Đông Chu Liệt Quốc - Phùng Mộng Long

Discussion in 'Văn Học' started by Phan Kim Tiên, Dec 9, 2021.

  1. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 40 Tiên Trẩn lập kế lừa Đắc Thần Tấn Sở giao binh tại Thành Bộc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Triệu Thôi phụng mệnh Tấn Văn công đến thăm bệnh Ngụy Thù. Bấy giờ Ngụy Thù còn vết thương nặng ở ngực, vẫn nằm trên giường, chưa trở dậy được, nghe báo có quan đến thăm, liền hỏi người nhà rằng: - Cả thảy mấy người đến? Người nhà nói: - Chỉ có một mình quan Tư mã là Triệu Thôi. Ngụy Thù nói: - Hắn định đến dò xem ta có sống được hay không, nếu bệnh không sống được thì tất đem ta ra để trị tội. Nói xong, liền sai người nhà lấy lụa bó kín ngực lại, để định ra tiếp kiến Triệu Thôi. Người nhà nói: - Tướng quân đau nặng lắm, không nên cử động vội. Ngụy Thù quát to lên rằng: - Bệnh ta không đến nỗi chết, các ngươi chớ nói càn! Nói xong, liền đứng dậy, mũ áo chỉnh tề ra tiếp kiến Triệu Thôi. Triệu Thôi hỏi: - Nghe nói tướng quân bị thương nặng lắm, Chúa công có sai tôi đến hỏi thăm. Ngụy Thù nói: - Bởi có quân mệnh, nên tôi phải miễn cưỡng ra đây. Tôi cũng tự biết mình là tội đáng chết, nhưng may mà Chúa công ân xá cho tôi thì cái thân sống thừa này xin hết sức để báo đáp. Ngụy Thù lại nhảy lên mấy lần, để tỏ cho Triệu Thôi biết là sức mình còn mạnh. Triệu Thôi nói: - Tướng quân cứ yên lòng mà cố chăm chỉ thuốc men cho chóng khỏe, rồi tôi xin tâu lại với Chúa công. Triệu Thôi về tâu với Tấn Văn công rằng: - Ngụy Thù dẫu bị thương, nhưng gân sức còn mạnh lắm. Vả lại vẫn biết giữ phép làm tôi, nếu Chúa công tha cho thì sau này tất cũng dùng được việc. Tấn Văn công nói: - Nếu tha mà không trái với pháp luật thì ta có muốn giết làm gì! Được một lúc, Tuân Lâm Phủ đưa Điên Hiệt đến. Tấn Văn công mắng rằng: - Vì cớ gì mà nhà ngươi dám đốt nhà Hi Phụ Cơ? Điên Hiệt nói: - Giới Tử Thôi cắt thịt đùi để dâng Chúa công mà cũng bị chết cháy, huống chi là một bữa cơm của Hi Phụ Cơ. Tôi đốt như vậy là muốn cho Hi Phụ Cơ được phối hưởng ở đền thờ Giới Tử Thôi đó. Tấn Văn công nổi giận, nói: - Giới Tử Thôi chết cháy, có phải là lỗi tại ta đâu! Nói xong, liền ngoảnh lại hỏi Triệu Thôi rằng: - Điên Hiệt làm trái phép mà đốt nhà Hi Phụ Cơ thì nên bắt tội gì? Triệu Thôi nói: - Cứ theo pháp luật thì nên bắt tội chết. Tấn Văn công truyền đem Điên Hiệt ra chém, để làm lễ tế Hi Phụ Cơ, rồi bêu đầu ra Bắc môn mà yết thị rằng: - Từ nay ai làm trái phép thì nom vào đấy! Tấn Văn công lại hỏi Triệu Thôi rằng: - Ngụy Thù cùng đi với Điên Hiệt mà không biết can ngăn, nay nên bắt tội gì? Triệu Thôi nói: - Nên cách chức đi, và bắt phải lập công để chuộc tội. Tấn Văn công lại cách chức Ngụy Thù, cho Chu Chi Kiều thay. Các tướng sĩ thấy vậy, đều bảo nhau rằng: - Ngụy Thù và Điên Hiệt có công tòng vong khó nhọc trong 19 năm trời, nay làm trái phép mà cũng người thì bị giết, người thì bị cách chức, huống chi là kẻ khác! Thế mới thật là phép nước không riêng ai cả, chúng ta nên cẩn thận mới được. Từ bấy giờ các tướng sĩ đều biết giữ phép. Lại nói chuyện Sở Thành Vương đi đánh Tống, chiếm được đất Mân Ấp, đang đem quân vây đất Hoài Dương, định làm cho nước Tống khốn quẫn để phải đầu hàng, bỗng nghe báo có sứ thần nước Vệ là Tôn Viêm đến cáo cấp. Sở Thành Vương triệu vào hỏi. Tôn Viêm nói lại cho Sở Thành Vương nghe những chuyện nước Tấn đã chiếm mất đất Ngũ Lộc rồi, và vua nước Vệ phải chạy ra ở đất Tương Ngưu, nếu nước Sở không đem quân đến cứu thì thành Sở Khâu cũng khó lòng mà giữ nổi. Sở Thành Vương liền chia quân ra làm hai đạo, cho Thành Đắc Thần cùng các vua chư hầu ở lại vây Tống, còn mình thì đem quân đi cứu Vệ. Các vua chư hầu cũng đều lo trong nước có biến, cáo từ về cả, mỗi nước cho một viên đại tướng ở lại. Tướng nước Trần là Viên Tuyển, tướng nước Sái là Công tử An, tướng nước Trịnh là Thạch Quý, tướng nước Hứa là Bách Trù đều phải theo lệnh tướng nước Sở là Thành Đắc Thần cả. Sở Thành Vương đi đến nửa đường, nghe tin quân Tấn đã kéo sang đánh Tào, toan sang cứu Tào thì lại nghe tin quân Tần đã phá vỡ nước Tào, vua Tào đã bị bắt rồi. Sở Thành Vương giật mình kinh sợ mà nói rằng: - Nước Tấn dùng quân sao mà thần tốc như vậy! Sở Thành Vương liền đóng quân lại ở Thân Thành, sai người sang Cốc Địa gọi Công tử Ung và Dịch Nha về, rồi đem Cốc Địa giao trả nước Tề, mà cùng với Tề giảng hòa; lại sai người sang nước Tống, rút quân của Thành Đắc Thần về và bảo Thành Đắc Thần rằng: - Vua nước Tấn lưu lạc ở các nước ngoài trong 19 năm trời, nay tuổi ngoại 6 tuần mới về làm vua nước Tấn, bao nhiêu những dân tình thế cố đã từng trải nhiều lắm, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến, để làm cho nước Tấn được cường thịnh, ta khó lòng mà địch nổi, chi bằng ta hãy chịu nhường. Thành Đắc Thần cậy tài, nghe lệnh Sở Thành Vương, có ý căm tức, bảo các tướng rằng: - Quân ta chẳng bao lâu nữa thì phá vỡ kinh thành nước Tống, can gì mà bỏ! Thành Đắc Thần sai Đấu Việt Tiên đến nói với Sở Thành Vương rằng: - Xin chờ ít lâu để phá vỡ nước Tống, bấy giờ sẽ rút quân trở về, nhược bằng có gặp quân Tấn thì xin hết sức cố đánh, nếu đánh không được, xin chịu tội chết. Sở Thành Vương sai người gọi Tử Văn đến mà hỏi rằng: - Ta cho người triệu Thành Đắc Thần về, mà Thành Đắc Thần cố ý xin đánh, nhà ngươi nghĩ thế nào? Tử Văn nói: - Nước Tấn đem quân cứu Tống là muốn làm bá chủ, nhưng Tấn làm bá chủ thì tất nước Sở ta không lợi. Nay chỉ có nước Sở ta là đối địch nổi với Tấn, nếu ta nhường Tấn thì Tấn làm được bá chủ. Vả Tào và Vệ xưa nay vẫn giao hiếu với ta, thấy ta nhường Tấn, tất cũng theo Tấn. Bây giờ Chúa công hãy cho Thành Đắc Thần đóng quân ở đấy để khiến Tào và Vệ đều được vững lòng, chẳng cũng nên lắm sao! Nhưng Chúa công nên dặn Thành Đắc Thần phải cẩn thận, chớ nên khinh thường mà đánh nhau với Tấn; nếu bất đắc dĩ thì cùng Tấn giảng hòa để chia nhau nam bắc, còn không đến nỗi mất thể diện. Sở Thành Vương theo lời, dặn Đấu Việt Tiên về bảo Thành Đắc Thần rằng: - Chớ có khinh thường mà đánh nhau với Tấn, nếu Tấn cho giảng hòa thì nên giảng hòa. Thành Đắc Thần được tin Đấu Việt Tiên về nói, mừng thầm Sở Thành Vương không rút quân ngay, liền ngày đêm đánh Tống gấp lắm! Tống Thành công lúc trước thấy Công Tôn Cố về nói rằng vua Tấn sắp đem quân đi đánh Tào và Vệ để giải vây cho Tống, liền cố sức chống giữ. Sau thấy Thành Đắc Thần đánh gấp lắm cũng có ý lo sợ. Quan đại phu là Môn Doãn Ban nói với Tống Thành công rằng: - Vua Tấn chỉ biết đem quân đi đánh Tào và Vệ để cứu Tống, mà không biết rằng quân Sở vẫn đánh Tống gấp như thế này! Tôi xin liều chết trèo qua thành ra mà đến nói với vua Tấn. Tống Thành công nói: - Mình cầu người ta đến hai lần mà chỉ nói miệng không thì sao cho phải! Tống Thành công làm một quyển sổ biên những đồ bảo ngọc trong kho, đem dâng Tấn Văn công, hẹn khi nào lui được quân Sở rồi thì chiếu theo trong quyển sổ ấy mà đệ nạp. Môn Doãn Ban xin cho một người nữa đi theo. Tống Thành công cử Hoa Tú Lão cùng đi. Hai người từ biệt Tống Thành công, rồi trèo qua thành lẻn ra, để tìm đến đại dinh Tấn Văn công. Môn Doãn Ban và Hoa Tú Lão vào yết kiến Tấn Văn công, khóc mà nói rằng: - Nước Tống tôi chẳng còn mấy ngày nữa mà mất! Vậy Chúa công tôi sai chúng tôi đem một quyển sổ có biên những lễ vật nhỏ mọn này để dâng quý quốc, xin quý quốc thương tình mà đến cứu cho. Tấn Văn công bảo Tiên Trẩn rằng: - Việc nước Tống gấp lắm, nếu không đi cứu thì còn chi là Tống, mà nếu đi cứu thì tất phải đánh nhau với Sở. Ngày trước Khước Cốc đã bàn với ta rằng tất phải họp sức Tề với Tần thì mới kiềm chế nổi nước Sở, nay nước Sở giảng hòa với Tề, trả lại đất Cốc Địa; còn nước Tần thì lại không có hiềm khích gì với Sở cả, ta biết làm thế nào? Tiên Trẩn nói: - Tôi có một kế khiến cho Tề và Tần tự khắc phải đem quân đánh Sở. Tấn Văn công mừng lắm, hỏi: - Nhà ngươi có kế gì mà diệu như vậy? Tiên Trẩn nói: - Nước Tống lễ ta, kể cũng là hậu nhưng ta nhận lễ mà mới đi cứu thì gọi là nghĩa; chi bằng ta từ chối đi là hơn, khiến cho Tống đem những đồ lễ vật ấy mà chia biếu Tề và Tần, để Tề và Tần nói hộ với nước Sở. Khi Tề và Tần sai sứ đến nói với Sở mà nước Sở không theo, bấy giờ tất nhiên Tề, Tần phải sinh lòng hiềm khích với nước Sở. Tấn Văn công nói: - Giả sử Tề và Tần nói mà nước Sở nghe thì tất Tề và Tần phải bắt nước Tống thần phục nước Sở, ta còn ích gì? Tiên Trẩn nói: - Tôi lại có một kế khiến cho nước Sở không theo lời nước Tề và nước Tần được. Tấn Văn công nói: - Kế gì? Tiên Trẩn nói: - Nước Sở yêu Tào, Vệ mà ghét Tống. Nay ta đã đuổi vua nước Vệ, bắt vua nước Tào thì thổ địa của hai nước ấy đều ở trong tay ta, mà hai nước ấy lại tiếp giáp với nước Tống. Nếu ta đem thổ địa hai nước ấy cho Tống thì Sở lại càng ghét Tống lắm; Tề và Tần nói hộ, chắc Sở cũng không nghe nào! Khi bấy giờ Tề và Tần thương Tống mà giận Sở, tài nào không phải kết liên với nước Tấn ta. Tấn Văn công vỗ tay mà khen phải, rồi bảo Môn Doãn Ban biên các đồ bảo ngọc làm hai quyển sổ để đem biếu Tề và Tần. Môn Doãn Ban đi sứ Tần. Hoa Tú Lão đi sứ Tề. Hai người đã bàn định nhau những cách thương thuyết với Tần và Tề, cần phải khẩn thiết lắm mới được. Khi Hoa Tú Lão đến nước Tề, nói với Tề Chiêu công rằng: - Tần và Sở nay đang kình địch với nhau, cái nạn binh qua ấy tất phải nhờ quý quốc thì mới phân giải được. Nếu quý quốc có lòng giúp cho nước tôi thì chẳng những là nước tôi không dám tiếc các đồ bảo vật ngọc, mà từ rày trở đi, xin mỗi năm một lần cống hiến, không bao giờ dám thôi. Tề Chiêu công hỏi rằng: - Hiện bây giờ vua Sở đóng ở đâu? Hoa Tú Lão nói: - Vua Sở cũng muốn giải vây cho nước tôi, đã rút quân về đóng ở Thân Thành rồi, chỉ vì quan Lệnh doãn nước Sở là Thành Đắc Thần mới lên cầm quyền chính, vậy nên muốn lập công mà không chịu rút quân. Tề Chiêu công nói: - Vua Sở ngày trước lấy đất Cốc Địa của ta, nay lại giao trả mà cùng ta giảng hòa, vậy thì vua Sở cũng không có ý tham muốn; còn Thành Đắc Thần đã không chịu rút quân, để ta sai sứ đến nói giúp cho. Tề Chiêu công liền sai Thôi Yển sang nước Tống để nói với Thành Đắc Thần. Môn Doãn Ban đến nước Tần, cũng nói với Tần Mục công theo như lời Hoa Tú Lão. Tần Mục công cũng sai Công tử Trí đến nói với Thành Đắc Thần. Môn Doãn Ban và Hoa Tú Lão lại trở về đại dinh Tấn Văn công. Tấn Văn công bảo Môn Doãn Ban và Hoa Tú Lão rằng: - Ta đã diệt được nước Tào và nước Vệ, bao nhiêu những ruộng đất tiếp giáp nước Tống, ta xin để biếu nước Tống. Nói xong, liền sai Hồ Yển đưa Môn Doãn Ban đi nhận lấy ruộng đất nước Vệ, và Tư Thần đưa Hoa Tú Lão đi nhận lấy ruộng đất nước Tào. Các quan trấn thủ ở nước Tào và nước Vệ đều bị đuổi cả. Thôi Yển (sứ nước Tề) và Công tử Trì (sứ nước Tần) đang thương thuyết với Thành Đắc Thần, xin cho nước Tống được giảng hòa, bỗng thấy các quan trấn thủ ở nước Tào và nước Vệ kéo nhau đến, nói với Thành Đắc Thần rằng: - Quan Đại phu nước Tống là Môn Doãn Ban và Hoa Tú Lão cậy thế nước Tào đem quân sang chiếm cứ lấy ruộng đất của nước chúng tôi. Thành Đắc Thần nổi giận, bảo Thôi Yển và Công tử Trí rằng: - Người nước Tống ức hiếp nước Tào và nước Vệ như vậy, sao các ngài lại xin cho nước Tống giảng hòa, việc ấy tôi không dám vâng mệnh. Thôi Yển và Công tử Trí chán quá, tức khắc cáo từ lui về. Tấn Văn công nghe tin Thành Đắc Thần không theo lời Thôi Yển và Công tử Trí về chốn đại dinh rồi, bày tiệc để thết đãi. Trong khi dự tiệc, Tấn Văn công nói với Thôi Yển và Công tử Trí rằng: - Thành Đắc Thần kiêu ngạo vô lễ, nay sắp sửa giao chiến với nước tôi, xin hai quý quốc đem quân đến giúp cho. Thôi Yển và Công tử Trí nhận lời, rồi cáo từ về nước. Thành Đắc Thần họp các tướng sĩ lại mà thề rằng: - Nếu ta không lấy lại được nước Tào và nước Vệ thì dẫu chết cũng không chịu lui quân. Tướng nước Sở là Uyển Xuân nói với Thành Đắc Thần rằng: - Tôi có một kế khiến cho không phải giao chiến mà lấy lại được nước Tào và nước Vệ. Thành Đắc Thần hỏi: - Nhà ngươi có kế gì? Uyển Xuân nói: - Nước Tấn đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, đều là vì nước Tống cả; nay Nguyên soái nên sai sứ đến nói với vua Tấn xin giảng hòa; hễ nước Tấn trả lại đất nước Tào và nước Vệ thì ta cũng giải vây cho nước Tống. Hai bên cùng rút quân trở về, chẳng cũng hay lắm sao! Thành Đắc Thần nói: - Giả sử nước Tấn không nghe thì biết làm thế nào? Uyển Xuân nói: - Nguyên soái nên bảo rõ cho người nước Tống rằng ta sắp thương thuyết để giảng hòa với Tấn mà giải vây cho Tống, vì nước Tống đang mong giải vây, khác nào như một kẻ bị tréo ngược mà mong người đến cởi; nếu vua Tấn không nghe lời thì chẳng những hai nước Tào và Vệ oán Tấn mà thôi, cả Tống cũng oán Tấn nữa. Bấy giờ ta họp ba nước oán Tấn ấy mà đánh một nước Tấn thì ta tất phải được. Thành Đắc Thần nói: - Nay ai là người dám sang thương thuyết với quân Tấn? Uyển Xuân nói: - Nếu Nguyên soái sai tôi thì tôi xin vâng mệnh. Thành Đắc Thần liền hoãn binh không đánh Tống vội, rồi sai Uyển Xuân sang thương thuyết với Tấn Văn công. Uyển Xuân đến đại dinh quân Tấn, vào nói với Tấn Văn công rằng: - Kẻ ngoại thần của Chúa công tôi là Thành Đắc Thần có lời nói với Chúa công rằng: - Tào và Vệ của nước Sở tôi, khác nào như nước Tống của quý quốc, nếu quý quốc trả lại đất cho Tào và Vệ thì nước tôi cũng xin giải vây cho Tống, hai bên cùng giảng hòa với nhau, khiến cho nhân dân khỏi phải lầm than khổ sở. Uyển Xuân nói chưa dứt lời thì Hồ Yển đứng ở bên cạnh, hầm hầm nổi giận mà mắng rằng: - Thành Đắc Thần nói vô lý quá! Định bỏ một nước Tống chưa lấy được mà đòi hai nước (Tào và Vệ) của ta đã lấy được rồi thì sao cho phải. Tiên Trẩn vội vàng ra hiệu giẫm vào chân Hồ Yển mà bảo Uyển Xuân rằng: - Kể tội nước Tào và nước Vệ cũng không đến nỗi đáng phải tuyệt diệt, Chúa công tôi vẫn muốn trả lại cho. Xin nhà ngươi hãy tạm nghỉ lại ở hậu dinh, để Chúa công tôi còn phải thương nghị xem nên thế nào là phải? Loan Chi liền đưa Uyển Xuân vào nghỉ ở hậu dinh. Hồ Yển hỏi Tiên Trẩn rằng: - Nguyên soái định nghe lời Uyển Xuân hay sao? Tiên Trẩn nói: - Lời xin của Uyển Xuân không nên nghe, mà cũng không nên không nghe. Hồ Yển nói: - Tại sao thế? Tiên Trẩn nói: - Uyển Xuân đến đây là bởi mưu kế của Thành Đắc Thần, muốn mua ơn với Tống mà đổ oán cho nước Tấn ta đó. Ta không nghe thì Tào, Vệ và Tống đều oán ta cả, mà ta chịu nghe thì nước Sở được ơn, chi bằng ta giảng hòa riêng với Tào và Vệ, để phân rẽ cái đảng ấy ra; lại bắt giam Uyển Xuân, làm cho Thành Đắc Thần phải tức giận mà đem quân sang đánh ta thì tự khắc thành ra giải vây cho nước Tống được. Nếu không dùng kế ấy Thành Đắc Thần giảng hòa riêng với Tống, tất nhiên Tống lại về bè với Sở mà bỏ ta. Tấn Văn công nói với Tiên Trẩn rằng: - Nguyên soái nghĩ phải lắm! Nhưng ngày trước ta có chịu ơn vua Sở, mà nay lại bắt giam sứ thần nước Sở thì còn ra thế nào. Loan Chi nói: - Vua Sở hà hiếp nước nhỏ, khinh bỉ nước lớn, nay Chúa công không muốn làm bá chủ thì thôi, nếu muốn làm bá chủ mà để cho vua Sở như vậy thì tất là một điều đáng xấu hổ. Chúa công chớ nên nghĩ một cái ơn riêng nhỏ mọn làm gì! Tấn Văn công khen phải, liền sai Loan Chi bắt giam Uyển Xuân ở đất Ngũ Lộc, giao cho quan trấn thủ ở đấy là Khước Bộ Dương phải gia tâm quản cố. Còn bao nhiêu những người theo hầu Uyển Xuân đều đuổi về cả, để khiến chúng truyền nói cho Thành Đắc Thần biết rằng: - Uyển Xuân vô lễ, đã bị nước Tấn bắt giam rồi, đợi khi nào bắt được Lệnh Doãn, sẽ giết một thể. Các người theo hầu Uyển Xuân đều len lét cúi đầu cáo từ trở về, để báo tin cho Thành Đắc Thần biết. Tấn Văn công bắt giam Uyển Xuân rồi, lại sai người bảo Tào Cung công rằng: - Chúa công tôi không phải là vì một điều hiềm nhỏ ngày xưa mà bẻ lỗi nhà vua đâu, chẳng qua chỉ vì nhà vua thần phục nước Sở đó mà thôi. Nay nhà vua sai người đưa thư sang tuyệt giao với Sở thì Chúa công tôi tức khắc trả lại nước Tào cho nhà vua. Tào Cung công đang mong được tha, liền viết ngay một bức thư đưa sang cho Thành Đắc Thần. Thư rằng: "Tôi sợ xã tắc nước tôi bị tàn phá, bất đắc dĩ phải thần phục nước Tần, không thể giao thông với quý quốc được nữa; nếu quý quốc trừ được nước Tấn, để giữ yên cho nước tôi thì có đâu nước tôi lại dám đổi lòng". Tấn Văn công lại sai người đến đất Tương Ngưu, bảo Vệ Thành công tuyệt giao với Sở thì trả lại nước cho Vệ. Vệ Thành công mừng lắm. Quan Đại phu nước Vệ là Ninh Du can rằng: - Đó là cái kế phản gián của nước Tấn, Chúa công chớ nên theo. Vệ Thành công không nghe lời Ninh Du, liền đưa thư tuyệt giao cho Thành Đắc Thần. Trong thư cũng nói như lời của Tào Cung công. Thành Đắc Thần nghe tin Uyển Xuân bị bắt, có ý căm tức mà nói rằng: - Trùng Nhĩ (tên Tấn Văn công) thật là một đứa lão tặc, quên ơn phụ nghĩa! Khi trước trốn sang nước ta, khác nào như con cá nằm trên mặt thớt, nay về làm vua, lại dám bắt giam sứ thần nước ta, để phen này ta thân hành đến mà nói rõ cho hắn biết. Thành Đắc Thần đang hầm hầm nổi giận, bỗng có quan báo rằng: - Nước Tào và nước Vệ có đưa thư đệ trình Nguyên soái. Thành Đắc Thần nghĩ thầm trong bụng rằng Tào và Vệ đang lúc khốn khổ này, còn có việc gì mà đưa thư cho ta nữa, hay là có do thám được tình hình nước Tấn mà định bảo riêng ta điều gì chăng, ấy là trời giúp cho ta được thành công đó. Đến lúc mở thư ra xem, mới biết Tào và Vệ tuyệt giao với Sở, lại càng căm tức vô cùng, quát to lên rằng: - Lão tặc Trùng Nhĩ kia! Hai bức thơ này chính là đứa lão tặc ức hiếp người ta phải viết đây! Nay ta hãy giải vây nước Tống, rút quân sang đánh Tấn; khi đã phá được quân Tấn rồi thì còn nước Tống suy yếu này tránh đàng nào cho thoát. Đấu Việt Tiêu nói: - Đại Vương khi trước đã có dặn nguyên soái không nên đánh nhau với Tấn, nếu Nguyên soái muốn đánh, phải bẩm mệnh Đại vương mới được. Vả Tề và Tần căm tức Nguyên soái không nghe lời giải vây cho Tống tất nhiên ngày nay đem quân giúp Tấn, vậy thì nước ta dẫu có Trần, Sái, Trịnh và Hứa giúp vào, nhưng địch lại với Tề và Tần sao nổi. Nguyên soái nên tâu với Đại vương, xin thêm quân rồi sẽ đi đánh. Thành Đắc Thần nói: - Nhà ngươi đi hộ ta, nên phải nhanh chóng mới được! Đấu Việt Tiêu phụng mệnh Thành Đắc Thần đến đất Thân Ấp nói với Sở Thành Vương xin thêm quân. Sở Thành Vương nổi giận, nói: - Ta đã dặn rằng chớ nên khinh thường đánh nhau với Tấn, nay Thành Đắc Thần lại cố xin ra đánh, phỏng có chắc được hay không? Đấu Việt Tiêu nói: - Thành Đắc Thần đã có nói: Nếu đánh không được, xin chịu tội chết. Sở Thành Vương vẫn không bằng lòng, chỉ sai Đấu Nghi Thân đem có bốn nghìn quân đi giúp Thành Đắc Thần mà thôi. Con Thành Đắc Thần là Thành Đại Tâm cũng xin đem quân đi đánh. Sở Thành Vương thuận cho. Đấu Nghi Thân cùng với Đấu Việt Tiêu đem quân đến nước Tống. Thành Đắc Thần trông thấy quân ít, không bằng lòng mà nói rằng: - Dẫu không thêm quân, ta cũng quyết đánh được Tấn! Nói xong, họp quân 4 nước chư hầu cùng đi đánh Tấn. Tấn Văn công họp các tướng lại để thương nghị. Tiên Trẩn nói: - Nước Sở từ khi đánh Tề vây Tống đến nay, quân sĩ đều đã mỏi mệt cả, ta nên đem quân ra đánh ngay, chớ để mất cái cơ hội ấy. Hồ Yển nói với Tấn Văn công rằng: - Ngày trước Chúa công ở trước mặt vua Sở, đã có hẹn một câu rằng: "Ngày khác gặp nhau ở Trung Nguyên thì xin tránh quân Sở 3 xá" nếu nay đem quân ra đánh, chẳng hóa ra thất tín với Sở lắm sao! Các tướng nghe lời Hồ Yển đều không bằng lòng mà nói rằng: - Chúa công ta là vua một nước, mà phải rút quân tránh một viên tướng nước Sở thì nhục biết dường nào! Điều ấy quyết không nên. Hồ Yển nói: - Cái ân huệ của vua nước Sở, ta không nên quên, nay ta rút quân tránh đi, nghĩa là tránh nước Sở, không phải tránh Thành Đắc Thần. Các tướng lại nói rằng: - Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì biết làm thế nào? Hồ Yển nói: - Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì trái lại quân Sở, bấy giờ ta sẽ đánh. Tấn Văn công nói: - Hồ Yển nói phải lắm! Tấn Văn công truyền lui quân ra ngoài 3 xá, đóng ở đất Thành Bộc. Tề Hiếu công sai người con Quốc Ý Trọng là Quốc Quý Phủ làm chánh tướng. Thôi Yển làm phó tướng; Tần Mục công cũng sai người con thứ là Công tử Mẫn làm chánh tướng, Kiển Binh làm phó tướng, cùng đem quân sang đất Thành Bộc, để giúp Tấn mà đánh Sở. Tống Thành công thấy quân Sở đã giải vây rồi, cũng sai quan Tư mã là Công Tôn Cố sang tạ ơn Tấn Văn công và giúp việc đánh Sở. Quân Sở thấy quân Tấn lui ra ngoài 3 xá, đều có ý mừng rỡ. Đấu Bột nói: - Vua Tấn đã chịu rút quân tránh chúng ta thì chúng ta cũng vẻ vang lắm rồi, chi bằng ta nhân điều ấy mà thu quân về, dẫu không công cũng được khỏi tội. Thành Đắc Thần nói: - Ta đã xin thêm quân, nếu không đánh một trận, còn ra thế nào! Nay quân Tấn lui về thì có ý nhát sợ, ta nên mau mau đuổi theo mới được. Các tướng nước Tấn nói với Tiên Trẩn rằng: - Nay quân Sở ngắm xem địa thế để lập đồn trại là có ý muốn thủ hiểm, ta nên đem quân đánh ngay. Tiên Trẩn nói: - Thành Đắc Thần đến đây là muốn cùng với quân ta giao chiến chứ không phải muốn thủ hiểm. Tấn Văn công cũng có ý nghi ngờ, không muốn đánh nhau với Sở. Hồ Yển nói: - Ta đánh Sở mà thắng thì có thể làm được bá chủ các nước chư hầu, nếu đánh không thắng ta rút quân về mà giữ thế thủ, nước Sở cũng chẳng làm gì ta nổi. Tấn Văn công cũng chưa nhất quyết, đêm hôm ấy nằm mộng thấy hình như trong khi mình còn đi trốn, đang ở nước Sở, cùng với vua nước Sở đùa bỡn vật nhau, nhưng yếu sức bị thua, ngã ngửa xuống dưới đất, vua Sở phục ở trên mình, đánh vỡ đầu ra, rồi hút lấy óc; đến lúc tỉnh dậy, lấy làm sợ lắm. Bấy giờ Hồ Yển cũng ngủ ở trong màn. Tấn Văn công gọi dậy, kể chuyện cho nghe và bảo rằng: - Cứ như cái mộng này thì ta đánh Sở không được. Ta bị Sở hút lấy óc, chắc là điềm xấu. Hồ Yển nghe nói, liền chúc mừng rằng: - Đó là cái triệu đại cát! Chúa công tất đánh được quân Sở. Tấn Văn công nói: - Thế nào bảo rằng đại cát? Hồ Yển nói: - Chúa công ngã ngửa ở dưới đất thì được ánh sáng mặt trời chiếu vào; vua Sở phục ở trên mình, nghĩa là phải phục xuống đất mà chịu tội. Óc là một vật nhu mềm, vua nước Sở hút óc của Chúa công, nghĩa là phải chịu yên phận nhu mềm mà thần phục Chúa công đó, xem thế thì tất Chúa công đánh được quân Sở. Bấy giờ Tấn Văn công mới không nghi ngờ gì nữa. Sáng hôm sau, Thành Đắc Thần đưa chiếu thư cho Tấn Văn công. Tấn Văn công mở ra xem. Thư rằng: "Quân Sở tôi muốn cùng với quân Tấn đùa bỡn nhau, xin nhà vua đứng trên xe mà xem, Thành Đắc Thần này cũng được nghé mắt một chút". Hồ Yển nói: - Chinh chiến là một việc quan hệ mà dám nói là đùa bỡn, kẻ kia coi thường như vậy thì tài nào mà khỏi thua. Tấn Văn công sai Loan Chi viết thư trả lời. Thư rằng: "Tôi còn nhớ ơn vua nước Sở, bởi phải rút quân lui 3 xá, không dám cùng với nguyên soái đối địch; nay nguyên soái muốn cho quân sĩ thử tài nhau để xem, có đâu tôi lại không vâng, đến sáng ngày mai xin ra tiếp kiến." Sứ nước Sở về rồi, Tiên Trẩn điểm duyệt quân sĩ cả thảy hơn năm vạn người, ấy là chưa kể quân Tề và quân Tần đến giúp. Tấn Văn công trèo lên gò cao đứng xem, trông thấy quân sĩ tiến thoái rất có thứ tự, bằng lòng mà khen rằng: - Tiên Trẩn dùng quân cũng theo lối như Khước Cốc ngày xưa, có thể đối địch với quân Sở được. Nói xong, liền sai đốn cây trên rừng xuống để sửa soạn các đồ chiến cụ. Tiên Trẩn truyền lệnh cho các hàng tướng sĩ, sai Hồ Mao và Hồ Yển đem toán thượng quân cùng với Phó tướng nước Tần là Kiển Bính tiến vào tả đội quân Sở, giao chiến với Đấu Nghi Thân; sai Loan Chi và Tư Thần đem toán hạ quân cùng với Phó tướng nước Tề là Thôi Yển tiếp vào hữu đội quân Sở giao chiến với Đấu Bột. Tiên Trẩn đã dặn bảo các tướng đủ kế sách; còn mình thì cùng với Khước Tấn và Kỳ Mãn đem toán trung quân để đối địch với Thành Đắc Thần. Tiên Trẩn lại sai Tuân Lâm Phủ và Sĩ Hội mỗi người đem 5.000 quân, chia làm hai cánh để phòng khi tiếp ứng; lại sai Quốc Quý Phủ (Chánh tướng nước Tề) và Công tử Mẫn (Chánh tướng nước Tần) đem quân đi phục sẵn ở phía sau quân Sở, để đợi khi quân Sở thua chạy thì xông vào mà chiếm cứ lấy đồn trại. Bấy giờ Ngụy Thù đã khỏi đau ngực rồi, tình nguyện xin làm tiên phong. Tiên Trẩn nói: - Tôi đã định nhờ Lão tướng quân một việc này: Từ đây đi về phía nam, đến đất Không Tang, là tiếp giáp với địa giới nước Sở, Lão tướng quân nên đem quân ra phục sẵn ở đấy, đợi khi quân Sở thua chạy trở về thì đổ ra mà bắt. Ngụy Thù mừng rỡ, vâng mệnh đi ngay. Bọn Triệu Thôi cùng với các quan văn vũ theo Tề Chiêu công lên đứng ở trên núi để xem đánh nhau. Tấn Văn công lại sai Chu Chi Kiều sửa soạn thuyền bè sẵn ở sông Nam Hà để đợi khi lấy được các xe lương thực của nước Sở thì vận tải đem về. Sáng sớm hôm sau, quân Tấn cùng với quân Sở đều bày trận ở dưới chân núi Hữu Sầu. Loan Chi nghe tin hữu đội nước Sở dùng quân Trần và quân Sái làm tiên phong, có ý mừng thầm, nói: - Khi nước Nguyên soái đã mật bảo ta rằng quân Trần và quân Sái nhát sợ mà dễ loạn; ta đánh tan quân Trần và quân Sái thì tự khắc hữu đội nước Sở phải thua. Loan Chi sai Kiển Bính ra đánh. Viên Tuyển nước Trần và Công tử Ấn nước Sái tranh nhau lập công, xin với Đấu Bột để ra nghênh chiến. Chưa kịp nghênh chiến thì bỗng thấy quân Tấn kéo lui, Viên Tuyển và Công tử Ấn giục quân đuổi theo. Đuổi được một quãng, nghe có súng nổ, quân mai phục của Tư Thần đổ ra đón đánh. Những ngựa kéo xe của quân Tư Thần đều đội lốt da hổ cả. Ngựa nước Sở trông thấy, ngỡ là hổ thật, sợ hãi lồng chạy, lại xông vào hữu đội quân Sở, không thể kìm hãm được nữa, thành ra vỡ quân, chết hại không biết bao nhiêu mà kể. Loan Chi liền sai quân sĩ thay hình đổi dạng, giả làm quân Trần, Sái, cầm cờ hiệu Trần, Sái chạy đến phi báo với Thành Đắc Thần, nói hữu đội quân Sở đã thắng trận rồi, nên mau mau tiến binh, để đuổi quân Tấn. Thành Đắc Thần đứng trên xe trông thấy quân Tấn chạy toán loạn, cát bụi bay mù cả trời, không biết là kế giả, mừng mà nói rằng: - Toán hạ quân của Tấn, đã thua thật rồi! Thành Đắc Thần truyền lệnh cho tả đội tiến binh. Đến Nghi Trân trông thấy lá cờ Đại bái của quân Tấn bay phấp phới, liền xông lại đánh. Hồ Yển đem quân ra nghênh chiến. Đánh được mấy hợp, bỗng thấy quân Tấn đại loạn, Hồ Yển vội vàng bỏ chạy, lá cờ Đại bái cũng thấy siêu dạt đâu mất. Đấu Nghi Thân ngỡ là quân Tấn tan vỡ, vội vàng giục tướng nước Trịnh và tướng nước Hứa cùng nhau đuổi theo. Đuổi được một quãng, bỗng nghe tiếng trống vang tai, Tiên Trẩn và Khước Tần đem quân đổ ra đánh chặn ngang, phá tan quân Sở ra làm hai đoạn, Hồ Yển đang chạy, cũng quay lại đánh Quân Trịnh và quân Hứa sợ hãi vỡ chạy, Đấu Nghi Thân không sao cản lại được nữa, lại gặp tướng nước Tề là Thôi Yển đem quân đến đánh, Đấu Nghi Thân bỏ cả đồ khí giới, trèo qua núi mà chạy trốn. Nguyên là toán hạ quân của Tấn giả cách thua chạy; Loan Chi sai đốn các cây ở trên núi buộc vào sau xe mà kéo lê đi, để làm cho cát bụi bay mù cả trời; Hồ Mao lại sai người kéo lá cờ Đại bái, để làm ra dáng thua chạy, đó đều là mưu kế của Tiên Trẩn đã định sẵn từ trước để lừa quân Sở. Thành Đắc Thần chưa biết là trúng kế, vẫn tưởng tả đội và hữu đội đều thắng trận cả, lại sai con trai là Thành Đại Tâm đem quân ra tiếp chiến. Kỳ mãn khi trước vâng mệnh Tiên Trẩn, chỉ giữ vững trận thế, không chịu đem quân ra đánh, bấy giờ thấy quân Sở nổi trống ra trận, Kỳ Mãn không thể nhịn được, sai người đi dò thám xem tướng nước Sở là ai. Quân sĩ về báo rằng: - Tướng nước Sở mới 15 tuổi. Kỳ Mãn nói: - Một đứa trẻ con ấy, chắc là vũ nghệ cũng chưa ra gì! Ta quyết đem quân bắt sống. Nói xong, tức khắc truyền nổi trống đem quân ra trận, cùng với Thành Đại Tâm giao chiến. Đánh nhau hơn hai mươi hiệp, chưa phân được thua. Đấu Việt Tiêu (tướng nước Sở) trông thấy Thành Đại Tâm đánh mãi nhịn không được, liền đứng ở trên xe, giương cung bắn một phát tên, trúng ngay vào giải mũ Kỳ Mãn. Kỳ Mãn giật mình kinh sợ, vội vàng lui về nhưng e náo động đại quân, vậy phải vòng quanh phía sau trận mà trốn chạy. Đấu Việt Tiêu quát lên rằng: - Một viên đại tướng ấy không cần đuổi làm chi, ta nên mau mau tiến binh để bắt lấy Nguyên soái nước Tấn là Tiên Trẩn.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  2. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 41 Thành Đắc Thần rút gươm tự tử Tấn Văn công phụng mệnh đăng đàn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tướng nước Sở là Đấu Việt Tiêu cùng với Thành Đại Tâm không đuổi theo Kỳ Mãn, liền tiến binh xông vào đại quân nước Tấn. Bỗng thấy có hai toán quân Tấn đến tiếp ứng: Tuân Lâm Phủ đánh nhau với Đấu Việt Tiêu, Tiên Miệt đánh nhau với Thành Đại Tâm. Thành Đại Tâm cầm cờ vẫy quân tiến vào, hăng hái mà reo rầm lên: - Ngày nay ta thề quyết không để cho quân Tấn còn một mống nào sống sót. Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Tiên Trẩn kéo đại binh đến, bấy giờ Thành Đại Tâm mới biết là tả đội và hữu đội quân Sở đã tan vỡ cả rồi, giật mình kinh sợ, toan thu quân trở lại, nhưng không thể kịp, bị quân Tấn vây kín cả xung quanh. Thành Đại Tâm gia sức phá vỡ vòng vây, để đưa cha là Thành Đắc Thần chạy trốn. Khi Thành Đắc Thần đã ra khỏi rồi, Thành Đại Tâm không thấy Đấu Việt Tiêu đâu cả, lại quay vào tìm; chẳng ngờ Đấu Việt Tiêu đang xung đột ở trong đám quân Tấn để tìm cứu cha con Thành Đắc Thần, khi gặp được Thành Đại Tâm, mới biết là Thành Đắc Thần đã ra khỏi, liền cùng nhau phá vòng vây chạy trốn. Tấn Văn công đứng ở trên núi trông thấy quân Tấn đã được thắng trận, sai người nói với Tiên Trẩn để truyền dụ cho quân sĩ chỉ đuổi quân Sở ra khỏi địa giới nước Tống và nước Vệ thì thôi, không được đuổi nữa, và cũng không được giết hại nhiều người, để đến nỗi hai nước thất hòa, uổng phụ mất cái ơn vua Sở ngày trước. Tiên Trẩn truyền thu quân về, không đuổi theo quân Sở nữa, còn Kỳ Mãn khi trước dám trái lệnh ra đánh, cũng truyền bắt giam để trị tội. Trần, Sái, Trịnh và Hứa thấy hao binh tổn tướng nhiều lắm, đều bỏ trốn về nước cả. Thành Đắc Thần cùng với Thành Đại Tâm và Đấu Việt Tiêu ra khỏi vòng vây, đem nhau về nơi đồn trại. Bỗng gặp quân sĩ bảo rằng: - Đồn trại của ta, đã trông thấy cờ hiệu nước Tề và Tần cắm đặc cả rồi! Nguyên Quốc Quý Phủ (tướng nước Tề) và Công tử Mẫn (tướng nước Tần) nhân khi quân Sở bị vây, vào chiếm cứ lấy đồn trại của quân Sở, bao nhiêu lương thực thu được hết cả. Thành Đắc Thần bất đắc dĩ phải trèo qua núi đi về sông Thư Thủy. Đấu Nghi Thân và Đấu Bột cũng đem những quân tàn tốt đi theo. Đi đến đất Không Tang, bỗng nghe mấy tiếng súng nổ, có một toán quân chắn ngang đường, trên lá cờ tướng đề một chữ "Ngụy". Nguyên Ngụy Thù khi trước ở nước Sở, một mình đánh nổi con Mạc thú, người nước Sở ai cũng phục là tay hùng dũng, bấy giờ trông thấy, đều kinh sợ chẳng còn hồn vía nào cả. Đấu Việt Tiêu bảo Thành Đại Tâm phò tá lấy Nguyên soái là Thành Đắc Thần, rồi một mình cố sức xông lại đánh nhau với Ngụy Thù. Đấu Nghi Thân và Đấu Bột bất đắc dĩ cũng phải xông vào đánh giúp. Ba tướng nước Sở cùng nhau đánh với Ngụy Thù mà không địch nổi. Bỗng có một người phi ngựa ở phía bắc đi đến, quát to lên mà bảo Ngụy Thù rằng: - Quan Nguyên soái (Tiên Trẩn) vâng mệnh Chúa công truyền phải bãi chiến, tha cho các tướng bên Sở được sống mà về nước, để báo lại cái ơn vua Sở biết trọng đãi ta trong khi còn đi trốn. Ngụy Thù nghe lệnh, liền dừng tay không đánh nữa, lại bảo quân sĩ đứng tránh ra hai bên; để khiến các tướng nước Sở chạy đi cho thoát. Bọn Thành Đắc Thần cắm đầu đi thẳng. Đi đến đất Liên Cốc, Thành Đắc Thần điểm duyệt tướng sĩ thì thấy chết hại rất nhiều, mới thở dài mà than rằng: - Ta đem quân đi đánh Tấn là chủ ý muốn làm cho nổi cái uy danh nước Sở, chẳng ngờ mắc mưu nước Tấn, đến nỗi thua quân, thật là tội đáng chết lắm! Nói xong, liền cùng với Đấu Nghi Thân và Đấu Bột đều ở lại đất Liên Cốc, mà sai con là Thành Đắc Thần đến Thân Thành yết kiến Sở Thành Vương để xin chịu tội chết, Sở Thành Vương nổi giận mà mắng rằng: - Cha mày khi trước đã có nói: "Nếu không đánh được quân Tấn thì xin chịu tội chết", nay còn kêu ca gì nữa! Thành Đại Tâm sụp lạy mà nói rằng: - Cha tôi biết tội đã nhiều, toan liều mình tự tử, tôi cố ngăn lại, muốn để Đại vương trị tội, khiến cho phép nước được nghiêm minh. Sở Thành Vương nói: - Phép nước Sở xưa nay, ai đánh giặc bị thua, cũng phải chết cả, nhưng các tướng nên liệu mà tự tử đi, chớ để làm bẩn lưỡi gươm của ta. Thành Đại Tâm thấy Sở Thành Vương không có ý thương xót, khóc mà lui ra, lại sai người phi báo cho Thành Đắc Thần biết. Thành Đắc Thần than rằng: - Giả sử vua Sở tha cho ta, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà sống làm gì nữa! Nói xong, liền ngoảnh mặt về phía bắc lạy hai lạy, rồi rút gươm tự vẫn mà chết. Vỉ Giả nghe tin Thành Đắc Thần bị thua, hỏi cha là Vỉ Lã Thần rằng: - Con nghe nói quan Lệnh doãn bị thua, chẳng hay có thực hay không? Vỉ Lã Thần nói: - Thực thế đấy! Vỉ Giả nói: - Chẳng hay Đại vương xử trí ra thế nào? Vỉ Lã Thần nói: - Thành Đắc Thần và các tướng đều xin chịu tội chết, Đại vương chẳng động lòng thương. Vỉ Giả nói: - Thành Đắc Thần tính khí ngang ngạnh mà kiêu ngạo, không làm việc một mình được, nếu có một người trí mưu nữa giúp vào thì mới có thể thành công. Nay dẫu bị thua, nhưng ngày khác báo thù được nước Tấn, tất là Thành Đắc Thần, phụ thân nên can Đại vương để mà lưu giữ người ấy lại. Vỉ Lã Thần nói: - Nay Đại vương đang tức giận, nói cũng vô ích. Vỉ Giả nói: - Phụ thân không nhớ lời nói của người thầy đồng ở Phạm Ấp tên là Duật Tự hay sao? Vỉ Lã Thần nói: - Con thử thuật lại cho cha nghe. Vỉ Giả nói: - Duật Tự là người tài xem tướng lắm! Lúc Đại vương ta còn làm thái tử Duật Tự có nói: - Đại vương cùng với Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, ba người ngày sau đều bất đắc kỳ tử. Đại vương nhớ lời ấy, khi lên làm vua, ban cho Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân mỗi người một cái miễn tử bài, cốt để làm cho lời nói của Duật Tự không ứng nghiệm được nữa. Nay Đại vương đang khi tức giận, vậy nên không nhớ ra, nếu phụ thân nhắc đến thì quyết rằng Đại vương sẽ tha tội cho hai người ấy. Vỉ Lã Thần tức khắc vào tâu với Sở Thành Vương rằng: - Thành Đắc Thần tội dẫu đáng chết, nhưng khi trước Đại vương đã có cho một cái miễn tử bài, tôi thiết tưởng Đại vương cũng dung thứ. Sở Thành Vương ngạc nhiên mà rằng: - Có phải vì lời nói của Duật Tự khi trước hay không, nếu nhà ngươi không nhắc đến thì ta quên hẳn đi mất! Sở Thành Vương sai quan Đại phu là Phan Uông cùng với Thành Đại Tâm tức khắc truyền mệnh tha cho các tướng đều khỏi tội chết. Khi Phan Uông và Thành Đại Tâm đi đến Liêu Cốc thì Thành Đắc Thần chết đã nửa ngày rồi. Đấu Nghi Thân đã thắt cổ treo lên xà nhà, nhưng thân thể to lớn, đứt dây rơi xuống, lại vừa gặp có lệnh miễn tử đến, thành ra khỏi chết. Đấu Bột còn định thu táng thi thể Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, rồi mới tự tử, bởi vậy cũng khỏi chết. Thành Đại Tâm ở lại Liên Cốc để khâm liệm cho cha là Thành Đắc Thần; còn bọn Đấu Nghi Thân, Đấu Bột và Đấu Việt Tiêu theo Phan Uông về Thân Thành vào lạy tạ Sở Thành Vương. Sở Thành Vương thấy nói Thành Đắc Thần đã tự tử rồi, thương xót vô cùng, rồi truyền thu quân trở về kinh đô nước Sở, cho Vỉ Lã Thần lên làm lệnh doãn, truất Đấu Nghi Thân ra trấn thủ ở Thương Ấp, và Đấu Bột ra trấn thủ ở Tương Thành. Sở Thành Vương lại nghĩ thương Thành Đắc Thần, cho con là Thành Đại Tâm và Thánh Gia đều làm quan đại phu. Quan nguyên lệnh doãn nước Sở là Tử Văn, bây giờ đã trí sĩ về ở nhà, nghe tin Thành Đắc Thần bị thua, thở dài mà than rằng: - Quả như lời nói của Vỉ Giả ngày trước! Kiến thức của ta lại không bằng một đứa trẻ con, chẳng cũng xấu hổ lắm sao! Nói xong nghĩ mà căm tức, hộc máu ra miệng rồi nằm gục xuống, không dậy được nữa, gọi con là Đấu Ban đến mà dặn rằng: - Cha gần đến lúc chết, cha dặn lại con một câu này: Chú con là Đấu Việt Tiêu, từ khi mới sinh ra, dáng đi giống như hùm hổ, tiếng nói như giống sài lang, đó là một cái tướng diệt tộc, bấy giờ đã nói với ông là không nên nuôi, ông không nghe. Nay Vỉ Lã Thần chắc là không thọ, Đấu Bột và Đấu Nghi Thân cũng khó lòng giữ được chu toàn, sau này làm lệnh doãn nước Sở, phi tay con thì tất là Đấu Việt Tiêu, mà Đấu Việt Tiêu là người tàn ác, được cầm quyền chính, tất sinh lòng phản nghịch, dòng dõi họ Đấu ta không khéo thì đến nỗi tuyệt tự. Khi ta đã chết rồi, nếu Đấu Việt Tiêu lên làm lệnh doãn thì mày nên trốn đi, kẻo mà mắc phải tai vạ. Đấu Ban sụp lạy xin vâng mệnh. Tử Văn nói xong thì chết. Chẳng được bao lâu, Vỉ Lã Thần cũng chết. Sở Thành Vương nghĩ đến cái công Tử Văn, cho con là Đấu Ban lên làm lệnh doãn, Đấu Việt Tiêu làm quan tư mã, và Vỉ Giả làm quan công chính. Tấn Văn công thì khi đánh được Thành Đắc Thần, tiến quân vào đóng ở trong đồn trại quân Sở. Quân Sở bỏ lại lương thực nhiều lắm, quân Tấn lấy ra để ăn, lại nói đùa với nhau rằng: - Thế này mới thật là người nước Sở mời ta đến ở, lại thết đãi ta đây! Các tướng nước Tề và nước Tần đều vào chúc mừng Tấn Văn công. Tấn Văn công tạ lại, mà không dám nhận, nét mặt có sắc buồn rầu. Các tướng nói: - Chúa công đánh được giặc mà sao lại có ý không vui? Tấn Văn công nói: - Thành Đắc Thần vốn là người không chịu thua ai, ta dẫu thắng trận, phỏng đã chắc gì, bởi vậy ta có ý lo sợ. Bọn Quốc Quý phủ (tướng nước Tề) và Công tử Mẫn (tướng nước Tần) đều cáo từ xin về. Tấn Văn công đem một nửa những đồ lấy được của nước Sở, đưa tặng nước Tề và nước Tần. Tướng nước Tống là Công Tôn Cố cũng cáo từ về nước. Tiên Trẩn sai người giải Kỳ Mãn đến trước mặt Tấn Văn công, rồi kể những tội trái lệnh ra đánh, để đến nỗi bị thua. Tấn Văn công nói: - Nhà ngươi trái lệnh Nguyên soái như thế, nếu không có thượng quân và hạ quân đã đánh được quân Sở từ trước thì còn chống cự sao nổi. Tấn Văn công sai quan Tư mã là Triệu Thôi định tội, rồi chém đầu Kỳ Mãn để hiệu lệnh cho các quân sĩ biết rằng: - Từ nay trở đi, ai dám trái lệnh quan Nguyên soái thì trông gương vào đấy! Quân sĩ thấy vậy, lại càng nghiêm sợ. Tấn Văn công đóng ở Hữu Sầu 3 ngày, rồi thu quân về nước. Đi đến sông Nam Hà, quân sĩ báo rằng: - Dưới sông chưa thấy sửa soạn thuyền bè chi cả. Tấn Văn công sai người triệu Chu Chi Kiều, chẳng thấy Chu Chi Kiều ở đâu. Nguyên Chu Chi Kiều vốn là tướng nước Quắc, khi trước đầu hàng, về làm tôi nước Tấn. Đến lúc Tấn Văn công đánh Sở, Chu Chi Kiều theo đi, vẫn có ý muốn lập công; Tấn Văn công lại sai đi sửa soạn thuyền bè chực sẵn ở sông Nam Hà, để đợi đánh xong quân Sở thì về qua đấy. Bởi vậy Chu Chi Kiều không bằng lòng, lại vừa tiếp được tin vợ nhà ốm nặng. Chu Chi Kiều cũng nghĩ rằng quân Tấn đánh nhau với Sở, tất còn lâu ngày, liền lẻn về thăm vợ, ai ngờ mới được 6 ngày mà Tấn Văn công đã đánh xong quân Sở, thu quân trở về. Tấn Văn công không thấy Chu Chi Kiều, tức thì nổi giận, sai quân sĩ bắt thuyền của dân. Tiên Trẩn nói: - Dân ở xứ Nam Hà này, nghe tin ta đánh được quân Sở, ai không sợ hãi, nếu ta sai quân sĩ đi bắt thuyền, tất nhiên họ bỏ mà trốn cả, chi bằng ta hạ lệnh thuê tiền là tiện hơn. Tấn Văn công khen phải, rồi sai quân sĩ đi thuê thuyền. Được một lúc, thuyền đâu kéo đến, không biết bao nhiêu mà kể. Đại binh chèo thuyền qua sông. Tấn Văn công bảo Triệu Thôi rằng: - Ta đã báo thù được nước Tào và Vệ rồi, chỉ còn nước Trịnh là chưa báo được, nên nghĩ thế nào? Triệu Thôi nói: - Chúa công kéo quân qua nước Trịnh thì tự khắc nước Trịnh phải xin thần phục. Tấn Văn công nghe lời. Đi trong mấy ngày nữa, bỗng gặp toán quân từ phía đông kéo đến, có một vị quý nhân ngồi ở trên xe, Tướng đi tiền đội của quân Tấn là Loan Chi ngăn lại mà hỏi rằng: - Quân nào? Vị quý nhân ấy đáp rằng: - Ta là quan Khanh sĩ nhà Chu, tên gọi Vương tử Hổ. Thiên tử nhà Chu nghe tin vua Tấn đánh được quân Sở, để giữ yên trung quốc, vây muốn thân hành đến khao thưởng quân, có sai Hổ này đi báo trước cho biết. Loan Chi tức khắc đưa Vương tử Hổ lại yết kiến Tấn Văn công. Tấn Văn công hỏi các tướng rằng: - Nay Thiên tử muốn thân hành đến để khao thưởng quân nước Tấn ta thì lễ nghi nên thế nào? Triệu Thôi nói: - Từ đây sang Hành Ung cũng gần, ở đấy có một nơi gọi là Tiễn Thổ, đất phẳng mà rộng, ta nên tức khắc sửa soạn vương cung, rồi Chúa công đem các vua chư hầu đi đón Thiên tử đến ngự lại đấy để cùng nhau triều kiến cho khỏi trái đạo vua tôi. Tấn Văn công liền hẹn với Vương tử Hổ, định đến ngày mồng một tháng 5 thì đón Thiên tử sang đất Tiễn Thổ. Vương tử Hổ cáo từ trở về. Đại binh nước Tấn thẳng đường kéo binh sang Hành Ung. Đi được một quãng, lại gặp toán quân của sứ thần nước Trịnh là Tử Nhân Cửu. Nguyên Trịnh Văn công sợ quân Tấn đến hỏi tội, mới sai Tử Nhân Cửu đi giảng hòa. Tấn Văn công nổi giận, nói: - Nước Trịnh nghe tin quân Sở thua, rồi mới chịu xin giảng hòa thì không phải là thực lòng; chờ khi ta triều kiến Thiên tử xong, bấy giờ sẽ đem quân sang đánh Trịnh. Triệu Thôi nói: - Từ khi ta cử binh đến nay, đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, lại phá được quân Sở, uy danh lừng lẫy biết dường nào! Có khiếm gì một nước Trịnh, xin Chúa công cứ nên cho giảng hòa, nếu nước Trịnh còn có lòng khác thì ta nghỉ quân mấy tháng, rồi sẽ sang đánh Trịnh, cũng chưa lấy gì làm chậm. Tấn Văn công mới cho nước Trịnh giảng hòa. Đại binh kéo đến Hành Ung, một mặt sai Hồ Mao và Hồ Yển đi sửa soạn vương cung ở đất Tiễn Thổ; còn một mặt sai Loan Chi vào kinh thành nước Trịnh để cùng với Trịnh Văn công ăn thề. Trịnh Văn công lại thân hành đến Hành Ung để tạ ơn Tấn Văn công đã cho giảng hòa. Tấn Văn công cùng với Trịnh Văn công khen Thành Đắc Thần nước Sở là người vũ dũng. Trịnh Văn công nói: - Thành Đắc Thần nay đã tự tử ở đất Liên Cốc rồi! Tấn Văn công giả cách thương tiếc. Khi Trịnh Văn công lui ra rồi. Tấn Văn công nói riêng với các tướng rằng: - Ngày nay ta được nước Trịnh thần phục, cũng chẳng lấy gì làm mừng, chỉ mừng rằng nước Sở đã mất Thành Đắc Thần mà thôi. Thành Đắc Thần đã chết rồi, còn các người khác, ta chẳng lo ngại gì nữa, các người có thể nằm yên được! Hồ Mao và Hồ Yển ra sức hơn một tháng trời, đã sửa soạn xong vương cung rồi, Tấn Văn công truyền hịch cho các nước chư hầu, hẹn đến mồng một tháng 5 phải hội nhau cả ở đất Tiễn Thổ. Bấy giờ Tống Thành công (Vương Thần), Tề Chiêu công (Phan) đều là những nước giao hiếu từ trước. Trịnh Văn công (Tiệp) là một nước mới quy phục. Còn như Lỗ Hi công (Thân) Trần Mục công (Khoản), Sái Trang công (Giáp Ngọ) đều là đảng nước Sở, nhưng sợ uy nước Tấn, cũng phải đến dự hội, Châu và Cử là các nước nhỏ, chẳng kể làm chi. Chỉ có Hứa Hi công (Nghiệp) thần phục nước Sở đã lâu, không muốn theo Tấn, Tần Mục công (Nhâm Hiếu) dẫu có giao hiếu với Tấn nhưng xưa nay chưa dự hội với trung quốc bao giờ, vậy cũng ngần ngại không đến. Vệ Thành công (Trịnh) trước tránh ra Tương Ngưu, Tào Cung công (Tượng) hiện còn giam ở Ngũ Lộc, Tấn Văn công đã hẹn trả lại nước cho, nhưng chưa nói rõ, bởi vậy cũng không được dự hội. Vệ Thành công nghe Tấn Văn công sắp họp chư hầu, bảo Ninh Du rằng: - Vua Tấn hội chư hầu mà không nói gì đến nước Vệ ta, thế thì nước Tấn còn căm tức ta lắm, có lẽ ta phải trốn đi nước khác. Ninh Du nói: - Nay Chúa công chỉ nghĩ một đường trốn đi mà thôi thì sau này ai là người giúp cho Chúa công được trở về nước, chi bằng Chúa công nhường ngôi cho Thúc Vũ, mà sai Nguyên Huyến đưa đến Tiễn Thổ để xin dự hội. Nếu lòng trời còn tựa nước Vệ mà Thúc Vũ được dự hội thì nước Vệ hãy còn, tức là ngôi của Chúa công hãy còn, huống chi Thúc Vũ vốn là người hiếu hữu, tất cũng khó lòng bất nhẫn mà trả lại cho Chúa công. Vệ Thành công dẫu trong lòng không muốn, nhưng đến địa vị ấy cũng không làm thế nào được, liền sai Tôn Viêm phụng mệnh nhường ngôi cho Thúc Vũ, theo như lời nói Ninh Du. Tôn Viêm phụng mệnh đi sang Sở Khâu để nói với Thúc Vũ. Vệ Thành công lại hỏi Ninh Du rằng: - Nay ta trốn sang nước nào? Ninh Du còn ngần ngừ chưa trả lời. Vệ Thành công nói: - Có nên sang nước Sở không? Ninh Du nói: - Nước Sở nay đang là một nước cừu địch với nước Tấn. Vả khi trước ta đã đưa thư tuyệt giao với Sở, bây giờ còn sang làm gì, chi bằng ta sang nước Trần. Nước Trần sắp sửa thần phục nước Tấn, ta lại có thể nhờ nước Trần mà giao thông với nước Tấn được. Vệ Thành công nói: - Đưa thư tuyệt giao, không phải tự ý ta, điều ấy hẳn nước Sở cũng biết. Vả nước Tấn và nước Sở sau này cũng chưa biết thế nào, Thúc Vũ theo Tấn mà ta theo Sở thì có phải lại giữ được cả hai bên không? Vệ Thành công đi sang nước Sở. Những quân sĩ nước Sở trông thấy Vệ Thành công, đều đuổi và sỉ mắng. Vệ Thành công bất đắc dĩ lại phải quay sang nước Trần, bấy giờ mới phục Ninh Du là người cao kiến. Tôn Viêm phụng mệnh Vệ Thành công đến bảo Thúc Vũ. Thúc Vũ nói: - Tôi xin quyền tạm để giữ lấy nước mà thôi, dẫu Chúa công nhường ngôi, có lẽ đâu tôi dám nhận. Nói xong, liền cùng với Nguyên Huyến đến đất Tiễn Thổ để hội với các nước chư hầu, rồi lại sai Tôn Viêm về nói lại cho Vệ Thành công biết rằng khi sang đến Tiễn Thổ thì thế nào cũng vì Vệ Thành công mà xin Tấn phục quốc cho. Nguyên Huyến nói: - Chúa công ta tính hay nghi ngờ lắm, ta không sai con theo sang thì sao cho Chúa công tin được. Nguyên Huyến liền sai con là Nguyên Dốc theo sang. Công tử Chuyên Khuyển bảo riêng với Nguyên Huyến rằng: - Chúa công chắc hẳn không trở về được, sao nhà ngươi không đem việc Chúa công nhường ngôi ấy mà truyền bá cho người trong nước biết rồi tôn lập Thúc Vũ lên làm vua, tất nhiên vua Tấn cũng bằng lòng, bấy giờ nhà ngươi nhờ uy nước Tấn thì thành ra cùng với Thúc Vũ cùng cầm quyền chính nước Vệ. Nguyên Huyến nói: - Thúc Vũ còn có lòng tử tế với anh, nữa là ta lại dám quên vua hay sao! Ta đi chuyến này, quyết nói với Tấn để xin trả lại nước cho Chúa công. Công tử Chuyên Khuyển nín lặng lui ra, nhưng lại sợ khi Vệ Thành công đã phục quốc rồi mà Nguyên Huyến tiết lộ lời nói ấy ra thì tất Vệ Thành công bắt tội, mới lập kế lẻn sang nước Trần, mật báo với Vệ Thành công, lại nói dối là Nguyên Huyến đã lập Thúc Vũ lên làm vua và nhờ uy nước Tấn bảo hộ. Vệ Thành công tin là chuyện thực, liền bảo Tôn Viêm. Tôn Viêm nói: - Việc ấy tôi không được biết. Nay Nguyên Dốc hiện đang ở đây, cha hắn có mưu gì thì hắn tất biết, sao Chúa công không gọi mà hỏi xem. Vệ Thành công lại hỏi Nguyên Dốc. Nguyên Dốc nói: - Việc ấy chắc hẳn không có. Ninh Du cũng nói rằng: - Nếu Nguyên Huyến có lòng bất trung thì sao lại chịu sai con đến ở đây, xin Chúa công chớ nghi ngờ. Công tử Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng: - Nguyên Huyến lập mưu làm phản Chúa công, kể đã lâu ngày, nay cho con sang ở đây, chính là muốn dò xem tình hình Chúa công ra làm sao để mà phòng bị. Nếu Nguyên Huyến định xin với vua Tấn trả lại nước cho Chúa công thì tất Thúc Vũ không dám dự hội, nhược bằng Thúc Vũ dám công nhiên dự hội thì thật là chí định chiếm ngôi, Chúa công nên xét cho kỹ. Vệ Thành công mật sai người sang đất Tiễn Thổ để dò xem tình hình Thúc Vũ ra làm sao. Chu Tương Vương xa giá ngự sang Tiễn Thổ. Tấn Văn công đem các vua chư hầu ra đón ở ngoài 30 dặm rồi rước về chốn vương cung. Các vua chư hầu làm lễ triều kiến xong, Tấn Văn công đem các đồ lấy được của nước Sở ra dâng nộp. Chu Tương Vương bằng lòng nói: - Từ khi Tề Hoàn công tạ thế rồi, nước Sở lại cậy sức mạnh xâm phạm các nước trung quốc, nay được Thúc phụ (tức là Tấn Văn công) đem quân đánh Sở để giữ yên nhà Chu ta thì chẳng những một mình ta đội ơn, dẫu Tiên vương nhà Chu ta thuở xưa cũng đội ơn thúc phụ nhiều lắm. Ngày hôm sau, Chu Tương Vương sai Vương tử Hổ tuyên cáo cho Tấn Văn công làm bá chủ. Tấn Văn công lập một cái đàn ở bên cạnh vương cung để hội thề với các vua chư hầu. Đến hôm khai hội, Tấn Văn công lên đàn trước, còn các vua chư hầu lục tục theo sau. Nguyên Huyến hôm trước đưa Thúc Vũ vào yết kiến Tấn Văn công, hôm ấy Thúc Vũ quyền nhận ngôi vua nước Vệ, cũng được đứng phụ ở cuối tờ ước thư. Vương tử Hổ tuyên đọc lời thề rằng: "Phàm các nước đồng minh ta, nên cùng một lòng giúp nhà Chu, chớ tàn hại lẫn nhau, kẻ nào trái lời thề ấy thì quỷ thần tru diệt!". Các vua chư hầu đồng thanh mà nói rằng: - Xin phụng mệnh! Khi ăn thề xong, Tấn Văn công muốn đem Thúc Vũ vào triều kiến Chu Tương Vương và lập vua nước Vệ để thay Vệ Thành công. Thúc Vũ ứa nước mắt xuống, từ chối mà nói với Tấn Văn công rằng: - Ngày xưa Tề Hoàn công hội chư hầu ở đất Ninh Mãn, Thế tử Hoa nước Trịnh là con mà làm phản cha, Tề Hoàn công còn đem lời trách mắng; nay Chúa công đang noi theo cái công nghiệp của Tề Hoàn công thuở trước, mà lại muốn cho Thúc Vũ này là em mà làm phản anh hay sao! Nếu Chúa công có lòng thương tôi thì xin trả ngôi vua nước Vệ cho anh tôi, anh tôi sẽ dốc một lòng mà thần phục quý quốc. Nguyên Huyến cũng sụp lạy mà xin cho Vệ Thành công. Tấn Văn công thấy vậy mới gật đầu thuận cho.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  3. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 42 Chu Tương Vương thiết triều ở Hà Dương Vệ Nguyên Huyến khiếu oan cho Thúc Vũ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chu Tương Vương thân hành đến Tiễn Thổ úy lạo Tấn Văn công, rồi lại trở về nhà Chu. Các vua chư hầu cũng cáo từ về nước cả. Vệ Thành công từ khi nghe lời Chuyên Khuyển nói, có ý nghi ngờ, mới sai người đến đất Tiễn Thổ để dò xem tình hình Thúc Vũ ra làm sao. Bấy giờ thấy Nguyên Huyến đưa Thúc Vũ vào dự hội với các vua chư hầu, chưa kịp xét kỹ, vội vàng về phi báo cho Vệ Thành công biết, Vệ Thành công nổi giận, nói: - Nếu vậy thì Thúc Vũ tự làm vua nước Vệ rồi. Nói xong, liền sỉ mắng Nguyên Huyến là đứa phản tặc, tham cầu phú quý, phù lập Thúc Vũ lên làm vua; lại sai con đến ở đây để dò xét tình hình, khi nào ta lại dung tha cho cha con Nguyên Huyến. Con Nguyên Huyến là Nguyên Dốc toan tìm lời phân giải. Vệ Thành công rút gươm chém một nhát, rơi đầu xuống đất. Những người theo hầu Nguyên Dốc vội vàng trốn về báo tin cho Nguyên Huyến biết. Nguyên Huyến nói: - Con ta sống chết chẳng qua cũng là tại số, Chúa công dẫu phụ lòng Nguyên Huyến này, nhưng Nguyên Huyến này có đâu dám phụ lòng Thúc Vũ! Tư Mã Man bảo Nguyên Huyến rằng: - Chúa công đã có lòng nghi thì nhà ngươi há chẳng nên tị hiềm mà từ chức bỏ về, để tỏ cái lòng trung thành của mình ra! Nguyên Huyến thở dài mà than rằng: - Nếu tôi từ chức bỏ về thì ai cùng với Thúc Vũ mà giữ nước này! Con ta bị giết là một việc riêng, có lẽ nào mà vì một việc riêng mà không nghĩ đến nước hay sao! Nói xong, liền bảo Thúc Vũ viết thư xin Tấn Văn công trả lại ngôi vua cho Vệ Thành công. Tấn Văn công khi phụng mệnh Thiên tử lên làm bá chủ, hội thề với các nước chư hầu, bấy giờ thu quân về nước. Dân nước Tấn, già trẻ lớn bé tranh nhau đi đón, rất là vui vẻ. Tấn Văn công về đến trong triều, bàn việc ban thưởng cho các công thần, lấy Hồ Yển làm công đầu, thứ nhì Tiên Trẩn. Các tướng đều nói rằng: - Việc đánh nhau ở đất Thành Bộc mà ta phá được quân Sở, đều nhờ công Tiên Trẩn cả, nay lại lấy Hồ Yển làm đầu là cớ làm sao? Tấn Văn công nói: - Khi đánh nhau ở Thành Bộc, Tiên Trẩn bảo ta rằng: "Nên đánh ngay quân Sở, chớ có bỏ mất dịp may" mà Hồ Yển bảo ta rằng: "Nên lui tránh quân Sở, chớ nên bỏ mất điều tín", bởi vậy ta nên xét rằng đánh được quân giặc, chẳng qua là cái công trong một thời mà giữ được điều tín, mới thật là cái lợi về sau mãi mãi, thế thì Hồ Yển ở trên Tiên Trẩn là phải. Các tướng đều tâm phục cả. Hồ Yển lại tâu với Tấn Văn công rằng: - Tuân Tức ngày xưa chết vì cái nạn Hề Tề và Trác Tử, trung tiết đáng khen, xin Chúa công gia ân mà dùng những con cháu sau, để làm gương cho các bề tôi khác. Tấn Văn công nghe lời, liền triệu con trai Tuân Tức là Tuân Lâm Phủ, cho làm quan đại phu. Chu Chi Kiều đang ở nhà với vợ con, nghe tin Tấn Văn công sắp đến, vội vàng đón đường để yết kiến. Tấn Văn công truyền giam lại một chỗ, đến khi ban thưởng công thần xong, sai quan Tư mã là Triệu Thôi nghị tội Chu Chi Kiều. Chu Chi Kiều kêu van vì cớ vợ ốm, Tấn Văn công nói: - Kẻ bề tôi đã một lòng thờ vua thì dẫu thân mình cũng chẳng dám tiếc, huống chi là vợ con. Nói xong truyền đem ra chém. Tấn Văn công từ khi đem quân đi đánh Sở, lần thứ nhất chém Điên Hiệt, lần thứ hai chém Kỳ Mãn, đến bây giờ lại chém Chu Chi Kiều. Ba người ấy đều là bậc danh tướng mà làm việc trái phép, cũng bị giết cả, bởi vậy các tướng ai ai cũng sợ hãi mà phải theo lệnh, cũng vì thế nên Tấn Văn công làm bá chủ được các nước chư hầu. Một hôm, Tấn Văn công ngự triều, đang cùng với Hồ Yển bàn việc nước Tào và nước Vệ, bỗng tiếp được thư của nước Vệ gởi đến, Tấn Văn công hỏi: - Đó tất là thư của Thúc Vũ xin hộ cho anh. Tấn Văn công mở thư ra xem. Thư rằng: "Chúa công không nỡ làm diệt nước Vệ thì xin Chúa công tha cho vua nước Vệ tôi. Hiện nay người nước Vệ ai cũng một lòng để mong Chúa công làm việc nghĩa ấy, xin Chúa công nghĩ lại". Trần Mục công cũng sai sứ đến nước Tấn, xin lỗi hộ cho Vệ Thành công. Tấn Văn công viết thư trả lời thuận cho Vệ Thành công về nước, lại hạ lệnh cho Khước Bộ Dương chớ có đem quân ngăn trở. Thúc Vũ được tin Tấn Văn công tha cho Vệ Thành công về nước, vội vàng sai người sang nước Trần để đón Vệ Thành công về nước. Công tử Chuyên Khuyển bảo Vệ Thành công rằng: - Thúc Vũ làm vua nước Vệ đã lâu, người trong nước ai cũng quy phục, lại đồng minh với các nước ngoài, nay dẫu cho người sang đón. Chúa công chớ nên tin vội. Vệ Thành công nói: - Ta cũng lấy làm lo lắm! Nói xong, liền sai Ninh Du đến Sở Khâu trước để dò xét xem tình hình ra làm sao. Ninh Du đến Sở Khâu, gặp bấy giờ Thúc Vũ đang bàn việc ở trong triều. Ninh Du vào triều, trông thấy Thúc Vũ vẫn ngồi ở gian bên cạnh. Thúc Vũ trông thấy Ninh Du, vội vàng chạy ra đón vào, tiếp đãi rất lễ phép. Ninh Du giả cách hỏi rằng: - Ngài đã quyền ngự ngôi vua, mà ngài lại ngồi ở gian bên cạnh thì sao cho trọng thể thống? Thúc Vũ nói: - Ngôi chính ở giữa là chỗ anh tôi ngự xưa nay, tôi ngồi ở gian bên cạnh, cũng còn có ý sợ hãi, khi nào lại dám ngự ở gian giữa. Ninh Du nói: - Bây giờ tôi mới biết rõ lòng ngài! Thúc Vũ nói: - Tôi vẫn đêm ngày mong nhớ anh tôi lắm, quan Đại phu nên khuyên anh tôi mau mau về triều, để cho tôi được yên lòng. Ninh Du mới đính ước, hẹn đến ngày mồng một tháng 6 thì đưa Vệ Thành công về nước. Khi Ninh Du cáo từ lui ra, các quan trong triều nghe tin, đều xúm nhau bàn luận, chỉ sợ vua cũ lại về thì tất nhiên trị tội những kẻ ở nhà, bởi vậy ai cũng lấy làm lo ngại. Ninh Du nói với các quan rằng: - Tôi phụng mệnh vua cũ đến đây để truyền bảo cho các quan biết rằng khi vua cũ về nước, quyết không bắt tội ai cả; nếu các quan không tin thì tôi xin cùng với các quan ăn thề. Các quan đều nói: - Nếu ăn thề với nhau thì còn nghi ngại gì nữa! Ninh Du liền cùng với các quan ăn thề. Các quan đều bằng lòng cả. Thúc Vũ lại sai quan Đại phu là Trương Dương chuyên giữ quốc môn, phàm những người về đảng Vệ Thành công thì bất cứ lúc nào, cũng cho vào ngay. Ninh Du về nói với Vệ Thành công rằng: - Thúc Vũ thật lòng mà đợi Chúa công về, chứ không có ý gì làm phản cả. Vệ Thành công cũng có lòng tin. Chuyên Khuyển khi trước đã đem lời gièm pha Thúc Vũ, vậy nên sợ tội, lại nói với Vệ Thành công rằng: - Tôi chỉ e Thúc Vũ cùng với Ninh Du ước định nhau để làm hại Chúa công, chi bằng Chúa công cứ nhân lúc bất ngờ, trước hẹn mà về ngay thì mới có thể vẹn toàn được. Vệ Thành công theo lời, truyền sắp sửa xa giá để về nước Vệ. Chuyên Khuyển xin làm tiền khu. Vệ Thành công cho đi. Ninh Du nói: - Tôi đã hẹn ngày với người trong nước rồi, nay Chúa công trước hẹn mà về thì người trong nước tất có lòng nghi hoặc. Chuyên Khuyển quát to lên rằng: - Ninh Du không muốn cho Chúa công chóng về là chủ ý thế nào? Ninh Du không dám can ngăn nữa, chỉ xin với Vệ Thành công cho đi trước để hiểu dụ người trong nước, khiến được yên lòng. Vệ Thành công nói: - Nhà ngươi hiểu dụ cho người trong nước biết rằng ta vội về là có lòng nhớ nước, chứ không vì cớ gì cả. Ninh Du đi xong. Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng: - Ninh Du xin về trước, cũng nên nghi lắm, Chúa công phải đi mau mới được. Vệ Thành công truyền cho quân sĩ đi mau. Ninh Du về đến quốc môn, Trương Dương hỏi biết là người của Vệ Thành công, tức khắc mở cửa cho vào. Ninh Du nói: - Chúa công sắp về đến nơi! Trương Dương nói: - Sao chưa đến hẹn mà đã về ngay như vậy? Nhà ngươi vào thành báo tin cho Thúc Vũ biết, để tôi đi đón Chúa công. Ninh Du vừa mới quay mình đi khỏi thì Chuyên Khuyển đã đến nơi rồi. Chuyên Khuyển nói: - Chúa công đang đi sau! Trương Dương vội vàng đem quân đi đón. Chuyên Khuyển tiến thẳng vào thành. Bấy giờ Thúc Vũ đang đốc thúc các quân sĩ quét dọn dinh thất, rồi ngồi gội đầu ở giữa sân, thấy Ninh Du vào báo tin Vệ Thành công về, nửa sợ nửa mừng, vừa toan hỏi vì cớ gì mà không đúng hẹn, lại nghe có tiếng xe ngựa rầm rầm, tưởng là Vệ Thành công đã về, tóc còn chưa ráo, vội vàng lấy tay vén tóc, chạy ra để đón, chẳng ngờ lại là Chuyên Khuyển. Chuyên Khuyển sợ để Thúc Vũ sống thì sau anh em hỏi nhau, lại bày tỏ tội mình ra, liền giương cung bắn một phát tên, trúng ngay vào bụng Thúc Vũ. Thúc Vũ ngã gục xuống. Ninh Du vội vàng chạy lại để cứu thì đã không kịp rồi! Nguyên Huyến nghe tin Thúc Vũ bị giết, giật mình kinh sợ mà sỉ mắng Vệ Thành công rằng: - Vô đạo hôn quân! Mày giết oan một người vô tội, trời nào có dung mày, phen này ta quyết sang kêu với vua Tấn, thử xem mày có ngồi yên được hay không! Nguyên Khuyến lăn khóc một lúc, rồi bỏ trốn sang nước Tấn. Vệ Thành công về đến quốc môn, thấy Trương Dương ra đón. Vệ Thành công hỏi chuyện, Trương Dương nói: - Thúc Vũ có dặn tôi rằng Chúa công muốn về lúc nào cũng cứ để cho vào, không được ngăn trở. Vệ Thành công thở dài mà than rằng: - Em ta quả không có ý gì khác cả. Khi vào đến trong thành, trông thấy Ninh Du nước mắt ràn rụa, chạy lại mà nói rằng: - Thúc Vũ đang gội đầu, nghe tin Chúa công về, vội vàng mừng rỡ, lấy tay vén tóc, chạy ra để đón, ai ngờ bị Chuyên Khuyển bắn chết, khiến cho tôi thất tín với người trong nước, xin Chúa công xét cho. Vệ Thành công nét mặt có ý hổ thẹn mà đáp rằng: - Ta đã biết Thúc Vũ bị oan rồi. Nói xong, liền tiến thẳng vào trong triều. Các quan nghe tin, lục tục ra đón, kẻ trước người sau, không được đều nhau, Ninh Du đưa Vệ Thành công đến xem thi thể Thúc Vũ. Hai mắt Thúc Vũ mở trừng trừng như sống. Vệ Thành công ôm đầu Thúc Vũ để kề lên trên đùi, rồi khóc òa lên rằng: - Em ôi! Vì em mà anh được về, nay vì anh mà em phải chết, đau lòng anh lắm em ôi! Bỗng trông thấy hai mắt Thúc Vũ sáng quắc lên, rồi dần dần nhắm lại. Ninh Du nói: - Không giết Chuyên Khuyển thì sao cho thỏa cái linh hồn Thúc Vũ. Vệ Thành công tức khắc sai người bắt Chuyên Khuyển. Bấy giờ Chuyên Khuyển toan đi trốn, nhưng bị Ninh Du sai người bắt ngay được, đem về nộp Vệ Thành công. Chuyên Khuyển nói với Vệ Thành công rằng: - Tôi giết Thúc Vũ cũng là vì Chúa công! Vệ Thành công nổi giận, nói: - Mày cố tình gièm pha em ta, lại tự tiện giết đi, nay còn toan đổ lỗi cho ta hay sao! Nói xong, truyền đem ra chém; lại truyền lấy lễ quốc quân hậu táng cho Thúc Vũ. Người nước Vệ khi trước nghe tin Thúc Vũ bị giết, đều huyên náo cả lên, nay thấy Vệ Thành công chém Chuyên Khuyển và hậu táng cho Thúc Vũ, trong nước mới được yên ổn. Quan Đại phu nước Vệ là Nguyên Huyến trốn sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, sụp lạy ở dưới đất, thuật lại những chuyện Vệ Thành công nghi ngờ Thúc Vũ mà sai Chuyên Khuyển bắn chết. Nguyên Huyến vừa nói vừa khóc. Tấn Văn công động lòng thương xót, đem lời yên ủi Nguyên Huyến, mời ra nghỉ ở nhà công quán, rồi họp các quan triều thần lại để thương nghị. Tấn Văn công hỏi các quan rằng: - Ta nhờ sức các ngươi một lần đánh nhau mà thắng được quân Sở, lại phụng mệnh Thiên tử, hội chư hầu ở đất Tiễn Thổ, bởi vậy công nghiệp bá chủ chẳng kém gì Tề Hoàn công thuở xưa, nhưng nước Tần không dự hội, nước Hứa không vào triều, nước Trịnh dẫu xin ăn thề mà vẫn có lòng nghi hoặc, nay vua Vệ về nước mà dám tự tiện giết em là một người đã dự hội với ta, nếu ta không đem quân đi đánh thì sao cho thu phục được chư hầu, các người tính thế nào? Tiên Trẩn nói: - Nước nào làm điều trái phép thì bá chủ tất phải đem quân đi đánh. Hồ Yển nói: - Làm bá chủ muốn thu phục được chư hầu, tất phải nhờ cái uy linh của Thiên tử, nay Thiên tử thân hành đến khao thưởng Chúa công, mà Chúa công chưa vào triều kiến Thiên tử, vậy thì lấy gì cho người ta phục, chi bằng Chúa công đại hội chư hầu để vào triều kiến Thiên tử, nếu nước nào không đến, bấy giờ ta sẽ kể về tội tiết mạn Thiên tử mà đem quân đi đánh. Triệu Thôi nói: - Tử Phạm (tên tự Hồ Yển) nói phải lắm! Nhưng tôi e rằng việc vào triều kiến Thiên tử khó lòng mà làm xong được. Tấn Văn công nói: - Tại sao mà khó lòng? Triệu Thôi nói: - Các nước chư hầu đã lâu nay không vào triều kiến Thiên tử, bây giờ Chúa công đem quân vào chốn kinh sư thì tất nhiên Thiên tử có lòng nghi ngại, chi bằng ta đại hội chư hầu ở đất Ôn Ấp rồi đem Thiên tử đến đây để mà triều kiến thì tiện được nhiều điều lắm; một là vua tôi không ngờ vực nhau; hai là các nước chư hầu không phải đi xa khó nhọc; ba là ở đấy đã sẵn có cung thất của Vương tử Đái làm ngày trước, không phải tốn công sửa soạn chút nào. Tấn Văn công nói: - Làm thế nào mà đem được Thiên tử đến đây? Triệu Thôi nói: - Nay Thiên tử đang muốn thân với nước Tấn ta, xin Chúa công cho tôi vào sứ nhà Chu mà nói về việc ấy. Tấn Văn công bằng lòng, liền sai Triệu Thôi vào nhà Chu, Triệu Thôi tâu với Chu Tương Vương rằng: - Chúa công tôi cảm cái ơn Thiên tử thân hành đến khao thưởng, nay xin đem các nước chư hầu vào kinh sư để làm lễ triều kiến. Chu Tương Vương nín lặng, truyền cho Triệu Thôi hãy nghỉ ở nhà công quán, rồi gọi Vương tử Hổ vào để thương nghị. Chu Tương Vương bảo Vương tử Hổ rằng: - Tấn hầu xin đem quân đến kinh sư để làm lễ triều kiến, tất là có ý khác, Trẫm muốn từ chối thì nên làm thế nào? Vương tử Hổ nói: - Tôi xin đến tiếp kiến sứ thần nước Tấn, để dò xét xem tình ý thế nào, nên từ chối thì tôi từ chối. Vương tử Hổ đến tiếp kiến Triệu Thôi. Triệu Thôi nói đến việc Tấn Văn công xin vào triều. Vương tử Hổ nói: - Tấn hầu muốn hội các nước chư hầu để vào triều kiến Thiên tử, thật là một việc rất hay, nhưng ngặt vì các nước chư hầu họp cả ở kinh sư thì phiền nhiễu quá, dân nhà Chu không hiểu rõ, đem lòng nghi kỵ mà sinh điều nọ tiếng kia, lại thành ra mất lòng Tấn hầu, chi bằng Tấn hầu thôi đi là hơn. Triệu Thôi nói: - Chúa công tôi thực lòng nhớ mến Thiên tử, hiện đã truyền hịch đi các nước chư hầu, ước định họp nhau cả ở đất Ôn Ấp; nếu nay thôi đi chẳng thì hóa ra chuyện đùa bỡn hay sao? Vương tử Hổ nói: - Vậy thì nên làm thế nào? Triệu Thôi nói: - Tôi nghĩ có một kế nhưng không dám nói ra. Vương tử Hổ nói: - Ngài có kế gì hay, tôi xin theo ý. Triệu Thôi nói: - Đời xưa Thiên tử có lễ đi tuần thú, để xem tục dân, huống chi Ôn Ấp là một nơi kinh kỳ, nay Thiên tử mượn tiếng đi tuần thú ngự ra đất Hà Dương (tức là Ôn Ấp), rồi Chúa công tôi đem các vua chư hầu đến làm lễ triều kiến, phỏng có nên chăng? Vương tử Hổ nói: - Ngài bàn kế ấy thật là tiện cả đôi đường, để tôi xin tâu lại với Thiên tử. Vương tử Hổ vào triều, đem lời nói Triệu Thôi tâu lại với Chu Tương Vương. Chu Tương Vương mừng lắm, hẹn đến ngày mồng một tháng mười thì ngự ra Hà Dương. Triệu Thôi về nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công bá cáo các chư hầu biết. Đến hôm ấy, Tề Chiêu Công (Phan), Tống Thành công (Vương Thần), Lỗ Hi công (Thân), Sái Trang công (Giáp Ngọ), Tần Mục công (Nhâm Hiếu) và Trịnh Văn công (Tiệp) đều lục tục đến cả. Tần Mục công nói với Tấn Văn công rằng: - Ngày trước quí quốc hội chư hầu ở đất Tiễn Thổ, nước tôi ngại về đường xá xa xôi, vậy nên không đến dự hội được, ngày nay nước tôi xin theo hàng với các nước chư hầu. Tấn Văn công nhận lời. Bấy giờ, Tần Mục công (Khoản) mới mất, con là Sóc mới lên nối ngôi, tức là Tần Cung công. Tần Cung công sợ uy nước Tấn, cũng mặc đồ tang phục mà đến dự hội. Các nước nhỏ như nước Châu và nước Cử cũng đến dự hội cả. Vệ Thành công tự biết mình có tội, đã toan không đi, Ninh Du can rằng: - Nếu ta không đi thì lại càng thêm tội, tất nhiên nước Tấn đem quân đến đánh. Vệ Thành công bất đắc dĩ phải đi. Ninh Du, Hàm Trang Tử, Sĩ Vinh, ba người cùng đi theo Vệ Thành công. Khi Vệ Thành công đi đến đất Ôn Ấp, Tấn Văn công không cho vào yết kiến, lại phái một toán quân bắt mà giam lại. Các nước chư hầu họp tại Ôn Ấp, cả thảy mười nước là: 1- Tấn 2- Tề 3- Tống 4- Lỗ 5- Sái 6- Tần 7- Trịnh 8- Trần 9- Châu 10- Cử Chỉ có nước Hứa là một mực thủ hiểm, không chịu theo lệnh Tấn Văn công. Đúng ngày mồng 1 tháng 10 thì Chu Tương Vương ngự đến. Tấn Văn công đem các vua chư hầu đi đón, rồi làm lễ triều kiến, mũ áo cân đai trông rất nghiêm chỉnh. Khi triều kiến xong, Tấn Văn công đem sự tình Thúc Vũ nước Vệ bị oan tâu với Chu Tương Vương và xin sai Vương tử Hổ cùng xử quyết cái án ấy. Chu Tương Vương thuận cho, Tấn Văn công mời Vương tử Hổ về nhà công quán, rồi sai người gọi Vệ Thành công. Vệ Thành công mặc áo tù y đến. Quan Đại phu nước Vệ là Nguyên Huyến cũng đến. Vương tử Hổ nói với Tấn Văn công rằng: - Chẳng lẽ hai vua tôi lại đối tụng với nhau thì không tiện, xin cho người khác vào thay. Nói xong, truyền cho Vệ Thành công lui xuống nhà dưới. Ninh Du theo liền bên cạnh Vệ Thành công, không dời ra một bước nào cả, Hàm Trang Tử thay Vệ Thành công vào đối tụng với Nguyên Huyến. Sĩ Vinh được quyền làm trị ngục quan để đối chứng việc ấy. Nguyên Huyến miệng nói trơn như nước chảy, kể hết đầu đuôi từ khi Vệ Thành công trốn ra ở đất Tương Ngưu, dặn lại Thúc Vũ giữ nước như thế nào, về sau vì thế nào mà giết chết Nguyên Dốc và lại giết Thúc Vũ. Hàm Trang Tử nói: - Đó là tại Chuyên Khuyển đem lời gièm pha, để khiến cho Chúa công nghe lầm, không can dự gì đến Chúa công. Nguyên Huyến nói: - Chuyên Khuyển lúc trước có nói với tôi xin lập Thúc Vũ, nếu tôi nghe lời thì khi nào Chúa công lại được trở về, chỉ vì tôi nghĩ đến cái lòng yêu anh của Thúc Vũ mà tôi cự tuyệt Chuyên Khuyển, ai ngờ Chuyên Khuyển lập kế báo thù, nhưng nếu Chúa công không có lòng nghi kỵ Thúc Vũ thì Chuyên Khuyển gièm pha thế nào nổi. Tôi sai con tôi là Nguyên Dốc theo hầu Chúa công, để tỏ bày tâm tích, ấy chính là cái lòng tốt của tôi, thế mà tự nhiên vô cớ, không có tội gì, bắt đem giết đi, suy cái việc giết con tôi là Nguyên Dốc thì đủ biết Chúa công có cái lòng định giết Thúc Vũ. Sĩ Vinh bẻ lại rằng: - Nhà ngươi vì sự con mình bị giết mà đem lòng thù oán chứ không phải vì Thúc Vũ. Nguyên Huyến nói: - Tôi vẫn thường nói: Giết con là oán riêng, giữ nước là việc lớn, có đâu tôi dám vì oán riêng mà bỏ việc lớn. Ngày trước Thúc Vũ dâng thư xin với vua Tấn phục quốc cho anh thì bức thư ấy chính tay tôi làm, nếu tôi đem lòng thù oán, khi nào tôi chịu như thế. Việc giết Nguyên Dốc, trước tôi cũng cho là một sự nghe lầm, tất có ngày phải hối mà nghĩ lại, ngờ đâu di lụy đến Thúc Vũ ngày nay! Sĩ Vinh nói: - Thúc Vũ không có ý cướp ngôi, Chúa công ta cũng đã xét tình rồi. Việc bị Chuyên Khuyển giết, không phải tự ý Chúa công. Nguyên Huyến nói: - Chúa công đã biết thúc Vũ không có ý cướp ngôi, những lời Chuyên Khuyển nói, toàn là bịa đặt cả, vậy thì sao không trị tội Chuyên Khuyển, mà lại nghe lời hắn, trước hẹn đem quân về nước, khi về nước lại cho hắn làm tiền khu, có phải là rõ ràng mượn tay Chuyên Khuyển để giết Thúc Vũ, sao lại bảo rằng không biết. Hàm Trang Tử cúi đầu không nói được một câu nào. Sĩ Vinh lại bẻ Nguyên Huyến rằng: - Thúc Vũ dẫu bị oan khổ, nhưng Thúc Vũ là bề tôi, Chúa công là vua; xưa nay bề tôi bị vua giết oan, biết bao nhiêu mà kể cho xiết! Vả Chúa công đã giết Chuyên Khuyển và làm lễ hậu táng cho Thúc Vũ, thế là thưởng phạt phân minh lắm rồi, còn tội gì nữa! Nguyên Huyến nói: - Ngày xưa, vua Kiệt giết oan Long Bàng, vua Thang cử binh đánh vua Kiệt; vua Trụ giết oan Tỉ Can, vua Vũ Vương cử binh đánh vua Trụ. Vua Thang và vua Vũ Vương đều là bề tôi của vua Kiệt vua Trụ cả, thế mà trông thấy người trung lương bị oan khổ, cũng phải cử binh để giết kẻ hung tàn, huống chi Thúc Vũ cùng với Chúa công là tình anh em, mà lại có công giữ nước, không phải như Long Bàng và Tỉ Can mà thôi, Chúa công ngày nay chẳng qua còn là chư hầu, chưa phải là Thiên tử như vua Kiệt và vua Trụ, sao lại cho là vô tội được. Sĩ Vinh cùng từ, không cãi sao được nữa, lại nói lảng rằng: - Chúa công dẫu trái nữa, nhưng nhà ngươi là bề tôi, nếu đã một lòng tận trung với Chúa công thì sao khi Chúa công về nước, nhà ngươi không ra triều kiến mà lại bỏ trốn, là nghĩa thế nào? Nguyên Huyến nói: - Tôi cùng Thúc Vũ giữ nước, thật là vâng mệnh Chúa công, thế mà Chúa công còn không bao dung Thúc Vũ, khi nào lại có lòng bao dung đến tôi. Tôi trốn đi, không phải là sợ chết tham sống, chỉ muốn vì Thúc Vũ mà bày tỏ cái oan khổ này! Tấn Văn công nghe nói, ngoảnh lại bảo Vương tử Hổ rằng: - Xem Sĩ Vinh và Nguyên Huyến nói bấy nhiêu lời thì bên nào cũng có lẽ phải, nhưng Nguyên Huyến lý thẳng hơn. Vua nước Vệ là bề tôi Thiên tử, tôi không dám trị tội, nay hãy xin trị tội những kẻ về đảng với vua nước Vệ. Nói xong, liền sai đem chém tất cả những kẻ về đảng với Vệ Thành công. Vương tử Hổ nói: - Tôi nghe nói Ninh Du là một quan đại phu hiền ở nước Vệ, mà trong việc này Ninh Du cũng khuyên bảo, nhưng vua nước Vệ không nghe. Vả việc này không can dự gì đến Ninh Du, chớ nên bắt tội. Sĩ Vinh được quyền trị ngục quan mà xét đoán không minh thì nên trị tội trước nhất. Hàm Trang Tử biết là trái lẽ, không cãi câu nào, cũng nên giảm bớt tội cho. Tấn Văn công theo lời, truyền chém đầu Sĩ Vinh, chặt chân Hàm Trang Tử, còn Ninh Du thì tha không hỏi đến. Tấn Văn công cùng Vương Tử Hổ đem những lời nói của hai bên nguyên, bị vào tâu với Chu Tương Vương và xin trị tội Vệ Thành công. Chu Tương Vương nói: - Thúc phụ xử đoán thật là minh lắm! Nhưng Trẫm e rằng vì bề tôi mà giết vua thì sao cho phải đạo, chứ Trẫm có tư tình gì với vua Vệ đâu! Tấn Văn công sợ hãi, sụp lạy mà xin lỗi rằng: - Kẻ hạ thần không nghĩ đến điều ấy, Thiên Tử đã dạy như vậy thì xin giải vua Vệ về kinh sư để tùy lượng trên xử đoán. Tấn Văn công truyền cho quân sĩ canh giữ Vệ Thành công để giải về kinh sư; lại một mặt cho Nguyên Huyến trở về nước Vệ lập vua khác. Nguyên Huyến về đến nước Vệ, cùng với các quan triều thần thương nghị, nói dối là Vệ Thành công đã bị tội chết rồi, nay phụng mệnh Thiên Tử về lập vua khác. Các quan triều thần cùng cử em ruột Thúc Vũ là Công tử Thích, tên tự là Tử Hà. Công tử Thích vốn là người nhân hậu. Nguyên Huyến nói: - Lập Công tử Thích là phải lắm, anh chết thì để cho em. Nói xong, liền tôn Công tử Thích lên nối ngôi. Nguyên Huyến làm tể tướng. Từ bấy giờ nước Vệ mới hơi được yên ổn.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  4. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 43 Ninh Du lập kế cứu vua Vệ Chúc Vũ thương thuyết lui quân Tần

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khi các vua chư hầu làm lễ triều kiến xong, Chu Tương Vương trở về nhà Chu. Tấn Văn công và các vua chư hầu kéo nhau đi tiễn. Tiên Miệt giải Vệ Thành công về kinh sư. Bấy giờ Vệ Thành công hơi có bệnh, Tấn Văn công sai quan thầy thuốc là Y Diễn đi theo, giả cách chữa bệnh cho Vệ Thành công, kỳ thực thì sai đánh thuốc độc cho chết, mà giao cho Y Diễn phải làm đắc lực, nếu không thì trị tội. Tấn Văn công lại dặn riêng Tiên Miệt phải cùng với Y Diễn lưu ý về việc ấy. Chu Tương Vương về rồi, Tấn Văn công bảo các vua chư hầu rằng: - Ta phụng mệnh Thiên Tử, được chuyên giữ việc đánh dẹp các nước. Nay người nước Hứa một lòng theo Sở, không thần phục nhà Chu; Thiên Tử nhà Chu tới đây, các vua đều phải đến triều kiến cả, thế mà nước Hứa ở gần đây, có ý khinh thường, dám coi như không, vậy tôi xin cùng với các vua chư hầu đến hỏi tội nước Hứa. Các vua chư hầu đều xin vâng mệnh. Tấn Văn công cùng với tám nước chư hầu là Tề, Tống, Lỗ, Sái, Trần, Tần, Cử và Châu đem quân tiến sang nước Hứa. Chỉ có Trịnh Văn công nguyên trước thân thuộc nước Sở, vì sợ uy nước Tấn, phải đến dự hội, nhưng thấy Tấn Văn công đối đãi với vua Tào và vua Vệ, có ý không bằng lòng, nghĩ thầm trong lòng rằng: - Khi vua Tấn còn đi trốn, nước ta đã thất lễ với hắn, chắc hắn cũng không quên được cái thù ấy, xem như hắn đối đãi với vua Tào và vua Vệ thì biết, chi bằng ta cứ tư thông với Sở, phòng khi hoạn nạn, ta có chỗ mà lui thân. Quan Thượng khanh nước Trịnh là Thúc Thiêm thấy Trịnh Văn công trù trừ, có ý muốn làm phản nước Tấn, mới can Trịnh Văn công rằng: - May mà vua Tấn đã cho ta giảng hòa, Chúa công chớ nên làm phản, nếu làm phản thì tất có tai vạ. Trịnh Văn công không nghe, nói dối là trong nước có bệnh dịch, phải về làm lễ cầu cúng, rồi cáo từ Tấn Văn công xin về; lại sai người sang giao hiếu với Sở, và nói với Sở Thành Vương rằng: - Vua Tấn ghét nước Hứa thần phục quí quốc mà đem quân các nước chư hầu đền đánh, nước tôi sợ uy quí quốc, không dám dự hội, xin nói để quí quốc biết. Người nước Hứa nghe tin các nước chư hầu đến đánh, cũng sai người cáo cấp với Sở Thành Vương. Sở Thành Vương nói: - Quân ta mới thua, không nên sinh sự với Tấn vội, đợi khi nào nước Tấn chán việc tranh chiến, bấy giờ ta sẽ cùng Tấn giảng hòa. Sở Thành Vương không đem quân đi cứu Hứa. Các nước chư hầu đem quân vây đất Dĩnh Dương (kinh thành nước Hứa). Bấy giờ Tào Cung công vẫn bị giam ở trong thành Ngũ Lộc, chờ mãi không thấy Tấn Văn công có lệnh truyền tha, muốn tìm một người có tài ngôn luận sang kêu với Tấn Văn công. Có một viên quan nhỏ ở nước Tào là Hầu Nhu xin đi và đem theo nhiều đồ lễ vật. Tào Cung công cho đi. Hầu Nhu nghe tin các nước chư hầu họp ở nước Hứa, mới đi tắt đến đất Dĩnh Dương, xin vào yết kiến Tấn Văn công. Gặp bấy giờ Tấn Văn công nhân khi hành quân mệt nhọc, bị cảm hàn. Đêm hôm ấy nằm mộng thấy một con ma đội mũ mặc áo, kêu với Tấn Văn công xin cho bữa ăn. Tấn Văn công quát to lên một tiếng thì con ma ấy lui ra, từ đó bệnh thế mỗi ngày một nặng, cứ nằm liệt một chỗ không dậy được, định triệu quan Tái bốc là Quách Yển vào để bói một quẻ. Hầu Nhu biết vậy, mới đem một xe vàng lụa đưa cho Quách Yển và kể hết sự tình, nhờ Quách Yển mượn việc quỉ thần nói hộ cho nước Tào, Quách Yển nhận lời, khi vào yết kiến Tấn Văn công, bói được quẻ "thiên trạch" Tấn Văn công hỏi: - Quẻ này tốt xấu thế nào? Quách Yển nói: - Cứ như quẻ này thì tất có những vị quỉ thần không ai cúng tế, mà đến kêu với Chúa công xin tha tội cho. Tấn Văn công nói: - Việc cúng tế quỉ thần, ta không ngăn cấm bao giờ. Vả quỉ thần còn có tội gì mà phải xin tha. Quách Yển nói: - Cứ như tôi thiển nghĩ thì hoặc giả là nước Tào chăng! Chúa công đã ngỏ lời trả lại cho nước Tào và nước Vệ, nay nước Vệ đã được phục quốc rồi, mà nước Tào chưa được phục quốc, vậy nên tiên tổ nước Tào báo mộng mà kêu với Chúa công chăng. Tấn Văn công nghe nói, bỗng thấy trong mình khoan khoái, bệnh thế nhẹ đi đến một nửa, liền sai người triệu Tào Cung công ở đất Ngũ Lộc, cho về nước Tào, mà bao nhiêu những ruộng đất của nước Tào đều trả lại cả. Tào Cung công mừng lắm, tức khắc đến thẳng đất Dĩnh Dương, tạ ơn Tấn Văn công, rồi cùng với các chư hầu vây nước Hứa, Tấn Văn công dần dần khỏi bệnh. Hứa Hi công thấy nước Sở không đem quân đến cứu, mới mở cửa ra thành xin hàng. Tấn Văn công cùng các vua chư hầu đều rút quân về nước. Trong khi từ biệt Tần Mục công ước với Tấn Văn công rằng: - Ngày sau có việc chiến tranh gì thì Tấn Tần hai nước tất phải giúp đỡ lẫn nhau. Tấn Văn công về đến nửa đường, nghe tin Trịnh Văn công sai sứ tư thông với Sở, tức thì nổi giận, toan đem quân đi đánh. Triệu Thôi can rằng: - Chúa công mệt nhọc mới khỏi. Vả quân các nước chư hầu đều tan về cả, chi bằng ta hãy nghỉ yên trong một năm, rồi sau sẽ liệu kế đánh Trịnh. Tấn Văn công truyền rút quân về. Chu Tương Vương về đến kinh sư, truyền cho quan Thái Tể nghị tội Vệ Thành công, rồi giam vào một nơi tù thất. Chu Tương Vương muốn bảo toàn cho Vệ Thành công, chỉ vì sợ trái ý Tấn Văn công, mới phải giam lại một chỗ, nhưng kỳ thực thì vẫn có lòng khoan đãi. Ninh Du lúc nào cũng theo liền Vệ Thành công, chẳng rời ra một bước. Phàm các đồ ăn uống, Ninh Du đều nếm trước tất cả, rồi mới tiến dâng Vệ Thành công. Tiên Miệt đã nhiều lần giục Y diễn đánh thuốc độc cho Vệ Thành công, ngặt vì Ninh Du phòng bị rất cẩn mật, vậy nên Y Diễn không làm nổi, bất đắc dĩ phải đem thực tình nói với Ninh Du rằng: - Vua Tấn là người nghiêm khắc lắm, nếu ai trái ý thì tất bị giết, nay tôi phụng mệnh vua Tấn sai đánh thuốc độc cho vua Vệ, mà làm không được việc thì tính mệnh tôi cũng khó lòng được bảo toàn, vậy thì nhà ngươi nên ngơ đi, để cho tôi khỏi chết. Ninh Du ghé tai bảo thầm rằng: - Nhà ngươi đã nói thực với ta thì ta cũng xin bàn mưu hộ nhà ngươi. Vua Tấn nay đã già rồi, hay tin việc ma quỉ, mới rồi vua Tào được tha, cũng chỉ vì một câu nói của người thầy bói; nay nhà ngươi làm nhẹ thuốc độc chứ, để dâng Chúa công ta mà giả thác về việc quỉ thần thì vua Tấn tất không trị tội. Chúa công ta thế nào cũng xin hậu tạ. Y diễn hiểu ý lui ra. Ninh Du giả cách phụng mệnh Vệ Thành công đến xin rượu thuốc của Y diễn về để chữa bệnh, rồi nhân tiện đưa cho Y diễn một hòm bảo ngọc. Y Diễn bảo Tiên Miệt rằng: - Vua Vệ đã đến ngày tận số! Nói xong, liền hòa thuốc độc vào bình rượu đem dâng Vệ Thành công, nhưng làm thuốc độc rất nhẹ, lại pha thêm thuốc khác để cho nó lẫn sắc đi, ai trông cũng không biết được. Ninh Du xin nếm trước. Y diễn giả cách không cho, rồi cố ép Vệ Thành công mà đổ vào miệng, bắt phải uống ngay. Vệ Thành công mới uống được mấy hớp thì Y Diễn trợn mắt, ngả lăn xuống giữa sàn, miệng hộc máu tươi ra, bất tỉnh nhân sự. Bình rượu rơi vỡ, thuốc độc lênh láng cả dưới đất. Ninh Du giả cách giật mình kinh ngạc, sai người vực Y Diễn dậy, hồi lâu mới dần dần tỉnh lại. Ninh Du hỏi: - Tại sao vậy? Y Diễn nói: - Lúc tôi đang đổ rượu thuốc, bỗng thấy một hình nhân mình cao hơn một trượng, mặt mũi khôi ngô, ở trên trời rơi xuống, bước vào trong nhà, tự xưng là Đường Thúc (tổ tiên nước Tấn) đến cứu vua Vệ rồi cầm cái dùi đồng đập vỡ bình rượu thuốc, làm cho tôi chẳng còn hồn vía nào nữa! Vệ Thành công cũng tự nói là mắt trông thấy như lời nói của Y Diễn. Ninh Du giả cách nổi giận nói: - Thế ra mày dùng thuốc độc để hại Chúa công ta, nếu không được thần nhân đến giải cứu thì còn gì nữa! Ta cùng với mày quyết không cùng sống. Nói xong liền xông lại đánh Y Diễn. Các người xung quanh đều khuyên can Ninh Du. Tiên Miệt nghe tin cũng vội vàng chạy đến, bảo Ninh Du rằng: - Vua Vệ đã được thần nhân giúp, tất nhiên hưởng lộc còn lâu dài, để tôi sẽ nói với Chúa công tôi. Vệ Thành công dẫu có phải uống thuốc độc, nhưng thuốc làm rất nhẹ, bởi vậy ốm qua loa rồi lại khỏi. Tiên Miệt cùng Y Diễn về nước Tấn, đem việc ấy nói lại Tấn Văn công. Tấn Văn công tin là chuyện thực, liền tha Y Diễn mà không trị tội. Lỗ Hi công nguyên là thân thuộc với Vệ, nghe tin Y Diễn dâng thuốc độc mà Vệ Thành công không chết, Tấn Văn công lại không trị tội Y Diễn, mới hỏi Tang Thôn Thần rằng: - Vua Vệ có thể về nước được hay không? Tang Thôn Thần nói: - Về được. Lỗ Hi công nói: - Tại sao mà biết? Tang Tôn Thần nói: - Vua Tấn trị tội vua Vệ, không dùng hình pháp mà lại sai Y Diễn đánh thuốc độc; Y Diễn làm không xong việc mà vua Tấn không dám giết Y Diễn, thế là sợ cái tiếng giết vua Vệ. Vua Vệ đã không chết thì có lẽ nào mà ở già đời ở nhà Chu hay sao! Nay chúa công làm ơn xin vua Tấn tha cho vua Vệ thì khi vua Vệ được về nước rồi, tất càng thêm thân tình với nước Lỗ ta. Các nước chư hầu, ai không phải phục cái cao nghĩa ấy. Lỗ Hi công bằng lòng, liền sai Tang Tôn Thần đem 10 đôi bạch bích vào dâng Chu Tương Vương để xin hộ cho vua Vệ, Chu Tương Vương nói: - Việc ấy là tự ý vua Tấn, nếu vua Tấn bằng lòng thì Trẫm có ghét gì vua Vệ. Tang Tôn Thần nói: - Chúa công tôi cũng sắp sai tôi sang nói với vua Tấn, nhưng nếu không bẩm mệnh Thiên tử trước thì tôi không dám đi. Chu Tương Vương nhận ngọc bạch bích, tỏ là có ý thuận cho. Tang Tôn Thần lại sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, cũng dâng 10 đôi bạch bích và nói với Tấn Văn công rằng: - Chúa công tôi với vua Vệ là tình thân thuộc, mà vua Vệ có tội thì Chúa công tôi không được yên lòng. Nay nhà vua đã tha tội cho vua Tào, vậy Chúa công tôi cũng xin đem lễ mọn này mà chuộc tội cho vua Vệ. Tấn Văn công nói: - Vua Vệ hiện nay ở kinh sư nhà Chu, việc này phải bẩm mệnh Thiên tử, chứ ta không dám tự chuyên. Tang Tôn Thần nói: - Nhà vua thay quyền Thiên tử để ra lệnh cho các nước chư hầu, nếu nhà vua bằng lòng tha tội cho vua Vệ thì tức là mệnh lệnh của Thiên tử đó. Tiên Miệt nói với Tấn Văn công rằng: - Chúa công vì nước Lỗ mà tha cho vua Vệ thì hai nước Lỗ, Vệ cùng thần phục Chúa công, còn gì lợi hơn nữa. Tấn Văn công thuận cho, liền sai Tiên Miệt cùng với Tang Tôn Thần sang tâu với Chu Tương Vương, rồi tha cho Vệ Thành công về nước. Bấy giờ Nguyên Huyến đã lập Công tử Thích lên làm vua nước Vệ, sửa sang thành quách, canh giữ rất nghiêm ngặt. Vệ Thành công sợ khi mình về nước, tất nhiên Nguyên Huyến không cho vào, mới bàn mưu với Ninh Du. Ninh Du nói: - Tôi nghe Chu Chuyên, Dã Cận khi trước có công phù lập Công tử Thích, mà xin làm quan khanh không được, bởi vậy trong lòng oán giận, nay ta nên kết với một người, tên gọi Khổng Đạt; người ấy kiến thức rộng lắm, cũng có quen Chu Chuyên và Dã Cận, bây giờ Chúa công bảo Khổng Đạt hẹn cho Chu Chuyên và Dã Cận làm chức quan khanh, để sai hai người ấy giết Nguyên Huyến, Nguyên Huyến chết rồi thì chẳng sợ ai nữa! Vệ Thành công nói: - Nhà ngươi vì ta mà mưu việc ấy, nếu sự đã thành rồi, ta có tiếc gì một chức quan khanh. Ninh Du liền sai người tâm phúc giả cách nói phao là Vệ Thành công dẫu được tha tội, không mặt mũi nào mà về nước, sắp sửa tránh sang ở nước Sở; rồi đem tờ thủ thư của Vệ Thành công giao cho Khổng Đạt, bảo hắn mật kết với Chu Chuyên và Dã Cận. Chu Chuyên và Dã Cận bàn nhau rằng: - Nguyên Huyến đêm nào cũng đi tuần ở trên mặt thành, nếu ta phục binh mà giết chết đi, rồi kéo vào trong cung giết nốt Công tử Thích, bấy giờ đi đón Chúa công, như thế chắc là hai ta có công to lắm! Nói xong, hai người đều cho quân phục sẵn để đến đêm thì khởi sự. Đêm hôm ấy Nguyên Huyến đi tuần tới cửa Đông môn, trông thấy Chu Chuyên và Dã Cận đi đến, Nguyên Huyến giật mình kinh sợ mà hỏi rằng: - Hai ngài đến đây có việc gì? Chu Chuyên nói: - Tôi nghe người đồn rằng vua cũ ta đã vào nước Vệ, sắp sửa tới đây, quan Đại phu lại không biết hay sao? Nguyên Huyến ngạc nhiên mà nói rằng: - Tin đồn ấy từ đâu mà lại? Dã Cận nói: - Tôi nghe Ninh Du có cho người vào thành, ước với các quan triều thần đi đón, Đại phu tính thế nào? Nguyên Huyến nói: - Đó là lời nói càn, ta chớ nên tin. Vả ngôi vua nhất định rồi, không có lẽ nào lại đón vua cũ. Chu Chuyên nói: - Quan Đại phu tay cầm quyền nước, nên phải trông xa muôn dặm, việc lớn như thế mà không biết thì người ta còn dùng ngài làm gì nữa! Dã Cận liền nắm hai tay Nguyên Huyến. Nguyên Huyến đang vùng vằng không chịu mà chống cự lại, Chu Chuyên cầm dao, quát to một tiếng, chém vỡ đầu Nguyên Huyến. Phục binh bốn mặt đổ ra. Những quân sĩ đi theo Nguyên Huyến đều bỏ chạy tán loạn cả. Chu Chuyên và Dã Cận đem quân đi diễu ở ngoài đường, reo ầm lên rằng: - Vua Vệ đã đem quân Tề và quân Sở về, đóng tại ngoại thành rồi! Nhân dân trong nước, đâu ở yên đấy, cấm không ai được náo động. Người nước Vệ bấy giờ nhà nào cũng đóng cửa thật chặt, không ai dám ra; các quan triều thần cũng nửa tin nửa ngờ, chưa hiểu sự thể ra làm sao cả, đều khoanh tay ngồi yên, để nghe ngóng tin tức. Chu Chuyên và Dã Cận kéo vào trong cung. Công tử Thích đang cùng với em là Công tử Nghi uống rượu. Công tử Nghi nghe nói mặt ngoài có chính biến, liền rút gươm cầm tay đi ra cửa cung, bị Chu Chuyên giết chết. Chu Chuyên lại vào tìm Công tử Thích, nhưng không thấy đâu cả, bấy giờ trong cung náo động cả lên; đến sáng ngày mai, mới biết Công tử Thích đã đâm đầu xuống giếng mà chết rồi. Chu Chuyên và Dã Cận đem thủ thư của Vệ Thành công tuyên yết ở chốn triều đường, rồi họp các quan đi đón Vệ Thành công về nước. Vệ Thành công về nước, chọn ngày vào tế ở nhà Thái miếu, lại theo lời ước cũ phong cho Chu Chuyên và Dã Cận làm chức quan khanh, cho vào làm bồi tế. Đầu trống canh năm ngày hôm ấy, Chu Chuyên mũ áo lên xe vào tế. Vừa vào đến cửa miếu, tự nhiên hai mắt trợn ngược, rồi quát to lên rằng: - Chu Chuyên! Mày là đứa tiểu nhân, tham chức quan khanh mà hại ta! Cha con ta một lòng vì nước, nay phải ngậm oan ở dưới suối vàng, để cho mày được mũ áo đi bồi tế, phỏng có sướng hay không? Ta chỉ bắt mày đem đến nộp Thúc Vũ và Công tử Thích, xem mày nói ra làm sao. Ta đây chính là quan Đại phu Nguyên Huyến đó. Nói xong, đổ máu mồm máu miệng ra, rồi chết tươi ở trong xe. Dã Cận đến sau, trông thấy giật mình kinh sợ, vội vàng cởi mũ áo quan khanh ra, giả cách nói bị bệnh cảm hàn mà trở về. Vệ Thành công đến nhà Thái miếu, phải cho Ninh Du cùng Khổng Đạt vào bồi tế thay cho Chu Chuyên và Dã Cận. Khi Vệ Thành công về triều thì đã tiếp được thư của Dã Cận xin từ chức quan khanh. Vệ Thành công thấy Chu Chuyên chết lạ như vậy, nên cũng không ép Dã Cận nữa, liền cho từ chức. Chưa được một tháng thì Dã Cận cũng ốm mà chết. Vệ Thành công nghĩ Ninh Du có công bảo giá toan dùng làm chức thượng khanh. Ninh Du nhường cho Khổng Đạt làm thượng khanh, Ninh Du làm Á khanh. Khổng Đạt bàn mưu với Vệ Thành công, đem việc Công tử Thích chết đổ lỗi cho Chu Chuyên và Dã Cận rồi sai sứ đến tạ ơn Tấn Văn công. Tấn Văn công cũng bỏ đi, không hỏi đến việc ấy nữa. Bấy giờ nước Tấn nghỉ quân đã được hơn một năm, Tấn Văn công họp các quan triều thần lại mà hỏi rằng: - Người nước Trịnh ngày trước vô lễ với ta, ta chưa báo thù, nước Trịnh lại bỏ ta mà theo Sở, ta muốn họp các vua chư hầu đến hỏi tội nước Trịnh, các ngươi nghĩ thế nào? Tiên Trẩn nói: - Các nước chư hầu đã động binh luôn mãi, nay vì cớ nước Trịnh mà lại động binh thì không phải là cách giữ yên trung quốc. Huống chi một quân nước ta cũng đủ dùng rồi, cần gì phải mượn đến quân chư hầu. Tấn Văn công nói: - Khi trước vua Tần từ biệt ta có ước với ta rằng sau này hai nước có việc chiến tranh, tất phải giúp đỡ lẫn nhau. Tiên Trẩn nói: - Nước Trịnh là một nơi trọng yếu ở trung quốc, bởi vậy Tề Hoàn công ngày xưa muốn làm bá chủ, tất phải tranh lấy nước Trịnh; nay ta ước với nước Tần cùng đánh thì Tần tất tranh mất, chi bằng ta chỉ dùng quân nước nhà mà thôi. Tấn Văn công nói: - Đất nước Trịnh tiếp giáp với địa giới nước Tấn ta mà xa nước Tần thì nước Tần còn lợi về cái gì. Nói xong, liền sai người sang ước với nước Tần, hẹn đến thượng tuần tháng chín cùng cử binh đi đánh Trịnh. Khi Tấn Văn công cử binh đi đánh Trịnh, cho Công tử Lan đi theo, Công tử Lan nguyên là thứ đệ của Trịnh Văn công, năm trước trốn sang nước Tấn, làm quan đại phu, đến lúc Tấn Văn công lên ngôi, Công tử Lan hầu hạ tay chân, một lòng trung cẩn, bởi vậy Tấn Văn công có lòng yêu. Lần này cho Công tử Lan đi theo là muốn dùng Công tử Lan làm một người hướng đạo, Công tử Lan chối từ, nói: - Người quân tử dẫu ở nước ngoài cũng không dám quên nước cũ của cha mẹ mình. Nay Chúa công sang đánh Trịnh, tôi không dám dự biết vào việc ấy. Tấn Văn công khen rằng: - Nhà ngươi thật là một người không bội bản! Nói xong liền lưu Công tử Lan ở Đông Đô, từ bấy giờ có ý muốn phù lập làm vua nước Trịnh. Quân Tấn đã vào địa giới nước Trịnh; Tần Mục công cũng đem quân kéo đến, thẳng tiến đến sông Khúc Vị. Quân Tấn đóng ở Hàm Lăng, về phía tây thành nước Trịnh. Quân Tần đóng ở đất Dĩ Nam, về phía Đông thành nước Trịnh. Quân Tấn và quân Tần ngày đêm vây kín bốn mặt. Trịnh Văn công sợ hãi, không biết làm ra thế nào, quan Đại phu là Thúc Thiêm nói với Trịnh Văn công rằng: - Tấn Tần hợp sức nhau thì thế mạnh lắm, ta không thể chống nổi nhưng nếu được một người biện sĩ ra nói với vua Tần, khiến cho nước Tần lui quân. Tần lui quân thì nước Tấn thế cô, ta chẳng sợ gì nữa! Trịnh Văn công nói: - Ai có thể ra nói với vua Tần được? Thúc Thiêm nói: - Dật Chi Hồ có thể dùng được. Trịnh Văn công liền sai Dật Chi Hồ. Dật Chi Hồ nói: - Việc ấy tôi không thể đương nổi, tôi xin cử một người để thay tôi. Người ấy ứng đối, miệng nói trơn như nước chảy, nhưng nay đã già rồi, nếu Chúa công phong chức cho mà khiến ra nói với vua Tần, chắc là vua Tần phải nghe. Trịnh Văn công hỏi: - Người nào vậy? Dật Chi Hồ nói: - Người ấy ở đất Khảo Thành, tên gọi Chúc Vũ, năm nay đã ngoài 70 tuổi, xin Chúa công trọng đãi mà sai đi thì tất được việc. Trịnh Văn công liền triệu Chúc Vũ vào triều. Khi Chúc Vũ vào, đầu râu tóc bạc, lưng đã hơi còng, chân bước lẩy bẩy. Các quan trông thấy ai cũng phải cười thầm. Chúc Vũ sụp lạy Trịnh Văn công mà nói rằng: - Chẳng hay Chúa công triệu lão thần có việc gì? Trịnh Văn công nói: - Dật Chi Hồ nói nhà ngươi có tài ngôn ngữ hơn người, ta muốn phiền nhà ngươi ra nói với vua Tần; nếu vua Tần chịu lui quân thì ta sẽ trọng dụng nhà ngươi. Chúc Vũ sụp lạy hai lạy mà chối từ rằng: - Tôi sức hèn tài mọn, đang lúc trai trẻ còn chẳng làm nên việc gì, nay đã già yếu, gân sức mỏi mệt, động cất tiếng nói lại ho hen, vậy tôi nói với vua Tần sao được. Trịnh Văn công nói: - Để cho nhà ngươi già mà không đắc dụng, ấy là cái lỗi của ta đó! Nay ta phong cho nhà ngươi làm chức á khanh, nhà ngươi cố đi giúp ta. Dật Chi Hồ đứng bên cạnh, lại nói hộ rằng: - Đại trượng phu già mà không đắc dụng, chẳng qua cũng là số mệnh. Nay Chúa công đã biết đến tiên sinh mà dùng, tiên sinh chớ nên từ chối. Chúc Vũ mới nhận lời. Bấy giờ quân Tần và quân Tấn vây thành gấp lắm; đêm hôm ấy, Chúc Vũ sai kẻ tráng sĩ dòng dây qua thành, xuống cửa Đông môn, rồi đi thẳng đến dinh quân Tần. Quân Tần không cho vào. Chúc Vũ đứng ngoài cửa dinh khóc ầm lên. Quân Tần bắt đem vào nộp Tần Mục công. Tần Mục công hỏi: - Nhà ngươi là người ở đâu? Chúc Vũ nói: - Lão thần là quan Đại phu nước Trịnh, tên gọi Chúc Vũ. Tần Mục công nói: - Vì việc gì mà nhà ngươi khóc? Chúc Vũ nói: - Tôi khóc vì nước Trịnh sắp mất. Tần Mục công nói: - Nước Trịnh sắp mất, sao nhà ngươi lại đến khóc ở dinh ta? Chúc Vũ nói: - Lão thần khóc nước Trịnh và khóc cả nước Tần nhân thể; nước Trịnh mất chẳng đáng tiếc, chỉ tiếc thay cho nước Tần! Tần Mục công nổi giận mà mắng rằng: - Nước ta có điều gì đáng tiếc? Nhà ngươi nói không hợp lý thì ta chém đầu đi! Chúc Vũ nét mặt không sợ hãi gì cả, ung dung mà đáp rằng: - Tấn Tần hợp sức mà đánh Trịnh thì Trịnh tất phải mất, không đợi nói nữa! Trịnh mất mà có ích được cho Tần, chẳng kể làm chi, nhưng chẳng những không ích mà lại có hại thì sao Chúa công lại chịu nhọc quân tốn của để giúp việc cho người khác như vậy! Tần Mục công nói: - Chẳng những không ích mà lại còn có hại là nghĩa thế nào? Chúc Vũ nói: - Nước Trịnh ở phía đông nước Tấn, nước Tần ở phía tây nước Tấn, đông tây cách nhau kể hàng nghìn dặm. Nước Tần có thể qua nước Tấn mà chiếm được nước Trịnh hay không? Nước Trịnh mất thì địa giới nước Trịnh thuộc về nước Tấn, chứ nước Tần có ích gì! Tần Tấn hai nước cùng giáp giới, thế lực vẫn ngang nhau, nếu nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh thì nước Tần tất mỗi ngày một suy yếu. Nay Chúa công mở đất hộ nước Tấn, làm cho nước mình suy yếu đi, tôi thiết tưởng bậc trí giả có đâu lại như thế! Vả Tấn Huệ công ngày xưa hẹn biếu Chúa công năm thành, khi đã về nước rồi thì lại bội ước, điều đó Chúa công cũng đã biết; Chúa công thì ơn với Tấn đã mấy đời, mà có thấy Tấn báo ơn chút nào không? Vua Tấn từ khi về nước, luyện binh tuyển tướng, chỉ chăm về việc đi tiếm đất nước ngoài, ngày nay mở đất ở phía đông, đã làm mất nước Trịnh rồi, ngày khác muốn mở đất ở phía Tây thì cái tai vạ ấy tất phải đến nước Tần. Chúa công lại không rõ việc nước Ngu và nước Quắc ngày xưa hay sao? Nước Tấn mượn đường nước Ngu để diệt nước Quắc; khi đã diệt được Quắc rồi thì lại quay về mà đánh nước Ngu. Vua Ngu dại dột mà giúp Tấn, đến nỗi mất nước, điều ấy thật nên lấy làm răn! Chúa công thi ơn với Tấn, đã chẳng ích gì, mà nước Tấn lập kế dùng Chúa công thì cái kế ấy lại khó lường được! Chúa công là trí giả mà mắc mưu Tấn như thế, vậy nên tôi đau lòng thay cho nước Tần! Tần Mục công ngẫm nghĩ hồi lâu, có ý cảm động, gật đầu mà nói rằng: - Quan Đại phu nói phải lắm! Bách Lý Hề nói với Tần Mục công rằng: - Chúc Vũ là một người biện sĩ, muốn cho ta bất hòa với Tấn, Chúa công chớ nên nghe. Chúc Vũ nói: - Nếu Chúa công giải vây cho nước tôi thì nước tôi xin kết nạp điều ước, bỏ Sở để hàng Tần; khi nào nước Tần có việc mà đi qua nước tôi thì nước tôi cung cấp. Tần Mục công có ý bằng lòng, liền cùng với Chúc Vũ lập điều ước, lại sai Kỷ Tử, Phùng Tôn và Dương Tôn ba tướng đóng quân lại để giữ hộ cho nước Trịnh. Có quân thám tử báo tin cho Tấn Văn công. Tấn Văn công nổi giận. Hồ Yển ở bên cạnh, nói với Tấn Văn công, xin đem quân đuổi theo để đánh quân Tần.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  5. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 44 Thúc Thiêm lâm hình cãi vua Tấn Huyền Cao giả bệnh khao quân Tần

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tần Mục công giảng hòa riêng với nước Trịnh, kết lập điều ước, rồi rút quân về. Tấn Văn công nổi giận. Hồ Yển nói với Tấn Văn công rằng: - Quân Tần dẫu đi, nhưng cũng chưa xa, tôi xin đem quân đi đuổi đánh. Quân Tần đã có lòng về thì tất không có chí muốn đánh, tôi chắc rằng chỉ một trận là đủ phá được quân Tần; ta đã phá được quân Tần thì quân Trịnh sợ mất vía, không đợi đánh mà tự khắc phải hàng. Tấn Văn công nói: - Không nên! Ngày xưa ta nhờ sức vua Tần mà về phục quốc, nếu không có vua Tần thì sao ta được thế này, bởi vậy Thành Đắc thần vô lễ với ta, mà ta còn lui quân ba xá để báo lại cái ơn ấy, huống chi là vua Tần! Vả không có quân Tần, ta cũng vây nổi nước Trịnh, chớ có lo gì! Nói xong, liền chia quân ra mấy mặt, cứ việc vây thành nước Trịnh, Trịnh Văn công lại bảo Chúc Vũ rằng: - Tần chịu lui quân là nhờ sức nhà ngươi, nhưng quân Tấn chưa lui thì biết làm thế nào? Chúc Vũ nói: - Tôi nghe nói vua Tấn yêu Công tử Lan lắm, nay ta sai người đón Công tử Lan về mà giảng hòa thì tất thế nào vua Tấn cũng thuận cho. Trịnh Văn công nói: - Việc này lại phải nhờ đến lão đại phu đi giúp cho mới được. Thạch Thân phủ nói với Trịnh Văn công rằng: - Chúc Vũ nhọc lắm rồi, để tôi xin đi thay. Nói xong, liền đem các đồ lễ vật đến dinh Tấn Văn công, xin vào yết kiến. Tấn Văn công cho vào, Thạch Thân Phủ sụp lạy dâng các đồ lễ vật và nói với Tấn Văn công rằng: - Chúa công tôi vì cơ ở gần nước Sở, nên vậy không dám ra mặt chống cự với Sở, nhưng kỳ thực vẫn thần phục nhà vua. Nay nhà vua đem quân đến đánh, chúa công tôi biết tội đã nhiều, có sai tôi đem các đồ lễ vật đến để tạ tội. Chúa công tôi có một người em là Công tử Lan, nay được hầu hạ nhà vua, xin nhà vua thương tình mà cho nước tôi được giảng hòa, nước tôi xin đón Công tử Lan về để cùng coi giữ quyền chính, không bao giờ dám đổi lòng. Tấn Văn công nói: - Nước ngươi lập kế khiến cho Tần lui quân là có ý khinh ta một mình không đánh nổi; nay lại xin giảng hòa, chẳng qua là muốn dùng kế hoãn binh để đợi quân Sở đến cứu viện đó thôi, nếu nước ngươi muốn cho ta lui quân thì tất phải theo ta hai điều: Thạch Thân Phủ nói: - Hai điều là những gì, xin nhà vua cứ dạy. Tấn Văn công nói: - Một là phải lập Công tử Lan làm thế tử; hai là phải đem Thúc Thiêm sang nộp ta thì ta mới cho là thực. Thạch Thân Phủ về nói với Trịnh Văn công. Trịnh Văn công nói: - Ta chưa có con trai, mà ta nghe Công tử Lan ngày xưa có ứng vào mộng triệu, nay ta lập làm thế tử cũng có thể được; còn Thúc Thiêm là bề tôi tay chân của ta, ta bỏ đi thế nào cho đành! Thúc Thiêm nói: - Vua Tấn đòi bắt tôi, nếu tôi không sang thì không chịu lui quân, vậy thì có đâu tôi dám sợ chết mà để cho Chúa công lo nhục. Xin Chúa công cứ cho tôi đi. Trịnh Văn công nói: - Ta không nỡ để cho nhà ngươi đi vì nhà ngươi đi thì tất phải chết! Thúc Thiêm nói: - Chúa công không nỡ để cho tôi chết, mà nỡ để cho trăm họ phải lầm than khổ sở hay sao! Vậy thì bỏ một mạng tôi mà cứu được trăm họ, Chúa công tiếc gì! Trịnh Văn công ứa nước mặt khóc mà cho đi. Thạch Thân Phủ đưa Thúc Thiêm sang nộp Tấn Văn công và xin đón Công tử Lan về để lập thế tử. Tấn Văn công bằng lòng, bảo Thạch Thân Phủ hãy đợi ở trong dinh, rồi sai Hồ Yển đến Đông Đô triệu Công tử Lan. Tấn Văn công trông thấy Thúc Thiêm, quát to lên mà mắng rằng: - Nhà ngươi cầm quyền chính nước Trịnh, mà để cho Trịnh thất lễ với ta, đó là một tội; nước Trịnh đã dự hội với ta, mà lại bội ước, đó là hai tội! Nói xong liền sai quân sĩ đem vạc dầu ra để sắp sửa mổ Thúc Thiêm. Thúc Thiêm vẫn cứ nghiễm nhiên, không sợ hãi gì cả, chắp tay mà nói với Tấn Văn công rằng: - Tôi đành phận chết, nhưng xin nhà vua hãy cho tôi nói hết lời! Tấn Văn công nói: - Nhà ngươi muốn nói điều gì? Thúc Thiêm nói: - Khi trước nhà vua qua nước tôi, tôi có nói với Chúa công tôi rằng: - Nhà vua là người hiền minh, mà các người theo hầu hạ đều là những bậc tài giỏi cả, vậy thì khi về nước tất làm bá chủ; đến khi nhà vua hội chư hầu ở đất Ôn Địa, tôi lại khuyên Chúa công tôi một lòng thờ Tấn, chớ có bội ước, nhưng trời làm hại nước tôi, khiến cho lời nói của tôi không được dùng. Nay nhà vua bắt tôi, Chúa công tôi cũng thương là vô tội, toan không cho đi; tôi xin liều một mình để cứu cho trăm họ. Thương ôi! Việc gì cũng liệu được trước thế là điều trí; một lòng giúp nước, thế là điều trung; không tránh lúc hoạn nạn thế là điều dũng; liều mình để cứu trăm họ, thế là điều nhân. Có người bề tôi đủ cả nhân, trí, trung, dũng như thế, mà ai ngờ pháp luật nước Tấn phải bắt đem mà mổ đi! Nói xong, tay nắm cái vạc dầu mà kêu to lên rằng: - Từ nay trở đi, những người làm bề tôi, nên lấy Thúc Thiêm này làm răn! Tấn Văn công nghe lời, có ý cảm động, liền truyền tha cho Thúc Thiêm, và bảo Thúc Thiêm rằng: - Ta thử nhà ngươi đó thôi! Nhà ngươi thật là một người liệt sĩ! Từ bấy giờ có ý trọng đãi. Một hôm, Công tử Lan ở Đông Đô, Tấn Văn công bảo cho biết sự thể nước Trịnh đón về, lại sai Thúc Thiêm và bọn Thạch Thân Phủ phải lấy lễ tử tế mà yết kiến, rồi đón cho vào trong thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lập Công tử Lan làm thế tử. Bấy giờ Tấn Văn công mới rút quân về nước. Năm ấy, Ngụy Thù say rượu, ngã xe gãy tay, bệnh cũ lại phát, rồi hộc máu miệng ra mà chết. Tấn Văn công cho con Ngụy Thù là Ngụy Khỏa được nối quan tước. Chưa bao lâu, Hồ Mao và Hồ Yển cũng đều ốm chết cả. Tấn Văn công thương xót vô cùng mà khóc rằng: - Ta được thoát nạn mà có ngày nay là nhờ sức của hai Quốc cữu, chẳng ngờ hai Quốc cữu lại bỏ ta mà đi, khiến cho ta như người mất cánh tay phải, thương ôi! Tư Thần nói với Tấn Văn công rằng: - Chúa công tiếc tài hai vị Quốc cữu, tôi xin cử một người khác cũng có tài làm khanh tướng được. Tấn Văn công nói: - Nhà ngươi định cử ai? Tư Thần nói: - Ngày trước tôi đi sứ qua đồng Ký Giã, trông thấy một người đang cày ruộng, người vợ đem cơm đến bờ ruộng, hai tay bưng đưa cho chồng, người chồng cũng có nét mặt kính mà đỡ lấy. Lúc người chồng ăn thì người vợ đứng hầu bên cạnh, trong hai vợ chồng với nhau mà còn kính trọng nhau như khách lạ, huống chi là khi đối với người khác. Tôi nghe nói người biết giữ lễ phép là người có đức hạnh, bởi vậy tôi mới đến hỏi họ tên thì tức là con trai Khước Nhuế, tên gọi Khước Khuyết. Nếu nước Tấn ta dùng được người ấy thì cũng chẳng kém gì Hồ Quốc cữu. Tấn Văn công nói: - Cha là người có tội, chẳng lẽ mình lại dùng người con! Tư Thần nói: - Nghiêu, Thuấn là cha mà có con là Đan Chu và Thương Quân là người dở; Cổn là cha mà có con là vua Vũ là bậc thánh, thế mới biết người ta hay dở, cha con không can thiệp gì với nhau. Nay Chúa công lại nghĩ điều ác của người cha mà bỏ cái tài hữu dụng của người con hay sao! Tấn Văn công khen phải mà bảo rằng: - Nhà ngươi triệu đến đây cho ta. Tư Thần nói: - Tôi sợ người ấy trốn sang nước khác thì người ta dùng mất, vậy đã mời về ở tại nhà tôi. Xin Chúa công sai sứ đến triệu, mới phải đạo cầu hiền. Tấn Văn công theo lời, sai nội thị phụng mệnh đem mũ áo đến triệu Khước Khuyết. Khước Khuyết sụp lạy mà chối rằng: - Tôi là một kẻ nông phu ở Ký Giã, Chúa công không nghĩ đến tôi mà khoan dung cho, cũng đã đội ơn lắm rồi, huống chi còn dám lạm dự quan tước. Nội thị về nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công hai ba lần sai nội thị ra khuyên mời, Khước Khuyết mới đội mũ mặc áo vào triều. Khước Khuyết mình dài 9 thước, mũi cao mặt to, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông. Tấn Văn công trông thấy mừng lắm, liền cho Tư Thần làm chánh tướng ở đạo hạ quân, mà lấy Khước Khuyết làm phó tướng. Nước Tấn lại mới lập ra hai đạo quân là tân thượng quân và tân hạ quân. Tân thượng quân thì cho Triệu Thôi làm chánh tướng, mà lấy Cơ Trịnh làm phó tướng. Tân hạ quân thì cho Tư Anh (con Tư Thần) làm chánh tướng, mà lấy Tiên Đô làm phó tướng. Sở Thành Vương nghe tin nước Tấn sửa sang quân chính, có ý sợ hãi, mới sai quan Đại phu là Đấu Chương xin giảng hòa. Tấn Văn công nghĩ đến ơn cũ, cũng bằng lòng cho, sai quan Đại phu là Dương Xử Phủ sang báo sính với Sở. Trịnh Văn công mất. Các quan tôn người em Trịnh Văn công là Công tử Lan lên nối ngôi, tức là Trịnh Mục công, quả ứng vào cái triệu nằm mộng thấy cành hoa lan ngày trước. Tấn Văn công ốm nặng, gọi bọn Triệu Thôi, Tiên Trẩn, Hồ Xạ Cô và Dương Xử Phủ vào nghe di mệnh, để sau tôn Thế tử Hoan lên ngôi. Lại sợ các vị công tử khác có lòng tranh cạnh, mới cho Công tử Ung (con nàng Đỗ Kỳ) sang làm quan ở nước Tần; Công tử Lạc (con nàng Doanh Thần) sang làm quan ở nước Trần; còn người con bé là Hắc Điến thì cho sang làm quan ở nhà Chu, để cầu thân với Thiên tử. Tấn Văn công mất, ở ngôi được 8 năm, sống lâu được 68 tuổi. Thế tử Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương công. Tấn Tương công đem linh cữu Tấn Văn công đưa ra quàn ở đất Khúc Ốc. Khi linh cữu ra khỏi cửa thành, tự nhiên trong có tiếng kêu to lên như tiếng trâu rống, mà linh cữu nặng lắm, xe không đi được. Các quan triều thần, ai cũng sợ hãi. Quan Thái bốc là Quách Yển bói một quẻ, rồi đoán trong quẻ bói rằng: - Trong mấy ngày nữa thì có giặc tự tây phương đến, nhưng quân ta đánh được, bởi vậy Tiên quân báo trước cho chúng ta biết. Các quan triều thần đều lạy tạ ở trước linh cữu. Bấy giờ linh cữu lại đi được như thường. Tiên Trẩn nói: - Tây phương tức là nước Tần. Tiên Trẩn liền sai người đi dọ thám xem tin tức nước Tần ra làm sao. Lại nói chuyện 3 tướng nước Tần là Kỷ Tử, Phùng Tôn và Dương Tôn đóng quân để giữ hộ cho nước Trịnh, thấy nước Tấn đưa Công tử Lan về nước Trịnh mà nước Trịnh lập làm thế tử mới tức giận mà nói rằng: - Chúng ta đóng quân ở đây để giúp nước Trịnh mà chống cự quân Tấn, ai ngờ nước Trịnh lại đầu hàng nước Tấn, vậy thì chúng ta thật là uổng công. Nói xong, liền sai người mật báo với Tần Mục công. Tần Mục công trong lòng cũng có ý giận, nhưng nể Tấn Văn công không dám nói ra, đến lúc Công tử Lan lên làm vua nước Trịnh, tiếp đãi bọn Kỷ Tử cũng không ra gì. Kỷ Tử mới cùng với Phùng Tôn và Dương Tôn thương nghị rằng: - Chúng ta đóng đồn ở đây không biết bao giờ cho xong việc, chi bằng ta mật tâu với Chúa công ta đem quân sang đánh lẻn lấy nước Trịnh thì chúng ta mới có lợi to được. Trong khi ba người đang thương nghị với nhau, lại nghe tin Tấn Văn công mất, Kỷ Tử liền chắp tay để lên trán mà khấn rằng: - Ấy là lòng trời tựa cho chúng ta được thành công đó! Kỷ Tử sai người tâm phúc về mật tấu với Tần Mục công rằng: - Nước Trịnh giao cho chúng tôi giữ mặt Bắc Môn, nếu Chúa công cho một đạo quân lẻn sang đánh Trịnh, đã có chúng tôi làm nội ứng thì tất phá vỡ được. Nước Tấn đang có tang, tất không sang cứu nước Trịnh; vả vua Trịnh cũng mới lên nối ngôi, việc phòng thủ chưa sửa sang lắm, Chúa công chớ nên bỏ mất cái cơ hội này. Tần Mục công tiếp được mật thư, liền cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề thương nghị. Kiển Thúc và Bách Lý Hề đồng thanh mà can rằng: - Nước Tần ta xa cách nước Trịnh kể hàng nghìn dặm, không thể chiếm cứ lấy đất nước Trịnh được, chẳng qua chỉ lợi về những đồ châu báu mà thôi. Ta đem quân đi nghìn dặm, tài nào che được mắt thiên hạ, nếu kẻ kia biết mà phòng thủ trước, có phải là ta uổng công khó nhọc lắm không? Vả mình đem quân đi sang đóng đồn để giữ hộ cho người ta, mà nay lại đánh người ta, sao gọi là tín, nhân lúc người ta có tang mà đánh, sao gọi là nhân, việc này thành thì lợi nhỏ, không thành thì hại lớn, sao gọi là trí. Suy trong ba điều ấy thì chúng tôi chắc là việc ấy không nên làm. Tần Mục công không bằng lòng mà đáp rằng: - Ta đây, ba lần lập vua cho nước Tấn, hai lần dẹp loạn cho nước Tấn, uy danh lừng lẫy khắp trong thiên hạ, chỉ vì vua Tấn đánh được quân Sở ở Thành Bộc, vậy nên ta nhường cho làm bá chủ, nay vua Tấn tạ thế rồi, thiên hạ còn ai địch nổi với ta. Nước Trịnh theo Tấn, chẳng qua như chon chim tựa người, có lúc cũng phải bay đi, chi bằng ta nhân cơ hội này sang diệt nước Trịnh, rồi đổi cho Tấn mà lấy đất Hà Đồng thì Tấn tất phải nghe, sao lại bảo rằng không lợi. Kiển Thúc lại nói: - Sao Chúa công không sai người sang viếng tang nước Tấn, nhân tiện mà viếng nước Trịnh để dò xem tình hình nước Trịnh có nên đánh hay không? Chớ nên nghe lời bọn Tử Kỷ vội. Tần Mục công nói: - Nếu đợi đi viếng tang rồi mới đem quân sang đánh thì những đi cùng về, đã gần một năm, sao cho hợp với binh pháp. Binh pháp qui hồ nhanh chóng như tiếng sấm vang, không ai bưng tai kịp, nay nhà ngươi già lẫn, không hiểu điều ấy! Nói xong, liền sai người mật báo cho bọn Kỷ Tử biết trước rằng đến thượng tuần tháng hai thì đem quân tới Bắc Môn để đánh Trịnh, rồi tức khắc cho Mạnh Minh (con Bách Lý Hề) làm chánh tướng, Tây Khất Thuật và Kiển Bính (con Kiển Thúc) làm phó tướng, đem hơn hai nghìn quân thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Khi Mạnh Minh và Kiển Bính đem quân đi, Bách Lý Hề cùng với Kiển Thúc ra tiễn, khóc mà bảo rằng: - Thương ôi! Ta trông thấy con đi mà không được trông thấy con về. Tần Mục công giận lắm, sai người trách Bách Lý Hề và Kiển Thúc rằng: - Sao nhà ngươi lại dám khóc quân ta, muốn làm cho quân ta ngã lòng hay sao! Bách Lý Hề và Kiển Thúc nói: - Tôi có dám khóc quân đâu, tôi chỉ khóc riêng đứa con tôi mà thôi. Kiển Bính thấy cha khóc, toan từ chối không đi, Kiển Thúc nói: - Cha con ta ăn lộc nước Tần bấy lâu, nay con chết để báo ơn nước Tần cũng phải đạo. Nói xong, liền đưa cho Kiển Bính một bức thư, niêm phong rất kỹ, lại dặn một câu rằng: - Con cứ theo lời trong bức thư này! Kiển Bính vâng lời rồi đi, nhưng trong lòng vừa nghi hoặc, vừa buồn rầu, chỉ có Mạnh Minh cậy tài vũ dũng, chắc là thế nào cũng thành công, không lấy làm nghĩ. Khi đại binh đã đi xa rồi Kiển Thúc cáo ốm không vào triều và xin từ chức. Tần Mục công cố ép mãi. Kiển Thúc cáo là ốm nặng, rồi xin về ở Điệt Thôn, Bách Lý Hề đến tận nhà hỏi thăm, bảo Kiển Thúc rằng: - Tôi không phải là không biết cơ mà từ chức đâu, tôi sở dĩ còn lại là mong có ngày được trông thấy mặt con tôi, xin có điều gì Ngô huynh chỉ bảo cho. Kiển Thúc nói: - Quân Tần ta đi chuyến này tất thua, Hiền đệ mật bảo Công Tôn Chỉ sắp sẵn mấy chiếc thuyền đón ở sông Hoàng Hà, may ra các tướng thoát về được thì có đường mà trốn. Bách Lý Hề nói: - Ngô huynh dạy như vậy, tôi xin vâng lời. Tần Mục công nghe nói Kiển Thúc quyết chí xin về làm ruộng, mới tặng cho vàng đỏ 20 cân, lụa hoa 100 tấm. Các quan triều thần đều kéo nhau đi tiễn Kiển Thúc, ra ngoài cửa quan mới về. Bách Lý Hề cầm tay Công Tôn Chi, đem lời nói của Kiển Thúc thuật lại cho nghe và dặn Công Tôn Chi rằng: - Việc này, Kiển Tiên sinh không ủy thác cho ai mà ủy thác cho Tướng quân, là vì Tướng quân trung dũng, biết hết lòng mà lo việc nước nhà, Tướng quân nên lưu ý, chớ tiết lộ cho người ngoài biết. Công Tôn Chi nói: - Xin vâng lời. Nói xong, liền sắp sẵn mấy chiếc thuyền lớn để ra đón ở bên sông Hoàng Hà. Mạnh Minh thấy Kiển Thúc đưa cho Kiển Bính một phong mật thư, nghi là trong thư tất có kỳ kế để phá quân Trịnh, đêm hôm ấy nói với Kiển Bính xin cho xem. Kiển Bính mở thư ra đọc. Trong thư có mấy hàng chữ như sau này: "Chuyến đi này, không lo gì quân Trịnh, chỉ lo quân Tấn mà thôi. Chỗ hào sơn địa thế hiểm lắm, con nên cẩn thận. Không khéo thì ta phải nhặt xương con ở chỗ ấy đó!" Mạnh Minh trông thấy, liền ngoảnh mặt đi không nom nữa, mà nói rằng: - Thôi thôi! Các cụ già lẫn rồi! Kiển Bính cũng cho là vị tất đã đến như thế. Quân Tần khởi hành từ tháng chạp năm trước, đến tháng giêng năm sau qua cửa Bắc môn nhà Chu. Mạnh Minh nói: - Đây là chỗ thiên tử ở, ta nên kính lễ mới phải! Nói xong, truyền cho các tướng đều hạ mũ trụ, xuống xe đi đất. Tướng Tiên phong quân Tần là Bao Man Tử, vốn người có tài vũ dũng, khi đi khỏi cửa Bắc môn rồi, lại lên xe phóng ngựa chạy như bay. Mạnh Minh khen rằng: - Giả sử ai cũng như Bao Man Tử thì việc gì làm chẳng xong! Các tướng sĩ nghe nói, đều nhao nhao bảo nhau rằng: - Sao chúng ta lại chịu kém Bao Man Tử! Bấy giờ các tướng sĩ đều ganh đua nhau đi trước, quân kéo mau quá, trông như gió cuốn, như chớp nhoáng, vụt một nhát đã không thấy đâu nữa. Chu Tương Vương sai Vương tử Hổ và Vương Tôn Mãn ra xem quân Tần. Vương tử Hổ tâu với Chu Tương Vương rằng: - Quân Tần trông có vẻ vũ dũng như thế, còn nước nào địch nổi! Bấy giờ Vương Tôn Mãn tuổi hãy còn nhỏ, nghe lời Vương tử Hổ, mỉm cười mà không nói gì. Chu Tương Vương hỏi: - Cậu bé con kia! Ý nghĩ thế nào? Vương Tôn Mãn nói: - Cứ theo như trong lễ thì các nước đem quân qua chỗ Thiên tử ở, tất phải cuốn áo giáp và bỏ đồ binh khí rồi đi cho mau, bây giờ quân Tần chỉ hạ mũ trụ mà thôi, thế là không biết giữ lễ! Quân đã không biết giữ lễ tài nào khỏi rối loạn, chuyến đi này tôi chắc là quân Tần phải thua! Nước Trịnh có một người lái buôn, tên gọi Huyền Cao, vẫn làm nghề buôn trâu. Từ khi Vương tử Đái nhà Chu thích chơi trâu ở nước Trịnh và nước Vệ đem trâu đến bán, được lãi to lắm, bởi vậy Huyền Cao còn giữ nghề ấy. Huyền Cao dẫu là người lái buôn, nhưng vẫn có lòng trung quân ái quốc, chỉ vì không gặp người tiến dẫn, thành ra chẳng ai biết đến. Bấy giờ Huyền Cao buôn được mấy trăm con trâu béo, định đem sang nhà Chu để bán. Khi đến bến Lê Dương, gặp một người bạn quen tên là Kiển Tha. Kiển Tha mới ở nước Tần về. Huyền Cao hỏi Kiển Tha rằng: - Nước Tần độ này có chuyện gì lạ không? Kiển Tha nói: - Trong hồi tháng chạp mới rồi, nước Tần có sai ba tướng đem quân đi, hình như muốn đánh lẻn nước Trịnh, chẳng bao lâu nữa quân Tần sẽ sang đến nơi. Huyền Cao giật mình kinh sợ mà nói rằng: - Nước cha mẹ của ta, nay có cái tai nạn ấy, ta không nghe tiếng thì thôi, nếu nghe tiếng mà không cứu thì một mai nước nhà suy mất, ta còn mặt mũi nào mà trở về nữa! Huyền Cao nghĩ ngay một kế, từ biệt Kiển Tha, rồi một mặt sai người phi báo cho nước Trịnh biết mà phòng bị trước; lại một mặt chọn 20 con trâu béo để sửa soạn làm lễ khao quân. Huyền Cao ngồi một cái xe nhỏ đi đón quân Tần. Đi đến đất Diên Tân nước Hoạt, gặp tiền đội quân Tần, Huyền Cao đón ngang dọc đường mà nói với quân Tần rằng: - Tôi là sứ thần nước Trịnh, xin yết kiến quan Nguyên soái. Quân tiền đội báo với Mạnh Minh, Mạnh Minh giật mình, nghĩ thầm trong lòng rằng tại sao nước Trịnh biết có quân ta đến mà sai sứ thần ra đón! Âu là ta hãy tiếp kiến, để xem thế nào. Mạnh Minh nói xong, liền ra tiếp kiến Huyền Cao. Huyền Cao giả cách phụng mệnh vua Trịnh nói với Mạnh Minh rằng: - Chúa công tôi nghe ba vị tướng công sắp sửa đem quân sang nước tôi, vậy có sai tôi dâng lễ mọn này, để khao các hàng quân sĩ. Nước tôi tiếp giáp các nước lớn, thường hay có việc can thiệp, nhờ có quân quí quốc đóng đồn để giữ hộ cho, nhưng nước tôi vẫn lo sợ rằng lỡ khi có sự gì biến loạn, lại đắc tội với quí quốc, bởi vậy phải hết sức ngày đêm phòng giữ, không dám trễ nãi, xin ba vị tướng quân xét cho. Mạnh Minh nói: - Vua Trịnh sai nhà ngươi ra khao quân ta, sao không có quốc thư? Huyền Cao nói: - Chúa công tôi nghe tin các ngài khởi hành từ tháng chạp, mà quân đi gấp lắm, sợ đợi sửa tờ quốc thư thì không kịp nghênh tiếp, bởi vậy chỉ truyền miệng cho tôi ra đây, xin các ngài tha lỗi. Mạnh Minh ghé tai Huyền Cao mà bảo nhỏ rằng: - Chúa công tôi sai chúng tôi đem quân đi đây là định đánh nước Hoạt, không phải có ý đến nước Trịnh đâu! Nói xong truyền quân đóng lại ở đất Diên Tân, Huyền Cao tạ ơn lui ra. Tây Khất Thuật và Kiển Bính hỏi Mạnh Minh rằng: - Tướng quân đóng lại đây là có ý gì? Mạnh Minh nói: - Quân ta đi xa xôi ngàn dặm, chỉ cốt nhân lúc nước Trịnh bất ngờ để tiến đánh, nay người nước Trịnh đã biết mà phòng bị trước, ta đánh cũng chẳng được nào. Vả lại ta muốn vây nước Trịnh thì lại không có quân tiếp ứng, chi bằng tiện đây ta đánh lẻn nước Hoạt, để khỏi mang tiếng là đem quân đi mà không được việc gì. Đêm hôm ấy, ba tướng nước Tần chia quân làm ba mặt lẻn vào đánh lấy thành nước Hoạt, vua nước Hoạt bỏ chạy sang nước Địch. Quân Tần bắt những con gái và thu lấy các đồ bảo ngọc của nước Hoạt đem về. Quân Tần bỏ về rồi, nước Hoạt tàn phá, sau bị nước Vệ kiêm tính mất. Trịnh Mục công tiếp được mật báo của người buôn là Huyền Cao, chưa lấy gì làm tin lắm, tức thì sai người dò thám bọn Kỷ Tử xem tình hình thế nào. Bấy giờ đã thượng tuần tháng hai, bọn Kỷ Tử đang sửa soạn binh mã và các đồ khí giới, chỉ đợi quân Tần đến nơi thì trong ngoài họp sức nhau mà đánh Trịnh. Quân sĩ về báo Trịnh Mục công. Trịnh Mục công sợ hãi, liền sai lão đại phu là Chúc Vũ đến yết kiến bọn Kỷ Tử, đưa biếu mỗi người một trăm tấm lụa mà bảo rằng: - Các ngài đóng quân ở nước tôi, nước tôi vì cớ khoản đốn mà bao nhiêu hươu nai ở chốn Nguyên Phố đã hết sạch cả, nay nghe tin các ngài đang sửa soạn quân mã, tất là muốn thu quân về nước. Hiện nay Mạnh Minh cùng các tướng đã tiến quân đến nước Hoạt, sao các ngài không đi theo. Kỷ Tử giật mình, nghĩ thầm trong lòng rằng: - Mưu kế của ta đã tiết lộ ra rồi thì dẫu quân Tần ta có kéo đến nơi, cũng không làm gì nổi, mà lại thêm đắc tội với vua Tần, bấy giờ chúng ta chẳng những không ở yên được nước Trịnh, mà muốn về nước Tần cũng không được nữa! Kỷ Tử xin lỗi với Chúc Vũ, rồi bỏ trốn sang nước Tề. Phùng Tôn và Dương Tôn cũng sợ tội, bỏ trốn sang nước Tống, Những quân Tần đóng đồn ở đấy, không có chủ tướng, họp nhau toan nổi loạn. Trịnh Mục công sai Dật Chi Hồ đem lương thực cấp phát cho quân Tần về nước, rồi ghi công Huyền Cao, cử cho làm chức quận úy. Từ bấy giờ nước Trịnh mới được yên ổn. Tấn Tương công đang thủ tang ở đất Khúc Ốc, nghe tin nước Tần sai Mạnh Minh thống cử đại binh đi về phía đông, không biết là đi đâu, liền họp các quan triều thần lại để thương nghị. Tiên Trẩn đã cho người đi do thám, biết rõ cái mưu quân Tần định lẻn đánh nước Trịnh, tức khắc vào yết kiến Tấn Tương công.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  6. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 45 Mạnh Minh cậy tài bị Tấn vây Tiên Trẩn cởi giáp cho Địch bắn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quan Nguyên soái nước Tấn là Tiên Trẩn đã biết rõ cái mưu quân Tần định lẻn đánh nước Trịnh, mới vào nói với Tấn Tương công rằng: - Vua Tần trái lời Kiển Thúc và Bách Lý Hề mà đem quân đi kể hàng nghìn dặm, định lẻn đánh nước người ta, chính ứng vào cái lời của quan Thái bốc là Quách Yển nói có giặc ở Tây phương đến, ta nên mau mau đón đường mà đánh, chớ bỏ mất cái cơ hội này! Loan Chi nói: - Vua Tần có ơn với Tiên quân ta ngày xưa to lắm, nay ta chưa đền ơn mà đã chực đón đánh thì đối với Tiên quân, sao cho phải đạo? Tiên Trẩn nói: - Nay ta đánh Tần, chính là theo được cái chí của Tiên quân đó! Tiên quân tạ thế đi, các nước đồng minh đều đến viếng tang cả, chỉ có nước Tần không đến viếng tang, thế là nước Tần vô lễ với ta lắm, Tiên quân ta ở dưới suối vàng, chắc cũng tức giận, lại còn ân nghĩa gì! Vả nước Tần đã có giao ước với ta rằng hai nước có việc binh thì đồng lòng giúp nhau thế mà khi vây nước Trịnh, nước Tần bội ước rút quân, đủ biết là nước Tần không được tử tế. Nước Tần đã không đủ tín với ta thì cần gì ta phải nhớ ơn nước Tần nữa! Loan Chi nói: - Quân Tần chưa xâm phạm gì nước ta, mà ta đón đánh thì chẳng cũng quá lắm sao! Tiên Trẩn nói: - Ngày trước nước Tần giúp Tiên quân ta, không phải yêu gì nước Tấn, chẳng qua là muốn làm ơn để giữ lấy nước mình. Khi Tiên quân ta làm bá chủ các nước chư hầu, nước Tần dẫu ngoài mặt phải theo, nhưng trong lòng vẫn ghét, nay nhân lúc ta có tang mà đem quân sang đánh Trịnh, thế là có ý khinh ta không dám cứu Trịnh, tất cũng có ngày lẻn đánh nước ta. Tục ngữ có câu rằng: "Một ngày tha giặc, di họa mấy đời!". Nếu ta không đánh Tần thì sao tự lập được. Triệu Thôi nói: - Nước Tần dẫu nên đánh, nhưng Chúa công ta đang lúc có tang mà gây việc chiến tranh, tôi sợ không hợp lễ. Tiên Trẩn nói: - Người ta để tang là cốt giữ cho trọn đạo hiếu, vậy thì đánh giặc để giữ yên nước nhà, còn điều gì hiếu hơn nữa! Nếu các ngài cho là không nên thì một mình tôi cũng xin đem quân đi đánh. Bọn Tư Thần đều tán thành lời nói của Tiên Trẩn. Tấn Tương công nói: - Quan Nguyên soái liệu xem quân Tần sang đánh Trịnh, độ bao giờ trở về? Khi về thì đi qua đường nào? Tiên Trẩn tính đốt ngón tay, rồi đáp lại rằng: - Tôi chắc quân Tần không đánh nổi Trịnh, chẳng qua trong bốn tháng nữa về qua tới đây, mà khi về thì tất đi qua dãy núi Hào Sơn. Dãy núi ấy giáp giới nước ta và nước Tần, từ đông tới tây, cách nhau ba mươi lăm dặm; chỗ ấy hiểm lắm, núi cao rừng rậm, nếu ta phục một đạo binh ở đấy, rồi đổ ra mà đánh thì bắt sống được hết quân Tần. Tấn Tương công nói: - Việc đó, ta ủy thác cho quan Nguyên soái. Tiên Trẩn liền sai con là Tiên Thả Cư cùng với Đồ Kích đem năm nghìn quân phục ở phía tả núi Hào Sơn; sai con Tư Thần là Tư Anh cùng với Hồ Cúc Cư đem năm nghìn quân phục ở phía hữu núi Hào Sơn, đợi khi quân Tần đến thì đổ ra mà đánh. Lại sai con Hồ Xạ Cô cùng với Hàn Tử Dư đem năm nghìn quân phục ở phía tây núi Hào Sơn, rồi đẵn gỗ lấp ngang đường, để cho quân Tần không đi được; sai con Lương Do Mỹ là Lương Hoằng cùng với Lai Câu đem năm nghìn quân phục ở phía đông Hào Sơn, đợi khi quân Tần qua đó thì đem quân ra mà đuổi. Tiên Trẩn cùng với bọn Triệu Thôi và các tướng theo Tấn Tương công đem quân đóng ở ngoài Hào Sơn hai mươi dặm để tiếp ứng. Quân Tần diệt được nước Hoạt, về gần đến dãy núi Hào Sơn, Kiển Bính nói với Mạnh Minh rằng: - Chỗ Hào Sơn này đường hiểm lắm, khi trước phụ thân tôi đã có lời dặn, quan Nguyên soái nên cẩn thận mới được. Mạnh Minh nói: - Ta đem quân đi nghìn dặm, còn chẳng sợ hãi gì, huống chi đi khỏi dãy núi Hào Sơn này tức là địa giới nước nhà, còn ngại gì nữa! Tây Khất Thuật nói: - Quan Nguyên soái cũng nên phòng xa, sợ khi quân Tấn có mai phục, đổ ra mà đánh thì ta chống lại làm sao cho nổi. Mạnh Minh nói: - Tướng quân sợ Tấn như thế, tôi xin đi trước, nếu có quân mai phục, để mặc tôi đối địch. Mạnh Minh sai Bao Man Tử đi tiên phong, đệ nhị đội đến Mạnh Minh, đệ tam đội đến Tây Khất Thuật, đệ tứ đội đến Kiển Bính, mỗi toán quân cách nhau đến một hai dặm. Bao Man Tử tay cầm cái phương thiên họa kích nặng 80 cân sắt, tự đắc là thiên hạ không ai địch nổi. Khi đi đến phía đông Hào Sơn, bỗng có một viên đại tướng đem quân ra đón đường mà hỏi rằng: - Nhà ngươi có phải là Đại tướng nước Tần tên gọi Mạnh Minh đó không? Chúng ta chờ đợi đã lâu lắm rồi! Bao Man Tử nói: - Nhà ngươi họ tên chi đó? Nên nói trước cho ta biết. Viên đại tướng ấy đáp lại rằng: - Ta đây là Đại tướng nước Tấn, tên gọi Lai Câu! Bao Man Tử nói: - Nước ngươi có Loan Chi và Ngụy Thù đến, họa chăng đối địch với ta được mấy hợp, ngươi là đứa vô danh tiểu tốt, biết điều thì tránh ra một bên để quân ta đi, kẻo ta cho một ngọn kích này thì không toàn được tính mệnh! Lai Câu giận lắm, xông lại đánh Bao Man Tử. Bao Man Tử cầm kích đánh vào cái gỗ ngang ở trên xe Lai Câu, gẫy làm hai đoạn. Lai Câu thấy sức mạnh như vậy, khen rằng: - Ta vẫn nghe tiếng Mạnh Minh, thật cũng không sai. Bao Man Tử bật cười mà nói rằng: - Ta là một viên tiểu tướng, tên gọi Bao Man Tử! Còn Nguyên soái ta khi nào thèm giao chiến với lũ chuột, chúng bay nên mau mau tránh đi, kẻo Nguyên soái ta tới đây thì không còn mống nào sống sót! Lai Câu nghĩ thầm: Tiểu tướng nước Tần mà còn giỏi như thế, huống chi là Mạnh Minh, không biết giỏi đến đâu! Lai Câu liền quát to lên mà bảo Bao Man Tử rằng: - Ta tránh cho nhà ngươi đi, nhà ngươi chớ nên xâm phạm đến quân ta. Nói xong, thu quân lại đứng dẹp một bên, để nhường cho Bao Man Tử đi. Bao Man Tử tức khắc sai quân truyền báo với quan Nguyên soái là Mạnh Minh rằng: - Nước Tấn có một toán quân mai phục, đã bị tôi đánh tan rồi, xin Nguyên soái mau mau tiến binh, hễ qua khỏi dãy núi Hào Sơn này thì không còn lo ngại gì nữa. Mạnh Minh nghe nói mừng lắm, liền giục Tây Khất Thuật và Kiển Bính cùng nhau tiến binh. Lai Câu thu quân về yết kiến Lương Hoằng, khen Bao Man Tử là người tài giỏi. Lương Hoằng cười mà nói rằng: - Dẫu cá kềnh cá giao mà đã chui vào lưới sắt cũng chẳng cựa quậy được nữa! Chúng ta nên tránh ra một bên cho quân Tần đi qua hết, rồi sẽ đuổi đánh thì chắc được toàn thắng! Bọn Mạnh Minh kéo quân qua phía đông núi Hào Sơn, đi được mấy dặm, núi đá cheo leo, cây rừng rậm rạp, đường lối rất hiểm trở, xe ngựa không tài nào đi được, nhưng thấy quân tiền đội của Bao Man Tử đi đã xa rồi, Mạnh Minh mới bảo các tướng sĩ rằng: - Bao Man Tử đi đã xa như vậy thì chắc là không còn có quân mai phục nữa! Nói xong, truyền cho quân sĩ bỏ mũ trụ áo giáp ra, rồi dắt ngựa mà đi đất, không có hàng ngũ nào cả. Đi được một quãng, bỗng nghe báo ở mặt sau có quân Tấn đuổi theo. Mạnh Minh nói: - Ta đi còn như thế này thì chúng đuổi cũng chẳng dễ nào! Ta chỉ sợ có quân ngăn trở, chứ không sợ có quân đuổi theo. Mạnh Minh truyền cho các đội quân đều mau mau kéo trước, còn mình thì đi sau, để đối địch với quân Tấn. Lại đi khỏi mấy ngọn núi nữa, bỗng nghe báo có nhiều cây gỗ bỏ chặn ngang đường, quân không đi được. Mạnh Minh nói: - Nếu vậy thì có quân mai phục! Mạnh Minh trèo lên ngọn núi đứng nom, trông thấy ở khe núi có cắm một ngọn cờ đỏ cao hơn ba trượng, trên lá cờ đề một chữ "Tấn", còn dưới thì có nhiều cây gỗ bỏ ngang lấp cả lối đi. Mạnh Minh nói: - Đây là quân Tấn lập kế để làm nghi binh đó! Nói xong, truyền cho quân sĩ nhổ lá cờ đỏ, rồi giở những cây gỗ ra mà đi. Ai ngờ lá cờ đỏ ấy là ký hiệu của quân Tấn, quân Tấn thấy mất lá cờ đỏ, biết là quân Tần đã kéo đến, tức khắc bốn mặt đổ ra đón đánh. Kiển Bính truyền cho quân sĩ đứng lại để đối địch bỗng thấy ở trên ngọn núi có một vị Tướng quân, tức là Hồ Xạ Cô, quát to lên rằng: - Tướng Tiên phong của nhà ngươi là Bao Man Tử, ta đã bắt trói ở đây rồi, nhà ngươi nên mau mau đầu hàng đi thì mới bảo toàn được tính mệnh. Nguyên là Bao Man Tử cậy có sức khỏe, xung đột đi trước, bỗng sa xuống một cái hầm sâu, bị quân Tấn bắt trói lại. Kiển Bính sợ lắm, sai người truyền báo cho Tây Khất Thuật và Mạnh Minh biết. Mạnh Minh thấy chỗ ấy trên đèo dưới suối, dẫu có thiên binh vạn mã cũng không thể giao chiến được, mới truyền cho đại quân lui về phía đông Hào Sơn để cùng với quân Tấn đối địch. Quân Tần vừa lui lại một quãng thì bỗng thấy một viên Đại tướng là Lương Hoằng, và một viên Phó tướng là Lai Câu đem năm nghìn quân Tấn đổ ra đón đánh. Mạnh Minh kinh hãi, truyền cho quân sĩ theo hai dãy núi hai bên trèo đèo vượt suối để tìm lối đi, bỗng thấy ở đầu núi phía tả, chiêng trống ầm ĩ, có một viên đại tướng quát to lên rằng: - Ta đây là Đại tướng nước Tấn, tên gọi Tiên Thả Cư, Mạnh Minh nên mau mau đầu hàng đi! Mạnh Minh trông sang đầu núi phía hữu, lại thấy hiệu cờ của một viên Đại tướng nước Tấn, tên là Tư Anh. Quân Tần trèo đèo vượt suối, đều bị quân Tấn chém bắt mất nhiều. Mạnh Minh tức giận, lại cùng với Tây Khất Thuật và Kiển Bính chạy về phía trước. Ai ngờ trong đống cây gỗ ngổn ngang dọc đường, đều có lưu hoàng diêm tiêu là vật dẫn hỏa, bị tướng nước Tấn là Hàn Tử Tư châm lửa đốt lên, cháy lan mấy mặt. Phía sau lại có quân Lương Hoằng tiến đến, thành ra quân Tần không có đường nào mà chạy thoát được. Mạnh Minh bảo Kiển Bính rằng: - Kiển Tiên sinh (trỏ Kiển Thúc) thật là thần toán! Ngày nay chúng ta đành chết ở đây mà thôi! Tướng quân nên cùng với Tây Khất Thuật thay hình đổi dạng tìm đường trốn đi, họa may có người nào thoát về nước được tâu với Chúa công ta, để ngày khác đem quân sang đánh báo thù thì ta dẫu chết xuống suối vàng cũng được thỏa dạ. Tây Khất Thuật và Kiển Bính khóc mà rằng: - Chúng ta sống chết có nhau, mặt nào lại bỏ trốn! Tây Khất Thuật nói chưa dứt lời thì quân sĩ đã bỏ chạy tán loạn cả. Mạnh Minh cũng không còn kế gì, đành ngồi ở khe núi mà chịu chết. Tiên Thả Cư cùng các tướng bắt Mạnh Minh, Tây Khất Thuật, Kiển Bính và Bao Man Tử giải về đại dinh để nộp Tấn Tương công. Tấn Tương công hỏi tên Mạnh Minh, Tây Khất Thuật và Kiển Bính, lại hỏi đến Bao Man Tử là người nào? Lương Hoằng nói: - Viên ấy dẫu là tiểu tướng, nhưng có tài vũ dũng hơn người, khi trước Lai Câu ra đối địch với hắn, đã bị thua một trận, nếu hắn không sa xuống hầm sâu thì cũng khó lòng mà bắt được. Tấn Tương công ngạc nhiên, rồi nói: - Hắn có tài vũ dũng như thế, để hắn tất có ngày sinh biến! Tấn Tương công gọi Lai Câu đến gần trước mặt mà bảo rằng: - Ngày trước nhà ngươi bị hắn đánh thua, nay ta cho phép nhà ngươi được chém đầu hắn ở trước mặt ta, để cho thỏa dạ. Lai Câu vâng mệnh, đem Bao Man Tử trói vào cái cột ở giữa sân, rồi tay cầm thanh đao, toan bổ vào đầu Bao Man Tử. Bao Man Tử thét to lên rằng: - Mày đã bị ta đánh thua, nay dám xâm phạm đến ta hay sao! Bao Man Tử tiếng hét to quá, khác nào như một tiếng sét ở lưng chừng trời, làm cho cửa nhà chuyển động tất cả. Trong khi Bao Man Tử miệng thét thì hai tay vùng vằng, bao nhiêu những dây trói đứt hết sạch cả. Lai Câu giật mình kinh sợ, tay chân rụng rời, đánh rơi thanh đao xuống đất. Bao Man Tử tức khắc cướp lấy đao, bỗng có một viên tiểu tướng tên gọi Lang Đàm, đứng bên cạnh trông thấy, vội vàng cầm đao xông vào chém đầu Bao Man Tử, rồi đem nộp ở trước mặt Tấn Tương công. Tấn Tương công mừng lắm nói: - Tài vũ dũng của Lai Câu lại không bằng một viên tiểu tướng! Nói xong, liền cách chức Lai Câu không dùng nữa, mà cho Lang Đàm làm chức xa hữu, Lang Đàm tạ ơn lui ra, tự đắc là Tấn Tương công biết tài mà dùng mình, mới không đến yết kiến quan Nguyên soái là Tiên Trẩn. Tiên Trẩn không bằng lòng. Ngày hôm sau Tấn Tương công cùng các tướng thu quân trở về Khúc Ốc, định làm lễ an táng Tấn Văn công rồi, sẽ giải bọn Mạnh Minh về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để hành hình. Bấy giờ Tấn Văn công phu nhân là Doanh Thị (con gái nước Tần) cũng hội táng ở đất Khúc Ốc đã biết tin bọn Mạnh Minh bị bắt, nhưng giả cách vô tình mà hỏi Tấn Tương công rằng: - Ta nghe nói quân Tấn thắng trận, bọn Mạnh Minh đều bị bắt cả, đó là cái phúc lớn của nước nhà, chẳng hay đã đem bọn ấy mà hành hình chưa? Tấn Tương công nói: - Chưa! Doanh Thị nói: - Tần Tấn hai nước xưa nay vẫn kết thân với nhau, bọn Mạnh Minh muốn lập công, gây việc tranh chiến, để làm cho hai nước sinh ra thù oán, ta chắc rằng vua Tần tất ghét giận bọn ấy lắm, nếu ta tha cho về nước thì vua Tần cũng đem mà giết đi, vậy thì cần gì phải giết cho thêm thù oán. Tấn Tương công nói: - Bọn Mạnh Minh đang đắc dụng bên nước Tần, nay ta bắt được mà lại tha cho về thì e rằng hại cho nước Tấn. Doanh Thị nói: - Quân pháp nước Sở, hễ ai đem quân đi đánh giặc mà bị thua, đều phải tội chết, bởi vậy Thành Đắc Thần phải tự tử, huống chi nước Tần lại không có quân pháp hay sao! Vả Tấn Huệ công ngày xưa bị vua Tần bắt, vua Tần biết trọng đãi, lại tha cho về, Tần đã có ơn với ta như thế, vậy thì mấy viên đại tướng ấy, cần gì cứ phải tự tay ta giết mới được thỏa lòng, chẳng hóa ra nước ta bạc tình lắm sao! Tấn Tương công nghe nói đến việc vua Tần tha cho Tấn Huệ công ngày trước, có ý cảm động, tức khắc truyền tha cho bọn Mạnh Minh về nước. Bọn Mạnh Minh được tha, chẳng vào lạy tạ nữa, cứ việc cắm đầu trốn đi. Tiên Trẩn đang ngồi ăn cơm ở nhà, nghe tin Tấn Tương công tha bọn Mạnh Minh, vội vàng nhả miếng cơm ra mà vào yết kiến Tấn Tương công; nét mặt còn hầm hầm tức giận, hỏi Tấn Tương công rằng: - Bọn tù nhân nước Tần đâu cả? Tấn Tương công nói: - Mẫu phu nhân (trỏ Doanh Thị) xin tha cho về nước để mặc vua Tần giết đi, ta đã theo lời mà tha rồi! Tiên Trẩn nổi giận, nhổ vào mặt Tấn Tương công mà mắng rằng: - Ối chao ôi! Đứa nhục tử này chẳng biết gì cả! Bọn vũ phu trăm cay nghìn đắng mới bắt được tướng nước Tần, nay vì một câu nói của người đàn bà mà uổng công không! Thế mới thật thả hổ về rừng, tất có ngày hối không kịp nữa! Tấn Tương công bấy giờ mới nghĩ ra, lấy áo chùi mặt mà xin lỗi với Tiên Trẩn rằng: - Điều ấy ta xin chịu lỗi! Tấn Tương công ngoảnh lại hỏi các tướng rằng: - Có ai dám đuổi theo tướng nước Tần hay không? Dương Xử Phủ xin đi. Tiên Trẩn bảo Dương Xử Phủ rằng: - Tướng quân dùng lời nói khéo mà lừa bắt được thì thật là công to lắm! Dương Xử Phủ tức khắc lên ngựa truy phong, cầm đao đi đuổi theo bọn Mạnh Minh. Bọn Mạnh Minh từ khi được tha trốn đi, vừa đi vừa bàn nhau rằng: - Chúng ta có qua khỏi sông Hoàng Hà mới chắc được sống, nếu không thì còn sợ vua Tấn hối lại mà đuổi theo, khó lòng thoát nạn! Khi đi đến bến sông Hoàng Hà, chẳng có một chiếc thuyền nào cả, bọn Mạnh Minh thở dài mà than rằng: - Thế này thì thật là trời hại chúng ta! Bỗng thấy một ông lão đánh cá chèo chiếc thuyền nhỏ ở phía tây đi đến, đang ngâm nga mà hát rằng: "Con vượn kia được thoát cũi (ý-ý-ý-a) con chim kia được sổ lồng! Nay đã gặp có ta đây (ý-ý-ý-a) dẫu thua cũng là thành công!" Mạnh Minh nghe câu hát, có ý lấy làm lạ, liền gọi mà bảo rằng: - Ông lão đánh cá kia ôi! Cho chúng tôi sang với! Ông lão đánh cá nói: - Lão chỉ chở người Tần, chứ không chở người Tấn! Mạnh Minh nói: - Chúng tôi là người Tần đây! Mau mau cho chúng tôi sang! Ông lão đánh cá nói: - Nhà ngươi có phải là người bị thua ở Hào Sơn đấy không? Mạnh Minh nói: - Chính phải rồi! Ông lão đánh cá nói: - Ta phụng tướng lệnh của Công Tôn Chi, cắm thuyền ở đây để đón các ngài đã lâu lắm! Chiếc thuyền này nhỏ không thể chở được, nhưng Tướng quân nên men bờ sông đi độ nửa dặm nữa, đã có thuyền lớn đợi ở đó. Ông lão đánh cá ấy nói xong, lại chèo thuyền về phía tây. Thuyền đi như bay. Bọn Mạnh Minh đi về phía tây, chưa được nửa dặm, quả nhiên có mấy chiếc thuyền lớn đậu ở dưới sông, cách bờ độ một quãng ngắn. Ông lão đánh cá đứng ở đấy để mời bọn Mạnh Minh xuống thuyền. Chưa kịp mở lái thì trông lên bờ, thấy có một vị tướng quân cưỡi ngựa đi đến, tức là Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ gọi to lên rằng: - Các tướng nước Tần kia, hãy thư thả một chút! Bọn Mạnh Minh nghe tiếng, đều giật mình kinh sợ. Dương Xử Phủ trông thấy bọn Mạnh Minh đã xuống thuyền rồi, liền nghĩ ngay một kế, giả cách phụng mệnh Tấn Tương công, đem con ngựa đến cho Mạnh Minh rồi nói với Mạnh Minh rằng: - Tôi phụng mệnh Chúa công đem con ngựa lương mã này đưa tặng Tướng quân để tỏ lòng kính mến, xin Tướng quân nhận cho. Dương Xử Phủ định lừa cho Mạnh Minh lên bờ nhận ngựa thì thừa cơ mà bắt lấy, nhưng Mạnh Minh không chịu lên, chỉ đứng ở mũi thuyền mà đáp lại rằng: - Chúng tôi đội ơn vua Tấn không giết cũng đã cảm tạ lắm rồi, nay lại còn cho ngựa, chúng tôi không dám nhận. Chuyến này chúng tôi về thoát được thì sau 3 năm nữa, chúng tôi lại xin sang tạ ơn vua Tấn. Dương Xử Phủ vừa toan đáp lại thì thấy các thủy thủ đã bẻ lái chèo thuyền. Thuyền chèo vào giữa dòng sông, rồi vùn vụt đi thẳng. Dương Xử Phủ ngao ngán mà trở về, đem lời nói của Mạnh Minh tâu với Tấn Tương công. Tiên Trẩn tức giận mà nói rằng: - Hắn nói sau 3 năm nữa sẽ sang tạ ơn là ý nói sau 3 năm nữa sẽ sang báo thù đó, chi bằng ta nhân dịp hắn mới thua, đem quân đánh trước đi là hơn. Tấn Tương công lấy làm phải, mới bàn định việc cử binh đi đánh Tần. Tần Mục công nghe tin bọn Mạnh Minh bị nước Tấn bắt, vừa buồn vừa giận, quên ăn quên ngủ; sau mấy ngày nữa lại nghe tin bọn Mạnh Minh được tha về, mừng rỡ tỏ ra nét mặt, kể sao cho xiết! Các quan đều nói: - Bọn Mạnh Minh làm nhục nước, nên bắt tội chết. Ngày trước vua Sở giết Thành Đắc Thần để làm cho quân sĩ phải khiếp sợ, nay Chúa công cũng nên theo phép ấy. Tần Mục công nói: - Ta không nghe lời Bách Lý Hề và Kiển Thúc, để di lụy đến bọn Mạnh Minh, thế là lỗi tại ta đó! Nói xong liền thân hành ra đón ở ngoài cõi, rồi lại dùng Mạnh Minh làm chủ tướng, càng có ý trọng đãi lắm. Bách Lý Hề nói: - Cha con tôi ngày nay lại được gặp nhau, thật là một sự bất ngờ! Bách Lý Hề cáo lão xin về nhà nghỉ. Tần Mục công dùng Do Dư và Công Tôn Chi làm tả, hữu thứ trưởng, để thay Kiển Thúc và Bách Lý Hề. Tấn Tương công đang bàn việc đánh Tần, bỗng nghe báo có vua nước Địch là Bạch Bộ Hồ đem quân đến đánh, đã tiến vào đất Cơ Thành. Tấn Tương công giật mình kinh sợ, nói: - Ta với nước Địch không có hiềm khích gì với nhau, mà sao vua Địch lại đem quân sang xâm phạm bờ cõi. Tiên Trẩn nói: - Tiên quân (Tấn Văn công) ta ngày xưa trốn sang ở nước Địch, vua nước Địch đem hai người con gái là Thúc Ngỗi và Quí Ngỗi gả cho Tiên quân ta cùng Triệu Thôi, trong mười mấy năm trời, vẫn một lòng trọng đãi. Khi Tiên quân ta về nước, vua nước Địch có sai người sang mừng, lại đưa Thúc Ngỗi và Quí Ngỗi về nước ta, thế mà Tiên quân ta không hề có sai sứ sang tạ ơn lần nào cả, bởi vậy vua Địch cũng giận, nhưng nể mà không nói. Nay con là Bạch Bộ Hồ lên nối ngôi, cậy có sức mạnh, mới đem quân sang đánh ta. Tấn Tương công nói: - Tiên quân ta ngày xưa lo công việc bá chủ, không kịp nghĩ đến ơn riêng, nay vua Địch lại nhân lúc nước ta có tang mà đem quân sang đánh, thế tức là một nước cừu địch với ta, quan Nguyên soái nên vì ta mà đem quân ra đối địch. Tiên Trẩn sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng: - Khi trước tôi nghe tin bọn Mạnh Minh được tha về, nghĩ nóng nẩy quá, dám nhổ vào mặt Chúa công, thật là một tội vô lễ thì không đáng làm chức nguyên soái, xin Chúa công chọn người khác. Tấn Tương công nói: - Nguyên soái vì việc nước mà tức giận, đó là bởi cái lòng trung thành, ta lại không rõ hay sao! Nay ta muốn chống lại với quân nước Địch, trừ phi Nguyên soái thì không ai đương nổi, quan Nguyên soái chớ nên từ chối. Tiên Trẩn bất đắc dĩ phải vâng mệnh. Khi ở trong triều ra, Tiên Trẩn thở dài mà than rằng: - Ta vốn muốn chết với quân Tần, ai ngờ lại thành ra chết với quân Địch! Các quan triều thần không ai hiểu ý ra làm sao cả. Tấn Tương công thu quân trở về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) Tiên Trẩn trèo lên tướng đài, điểm duyệt quân sĩ, rồi hỏi các tướng rằng: - Nào! Ai là người dám lĩnh chức tiên phong? Bỗng có một người ngang nhiên bước ra mà nói rằng: - Tôi xin đi! Tiên Trẩn nhìn xem ai thì tức là Lang Đàm, hiện mới lĩnh chức xa hữu. Nguyên trước Lang Đàm mới được lĩnh chức, không chịu vào yết kiến Tiên Trẩn, bởi thế Tiên Trẩn có ý không bằng lòng, ngày nay lại thấy Lang Đàm xin đi tiên phong, càng thêm ghen ghét, mới mắng Lang Đàm rằng: - Mày là một đứa tân tiến tiểu tốt, mày chém chết một thằng giặc mà được trọng dụng, nay đã có ý kiêu ngạo tự đắc, dám khinh trong bọn tướng sĩ ta không có ai là người tài giỏi hay sao? Lang Đàm nói: - Tiểu tướng tình nguyện gia sức giúp việc nước nhà, sao Nguyên soái lại ngăn trở như vậy? Tiên Trẩn nói: - Ở đây không thiếu gì người gia sức, mày có tài trí gì mà dám cậy hơn người. Tiên Trẩn liền thét đuổi Lang Đàm, cách chức không dùng nữa, cho Hồ Cúc Cư thay vào, vì có cái công giáp chiến ở Hào Sơn khi trước, Lang Đàm cúi đầu thở dài, hầm hầm mà lui ra, bỗng gặp người bạn là Tiên Bá ở ngoài đường. Tiên Bá hỏi rằng: - Tôi nghe quan Nguyên soái đang tuyển tướng để đi đánh giặc, sao nhà ngươi lại lững thững đi đâu đây? Lang Đàm nói: - Tôi đã tình nguyện đi tiên phong, để gia sức mà giúp việc nước nhà, ai ngờ lại gặp phải lúc Nguyên soái ngài nổi giận, mắng tôi là tài trí gì mà dám cậy mình hơn các tướng, hiện nay đã cách chức tôi, không dùng nữa rồi. Tiên Bá nổi giận nói: - Tiên Trẩn, nó đã ghét người tài giỏi, âu là hai ta cùng nhau vào giết chết nó đi, để cho hả cái lòng bất bình của chúng ta. Dẫu có chết nữa cũng được thỏa lòng! Lang Đàm nói: - Không nên! Không nên! Đại trượng phu chết phải có nghĩa. Chết mà không có nghĩa thì không gọi là vũ dũng được! Chúa công biết ta là người vũ dũng mà dùng ta làm chức xa hữu, nay Tiên Trẩn cách chức ta đi, nếu ta làm điều bất nghĩa mà chết thì thành ra Tiên Trẩn được tiếng là cách chức một người bất nghĩa, vậy nên hãy thư thả mà đợi dịp sẽ hay. Tiên Bá thở dài mà than rằng: - Nhà ngươi thật là một người cao kiến, ta không bằng được. Nói xong, cùng nhau trở về, Tiên Trẩn dùng con là Tiên Thả Cư làm tiên phong, rồi đem quân sang đóng ở Cơ Thành. Tiên Trẩn họp các tướng lại mà bảo rằng: - Ở Cơ Thành này có một chỗ hang lớn, trong hang rộng lắm, mà hai bên cây cối rậm rạp, có thể phục binh được. Loan Thuẫn (con Loan Chi) và Khước Khuyết nên đem hai đạo quân phục ở chỗ ấy, đợi khi nào Tiên Thả Cư giao chiến với quân Địch, giả cách thua chạy vào trong hang, bấy giờ đổ ra mà đánh thì chắc là bắt được vua Địch; còn Hồ Tần (con Hồ Mao) và Hồ Cúc Cư đem hai đạo quân đi tiếp ứng, để phòng khi quân Địch đến cứu. Ngày hôm sau, vua Địch là Bạch Bộ Hồ đem hơn 100 quân kỵ mã đến đánh. Tiên Thả Cư ra nghênh chiến được mấy hợp, giả cách thua. Bạch Bộ Hồ không biết là kế giả, gia sức đuổi theo, bị Tiên Thả Cư dụ vào trong hang. Phục binh ở hai bên đổ ra đón đánh. Bạch Bộ Hồ tả xung hữu đột, hơn 100 quân kỵ mã chết đã gần hết. Quân Tấn cũng tổn hại rất nhiều. Được một lúc Bạch Bộ Hồ phá tan mấy vòng quân Tấn mà không ai địch nổi. Khi ra gần đến cửa hang, gặp một viên Đại tướng là Khước Khuyết giương cung bắn trúng vào mặt Bạch Bộ Hồ. Bạch Bộ Hồ ngã ngựa, tức thì chết ngay. Khước Khuyết nhận mặt, biết là vua nước Địch, liền cắt lấy đầu để đem về nộp Tiên Trẩn. Tiên Trẩn nghe tin Bạch Bộ Hồ bị bắn, ngửa mặt lên trời mà reo mừng rằng: - May cho vua Tấn ta lắm! May cho vua Tấn ta lắm! Tiên Trẩn lấy bút viết một tờ biểu để trên thư án, không nói cho các tướng biết, rồi cùng với mấy người tâm phúc tức khắc xông vào trận địa quân Địch. Em Bạch Bộ Hồ là Bạch Đôn, chưa biết là Bạch Bộ Hồ đã chết, toan đem quân đi tiếp ứng, bỗng thấy có một viên Đại tướng (tức là Tiên Trẩn) xồng xộc xông đến, Bạch Đôn vội vàng ra nghênh chiến. Tiên Trẩn vai vác cái giáo, trợn mắt thét to một tiếng, mí mắt rách hết cả, máu chảy ròng ròng xuống mặt. Bạch Đôn kinh sợ, lui lại mấy mươi bước, nhưng trông thấy Tiên Trẩn không có quân theo, liền truyền cho quân Địch xúm quanh lại, giương cung ra bắn. Tiên Trẩn hăng hái ra sức, giết chết ba người đầu mục và hơn 20 người quân sĩ, mà khắp mình không bị phải mũi tên nào cả, bởi vì quân Địch thấy Tiên Trẩn là người vũ dũng, đều khiếp đảm, thành ra run tay, bắn chẳng trúng được phát nào. Vả Tiên Trẩn mình mặc mấy lần áo giáp, dẫu trúng cũng không vào được. Tiên Trẩn thấy quân Địch bắn mãi không trúng, mới thở dài mà than rằng: - Ta không giết giặc thì không tỏ được cái tài vũ dũng của ta, nay quân giặc đã biết ta là người vũ dũng, còn giết lắm làm gì! Thôi thì ta đành chết ở đây cho rồi! Tiên Trẩn nói xong, liền cởi áo giáp ra để cho quân Địch bắn một lúc, mũi tên cắm vào như lông dím. Khi chết rồi mà người đứng trơ trơ, không hề chuyển động. Bạch Đôn toan chém lấy đầu, nhưng thấy Tiên Trẩn vẫn trợn mắt vểnh râu như người còn sống, nghĩ lại khiếp sợ, không dám vào chém. Trong đám quân Địch, có người nhận được mặt, nói với Bạch Đôn rằng: - Người ấy là quan Nguyên soái nước Tấn, tên gọi Tiên Trẩn. Bạch Đôn liền cùng với các quân sĩ sụp lạy, rồi bảo nhau rằng: - Ngài thật là một bậc thần nhân! Nói xong, lại quì ở trước mặt Tiên Trẩn mà khấn rằng: - Thần có cho chúng tôi đem về nước để thờ cúng thì xin ngả xuống. Tiên Trẩn vẫn đứng yên như trước. Bạch Đôn lại khấn rằng: - Hay là thần muốn về nước Tấn thì chúng tôi xin đưa về. Khấn xong, tự nhiên Tiên Trẩn ngã xuống.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  7. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 46 Vua Sở vì con bị giết oan Quân Tần chết trận được cúng tế

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vua nước Địch là Bạch Bộ Hồ bị giết rồi, quân sĩ trốn về báo với Bạch Đôn. Bạch Đôn khóc rằng: - Khi trước ta đã nói là quân Tấn có trời giúp, không thể đánh nổi, mà anh ta không nghe lời, để đến nỗi bị hại! Bạch Đôn sai người sang nói với quân Tấn, xin đem thi thể Tiên Trẩn đổi lấy thi thể Bạch Bộ Hồ. Lại nói chuyện Khước Khuyết khi chém được thủ cấp Bạch Bộ Hồ, cùng với các tướng đem về nộp quan Nguyên soái, nhưng không thấy Tiên Trẩn đâu cả, liền hỏi các quân sĩ. Quân sĩ đều nói: - Quan Nguyên soái ngài vừa đi khỏi, có truyền cho chúng tôi phải canh giữ cẩn mật, không biết ngài đi đâu! Tiên Thả Cư nghe nói, có ý nghi ngờ, bỗng thấy ở trên thư án có một tờ biểu, vội vàng lấy xem. Trong tờ biểu nói như sau này: "Trung quân Đại phu là Tiên Trẩn có lời tâu bày để Chúa công xét cho; nguyên khi trước chúng tôi vì nóng nẩy quá, không biết giữ lễ, Chúa công đã không trị tội, lại dùng làm Nguyên soái. Ngày nay thắng trận, tất sao Chúa công lại sắp sửa ban thưởng đến chúng tôi, nếu tôi về mà nhận thưởng thì thành ra một kẻ có tội cũng được dự thưởng, còn lấy gì làm phép cho kẻ khác. Vậy tôi xin liều thân xông vào quân Địch, để mượn tay quân Địch giết chết cho rồi! Con tôi là Tiên Thả Cư có thể thay tôi được, tôi xin nói để Chúa công biết" Tiên Thả Cư nói: - Nếu vậy thì thân phụ tôi xông vào quân Địch mà chết mất rồi! Nói xong, khóc òa lên một hồi rồi toan xông vào quân Địch để tìm Tiên Trẩn. Bấy giờ các tướng xúm lại can ngăn, xin hãy sai người đi do thám trước xem Nguyên soái sống chết thế nào, rồi sẽ tiến binh. Bỗng có quân báo em vua Địch là Bạch Đôn sai người đến xin đổi thi thể Tiên Trẩn lấy thi thể Bạch Bộ Hồ (tức là vua Địch). Tiên Thả Cư nghe tin cha là Tiên Trẩn chết, liền vật mình lăn khóc, rồi hẹn với quân Địch đến ngày mai thì đem thi thể đổi lẫn cho nhau. Tiên Thả Cư lại bảo các tướng rằng: - Quân Địch hay gian dối lắm, ngày mai ta cũng phải nên phòng bị mới được! Nói xong, truyền cho các tướng đều phục quân sẵn để phòng khi có việc giao chiến. Ngày hôm sau, Tiên Thả Cư mặc đồ tang phục, ra nơi trận tiền để nhận thi thể Tiên Trẩn. Bạch Đôn sợ vong hồn Tiên Trẩn thiêng liêng, nhổ hết những mũi tên ra, đem nước trầm hương tắm rửa, lại phủ thêm một cái áo cẩm bào, đặt lên trên xe như người còn sống, rồi đưa ra trận tiền giao trả Tiên Thả Cư. Quân Tấn cũng đem thủ cấp Bạch Bộ Hồ giao trả cho quân Địch. Bạch Đôn trông thấy quân Tấn chỉ giao trả có thủ cấp Bạch Bộ Hồ mà thôi, không được đủ thân thể, liền không bằng lòng mà nói rằng: - Quân Tấn đánh lừa ta, sao không giao đủ thân thể? Tiên Thả Cư sai người truyền bảo Bạch Đôn rằng: - Có muốn tìm đủ thân thể thì nhà ngươi phải vào hang đá mà tìm ở trong đống xác người chết. Bạch Đôn giận lắm, cầm cái Khai sơn phủ, vẫy quân xông vào để đánh. Tướng nước Tấn là Hồ Xạ Cô đem quân ra đối địch. Hai bên vừa giao chiến được mấy hợp thì phía tả có Khước Khuyết, phía hữu có Loan Tần đổ ra đón đánh. Bạch Đôn thấy quân Tấn đông quá, vội vàng quay ngựa bỏ chạy. Quân tấn tranh nhau đuổi đánh, quân Địch chết hại rất nhiều. Hồ Xạ Cô giục ngựa đuổi theo Bạch Đôn. Khi đuổi gần đến nơi, Bạch Đôn trông thấy, liền hỏi Hồ Xạ Cô rằng: - Ta trông tướng quân quen mặt lắm, có phải Hồ Xạ Cô đó không? Hồ Xạ Cô nói: - Phải! Bạch Đôn nói: - Vậy tôi xin có lời chào Tướng quân! Cha con Tướng quân khi trước ở nước tôi 12 năm trời, nước tôi có điều gì bạc đãi đâu; ngày nay Tướng quân nên nghĩ lại một chút, tôi chính là em ruột Bạch Bộ Hồ tên gọi Bạch Đôn đây. Hồ Xạ Cô thấy Bạch Đôn nhắc lại chuyện cũ, không nỡ giết chết, liền đáp lại rằng: - Thôi thì ta khoan tha cho nhà ngươi, nhà ngươi nên mau mau thu quân về ngay, chớ ở đây nữa! Hồ Xạ Cô quay ngựa trở lại. Đêm hôm ấy, Bạch Đôn rút hết quân kéo về nước Địch. Bạch Bộ Hồ không có con trai, Bạch Đôn phát tang, rồi lên nối ngôi làm vua nước Địch. Quân Tấn thắng trận rồi, các tướng về yết kiến Tấn Tương công, đệ trình tờ di biểu của Tiên Trẩn. Tấn Tương công thương xót vô cùng, truyền đem thi thể Tiên Trẩn ra xem, trông thấy hai mắt vẫn mở trừng trừng như lúc còn sống, vội vàng ôm lấy thi thể mà khóc rằng: - Tướng quân vì việc nước mà chết! Sống khôn chết thiêng! Xem mấy lời di biểu này thì đủ biết Tướng quân là người trung nghĩa. Tấn Tương công nói xong, sụp lạy ở trước linh cữu Tiên Trẩn, phong cho con Tiên Trẩn là Tiên Thả Cư thay cha làm chức Nguyên soái. Bấy giờ hai mắt Tiên Trẩn mới nhắm lại, về sau người nước Tấn có lập đền thờ ở đất Cơ Thành. Tấn Tương công khen Khước Khuyết có công giết được Bạch Bộ Hồ, lại phong cho đất Ký Ấp mà bảo rằng: - Nhà ngươi biết đổi lại cái lỗi của thân phụ nhà ngươi ngày xưa, vậy nên ta trả lại cho đất Ký Ấp là đất ăn lộc của thân phụ nhà ngươi trước. Tấn Tương công lại bảo Tư Thần rằng: - Nhà ngươi có công cử Khước Khuyết, nếu ngươi không nói thì sao ta biết Khước Khuyết mà dùng! Tấn Tương công đem đất Tiêu Mao thưởng cho Tư Thần. Nước Hứa và nước Sái từ khi Tấn Văn công mất đi, lại thần phục nước Sở. Tấn Tương công cho Dương Xử Phủ làm đại tướng, đem quân sang đánh nước Hứa và nước Sái. Sở Thành vương sai Đấu Bột và Thành Đại Tâm đem quân đi cứu. Đi đến bến sông Tri Thủy, trông thấy quân Tấn ở bờ bên kia, liền truyền cho quân sĩ đóng lại ở bờ sông bên này. Hai bên chỉ cách nhau một dòng nước chảy. Quân Tấn bị quân Sở ngăn trở, không qua sông được, đã hơn hai tháng, thành ra hết cả lương ăn. Dương Xử Phủ định rút quân về, nhưng sợ người nước Sở đuổi theo, lại e rằng người ta cười mình phải chịu kém quân Sở, mới lập kế sai sứ sang nói với tướng nước Sở là Đấu Bột rằng: "Đã đến thì không sợ, đã sợ thì không đến, Tướng quân muốn đánh nhau với quân Tấn tôi thì quân Tấn tôi xin rút quân lùi lại một xá, để nhường cho Tướng quân qua sông mà bày trận, rồi ta sẽ cùng nhau giao chiến; nếu Tướng quân không muốn qua sông thì Tướng quân cũng nên lùi lại một xá, để nhường quân Tấn tôi qua sông mà bày trận và xin định ngày giao chiến. Bằng nay không tiến không lui thì hai bên cùng nhọc công tốn của, phỏng có ích gì! Xin Tướng quân nghĩ lại" Đấu Bột nổi giận, nói: - Nước Tấn khinh ta không dám qua sông hay sao! Nói xong, toan đem quân qua sông để đánh Tấn. Thành Đại Tâm vội vàng ngăn lại mà nói rằng: - Người nước Tấn xin rút quân lùi lại một xá là nói dối để dụ quân ta sang đó mà thôi, ngài chớ nên tin vội! Nếu quân ta sang được một nửa, tất quân Tấn đánh ngay, bấy giờ ta tiến cũng dở mà thoái cũng dở, chi bằng ta hãy rút quân, nhường cho quân Tấn sang trước. Đấu Bột khen phải, rồi truyền quân sĩ lùi lại ba mươi dặm (tức là một xá) để nhường cho quân Tấn qua sông. Sứ nước Tấn về nói với Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ tuyên bá cho các quân sĩ rằng: - Tướng nước Sở là Đấu Bột sợ thế quân ta, hiện đã rút quân trốn đi rồi! Quân sĩ tưởng thực, đều huyên truyền bảo nhau, Dương Xử Phủ lại nói: - Quân Sở đã trốn đi rồi thì ta còn qua sông làm gì nữa! Bây giờ ngày hết tết đến, tiết trời lại rét, âu là ta hãy thu quân về nghỉ, rồi sau sẽ liệu. Dương Xử Phủ thu quân trở về nước Tấn. Đấu Bột chờ đã hai ngày mà không thấy quân Tấn qua sông, sai người đi dò thám thì ra quân Tấn rút về đã xa rồi, mới cũng truyền lệnh thu quân về nước. Lại nói chuyện Sở Thành Vương có người con trưởng tên là Thương Thần, khi trước Sở Thành Vương muốn lập làm Thái tử, hỏi ý kiến Đấu Bột. Đấu Bột nói: - Nước Sở ta mấy đời nay vẫn lập con thứ, không lập con trưởng. Vả tôi xem tướng mạo Thương Thần, mắt như mắt cú, tiếng như tiếng beo, thì là người có tính tàn nhẫn, ngày nay Đại vương yêu mà lập lên, ngày khác lại ghét mà truất đi, tất hắn nổi loạn. Sở Thành Vương không nghe, liền lập Thương Thần làm Thái tử, và cho Phan Sùng làm chức Thái phó. Thương Thần nghe nói Đấu Bột không muốn lập mình làm Thái tử, có ý căm tức; đến lúc Đấu Bột đem quân đi cứu nước Sái, lại không giao chiến với Tấn mà rút quân về, Thương Thần mới đem lời gièm pha mà nói với Sở Thành Vương rằng: - Đấu Bột ăn lễ của Dương Xử Phủ, vậy nên mới rút quân về. Sở Thành Vương tin lời, khi Đấu Bột về, không cho vào yết kiến, lại sai người đưa cho một thanh kiếm. Đấu Bột không dùng kế gì mà giãi tỏ ra cho được, liền cầm thanh kiếm đâm cổ mà chết. Thành Đại Tâm vào yết kiến Sở Thành Vương, sụp lạy kêu khóc, thuật lại cái cớ Đấu Bột rút quân về, không phải là ăn lễ của Dương Xử Phủ; nếu bắt tội về việc rút quân thì Thành Đại Tâm này cũng xin chịu tội. Sở Thành Vương nói: - Nhà ngươi nói làm chi nữa! Ta cũng lấy việc ấy làm hối hận. Sở Thành Vương từ bấy giờ có ý nghi Thái tử Thương Thần; sau Sở Thành Vương lại yêu người con thứ tên là Chức, muốn bỏ Thương Thần mà lập Chức làm Thái tử, nhưng lại sợ Thương Thần nổi loạn, mới định tìm cớ để giết đi. Cung Nhân nghe được tin ấy nói với Thương Thần, Thương Thần còn ngần ngừ chưa cho điều ấy làm thực, thuật chuyện lại cho quan Thái phó là Phan Sùng nghe. Phan Sùng nói: - Tôi xin hiến một kế, có thể dò xét được điều ấy thực hay là giả. Thương Thần hỏi: - Kế gì? Phan Sùng nói: - Em gái Đại vương ta lấy chồng ở nước Giang, gọi là nàng Giang Vu, nay về thăm Đại vương ta, ở chơi trong cung lâu ngày, tất biết rõ điều ấy. Thái tử nên bày một tiệc rượu, mời Giang Vu đến ăn tiệc, rồi trong khi ăn tiệc, cố ý làm ra bộ khinh bỉ, để khiến cho Giang Vu phải tức giận. Giang Vu đã tức giận, tất thế nào cũng nói lộ điều ấy ra. Thương Thần nghe lời, bày tiệc rượu để mời nàng Giang Vu. Lúc Giang Vu mới đến thì Thương Thần tiếp đãi rất lễ phép, khi uống rượu tới nửa chừng, dần dần làm ra bộ khinh bỉ, sai người nhà bếp đưa món ăn mà không thèm đứng dậy mời, lại cố ý ngoảnh mặt nói chuyện riêng với mấy đứa thị nữ hầu rượu. Giang Vu hai lần hỏi chuyện, đều không trả lời. Giang Vu giận lắm, đập bàn đứng dậy mà sỉ mắng Thương Thần rằng: - Mày tệ quá như thế, thảo nào mà Đại vương định giết mày để lập Công tử Chức. Thương Thần giả cách xin lỗi. Giang Vu không thèm nhìn mặt, lên xe đi ngay, vừa đi vừa sỉ mắng Thương Thần thậm tệ. Ngay đêm hôm ấy, Thương Thần đến bảo Phan Sùng và hỏi kế để cầu thoát nạn. Phan Sùng nói: - Thái tử có thể chịu cúi đầu mà thần phục Công tử Chức được hay không? Thương Thần nói: - Ta là con trưởng mà phải thần phục con thứ thì chịu thế nào được! Phan Sùng nói: - Nếu không chịu thần phục người ta thì chi bằng trốn sang nước khác. Thương Thần nói: - Trốn cũng vô ích, chỉ thêm nhục mà thôi! Phan Sùng nói: - Trừ hai điều ấy thì chẳng còn kế gì nữa! Thương Thần lại cố ý hỏi mãi. Phan Sùng nói: - Có một kế này rất thần hiệu, nhưng chỉ sợ Thái tử không nỡ làm. Thương Thần nói: - Trong lúc đang nguy cấp này, lại còn điều gì là điều không nỡ! Phan Sùng ghé tai mà bảo rằng: - Chỉ làm đại sự thì mới có thể đổi họa làm phúc được! Thương Thần nói: - Việc đó ta phải làm! Nói xong, liền tụ tập quân sĩ, đến nửa đêm vào vây cung Sở Thành Vương. Phan Sùng tay cầm thanh kiếm, cùng với mấy người lực sĩ đi thẳng đến trước mặt Sở Thành Vương. Các nội thị sợ hãi, đều bỏ chạy tán loạn cả. Sở Thành Vương hỏi Phan Sùng rằng: - Nhà ngươi vào đây có việc gì? Phan Sùng nói: - Đại vương làm vua đã 46 năm rồi, cũng nên thôi đi! Nay người trong nước đều mong có vua mới, xin Đại vương truyền ngôi lại cho Thái tử. Sở Thành vương kinh sợ mà nói rằng: - Ta bằng lòng nhường ngôi lại cho, nhưng chẳng biết các ngươi có để cho ta sống hay không? Phan Sùng nói: - Vua nọ chết thì vua kia mới lập nên, chứ có lẽ nào một nước hai vua bao giờ! Sao Đại vương đã già mà còn chưa hiểu việc đời! Sở Thành Vương nói: - Ta vừa mới sai nhà bếp nấu món chân gấu, đợi chín cho ta ăn một miếng thì dẫu chết ta cũng cam lòng! Phan Sùng quát to lên rằng: - Món chân gấu thì còn lâu mới chín được, hay là Đại vương định dùng dằng đợi người đến cứu đó chăng! Xin Đại vương tự liệu đi, chớ để cho tôi phải động đến. Phan Sùng cởi dây lưng ném ở trước mặt Sở Thành Vương. Sở Thành Vương ngửa mặt lên trời mà kêu rằng: - Đấu Bột giỏi thật! Đấu Bột giỏi thật! Ta không nghe lời Đấu Bột, đến nỗi phải tai vạ, còn nói gì nữa! Nói xong, liền cầm lấy dây lưng mà buộc vào cổ. Phan Sùng sai mấy người đứng hai bên nắm lấy đầu dây mà kéo, được một lúc thì tắt hơi. Giang Vu nghe tin, thở dài mà than rằng: - Thôi! Chính ta làm hại anh ta rồi đó! Giang Vu cũng thắt cổ tự tử. Thương Thần đã giết xong Sở Thành Vương, nói dối là Sở Thành Vương bị cảm mà chết, sai người báo tang cho các nước chư hầu biết, rồi lên nối ngôi, tức là Sở Mục Vương. Sở Mục Vương gia phong cho Phan Sùng làm chức thái sư và giao binh quyền cho, để coi giữ vương cung. Quan Lệnh doãn nước Sở là Đấu Ban cùng các quan đều biết là Sở Thành Vương bị giết mà không ai dám nói. Đấu Nghi Thân nghe tin Sở Thành Vương bị giết, cùng với quan Đại phu là Trọng Qui bàn mưu để giết Sở Mục Vương, chẳng ngờ việc tiết lộ ra, Sở Mục Vương truyền cho quan Tư mã là Đấu Việt Tiêu bắt Đấu Nghi Thân và Trọng Qui mà giết đi. Ngày trước có người thầy đồng tên là Duật Tự đã nói: Sở Thành Vương cùng với Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân ba người đều bất đắc kỳ tử, đến bây giờ quả nhiên ứng nghiệm. Đấu Việt Tiêu có ý muốn làm lệnh doãn, mới nói với Sở Mục Vương rằng: - Tôi thấy Đấu Ban nói chuyện với người ta, thường phàn nàn về nỗi cha con nhà hắn chịu ơn Tiên vương nhiều lắm, mà không giúp nên được cái chí lớn của Tiên vương ngày xưa thì lấy làm xấu hổ. Hắn muốn lập Công tử Chức lên làm vua; mới rồi Đấu Nghi Thân làm phản là mưu tự Đấu Ban, nay Đấu Nghi Thân đã bị giết rồi, Đấu Ban có ý lo sợ, tôi e rằng hắn lại bày mưu khác, Đại vương nên phải phòng bị mới được. Sở Mục Vương đem lòng nghi Đấu Ban, mới triệu Đấu Ban vào, sai đi giết Công tử Chức. Đấu Ban chối từ không chịu đi. Sở Mục Vương nổi giận, nói: - Nhà ngươi muốn giúp nên cái chí lớn của Tiên vương ngày xưa có phải không? Sở Mục Vương liền cầm cái dùi đồng đánh chết Đấu Ban. Công tử Chức sợ hãi, định chạy sang nước Tấn. Đấu Việt Tiêu đuổi theo đến ngoài cõi, giết chết Công tử Chức. Sở Mục Vương cho Thành Đại Tâm làm lệnh doãn, chưa được bao lâu thì Thành Đại Tâm chết, Sở Mục Vương liền cho Đấu Việt Tiêu làm lệnh doãn, và cho Vĩ Giả làm quan tư mã. Sau Sở Mục Vương lại nhớ đến công Tử Văn ngày xưa, mới cho Đấu Khắc Hoàng (con Đấu Ban, cháu Tử Văn) làm quan châm doãn. Tấn Tương công nghe tin Sở Thành Vương chết, bảo Triệu Thuẫn rằng: - Thế là lòng trời đã chán nước Sở rồi! Triệu Thuẫn nói: - Vua Sở trước dẫu là bạo ngược, nhưng còn có thể đem điều lễ nghĩa mà phân giải được, chứ như Thương Thần (tức là Sở Mục Vương) ngày nay thì cha nó, nó còn chẳng thiết, huống chi là ai! Tôi e rằng nó còn làm nhiều điều tai hại cho các nước chư hầu nữa. Mấy năm sau, quả nhiên Sở Mục Vương đem quân đi đánh các nước chư hầu, đúng như lời nói của Triệu Thuẫn. Tướng nước Tần là Mạnh Minh nói với Tần Mục công, xin đem quân đi đánh Tấn để báo thù trận thua ở Hào Sơn khi trước, Tần Mục công khen mà cho đi. Mạnh Minh liền cùng với Kiển Bính và Tây Khất Thuật đem quân đi đánh Tấn. Tấn Tương công vẫn lo nước Tần đem quân sang đánh báo thù, ngày nào cũng sai người đi dò thám, khi được tin Mạnh Minh lại sắp sang đánh, mới cười mà bảo rằng: - Nước Tần nay đã sắp sang tạ ơn ta đó! Tấn Tương công cho Tiên Thả Cư làm chánh tướng, Triệu Thôi làm phó tướng, Hồ Cúc Cư làm chức xa hữu, để đợi quân Tần sang đến nơi thì đánh. Khi đại binh sắp khởi hành, Lang Đàm nói với Tiên Thả Cư xin đi theo. Tiên Thả Cư cho đi. Bấy giờ bọn Mạnh Minh chưa sang đến nơi, Tiên Thả Cư bảo các tướng rằng: - Đợi cho quân Tần đến mà đánh, chi bằng ta kéo sang mà đánh quân Tần. Tiên Thả Cư nói xong, liền kéo quân sang đất Bành Nha (đất nước Tần) để đón quân Tần. Khi quân Tần đến nơi, hai bên đã bày trận thế, Lang Đàm nói với Tiên Thả Cư rằng: - Tiên Nguyên soái (tức là Tiên Trẩn, cha Tiên Thả Cư) chê tôi là người vô dũng, vậy nên truất bỏ không dùng, nay Tướng quân hãy thử cho tôi ra trận, tôi không dám cầu công, chỉ mong rửa được cái điều xấu hổ trước mà thôi. Lang Đàm cùng với bạn là Tiên Bá đem hơn một trăm người xông thẳng vào trong đám quân Tần. Bọn Lang Đàm đi đến đâu thì quân Tần tan ra đến đấy, sau Tiên Bá bị Kiển Bính giết chết. Tiên Thả Cư đứng ở trên xe, trông thấy quân Tần rối loạn, mới giục quân tiến vào. Bọn Mạnh Minh không thể chống lại được, tức Nguyên khi trước Mạnh Minh bị quân Tấn bắt, Tấn Tương công đã tha cho về, sau lại sai người đuổi theo giả cách ban cho con ngựa để lừa bắt, khi bấy giờ Mạnh Minh đã đứng ở dưới thuyền, ngoảnh lại bảo rằng: - Mấy năm nữa tôi xin sang tạ ơn. Thì bỏ chạy. Tiên Thả Cư tìm cứu Lang Đàm ra thì thân thể Lang Đàm chỗ nào cũng bị thương cả, được hơn một ngày rồi chết. Quân Tấn đã được thắng trận, kéo nhau trở về. Tiên Thả Cư tâu với Tấn Tương công rằng: - Ngày nay thắng trận là nhờ sức của Lang Đàm, chứ không dự gì đến tôi. Tấn Tương công truyền theo lễ quan Thượng đại phu để an táng Lang Đàm ở Tây Quách, bắt các quan triều thần đều phải đi đưa cả. Mạnh Minh thua trận chạy về nước Tần, tự nghĩ mình lần này tất phải tội chết, ai ngờ Tần Mục công chẳng trách giận gì cả, lại sai người ra đón và vẫn giao quyền chính cho như trước. Mạnh Minh tự nghĩ xấu hổ vô cùng, mới dốc một lòng sửa sang quyền chính, lại đem hết những của riêng ra để tư cấp cho những nhà có người chết trận, ngày nào cũng luyện tập quân sĩ, để định có ngày sang đánh báo thù nước Tấn. Cuối năm ấy, Tấn Tương công lại sai Tiên Thả Cư liên hợp với quan Đại phu nước Tống là Công tử Thành, quan Đại phu nước Trần là Viện Tuyển, quan Đại phu nước Trịnh là Công tử Quí Sinh, cùng đem quân sang đánh Tần, chiếm lấy đất Giang và đất Bành Nha, rồi rút quân về, lại nói giỡn một câu rằng: - Mới rồi nước Tần sang tạ ơn thì ngày nay ta đáp lại đó! Mạnh Minh không đem quân đi đánh quân Tấn, người Tần đều cho là nhát, chỉ có Tần Mục công vẫn tin Mạnh Minh là người giỏi, thường bảo các quan triều thần rằng: - Mạnh Minh tất có ngày báo thù được quân Tấn, chỉ chưa gặp thời đó thôi. Đến tháng 5 năm sau, Mạnh Minh luyện tập quân sĩ đều đã tinh nhuệ cả rồi, mới xin Tần Mục công đi đánh, lại nói với Tần Mục công rằng: - Nếu lần này không báo thù được nước Tấn thì quyết không sống mà về làm gì! Tần Mục công nói: - Quân ta đã ba lần bị quân Tấn đánh thua rồi! Nếu lần này lại thua thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà về nước nữa! Tần Mục công nói xong, liền chọn ngày cử đại binh đi đánh Tấn; phàm các quân sĩ; phải đi tòng chinh, đều tư cấp cho người nhà rất hậu. Các quân sĩ thấy vậy, đều hăng hái xin hết sức. Khi đại binh đã qua sông Hoàng Hà, Mạnh Minh truyền đem bao nhiêu thuyền bè đốt hết sạch cả. Tần Mục công lấy làm lạ mà hỏi rằng: - Tại sao quan Nguyên soái lại đốt hết cả thuyền bè như vậy? Mạnh Minh nói: - Quân có khí thế thì mới đánh được giặc! Quân ta thua luôn mãi, khí thế đã mất hết cả rồi, nay tôi đốt hết thuyền bè đi là tỏ cho quân ta biết rằng chỉ có tiến chứ không có thoái, khiến cho khí thế quân ta được thêm hăng hái, nếu quân ta đã thắng trận rồi thì lo gì mà không có thuyền bè mà trở về. Tần Mục công khen phải, Mạnh Minh kéo quân đi tiên phong, xông vào đánh lấy thành Vương Quan. Quân nước Tấn phi báo Tấn Tương công. Tấn Tương công họp các quan triều thần lại để thương nghị. Triệu Thôi nói: - Nước Tần căm tức ta nhiều lần, lần này vua Tần thân hành cử đại binh sang, cố chết mà đánh ta, ta không thể địch nổi; chi bằng ta hãy tạm nhường quân Tần, khiến cho quân Tần đắc chí, rồi sau ta sẽ xin giảng hòa. Tiên Thả Cư cũng nói với Tấn Tương công rằng: - Vua Tần lấy việc ngày trước thua ta làm xấu hổ, mà các tướng nước Tần cũng đều hăng hái, nếu không thắng được ta thì thế tất không thôi. Chúa công nên nghe lời Tử Dư (tức là Triệu Thôi) là phải! Tấn Tương công truyền cho quân sĩ các nơi đều một mực cố thủ, không được giao chiến với quân Tần. Do Dư bảo Tần Mục công rằng: - Quân Tấn sợ ta rồi! Ta nên nhân dịp này đem quân đến dãy núi Hào Sơn, thu nhặt lấy những hài cốt quân ta bị chết ngày trước để mà mai táng, cho khỏi điều hổ thẹn. Tần Mục công theo lời, kéo quân thẳng tới Hào Sơn, quân Tấn không thấy có một người nào dám ra ngăn trở cả. Tần Mục công sai người thu nhặt lấy những hài cốt quân Tần chết trận khi trước, đem mai táng ở một nơi, rồi giết trâu bò để làm lễ cúng tế. Tần Mục công mặc đồ tang phục đứng rót rượu để làm lễ, lại ứa nước mắt khóc òa lên. Mạnh Minh và các tướng đều sụp lạy mà khóc cả. Quân sĩ trông thấy, ai cũng chảy nước mắt. Dân ở đất Giang và đất Bành Nha nghe tin Tần Mục công thắng được quân Tấn, liền cùng nhau tụ họp, đuổi bỏ các quan trấn thủ nước Tấn đi, rồi lại theo về nước Tần. Tần Mục công thu quân trở về nước Tần, ban thưởng cho Mạnh Minh, Kiển Bính và Tây Khất Thuật. Vua Tây Nhung là Xích Ban, khi trước thấy quân Tần hai ba lần bị thua, có ý khinh nước Tần hèn yếu, định làm phản nước Tần. Đến lúc Tần Mục công thắng được quân Tấn, thu quân trở về, toan rẽ sang đánh Tây Nhung. Do Dư mới nói với Tần Mục công, xin truyền hịch cho Tây Nhung, bắt phải triều cống, nếu không chịu triều cống, bấy giờ sẽ đánh. Xích Ban nghe tin Mạnh Minh nước Tần thắng được quân Tấn, đang có lòng lo sợ, thấy có tờ hịch, vội vàng rủ nhau hơn 20 nước nhỏ ở phía Tây phương cùng vào triều cống nước Tần, tôn Tần Mục công làm bá chủ tất cả các nước ở Tây phương. Uy danh Tần Mục công đồn đến chốn kinh sư nhà Chu. Chu Tương Vương bảo Doãn Vũ công rằng: - Ngày xưa Trùng Nhĩ (tức là Tấn Văn công) nước Tấn đại hội chư hầu, Trẫm sách phong cho làm bá chủ; nay Nhâm Hiếu (tức là Tần Mục công) nước Tần cường thịnh, chẳng kém gì nước Tấn, Trẫm cũng muốn sách phong cho, nhà ngươi nghĩ thế nào? Doãn Vũ công nói: - Nước Tần dẫu cường thịnh, nhưng chưa có công trạng gì với nhà Chu ta, nay lại có ý bất hòa với Tấn mà vua Tấn ngày nay hiện đang noi theo được công nghiệp của cha trước là Tấn Trùng Nhĩ. Nếu ta sách phong cho Tần thì mếch lòng Tấn chi bằng ta sai sứ ban thưởng cho Tần, thế thì Tần biết ơn ta, mà Tấn cũng chẳng oán gì ta được. Chu Tương Vương theo lời.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  8. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 47 Lộng Ngọc cưỡi phượng theo Tiêu Sử Triệu Thuẫn bội Tần lập Di Cao

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tần Mục công đã làm bá chủ các nước ở Tây phương. Chu Tương Vương sai Doãn Vũ công đem một cái trống đồng ban thưởng cho Tần Mục công. Tần Mục công cáo là tuổi già, không vào triều được, sai Công Tôn Chi sang nhà Chu để tạ ơn. Năm ấy Do Dư ốm chết, Tần Mục công thương tiếc vô cùng, liền cho Mạnh Minh thay Do Dư làm chức hữu thứ trưởng (tức là tể tướng). Công Tôn Chi khi ở nhà Chu về, biết ý Tần Mục công muốn trọng dụng Mạnh Minh, cũng cáo lão về nghỉ. Tần Mục công có một người con gái bé, lúc người con gái ấy mới sinh, gặp có kẻ đem dâng viên ngọc phác. Tần Mục công sai thợ dũa đi, thành một viên ngọc sắc biếc mà đẹp lắm. Đến lúc người con gái đầy tuổi, trong cung bày đồ toái bàn, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy mới đặt tên là Lộng Ngọc. Lúc nàng Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, lại thêm tính thông minh, có tài thổi ống sinh mà không học ai cả, mà thành âm điệu. Tần Mục công sai thợ làm một cái ống sinh bằng ngọc để cho nàng Lộng Ngọc thổi. Nàng Lộng Ngọc thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng. Tần Mục công yêu lắm, lại lập một cái lầu để cho nàng Lộng Ngọc ở, đặt tên là Phượng Lâu; trước lầu có xây một cái đài, cũng đặt tên là Phượng Đài. Năm Lộng Ngọc đã 15 tuổi, Tần Mục công muốn tìm một người giai tế, Lộng Ngọc thề rằng: - Tìm người nào tài thổi ống sinh, có thể họa với ta được, ta mới chịu lấy làm chồng, còn ai thì ta cũng chẳng thiết. Tần Mục công sai sứ đi tìm, chẳng được một người nào tài thổi ống sinh cả. Một hôm Lộng Ngọc đang ngồi ở trên lầu, cuốn rèm ngắm cảnh, trông thấy trời quang mây tạnh, vừng trăng sáng tỏ như gương, truyền cho thị nữ đốt một lò hương, rồi đem ống sinh ra thổi. Bấy giờ gió mát hây hẩy, bỗng nghe có tiếng người họa, lúc gần lúc xa, Lộng Ngọc lấy làm lạ, mới dừng ống sinh lại không thổi nữa, rồi lắng tai nghe thì thấy tiếng họa ấy cũng im đi, mà còn hơi văng vẳng. Lộng Ngọc nghĩ ngẩn người ra, một mình lưỡng lự canh chầy, đem cái ống sinh đặt ở đầu giường rồi nằm xuống ngủ. Lộng Ngọc đang nằm ngủ, bỗng thấy về phía tây nam trên trời cửa mở rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng Đài mà bảo Lộng Ngọc rằng: - Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng Thượng Đế sai ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số đã định sẵn như vậy! Chàng trẻ tuổi ấy nói xong, thò tay vào bên mình, cởi cái ống ngọc tiêu, rồi đứng tựa vào lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa. Tiếng phượng kêu cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa ăn nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái, Lộng Ngọc mê mẫn tâm thần mà hỏi rằng: - Khúc này là khúc ở đâu? Chàng trẻ tuổi ấy nói: - Đấy là khúc "Họa Sơn ngâm" đó! Lộng Ngọc lại hỏi: - Khúc này có học được không? Chàng trẻ tuổi ấy nói: - Khi ta đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được! Chàng trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt mà cầm lấy tay Lộng Ngọc. Lộng Ngọc giật mình tỉnh dậy, thành ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Kẻ nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng: - Từ hôm rằm tháng 7 mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên đỉnh núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi một khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không biết là người ở đâu. Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thường, mới đến trước mặt vái chào mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói: - Tôi họ Tiêu tên Sử. Chẳng hay ngài là ai? Đến đây có việc gì? Mạnh Minh nói: - Tôi là chức hữu thứ trưởng nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái Chúa công tôi, tài thổi ống sinh, muốn tìm được một người như thế nữa mà kết duyên; nay nghe ngài am hiểu việc âm nhạc, vậy Chúa công tôi sai đến đón! Tiêu Sử nói: - Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là hơi biết âm nhạc một đôi chút mà thôi, có đâu tôi dám vâng mệnh. Mạnh Minh nói: - Xin ngài cứ cùng tôi về yết kiến Chúa công. Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Tần Mục công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Tần Mục công ngồi ở trên Phượng Đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng: - Chúng tôi ở nơi thảo dã, chưa hiểu lễ phép, có điều gì sơ suất, xin Chúa công miễn thứ cho. Tần Mục công thấy Tiêu Sử hình dung thanh nhã, không phải người thường, cũng có ý hơi bằng lòng, mới cho ngồi ở bên cạnh mà hỏi rằng: - Ta nghe nhà ngươi tài thổi ống tiêu, tất là cũng tài thổi ống sinh nữa! Tiêu Sử nói: - Tôi chỉ biết thổi ống tiêu, không biết thổi ống sinh. Tần Mục công nói: - Ta định tìm một người tài thổi ống sinh, nay nhà ngươi chỉ biết thổi ống tiêu mà thôi thì không làm rể ta được. Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Tần Mục công rằng: - Tiêu với sinh cũng là một loài, người ta đã tài thổi ống tiêu thì sao Chúa công không bảo dạo chơi một khúc, để cho người ta được phô tài. Tần Mục công lấy làm phải, lại bảo Tiêu Sử thổi ống tiêu. Tiêu Sử mới thổi một khúc thì thấy có gió mát hây hẩy; thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt; đến khúc thứ ba thì có một đôi bạch hạc múa lượn ở trên không, lại có mấy đôi khổng tước bay về, và các giống chim kêu ríu rít. Một lúc lâu rồi mới tan đi. Tần Mục công rất bằng lòng. Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng: - Người ấy thật đáng làm chồng ta! Tần Mục công lại hỏi Tiêu Sử rằng: - Nhà ngươi có biết ống tiêu và ống sinh làm từ đời nào không? Tiêu Sử nói: - Ống sinh làm ra từ đời Nữ Oa, ống tiêu làm ra từ đời Phục Hi. Tần Mục công nói: - Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguyên ủy cho ta nghe. Tiêu Sử nói: - Nghề tôi ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguyên ủy ống tiêu: Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là Nhã Tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc; thứ nhỏ gọi là Tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ ấy gọi chung một tiếng là Tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là Đỗng tiêu. Về sau vua Hoàng Đế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khuê, chế làm ống địch; ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản tiện lắm! Người đời sau thấy ống Tiêu quản phiền quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy cái ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa. Tần Mục công lại hỏi: - Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có các giống chim bay đến? Tiêu Sử nói: - Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc nhạc Tiêu Thiều mà chim phượng còn bay đến, huống chi là các giống chim khác! Tiêu Sử ứng đối trơn như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Tần Mục công càng bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng: - Ta có một người con gái tên gọi Lộng Ngọc, cũng hơi biết âm nhạc, không muốn gả cho những đứa ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên. Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng: - Tôi vốn là người thôn dã, có đâu dám sánh với bậc tôn quí! Tần Mục công nói: - Con gái ta vốn có lời thề nguyện, muốn chọn được người nào tài thổi ống sinh thì mới lấy làm chồng, nay nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi ống sinh nhiều lắm. Vả con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rằm tháng tám, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ. Tiêu Sử lạy tạ. Tần Mục công sai quan Thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan Thái sử nói: - Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin Chúa công cho làm lễ cưới, để hợp với cái nghĩa đoàn viên. Tần Mục công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến Phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chính cả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng Lâu; lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được phép tiên của Tiêu Sử cũng không ăn cơm. Tiêu Sử lại dạy Lộng Ngọc thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau ước được nửa năm, có một đêm, hai vợ chồng nhân khi bóng trăng vằng vặc, đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu. Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng: - Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về việc sử sách, mới gọi ta là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng Thượng Đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn, vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhờ một khúc ngọc tiêu mà được cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này! Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi. Lộng Ngọc toan vào từ biệt cha, Tiêu Sử can rằng: - Không nên! Đã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà còn quyến luyến! Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng Ngọc cưỡi con phượng, cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo Tần Mục công. Tần Mục công thở dài mà than rằng: Thế mới biết việc thần tiên cũng có thật! Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vua! Tần Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy tông tích đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Tần Mục công từ bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng được bao lâu, Công Tôn Chi cũng mất. Mạnh Minh tiến dẫn con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hổ, Tần Mục công đều cho làm quan đại phu. Một hôm, Tần Mục công ngồi ở trên Phượng Đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến con gái là Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón Tần Mục công lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương, đến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cảm hàn, trong mấy ngày thì tạ thế, ai cũng cho là Tần Mục công đắc đạo thành tiên. Tần Mục công nguyên trước lấy con gái Tấn Hiếu công, sinh Thế tử Oánh, đến bấy giờ Thế tử Oánh lên nối ngôi tức là Tần Khang công. Tần Khang công an táng Tần Mục công theo tục nước Tần, dùng một trăm bảy mươi bảy người đem chôn sống. Trong số người chôn theo ấy có cả ba con Tử Xa Thị, người nước Tần ai cũng thương tiếc. Lại nói chuyện Tấn Tương công lập con là Di Cao làm thế tử, cho thứ đệ là Công tử Lạc sang làm quan ở nước Trần. Bấy giờ Triệu Thôi, Loan Chi, Tiên Thả Cư và Tư Thần đều chết dần tất cả. Năm sau, Tấn Tương công ra duyệt binh ở đất Di (đất nước Tấn), toan cho Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ làm tướng ở đạo trung quân, lại cho Cơ Trịnh Phủ và Tiên Đô (con Tiên Trẩn) làm tướng ở đạo thượng quân. Con Tiên Thả Cư là Tiên Khắc nói với Tấn Tương công rằng: - Họ Hồ và họ Triệu có công to với Tấn, Chúa công chớ nên bỏ con cháu sau mà không dùng. Vả Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều chưa có chiến công, đã làm ngay đại tướng, sao cho người ta phục. Tấn Tương công theo lời, mới cho Hồ Xạ Cô làm trung quân nguyên soái, mà lấy Triệu Thuẫn làm phó tướng; cho Cơ Trịnh Phủ làm thượng quân nguyên soái, mà lấy Tuân Lâm Phủ làm phó tướng; cho Tiên Miệt là hạ quân nguyên soái, mà lấy Tiên Đô làm phó tướng. Hồ Xạ Cô trèo lên tướng đài, tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, có ý kiêu ngạo, không coi ai ra gì cả. Quan Tư mã là Du Biền can rằng: - Tôi nghe việc binh cốt nhất là một điều hòa thuận, nay các tướng đều là những bậc thế thần, Nguyên soái chớ có khinh bỉ. Ngày xưa Thành Đắc Thần chỉ vì kiêu ngạo mà phải thua nước Tấn, Nguyên soái nên lấy làm răn. Hồ Xạ Cô nổi giận, quát to lên rằng: - Nay ta đang tuyên bá hiệu lệnh cho các tướng sĩ, kẻ thất phu kia, sao dám nói càn! Nói xong, truyền nọc Du Biền đánh một trăm roi. Các tướng sĩ trông thấy đều có ý không phục. Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ nghe nói Tiên Khắc bảo Tấn Tương công không dùng mình, mới đem lòng oán giận. Tiên Đô không được chức thượng quân nguyên soái, cũng có ý oán giận Tiên Khắc. Bấy giờ Dương Xử Phủ đang sang sứ nước Vệ, không dự biết việc ấy, đến lúc Dương Xử Phủ về nước, nghe tin Hồ Xạ Cô được làm nguyên soái, liền mật tâu với Tấn Tương công rằng: - Hồ Xạ Cô là người kiêu ngạo, không đáng làm chức nguyên soái, chỉ có con Triệu Thôi là Triệu Thuẫn, người ấy rất hiền, mà lại có tài, Chúa công muốn chọn quan nguyên soái thì nên dùng Triệu Thuẫn. Tấn Tương công theo lời, liền ra duyệt binh ở đất Đổng. Hồ Xạ Cô chưa biết ý Tấn Tương công muốn dùng người khác, vẫn nghiễm nhiên tự nhận làm trung quân nguyên soái. Tấn Tương công gọi Hồ Xạ Cô mà bảo rằng: - Ngày trước ta cho nhà ngươi làm nguyên soái, nay ta lại muốn cho Triệu Thuẫn làm nguyên soái, mà cho nhà ngươi làm phó tướng để giúp Triệu Thuẫn. Hồ Xạ Cô không dám nói gì, vâng dạ mà lui xuống. Tấn Tương công liền cho Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, mà lấy Hồ Xạ Cô làm phó tướng; còn thượng quân và hạ quân vẫn để yên như cũ. Triệu Thuẫn từ khi cầm quyền chính trong nước, chỉnh đốn pháp lệnh, người trong nước ai cũng kính phục. Có người bảo Dương Xử Phủ rằng: - Ngài nói thẳng mà không kiêng nể thì thật là người một lòng vì nước, nhưng ngài không sợ người ta oán giận hay sao? Dương Xử Phủ nói: - Nếu có lợi cho việc nước thì ta chẳng sợ gì oán giận! Ngày hôm sau, Hồ Xạ Cô vào yết kiến Tấn Tương công, nhân lúc vắng vẻ có một mình, mới hỏi Tấn Tương công rằng: - Chúa công nghĩ đến cái công lao của tiền nhân tôi ngày xưa, mà cho tôi làm nguyên soái, nay lại đổi cho người khác, chẳng hay tôi có tội gì, xin Chúa công chỉ bảo cho biết, hay là vì cái công lao của tiền nhân tôi là Hồ Yển không bằng cái công lao của Triệu Thôi? Tấn Tương công nói: - Không phải có cớ gì khác đâu! Chỉ vì Dương Xử Phủ nói với ta rằng nhà ngươi không mấy người phục, khó làm được đại tướng, bởi vậy mà ta phải đổi người khác. Hồ Xạ Cô nín lặng lui ra. Đến tháng ba năm ấy, Tấn Tương công ốm gần chết, mới triệu quan Thái phó là Dương Xử Phủ và quan Thượng khanh (tức là chức Trung quân Nguyên soái) là Triệu Thuẫn, cùng các quan Triều thần đến cạnh giường nằm mà dặn rằng: - Ta đây nối theo nghiệp cha, đánh đông dẹp bắc, chưa hề chịu kém ai, ngày nay chẳng may cùng với các ngươi từ biệt; Thế tử Di Cao tuổi hãy còn nhỏ, các ngươi nên hết lòng giúp Thế tử mà giao hiếu với các nước láng giềng, để giữ lấy công nghiệp bá chủ. Các quan triều thần đều sụp lạy xin vâng mệnh. Tấn Tương công mất. Ngày hôm sau, các quan triều thần định tôn Thế tử Di Cao lên nối ngôi. Triệu Thuẫn nói: - Nước ta ngày nay gặp lúc lắm việc, phải đối địch với nước Tần và nước Địch, không nên lập vua nhỏ; nay có Công tử Ung hiện đang làm quan ở nước Tần ta nên đón về làm vua. Các quan triều thần không ai dám nói gì. Hồ Xạ Cô nói: - Chi bằng ta lập Công tử Lạc! Công tử Lạc nay đang làm quan ở nước Trần, chỉ sáng đi thì chiều đến nơi mà thôi. Triệu Thuẫn nói: - Không được! Trần là một nước nhỏ mà ở xa, Tần là nước lớn mà ở gần. Ta sang nước Trần đón vua, cũng không thêm được thân ái, mà sang nước Tần đón vua thì lại bỏ được các điều thù oán năm xưa, và lại thêm vây cánh cho ta nữa. Cứ như thế thì tất phải đón Công tử Ung mới được! Các quan triều thần đều nín lặng cả. Triệu Thuẫn liền sai Tiên Miệt làm chánh sứ, Sĩ Hội làm phó sứ sang nước Tần báo tang và đón Công tử Ung về làm vua. Lúc Tiên Miệt sắp đi, Tuân Lâm Phủ ngăn lại mà bảo rằng: - Phu nhân và Thế tử đều ở đây cả, mà lại sang nước khác đón vua tôi e rằng nếu việc không thành thì tất có biến, sao nhà ngươi không cáo ốm mà từ chối đi! Tiên Miệt nói: - Quyền chính ở tay Triệu Thuẫn, sao lại có biến được. Tuân Lâm Phủ nói riêng với người khác rằng: - Ta cùng với Tiên Miệt là bạn đồng liêu với nhau, vậy nên ta phải thực lòng mà bảo, nhưng hắn không nghe, ta e rằng khó lòng đã về được. Hồ Xạ Cô thấy Triệu Thuẫn không theo ý mình, có lòng tức giận mà nói rằng: - Họ Hồ và họ Triệu, có kém gì nhau! Ta quyết rằng phen này có họ Triệu thì không họ Hồ! Hồ Xạ Cô mật sai người sang nước Trần đón Công tử Lạc về, để tranh cướp lấy ngôi vua. Có người báo tin với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn sai Công Tôn Chử Cữu đem hơn một trăm người phục sẵn ở dọc đường, đón Công tử Lạc mà giết chết đi. Hồ Xạ Cô thấy vậy, càng tức giận mà nói rằng: - Làm cho Triệu Thuẫn được cầm quyền chính là bởi Dương Xử Phủ, nay có các nước đến hộ tang, Dương Xử Phủ ra ngủ ở ngoài cõi để tiếp đãi, ta sai người đâm chết, thật dễ như chơi! Triệu Thuẫn đã giết Công tử Lạc thì ta giết Dương Xử Phủ chứ sao! Hồ Xạ Cô bàn mưu với em ruột là Hồ Cúc Cư. Hồ Cúc Cư nói: - Việc ấy tôi có thể làm được! Hồ Cúc Cư liền cùng với người nhà giả hình làm kẻ trộm, nửa đêm trèo tường vào chỗ Dương Xử Phủ ở. Dương Xử Phủ đang ngồi xem sách ở bên cây nến. Hồ Cúc Cư xông đến mà đánh, trúng vào vai Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ giật mình bỏ chạy. Hồ Cúc Cư đuổi theo giết chết, rồi cắt đầu đem về. Người nhà Dương Xử Phủ có kẻ nhận được mặt Hồ Cúc Cư, chạy về báo với Triệu Thuẫn, Triệu Thuẫn không tin mà mắng rằng: - Quan Thái phó họ Dương bị kẻ trộm giết chết, sao nhà ngươi lại dám vu oan cho Hồ Cúc Cư. Triệu Thuẫn sai người đi khâm liệm cho Dương Xử Phủ. Đến tháng mười năm ấy, làm lễ an táng Tấn Tương công ở đất Khúc Ốc. Bà phu nhân là Mục Doanh và Thế tử Di Cao cũng đi đưa đám. Mục Doanh bảo Triệu Thuẫn rằng: - Quan Thượng khanh ôi! Tiên quân tôi có tội gì? Thế tử có tội gì? Mà ngài lại bỏ Thế tử, rồi đi đón vua ở nước khác? Triệu Thuẫn nói: - Đó là việc quan trọng của nước nhà, không phải tự ý riêng một mình tôi! Khi đã làm lễ an táng Tấn Tương công rồi, rước thần chủ vào nhà miếu. Triệu Thuẫn đứng ở trong miếu, bảo các quan đại phu rằng: - Tiên quân ta ngày xưa chỉ biết dùng pháp luật mà làm bá chủ được chư hầu, nay linh cữu Tiên quân hãy còn để đấy, mà Hồ Cúc Cư dám tự tiện giết chết quan Thái phó, khiến cho triều thần ai cũng lo sợ, tội ấy không thể tha được! Triệu Thuẫn bắt Hồ Cúc Cư giao cho quan Tư khấu kết án mà chém đi, Triệu Thuẫn lại sai người đến khám nhà Hồ Cúc Cư, tìm thấy đầu Dương Xử Phủ, rồi đem chắp vào thi thể của Dương Xử Phủ để an táng. Hồ Xạ Cô sợ Triệu Thuẫn biết cái mưu ấy tự mình bày ra, nhân đêm hôm ấy trốn sang nước Địch, vào đầu với vua nước Địch là Bạch Đôn. Bấy giờ nước Địch có một người tên gọi Kiều Như, mình dài một trượng năm thước, bởi vậy mới gọi là Trường Địch. Trường Địch có sức khỏe, mang nổi nghìn cân, đầu rắn như đồng, trán cứng như sắt, cầm gạch ngói mà đập vào, cũng không thể xây xát được. Bạch Đôn (vua nước Địch) dùng cho làm tướng, sai đi đánh nước Lỗ. Lỗ Văn công sai Thúc Tôn Đắc thần đem quân ra đối địch. Bấy giờ đang tiết mùa đông, sương mù nhiều lắm, quan Đại phu là Phú Phủ Chung Sanh biết rằng trời sắp mưa tuyết, mới bảo Thúc Tôn Đắc Thần rằng: - Kiều Như (tức là Trường Địch) là người vũ dũng lạ thường, không lấy sức khỏe mà địch nổi, phải dùng mưu kế thì mới đánh được! Nói xong, liền sai người đào mấy cái hầm hố ở các nơi hiểm yếu, rồi đem đất và cỏ phủ kín mặt trên. Đêm hôm ấy quả nhiên trời mưa tuyết to lắm, mặt đất phẳng lỳ những tuyết, không biết chỗ nào là hầm hố cả. Phú Phủ Chung Sanh đem một toán quân đến cướp phá đồn trại của Kiều Như. Kiều Như đem quân ra đánh. Phú Phủ Chung Sanh giả cách thua chạy. Kiều Như vội vàng đuổi theo. Phú Phủ Chung Sanh đã có ý đi tránh những nơi hầm hố. Kiều Như vô tình, ngã lăn xuống hố. Thúc Tôn Đắc Thần đem quân ra đuổi đánh quân Địch. Phú Phủ Chung Sanh cầm giáo đâm suốt qua cổ họng Kiều Như. Kiều Như chết, Phú Phủ Chung Sanh đem xác để lên một cái xe lớn rồi kéo đi, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. Năm ấy Thúc Tôn Đắc Thần nhân sinh được đứa con trai trưởng, mới đặt tên là Thúc Tôn Kiều Như, để kỷ niệm cái công thắng trận ấy. Từ bấy giờ nước Lỗ, nước Tề và nước Vệ cùng họp sức nhau để đánh nước Địch. Bạch Đôn thua chạy rồi chết, các nước mới diệt nước Địch. Hồ Xạ Cô lại chạy sang nước Lộ, nương tựa vào quan Đại phu nước Lộ là Phong thư. Triệu Thuẫn nói: - Hồ Xạ Cô có công với Tiên quân ta nhiều lắm, ta giết Hồ Cúc Cư là muốn cho Hồ Xạ Cô được yên lòng, ai ngờ hắn lại sợ tội bỏ trốn; nay ta nỡ lòng nào mà khiến cho hắn phải bơ vơ một mình ở nơi đất khách. Nói xong, liền sai Du Biền đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Lộ, giao trả Hồ Xạ Cô. Du Biền vừa sắp sửa khởi hành, những người nhà Du Biền nói với Du Biền rằng: - Ngày trước ngài đã bị Hồ Xạ Cô làm sỉ nhục một lần, cái thù ấy cũng nên báo lại; nay quan Nguyên soái sai ngài đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Lộ, đó là trời cho ta cái dịp để báo thù! Ta nên giết cả đi. Du Biền gạt luôn đi mà bảo rằng: - Không nên! Không nên! Nguyên soái đem việc ấy giao cho ta là có lòng tin cậy ta. Nguyên soái muốn giao trả người ta, mà ta lại giết đi thì tất Nguyên soái giận ta lắm. Nếu ta nhân lúc người ta nguy cấp mà làm hại thì không phải là nhân! Làm một việc mà để cho người ta giận thì không phải là trí. Du Biền mời vợ con Hồ Xạ Cô lên xe đưa đi, còn bao nhiêu gia tài của Hồ Xạ Cô, đều biên vào trong một quyển sổ, mà đem sang trả tận nơi, không mất tí gì cả. Hồ Xạ Cô thấy vậy, thở dài mà than rằng: - Du Biền là người hiền mà ta không biết! Nay ta phải chạy trốn thế này, cũng là đáng lắm! Triệu Thuẫn tự bấy giờ kính trọng Du Biền, có ý muốn dùng cho làm quan to. Tiên Miệt và Sĩ Hội sang đến nước Tần, xin đón Công tử Ung về làm vua. Tần Khang công mừng mà nói rằng: - Tiên quân ta ngày xưa hai lần lập vua cho nước Tấn, nay ta lại lập Công tử Ung! Như vậy thì các vua nước Tấn đều tự tay nước Tần ta lập cả. Tần Khang công sai Kiển Bính đem quân đưa Công tử Ung về nước Tấn. Bà Mục Doanh (vợ Tấn Tương công) từ khi đưa đám Tấn Tương công xong rồi, ngày nào cũng cứ mờ mờ sáng đã ẵm Thế tử Di Cao vào chốn triều đường ngồi khóc và bảo các quan đại phu rằng: - Con trưởng của Tiên quân đây! Làm sao các ngài lại bỏ đi!.. Lúc đã tan buổi triều, lại đi xe đến nhà Triệu Thuẫn, nói với Triệu Thuẫn rằng: - Khi Tiên quân sắp mất có đem đứa bé này ủy thác cho ngài, nay Tiên quân dẫu khuất mặt đi rồi, nhưng lời nói ấy bên tai hãy còn văng vẳng; nếu ngài lập người khác thì định để đứa bé này vào chỗ nào? Thôi thì mẹ con tôi cũng liều một thác cho rồi! Nói xong, lại vật mình lăn khóc. Người trong nước nghe nói, ai cũng có lòng thương xót bà Mục Doanh mà đỗ lỗi cho Triệu Thuẫn. Các quan đại phu cũng lấy việc đi đón Công tử Ung làm thất sách. Triệu Thuẫn lo lắm, bàn mưu với Khước Khuyết rằng: - Tiên Miệt đã sang nước Tần để đón Công tử Ung rồi, có lẽ nào ta lại lập Thế tử Di Cao được. Khước Khuyết nói: - Ngày nay bỏ Thế tử Di Cao mà lập Công tử Ung, ngày khác Thế tử Di Cao lớn lên, tất lại sinh biến, chi bằng ta kịp sai người sang nước Tần để gọi Tiên Miệt về! Triệu Thuẫn nói: - Ta lập vua đã, rồi sẽ sai sứ đi thì mới đắc thể! Triệu Thuẫn họp các quan triều thần lập Thế tử Di Cao lên ngôi, tức là Tấn Linh công. Bấy giờ Tấn Linh công còn bé, mới lên bảy tuổi. Các quan triều thần vừa lạy mừng xong thì bỗng nghe báo có đại binh quân Tần hiện đã đưa Công tử Ung về đến sông Hoàng Hà rồi. Các quan đại phu nói: - Nay ta thất tín với nước Tần, biết nói lại làm sao cho được. Triệu Thuẫn nói: - Nếu ta lập Công tử Ung thì Tần là một nước thân ái với ta, nay ta không chịu lập thì Tần lại thành ra một nước cừu địch, chi bằng ta cứ đem quân ra đánh. Triệu Thuẫn sai quan Thượng quân Nguyên soái là Cơ Trịnh Phủ ở nhà để phù tá Tấn Linh công, còn mình thì đem quân đi đối địch với quân Tần. Quân Tần đến đất Linh Hồi, nghe báo phía trước có quân Tấn, vẫn tưởng là đến đón Công tử Ung, vậy nên không phòng bị gì cả. Tiên Miệt đi trước đến chỗ quân Tấn đóng, vào yết kiến Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn nói cho biết là đã lập Thế tử Di Cao rồi. Tiên Miệt trừng mắt lên mà bảo rằng: - Tự ai bàn mưu đi đón Công tử Ung, mà nay lập Thế tử Di Cao! Nói xong, liền đứng ngay dậy, quay mình đi ra, lại gặp Tuân Lâm Phủ, Tiên Miệt bảo Tuân Lâm Phủ rằng: - Tiếc thay ta không nghe lời nhà ngươi trước, để đến nỗi thế này! Tuân Lâm Phủ can rằng: - Ngài là bề tôi nước Tấn, bỏ nước Tấn sao được! Tiên Miệt nói: - Ta đã phụng mệnh sang nước Tần để đón Công tử Ung thì Công tử Ung tức là vua ta, mà nước Tần tức là một nước phù tá cho vua ta; nay ta lại chịu trái lời nói trước mà cầu lấy sự phú quí ở chốn cố hương hay sao! Tiên Miệt lại đi sang với quân Tần. Triệu Thuẫn nói: - Tiên Miệt đã không chịu theo Tấn thì ngày mai quân Tần tất tiến sang đánh ta; chi bằng đêm hôm nay ta nhân lúc quân Tần bất ngờ mà sang đánh ngay thì có thể thắng được. Nói xong, truyền cho quân sĩ sửa soạn binh mã để đêm hôm ấy sang đánh quân Tần, quân Tần đang ngủ, hoảng hốt vùng dậy, bỏ chạy tán loạn cả. Quân Tấn đuổi mãi đến tận đất Qua Thủ (giáp giới Tần và Tấn). Kiển Bính liều chết, mới chạy thoát được, còn Công tử Ung thì chết trong đám loạn quân. Tiên Miệt than rằng: - Triệu Thuẫn bội ước ta, nhưng ta không nên bội ước nước Tần? Nói xong, liền trốn sang nước Tần, Sĩ Hội cũng than rằng: - Ta cùng với Tiên Miệt đi sứ, nay Tiên Miệt đã trốn sang nước Tần, ta cũng không nên trở về nước Tấn một mình nữa! Nói xong, cũng theo Tiên Miệt trốn sang nước Tần. Tần Khang công đều cho làm quan đại phu. Tuân Lâm Phủ nói với Triệu Thuẫn rằng: - Ngày xưa Hồ Xạ Cô chạy sang nước Địch, ngài nghĩ tình đồng liêu, sai người đưa vợ con đi theo; nay Tiên Miệt và Sĩ Hội cùng tôi cũng là đồng liêu với nhau, tôi xin bắt chước lối cũ. Triệu Thuẫn nói: - Nhà ngươi trọng nghĩa như vậy, chính hợp với ý ta. Triệu Thuẫn sai người đem gia quyến và tài sản của Tiên Miệt cùng Sĩ Hội đưa sang nước Tần. Việc đánh nhau mới rồi, các tướng nước Tấn đều có công thắng trận cả; chỉ có Khoái Đắc là bộ tướng của Tiên Khắc (trung quân phó nguyên soái) cứ thẳng đường đuổi theo mãi, lại bị quân Tần đánh thua, Tiên Khắc đã toan theo quân luật đem Khoái Đắc ra chém. Các tướng đều xin hộ Khoái Đắc. Tiên Khắc nói với Triệu Thuẫn, rồi truất bỏ lộc điền của Khoái Đắc. Khoái Đắc đem lòng căm tức. Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ vốn chơi thân với nhau, từ khi Triệu Thuẫn lên làm trung quân nguyên soái, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều mất hết quyền thế, mới cùng với Cơ Trịnh Phủ cùng oán giận Triệu Thuẫn. Bấy giờ Triệu Thuẫn đang đem quân đi đánh quân Tần. Cơ Trịnh Phủ cùng Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ họp mà thương nghị rằng: - Triệu Thuẫn chuyên quyền, bỏ người nọ lập người kia, chẳng coi ai ra gì, nay đại binh nước Tần đưa Công tử Ung về đây, Triệu Thuẫn đang đem quân ra đánh, chi bằng chúng ta thừa cơ nổi loạn, làm phản Triệu Thuẫn bỏ Di Cao (tức là Tấn Linh công) đi mà đón Công tử Ung về, như vậy thì quyền chính nước Tấn đều do ở trong tay chúng ta cả.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  9. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 48 Năm tướng bàn nhau làm loạn Tấn Thọ Dư lập kế đánh lừa Tần

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cơ Trịnh Phủ cùng với Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ, ba người bàn nhau, chỉ đợi quân Tần thắng trận, thì thừa cơ nổi loạn, mà tranh lấy quyền chính của Triệu Thuẫn, chẳng ngờ Triệu Thuẫn phá tan được quân Tần, trong lòng lại càng căm tức. Bấy giờ Tiên Đô làm tướng ở đạo hạ quân, thấy chủ tướng mình là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa mà phải trốn sang nước Tần, cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn. Khoái Đắc bị Tiên Khắc truất mất lộc điền, đem lòng oán giận, mới bàn mưu với Sĩ Cốc. Sĩ Cốc nói: - Tiên Khắc cậy thế Triệu Thuẫn, làm nhiều điều ngang ngược, nếu được một người can đảm giết chết Tiên Khắc đi thì Triệu Thuẫn thế cô, không làm gì được nữa, nhưng việc này trừ phi tay Tiên Đô thì không ai làm nổi. Khoái Đắc nói với Sĩ Cốc rằng: - Tiên Đô thấy chủ tướng mình là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa mà phải trốn sang Tần, cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn. Sĩ Cốc nói: - Nếu vậy thì khó gì mà không giết được Tiên Khắc. Nói xong, liền ghé vào tai Khoái Đắc mà bảo thầm mưu kế giết Tiên Khắc. Khoái Đắc mừng lắm, nói: - Để ta sẽ nói với Tiên Đô! Nói xong, tức khắc đến yết kiến Tiên Đô, Tiên Đô nói với Khoái Đắc rằng: - Triệu Thuẫn bội ước với Tiên Miệt, lại lẻn đánh quân Tần, chẳng có tín nghĩa chút nào cả, ta cũng khó lòng mà ở với hắn được! Khoái Đắc đem lời Sĩ Cốc nói với Tiên Đô. Tiên Đô nói: - Nếu vậy thì là phúc cho nước Tấn lắm! Bấy giờ hết mùa đông, sang mùa xuân, Tiên Khắc đi ra Cơ Thành để bái yết nhà miếu ông tổ là Tiên Trẩn. Tiên Đô sai người phục ở ngoài Cơ Thành, đợi khi Tiên Khắc đi đến nơi thì đổ ra mà giết chết. Các người theo hầu Tiên Khắc thấy vậy, đều bỏ chạy tán loạn cả. Triệu Thuẫn nghe tin Tiên Khắc bị giết, tức thì nổi giận, truyền cho quan Tư khấu phải ra sức để bắt quân gian; hạn trong năm ngày phải bắt cho được. Bọn Tiên Đô luống cuống, cùng với Khoái Đắc bàn mưu, cố ý xui giục Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ nên mau mau khởi sự. Lương Ích Nhĩ nhân lúc uống rượu say, nói lộ chuyện cho Lương Hoằng biết. Lương Hoằng kinh sợ mà nói rằng: - Nếu vậy thì chết cả họ, chứ chẳng chơi đâu! Lương Hoằng tức thì mật báo Du Biền. Du Biền vào nói với Triệu Thuẫn, Triệu Thuẫn tức khắc truyền cho quân sĩ phải sửa soạn sẵn để đợi lệnh sai khiến. Tiên Đô thấy vậy, vội vàng sang nhà Sĩ Cốc, giục kíp khởi sự. Cơ Trịnh Phủ muốn đợi đến ngày thượng nguyên, nhân khi Tấn Linh mở tiệc tứ bô thì thừa cơ nổi loạn, bởi vậy cứ phân vân mãi, chưa quyết định ra làm sao. Triệu Thuẫn sai Du Biền đến vây nhà Tiên Đô, bắt Tiên Đô đem bỏ ngục. Lương Ích Nhĩ và Khoái Đắc trong khi bối rối, toan cùng Cơ Trịnh Phủ nổi loạn. Triệu Thuẫn sai đem việc Tiên Đô muốn nổi loạn đến báo với Cơ Trịnh Phủ và mời Cơ Trịnh Phủ vào triều để bàn việc. Cơ Trịnh Phủ nói: - Triệu Thuẫn sai người mời ta đến để bàn việc, thế là vẫn không có ý nghi ta! Cơ Trịnh Phủ khinh thường mà đến ngay. Nguyên Triệu Thuẫn vì Cơ Trịnh Phủ đang làm thượng quân nguyên soái, sợ hắn họp quân nổi loạn, mới giả cách sai người đến triệu. Cơ Trịnh Phủ không biết là kế giả, vội vàng đi thẳng vào triều. Triệu Thuẫn giữ ở trong triều để bàn việc Tiên Đô, rồi mật sai Tuân Lâm Phủ, Khước Khuyết và Long Thuẫn đem quân đi bắt Sĩ Cốc, Lương Ích Nhĩ và Khoái Đắc cùng bỏ ngục cả. Bọn Tuân Lâm Phủ về đến trong triều, trông thấy Cơ Trịnh Phủ, liền quát to lên rằng: - Cơ Trịnh Phủ cũng là một người ở trong đám khởi loạn, mà làm sao không bắt bỏ ngục? Cơ Trịnh Phủ nói: - Lúc trước các ngài đem quân đi vắng cả, tôi còn không nổi loạn, huống chi ngày nay các ngài đã thắng được quân Tần rồi, mà tôi lại sinh sự để muốn cầu lấy cái chết hay sao! Triệu Thuẫn nói: - Nhà ngươi còn dùng dằng mà chưa nổi loạn, là có ý đợi Tiên Đô và Khoái Đắc đó thôi, ta đã dò biết hết sự tình, còn cãi gì được nữa! Cơ Trịnh Phủ cúi đầu chịu vào ngục. Triệu Thuẫn tâu với Tấn Linh công, xin đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém, cả thẩy năm người (Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc, Lương Ích Nhĩ, Khoái Đắc và Tiên Đô). Tấn Linh công hãy còn ít tuổi, chỉ vâng dạ mà thôi. Khi Tấn Linh công đã vào cung, bà Mục Doanh (Mẹ Tấn Linh công) nghe tin bọn Cơ Trịnh Phủ bị bắt mới hỏi Tấn Linh công rằng: - Quan Tướng quốc xử trí việc ấy ra thế nào? Tấn Linh công nói: - Quan Tướng quốc xin trị tội mà đem chém tất cả. Mục Doanh nói: - Bọn Cơ Trịnh Phủ nổi loạn, là vì tranh quyền lẫn nhau, chứ không can dự gì đến việc thoán nghịch. Vả việc mưu giết Tiên Khắc chẳng qua chỉ một vài người mà thôi, nay một lúc giết chết năm quan đại thần thì ta e rằng trong triều còn lấy ai mà dùng nữa? Ngày hôm sau, Tấn Linh công đem lời nói của Mục Doanh thuật lại cho Triệu Thuẫn nghe. Triệu Thuẫn nói: - Bọn hắn nổi loạn, nếu không giết đi thì lấy gì mà làm gương cho kẻ khác. Nói xong, truyền đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém, lại cho con Tiên Khắc là Tiên Cốc làm quan đại phu. Người nước Tấn thấy Triệu Thuẫn nghiêm khắc như vậy, ai cũng sợ hãi. Hồ Xạ Cô ở nước Lộ nghe thấy việc ấy, cũng giật mình mà nói rằng: - May thay cho ta, ta được khỏi chết! Một hôm, quan Đại phu nước Lộ là Phong Thư hỏi Hồ Xạ Cô rằng: - Triệu Thuẫn ví với Triệu Thôi, hai người ấy ai hơn? Hồ Xạ Cô nói: - Triệu Thôi khác nào như mặt trời mùa đông, Triệu Thuẫn khác nào như mặt trời mùa hạ. Mặt trời mùa đông ấm áp thì ai cũng yêu, mặt trời mùa hạ nóng dữ thì ai cũng sợ! Phong Thư cười mà bảo rằng: - Nhà ngươi đã là một viên túc tướng mà cũng sợ Triệu Thuẫn! Lại nói chuyện Sở Mục Vương từ khi cướp ngôi lên làm vua, cũng có chí lớn muốn làm bá chủ Trung Nguyên, nghe tin Tấn Linh công mới lập, Triệu Thuẫn chuyên quyền, các viên đại phu cùng giết lẫn nhau, liền họp triều thần lại để thương nghị, muốn đem quân sang đánh nước Trịnh. Quan Đại phu là Phạm Sơn nói: - Vua Tấn tuổi hãy còn nhỏ, các bề tôi chỉ tranh quyền lẫn nhau, còn nghĩ gì đến chư hầu, nay ta thừa cơ đem quân sang đánh lấy các nước phía bắc thì còn ai đương nổi. Sở Mục Vương bằng lòng, liền sai Đấu Việt Tiêu làm chánh tướng, Vĩ Giả làm phó tướng, đem quân đi đánh Trịnh, còn mình thì đóng đại binh ở đất Lang Uyên để tiếp ứng; lại sai Công tử Tiên làm chánh tướng, Công tử Phiệt làm phó tướng, đem quân đi đánh Trần. Trịnh Mục công nghe tin quân Sở đến đánh, vội vàng sai Công tử Kiên, Công tử Mang và Lạc Nhĩ, ba người đem quân ra ngoài cõi để chống cự với quân Sở; lại dặn phải giữ thế thủ, chớ nên giao chiến, rồi một mặt cho người sang cáo cấp với nước Tấn. Đấu Việt Tiêu ngày nào cũng đem quân khiêu chiến. Quân Trịnh nhất định không ra. Vĩ Giả mật nói với Đấu Việt Tiêu rằng: - Từ trận Thành Bộc đến giờ, quân Sở ta đã lâu không kéo sang nước Trịnh, người nước Trịnh chắc đợi có quân nước Tấn đến cứu, vậy mới cố giữ thế thủ mà không giao chiến với ta. Nay ta nên nhân lúc quân Tấn chưa đến, dụ ra mà đánh thì có thể báo được cái thù năm xưa; nếu để chậm lâu ngày, các nước chư hầu đem quân đến cứu thì e rằng lại giống như việc Thành Đắc Thần ngày trước, biết làm thế nào! Đấu Việt Tiêu nói: - Nay muốn dụ quân Trịnh ra thì làm thế nào? Vĩ Giả ghé tai mà bảo mưu kế. Đấu Việt Tiêu nghe lời, liền giả cách nói lương thực sắp hết, truyền cho quân sĩ đi ăn cướp ở các dân thôn, còn mình thì ngày nào cũng ngồi ở trong màn uống rượu, nghe hát, đến nửa đêm mới thôi. Có người đến đất Lang Uyên báo tin cho Sở Mục Vương biết. Sở Mục Vương nghi là Đấu Việt Tiêu có lòng khinh giặc, đã toan đem quân đến để đốc chiến. Phạm Sơn nói với Sở Mục Vương rằng: - Vĩ Giả là người trí sĩ, tất có mưu có kế chi đấy. Tôi chắc rằng chỉ trong mấy ngày nữa, quyết phải có tin thắng trận. Bọn Công tử Kiên (tướng nước Trịnh) thấy quân Sở không đến khiêu chiến nữa, trong lòng nghi hoặc mới sai người đi do thám xem tình hình quân Sở ra làm sao. Quân thám tử về báo với Công tử Kiên rằng: - Quân Sở ngày nào cũng kéo nhau đi cướp phá các dân thôn, còn Đấu Việt Tiêu thì chỉ một việc nghe hát và uống rượu; trong khi rượu say, lại sỉ mắng người nước Trịnh ta là hèn mạt không làm gì được! Công tử Kiên mừng mà nói rằng: - Quân Sở đi cướp phá các dân thôn thì trong đồn trại tất bỏ không, mà Nguyên soái nước Sở ngày nào cũng nghe hát, uống rượu, còn thiết gì đến việc quân nữa! Đêm hôm nay ta đem quân sang cướp phá đồn trại quân Sở, có thể toàn thắng được. Công tử Mang và Lạc Nhĩ đều lấy làm phải. Đêm hôm ấy, ba người cùng đem quân lẻn đến dinh quân Sở đứng xa trông thấy đèn sáng rực rỡ, lại nghe có tiếng hát véo von. Công tử Kiên nói: - Đấu Việt Tiêu sắp đến ngày tận số! Công tử Kiên tức thì vẫy quân xông vào. Quân Sở không chống cự gì cả. Công tử Kiên tiến vào tận trong trại, mấy người nhạc công bỏ chạy tán loạn, chỉ còn có Đấu Việt Tiêu vẫn thấy ngồi trơ, không động đậy chút nào. Công tử Kiên đứng gần nhìn kỹ xem sao thì ra một người bằng cỏ kết lại, chứ không phải Đấu Việt Tiêu thật, bấy giờ mới biết là trúng kế, giật mình kinh sợ, toan quay trở ra. Bỗng thấy ở phía sau trại súng nổ ầm ì, có một viên đại tướng đem quân đuổi đánh, quát to lên mà bảo rằng: - Ta là Đấu Việt Tiêu đây! Công tử Kiên vội vàng cùng với Công tử Mang và Lạc Nhĩ tìm đường trốn chạy. Chạy chưa được một dặm, lại nghe có tiếng súng nổ, Vĩ Giả đem một toán quân chắn ngang giữa đường. Phía trước có Vĩ Giả, phía sau có Đấu Việt Tiêu, hai phía cùng đánh ập lại. Quân Trịnh thua to. Công tử Mang và Lạc Nhĩ bị bắt. Công tử Kiên chạy lại để cứu, cũng bị quân Sở bắt nốt. Trịnh Mục công kinh sợ, bảo các quan triều thần rằng: - Ba tướng nước ta đều bị bắt cả, mà vẫn chưa thấy quân Tấn đến cứu, biết làm thế nào? Các quan triều thần nói: - Thế quân Sở mạnh lắm! Nếu ta không xin hàng thì sẽ bị quân Sở phá vỡ, dẫu nước Tấn cũng không thể cứu nổi. Trịnh Mục công liền sai Công tử Phong (con Trịnh Mục công) đem các đồ lễ vật đến dinh quân Sở để xin giảng hòa. Đấu Việt Tiêu sai người tâu Sở Mục Vương. Sở Mục Vương thuận cho, truyền tha Công tử Kiên, Công tử Mang và Lạc Nhĩ, rồi lại thu quân trở về nước Sở. Bấy giờ Công tử Tiên (tướng nước Sở) đem quân đi đánh nước Trần bị thua, quan Phó tướng là Công tử Phiệt bị quân nước Trần bắt. Công tử Tiên mới đón đường tâu với Sở Mục Vương xin thêm quân để đi đánh báo thù. Sở Mục Vương giận lắm, toan kéo quân sang nước Trần. Bỗng thấy nước Trần sai sứ đem Công tử Phiệt sang xin giảng hòa. Sở Mục Vương mở thư ra xem. Trong thư đại lược nói rằng: "Nước tôi là một nước nhỏ mọn, chưa được giao tiếp với quí quốc lần nào, nay quí quốc đem quân sang nước tôi, những quan trấn thủ ở ngoài bờ cõi nước tôi không biết giữ phép, có thất lễ với Công tử Phiệt, tôi lấy làm lo sợ lắm, vậy phải sai sứ sang tạ tội. Từ nay trở đi, nước tôi một lòng thần phục quí quốc, xin quí quốc dung thứ cho". Sở Mục Vương xem xong, cười mà bảo rằng: - Nước Trần sợ ta đến hỏi tội, vậy phải xin giảng hòa, thật là biết cơ trời! Nói xong, thuận cho nước Trần giảng hòa. Sở Mục Vương lại truyền hịch cho vua Trịnh, vua Trần và vua Sái hẹn đến tháng mười năm ấy thì hội nhau ở đất Quyết Lạc (đất nước Tống). Lại nói chuyện Triệu Thuẫn nước Tấn thấy người nước Trịnh đến cáo cấp, liền họp quân bốn nước Tống, Lỗ, Vệ và Hứa để cùng sang cứu nước Trịnh. Chưa sang đến nước Trịnh, đã nghe tin nước Trịnh theo Sở, và quân Sở đã lui rồi; lại nghe tin nước Trần cũng theo Sở. Quan Đại phu nước Tống là Hoa Ngẫu, cùng quan Đại phu nước Lỗ là Công tử Toại đều nói với Triệu Thuẫn xin đem quân sang đánh Trần và Trịnh. Triệu Thuẫn nói: - Chỉ vì ta không cứu nhanh, để đến nỗi hai nước phải theo Sở, chứ hai nước ấy có tội lỗi gì! Chi bằng ta rút quân về mà sửa sang chính sự trong nước. Nói xong, liền rút quân về. Cuối mùa thu năm ấy, vua Trần (Sóc) và vua Trịnh (Lan) đều đến cả ở Tức Địa để đón Sở Mục Vương. Sở Mục Vương hỏi: - Khi trước tôi có hẹn đến hội ở đất Quyết Lạc, sao hai vua lại còn ở đây! Vua Trần và vua Trịnh đồng thanh mà đáp rằng: - Chúng tôi sợ đến chậm thì có lỗi, vậy phải họp nhau ở đây để đón Đại Vương, rồi cùng đi một thể. Sở Mục Vương bằng lòng. Bỗng nghe báo vua Sái (Giáp Ngọ) đã đến ở đất Quyết Lạc rồi. Sở Mục Vương liền cùng với vua Trần và vua Trịnh đi gấp đến đất Quyết Lạc. Khi Sở Mục Vương đến, vua Sái ra đón, dùng lễ thần hạ, sụp lạy hai lạy. Vua Trần và vua Trịnh giật mình, nói riêng với nhau rằng: - Vua Sái chịu nhún mình quá như vậy, vậy thì vua Sở tất cho chúng ta là vô lễ! Vua Trần và vua Trịnh mới cùng nhau nói với Sở Mục Vương rằng: - Đại vương thân hành tới đây mà vua Tống không đến nghênh tiếp, xin Đại vương cho đem quân đi đánh. Sở Mục Vương cười mà nói rằng: - Tôi đem quân tới đây, chính là cố ý muốn đánh nước Tống. Bấy giờ Tống Thành công (Vương Thần) đã mất rồi, con là Chử Cữu (tức là Tống Chiêu công) lên nối ngôi, mới được ba năm, hay tin dùng bọn tiểu nhân, khinh bỉ họ Công tộc, bởi vậy trong họ Công tộc nổi loạn, giết quan Tư mã là Công tử Ngang. Quan Tư thành là Đãng Ý Chư bỏ chạy sang nước Lỗ, nhờ có quan Tư khấu là Hoa Ngự Sự hết sức điều đình để triệu Đãng Ý Chư về, nước Tống mới được yên ổn. Hoa Ngự Sự nghe tin Sở Mục Vương hội chư hầu ở đất Quyết Lạc, có ý muốn dòm dỏ nước Tống, mới nói với Tống Chiêu công rằng: - Nước nhỏ mà không chịu thần phục nước lớn thì sao giữ được nước, nay nước Trần và nước Trịnh đều theo Sở cả, Chúa công cũng nên thân hành đến mà nghênh tiếp vua Sở; nếu chờ khi vua Sở đem quân đến đánh, rồi mới xin giảng hòa thì sao cho kịp! Tống Chiêu công lấy làm phải, mới thân hành đến đất Quyết Lạc để nghênh tiếp Sở Mục Vương và mời Sở Mục Vương đi săn bắn ở rừng Mạnh Chư. Sở Mục Vương bằng lòng. Tống Chiêu công cùng với các vua chư hầu theo Sở Mục Vương đi săn. Sở Mục Vương truyền lệnh cho các vua chư hầu đi săn, trong xe đều phải đem theo một cái mồi lửa, phòng khi lấy lửa. Đến lúc đi săn, Sở Mục Vương đang ham đuổi một đàn hồ, đàn hồ chạy vào trong hang sâu, Sở Mục Vương ngoảnh lại hỏi Tống Chiêu công lấy mồi lửa để hun đốt đàn hồ. Tống Chiêu công không đem mồi lửa đi theo. Quan Tư mã nước Sở là Thân Vô Úy nói với Sở Mục Vương rằng: - Vua Tống trái lệnh như vậy, nếu Đại vương không trị tội thì cũng nên đánh người theo hầu vua Tống để giữ phép. Nói xong, liền thét nọc người dong xe của Tống Chiêu công, đánh 300 roi, để làm gương cho các nước chư hầu. Tống Chiêu công có ý hổ thẹn. Bấy giờ nước Sở cường thịnh lắm, sai Đấu Việt Tiêu sang sứ nước Tề và nước Lỗ, nghiễm nhiên tự nhận làm bá chủ Trung Nguyên. Nước Tấn biết vậy mà cũng không kiềm chế nổi. Tần Khang công họp các quan triều thần lại mà thương nghị rằng: - Ta nghĩ việc Linh Hồ mà căm tức nước Tấn, đến nay đã 5 năm trời; bây giờ Triệu Thuẫn nước Tấn chuyên quyền, giết hại các quan đại thần, không biết sửa sang chính trị. Trần, Sái, Trịnh, Tống đều bỏ Tấn theo Sở cả, mà Tấn cũng không làm gì nổi, xem thế thì đủ biết Tấn đã suy nhược lắm rồi; nay ta không đánh Tấn, còn đợi đến bao giờ! Các quan đại phu đều nói: - Chúa công muốn đánh Tấn, chúng tôi xin hết sức! Tần Khang công giao quốc chính cho Mạnh Minh, rồi sai Tây Khất Thuật làm chánh tướng, Kiển Bính làm phó tướng, Sĩ Hội làm tham mưu, đem quân sang nước Tấn đánh lấy đất Cơ Mã. Triệu Thuẫn nghe báo, tức khắc muốn đem quân ra đối địch. Bấy giờ Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, cho Tuân Lâm Phủ làm trung quân phó nguyên soái, thay chân Tiên Khắc; dùng Đề Di Minh làm chức xa hữu; lại cho Khước Khuyết làm thượng quân nguyên soái, thay chân Cơ Trịnh Phủ. Triệu Thuẫn có người em họ tên gọi Triệu Xuyên, là con rể Tấn Tương công, xin làm thượng quân phó nguyên soái. Triệu Thuẫn bảo Triệu Xuyên rằng: - Nhà ngươi tuổi trẻ, hãy còn hăng hái, chưa từng trải việc đời, không nên làm vội. Nói xong, liền cho Du Biền làm thượng quân phó Nguyên soái, lại sai Loan Thuẫn làm hạ quân phó nguyên soái, thay chân Tiên Miệt; cho con Tư Thân là Tư Giáp làm hạ quân phó nguyên soái thay chân Tiên Đô. Triệu Xuyên lại xin đem tư thuộc của mình phụ theo với đạo thượng quân để lập công trạng. Triệu Thuẫn thuận cho. Con Hàn Tử Dư, tên gọi Hàn Quyết, từ lúc bé vẫn ở nhà Triệu Thuẫn, bấy giờ khuyết chức tư mã, Triệu Thuẫn liền tâu với Tấn Linh công mà dùng Hàn Quyết. Đại binh tự Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) kéo ra, trông rất nghiêm chỉnh! Đi chưa được mười dặm, bỗng thấy có một người rẽ hàng quân quay xe trở lại. Quan Tư mã Hàn Quyết hỏi. Người dong xe ấy nói: - Quan Triệu Tướng quốc (tức là Triệu Thuẫn) bỏ quên các đồ uống rượu, vậy có sai tôi trở lại lấy. Hàn Quyết nổi giận, nói: - Đại binh đang đi mà sao nhà ngươi dám rẽ hàng quân trở lại, tất phải đem chém mới được! Người dong xe ấy khóc mà kêu rằng: - Việc này là bởi lệnh quan Triệu Tướng quốc! Hàn Quyết nói: - Ta làm chức tư mã, chỉ biết quân pháp, chứ không biết quan Tướng quốc nào cả. Nói xong, truyền chém người dong xe ấy và phá vỡ cả xe đi. Các tướng nói với Triệu Thuẫn rằng: - Ngài cử Hàn Quyết làm tư mã, mà Hàn Quyết dám giết người dong xe của ngài, thật là một kẻ phụ ơn, chớ nên dùng làm gì! Triệu Thuẫn cười nhạt, rồi sai người đi triệu Hàn Quyết. Các tướng đều nghĩ Triệu Thuẫn tất làm nhục Hàn Quyết. Hàn Quyết đến, Triệu Thuẫn đang ngồi, đứng dậy, tỏ ý kính trọng mà bảo rằng: - Nhà ngươi biết giữ phép như vậy thì thật không uổng cái công ta tiến dẫn! Nhà ngươi nên cố đi. Hàn Quyết lạy tạ rồi lui ra. Triệu Thuẫn lại bảo các tướng rằng: - Sau này Hàn Quyết tất được cầm quyền chính nước Tấn! Họ Hàn đã sắp đến ngày hưng thịnh! Quân Tấn đóng đồn ở đất Hà Khúc. Du Biền hiến kế rằng: - Quân Tần dưỡng uy sức nhuệ trong mấy năm trời, mới sang đánh ta thì ta không thể địch nổi; nay ta cố thủ mà không ra đánh lâu ngày tự khắc quân Tần phải lui. Khi quân Tần đã lui, bấy giờ ta sẽ đuổi đánh thì tất được toàn thắng. Triệu Thuẫn theo lời. Tần Khang công thấy quân Tấn không đánh, mới hỏi kế Sĩ Hội. Sĩ Hội nói: - Triệu Thuẫn mới dùng một người tên gọi Du Biền. Người ấy nhiều mưu trí lắm! Nay quân Tấn không ra đánh tức là dùng mưu của Du Biền, muốn làm cho quân ta lâu ngày mỏi mệt. Tôi nghe Triệu Xuyên là con rể Tấn Tương công thuở trước, có nói với Triệu Thuẫn xin làm thượng quân phó nguyên soái, mà Triệu Thuẫn không cho, lại dùng Du Biền. Nay Triệu Thuẫn dùng mưu Du Biền, Triệu Xuyên không bằng lòng, bởi vậy xin đem tư thuộc mình đi theo đạo thượng quân là có ý muốn tranh công của Du Biền. Nếu ta đến đánh đạo thượng quân thì tất Triệu Xuyên cậy sức mạnh, vội vàng ra nghênh chiến. Chỉ dùng kế ấy, mới đánh nổi được quân Tấn. Tần Khang công theo lời, liền sai Kiển Bính đến đánh đạo thượng quân. Khước Khuyết và Du Biền đều cố thủ không ra. Triệu Xuyên nghe tin quân Tần đến, tức khắc đem tư thuộc của mình ra nghênh chiến. Kiển Bính quay xe bỏ chạy. Xa đi rất nhanh. Triệu Xuyên đuổi theo đến hơn mười dặm, không kịp mà trở về, thấy bọn Du Biền không đem quân tiếp ứng, mới gọi các tướng sĩ mà mắng rằng: - Ta đem quân đi tới đây là cốt để đánh giặc, nay giặc đến mà không ra đánh, vậy thì trong đạo thượng quân này đều là đàn bà cả hay sao! Các tướng sĩ nói: - Quan Nguyên soái đã định sẵn mưu kế để phá quân giặc, chúng tôi không dám trái lệnh. Triệu Xuyên lại mắng rằng: - Lũ chuột ấy lại còn có mưu kế gì! Chẳng qua là sợ chết mà thôi. Ai sợ quân Tần, chứ ta đây quyết không sợ. Ta quyết đem quân ra đánh một trận để cho khỏi thẹn với quân Tần. Triệu Xuyên lại tiến quân ra đánh, vừa đi vừa reo to lên rằng: - Ai có can đảm thì đi theo ta! Các tướng sĩ không ai theo cả. Chỉ có quan hạ quân Phó Nguyên soái là Tư Giáp khen rằng: - Người ấy thật là một người tốt, ta nên giúp mới phải! Quan Thượng quân Nguyên soái là Khước Khuyết vội vàng sai người đem việc Triệu Xuyên báo cho Triệu Thuẫn biết. Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ mà nói rằng: - Đứa điên cuồng ấy đem quân ra, tất bị quân Tần bắt, ta cứu mới được! Nói xong, liền truyền cho các quân cùng ra cả, để giao chiến với quân Tần. Lại nói chuyện Triệu Xuyên tiến sang quân Tần, cùng với Kiển Bính giao chiến. Đánh được hơn ba mươi hợp, hai bên đang xung đột cùng nhau, Tây Khất Thuật vừa toan xông đến để đánh giúp Kiển Bính, bỗng thấy đại binh quân Tần kéo ra, mới không dám đánh, lại nổi hiệu thu quân trở về, Triệu Thuẫn thấy vậy cũng thu quân về. Triệu Xuyên về đến dinh quân Tấn, hỏi Triệu Thuẫn rằng: - Tôi định độc lực ra phá vỡ quân Tần, để rửa thẹn cho các tướng, sao ngài lại nổi hiệu thu quân? Triệu Thuẫn nói: - Tần là một nước lớn, chớ nên khinh thường, ta phải dùng kế mới phá vỡ được. Triệu Xuyên nói: - Dùng kế! Dùng kế! Nghĩ mà chán quá! Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy có sứ thần nước Tần đưa chiến thư đến. Triệu Thuẫn sai Du Biền ra tiếp kiến. Sứ nước Tần đưa bức thư cho Du Biền. Du Biền đệ trình Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn mở ra xem. Trong thư nói: "Các chiến sĩ của hai nước ta đều chưa thiếu ai cả, xin đến ngày mai quyết một trận thắng phụ". Triệu Thuẫn nhận lời. Sứ nước Tần về rồi. Du Biền bảo Triệu Thuẫn rằng: - Tôi thấy sứ nước Tần ngoài miệng dẫu nói xin khai chiến nhưng trông mắt ngơ ngác nhìn quanh, hình như có ý sợ hãi ta lắm. Tôi chắc rằng đêm hôm nay quân Tần tất bỏ trốn, xin Nguyên soái sai một toán quân ra phục sẵn ở bên sông Hoàng Hà, chờ khi quân Tần qua sông, sẽ đổ ra mà đánh, tôi chắc là quân ta tất được toàn thắng. Triệu Thuẫn khen phải, rồi toan sai quân đi mai phục. Tư Giáp nghe thấy mưu ấy, liền nói với Triệu Xuyên. Triệu Xuyên cùng với Tư Giáp kéo nhau đến cửa dinh quân Tấn mà reo ầm lên rằng: - Các quân sĩ, hãy nghe ta nói một câu: Nước Tấn ta binh cường tướng mạnh, có kém gì nước Tần, nay nước Tần đưa chiến thư, ta đã nhận lời rồi, mà còn đem quân mai phục, để làm kế đánh trộm thì sao gọi là trượng phu được! Triệu Thuẫn nghe nói, liền gọi Triệu Xuyên và Tư Giáp đến mà bảo rằng: - Ta có ý ấy đâu! Các người chớ làm cho quân sĩ náo động! Quân thám tử của nước Tần đem lời nói Triệu Xuyên và Tư Giáp về nói với Tần Khang công. Đêm hôm ấy quân Tần bỏ trốn, rút về mặt Hà Ấp, qua Đào Lâm Tái mà về nước Tần. Triệu Thuẫn cũng thu quân trở về, rồi trị tội những kẻ làm tiết lộ quân tình, vì Triệu Xuyên là con rể Tấn Tương công, lại là em họ Triệu Thuẫn, mới được tha tội; còn Tư Giáp thì phải cách bỏ quan tước, đuổi sang ở nước Vệ. Triệu Thuẫn nói: - Ta không nên quên công của Tư Thần ngày xưa! Nói xong, lại cho con Tư Giáp là Tư Khắc là hạ quân phó nguyên soái. Triệu Thuẫn sợ quân Tần lại đến, mới sai quan Đại phu là Thiêm Gia ra ở Hà Ấp để trấn thủ Đào Lâm Tái. Du Biền nói với Triệu Thuẫn rằng: - Trận đánh nhau vừa rồi, bày mưu kế cho nước Tần là bởi Sĩ Hội. Nếu người ấy còn ở nước Tần thì chúng ta cũng khó lòng mà ngồi yên được. Triệu Thuẫn lấy làm phải, họp các quan đại phu lại để thương nghị. Triệu Thuẫn hỏi rằng: - Nay Hồ Xạ Cô ở nước Lộ, Sĩ Hội ở nước Tần, hai người đều lập mưu để hại nước Tấn ta thì các quan nghĩ thế nào? Tuân Lâm Phủ nói: - Công lao của họ Hồ ngày xưa, ta cũng nên nhớ, nay xin triệu Hồ Xạ Cô về mà phục chức cho. Khước Khuyết nói: - Hồ Xạ Cô nhiều công lao, nhưng có cái tội giết hại quan đại thần, nếu ta phục chức cho thì lấy gì mà làm gương cho kẻ khác, chi bằng ta triệu Sĩ Hội. Sĩ Hội là người nhu thuận mà nhiều mưu trí, dẫu có trốn sang nước Tần, nhưng không phải là tội. Nước Lộ xa mà nước Tần gần, nay ta muốn trừ cái hại nước Tần thì nên triệu Sĩ Hội về. Triệu Thuẫn nói: - Nước Tần đang trọng dụng Sĩ Hội, ta triệu thì tất nước Tần không cho về, biết làm thế nào? Du Biền nói: - Tôi có quen một người tên gọi Thọ Dư, tức là cháu Ngụy Thù, hiện nay ăn lộc ở Ngụy Ấp. Người ấy khéo bày mưu kế; muốn triệu Sĩ Hội về, chỉ giao cho người ấy là được việc! Nói xong, lại ghé vào tai Triệu Thuẫn mà bảo mưu kế. Triệu Thuẫn mừng lắm, nói: - Nhà ngươi vì ta mà đến gọi người ấy. Chiều hôm ấy, Du Biền đến nhà Thọ Dư. Thọ Dư mời vào, Du Biền xin vào phòng kín để nói chuyện, rồi đem mưu kế định triệu Sĩ Hội bảo với Thọ Dư. Thọ Dư nhận lời. Du Biền về nói với Triệu Thuẫn. Ngày hôm sau, Triệu Thuẫn vào tâu với Tấn Linh công rằng: - Người nước Tần thường hay sang xâm nhiễu nước Tấn ta, ta nên bắt các quan ấp tể ở Hà Đông phải mộ quân ra trấn thủ bến sông Hoàng Hà; lại bắt cả những người có ấp ăn lộc, cũng phải đi đốc biện về việc ấy, nếu để sai xuyễn thì tức khắc trị tội. Tấn Linh công thuận cho. Triệu Thuẫn nói: - Ngụy Ấp là một ấp lớn, nếu Ngụy Ấp chịu xướng suất lên thì các ấp đều phải theo cả. Nói xong, truyền gọi Thọ Dư, bắt phải hết sức mà đốc biện về việc ấy. Thọ Dư nói với Triệu Thuẫn rằng: - Chúa công nghĩ đến tiền nhân thuở xưa mà cho tôi ăn lộc ở Ngụy Ấp, nhưng tôi chưa hề có quen việc quân lữ bao giờ. Huống chi sông Hoàng Hà dài hơn một trăm dặm, chỗ nào quân giặc cũng có thể sang đò được, dẫu đem quân ra trấn thủ, chẳng qua vô ích mà thôi. Triệu Thuẫn nổi giận, nói: - Sao nhà ngươi lại dám trái lệnh ta! Hạn cho nhà ngươi trong ba ngày, phải đem quân tịch đến trình, nếu chưa làm xong thì chiếu quân pháp mà trị tội. Thọ Dư tức giận lui ra, vừa đi vừa phàn nàn; khi về đến nhà, lại có ý buồn bã, không được bằng lòng. Vợ con thấy vậy, đều xúm lại hỏi. Thọ Dư nói: - Triệu Thuẫn ác nghiệt quá, bắt ta đem quân ra giữ các cửa sông Hoàng Hà thì biết bao giờ cho xong việc! Các ngươi nên thu thập gia tư, cùng ta trốn sang nước Tần để theo Sĩ Hội là hơn cả. Nói xong, truyền cho người nhà sắp sửa xe ngựa. Đêm hôm ấy uống một bữa rượu thật say, vì cớ món ăn không được sạch sẽ, lại đánh người nhà bếp hơn một trăm roi; đánh xong, vẫn còn hầm hầm tức giận mà bảo người nhà bếp rằng: - Thế nào ta cũng giết chết nhà ngươi đi mới được! Người nhà bếp tức khắc đem việc Thọ Dư phản Tấn theo Tần đi báo Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn sai Hàn Quyết đến bắt. Hàn Quyết thả cho Thọ Dư chạy thoát, chỉ bắt vợ con đem về bỏ ngục. Thọ Dư đi suốt mấy đêm sang đến nước Tần, vào yết kiến Tần Khang công, kể tội Triệu Thuẫn ác nghiệt, bắt giam vợ con, chỉ có một mình trốn thoát sang đây, xin đầu hàng nước Tần. Tần Khang công hỏi Sĩ Hội xem việc ấy thực hay là giả? Sĩ Hội nói: - Người nước Tấn hay gian dối lắm, ta chớ nên tin; Thọ Dư đầu hàng thực thì có đem được thứ gì sang dâng nước Tần ta mới phải! Thọ Dư thò vào trong tay áo, rút ra một quyển sổ, tức là sổ biên những thổ địa nhân dân tại Ngụy Ấp, đem dâng Tần Khang công mà nói rằng: - Nếu Chúa công thu dụng cho tôi thì tôi đem Ngụy Ấp mà dâng nộp chúa công. Tần Khang công lại hỏi Sĩ Hội rằng: - Có nên nghe lời Thọ Dư hay không? Thọ Dư đưa mắt cho Sĩ Hội và sẽ giẫm vào chân ra hiệu cho Sĩ Hội. Sĩ Hội dẫu ở nước Tần, nhưng trong lòng vẫn nhớ nước Tấn; khi thấy Thọ Dư ra hiệu, mới nói với Tần Khang công rằng: - Nước Tần ta khi trước bỏ năm thành ở đất Hà Đông mà không lấy, là vì tình thân thuộc với Tấn, bây giờ nước Tấn giao chiến với ta luôn mấy năm nay thì ta có lẽ gì mà không chiếm lấy năm thành ở đất Hà Đông ấy. Vả năm thành ở đất Hà Đông thì Ngụy Ấp là lớn hơn cả, nếu ta chiếm được Ngụy Ấp, rồi nhân đấy mà lấy luôn cả năm thành, còn gì hơn nữa! Tôi chỉ e rằng quan trấn thủ ở Ngụy Ấp sợ uy người nước Tấn, không dám về với nước ta mà thôi. Thọ Dư nói: - Quan trấn thủ ở Ngụy Ấp dẫu là bề tôi nước Tấn, nhưng vẫn chịu ơn họ Ngụy tôi; nếu Chúa công đem một toán quân đóng đồn ở Hà Tây để làm thanh viện thì tôi có thể dụ cho họ phải theo. Tần Khang công ngoảnh lại bảo Sĩ Hội rằng: - Nhà ngươi đã am hiểu việc nước Tấn, nên cùng đi với ta. Tần Khang công cho Tây Khất Thuật làm chánh tướng, Sĩ Hội làm phó tướng, đem quân sang đóng đồn ở Hà Tây. Quân thám tử của nước Tần về báo rằng: - Phía trước có một toán quân Tấn đóng đồn, không biết là ý tứ gì. Thọ Dư nói: - Đó tất là người Ngụy Ấp nghe có tin quân Tần mà phòng bị sẵn đấy! Vì chúng chưa biết tôi ở bên này. Nay được một người nào am hiểu việc nước Tấn, cho cùng sang trước với tôi, đem sự họa phúc mà dụ bảo chúng thì chúng tất phải theo. Tần Khang công sai Sĩ Hội cùng đi với Thọ Dư. Sĩ Hội sụp lạy mà rằng: - Người nước Tấn tàn ác như giống hổ lang, không biết thế nào mà lường cho được! Chuyến này tôi phụng mệnh sang dụ bảo mà chúng chịu theo thì là một sự may phước cho nước Tần, vạn nhất chúng không theo mà bắt tôi ở bên ấy, tôi e rằng Chúa công lại cho tôi là người không làm nổi việc mà trị tội vợ con tôi. Như vậy có phải là không ích gì cho Chúa công, mà vợ con tôi cũng phải chịu những sự oan khổ, hối sao cho kịp! Tần Khang công không biết là Sĩ Hội nói dối, mới bảo Sĩ Hội rằng: - Nhà ngươi cứ nên hết lòng vì ta mà đi, lấy được Ngụy Ấp thì ta sẽ hậu thưởng, nếu người nước Tấn có bắt giữ, nhà ngươi ở bên ấy, ta xin sai người đem vợ con sang trả, để tỏ tấm lòng yêu mến bấy lâu. Nói xong, lại trỏ sông Hoàng Hà mà thề với Sĩ Hội. Quan Đại phu nước Tần là Nhiễu Triều can Tần Khang công rằng: - Sĩ Hội là một người mưu thần của nước Tấn, chuyến này về Tấn, khác nào như con cá lớn được ra bể, khi nào còn trở lại nữa! Sao Chúa công quá nghe lời Thọ Dư mà giúp cho nước cừu địch với mình được thêm một người mưu thần ấy? Tần Khang công nói: - Việc này ta có thể tin được, nhà ngươi chớ lo ngại! Sĩ Hội và Thọ Dư từ biệt Tần Khang công rồi đi. Nhiễu Triều ra tiễn, đem một cái roi da tặng cho Sĩ Hội mà bảo rằng: - Nhà ngươi chớ khinh nước Tần ta không có trí sĩ; chỉ tiếc Chúa công ta không chịu nghe lời ta mà thôi! Nhà ngươi cầm cái roi này đánh ngựa mà về cho mau, nếu chậm thì chắc có tai vạ. Sĩ Hội lạy tạ, rồi giục ngựa đi mau.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
  10. Phan Kim Tiên Hiệp sĩ mộng mơ

    Messages:
    2,079
    HỒI THỨ 49 Công tử Bão phóng tiền mua nước Tề Ý công tham sắc hại thân

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sĩ Hội cùng với Thọ Dư qua sông Hoàng Hà, đi về phía đông. Đi chưa được nửa dặm, trông thấy có một viên tướng trẻ tuổi đem một toán quân đến đón. Viên tướng ấy, ngồi ở trên xe, cúi đầu mà chào Sĩ Hội. Sĩ Hội lại gần nhìn xem ai thì tức là Triệu Sóc (con Triệu Thuẫn). Sĩ Hội hỏi Triệu Sóc rằng: - Nhà ngươi đem quân đến đây là có ý gì? Triệu Sóc nói: - Tôi phụng mệnh cha tôi, tới đây để đón ngài về triều, mặt sau sắp sửa có đại binh kéo đến. Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe có một tiếng súng nổ, quân Tấn kéo đến đông như nước chảy, đem Sĩ Hội và Thọ Dư về triều. Quân thám tử nước Tần về báo với Tần Khang công. Tần Khang công nổi giận, toan đem quân qua sông để đánh Tấn. Lại nghe báo bên kia sông có đại binh nước Tấn kéo đến, chủ tướng là Tuân Lâm Phủ và Khước Khuyết. Tây Khất Thuật nói với Tần Khang công rằng: - Đại binh nước Tấn đã đến tiếp ứng như thế, tất không để cho quân ta sang qua sông được, chi bằng ta hãy rút về. Nói xong, liền rút quân về. Bọn Tuân Lâm Phủ thấy quân Tần rút về, cũng đem quân về nước Tấn. Sĩ Hội trốn sang nước Tần đã ba năm trời, ngày nay lại về nước Tấn, ngẫm nghĩ trong lòng, xiết bao cảm khái, vào yết kiến Tấn Linh công, sụp lạy xin lỗi. Tấn Linh công nói: - Nhà ngươi có tội gì đâu! Tấn Linh công cho Sĩ Hội làm quan đại phu, Triệu Thuẫn tâu với Tấn Linh công thưởng cho Thọ Dư mười cỗ xe, để đền cái công khó nhọc đi triệu được Sĩ Hội. Tần Khang công sai người đưa vợ con Sĩ Hội về trả nước Tấn, và bảo Sĩ Hội rằng: - Ta không nỡ trái lời thề ở sông Hoàng Hà! Sĩ Hội cảm cái nghĩa của Tần Khang công, cũng viết thư cám ơn và khuyên Tần Khang công nên nghỉ việc binh, để nuôi sức dân mà giữ yên bốn cõi. Tần Khang công nghe lời, từ bấy giờ Tần Tấn hai nước không gây việc chiến tranh, được đến vài ba mươi năm. Chu Khoảnh Vương lên ngôi được sáu năm thì thăng hà. Thái tử Ban lên nối ngôi, tức là Chu Khuông Vương. Sở Mục Vương mất. Thế tử Lữ lên nối ngôi, tức là Sở Trang Vương. Triệu Thuẫn thấy nước Sở mới có tang, muốn nhân cơ hội ấy khôi phục lại công nghiệp bá chủ của nước Tấn trước, liền đại hội chư hầu ở đất Tân Thành. Tống Chiêu công (Chử Cữu), Lỗ Văn công (Hưng), Trần Linh công (Bình Quốc), Vệ Thành công (Trịnh) Trịnh Mục công (Lan) và Hứa Chiêu công (Tích Ngã) đều đến dự hội. Tống Chiêu công, Trần Linh công và Trịnh Mục công đều xin lỗi với Triệu Thuẫn rằng: - Ba nước chúng tôi khi trước bất đắc dĩ mới phải theo Sở. Triệu Thuẫn cùng đều lấy lời ngọt ngào mà phủ dụ. Các nước chư hầu lại thần phục nước Tấn, chỉ có nước Sái là vẫn theo Sở như cũ, không đến dự hội. Triệu Thuẫn sai Khước Khuyết đem quân đi đánh nước Sái. Nước Sái xin giảng hòa. Khước Khuyết mới thu quân về nước. Tề Chiêu công (Phan) vẫn định đến dự hội, nhưng bị bệnh, chưa kịp đến đã mất; con là Thế tử Xá lên nối ngôi. Mẹ Thế tử Xá là con gái nước Lỗ, tên gọi Thúc Cơ, tức là nàng Chiêu Cơ. Nàng Chiêu Cơ dẫu là Tề Chiêu công phu nhân, nhưng không đắc sủng, mà con là Thế tử Xá, tài học lại tầm thường, bởi vậy người trong nước không có lòng kính trọng. Công tử Thương Nhân là con nàng Mật Cơ (thiếp hầu Tề Hoàn công) vốn có chí muốn cướp ngôi, chỉ vì Tề Chiêu công tiếp đãi rất hậu, vậy nên không nỡ làm vội, vẫn định chờ cho Tề Chiêu công mất, rồi mới khởi sự. Mấy năm sau, Tề Chiêu công triệu Công tử Nguyên ở nước Vệ về giao quốc chính cho. Công tử Thương Nhân thấy Công tử Nguyên là người hiền, vẫn có lòng ghen ghét; lại muốn mua chuộc lòng dân, mới đem hết gia tài cấp phát cho những kẻ nghèo khổ, bởi vậy dân trong nước ai cũng tâm phục. Đến lúc Thế tử Xá được lên nối ngôi, bỗng gặp có sao chổi hiện, Công tử Thương Nhân mới sai người bói xem tốt xấu thế nào. Người thầy bói nói: - Đó là cái triệu nước Tống, nước Tề và nước Tấn có loạn, mà vua ba nước đều bị giết cả. Công tử Thương Nhân nói: - Nếu vậy thì làm loạn nước Tề, chắc là tay ta! Nói xong, liền sai kẻ tử sĩ vào đâm chết Thế tử Xá. Công tử Thương Nhân thấy Công tử Nguyên hơn tuổi mình, mới nói dối Công tử Nguyên rằng: - Thế tử Xá không đáng làm vua; tôi làm việc này là vì anh đó! Công tử Nguyên giật mình kinh sợ mà nói rằng: - Ta vẫn biết nhà ngươi muốn làm vua đã lâu, sao bây giờ lại đổ cho ta. Ta thờ nhà ngươi thì được, chứ nhà ngươi không thể thờ ta được; ta chỉ mong rằng nhà ngươi làm vua, mà bao dung cho ta được trọn đời làm một kẻ thường dân ở nước Tề này, thế là mãn nguyện! Công tử Thương Nhân lên nối ngôi, tức là Tề Ý công. Công tử Nguyên ghét Tề Ý công làm những việc tàn nhẫn, mới cáo ốm về nhà, đóng cửa không đi đến đâu cả, cũng không vào triều nữa. Nàng Chiêu Cơ thương con chết oan, ngày đêm kêu khóc. Tề Ý công thấy vậy, bắt giam vào một nơi, lại cho ăn uống rất kham khổ. Nàng Chiêu Cơ đút tiền cho các cung nhân để đưa tin sang cho Lỗ Văn công biết. Lỗ Văn công sợ thế nước Tề mạnh, sai người sang nói với Chu Khuông Vương, muốn nhờ uy Chu Khuông Vương xin Tề Ý công tha cho nàng Chiêu Cơ. Chu Khuông Vương sai Đan Bá sang nước Tề, bảo Tề Ý công rằng: - Đã giết con thì thôi, còn giam mẹ làm gì! Sao không tha cho người ta về nước Lỗ, để tỏ cái lòng quảng đại của nước Tề. Tề Ý công vẫn muốn giấu việc giết Thế tử Xá, bấy giờ nghe lời Đan Bá, mặt đỏ bừng lên, không nói gì cả. Đan Bá lui về nhà công quán. Tề Ý công truyền đem nàng Chiêu Cơ sang cung khác, rồi sai người nói lừa Đan Bá rằng: - Chúa công tôi đối với Quốc mẫu (tức là nàng Chiêu Cơ), vẫn phải giữ lễ, huống chi lại có lệnh Thiên tử, chắc thế nào cũng xin vâng lời, sao Vương sứ không vào yết kiến Quốc mẫu, để tỏ tấm lòng quyến cố của Thiên tử. Đan Bá tưởng thực, vội vàng vào cung yết kiến nàng Chiêu Cơ. Nàng Chiêu Cơ ứa nước mắt xuống, kể những nông nỗi oan khổ. Đan Bá chưa kịp trả lời, bỗng thấy Tề Ý công ở đâu sực đến, quát to lên mà mắng rằng: - Đan Bá sao dám tự tiện vào trong cung mà tư thông với Quốc mẫu, định làm việc bậy bạ hay sao! Ta quyết đem việc này tâu với Thiên tử. Nói xong, truyền đem Đan Bá và nàng Chiêu Cơ mỗi người giam vào một nơi; lại căm tức Lỗ Văn công dám mượn uy lệnh Thiên tử mà áp chế nước mình, mới đem quân đi đánh Lỗ. Lỗ Văn công sai quan Thượng khanh là Quí Tôn Hàng Phủ (con Công tử Hữu) sang cáo cấp với nước Tấn. Triệu Thuẫn vâng lệnh Tấn Linh công hội các nước chư hầu là Tống, Vệ, Sái, Trần, Trịnh, Tào và Hứa ở đất Hỗ Địa, để thương nghị việc đánh Tề. Tề Ý công sai người sang lễ đút nước Tấn và tha Đan Bá về nhà Chu, lại cho nàng Chiêu Cơ về nước Lỗ. Các nước chư hầu đều rút quân về nước cả. Lỗ Văn công nghe tin nước Tấn không sang đánh Tề, cũng sai Công tử Toại sang lễ đút nước Tề để xin giảng hòa. Lại nói chuyện Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ, tức là nữ huynh Chu Tương Vương, thân mẫu Tống Thành công, (Vương Thần) và Tổ mẫu Tống Chiêu công (Chữ Cữu). Tống Chiêu công từ khi còn làm Thế tử, vẫn cùng với Công tử Ấn, Công Tôn Khổng Thúc và Công Tôn Chung Ly đi săn bắn; đến khi lên ngôi làm vua, việc gì cũng nghe lời ba người ấy, bỏ hết cả chính trị, chỉ hàng ngày rủ nhau đi săn bắn để mua vui mà thôi. Quan Tư mã Lạc biết cơ nước Tống tất loạn, mới nhường quan chức cho Công tử Ấn. Quan Tư thành là Công Tôn Thọ cũng sợ tai vạ, xin cáo lão về hưu. Tống Chiêu công lại dùng người con Công Tôn Thọ là Đãng Ý Chư làm quan tư thành, Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ đã già mà còn đa dâm. Tống Chiêu công có người thứ đệ tên gọi Công tử Bão, mặt đẹp như con gái, Vương Cơ đem lòng dan díu, một hôm mời Công tử Bão uống rượu say, rồi ép duyên với Công tử Bão. Công tử Bão cố sức chống cự, mới ra thoát khỏi, nhưng Vương Cơ vẫn không dứt tình được, liền muốn bỏ Tống Chiêu công mà lập Công tử Bão. Tống Chiêu công sợ các chi họ về Mục công và Tương công mạnh thế lắm, mới bàn mưu với Công tử Ấn để đuổi ra nước khác. Vương Cơ biết mưu, tức khắc mật báo cho hai chi họ ấy biết. Hai chi họ ấy nổi loạn, vây bắt Công tử Ấn và Công Tôn Chung Ly ở chỗ triều môn mà giết đi. Quan Tư thành là Đãng Ý Chư sợ hãi trốn sang nước Lỗ. Công tử Bão và các quan đại phu đứng ra điều đình với hai chi họ ấy để giảng hòa, không dám hỏi đến tội giết chết Công tử Ấn và Công Tôn Chung Ly; lại sai người sang nước Lỗ triệu Đãng Ý Chư về mà phục chức cho. Công tử Bão nghe tin Công tử Thương Nhân (tức là Tề Ý công) ở nước Tề, phóng tài hóa để thu nhân tâm mà cướp được ngôi vua, cũng bắt chước đem hết gia tài chu cấp cho những kẻ nghèo khổ. Năm thứ bảy đời Tống Chiêu công, nước Tống mất mùa, Công tử Bão đem thóc gạo phát cho dân đói; lại kính kẻ già, tôn người hiền, phàm những người nào từ bảy mươi tuổi trở lên, cứ mỗi tháng lại sai người biếu thóc, lụa và các thứ thực phẩm; còn những người nào có nghề khéo tài giỏi, đều thu dùng mà cấp lương cho; các quan công, khanh, đại phu thì tháng nào Công tử Bão cũng có đồ biếu; trong họ Tôn Thất, bất cứ thân sơ, hễ hơi có việc gì, cũng đem tiền bạc đến tư giúp. Đến năm thứ tám đời Tống Chiêu công, nước Tống lại mất mùa to, Công tử Bão hết cả tiền của. Vương Cơ lại đem của riêng ở trong cung ra mà đưa cho Công tử Bão. Bởi vậy cả nước ai cũng khen Công tử Bão là người nhân đức, mà muốn cho Công tử Bão làm vua. Công tử Bão biết là người trong nước ai cũng bằng lòng với mình, mới bàn mưu với Vương Cơ để định giết Tống Chiêu công. Vương Cơ nói: - Nghe nói Chử Cữu (tên Tống Chiêu công) sắp đi săn ở đất Mạnh Chư. Hôm ấy ta dặn Công tử Tu (em cùng mẹ với Công tử Bão) đóng cửa thành lại, rồi nhà ngươi đem người đi giết Chử Cữu thì chắc phải xong việc. - Công tử Bão theo lời. Quan Tư thành là Đãng Ý Chư là người hiền, xưa nay Công tử Bão vẫn kính trọng, bấy giờ nghe biết cái mưu của Công tử Bão, liền nói với Tống Chiêu công rằng: - Chúa công chớ nên đi săn, nếu đi săn thì tất không trở về được. Tống Chiêu công nói: - Nếu có kẻ định nổi loạn thì dẫu ta ở nhà, cũng không tránh được nào! Nói xong, liền sai quan Hữu sư là Hoa Nguyên và quan Tả sư là Công Tôn Hữu ở nhà để giữ nước, còn mình thì chuyển vận các đồ bảo ngọc trong kho, thẳng đường tiến ra Mạnh Chư. Tống Chiêu công mới ra khỏi cửa thành thì Vương Cơ sai người triệu Hoa Nguyên và Công Tôn Hữu vào mà giữ ở trong cung, rồi sai Công tử Tu đóng chặt cửa thành lại. Công tử Bão bảo quan Tư mã là Hoa Ngẫu tuyên cáo với các quân sĩ rằng: - Ta phụng mệnh Vương Cơ tôn lập Công tử Bão lên làm vua mà trừ bỏ vô đạo hôn quân đi, các ngươi nghĩ thế nào? Quân sĩ đều reo ầm lên rằng: - Xin vâng mệnh! Người nước Tống nghe nói, ai cũng thuận cả. Hoa Ngẫu đem quân đuổi theo Tống Chiêu công. Tống Chiêu công đi đến nửa đường nghe tin có biến, Đãng Ý Chư khuyên Tống Chiêu công chạy sang nước khác. Tống Chiêu công nói: - Trên từ Tổ mẫu (trỏ Vương Cơ), dưới đến người trong nước ai cũng là cừu địch với ta, huống chi là các nước chư hầu, còn nước nào chịu giúp ta nữa. Ta chết ở nước khác, chẳng thà chết ở nước nhà còn hơn! Nói xong, truyền đóng quân lại, rồi nấu cơm ăn, để cho các người theo hầu được ăn no cả. Ăn xong, Tống Chiêu công bảo các người theo hầu rằng: - Việc này là lỗi tại ta, chứ các ngươi có dự gì đến! Các ngươi theo hầu ta trong mấy năm, ta chưa có gì đền công, nay có các đồ bảo ngọc ở đây, ta chia tặng cho các ngươi. Các ngươi nên trốn đi, kẻo mà chết oan! Các người theo hầu đều khóc mà nói rằng: - Xin Chúa công cứ đi, nếu có quân đuổi theo, chúng tôi sẽ hết sức cố đánh. Tống Chiêu công nói: - Chỉ chết uổng mà thôi, không được ích gì. Các ngươi chớ quyến luyến ta nữa! Được một lúc, quân Hoa Ngẫu kéo đến vây kín Tống Chiêu công, rồi tuyên cáo với quân sĩ rằng: - Ta phụng mệnh Vương Cơ, chỉ giết một mình đứa vô đạo hôn quân mà thôi, không hại gì đến các ngươi cả. Tống Chiêu công vội vàng xua đuổi những người theo hầu đi. Các người theo hầu tan chạy đến quá nửa, chỉ còn Đãng Ý Chư vẫn chống gươm đứng ở bên cạnh. Hoa Ngẫu lại tuyên cáo mệnh lệnh của Vương Cơ triệu Đãng Ý Chư về. Đãng Ý Chư thở dài mà than rằng: - Làm bề tôi mà lúc hoạn nạn lại bỏ vua thì sống làm gì cho nhục, chẳng thà chết đi còn hơn! Hoa Ngẫu cầm giáo xông vào để giết Tống Chiêu công. Đãng Ý Chư lấy mình che cho Tống Chiêu công, rồi cầm gươm đánh nhau với Hoa Ngẫu. Quân Hoa Ngẫu xúm lại, giết Đãng Ý Chư trước, giết Tống Chiêu công sau. Các người theo hầu Tống Chiêu công, ai không trốn đi cũng bị giết cả. Hoa Ngẫu đem quân về báo với Vương Cơ. Bọn Hoa Nguyên và Công Tôn Hữu cùng với các quan triều thần đều tán tụng Công tử Bão là người nhân đức, nên lập làm vua. Vương Cơ truyền lập Công tử Bão lên nối ngôi, tức là Tống Văn công. Hoa Ngẫu vừa triều hạ xong, về nhà đau bụng, chết ngay lập tức. Tống Chiêu công khen Đãng Ý Chư là người trung thần, mới dùng người em là Đãng Hủy làm quan tư mã, để thay cho Hoa Ngẫu. Tống Văn công lại cho người em cùng mẹ là Công tử Tu làm quan tư thành, để thay cho Đãng Ý Chư. Triệu Thuẫn nghe tin nước Tống có loạn giết vua, liền sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng, hội quân nước Vệ, nước Trần và nước Trịnh để sang đánh Tống, Quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên đến nói với quân Tấn, kể hết những sự tình người trong nước muốn tôn lập Công tử Bão, lại đưa mấy xe vàng lụa làm lễ khao quân và xin giảng hòa với Tấn. Tuân Lâm Phủ toan nhận. Trịnh Mục công nói: - Chúng tôi dựng cờ dóng trống để theo Tướng quân sang đánh Tống là muốn trừ những đứa loạn tặc, Tướng quân lại cho nước Tống giảng hòa thì những đứa loạn tặc còn sợ gì nữa! Tuân Lâm Phủ nói: - Tề và Tống có khác gì nhau, ta đã khoan dung cho Tề, có lẽ nào lại nghiêm khắc với Tống hay sao! Vả người nước Tống ai cũng muốn cho Công tử Bão lên làm vua thì ta tiếc gì mà chẳng công nhận cho! Nói xong, liền cho nước Tống được giảng hòa, Trịnh Mục công lui ra mà nói rằng: - Nước Tấn không nghĩ gì đến công nghĩa, chỉ tham các đồ lễ vật mà thôi thì làm bá chủ thế nào nổi! Nay vua Sở mới lập, chẳng bao lâu tất cũng gây việc chiến tranh, chi bằng ta bỏ Tấn theo Sở, để giữ yên lấy nước nhà là hơn. Trịnh Mục công liền sai sứ sang giao thông với Sở. Nước Tấn biết vậy mà không làm gì nổi. Tề Ý công (Thương Nhân) là người ngang ngược, từ khi cha là Tề Hoàn công hãy còn, đã có một lần cùng với quan Đại phu là Bính Nguyên tranh nhau ruộng đất. Tề Hoàn công giao cho Quản Di Ngô xử đoán việc ấy. Quản Di Ngô thấy Công tử Thương Nhân (tức là Tề Ý công) lý khuất, mới xử cho Bính Nguyên được nhận ruộng đất ấy. Công tử Thương Nhân căm tức lắm, đến lúc giết Thế tử Xá mà lên làm vua, liền chiếm lấy những ruộng đất của Bính Nguyên; lại thâm thù Quản Di Ngô về bè với Bính Nguyên, cũng tước bỏ phong ấp của họ Quản. Họ Quản sợ tội, trốn sang nước Sở, con cháu làm quan ở nước Sở. Tề Ý công vẫn còn căm tức Bính Nguyên. Bấy giờ Bính Nguyên đã chết rồi, Tề Ý công nhân khi đi săn qua mộ Bính Nguyên, sai quân sĩ khai quật lên mà chặt bỏ chân đi. Con Bính Nguyên là Bính Súc đang đi theo hầu ở bên cạnh. Tề Ý công hỏi Bính Súc rằng: - Cứ như tội thân phụ nhà ngươi thì phỏng có đáng chặt hay không? Chắc nhà ngươi cũng oán giận ta lắm. Bính Súc đáp rằng: - Cha tôi lúc sống được khỏi tội chết, đã là may mắn lắm rồi, huống chi một nắm xương khô ấy, có đâu tôi dám oán giận. Tề Ý công bằng lòng mà khen rằng: - Thế mới thật con lại chữa được lỗi cho cha! Tề Ý công lại đem những ruộng đất chiếm lấy khi trước trả lại cho Bính Súc. Bính Súc xin chôn cho cha. Tề Ý công thuận cho. Tề Ý công lại mua những con gái đẹp trong nước, ngày nào cũng ham mê sự vui chơi, nghe nói quan Đại phu là Diêm Chức có người vợ rất đẹp, nhân dịp tết Nguyên Đán, mới ra lệnh: Phàm các vợ quan đại phu đều phải vào triều ở trong nội cung tất cả. Vợ Diêm Chức cũng vâng lệnh vào triều. Tề Ý công trông thấy đẹp, có ý bằng lòng, giữ lại không cho về, sai người bảo Diêm Chức rằng: - Phu nhân ở trong nội cung muốn kết bạn với vợ ngươi, vậy thì ngươi nên tìm vợ khác. Diêm Chức giận lắm mà không dám nói ra. Về phía Tây nam môn nước Tề có cái ao, tên gọi Thân Trì. Nước ao trong sạch, có thể tắm được. Bên ao có nhiều những khóm trúc rườm rà. Bấy giờ đang tháng 5 mùa hạ, Tề Ý công định ra Thân Trì để nghỉ mát, mới cho Bính Súc và Diêm Chức đi hầu. Quan Hữu sư là Hoa Nguyên nói riêng với Tề Ý công rằng: - Chúa công chặt chân cha Bính Súc và lấy vợ Diêm Chức, hai người ấy chắc đâu không oán giận Chúa công. Vậy thì các quan nước Tề thiếu gì người mà sao Chúa công lại hay thân cận hai người ấy. Tề Ý công nói: - Hai người ấy chưa hề thấy oán giận ta bao giờ, nhà ngươi chớ nghi ngại! Nói xong, liền ngự xe ra chơi Thân Trì, uống rượu rất vui. Tề Ý công rượu say, thấy nóng bức quá, mới sai lấy một cái giường gấm kê ở trong bụi trúc để nằm cho mát. Bính Súc và Diêm Chức cùng tắm ở dưới ao. Bính Súc oán giận Tề Ý công lắm, vẫn muốn giết đi để báo thù cho cha, nhưng chưa được ai đồng lòng với mình, thấy Diêm Chức cũng có cái thù mất vợ, toan cùng Diêm Chức thương nghị mà khó mở mồm nói ra, nhân khi cùng tắm ở dưới ao, nghĩ ngay một kế, cầm cái dóng trúc đánh vào đầu Diêm Chức. Diêm Chức nổi giận mà mắng rằng: - Sao nhà ngươi dám khinh ta như vậy! Bính Súc tủm tỉm cười mà bảo rằng: - Người ta cướp vợ của nhà ngươi mà nhà ngươi còn không giận, ta đánh một cái, đã có hề gì! Diêm Chức nói: - Mất vợ dẫu là một điều xấu hổ của ta, nhưng so với sự chặt chân cha thì đằng nào nhục hơn? Nhà ngươi chẳng thiết gì đến cha, mà lại trách ta không biết nghĩ đến vợ, sao lại ngu tối như thế! Bính Súc nói: - Ta có mấy lời tâm phúc, vẫn muốn bảo nhà ngươi mà không dám nói, là chỉ sợ nhà ngươi quên mất cái thù xưa thì dẫu ta có nói, cũng không ích gì cả. Diêm Chức nói: - Bụng người ta, ai cũng vậy, bao giờ quên được, chỉ vì sức không làm nổi. Bính Súc nói: - Nay đứa thù say rượu, đang nằm ngủ ở trong bụi trúc, mà theo hầu đây chỉ có hai ta mà thôi, ấy là trời cho ta cái dịp để báo thù, ta chớ nên bỏ hoài mất cơ hội. Diêm Chức nói: - Nhà ngươi dám làm đại sự, ta xin giúp một tay. Hai người cùng lau mình mặc áo, rủ nhau vào trong bụi trúc, trông thấy Tề Ý công đang nằm ngủ say, tiếng ngáy như sấm, lại có mấy tên nội thị đứng ở bên cạnh. Bính Súc bảo mấy tên nội thị rằng: - Lúc Chúa công tỉnh rượu, tất thế nào cũng khát nước, các ngươi nên phải sửa soạn sẵn mới được. Mấy tên nội thị đi sửa soạn nước uống. Diêm Chức nắm lấy tay Tề Ý công. Bính Súc bóp cổ, rồi rút gươm cắt lấy đầu. Hai người khiêng thi thể Tề Ý công giấu vào trong bụi trúc, rồi đem đầu ném xuống dưới ao. Khi các nội thị đem nước uống đến, Bính Súc bảo rằng: - Thương Nhân giết vua mà cướp ngôi, nay ta trừ bỏ đi rồi, có Công tử Nguyên là người hiền, nên lập làm vua. Các nội thị vâng dạ, không ai dám nói câu gì. Bính Súc cùng với Diêm Chức tiến vào trong thành, lại bày tiệc uống rượu, hoan hô với nhau. Có người báo với hai quan thượng khanh là Cao Khuynh (con Cao Hổ) và Quốc Quí Phủ (con Quốc Ý Trọng). Cao Huynh nói: - Bọn Bính Súc làm càn như vậy, ta nên kể tội mà bắt giết đi, để làm gương cho kẻ khác. Quốc Quí Phủ nói: - Một đứa giết vua, ta đã không trừ nổi, mà người ta trừ được thì sao gọi là tội! Bính Súc cùng Diêm Chức uống rượu xong, sai lấy một cỗ xe lớn, xếp những của cải lên, và đem vợ con ra cửa Nam môn. Người nhà khuyên Bính Súc nên đi mau. Bính Súc nói: - Thương Nhân vô đạo, người trong nước nghe tin chết, ai cũng lấy làm may, ta còn sợ gì nữa! Nói xong, cứ việc thủng thỉnh mà đi, đi sang nước Sở. Cao Huynh và Quốc Quí Phủ họp các quan triều thần lại để thương nghị, rồi lập Công tử Nguyên lên làm vua, tức là Tề Huệ công. Lại nói chuyện Lỗ Văn công tên là Hưng, là con nàng Thanh Khương (con gái Tề Hoàn công). Lỗ Văn công lấy con gái Tề Chiêu công là Khương Thị làm phu nhân, sinh được hai con là Ác và Thị; lại lấy con gái nước Tần là Kính Doanh làm thiếp, cũng sinh được hai con là Tiếp và Thúc Miện. Trong bốn người con ấy chỉ có Tiếp là lớn tuổi hơn cả, mà Ác lại là con bà đích phu nhân, bởi vậy mới lập Ác làm thế tử. Bấy giờ quyền chính nước Lỗ đều ở tay Tam Hoàn cả: 1. - Mạnh Tôn Thị là Công tử Ngao, sinh con là Cốc và Nạn; 2. - Thúc Tôn Thị là Công Tôn Tư, sinh con là Thúc Trọng Bành Sinh và Thúc Tôn Đắc Thần. Lỗ Văn công cho Thúc Trọng Bành Sinh làm chức thái phó để dạy Thế tử Ác. 3. - Quí Tôn Thị là Quí Vô Dật (con Quí Hữu) sinh con là Quí Tôn Hàng Phủ, tức là Quí Văn Tử. Lỗ Trang công có người con thứ là Công tử Toại, tức là Trọng Toại, nhân vì Công tử Ngao đắc tội với Trọng Toại, chết ở nước ngoài, bởi vậy Mạnh Tôn Thị (tức là Công Tôn Ngao) mất quyền, bao nhiêu quyền chính ở nước Lỗ về tay Trọng Thị (tức là Trọng Toại), cùng với Thúc Tôn Thị và Quí Tôn Thị. Lại nói chuyện Công Tôn Ngao vì cớ gì mà đắc tội? Nguyên Công Tôn Ngao lấy con gái nước Cử là Đái Kỷ (sinh con là Cốc), và Thanh Kỷ (sinh con là Nạn). Đến lúc Đái Kỷ chết, Công Tôn Ngao lại muốn con gái nước Cử là Dĩ Thị, người nước Cử từ chối rằng: - Còn nàng Thanh Kỷ đó, nên cho làm kế thất. Công Tôn Ngao nói: - Em tôi là Trọng Toại chưa có vợ, xin cưới Dĩ Thị cho em tôi. Người nước Cử bằng lòng cho. Đến năm thứ bảy đời Lỗ Văn công, Công Tôn Ngao phụng mệnh sang sứ nước Tấn, nhân tiện xin đón Dĩ Thị về cho Trọng Toại. Khi Dĩ Thị về đến đất Y Lăng (đất nước Cử), Công Tôn Ngao đứng trên mặt thành, trông thấy Dĩ Thị có sắc đẹp, đêm hôm ấy cùng với Dĩ Thị ép duyên, rồi đưa về nhà. Trọng Toại thấy Công Tôn Ngao chiếm mất vợ mình, căm tức vô cùng, vào nói với Lỗ Văn công, xin đem quân đến đánh. Thúc Trọng Bành Sinh can rằng: - Không nên, nếu vậy thì sinh ra cuộc biến loạn! Lỗ Văn công cho người triệu Công Tôn Ngao đến, bắt phải đem Dĩ Thị trả lại cho nước Cử, để cho Trọng Toại khỏi giận. Bấy giờ Công Tôn Ngao và Trọng Toại, hai anh em lại giảng hòa như cũ. Công Tôn Ngao vẫn có lòng nhớ Dĩ Thị, năm sau lại phụng mệnh sang viếng tang Chu Tương Vương, liền bỏ không sang nhà Chu, đem ngay tiền của trốn sang nước Cử, cùng với Dĩ Thị đoàn tụ. Lỗ Văn công cũng không nghĩ đến việc ấy nữa, cho con Công Tôn Ngao là Cốc nối dòng Mạnh Tôn Thị. Sau Công Tôn Ngao nhớ nước Lỗ muốn về, sai người nói với con là Mạnh Tôn Cốc. Mạnh Tôn Cốc liền xin với chú là Trọng Toại. Trọng Toại bảo Mạnh Tôn Cốc rằng: - Nếu cha mày muốn về thì phải theo ta ba điều: Không được vào triều, không được dự quốc chính, không được đem Dĩ Thị về. Mạnh Tôn Cốc sai người sang nói với Công Tôn Ngao. Công Tôn Ngao muốn về lắm, vậy phải theo lời. Công Tôn Ngao về nước Lỗ trong tám năm quả nhiên chỉ đóng cửa, không đi đến đâu cả; một hôm lại đem hết tiền của trốn sang nước Cử. Mạnh Tôn Cốc nghĩ ngợi nhớ cha, hơn một năm thì chết. Con là Trọng Tô Miệt (tức là Mạnh Hiến Tử) hãy còn nhỏ, Lỗ Văn công liền cho Mạnh Tôn Nạn nối làm quan khanh. Chưa được bao lâu, Dĩ Thị chết, Công Tôn Ngao muốn về nước Lỗ, mới đem hết gia tài lễ đút Lỗ Văn công và Trọng Toại, mà sai con là Mạnh Tôn Nạn đứng xin lỗi cho cha. Lỗ Văn công thuận cho. Khi Công Tôn Ngao về qua nước Tề, ốm không đi được, rồi chết ở đất Đường Phụ. Mạnh Tôn Nạn xin đem thi thể Công Tôn Ngao về chôn ở nước Lỗ. Mạnh Tôn Nạn là con người có tội, vậy nên không dự quyền chính. Quí Tôn Hàng Phủ nhường Trọng Toại và Thúc Trọng Bành Sinh. Thúc Tôn Đắc Thần là chú, việc gì cũng phải đến hỏi. Thúc Trọng Bành Sinh tính nết hiền hậu, làm chức thái phó, mà Thúc Tôn Đắc Thần chuyên giữ binh quyền, bởi vậy chỉ có Trọng Toại và Thúc Tôn Đắc Thần là cầm quyền chính nước Lỗ. Nàng Kính Doanh cậy thế Lỗ Văn công yêu, mà giận rằng con mình không được lập làm Thế tử, mới đem tiền của lễ đút Trọng Toại mà nhờ binh vực cho con là Công tử Tiếp. Trọng Toại nghĩ thầm: Thúc Trọng Bành Sinh là quan thái phó của Thế tử Ác thì tất không chịu đồng mưu với mình, mà Thúc Tôn Đắc Thần, tính tham ăn lễ, có thể lấy lợi mà dụ được, liền đem những lễ vật Kính Doanh cho, chia biếu Thúc Tôn Đắc Thần mà bảo rằng: - Đây là những lễ vật của Kính Doanh nhờ ta đưa biếu nhà ngươi. Trọng Toại lại bảo Công tử Tiếp thỉnh thoảng đến thăm Thúc Tôn Đắc Thần để tỏ lòng kính mến, bởi vậy Thúc Tôn Đắc Thần cũng có lòng yêu. Đến năm Lỗ Văn công mất, Thế tử Ác làm chủ tang, lên nối ngôi, các nước chư hầu đều sai sứ đến thăm viếng. Bấy giờ Tề Huệ công (tức là Công tử Nguyên) mới lên nối ngôi, muốn đổi lại những chính bạo ngược của Tề Ý công (tức là Công tử Thương Nhân) khi trước, cũng sai sứ đến viếng tang Lỗ Văn công. Trọng Toại bảo Thúc Tôn Đắc Thần rằng: - Tề, Lỗ thuở xưa vẫn giao hiếu với nhau, bởi Tề Hiếu công gây nên thù oán, truyền mãi cho đến Tề Ý công là Thương Nhân, nay Công tử Nguyên mới lên ngôi, ta chưa sai người sang mừng, mà đã đến viếng tang nước ta, và nhân cơ hội này giao kết với Tề để làm vây cánh cho Công tử Tiếp. Hai người cùng rủ nhau sang sứ nước Tề.

    Quay về bài gốc

    0SHARES
     
Trả lời qua Facebook
Loading...