55. SƠN LA – TÂY NGUYÊN Tôi lớn lên giữa núi rừng hẻo lánh Bên đường mòn Lào Việt suối vắt ngang Ngày tháng vượn kêu sương quẩn nhà sàn Trong bản nhỏ cạnh vườn lim chắn gió Không ước mộng đi đây, đi đó Nhưng từ ngày cha kể chuyện Tây Nguyên (Cha tôi từ thủa tóc đen Đằng đẵng mười năm trời lính thú Bàn chân in khắp miền rừng rú Từ Lạng Sơn đến giải núi Kon Tum Khi tóc phai màu trở lại quê hương Mang theo đôi mắt lòa oán hận) Từ đấy Tây Nguyên nuôi ước vọng Dục bàn chân trẻ bồn chồn Nhưng lửa chiến tranh lan đến bản mường Tôi vác nỏ, vót chông chặn giặc Từng trận đánh trôi qua nguội dần ao ước Mộng đến Tây Nguyên lắng xuống đáy lòng Khi đất nước hòa bình (Cha tôi đã mất) Tôi lại hiểu Tây Nguyên trên bao nhiêu trang sách Mộng đời thức giấc gắt gao Giới tuyến đến nay quân địch vẫn rào Tôi đành đến Tây Nguyên trong tưởng tượng Chắc cũng gióng quê tôi núi cao rừng rộng Nhà sàn chênh chếc sườn nương Giòng suối êm đềm gọt đá ôm buôn Khói biếc thơm xôi những chiều sương mỏng Có rừng đào mùa thu nắng mọng Có núi hoa ong bướm trao duyên Cô gái khăn thêu má lúm đồng tiền Đêm quay vải dưới trăng vàng hát ví Có tiếng khèn ướm tình thủ thỉ Nối nhau mùa mận, màu mơ Cũng sắn lúa khoe màu bí quấn gốc ngô Mùa gặt giữa mùa dưa chín Rừng cũng nhiều gấu, nai, sói, nhím Nhưng quê tôi không có con voi Tây Nguyên – Sơn la, Nam – Bắc hai nơi Cách mấy nghìn quả núi Khi nào tôi được tới Cùng chung đất mẹ thân yêu Đánh giặc tám năm núi lở, rừng reo Tây Nguyên – Sơn La đeo huân chương đẹp Tây Nguyên với viên kim cương Anh Núp Quê tôi có hạt ngọc Sùng Phái Sinh Ngày nay Tây Nguyên tung gió thanh bình Nhưng quằn quại trong bóng đêm buốt lạnh Đang chống trọi từng giờ phá mưu tố cộng Vượt trên lê nhọn đòi hiệp thương Chặn tay thù cướp đất dồn buôn Phá sưu thuế phu phen hợp pháp Trong đấu tranh nối liền đất nước Tây Nguyên đang sống anh hùng Không! Tôi không đến Tây Nguyên trong giấc mộng Tôi đến Tây nguyên giữa mường bản quê tôi. Tháng 5/ 1958 Cầm Giang
56. TA KHÔNG CÓ LỖI Thân nhau từ khi còn cưỡi lợn Giả làm ngựa dưới gầm nhà Ven suối hái bông hoa Em buộc lên chỏm tóc Mất chiếc lược em khóc Anh chộm lược mẹ đền Nhớ mãi một đêm Hai nhà vừa tắt lửa Tiếng khèn ngân qua cửa Em rung nhẹ vòng tay Đầu thơm lá sả ngả bên vai Giọng e thẹn ngày nào anh nhỉ Gật đầu anh hiểu ý Mặt nóng ran nghe tim chuyển núi rừng Trong tối đêm thấy má em hồng Đường bản, nhà nươngđếm lần hò hẹn Anh cầm súng kháng chiến Em rời bản vào hang Mũ lưới ấp mộng vàng Ngày nào nhỉ? Người yêu cô hàng xóm Mai nở đếm lần tuổi lớn Chín năm đường bản rộng thêm Bếp lửa hồng anh lại gặp em Người mẹ tay dắt con – lưng địu Cái nhìn – đôi mắt trùm ngượng ngiụ Em ngập ngừng câu chúc cặp tân hôn Và nhìn anh: Chú rể quân nhân Thầm gửi câu xin lỗi Anh cúi đầu bối rối Thoắt sống lại ngày xưa Còn đâu lá sả thoảng hương đưa Mềm mại mái tóc xanh hoa giẻ Em đã là mẹ Đâu phải lỗi tại em Anh ngẩng đầu vòm núi vẫn chếc nghiêng Mỉm cười đón đôi cánh tay bụ bẫm. Tây Bắc tháng 12/1957. Cầm Giang
57. TẶNG ANH CÁN BỘ Hỡi anh cán bộ người Kinh Anh bỏ gia đình lên mãi tận trên đây Anh đi có nhớ mẹ thầy Nhớ vợ đêm ngày vẫn chờ đợi trông mong Anh đi có nhớ ruộng đồng Đem cả cái lòng lên sống với chúng tôi Người mường lại được thêm người Cây lá cũng cười chòm bản nhận đàn con Anh lên cho tiếng học ròn Bông lúa thêm tròn củ sắn cũng thêm to Anh lên cho thằng Pháp mau thua Phụ nữ gặt mùa du kích chặn giết Tây Cụ Hồ cái bụng tốt thay Đưa đến chòm này người cán bộ giỏi giang Chòm tôi thắng tám lượt càn Dụ được lính hàng, tránh được tàu bay Thêm thân với người Xá, người Tày Trai gái nên tài làm cán bộ như anh Cụ Hồ đưa giấy đòi anh Chòm bản phải đành đưa lại đứa con Người Mường nay đã giỏi hơn Đấu tranh vững vàng giữa địch hậu Sơn La Anh về thưa với mẹ cha Người Mường Sông Đà đã giỏi hơn xưa. (Bà Nái kể) Cầm Giang
58. TẶNG CÔ GÁI KHẠ Cha chửi hỏi em đi đâu Mà ngày nào đo rẫy cũng về sau Em nghĩ bị oan không dám nói Mẹ hỏi nhỏ chị em đi cùng Em vẫn len đi luồn rừng sâu Nắm xôi, gói muối nuôi anh khỏe Dân bản hỏi miệng em không hé Em vẫn đi dù Phìa Tạo nghi em Em lên đây lót thêm lá anh nằm Nấu nước sôi rửa lại vết thương Nói anh nghe câu chuyện bản mường Lợp lại lều kẻo lá khô mưa giọt Nhìn má anh sương cao xanh dợt Mắt trũng sâu, tóc rậm em thương Em đem kim chỉ vá chiếc áo rách lưng Anh nhìn em có cái gì lo ngại Em vá không đẹp bằng người Thái Nhưng cũng biết nên lành Đêm khuya anh có nghe em khóc Nghĩ đến ma, đến hổ lại thương anh Khi mặt trời lấp sau ngọn núi Mẹ cha hỏi em lại nói dối Lên với anh chắc anh đợi anh trông Mỗi lần về nước mắt lại thành dòng Anh khỏi rồi đêm nay về đơn vị Anh không nghe em bảo cứ về Vết thương khỏi rồi nhưng còn yêu Tay cầm tay nước mắt cứ đầm đìa Anh đi khi nào về đây nhé Chóng về giải phóng quê em Chớ có quên cái lòng người Khạ Đang sống như đêm tối không đèn Khi nào về giải phóng quê em Anh đến nhà gặp bố mẹ em Nhớ kể cái chuyện này anh nhé Cho mọi người cười, bố mẹ sẽ khen em. Châu Mai Sơn tháng 11/1957 Cầm Giang
59. TẠNH MƯA Cơn mưa rào vừa tạnh Cô gái ái lên nương Tay mềm vun gốc lúa Thoáng nhìn xuống nông trường Những chóp mũ vàng vàng Cũng đang vun gốc lúa Cô cất giọng ngân vang Hương rừng loang theo gió Cô muốn nhắn xuống đó "Giữ cho màu vững chân" Có tiếng cười vẳng lên Tiếng cười hay tiếng suối Rạo rực cô thầm nói Khéo kẻo mà thua ai! Tập theo trường đã giỏi Việc nương rẫy cũng tài Lúa xanh mơn mởn nhoai Cây kết cành hi vọng Nông trường càng mở rộng Mộng đời càng vươn cao Cô chẳng hiểu vì sao Thấy nông trường lúa tốt Từ đấy càng thích hát Thích làm nương suốt ngày * * * Anh bộ đội ngừng tay Nhìn sườn đồi phía trước Trên mảng sương xanh mượt Có cô gái lom khom Bất chợt cô ngước lên Anh vội vàng cúi xuống Khi ý vui thoảng đến Lòng thầm dục đôi tay Đàn chim vừa khô cánh Trời cũng vừa tan mây. Tây Bắc Tháng 6/1958 Cầm Giang
60. THĂM QUÊ TRẦN NGUYÊN HÃN Sông Lô giữa mùa lụt Nước mở rộng đôi bờ Sơn Đông đây rồi nhỉ Như vọng từ xa xưa Tướng quân Trần Nguyên Hãn Đi bán dầu về khuya.. * Vẫn con đường sỏi đá Mùa mít thơm tiếng ong Thấy cả thành Tam Giang Tướng quân vừa đánh chiếm Bờm ngựa tung cờ vàng Hướng Lam Sơn thẳng tiến Hương mít quê bay cùng Khi đánh chiếm Tân Bình Sóng biển reo đất mới Gió Đèo Ngang ca ngợi Mây Hải Vân kết hoa Tướng quân thả chim thiếp Thư về thăm mẹ già Có phải chim đang hót Cạnh bệ thờ cây đa. * Chỗ này xưa tướng quân Hẳn là nơi luyện võ Nên ổi toàn ổi đỏ Và hàng dừa thẳng băng Khi vây hãm Đông Quan Ghé vào thăm Sơn Đông Trước ngày lên Chi Lăng. Quân về đây tập luyện Bãi cuội còn kể chuyện Dây thìm bìm lắng nghe. * Non tơ những búp chè Nơi tướng quân đọc sách Hẳn chè quê bảo cách Tướng quân giết Liễu Thăng. * Sông Lô lụt réo vang Tiếng gọi đò văng vẳng Tưởng tiếng Trần Nguyên Hãn Gọi đời giữa đêm xưa.. * Đến nay đời mới thưa Sơn Đông ơi! Ngói đỏ Hương mít thơm trong gió Thưa tướng quân: Sáng rồi. * Tháng 6/1970 * Cầm Giang
61. THÀNH RỒNG THÀNH HỔ Con rắn mấy lần lột xác Con bò tót mấy lần thay lông Con rắn nay biến thành Rồng Con bò tót không thành con hổ Vì con rắn không con gì cưỡi cổ Vì bò tót không có ai đè lưng Con người lột xác có một lần Nhưng đứng lên thành Rồng thành Hổ Vì con người bị thằng giặc cưỡi cổ Bị nhà giàu quan lại đè lưng Bị chẹn hông bịt mắt mấy từng Bị mất máu, mất mồ hôi bao kiếp Chắc không riêng gì dân Việt Cũng không riêng gì người Thái chúng ta Mới đứng lên lột xác thay da Để biến thành Rồng thành Hổ Đã là người dù nước to, nước nhỏ Tận bên Tây, bên Úc, bên Phi Da vàng, da đen, da đỏ hay da gì Đã bị đè lưng cũng đều đứng dậy Đứng dậy một lần để lột xác thay da Như cái ngày tháng tám của nước ta Để khỏe mạnh thành Rồng, thành Hổ Để cắn hết những đứa nào cưỡi cổ Để quận nhừ những đứa đè lưng Nước chúng ta đã là Hổ, là Rồng. Châu Mai Sơn tháng 1/1957 Cầm Giang
62. THẬT THẾ Ư EM Thật thế ư em Lời tôi giảng đã theo em ra trận Khi buông quả đạn Em bỗng nhớ những câu Giây cung, vòng cầu Trong bài tập toán hình dạo ấy * Thư chưa đầy trang giấy Mưa nắng đã ố nhòe Mà tôi như nghe Em đang nói chuyện Giữa khét trời chớp đạn Sân bay Mỹ nổ tung Đạn ta lao cánh lửa vòng cung Em nhìn theo mắt tươi như dạo ấy * Dạo ấy Ngọn đèn dầu che chụp phòng không Trên cũi bát úp chiếc mâm Góc học tập trong ngách hầm ẩm ướt Tôi đến kiểm tra, em mời uống nước Tôi chấm tay vẽ hình Giúp em chứng minh Em viết nháp xuống mâm tìm đáp số Đường đạn bay góc độ Em ngước cười ánh mắt cũng sao bay * Thật thế ư em Nhà trường đã nối tay chiến thắng Tôi gập thư em vào giáo án Bước lên bục giảng tưởng hành quân Đầu com pa viên phấn trắng ngần Những hình vẽ bay bay cánh trắng Ngời ngời trang vở Thước kẻ chéo xinh xinh Đây thư trả lời, tôi nhìn xuống lớp. * Tôi muốn viết Bằng phấn màu chữ đậm bảng đen Thật thế ư em Lời tôi giảng đã theo em ra trận? * Tháng 6-1972 Cầm Giang
63. TIỄN ĐỒNG CHÍ VỀ Đồng chí bước ngập ngừng Tôi vẫy chào tin tưởng Đồng chí về đồng ruộng Miệng cười lòng nao nao Bao năm đã sống cùng nhau Đêm buồn hậu địch núi cao chắn đường Khi nhịn đói lúc nằm sương Khi chia điếu thuốc, lúc nhường miếng rau Nước xông bát cháo ốm đau Gối tay tâm sự, sát đầu học chung Khi phục kích, lúc tấn công Càng truy kích địch, vượt sông băng đèo Có hôm sích mích đôi điều Nhưng nhanh thông cảm thương yêu thơm nồng Thao trường hun hút gió đông Ngày vui luyện tập, đêm cùng chòi canh Đồng chí về nông thôn Tôi ở đây thường trực Chúng ta cùng tiếp tục Nhiệm vụ của quân nhân Quân hiệu tuy để lại Nhưng vẫn sáng trong lòng Lưng không còn thắt nịt Có dòng máu tác phong Về cho lúa chóng nở đòng Lũy tre thêm đẹp đổi công vững vàng Khói thơm mái dạ xóm làng Gót chân nát cả lúa vàng bên nương Tôi vui tắm nắng thao trường Tay chai báng súng trên đường hành quân Đồng chí yên tâm về Xây đoàn quân hậu bị Nhắn hộ cùng bố mẹ Rằng tôi vẫn ở đây Da hồng căng gió núi Mắt vét từng đám mây Bước đi tay luyến bản Buồn vui sáo lộn chóng Tây Bắc tháng 10/1957 Cầm Giang
64. TÌNH CA Vợ thì dại con còn nhỏ quá Đời đã hát được bao lăm Một đoạn tình ca nửa ánh trăng rằm Còn thì toàn là hành khúc Sông thì toàn bên trong, bên đục Đất thì toàn những thụt, những trơn Nên nói chuyện với con Như tâm tình bè bạn Là tình ca trong sáng Ru mình nhịp võng trưa Và giọng hò thuyền nước sông xưa Đã chảy về nơi ta bắt đầu viết. Cầm Giang