi Thành nói: - Ta hãy nhờ quan tả tướng (tức là Khánh Phong) xin hộ cho ta! Thôi Thành và Thôi Cương đến nói với Khánh Phong. Khánh Phong nói: - Thân phụ nhà ngươi chỉ một mực nghe lời Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu, dẫu ta có nói, cũng vị tất đã nghe. Ta e sau này bọn ấy lại làm hại thân phụ nhà ngươi mà thôi, sao nhà ngươi không trừ đi. Thôi Thành và Thôi Cương nói: - Chúng tôi cũng muốn như vậy, nhưng sức hèn tài mọn, không thể làm nổi. Khánh Phong nói: - Để thong thả ta sẽ bàn xem! Thôi Thành và Thôi Cương về. Khánh Phong đem chuyện ấy nói với Lư Bồ Miết. Lư Bồ Miết nói: - Họ Thôi loạn thì họ Khánh ta càng lợi chớ sao! Khánh Phong mới nghĩ ra. Được mấy ngày nữa, Thôi Thành và Thôi Cương lại đến, kể những điều ác của Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu. Khánh Phong nói: - Nếu nhà ngươi cử sự thì ta giúp binh khí cho. Nói xong, liền đưa cho Thôi Thành và Thôi Cương một trăm áo giáp cùng các đồ binh khí. Thôi Thành và Thôi Cương mừng lắm, đêm hôm ấy đem quân mặc áo giáp, cầm đồ binh khí, đến phục ở xung quanh nhà Thôi Chữ. Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu ngày nào cũng đến yết kiến Thôi Chữ. Thôi Thành và Thôi Cương chờ khi Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu vào cửa, truyền cho quân sĩ đổ ra mà đâm chết. Thôi Chữ giận lắm, vội vàng gọi người nhà thắng xe để đi thì người nhà đã bỏ trốn sạch cả rồi, chỉ còn có một tên ngữ nhân ở chuồng ngựa, liền sai tên ngữ nhân ấy thắng xe và một đứa trẻ con ngồi dong xe, đến yết kiến Khánh Phong, kể những nông nỗi gia nạn. Khánh Phong giả cách không biết ngạc nhiên nói rằng: - Họ Thôi và họ Khánh, cũng tức là một nhà. Mấy đứa trẻ con mà dám càn dỡ như vậy! Ngài có muốn bắt, tôi xin giúp sức. Thôi Chữ tưởng thực, tạ ân mà nói rằng: - Nếu ngài trừ hộ hai đứa nghiệt tử ấy để cho nhà họ Thôi tôi được yên ổn thì tôi xin bắt Thôi Minh phải thờ ngài làm cha. Khánh Phong liền triệu Lư Bồ Miết đến, sai đem quân đi, rồi dặn riêng cho biết, để theo kế mà làm. Lư Bồ Miết phụng mệnh, tức khắc đem quân đi ngay. Thôi Thành và Thôi Cương thấy Lư Bồ Miết đem quân đến, đóng cửa không cho vào. Lư Bồ Miết dụ rằng: - Ta phụng mệnh quan tả tướng (tức là Khánh Phong) mà tới đây là để làm lợi cho nhà ngươi, chứ nhà ngươi có hại gì! Thôi Thành bảo Thôi Cương rằng: - Hay là quan tả tướng muốn vì ta mà trừ bỏ Thôi Minh đó chăng? Thôi Cương nói: - Cũng có lẽ! Thôi Cương mở cửa cho Lư Bồ Miết vào. Lư Bồ Miết vào trước, quân giáp sĩ kéo ồ theo sau. Thôi Thành và Thôi Cương ngăn lại không được, mới hỏi Lư Bồ Miết rằng: - Quan tả tướng ngài dạy thế nào? Lư Bồ Miết nói: - Thân phụ nhà ngươi đến kêu với quan tả tướng, quan tả tướng sai ta đi lấy đầu các ngươi. Nói xong, truyền cho quân giáp sĩ chém lấy đầu Thôi Thành và Thôi Cương. Thôi Thành và Thôi Cương chưa kịp trả lời thì đầu đã rơi xuống đất. Lư Bồ Miết cho quân giáp sĩ cướp lấy hết những đồ đạc trong nhà, không còn một cái gì, lại phá tan cả. Nàng Đường Khương sợ hãi, thắt cổ ở trong phòng mà chết; chỉ có Thôi Minh vốn ra nước ngoài từ trước, nên không mắc nạn. Lư Bồ Miết treo đầu Thôi Thành và Thôi Cương ở trên xe, rồi về nói lại với Thôi Chữ. Thôi Chữ trông thấy hai cái đầu ấy, vừa thương vừa giận, lại hỏi Lư Bồ Miết rằng: - Chẳng hay nội thất ta có kinh sợ hay không? Lư Bồ Miết nói: - Bẩm không, hiện đang ngủ yên chưa dậy. Thôi Chữ có ý mừng, bảo Khánh Phong rằng: - Ta muốn về, ngặt vì đứa trẻ con này, không quen dong xe, xin cho mượn một người khác. Lư Bồ Miết nói: - Để tôi đi dong xe hầu quan tướng quốc. Thôi Chữ tạ ơn Khánh Phong hai ba lần, rồi lên xe trở về. Khi về đến phủ, thấy cửa mở toang cả, không có một người nào liền đi thẳng vào trong phòng. Vào đến trong phòng thì thấy nàng Đường Khương thắt cổ, hãy còn treo ở đấy. Thôi Chữ chẳng còn hồn vía nào, toan quay lại hỏi Lư Bồ Miết thì Lư Bồ Miết đã về từ bao giờ rồi! Thôi Chữ đi tìm khắp cả, không thấy Thôi Minh đâu, liền khóc òa lên rằng: - Nay ta bị Khánh Phong đánh lừa, cửa nhà tan nát, còn sống làm chi nữa! Nói xong Thôi Chữ cũng thắt cổ mà chết. Đến nửa đêm hôm ấy Thôi Minh lẻn về phủ, lấy trộm thi thể Thôi Chữ và nàng Đường Khương, bỏ vào trong một cái áo quan, rồi để lên xe đem ra, đào một cái huyệt ở bên cạnh tổ mộ mà chôn giấu xuống đấy. Chỉ có một mình ngữ nhân biết mà thôi, còn ngoài ra không ai biết cả. Chôn xong, Thôi Minh trốn sang nước Lỗ. Khánh Phong tâu với Tề Cảnh công rằng: - Thôi Chữ có tội giết tiên quân ta thuở xưa, vậy nên tôi phải trừ bỏ. Tề Cảnh công chỉ vâng dạ mà thôi. Khánh Phong từ bấy giờ một mình làm tướng quốc, sai người đi triệu Trần Tu Vô trở về nước Tề. Trần Tu Vô cáo lão. Con là Trần Vô Vũ được nối chức của cha. Bấy giờ Ngô và Sở thường đánh nhau luôn. Sở Khang Vương luyện tập quân chu sư để sang đánh Ngô, nhưng Ngô có phòng bị, Sở không làm gì nổi, lại phải rút quân về. Vua nước Ngô là Dư Sái mới lên làm vua được 2 năm, vốn là người cậy có sức khỏe hay liều chết, giận nước Sở lại đánh mình, liền sai quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung (con Vu Thần) sang dụ nước Thư Cưu là thuộc quốc nước Sở làm phản nước Sở. Quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến đem quân đánh nước Thư Cưu. Dưỡng Do Cơ (tướng nước Sở) nói với Khuất Kiến xin đi làm tiên phong. Khuất Kiến nói: - Tướng quân già lắm rồi. Thư Cưu là một nước nhỏ, đánh tất phải được, không dám phiền đến tướng quân. Dưỡng Do Cơ nói: - Nước ta đánh nước Thư Cưu thì Ngô tất đem quân sang cứu, tôi đã nhiều lần đánh nhau với quân Ngô, biết hết tình hình, vậy xin theo đi, dẫu chết cũng thỏa! Khuất Kiến thấy Dưỡng Do Cơ nói đến sự chết, trong lòng cũng hơi áy náy. Dương Do Cơ nói: - Tôi chịu ơn Tiên Vương thuở trước, vẫn muốn liều mình để báo đáp mà chưa có dịp nào, nay đầu râu đã khác xưa cả, ví thử một mai ốm chết ở nơi xó nhà thì chẳng hóa ra ngài phụ cái lòng tôi lắm ru! Khuất Kiến thấy ý Dưỡng Do Cơ đã nhất quyết, mới thuận cho đi, sai quan đại phu là Tức Hoàn đi giúp. Dưỡng Do Cơ đi đến Ly Thành (kinh thành nước Thư Cưu). Em vua Ngô là Di Muội cùng quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung đem quân sang cứu nước Thư Cưu. Tức Hoàn muốn đợi đại binh nước Sở kéo đến, rồi mới khai chiến, Dưỡng Do Cơ nói: - Người nước Ngô chỉ giỏi nghề đánh thủy, nay bỏ thuyền lên trên cạn, mà nghề bắn cung cũng không lấy gì làm tài, ta nên nhân lúc mới đến mà đánh ngay đi thì có thể phá vỡ được. Dưỡng Do Cơ tay mang cung tên, xông vào đánh trước, bắn chỗ nào thì chỗ ấy có người chết. Quân Ngô lui chạy. Dưỡng Do Cơ đuổi theo, trông thấy Khuất Hồ Dung ở trên xe, liền mắng Khuất Hồ Dung rằng: - Thằng giặc phản quốc kia! Mày còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữa! Dưỡng Do Cơ toan bắn Khuất Hồ Dung. Khuất Hồ Dung quay xe trở lại, đi nhanh như bay. Dưỡng Do Cơ kinh sợ nói rằng: - Người nước Ngô cũng tài giỏi về nghề dong xe hay sao! Tiếc thay ta không bắn ngay một phát! Nói chưa dứt lời thì quân Ngô đem xe vây kín bốn mặt. Quân Ngô đứng ở trên xe đều là những tay bắn giỏi, hàng vạn mũi tên cùng bắn một lúc. Dưỡng Do Cơ chết ngay ở trận tiền. Tức Hoàn chạy về báo với Khuất Kiến. Khuất Kiến thở dài mà rằng: - Dưỡng thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) thật là cố ý mà liều chết. Khuất Kiến liền phục quân ở Nhi Sơn, rồi sai Tử Cương đem quân đi dụ quân Ngô. Tử Cương giao chiến với quân Ngô được hơn 10 hiệp thì vội vàng bỏ chạy. Khuất Hồ Dung nghi là có quân phục, không dám đuổi theo. Di Muội trèo lên chỗ cao đứng trông, không thấy quân Sở, bảo Khuất Hồ Dung rằng: - Quân Sở đã trốn hết rồi! Di Muội liền kéo quân ra đuổi. Đuổi đến chân núi Nhi Sơn, Tử Cương quay lại đánh, phục binh bốn mặt đổ ra, vây kín Di Muội lại. Di Muội cố sức đánh giải vây mà không ra nổi. May nhờ có quân Khuất Hồ Dung đến, mới phá vỡ vòng vây, đem được Di Muội ra. Quân Ngô bị thua bỏ về. Khuất Kiến liền diệt nước Thư Cưu. Năm sau, Sở Khang Vương lại muốn đánh Ngô, sai sứ sang mượn quân Tấn. Tấn Cảnh Công sai em là công tôn Hàm sang giúp. Nước Ngô đem quân giữ vững cửa sông. Quân Sở không thể nào vào được, liền sang xâm Trịnh, vì nước Trịnh lâu nay vẫn thần phục nước Tấn. Quan đại phu nước Sở là Xuyên Phong Thú, bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt ở trận tiền, công tử Vi muốn tranh lấy để nhận công. Xuyên Phong Thú không nghe. Công tử Vi lại kêu với Sở Khang Vương rằng: - Tôi đã bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt, lại bị Xuyên Phong Thú tranh mất. Được một lúc, Xuyên Phong Thú giải Hoàng Hiệt đến nộp, và cũng nói là công tử Vi muốn tranh công, Sở Khang Vương không biết quyết đoán ra thế nào, mới sai quan thái tể là Bá Châu Lê xét việc ấy. Bá Châu Lê tâu rằng: - Tù nước Trịnh (trỏ Hoàng Hiệt) là quan đại phu chứ không phải là người thường, ta chỉ hỏi tù nhân thì tự khắc cũng biết. Bá Châu Lê để Hoàng Hiệt đứng ở dưới sân, Bá Châu Lê đứng ở bên hữu, công tử Vi và Xuyên Phong Thú đứng ở bên tả. Bá Châu Lê chắp tay hướng vào công tử Vi mà bảo Hoàng Hiệt rằng: - Ông này là công tử Vi, em đại vương ta đó. Lại hướng vào Xuyên Phong Thú mà nói: -Ông này là Xuyên Phong Thú, quan huyện doãn ở ngoài Phương thành! Trong hai ông này, ông nào bắt được nhà ngươi, nhà ngươi phải nói thực. Hoàng Hiệt nghe nói, hiểu ý Bá Châu Lê thiên vị công tử Vi, mới giả cách trừng mắt nhìn kỹ công tử Vi mà nói rằng: - Tôi bị công tử bắt được. Xuyên Phong Thú giận lắm, liền rút ngay cái giáo cắm ở cái giá gần đó, toan đâm chết công tử Vi. Công tử Vi sợ hãi bỏ chạy. Xuyên Phong Thú đuổi theo không kịp. Bá Châu Lê khuyên giải mãi, Xuyên Phong Thú mới thôi. Bá Châu Lê nói với Sở Khang Vương chia đôi cái công ấy, rồi lại bày một tiệc rượu, bắt hai người phải giảng hòa với nhau. Lại nói chuyện nước Việt ở giáp giới nước Ngô. Vua nước Việt là dòng dõi vua Vũ nhà Hạ, bắt đầu từ Vô Dư, truyền mãi cho đến Doãn Thường. Doãn Thường chăm việc sửa sang chính trị, nước Việt mới cường thịnh. Nước Ngô thấy nước Việt cường thịnh, lấy làm lo lắm. Vua nước Ngô là Dư Sái lên nối ngôi, mới được bốn năm, liền đem quân sang đánh nước Việt, bắt được tôn nhân nước Việt, đem về chặt chân, sai giữ chiếc thuyền Dư Hoàng. Một hôm, Dư Sái đi chơi thuyền, say rượu nằm ngủ, tôn nhân cởi thanh gươm của Dư Sái, đâm chết Dư Sái, bấy giờ các nội thị mới biết, liền giết tôn nhân đi. Em Dư Sái là Di Muội theo thứ tự lên nối ngôi, giao quyền chính cho Quí Trát. Quí Trát xin bãi việc chiến tranh và giao thông với các nước lớn. Di Muội theo lời, liền sai Quí Trát sang sứ nước Lỗ để xem xét những âm nhạc về đời ngũ đại và âm nhạc của các nước. Quí Trát xem đến đâu, bình phẩm đến đấy, câu nào cũng đích đáng, người nước Lỗ phục là một tay tri âm. Sau sang sứ nước Trịnh, chơi thân với công tôn Kiều; sang nước Vệ, chơi thân với Cừ Viên; sang nước Tấn chơi thân với Triệu Vũ, Hàn Khởi và Ngụy Thư, toàn là những bậc hiền thần đời bấy giờ, xem thế đủ biết Quí Trát là người hiền.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  9. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 67 Lư Bồ Quí đuổi được Khánh Phong Sở Linh Vương tranh làm bá chủ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Con trưởng vua Linh Vương nhà Chu tên là Tấn, tên tự là Tử Kiều, vốn người thông minh lạ thường, hay thổi ống sinh theo tiếng chim phượng hoàng, Chu Linh Vương lập làm thái tử. Năm 17 tuổi, đi chơi sông Y và sông Lạc, lúc về ốm chết. Chu Linh Vương thương lắm. Có người báo với Chu Linh Vương rằng: - Chúng tôi trông thấy thái tử cưỡi con hạc trắng đang thổi ống sinh, lại nhắn bảo người ở đấy rằng: "Các ngươi nói lại Thiên Tử biết là ta đi theo Phù Khâu công đi chơi Trung Sơn, vui vẻ quá chừng! Thiên tử chớ có phiền nghĩ". Chu Linh Vương sai đào mộ Phù Khâu công lên xem thì chỉ thấy có áo quan không, mới biết là đã thành tiên đi rồi. Sau Chu Linh Vương nằm mộng thấy thái tử Tấn cưỡi hạc đến đón, khi tỉnh dậy, còn nghe văng vẳng tiếng sinh ở ngoài cửa. Chu Linh Vương nói: - Con ta đến đón thì ta nên đi! Chu Linh Vương truyền ngôi cho con thứ là Quí, rồi tự nhiên chết. Quí lên nối ngôi, tức là Chu Cảnh Vương. Năm ấy, Sở Khang Vương cũng chết. Quan lệnh doãn là Khuất Kiến liền lập người em cùng mẹ với Sở Khang Vương lên làm vua, chưa được bao lâu Khuất Kiến cũng chết. Công tử Vi thay làm lệnh doãn. Lại nói chuyện quan tướng quốc nước Tề là Khánh Phong, từ khi chuyên giữ quyền chính, càng sinh ra hoang dâm càn rỡ. Một hôm, uống rượu ở nhà Lư Bồ Miết. Lư Bồ Miết sai vợ ra mời rượu, Khánh Phong trông thấy có ý bằng lòng, liền cùng với vợ Lư Bồ Miết tư thông, rồi giao cả quyền chính cho con là Khánh Xá, đem vợ cùng nàng hầu và của cải sang ở nhà Lư Bồ Miết. Khánh Phong tư thông với vợ Lư Bồ Miết, Lư Bồ Miết cũng cùng với vợ và nàng hầu của Khánh Phong tư thông. Hai bên không kiêng kỵ gì nữa, nhiều khi họp nhau uống rượu đùa bỡn, say rượu lại kể hết cả ra, các người xung quanh, ai cũng phải bưng miệng mà cười. Khánh Phong và Lư Bồ Miết vẫn không lấy gì làm nghĩ. Lư Bồ Miết nói với Khánh Phong triệu người anh là Lư Bồ Quí ở nước Lỗ về. Khánh Phong thuận cho. Khi Lư Bồ Quí đã về đến nước Tề, Khánh Phong để cho theo hầu người con là Khánh Xá. Khánh Xá sức khỏe hơn người, thấy Lư Bồ Quí cũng có sức khỏe, và lại khéo nói, nên có lòng yêu quí, gả người con gái là Khánh Khương cho Lư Bồ Quí. Lư Bồ Quí chỉ dốc một lòng báo thù cho Tề Trang công, nhưng không biết đồng tâm với ai được, mới nhân khi theo Khánh Xá đi săn bắn, hết sức khen cái tài võ dũng của Vương Hà. Khánh Xá hỏi: - Vương Hà bây giờ ở đâu? Lư Bồ Quí nói: - Hiện đang ở nước Cử. Khánh Xá sai người đi triệu về. Vương Hà về nước Tề. Khánh Xá cũng có lòng yêu. Thôi Chữ và Khánh Phong nổi loạn, sợ người ta ám sát, đi đâu cũng có quân sĩ cầm giáo phòng giữ xung quanh, sau thành ra lệ quen. Khánh Xá tin yêu Lư Bồ Quí và Vương Hà mới dùng hai người ấy cầm giáo theo hầu ở bên cạnh. Cứ theo lối cũ thì công gia cung đồ ăn của các quan khanh, đại phu mỗi ngày dùng hai con gà. Bấy giờ Tề Cảnh công hay ăn chân gà, một bữa ăn hết mấy chục con; các quan khanh, đại phu cũng đều bắt chước, thành ra gà là một món ăn quí giá mua đắt quá, ngự trù chi tiêu không đủ, phải sang nói với Khánh Xá để xin thêm. Lư Bồ Quí muốn tỏ điều ác của Khánh Xá, mới xui Khánh Xá không cho, bảo ngự trù rằng: - Đồ ngự thiện tùy ý mà làm, cứ gì phải món gà! Bấy giờ ngự trù lấy thịt vịt cho vào. Lũ nhà bếp lại tưởng thịt vịt không phải là đồ ngự thiện, ăn vụng đi mất. Ngày hôm ấy, quan đại phu là Cao Mại (tên tự là Tử Vĩ) và Loan Táo (tên tự là Tử Nhã) ngồi hầu cơm. Tề Cảnh công, trông thấy mâm cơm không có món chân gà, chỉ có xương gà mà thôi, nổi giận nói rằng: - Họ Khánh cầm quyền chính mà dám bớt đồ ngự thiện, khinh ta đến thế này là cùng! Nói xong, không ăn bỏ ra. Cao Mại toan đến trách Khánh Phong. Loan Táo can ngăn mãi, Cao Mại mới thôi. Sau có người nói chuyện với Khánh Phong, Khánh Phong bảo Lư Bồ Miết rằng: - Cao Mại và Loan Táo có ý giận ta, biết làm thế nào? Lư Bồ Miết nói: - Giận thì giết đi, chứ can chi mà sợ! Lư Bồ Miết nói chuyện với anh là Lư Bồ Quí. Lư Bồ Quí bàn mưu với Vương Hà rằng: - Cao Mại và Loan Táo đang giận nhau với họ Khánh, ta có thể nhờ sức được. Đêm hôm ấy, Vương Hà đến yết kiến Cao Mại, nói với Cao Mại rằng: - Họ Khánh đang muốn trị họ Cao và họ Loan. Cao Mại nổi giận nói: - Khánh Phong ngày xưa thực đồng mưu với Thôi Chữ để giết vua Trang công, nay họ Thôi đã diệt rồi, chỉ còn họ Khánh, ta nên vì tiên quân (trỏ Tề Trang công) mà báo thù. Vương Hà nói: - Tôi vẫn có chí ấy! Quan đại phu mưu việc ngoài, tôi mưu việc trong, làm gì mà không nổi! Cao Mại đi bàn mưu với Loan Táo định thừa cơ khởi sự. Bọn Trần Vô Vũ, Bão Quốc (cháu Bão Thúc Nha) và Án Anh đếu biết cả, nhưng ai cũng ghét họ Khánh chuyên quyền, không ai chịu nói. Lư Bồ Quí và Vương Hà bói việc đánh họ Khánh, trong quẻ bói có câu rằng: "Con hổ rời huyệt, con bưu thấy huyết". Lư Bồ Quí đem đến hỏi Khánh Xá rằng: - Có người muốn đánh kẻ thù, bói được quẻ này, không biết tốt hay xấu? Khánh Xá nói: - Đánh được! Hổ cùng bưu là cha con, đã phải rời huyệt và thấy huyết, còn gì mà không đánh được! Chẳng hay kẻ thù là ai? Lư Bồ Quí nói: - Một người trong đám hương lý. Khánh Xá không nghi hoặc gì cả. Tháng 8 năm ấy Khánh Phong đem Khánh Tự và Khánh Di đi săn bắn ở Đông Lai; lại cho Trần Vô Vũ đi theo. Trần Vô Vũ từ biệt cha là Trần Tu Vô. Trần Tu Vô bảo rằng: - Họ Khánh nguy đến nơi! Nếu con cùng đi thì ta e rằng mắc nạn, sao không từ chối đi? Trần Vô Vũ nói: - Nếu từ chối thì hắn sinh nghi, vậy nên con không dám từ chối. Để khi con đã đi rồi, thân phụ lấy cớ khác mà triệu con về. Nói xong, liền đi theo Khánh Phong. Lư Bồ Quí mừng lắm nói: - Trong quẻ bói có câu "con hổ rời huyệt" thật là nghiệm lắm! Lưu Bồ Quí định chờ khi Khánh Xá ra thu tế thì khởi sự. Trần Tu Vô biết tin, sợ con là Trần Vô Vũ mắc nạn với Khánh Phong, liền nói dối là vợ mình ốm, sai người đi triệu Trần Vô Vũ về. Trần Vô Vũ nhờ Khánh Phong bói hộ một quẻ, nhưng trong lòng khấn thầm rằng: "Quẻ bói này cho biết sự tốt xấu của họ Khánh". Khánh Phong bói xong, đoán quẻ rằng: - Quẻ này là quẻ diệt thân. Bệnh thể của lão phu nhân chưa khỏi được. Trần Vô Vũ nước mắt chảy ròng ròng. Khánh Phong thương lắm, liền cho Trần Vô Vũ về. Khánh Tự trông thấy Trần Vô Vũ lên xe, hỏi Trần Vô Vũ rằng: - Nhà ngươi đi đâu? Trần Vô Vũ nói: - Mẹ tôi ốm vậy nên tôi phải về. Nói xong, quay xe đi ngay, Khánh Tự vào nói với Khánh Phong rằng: - Trần Vô Vũ nói dối, chứ không phải mẹ ốm! Tôi sợ trong nước có biến, tướng công nên chóng về. Khánh Phong nói: - Đã có con ta ở nhà, còn lo gì nữa! Trần Vô Vũ về qua sông Hà, phá cầu và đục thuyền ra để Khánh Phong không có đường về, mà Khánh Phong vẫn không biết. Bấy giờ đã thượng tuần tháng tám. Lư Bồ Quí tu tập quân sĩ để sắp khởi sự. Người vợ là nàng Khánh Khương (con gái Khánh Xá) hỏi Lư Bồ Quí rằng: - Phu quân có việc gì mà không bàn với thiếp thì tất không làm nổi. Lư Bồ Quí cười nói rằng: - Đàn bà biết gì mà đòi bàn mưu! Nàng Khánh Khương nói: - Phu quân không nghe nói có người đàn bà tài trí hơn đàn ông hay sao! Vua Vũ Vương có 10 bề tôi giỏi; trong 10 người ấy kể cả bà Ấp Khương, sao lại bảo là đàn bà không bàn mưu được. Lư Bồ Quí nói: - Ngày xưa quan đại phu nước Trịnh là Ung Củ, đem mật mưu của vua Trịnh tiết lộ ra cho vợ là nàng Ung Cơ biết, mà đến nỗi bị giết, lại hại cả vua, ta rất lấy làm sợ. Nàng Khánh Khương nói: - Đàn bà cốt phải theo chồng, chồng nói thì vợ nghe, huống chi lại có quân mệnh. Nàng Ung Cơ nghe mẹ mà làm hại chồng, đó là một sự xấu trong đám khuê các, còn nói làm gì! Lư Bồ Quí nói: - Giả sử nàng là Ung Cơ thì nàng xử thế nào? Nàng Khánh Khương nói: - Giúp được thì giúp, bằng không thì thôi, cũng không tiết lộ ra cho ai biết. Lư Bồ Quí nói: - Nay chúa công ta ghét họ Khánh chuyên quyền, có bàn mưu với họ Cao và họ Loan để đuổi tộc đảng nhà nàng, vậy nên ta phải phòng bị, nàng chớ tiết lộ cho ai biết. Nàng Khánh Khương nói: - Quan tướng quốc (trỏ Khánh Phong) vừa mới đi săn, có thể thừa cơ được. Lư Bồ Quí nói: - Muốn đợi đến ngày thu tế. Nàng Khánh Khương nói: - Thân phụ thiếp vốn người ngang ngạnh, lại đam mê tửu sắc, không có ai nói khích thì hoặc giả lại không đi, biết làm thế nào. Thiếp xin dùng kế cố ý ngăn lại thì việc đi thu tế mới quyết định được. Lư Bồ Quí nói: - Ta đem tính mệnh phó thác cho nàng, nàng chớ bắt chước Ung Cơ ngày trước. Nàng Khánh Khương đến bảo Khánh Xá rằng: - Con nghe nói họ Cao và họ Loan định đến ngày thu tế này thì hại thân phụ, xin thân phụ chớ đi. Khánh Xá nổi giận, nói: - Hai họ ấy như giống cầm thú, sống chết ở trong tay ta, khi nào dám như vậy; dẫu có thế nữa, ta cũng không sợ! Nàng Khánh Khương về nói với Lư Bồ Quí. Đến kỳ thu tế, Tề Cảnh công vào làm lễ ở nhà Thái miếu. Các quan đại phu đều đi theo cả. Khánh Thăng hiến tước. Quân họ Khánh đóng kín xung quanh nhà Thái miếu. Lư Bồ Quí và Vương Hà cầm giáo đứng ở bên cạnh Khánh Xá, không rời ra một bước nào. Họ Trần và họ Bão, hai nhà ấy có mấy tên ngữ nhân, khéo làm trò lắm, đang múa hát ở đường Ngư Lý, cố ý làm cho ngựa của Khánh Xá phải lồng chạy. Quân họ Khánh đuổi theo bắt được ngựa, đem buộc một chỗ rồi đem cởi áo giáp ra, xúm lại xem làm trò. Quân họ Cao, họ Loan, họ Trần và họ Bão họp cả ở trước cửa nhà Thái miếu. Lư Bồ Quí giả cách ra ngoài, mật truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh, rồi trở vào đứng ở sau lưng Khánh Xá cầm ngược ngọn giáo, để ra hiệu cho Cao Mại biết. Cao Mại hiểu ý sai người nhà gõ cửa ba tiếng, quân sĩ kéo ồ cả vào. Khánh Xá kinh sợ đứng dậy, Lư Bồ Quí ở sau lưng đâm ngay một cái trúng vào cạnh sườn. Vương Hà cầm giáo đánh vào vai bên tả, gãy hẳn bả vai. Khánh Xá trông thấy Vương Hà, liền nói: - Thế ra chúng bay nổi loạn à? Nói xong, giơ tay phải cầm lấy hồ rượu ném vào Vương Hà. Vương Hà chết ngay lập tức, Lư Bồ Miết truyền cho quân sĩ bắt ngay Khánh Thăng giết đi. Khánh Xá bị thương nặng, đau quá không thể chịu được, ôm lấy cột nhà Thái miếu mà rung, chuyển động cả nhà Thái miếu, rồi kêu to lên một tiếng mà chết. Tề Cảnh công thấy vậy, kinh sợ toan chạy. Án Anh mật tâu rằng: - Các quan triều thần vì tiên quân mà diệt họ Khánh để yên nước nhà, chứ không có ý gì khác cả. Tề Cảnh công mới yên lòng, lên xe về cung. Lư Bồ Miết đem quân đi trừ họ Khánh, rồi chia giữ các cửa thành để chống nhau với Khánh Phong. Khánh Phong đi săn, về đến nửa đường, gặp người nhà Khánh Xá đến báo tin. Khánh Phong giận lắm, tiến quân vào phía cửa Tây, nhưng trong thành canh phòng nghiêm mật, không thể phá nổi. Quân Khánh Phong dần dần bỏ trốn hết cả. Khánh Phong sợ hãi chạy sang nước Lỗ. Tề Cảnh công sai người nói với nước Lỗ chớ nên dung nạp đứa phản nghịch. Người nước Lỗ toan bắt Khánh Phong đưa trả nước Tề, Khánh Phong nghe tin sợ hãi, lại chạy sang nước Ngô. Vua Ngô là Di Muội để cho Khánh Phong ở đất Chu Phương, và cấp lương cho rất hậu, có phần giàu hơn khi ở nước Tề, để khiến cho Khánh Phong dò xét tình hình nước Sở. Quan đại phu nước Sở là Tử Phục Hà nghe tin, bảo Thúc Tôn Báo rằng: - Khánh Phong sang ở Ngô, lại càng giàu lắm, chẳng có lẽ trời phúc cho đứa dâm nhân hay sao! Thúc Tôn Báo nói: - Thiện nhân mà giàu thì là phúc, dâm nhân mà giàu thì là họa. Cái họa của Khánh Phong sắp đến nơi, sao gọi là phúc được. Nước Tề từ khi Khánh Phong đi trốn thì Cao Vĩ cùng Loan Táo cầm quyền chính, mới tuyên bố tội trạng của Thôi Chữ cùng Khánh Phong cho người trong nước biết, rồi đem chăng thây Khánh Xá ở trong triều; lại trao giải thưởng để tìm áo quan của Thôi Chữ, hễ ai biết mà tố cáo ra thì cho một viên ngọc bích của Thôi Chữ ngày trước. Tên ngữ nhân nhà Thôi Chữ ngày trước tham được ngọc bích, liền chỉ dẫn chỗ chôn Thôi Chữ. Bấy giờ sai người đào lên thì thấy hai cái thây (Thôi Chữ và nàng Đường Khương). Tề Cảnh công toan đem hai cái thây ấy mà chăng ra. Án Anh can rằng: - Mình trị tội người đàn bà thì không hợp lẽ phải. Tề Cảnh công mới truyền đem một thây Thôi Chữ ra chăng ở giữa chợ. Người nước Tề xúm lại xem, nhiều người còn nhớ mặt, bảo rằng: - Chính là thây Thôi Chữ đó! Các quan đại phu chia nhau những thái ấp của Thôi Chữ và Khánh Phong, thấy gia tài của Khánh Phong đều ở nhà Lư Bồ Miết, liền trị Lư Bồ Miết về tội dâm loạn, đuổi sang ở nước Bắc Yên. Lư Bồ Quí cũng theo sang. Bao nhiêu gia tài của hai họ ấy, các quan triều thần mỗi người lấy một ít, tan nát mất cả. Chỉ có Trần Vô Vũ không lấy một tí gì. Nhà Khánh Phong có hơn 100 xe gỗ, các quan đại phu bàn để cho Trần Vô Vũ. Trần Vô Vũ lại đem phân phát cho người trong nước tất cả. Bởi vậy người trong nước đều ca tụng Trần Vô Vũ là người nhân đức. Năm sau, Loan Táo chết, con là Loan Thi nối làm quan đại phu, cùng với Cao Mại cùng cầm quyền chính. Cao Mại nghĩ đến con Cao Hậu là Cao Chỉ, có ý hiềm rằng trong một nước mà hai họ Cao, mới đuổi Cao Chỉ. Cao Chỉ cũng chạy sang Bắc Yên. Con Cao Chỉ là Cao Kiên chiếm giữ đất Lư Ấp. Tề Cảnh công sai quan đại phu là Lư Khâu Anh đem quân đến vây. Cao Kiên nói: - Ta không phải làm phản, chỉ vì sợ họ Cao không có người cúng tế. Lư Khâu Anh hứa lời lập hậu cho họ Cao. Cao Kiên bỏ trốn sang nước Tấn. Lư Khâu Anh về nói với Tề Cảnh công. Tề Cảnh công truyền lập Cao Yên để giữ việc cúng tế họ Cao. Cao Mại căm tức mà rằng: - Sai Lư Khâu Anh đi là cốt để trừ bỏ họ Cao, nay bỏ một người lại lập một người, thế thì phỏng có khác gì không! Cao Mại mật sai người giết chết Lư Khâu Anh. Các công tử như bọn Tử Sơn, Tử Thương và Tử Chu thấy việc ấy đều có ý bất bình, thường thường nghị luận về việc ấy. Cáo Mại giận lắm, mượn việc khác mà đuổi hết các công tử đi. Người trong nước ai cũng sợ hãi. Chưa được bao lâu, Cao Mại chết, con là Cao Cương nối làm đại phu. Cao Cương hãy còn ít tuổi, chưa được làm thượng khanh vậy nên quyền chính nước Tề về cả tay Loan Thi. Bấy giờ Tấn và Sở giảng hòa, các nước đều được yên nghỉ. Quan đại phu nước Trịnh là Lương Tiêu (tên tự là Bá Hữu, con công tôn Chiếp, cháu công tôn Khứ Tật) đang làm thượng khanh, cầm quyền chính nước Trịnh. Tính kiêu ngạo xa xỉ, lại thích uống rượu, mỗi bận uống rượu thường say suốt đêm; trong khi uống rượu, không muốn tiếp một người nào, không muốn nghe một việc gì, mới sai làm một cái hầm ở dưới đất, đem những đồ uống rượu và âm nhạc bày ở trong cái nhà ấy để xuống đấy uống rượu. Dẫu bọn gia thần đến cũng không được vào yết kiến. Một hôm đang giữa trưa, Lương Tiêu nhân khi say rượu, vào triều nói với Trịnh Giản công, định sai công tôn Hắc (tên tự là Tử Tích, con công tử Tứ, sau đổi là họ Tứ) sang sứ nước Sở. Công tôn Hắc đang cùng với công tôn Hạ (tên tự là Tử Nam, con công tôn Mại) tranh nhau định lấy em gái Từ Ngô Phạm, vậy nên không muốn đi xa, mới đến yết kiến Lương Tiêu để xin tha việc đi sứ. Người canh cửa không cho vào mà bảo rằng: - Quan tướng quốc đã xuống nhà hầm rồi, tôi không dám vào bẩm. Công tôn Hắc giận lắm, đêm hôm ấy cùng với Ấn Đoàn (con công tử Phong) đem quân vây nhà Lương Tiêu, rồi phóng hỏa đốt cháy. Lương Tiêu đang say rượu, người nhà vực lên xe chạy sang đất Ung Lương (đất nước Trịnh). Lương Tiêu tỉnh rượu, nghe tin công tôn Hắc đem quân đánh mình, căm tức vô cùng. Lương Tiêu ở Ung Lương được mấy ngày thì các gia thần dần dần kéo đến, thuật lại những chuyện trong nước, nói các họ đang kết ước với nhau để chống cự họ Lương, chỉ có họ Quốc và họ Hãn là không dự vào việc ấy. Lương Tiêu mừng mà nói rằng: - Tất thế nào họ Quốc và họ Hãn cũng có lòng giúp ta! Nói xong, liền đem quân về đánh cửa Bắc Môn nước Trịnh. Công tôn Hắc sai cháu là Tử Đái cùng với Ấn Đoàn đem quân ra đánh. Lương Tiêu thua, trốn vào trong nhà hàng làm thịt dê, bị quân Tử Đái giết chết. Bao nhiêu gia thần Lương Tiêu cũng bị giết sạch cả. Công tôn Kiều (tên tự là Tử Sản, con công tử Phát) ôm lấy thi thể Lương Tiêu mà khóc rằng: - Anh em cùng hại nhau. Trời ơi! Sao mà khốn nạn làm vậy! Công tôn Kiều thu cả những thi thể gia thần và Lương Tiêu cùng chôn ở thôn Đầu Thành. Công tôn Hắc giận lắm, nói: - Tử Sản (tức công tôn Kiều) lại vào đảng với họ Lương hay sao! Công tôn Hắc toan đem quân đi đánh công tôn Kiều. Quan thượng khanh là Hãn Hổ (tên tự là Tử Bi, con công tử Xá) can rằng: - Tử Sản biết giữ lễ cả với người chết, huống chi là người sống! Điều lễ là gốc trong nước, nếu giết người biết giữ lễ thì không nên. Công tôn Hắc mới thôi. Trịnh Giản công giao quyền chính cho Hãn Hổ. Hãn Hổ nói: - Tôi không bằng Tử Sản. Trịnh Giản công liền giao cho công tôn Kiều cầm quyền chính. Công tôn Kiều đã cầm quyền chính nước Trịnh, mới chỉnh đốn những pháp luật, phong tục và cách thức làm ruộng; lại kể tội công tôn Hắc mà giết đi. Đúc ra hình thư để khiến cho dân biết sợ phép; lập ra hương hiệu để khiến cho dân biết lỗi mình, bởi vậy trong nước ai cũng ca tụng công đức. Một hôm, người nước Trịnh đi ra cửa Bắc Môn, trong khi hoảng hốt, trông thấy Lương Tiêu mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, tay cầm cái giáo, vừa đi vừa nói: - Tử Đái và Ấn Đoàn hại ta, ta tất phải giết chết! Người ấy về thuật chuyện với người khác, rồi thành bệnh ốm. Bấy giờ trong nước huyên truyền nhau, cho là hồn Lương Tiêu đến, kéo nhau chạy trốn như là chạy loạn. Chưa được bao lâu thì Tử Đái bị bệnh mà chết. Mấy ngày nữa, Ấn Đoàn cũng chết. Người trong nước đều sợ lắm, ngày đêm náo động cả lên. Công tôn Kiều nói với Trịnh Giản công cho con Lương Tiêu là Lương Chỉ làm đại phu, để giữ việc cúng tế họ Lương; lại lập con công tử Gia là công tôn Tiết. Từ bấy giờ người trong nước mới không huyên náo nữa. Chức hành nhân là Du Cát (tên tự là Tử Vũ) hỏi công tôn Kiều rằng: - Lập hậu cho Lương Tiêu mà trong nước khỏi huyên náo là cớ làm sao? Công tôn Kiều nói: - Phàm những đứa hung ác, khi chết đi hồn phách không tan được, hay làm tai làm quái, nếu có chỗ nương tựa thì không như thế nữa. Ta lập hậu cho là muốn cho có chỗ nương tựa. Du Cát nói: - Nếu vậy thì lập Lương Chỉ mà thôi, cần gì phải lập đến công tôn Tiết, chẳng có lẽ lại lo công tử Gia cũng làm tai làm quái nữa hay sao! Công tôn Kiều nói: - Lương Tiêu có tội, không nên lập hậu, nếu nhân việc làm tai làm quái mà lập hậu thì người trong nước tất mê hoặc về truyện quỉ thần, vậy nên ta mượn cớ khác mà lập hậu cả cho họ Lương và họ Khổng, để khiến cho người trong nước khỏi mê hoặc. Du Cát nghe nói mới chịu phục là người giỏi. Sái Cảnh công cưới con gái nước Sở là Vu Thị làm vợ thế tử Ban, rồi lại tư thông với Vu Thị. Thế tử Ban giận lắm, nói: - Cha đã chẳng ra cha thì cần gì phải giữ đạo con! Thế tử Ban lập kế nói dối là đi săn, rồi cùng với mấy người nội thị tâm phúc phục sẵn ở trong phòng Vu Thị. Sái Cảnh công tưởng là thế tử Ban đi vắng, liền đi thẳng vào phòng Vu Thị. Thế tử Ban và mấy người nội thị đổ ra đâm chết Sái Cảnh công rồi sai người cáo với chư hầu là Sái Cảnh công ngộ cảm mà chết. Lại tự lập lên làm vua, tức là Sái Linh công. Năm ấy trong cung nước Tống đang đêm phát hỏa. Các cung nữ trông thấy lửa cháy, bẩm với vợ vua Tống là nàng Bá Cơ (con gái nước Lỗ) để tránh xa nơi khác. Bá Cơ nói: - Cứ theo trong lễ thì người đàn bà, nếu không có phó mẫu ở bên cạnh thì trong khi đang đêm không được đi đâu cả. Dẫu lửa cháy dữ dội đến đâu, ta đây cũng không nên trái lễ. Khi phó mẫu đến nơi thì Bá Cơ đã chết cháy rồi, người nước Tống ai cũng thương tiếc. Tấn Bình công thương nước Tống có cái công hợp thành mà lại bị hỏa hoạn, mới họp chư hầu ở đất Thiền Uyên, quyên tiền để giúp nước Tống. Năm thứ tư đời Chu Cảnh Vương, Tống và Sở vì cớ khi trước kết minh ở nước Tống nay lại định hội nhau ở đất Quắc (đất nước Trịnh). Bấy giờ công tử Vi thay Khuất Kiến làm lệnh doãn. Công tử Vi là thứ tử Sở Cung Vương, tuổi đã lớn, vốn có tính kiêu ngạo, cậy mình tài giỏi, khinh Hùng Mi (vua Sở) hèn yếu, việc gì cũng chuyên quyết cả; thấy Viễn Yểm là người trung thực, vu cho tội phản nghịch, bắt đem giết đi mà cướp lấy nhà; lại giao kết với quan đại phu là Viễn Bái và Ngữ Cử, để âm mưu những sự phản nghịch. Một hôm công tử Vi đi săn, dùng hiệu cờ tinh kỳ của vua Sở. Đi đến Vu Ấp, quan trấn thủ đất Vu Ấp là Thân Vô Vũ kể tội công tử Vi tiếm phận, rồi thu lấy cờ tinh kỳ mà cất vào kho, bởi vậy công tử Vi hơi nhục. Đến bấy giờ công tử Vi sắp sang dự hội ở đất Quắc, liền nói với vua Sở xin sang sứ nước Trịnh trước, để định hỏi con gái họ Phong (dòng dõi công tử Phong). Lúc công tử Vi sắp đi, tâu vói vua Sở là Hùng Mi rằng: - Nước Sở ta đã xưng vương thì ngôi ở trên chư hầu. Phàm sứ thần nước Sở, xin cho dùng lễ vua chư hầu, để khiến các nước biết nước Sở là tôn trọng. Vua Sở thuận cho. Công tử Vi tiếm dùng nghi vệ thiên tử, lại bắt hai người cầm giáo đi dàn mặt. Khi đến địa giới nước Trịnh, người nước Trịnh tưởng là vua Sở, vội vàng phi báo với vua Trịnh. Vua Trịnh sợ hãi, thân hành ra ngoài thành để nghênh tiếp, đến khi trông thấy, mới biết là Công tử Vi. Công tôn Kiều thấy vậy có ý ghét công tử Vi, sợ để cho hắn vào trong thành thì lại sinh biến, liền sai chức hành nhân là Du Cát chối từ rằng nhà công quán trong thành đổ nát, chưa kịp chữa lại, xin mời ở tạm ngoài thành. Công tử Vi sai Ngũ Cử vào trong thành để xin cưới con gái họ Phong. Vua nước Trịnh thuận cho. Khi sắp cưới, công tử Vi lại có ý muốn đánh lẻn vào nước Trịnh, định mượn tiếng đón con gái họ Phong rồi thừa cơ đánh Trịnh. Công tôn Kiều nói: - Cái lòng công tử Vi, không biết thế nào mà lường được; tất phải cấm vào thành. Du Cát nói: - Để tôi ra thương thuyết với công tử Vi. Du Cát ra yết kiến công tử Vi mà nói rằng: - Quan lệnh doãn (trỏ công tử Vi) định đem quân vào đón con gái họ Phong, nhưng trong thành nước tôi nhỏ hẹp, không thể dung nổi, xin dọn một chỗ ở ngoài thành để làm lễ cưới. Công tử Vi nói: - Chúa công đã có lòng yêu tôi mà cho cưới con gái họ Phong, nếu đón ngoài thành sao cho thành lễ? Du Cát nói: - Cứ theo như lễ thì đồ binh khí không được đem vào thành, nay quan lệnh doãn muốn dùng quân đón để cho trọng sự thể thì nên bỏ đồ binh khí. Ngũ Cử mật nói với công tử Vi rằng: - Người nước Trịnh đã biết phòng bị rồi, ta nên bỏ đồ binh khí. Ngũ Cử truyền cho quân sĩ bỏ hết đồ binh khí mà vào đón con gái họ Phong. Khi làm lễ cưới xong, công tử Vi mới ra dự hội với chư hầu. Triệu Vũ nước Tấn cùng với các quan đại phu nước Tống, Lỗ, Tề, Vệ, Trần, Sái, Trịnh và Hứa đều ở đấy cả. Công tử Vi sai người nói với Triệu Vũ rằng: - Sở và Tấn khi trước đã hội thề với nhau, ngày nay bất tất phải sáp huyết nữa, chỉ đem lời hòa ước cũ mà tuyên bá lại để cho các ngài chớ quên mà thôi. Kỳ Ngọ bảo Triệu Vũ rằng: - Lời nói công tử Vi là có ý sợ nước Tấn ta vào sáp huyết trước, bởi vì lần trước ta nhường cho Sở, tất lần này Sở nhường cho ta, nếu giảng lại cái hòa ước cũ thì bao giờ Sở cũng vẫn ở trước, ngài nghĩ thế nào? Triệu Vũ nói: - Công tử Vi sang dự hội mà nghi vệ theo như vua Sở, thế là có ý kiêu ngạo, chi bằng ta để cho hắn kiêu ngạo một thể! Ký Ngọ nói: - Đã đành rằng thế, nhưng lần trước Khuất Kiến cho quân sĩ mặc áo giáp ở trong để đến dự hội, may mà không sinh ra chuyện gì; nay công tử Vi tất lại quá hơn nữa, ngài phải phòng bị mới được. - Việc hội chư hầu này cốt để theo cái ước bãi binh, ta chỉ biết thủ tín mà thôi, còn điều khác ta chẳng ngại chi cả. Khi khai hội, công tử Vi xin giảng lại hòa ước cũ. Triệu Vũ vâng lời. Khi tan hội, công tử Vi vội về. Quan đại phu các nước đều biết công tử Vi rồi sau tất nhiên làm vua nước Sở. Trong lòng Triệu Vũ vẫn lấy việc giảng lại ước cũ để cho Sở đứng trước Tấn làm xấu hổ, sợ người ta nghị luận, mới đem cái nghĩa thủ tín nói đi nói lại mãi cho quan đại phu các nước nghe. Khi Triệu Vũ về đi qua nước Trịnh, có quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng đi. Triệu Vũ lại nói với Thúc Tôn Báo. Thúc Tôn Báo nói: - Tướng công nghĩ cái ước bãi binh có thể giữ được lâu hay sao! Triệu Vũ nói: - Chúng ta được ngày nào hay ngày ấy, cần gì mà lo đến chuyện lâu dài. Thúc Tôn Báo nói riêng với quan đại phu nước Trịnh và Hãn Hổ rằng: - Triệu Vũ sắp chết đến nơi! Nghe lời nói có ý trễ biếng lắm, không nghĩ gì đến chuyện lâu dài. Vả lại chưa đầy 50 tuổi, mà đã bo bo như ông già 80 tuổi, còn sống lâu sao được! Chưa được bao lâu thì Triệu Vũ quả nhiên ốm chết. Hàn Khởi thay cầm quyền chính nước Tấn. Công tử Vi ở nước Sở về nước gặp Hùng Mi đang ốm trong cung. Công tử Vi vào cung hỏi thăm, giả cách nói có việc cơ mật, đuổi hết nội thị đi, rồi cởi giải mũ, đánh vào gáy Hùng Mi. Một lúc thì Hùng Mi chết. Hùng Mi có hai con là Hùng Mô và Hùng Bình, nghe thấy việc ấy cầm gươm đâm công tử Vi; nhưng công tử Vi sức khỏe lắm, hai người không thể địch nổi, đều bị công tử Vi giết chết. Em Hùng Mi là Hùng Tị (tên tự là Tử Can) và Hùng Hắc Quang (tên tự là Tử Tích) nghe tin cha con Hùng Mi bị hại, sợ mắc tai vạ, đều trốn đi cả. Hùng Tị trốn sang nước Tấn. Hùng Hắc Quang trốn sang nước Trịnh. Công tử Vi cáo với các chư hầu rằng: - Vua nước tôi là Hùng Mi thất lộc đi, có quan đại phu là công tử Vi lên nối ngôi. Ngũ Cử đổi lại rằng: "Các con vua Cung Vương tôi thì công tử Vi nhiều tuổi hơn cả". Bấy giờ công tử Vi lên làm vua, đổi tên là Hùng Kiền, tức là Sở Linh Vương. Sở Linh Vương cho Viễn Bãi làm lệnh doãn, Đấu Thành Nhiên làm giao doãn. Quan thái tể là Bá Châu Lê, bấy giờ đang có công sự ở tại đất Giáo. Sở Linh Vương sợ Bá Châu Lê không phục, sai người đi giết chết, rồi cho Viễn Khải Cương làm quan thái tể. Lại lập trưởng tử là Hùng Lộc lên làm thế tử. Sở Linh Vương từ khi lên làm vua, càng kiêu ngạo lắm, có ý muốn làm bá chủ ở trung nguyên, sai Ngũ Cử sang nước Tấn đòi họp chư hầu; lại nghĩ con gái họ Phong hèn hạ, không đáng làm phu nhân, mới sai người sang cầu hôn ở nước Tấn. Tấn Bình công thấy Triệu Vũ mới mất, sợ thế nước Sở, không dám trái ý, điều gì cũng nghe cả. Năm ấy Trịnh Giản công và Hứa Điệu công sang nước Sở. Sở Linh Vương lưu lại để đợi tin báo của Ngũ Cử. Khi Ngũ Cử về Sở, nói vua Tấn thuận cho cả hai việc. Sở Linh Vương bằng lòng, sai sứ ước với chư hầu đến tháng 3 năm sau thì đại hội ở đất Thân. Trịnh Giản công xin đến đất Thân trước, để nghênh tiếp chư hầu. Sở Linh Vương thuận cho. Mùa xuân năm sau, chư hầu lục tục đến dự hội, chỉ có Lỗ và Vệ mượn cớ khác từ chối đến. Nước Tống sai quan đại phu là Hướng Thú đi thay, còn các nước nhỏ như bọn Sái, Trần, Từ và Đằng đều đến tất cả. Sở Linh Vương đem quân đến đất Thân. Chư hầu đều lại yết kiến. Quan tả doãn là Ngũ Cử tâu với Sở Linh Vương rằng: - Tôi nghe nói muốn làm bá chủ, tất phải được lòng chư hầu, muốn được lòng chư hầu, tất phải giữ lễ. Nay đại vương mới hội chư hầu, có Hướng Thú nước Tống và công tôn Kiều nước Trịnh đều là người biết lễ, ta càng phải nên cẩn thận mới được. Sở Linh Vương nói: - Đời cổ giả, cái lễ hội chư hầu thế nào? Ngũ Cử nói: - Vua Khải nhà Hạ hội chư hầu ở Quân Đài, vua Thang nhà Thương hội chư hầu ở Cảnh Bạc, vua Vũ Vương nhà Châu hội chư hầu ở Mạnh Tân, vua Thành Vương hội chư hầu ở Kỳ Dương, vua Khang Vương hội chư hầu ở Phong Cung, vua Mục Vương hội chư hầu ở Đồ Sơn, Tề Hoàn công hội chư hầu ở Thiệu Lăng, Tấn Văn công hội chư hầu ở Tiễn Thổ. Trong 6 vương 2 công ấy hội chư hầu, đều có đặt ra lễ, tùy ý đại vương chọn lấy mà dùng. Sở Linh Vương nói: - Nay ta muốn làm bá chủ thì nên dùng cái lễ của vua Hoàn công nước Tề hội chư hầu ở Thiệu Lăng, nhưng chẳng hay cái lệ ấy thế nào? Ngũ Cử nói: - Tôi nghe nói vua Hoàn công nước Tề đánh được Sở, lui quân về Thiệu Lăng. Nước Sở sai quan đại phu là Khuất Hoàn sang quân Tề, vua Hoàn công dàn quân 8 nước để khoe cho Khuất Hoàn biết là cường thịnh, rồi mới họp chư hầu cùng với Khuất Hoàn ăn thề. Nay chư hầu mới phục, đại vương cũng nên phô trương thế lực, khiến cho chư hầu sợ hãi thì còn nước nào dám trái lệnh. Sở Linh Vương nói: - Ta muốm dùng quân khiến cho chư hầu sợ hãi, bắt chước như việc vua Hoàn công nước Tề đánh Sở ta khi xưa, chẳng hay trước hết nên đánh nước nào? Ngũ Cử nói: - Khánh Phong nước Tề giết vua, trốn sang nước Ngô; nước đã không trị tội lại cấp lương và cho ở đất Chu Phương, khiến cho hắn được giàu hơn trước, bởi vậy người nước Tề oán giận lắm. Nước Ngô là cừu địch với ta, nếu ta mượn tiếng hỏi tội Khánh Phong mà đem quân đánh Ngô thì thật là nhất cử lưỡng đắc. Sở Linh Vương khen phải, liền dàn quân để dọa chư hầu, rồi hội thề ở đất Thân. Sở Linh Vương thấy mẹ vua nước Từ là con gái nước Ngô, nghi vua Từ bè đảng với nước Ngô, giam lại trong ba ngày. Vua Từ xin đi hướng đạo để đánh Ngô. Sở Linh Vương mới tha, rồi sai quan đại phu là Khuất Thân, đem quân chư hầu đi đánh Ngô, vây đất Chu Phương, bắt Khánh Phong và giết hết những tộc đảng của Khánh Phong. Khuất Thân nghe nói người nước Ngô có phòng bị, liền thu quân về, đem Khánh Phong nộp Sở Linh Vương, Sở Linh Vương toan giết Khánh Phong để tuyên bá cho chư hầu biết. Ngũ Cử can rằng: - Mình không có điều gì trái thì mới kể tội người ta được, nếu ta giết Khánh Phong thì tất thế nào hắn cũng quai mồm mà kể xấu. Sở Linh Vương không nghe, truyền trói Khánh Phong đem ra trước hàng quân, kề dao vào cổ, rồi bắt Khánh Phong phải tự mình lại kể tội mình rằng: "Quan đại phu các nước nghe ta nói: Chớ ai như Khánh Phong nước Tề, giết vua đi rồi hiếp con mồ côi mà ăn thề với các quan đại phu". Khánh Phong quát to lên rằng: - Quan đại phu các nước nghe ta nói: Chớ ai như Thái tử của Sở Cung Vương, tên Vi; giết vua là Hùng Mi, rồi cướp ngôi mà ăn thề với chư hầu. Các người đứng xem, đều bưng miệng cười. Sở Linh Vương hổ thẹn, truyền giết ngay Khánh Phong đi. Sở Linh Vương từ đất Thân trở về nước Sở, thấy Khuất Thân ở đất Chu Phương đã rút quân trở về, không chịu tiến binh, liền nghi là tư thông với Ngô, bắt đem giết đi, rồi cho Khuất Sinh (con Khuất Kiến) thay làm quan đại phu. Viễn Bãi sang nước Tấn đón nàng Cơ Thị về, lập làm Sở Linh Vương phu nhân. Năm ấy, vua Ngô là Di Muội đem quân đánh Sở, tiến vào đất Cúc, đất Lịnh và đất Ma, để báo thù trận đánh ở Chu Phương khi trước. Sở Linh Vương giận lắm, đem quân chư hầu sang đánh Ngô. Vua nước Việt là Doãn Thường giận nước Ngô hay sang quấy nhiễu, cùng quan đại phu là Thường Thọ Quá đem quân đến hội với nước Sở. Tướng nước Sở là Viễn Khải Cương đi tiên phong đem quân chu sư đến Thước Ngạn, bị người nước Ngô phá vỡ. Sở Linh Vương thân hành đem đại quân đến đất La Nhuế. Vua Ngô là Di Muội sai người em họ là Quệ Do đến khao thưởng quân sĩ nước Sở. Sở Linh Vương giận lắm, bắt Quệ Do toan giết để lấy máu bôi vào mặt trống, nhưng sai sứ giả ra hỏi trước một câu rằng: - Khi nhà ngươi sang đây, đã có bói xem tốt xấu thế nào không? Quệ Do nói: - Bói được quẻ tốt lắm! Sứ giả nói: - Đại vương ta định lấy máu nhà ngươi bôi mặt trống, còn tốt cái nỗi gì! Quệ Do nói: - Nước tôi bói là bói sự chung của nhà nước, chứ có vì sự xấu tốt riêng của một người đâu! Chúa công tôi sai tôi sang tới đây khao thưởng quân sĩ là để dò xem đại vương nóng nảy hay là khoan hòa mà nghĩ cách đối đãi. Đại vương vui vẻ mà nghênh tiếp sứ thần thì nước tôi sinh lòng trễ biếng, tất có ngày phải suy mất; nếu dùng máu sứ thần mà bôi mặt trống, khiến cho nước tôi biết là đại vương căm tức, phải hết sức phòng bị thì chắc chống nổi với đại vương, còn gì tốt hơn điều ấy! Sở Linh Vương nói: - Xem thế thì người ấy thật là hiền sĩ! Nói xong, liền tha cho về. Sở Linh Vương đem quân đến địa giới nước Ngô, thấy nước Ngô phòng bị nghiêm mật lắm, không thể đánh nổi, liền rút quân về. Bấy giờ Sở Linh Vương mới thở dài mà than rằng: - Ngày trước ta giết oan Khuất Thân! Sở Linh Vương từ khi về nước, xấu hổ về việc đánh trận vô công, mới bày ra việc thổ mộc, định đem vật lực và chế độ để khoe với chư hầu. Truyền làm một cái cung gọi là cung Chương Hoa, dài rộng 40 dặm; ở giữa xây một cái đài cao, trông ra bốn mặt, gọi là Chương Hoa Đài, cũng gọi là Tam Hưu Đài. Trong cái cung ấy, cửa nhà rất là mỹ lệ; cho dân ở chung quanh. Bao nhiêu những kẻ có tội mà trốn đi, đều gọi cho về ở đấy. Khi làm xong cái cung ấy, sai sứ đi triệu chư hầu đến để khánh thành.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  10. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 68 Tấn Bình công thích nghe âm nhạc Trần Vô Vũ chịu phóng gia tài

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sở Linh Vương có một cái tính thiên, hay yêu người lưng nhỏ. Bất cứ trai gái, phàm người nào vòng lưng thô lớn thì Sở Linh Vương ghét, không muốn nhìn. Khi đã làm nên cái cung Chương Hoa, tuyển những mỹ nhân lưng nhỏ, cho vào ở đấy, lại đặt tên là Tế Yêu Cung. Các cung nhân muốn cho Sở Linh Vương yêu, đều ăn ít hoặc nhịn đói để cầu cho lưng nhỏ, thậm chí có người đói quá đến nỗi chết mà cũng không biết hối. Người trong nước bắt chước, đều cho lưng to là xấu, không ai dám ăn no; dẫu các quan triều thần trong khi vào triều, cũng dùng thắt lưng mà thắt chặt lại để cho vua khỏi ghét. Sở Linh Vương quyến luyến ở Tế Yêu Cung ngày đêm uống rượu mua vui, những tiếng âm nhạc, không lúc nào im lặng. Một hôm Sở Linh Vương đang uống rượu ở trên đài, bỗng thấy dưới dài có tiếng huyên náo, được một lúc thì Phan Tử Thần điệu một viên quan đến trước mặt Sở Linh Vương. Sở Linh Vương nhìn xem ai thì là quan trấn thủ ở đất Vu Áp, tên gọi Thân Vô Vũ. Sở Linh Vương kinh sợ hỏi cớ. Phan Tử Thần nói: - Thân Vô Vũ không phụng mệnh mà dám tự tiện vào chốn vương cung, bắt kẻ thủ tốt, thế là một người vô lễ, vậy nên tôi phải bắt giải tới đây, để đại vương trị tội. Sở Linh Vương hỏi Thân Vô Vũ rằng: - Nhà ngươi bắt ai làm vậy? Thân Vô Vũ nói: - Tôi bắt một tên lính canh cửa của tôi. Nguyên tên lính ấy trước tôi sai nó canh cửa, nó lấy trộm tửu khí của tôi, rồi trèo tường trốn đi; tôi tầm nã đã hơn một năm nay mà không bắt được, bây giờ nó sung vào làm thủ tốt ở đây, vậy nên tôi bắt. Sở Linh Vương nói: - Hắn đã làm thủ tốt ở đây thì nhà ngươi nên tha cho hắn. Thân Vô Vũ nói: - Tôi nghe nói trong một nước có người trên kẻ dưới, kẻ dưới phải phục tòng người trên thì nước mới khỏi loạn. Tôi có tên lính canh cửa mà tôi không thi hành được pháp lệnh của tôi, khiến cho nó ẩn nấp vào chốn vương cung. Nếu quân trộm giặc nó đã có chỗ ẩn núp thì còn ai ngăn cấm được nữa. Chẳng thà tôi chịu tội chết, chứ không dám vâng lệnh. Sở Linh Vương khen phải, liền bắt tên lính ấy giao trả Thân Vô Vũ và xá cái tội tự tiện vào chốn vương cung. Thân Vô Vũ lạy tạ, lui ra. Qua mấy ngày nữa, quan đại phu nước Sở là Viễn Khải Cương sang sứ nước Lỗ, cố mời Lỗ Chiêu công đến nước Sở. Sở Linh Vương mừng lắm, Viễn Khải Cương tâu với Sở Linh Vương rằng: - Vua Lỗ lúc trước không chịu đi, tôi phải giảng giải cái tình hòa hiếu của tiên quân nước Lỗ là Thành công khi trước cùng với quan đại phu nước ta là Anh Tề ăn thề ở đất Thục, và dọa lấy những sự tranh chiến, bấy giờ vua Lỗ mới sợ mà phải đi. Vua Lỗ là người hiểu lễ phép lắm, xin đại vương phải lưu tâm, chớ để cho vua Lỗ chê cười. Sở Linh Vương nói: - Vua Lỗ là người thế nào? Viễn Khải Cương nói: - Vua Lỗ mặt trắng mình cao, râu dài hơn thước, trông rất đẹp. Sở Linh Vương liền mật truyền chọn lấy 10 người to lớn râu dài, cho đội mũ áo thật lịch sự, bắt tập lễ trong 3 ngày, rồi sai làm chức thấn tướng để ra tiếp kiến Lỗ Chiêu công. Lỗ Chiêu công ngạc nhiên lấy làm lạ, cùng với 10 người ấy vào chơi cung Chương Hoa. Khi vào đến cung Chương Hoa, Lỗ Chiêu công trông thấy lâu đài mỹ lệ, khen ngợi vô cùng. Sở Linh Vương hỏi Lỗ Chiêu công rằng: - Bên quí quốc có cái cung nào đẹp như thế này không? Lỗ Chiêu công đứng khúm núm mà đáp lại rằng: - Nước tôi nhỏ mọn có đâu dám sánh với quí quốc! Sở Linh Vương nét mặt có ý kiêu ngạo, cùng với Lỗ Chiêu công trèo lên Chương Hoa Đài. Đài cao chót vót mỗi từng lại có bao lơn và mái hiên. Đi đến từng nào thì ở đấy lại có một bọn mỹ đồng múa hát và chuốc rượu; khi đến từng cao nhất, tiếng tơ tiếng trúc nghe văng vẳng như ở lưng chừng trời, khác nào như một nơi thần tiên động phủ, không phải là chốn trần gian. Lỗ Chiêu công uống rượu say, cáo từ lui ra. Sở Linh Vương đem một cái cung đại khuất đưa tặng Lỗ Chiêu công. Ngày hôm sau, Sở Linh Vương nghĩ đến cái cung ấy, lại có ý tiếc nói chuyện với Viễn Khải Cương. Viễn Khải Cương nói: - Tôi xin bảo vua Lỗ phải trả lại cái cung ấy. Viễn Khải Cương liền đến yết kiến Lỗ Chiêu công, giả cách không biết hỏi rằng: - Hôm qua nhà vua ngự tiệc với đại vương tôi, đại vương tôi có tặng nhà vua cái gì không? Lỗ Chiêu công đưa cái cung cho Viễn Khải Cương xem. Viễn Khải Cương trông thấy cái cung, sụp lạy chúc mừng. Lỗ Chiêu công nói: - Làm gì một cái cung mà phải chúc mừng! Viễn Khải Cương nói: - Cái cung này có danh tiếng lắm. Khi trước Tề, Tấn và Việt đều sai người đến cầu, mà đại vương tôi không cho ai cả, ngày nay lại đưa tặng nhà vua, tất thế nào Tề, Tấn và Việt cũng có lòng ghen tức; quí quốc nên phòng bị ba nước kia mà giữ lấy của báu này, vậy tôi xin chúc mừng. Lỗ Chiêu công có ý buồn rầu mà nói rằng: - Tôi không biết cái cung này báu đến như thế, nếu vậy thì tôi không dám nhận. Lỗ Chiêu công liền sai người đem cái cung ấy trả lại Sở Linh Vương, rồi cáo từ xin về. Ngũ Cử nghe thấy chuyện ấy, thở dài mà than rằng: - Đại vương ta khó lòng mà giữ cho toàn vẹn được! Vì việc khánh thành, sai sứ đi triệu chư hầu, không nước nào chịu đến, chỉ có một mình nước Lỗ, mà lại còn tiếc một cái cung để cho thất tín với người ta. Đã tham mà tiếc của mình như thế tất muốn lấy của người, tài nào không có kẻ thù oán, giữ sao cho toàn vẹn được! Tấn Bình công nghe tin nước Sở vì việc khánh thành cung Chương Hoa mà sai sứ đi triệu chư hầu, mới bảo các quan đại phu rằng: - Sở là một nước mọi rợ mà còn biết đem sự lâu đài mỹ lệ khoe với chư hầu, huống chi nước Tấn ta lại chịu kém hay sao! Quan đại phu là Dương Thiệt Bật nói: - Làm bá chủ mà muốn cho chư hầu tâm phục thì cốt trọng ở điều nhân đức. Cái cung Chương Hoa là một điều dở của nước Sở, sao chúa công lại muốn bắt chước? Tấn Bình công không nghe liền lập một cái cung ở bên sông Phần, thuộc về địa giới Khúc Ốc, làm theo kiểu cung Chương Hoa nước Sở, to lớn không bằng, nhưng tinh xảo có phần hơn, đặt tên là Tư Kỳ Cung; cũng sai sứ đi triệu chư hầu. Các vua chư hầu nghe tin ấy, đều lấy làm chê cười, nhưng cũng phải sai sứ đến chúc mừng. Trịnh Giản công khi trước sang dự hội với Sở Linh Vương, chưa đến triều nước Tấn bao giờ; Vệ Linh công mới lên ngôi cũng chưa đến triều nước Tấn, bởi vậy hai vua ấy đều định nhân việc khánh thành Tư Kỳ Cung thì đến yết kiến Tấn Bình công một thể. Vệ Linh công đi đến sông Bộc Thủy, trời tối, nằm ngủ ở nhà quán xá. Đêm hôm ấy, nằm mãi không ngủ được, nghe văng vẳng có tiếng đàn cầm, liền khoác áo trở dậy, ngồi tựa gối mà nghe. Tiếng đàn ty tỷ rất nhỏ mà có thể nghe rõ được, xưa nay chưa có ai gảy được như thế! Vệ Linh công hỏi các người xung quanh thì đều tâu là không nghe có tiếng gì cả. Vệ Linh công vốn là người thích âm nhạc, có quan thái sư tên là Quyên, tinh nghề âm nhạc, Vệ Linh công yêu lắm, đi đâu cũng đem đi theo, bấy giờ sai người triệu sư Quyên (tức là quan thái sư mà tên là Quyên). Sư Quyên đến. Tiếng đàn vẫn chưa dứt, Vệ Linh công bảo Sư Quyên rằng: - Nhà ngươi thử lắng tai nghe, tựa hồ tiếng ma quỉ. Sư Quyên nghe một hồi lâu thì tiếng đàn im. Sư Quyên nói: - Tôi đã nhận được đại lược rồi. Nếu nghe thêm một đêm nữa thì tôi có thể gảy được. Vệ Linh công truyền ở lại thêm một hôm nữa. Nửa đêm hôm ấy, lại nghe có tiếng đàn. Sư Quyên lấy đàn cầm mà tập gảy theo, bắt chước được hết những cái thần diệu. Khi đến nước Tấn, triều kiến xong rồi, Tấn Bình công bày tiệc ở trên đài Tư Kỳ để thết đãi Vệ Linh công. Rượu đã ngà ngà say. Tấn Bình công nói với Vệ Linh công rằng: - Tôi vẫn nghe tiếng nước Vệ có Sư Quyên là người tinh nghề âm nhạc, chẳng hay nhà vua có cho theo đó không? Vệ Linh công nói: - Hiện đang đứng ở dưới đài. Tấn Bình công nói: - Cho gọi lên đây. Vệ Linh công bèn cho gọi Sư Quyên lên. Tấn Bình công cũng cho gọi Sư Khoáng. Người tướng giả tức khắc dắt Sư Khoáng đến. Sư Quyên và Sư Khoáng hai người chào nhau. Tấn Bình công cho Sư Khoáng ngồi rồi bảo Sư Quyên ngồi bên cạnh Sư Khoáng, Tấn Bình công hỏi Sư Quyên rằng: - Độ này có khúc âm nhạc nào mới không? Sư Quyên nói: - Mới rồi trong khi đi đường, tôi có được nghe một khúc đàn, xin cho tôi mượn cây đàn cầm để tôi gảy. Tấn Bình công sai người bắc ghế, đem một cây đàn cầm để ở trước mặt Sư Quyên. Sư Quyên lên dây gảy. Mới gảy được mấy tiếng, Tấn Bình công khen hay. Khi gảy đến nửa chừng, Sư Khoáng lấy tay gạt đi mà bảo rằng: - Thôi thôi, khúc nhạc vong quốc ấy chớ nên gảy! Tấn Bình công nói: - Tại sao biết? Sư Khoáng nói: - Về cuối đời nhà Ân, có sư Diên là quan coi âm nhạc, cùng với vua Trụ làm ra khúc My My, vua Trụ nghe lấy làm thích lắm, tức là khúc này. Đến khi vua Vũ Vương ta đánh vua Trụ, sư Diên ôm đàn chạy về phía đông, nhảy xuống sông Bộc Thủy. Từ bấy giờ có ai hiếu âm mà đi qua đấy thì lại có tiếng đàn văng vẳng ở dưới nước. Khúc này sư Quyên nghe được ở trong khi đi đường, tất là lại trên sông Bộc Thủy. Vệ Linh công nghĩ thầm lấy làm lạ. Tấn Bình công lại bảo Sư Khoáng rằng: - Đó là âm nhạc về đời trước, dẫu gảy nghe chơi, phỏng có hại gì! Sư Khoáng nói: - Vua Trụ vì mê khúc đàn ấy đến nỗi mất nước, đó là một sự bất tường, vậy nên chớ gảy. Tấn Bình công nói: - Ta thích nghe âm nhạc mới. Sư Quyên hãy vì ta gảy hết khúc đàn ấy. Sư Quyên lại lựa dây rồi gảy nốt khúc đàn ấy. Tiếng đàn êm ái, lên bổng xuống chìm, như than như khóc. Tấn Bình công bằng lòng hỏi Sư Khoáng rằng: - Khúc đàn này thuộc về điệu gì? Sư Khoáng nói: - Đó là điệu thanh thương. Tấn Bình công nói: - Điệu thanh thương mà nghe hay như thế à? Sư Khoáng nói: - Điệu thanh thương dẫu hay, cũng chưa bằng điệu thanh chủy. Tấn Bình công nói: - Nhà ngươi có thể gảy cho ta điệu thanh chủy được hay không? Sư Khoáng nói: - Không nên! Ông vua có đức mới được nghe điệu ấy, nay chúa công bạc đức, vậy không nên nghe. Tấn Bình công nói: - Ta thích nghe âm nhạc mới, nhà ngươi chớ nên chối từ. Sư Khoáng bất đắt dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy. Mới gảy một khúc, có một đàn chim hạc ở phương Nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được 8 đôi. Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên 8 con. Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vũ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời. Tấn Bình công vỗ tay mà khen. Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi, lấy làm sự lạ. Tấn Bình công truyền lấy chén bạch ngọc chi, rót đầy rượu vào, rồi đứng dậy cầm đưa cho Sư Khoáng. Sư Khoáng đỡ lấy uống. Tấn Bình công khen rằng: - Âm nhạc đến như điệu thanh chủy thì không còn gì hơn nữa! Sư Khoáng nói: - Còn chưa bằng điệu thanh dốc. Tấn Bình công ngạc nhiên mà rằng: - Lại có thứ hay hơn thanh chủy nữa à! Sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt. Sư Khoáng nói: - Điệu thanh dốc không như điệu thanh chủy, tôi không dám gảy. Ngày xưa vua Hoàng Đế hội các thần ở núi Thái Sơn rồi làm ra điệu thanh dốc; vua đời sau đức bạc, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người mới cách tuyệt nhau. Nếu bây giờ gảy khúc ấy thì các thần lại hiện xuống cả, không khéo thì có tai vạ. Tấn Bình công nói: - Ta nay đã già rồi, nếu được nghe điệu thanh dốc mà chết cũng thỏa lòng! Sư Khoáng nhất định chối từ không chịu gảy. Tấn Bình công đứng dậy, hai ba lần cố ý nài ép mãi. Sư Khoáng bất đắt dĩ lại phải ôm cầm mà gảy. Mới gảy một khúc, có đám mây đen ở phương Tây hiện lên; gảy khúc nữa thì bỗng nổi một cơn giông, bao nhiêu những ngói ở trên nóc điện bay tung lên và cột hiên gãy hết, lại thấy một tiếng sét thật to, rồi mưa như trút nước xuống. Dưới đài nước ngập mấy thước, còn trong đài chỗ nào cũng ướt cả. Tấn Bình công sợ hãi, cùng với Vệ Linh công nằm phục vào một nơi. Khi mưa gió đã im lặng rồi, các nội thị mới vực Tấn Bình công và Vệ Linh công ở trên đài xuống. Đêm hôm ấy, Tấn Bình công vì sợ mà thành bệnh, nằm mộng thấy một vật sắc vàng, to bằng cái bánh xe, lù lù đến trước mặt. Trông kỹ ra thì hình con ba ba, phía trước hai chân, phía sau có một chân, đi đến đâu thì nước tuôn ra đến đấy. Tấn Bình công kêu lên một tiếng, giật mình tỉnh dậy. Sáng hôm sau, các quan vào cung để vấn an. Tấn Bình công nói chuyện lại cho các quan nghe. Các quan đều không hiểu ra làm sao cả. Được một lúc, nghe báo có Trịnh Giản công đến, hiện đã ở ngoài nhà công quán. Tấn Bình công sai Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến. Dương Thiệt Bật mừng mà nói rằng: - Nếu vậy thì cái mộng của chúa công có thể đoán ra được. Các quan đều xúm lại hỏi cớ. Dương Thiệt Bật nói: - Quan đại phu nước Trịnh là Tử Sản (tên tự của công tôn Kiều) vốn người học rộng lắm, tất thế nào vua Trịnh cũng cho người ấy đi theo. Ta sẽ đem cái mộng của chúa công ta mà hỏi người ấy. Khi Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến Trịnh Giản công và nói cho Trịnh Giản công biết là vua Tấn có bệnh, không thể ra tiếp kiến được. Bấy giờ Vệ Linh công cũng vì sợ mà hơi mệt trong mình, mới cáo từ về nước. Trịnh Giản công cũng cáo từ xin về, cho công tôn Kiều ở lại, để thăm bệnh Tấn Bình công. Dương Thiệt Bật hỏi công tôn Kiều rằng: - Chúa công tôi nằm mộng thấy một vật hình như con ba ba, mình vàng mà ba chân, không hiểu là thế nào? Công tôn Kiều nói: - Ngày xưa vua Nghiêu sai ông Cổn đi trị thủy. Ông Cổn làm không được việc, vua Nghiêu mới chặt một chân mà đem đày ra Đông Hải. Cái linh hồn ông Cổn, hóa làm con rồng vàng. Từ khi con ông Cổn là vua Vũ lên nối ngôi, cho đến bây giờ vẫn cúng tế; nhà Chu suy đồi, quyền chính ở bá chủ, bá chủ nên giúp thiên tử để tế các thần. Hoặc giả vua Tấn bây giờ chưa tế thần ấy chăng. Dương Thiệt Bật đem lời công tôn Kiều tâu lại với Tấn Bình công. Tấn Bình công sai quan đại phu là Hàn Khởi đi tế thần Cổn, bấy giờ bệnh mới hơi bớt. Tấn Bình công khen công tôn Kiều rằng: - Tử Sản (tên tự của công tôn Kiều) thật là một người bác vật! Khi công tôn Kiều sắp về nước Trịnh, nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng: - Vua Tấn không biết thương dân, và bắt chước sự xa xỉ của nước Sở, thế là cái lòng nghĩ đã thiên đi rồi, nay lại có tật bệnh, còn cứu làm sao được nữa! Mới rồi, tôi nói chuyện thần Cổn là muốn mượn chuyện ấy để khiến cho vua Tấn được nguôi lòng đó mà thôi. Bấy giờ có người hành khách đang buổi sáng sớm đi qua đất Ngụy Du (đất nước Tấn), nghe ở dưới chân núi có tiếng mấy người họp nhau bàn việc nước Tấn; khi tới gần, nom kỹ chẳng thấy người nào cả, chỉ có hơn chục viên đá mà thôi. Đi khỏi rồi, lại nghe thấy như trước. Người ấy vội vàng ngoảnh cổ ngay lại thì ra tiếng nói ở trong viên đá mà ra, mới giật mình kinh sợ, rồi thuật chuyện lại cho thổ nhân ở đấy biết. Thổ nhân nói: - Chúng tôi nghe thấy đá nói đã mấy ngày nay rồi, chỉ vì chuyện quái dị nên không dám nói đến. Sau có nhiều người đồn thổi đến Giáng Đô (kinh thành nước Tấn). Tấn Bình công triệu Sư Khoáng đến mà hỏi rằng: - Tại sao người đá lại biết nói? Sư Khoáng tâu rằng: - Đó là việc quỉ thần xui khiến ra như vậy. Quỉ thần theo với lòng dân, dân có yên thì quỉ thần mới yên, nay chúa công sửa sang lâu đài, khiến cho dân tốn tiền hao sức, bởi thế mà đá biết nói. Tấn Bình công im lặng. Sư Khoáng cáo lui ra, bảo Dương Thiệt Bật rằng: - Thần và người đều oán giận cả thì chúa công không sống lâu được! Được hơn một tháng nữa, Tấn Bình công lại ốm nặng rồi chết. Các quan triều thần lập thế tử Di lên nối ngôi, tức là Tấn Chiêu công. Lại nói đến chuyện quan đại phu nước Tề là Cao Mại đuổi Cao Chỉ và giết Lư Khâu Anh, cả triều ai cũng không bằng lòng, đến đời con là Cao Cương nối cha làm chức đại phu, tuổi trẻ nghiện rượu, Loan Thi cũng nghiện rượu, bởi vậy hai người rất là tương đắc với nhau, mà không có ý thân thiết với Trần Vô Vũ và Bão Quốc. Trong bốn họ (Cao, Loan, Trần, Bão) ấy chia làm hai đảng. Họ Cao cùng họ Loan, mỗi khi uống rượu say, lại nói xấu họ Trần và họ Bão. Họ Trần và họ Bão biết chuyện, mới đem lòng nghi kỵ. Một hôm, Cao Cương nhân khi say rượu, đánh đứa tiểu thụ. Loan Thi đã không xin hộ, lại xúi thêm vào. Đứa tiểu thụ căm tức, đêm hôm ấy sang báo với Trần Vô Vũ rằng: - Họ Cao cùng họ Loan đang họp quân, để định đến sáng ngày mai thì sang đánh họ Trần và họ Bão. Đứa tiểu thụ nói xong, lại sang báo với Bão Quốc. Bão Quốc tin lời, vội vàng sai tiểu thụ đến ước với Trần Vô Vũ để cùng đánh họ Cao và họ Loan. Trần Vô Vũ tức khắc đem quân định sang nhà Bão Quốc. Đi đến nửa đường, gặp Cao Cương đang đi xe. Cao Cương đã ngà ngà say, ngồi trên xe chắp tay vái chào Trần Vô Vũ và hỏi rằng: - Ngài đem quân đi đâu đấy? Trần Vô Vũ trả lời rằng: - Tôi định đi đánh một đứa đầy tớ làm phản. Trần Vô Vũ lại hỏi Cao Cương rằng: - Ngài định đi đâu? - Tôi định sang uống rượu với họ Loan. Trần Vô Vũ từ biệt Cao Cương, rồi thẳng tới nhà Bão Quốc, đã thấy Bão Quốc đang họp quân để sắp đi. Trần Vô Vũ thuật lại lời Cao Cương cho Bão Quốc nghe và nói với Bão Quốc rằng: - Không biết hắn có sang uống rượu với họ Loan thật hay không? Âu ta thử sai người đi dó thám. Bão Quốc sai người sang dò thám nhà họ Loan. Người nhà về báo rằng: - Họ Cao và họ Loan đang cởi hết cả áo mũ ra, rồi cùng nhau ngồi xổm uống rượu. Bão Quốc nói: - Nếu vậy thì đứa tiểu thụ nói càn rồi! Trần Vô Vũ nói: - Đứa tiểu thụ dẫu nói càn, nhưng Cao Cương gặp ta ở giữa đường, thấy ta đem quân đi, có hỏi ta đi đâu thì ta trả lời là đi đánh đứa đầy tớ làm phản. Nay Cao Cương thấy ta không đánh ai cả, tất sinh lòng nghi, hoặc lập mưu mà đuổi ta trước thì bấy giờ ta hối lại sao kịp, chi bằng ta nhân hắn lúc uống rượu say này mà đánh trước đi là hơn. Bão Quốc khen phải, tức khắc cùng với Trần Vô Vũ đem quân đến nhà Loan Thi, vây kín cả bốn mặt. Loan Thi đang cầm chén rượu sắp uống, nghe tin họ Trần và họ Bão đem quân đến vây, giật mình kinh sợ, đánh rơi chén rượu xuống đất. Cao Cương dẫu say rượu, nhưng còn có định kiến, bảo Loan Thi rằng: - Chúng ta vào triều, phụng mệnh chúa công để đi đánh họ Trần và họ Bão thì tất phải được. Loan Thi tức khắc cùng với Cao Cương đem quân mở cửa sau, phá vòng vây chạy vào tới cung môn. Trần Vô Vũ và Bão Quốc đem quân đuổi theo. Tề Cảnh công ở trong cung, thấy bốn họ đem quân kéo đến, không biết là việc gì, vội vàng truyền cho quân sĩ đóng chặt cửa Hổ Môn lại. Cao Cương và Loan Thi không vào được mới đóng quân ở bên hữu Hổ Môn. Trần Vô Vũ và Bão Quốc cũng đóng bên tả. Hai bên cùng chống giữ nhau. Được một lúc thì Án Anh đi xe đến. Bốn họ đều sai người gọi. Án Anh không ngoảnh lại mà nói rằng: - Tôi chỉ biết theo mệnh vua, không dám có ý riêng với ai cả. Quân sĩ mở cửa cho Án Anh vào yết kiến Tề Cảnh công. Tề Cảnh công nói rằng: - Nay bốn họ cùng đánh nhau, đem quân đến đây ta nên xử ra thế nào? Án Anh nói: - Họ Cao và họ Loan chuyên quyền cậy thế, kể đã lâu ngày, đuổi Cao Chỉ, giết Lư Khâu Anh, khiến cho người trong nước ai cũng tức giận nay lại đem quân tiến vào Hổ Môn, tội ấy không thể tha được; còn họ Trần và họ Bão chưa phụng mệnh vua mà dám đem quân đến đây, cũng không phải là vô tội, xin chúa công định liệu. Tề Cảnh công nói: - Cái tội của họ Cao, họ Loan nặng hơn họ Trần, họ Bão, nên ta trừ họ Cao, họ Loan đi. Nhưng bây giờ biết sai ai cho được? Án Anh nói: - Quan đại phu là Vương Hắc có thể sai được. Tề Cảnh công truyền cho Vương Hắc đem quân giúp họ Trần cùng họ Bão, để đánh họ Cao và họ Loan. Cao Cương và Loan Thi bị thua chạy ra Đại Cù. Người trong nước ghét Cao Cương và Loan Thi đều xúm lại đánh. Cao Cương vẫn chưa tỉnh rượu, không thể địch nổi. Loan Thi chạy ra Đông Môn. Cao Cương cũng chạy theo, Vương Hắc cùng với họ Trần và họ Bão đuổi kịp đến nơi, lại cùng nhau giao chiến ở Đông Môn. Quân Cao Cương và Loan Thi bỏ chạy tán loạn cả. Cao Cương và Loan Thi trốn sang nước Lỗ. Trần Vô Vũ cùng với Bão Quốc đuổi hết họ Cao và họ Loan đi, rồi chiếm lấy gia sản. Án Anh bảo Trần Vô Vũ rằng: - Nhà ngươi tự tiện đuổi kẻ thế thần mà lại chiếm lấy tài lợi thì thế nào người ta cũng chê cười nhà ngươi, sao nhà ngươi không biết đem những tài lợi ấy mà nộp cho công khố, có phải ai cũng bảo nhà ngươi là người có nhượng đức, sẽ có ích cho nhà ngươi về sau này nhiều lắm. Trần Vô Vũ nói: - Đa tạ cái lời ngài chỉ giáo, tôi xin vâng mệnh. Trần Vô Vũ liền đem những gia sản về phần mình chiếm được của họ Cao và họ Loan biên vào quyển sổ, đem dâng Tề Cảnh công. Tề Cảnh công bằng lòng. Trần Vô Vũ lại có đồ lễ vật riêng đem dâng bà Mạnh Cơ là thân mẫu Tề Cảnh công. Bà Mạnh Cơ nói với Tề Cảnh công rằng: - Trần Vô Vũ trừ bỏ kẻ quyền thần để khiến cho nước nhà được cường thịnh, mà bao nhiêu tài lợi, lại nộp vào công khố cả. Cái nhượng đức thật là đáng khen! Sao không đem đất Cao Đường mà phong cho hắn. Tề Cảnh công theo lời. Họ Trần từ bấy giờ mới giàu. Trần Vô Vũ có ý muốn cho người ta khen mình, mới nói với Tề Cảnh công, xin triệu các công tử về, vì các công tử khi trước bị Cao Mại đuổi, thật là vô tội. Tề Cảnh công nghe lời. Trần Công tử sai người đi triệu các công tử về mà bao nhiêu áo mặc và đồ dùng của các công tử, Trần Vô Vũ xuất của nhà ra để cung đốn cả. Các công tử thấy vậy cảm tạ vô cùng. Trần Vô Vũ lại thi ân với họ nhà vua, phàm các công tử, công tôn người nào không có lương, đều xuất của nhà mà chu cấp cho. Những người nghèo khổ trong nước đến vay thóc, lúc cho vay thì đong đấu lớn, lúc đem trả thì đem đấu nhỏ; người nào cùng quá, không thể trả được thì đốt văn tự đi. Bởi vậy người trong nước ai cũng ca tụng cái lòng nhân đức của Trần Vô Vũ. Tề Cảnh công dùng Án Anh làm tướng quốc. Án Anh đều thấy lòng dân đều mến phục họ Trần, thường nói riêng với Tề Cảnh công và khuyên Tề Cảnh công phải mở lòng làm ơn với dân thì mới thu được nhân tâm, nhưng Tề Cảnh công không biết theo. Lại nói chuyện Sở Linh Vương khánh thành cung Chương Hoa, các vua chư hầu đến ít lắm, sau nghe nói nước Tấn khánh thành cung Tư Kỳ, chư hầu đều đến đông cả, mới có ý bất bình, triệu Ngũ Cử vào để thương nghị, muốn cất quân sang đánh trung nguyên. Ngũ Cử nói: - Đại vương lấy nghĩa lý triệu chư hầu, nếu chư hầu không đến thì mới nên trách, chứ lấy việc thổ mộc triệu chư hầu, mà trách rằng chư hầu không đến thì sao cho người ta phục. Nay đại vương muốn đánh trung nguyên, nên tìm kẻ nào có tội mà đánh thì mới khỏi mang tiếng. Sở Linh Vương nói: - Ngày nay nước nào là nước có tội mà nên đánh? Ngũ Cử nói: - Thế tử Ban nước Sái giết cha mà cướp lấy ngôi vua, đến nay đã 9 năm. Lúc đại vương mới hội chư hầu, vua Sái có đến dự hội, bởi vậy ẩn nhẫn mà không giết, nhưng những đứa loạn tặc, dẫu đến con cháu vẫn không khỏi tội, huống chi là đang đời mình. Nước Sái lại tiếp giáp với nước Sở ta, nếu đánh Sái mà chiếm lấy đất thì điều nghĩa và điều lợi, được trọn cả đôi đường. Ngũ Cử nói vừa dứt lời thì có tin báo Trần Ai công (Nịch) chết, con là công tử Lưu lên nối ngôi. Ngũ Cử nói với Sở Linh Vương rằng: - Thề tử Yển Sư nước Trần có tên trong sổ chư hầu, sao ngày nay lập công tử Lưu. Nếu vậy thì thế tử Yển Sư bây giờ để đâu! Cứ như ý tôi nghĩ thì tất là nước Trần lại có biến loạn.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
Trả lời qua Facebook
Loading...