45. NGƯỜI XÁ DỖ CON Thôi con ơi! Hãy nhịn thèm thịt hoẵng Bố cũng thèm, cũng đói như con Sau này ta ăn thịt hoẵng càng ngon Đạn súng kíp bây giờ mua đắt Đạn còn nhiều cái súng càng vui Cái cò kia còn thích liếm tay người Cái súng nổ ròn bản mường không mất Ta còn giữ được cái đất Con hoẵng vẫn là của chúng ta Để sau này nó càng lớn, càng đẻ ra Ta bắn về ăn mừng độc lập. Châu Mai Sơn tháng 02/1957 Cầm Giang
46. NGƯỜI XÁ Que củi tôi là que củi mục Bọng ong mật là bọng ong ngon Củi đã mục trôi mãi cũng gãy mòn Nhưng ong mật để lâu càng sánh * Người Xá ta có hai tay mạnh Hai chân không biết mỏi đi rừng Như ong đốt đau nhưng mật ngọt Không như que củi mục trôi xuôi * Người Xá đen ta chịu khổ mãi rồi Phải sánh lại như mật ong chín tháng Hai cái chân đi theo cách mạng Hai cái tay dùng nỏ bắn kẻ thù * Cũng như việc phát nương trồng ngô lúa. * (Anh Nen-Ót kể) Tây Bắc 1954 * Cầm Giang
47. NGUYỆT VIÊN Tặng: Kiên Sáng nay anh đưa em về sông Mã Về Nguyệt Viên – Thanh Hóa quê ta Có chợ Hôm, có đường đất cát pha Thăm bến nước, thăm mẹ già lay lắt Nhà ta đấy, em ơi đừng ngơ ngác Đây xóm Ba bát ngát rặng dừa Đất này em hỡi ngày xưa Nứa reo nhạc sáng, bánh trưa reo vần Xanh cây khế ngọt đầu sân Tường hoa sắc nét, ngói ngân gió chiều Gỗ nằm chân dậu nối theo Cong cong đòn gánh, reo reo học trò Nhưng thôi, tựa con đò Chuyến qua rồi đến chuyến khác Vẫn sông xưa, vẫn cánh buồm nâu bạc Nhưng đã thay dòng nước biếc lẫn người qua Chỉ biết nay em đến quê ta Xơ xác ấy khoanh buồn lên mắt trẻ Đấy, nhà mẹ! Đấy, quê ta! Anh biết em từng mát mắt phù sa Đàn cò trắng tinh khôi vỗ cánh Đọt mía cờ ngô rung tiếng cười lanh lảnh Mộng ngân tròn như tre múa đêm trăng Anh biết em từng nhìn núi dăng dăng Xuyên hy vọng, thủng màu xanh, tím đá Vượt những võng, đèo sương che kín lá Để thấy quê chồng ấm tuổi phân vân Quê chồng chắc cũng mùa xuân Cũng thơm bờ dậu cúc tần ngõ đi Nắng mừng đậu sáng hàng khuya Sửa nhanh cặp tóc trước khi vào nhà Một cây rơm, mấy con gà Bên cầu nước rửa, vườn cà chen rau Anh biết em như trầu biết lòng cau Mộng đôn hậu thủy chung thời con gái Thời con gái! Trong ước muốn có bao giờ sai trái Đi làm dâu ai chả ước chân thành Miễn mẹ thương, cha quý, mẹ lành Mùi cơm tẻ sớm chiều lên khói bếp Chỉ vậy thôi cũng đủ rồi mơ ước Mà ngày nào dấu hỏi cũng chân mây Ừ, em đã về đây Nguyệt Viên ơi! Đón người làng ta nhé Nguyệt Viên ơi, giới thiệu em với mẹ Có cần không thủ tục ấy quê hương? Nguyệt Viên ơi! Hãy nhìn rộng bốn phương Nông Cống lúa vàng, Nga Sơn đồng cói Những vùng đất húc lên từ nghèo đói Để giới thiệu em với mảnh đất này Quê ta, em nhỉ, hôm nay Dền gai, cà đắng mọc đầy thềm xưa Mái nhà không để che mưa Phên nhà mắt cáo, rào thưa còn đầy Cửa không cần khóa, cần dây Ngõ vào mất lối, xóm dài bơ vơ Em đăm chiêu cúi lặng đặt con thơ Ta ngồi im chào thầy ngoài Cồn Mến Trăm lạy thầy, con dâu thầy đã đến Đến quê thầy với đàn cháu xinh ngoan Trăm lạy thầy, người cha đã cả gan Đem lòng mình pha xốp từng đất cứng Thác sông Mã có còn gầm sóng giận Bão điền Lư có còn rít đêm dài Đường Rừng Thông có còn ngập chông gai Ngã ba Bông xoáy nước còn quay tít? Em! Đời thầy em có biết Sống trung thành, chết lặng im Cho con ta ríu rít tiếng chim Ăn cá bơn, uống nước dừa làng Ngoạt Nhà ta đó, em ơi! Đừng ngơ ngác Đừng nói với con, Nói với bốn phương trời Nói với những luống cày đang cày bổ vào đời Bắt sỏi đá thành đỗ tương, ngô lạc Tiếng chiêng dũa mòn núi đá cao như tạc Đêm cót gai sợi quấn chặt tuổi xuân Đấy cũng quê ta, vì đấy cũng người thân Người Nguyệt Viên đang bơi trong bể khổ Em hãy nói với đồng chiêm, nước vỗ Gợn sóng ao bèo, bè rau muống bồng bềnh Đang chắt chiu từng hàng lúa, con tôm Nhà tranh đất, mảnh sân vuông trung cổ Đấy cũng quê ta, người Nguyệt Viên đến ở Đem tình thương, níu toạc long đong Nói đi em, nói với quê chồng Như sông Mã nói với em khi tắm Em khen sông nước trong mát lắm Có thấy chăng mùi nước mắt mồ hôi Đã chảy tuôn hàng chục năm trời Đang kết lại thành ngân hà, vết đá Của Sông Chuối, Sông Chu, Sông Lâm Hóa Chảy về đây cùng Sông Lệ xóm Ba Đói khổ hóa thành chai sẹo quê ta Sông có mát là sông trong lòng mẹ Trắng sữa, ngọt cam, bùi hạt giẻ Còn nước sông đời mặn đáy em ơi! Nói đi em, nói với mẹ hết lời Một người mẹ, chuyện vọng phu hóa thành hẹp nghĩa Được làm con của mẹ Có hạnh phúc không em Người mẹ Nguyệt Viên Mòn trăm đòn gánh Em có nhìn sao quê ta lấp lánh Đấy chính là mắt mẹ chiếu trên sông Mà nỗi lòng đang trang trải mênh mông Chân em bước giữa quê chồng Có in dấu lại trong lòng họ đương Đường đê pha cát quê hương Có in chân của người thương lòng mình Nguyệt Viên! Ơi Nghĩa Ơi tình Qua đò mẹ tiễn tạc hình bên sông Em về thăm vội quê chồng Sau này biết có còn không lại về. Hoằng Quang - Hoằng Hóa – Thanh Hóa Hè 1964 Cầm Giang
48. NHỚ ANH TÂY TIẾN Có anh bộ đội Tây Tiến Đi rồi dân nhớ dân thương Giúp nhau ngón tay chỉ đường Chia nhau cái kim dúm muối Nhường nhau miếng sắn miếng măng * Đường kim vá áo khăn thêu Vì dân rơi xương đổ máu Rét nứt chân vẫn chiến đấu Xa cha xa mẹ miền xuôi Đói vẫn hát, rách vẫn cười * Yêu núi rừng như đồng ruộng Yêu bản mường chẳng khác quê hương Mang súng bom đi giữ tình thương Thủ thỉ bên tai du kích Những lời tự tin giết địch Nên người anh khuyên phụ nữ trồng bôi * Tiếng cười vang hoa nở trong lòng Mỗi khi nghe bom nổ Tây lại chôn mươi thằng ở đó Cho mơ sai quả, cho lúa vàng nương Mến nhau quen hơi bén tiếng Đi rồi dân nhớ dân thương * (Chị A – Boọng người Lự kể lại) Châu Mai Sơn tháng 3/1957 Cầm Giang.
49. PHIM LÊN BẢN NHỎ Có anh cán bộ miền Nam Đưa máy quay phim về bản nhỏ Vượt núi cao lưng trời lộng gió Suối hiền đón giọt mồ hôi Anh dựng lều bên gốc muỗm quê tôi Ánh điện tưới nụ cười hoa nở Bao cặp mắt tròn bỡ ngỡ Bao vành tai vòng bạc lung linh Rõi theo từng đoạn phim Như uống cạn ngon lành dòng sữa * Quê tôi đói nghèo bao thủa Chìm trong bụi lá than nươg Ọp ẹp cầu thang buốt lạnh đêm trường Dằng dặc cuộc đời tăm tối Núi đứng, rừng sâu, Tây, quan chẹn lối Tưởng mộng đời gửi chọn tiếng vượn rên Nhưng từ ngày Mường bản đứng lên Rũ sạch hận thù theo đời cách mạng Đỉnh núi ngọn rừng chói lòa ánh sáng * Đời reo, nương tốt nhà vui Gió rừng đưa anh đến quê tôi Hoa lá dẫn chân anh bước tới Anh đạp qua đèo, anh băng qua suối Tấu thép đè vai chẳng ngại ngần Màn ảnh trôi qua xòe cánh lòng dân Mở rộng mộng đời gieo niềm ao ước Đây bao la đất nước * Cây tre! Cây tre! Của quê hương Đây rầm rập nông trường Máy với trời mây, Liên Xô vĩ đại Phác mẫu cuộc đời ngày mai người Thái Mà hôm nay đang dũng cảm bước mở màn Ơi anh cán bộ miền Nam Có mệt không, quay nhiều, quay mãi nhé * Rừng thêm tươi hoa lá Núi thêm đẹp áo lam Đảng khéo dạy anh làm Bác Hồ chỉ đường anh lên bản nhỏ Khi nào anh về dưới đó Nói hộ rằng bản Ta – Lú cảm ơn Lần sau anh lên bản sẽ đông hơn Nhiều tổ đổi công, nhiều người giỏi chữ Dòng điện máy reo quấn quýt nụ cười Tiếng thuyết minh đượm hương rừng, nhạc suối * Tháng 6/1958 Cầm Giang
50. QUẢ CÒN Hốt hoảng mẹ tìm con Xác xơ vườn rau úa Cột nhà trơ dính lửa Đường đầy vỏ đạn dấu giày đinh Xám cánh vùi tro con bướm tội tình Mẹ tôi khóc cái ninh súc vải Tiếng nấc hờn bỗng nhiên nghẹn lại Tôi nghe tím ruột gan Cầm quả còn bị cháy Nó rủa giặc, chửi con Tôi khuyên nó phàn nàn Tết lấy gì mà ném? Mắt nó như cánh én Chao xuống hẹn tình duyên Của những ngày xuân đẹp Bỗng sắc như ánh thép Mắt nó nhìn vào tôi "Em hiểu rồi anh ơi Ta phải vào du kích" Còn quan châu, thằng địch Không có tuổi ném còn Lai Châu tháng 7-1958 Cầm Giang
51 QUAY BẾ EM MANG@ Mái nhà nương quyện khói Sườn đồi dệt lúa thơm Tiếng hát hòa tiếng chim Hép@ trên tay thoăn thoắt Đường bản mòn thêm – mùa gặt Quai bế con nhuộm thẫm mồ hôi Mùa gặt năm nay - em nở nụ cười Băng qua suối, môi hồng soi bóng nước Khác những mùa gặt trước Bế nặng nhiều lần, đầu mỏi càng vui Ý ngọt trong lòng, hương lúa em tôi Mùa gặt – xốn xang mong gặp gỡ Gương xanh con gà anh tặng Chỉ hồng – chiếc lược kèm theo Khăn hồng duyên dáng tôi vui Quai bế nắm chặt tay Trán hằn đường khó nhọc Đặt bế vuốt nhanh sợi tóc Nương cao sóng lua rạt rào Vọng xa tiếng suối ào ào Nhớ mùa đốt rẫy hôm nào ăn ngô Nắng cháy áo những trưa Lầm lỳ tay nạo cỏ Mặc mồ hôi cứ nhỏ Hẹn ngày gặt hôm nay Cụm lúa tròn mát rượi bàn tay Màu vàng óng hắt lên đôi má Tiếng hát ngân rung cành ban lá sớm Đường hép nhanh từng bông lúa hiền lành Lời em khoe ấm áp rừng xanh "Quai bế ướt vì năm nay mùa được" Rộn lòng chỉ thêu, chiếc gương, cái lược Khói chiều mường bản xôi thơm Anh sẽ đan quai bế đẹp cho em Để ngày lấy chồng bế theo chăn gối. Tây Bắc tháng 10/1955 @ Bế: Gần giống cái bồ con của người Kinh có quai ngoắc trên trán dòng về sau lưng. @ Hép: Là cái hái của người Thái dùng cắt lúa. Cầm Giang
52. QUÊ TÔI ĐIỆN BIÊN Tôi chưa được ngắm mặt hồ Thụy Sỹ Nước trong xanh hay giọt lệ nàng tiên Tôi chưa đến Sô-phia tráng lệ Xem mắt người hay những cánh sao đêm Hoa hồng nợ tình duyên Bun-ga-ri vời vợi Chưa được ngắm ánh đèn nước rọi Tôi chưa được hôn những cặp mắt nâu Đẹp huyền bí của cô nàng Ai Cập Tôi chưa đến mùa hè sông Áp Lục Chưa xem hang tượng thạch Ai-gen-tin Tôi nằm mê được cưỡi ngựa thảo nguyên Vút lao qua giữa đàn cừu Mông Cổ Chưa đến Thái Lan sờ mặt gỗ Ăn bát cơm Miến Điện ngọt ngào Chưa được hôn môi Nhật Bản Anh Đào Chưa thăm lại Cầu Kiều Trung Quốc Chưa biết những nhà cao Nữu Ước Chưa vào trường Lô-mô-lô-sốp vẻ vang Chưa được xem đê hiện đại Hà Lan Chưa vãng phật ở mái chùa Ấn Độ Nhưng quê tôi đã đến bao xứ sở Với tình thân giọt nước mẩu khoai Từ sa mạc bão cát Đến thượng tầng Nhị Lang Từ gác chuông Luân Đôn Đến Mạc Xây sóng biển Từ mái lầu ngõ hẻm Đến lâu đài U Bôn Đều biết quê tôi quen thuộc: Điện Biên Khi nhắc đến mỉm cười kiêu hãnh Ngừng giây phút cho chuông lòng lanh lảnh Xoa đầu con cúi xuống lọ hoa Nhắc đến để than vãn xót xa Hay đêm lạnh giữa rừng sâu ao ước Cho ngày mai càng dẻo bước xung phong Hoặc chau mắt lệ trào khi nhắc đến Ấp ảnh chồng nghiến răng thù chinh chiến Cho thời gian trên giấy ngả màu vàng Hay hô lên đỏ núi thép suối gang Vững tay lái trên mũi tàu đồng ruộng Quê tôi đã luồn qua tưởng tượng Cuốn phim đời muôn cảnh khác nhau Vâng! Có núi cao Nhưng đẹp tựa bồn hoa Xám mảng trời máu lửa ngày qua Đường rát đá mòn gót chân chai xẹo Núi nghiêng đầu đón bao đời niên thiếu Nhưng chôn muôn xác giặc – viễn chinh Rừng trụi cây cả dân tộc kéo lên Sông uốn khúc trôi ngàn năm rác rưởi Quê tôi – Điện Biên Phủ Thành tên của tổ quốc anh hùng Nhưng quê tôi vừa tắt lửa chiến trường Không rùng rợn như ai tưởng tượng Đúng giây thép gai, boong ke ngổn ngang bờ ruộng Chiến hào đan chéo mìn vương Níu lại thời gian cố vươn lên trước Giờ mỉm môi khâu vá thương đau Im lặng lấp chiến hào Lúa mọc trên thép vụn Lô cốt thành bờ ruộng Xác xe tăng thành đập nước vững vàng Hố bom đựng rác chứa phân Gỡ từng quả mìn, cấy thêm bụi lúa Ba mùa xuân hoa mai hết dần cánh úa Nở trắng đồi như bản mới mái gianh Mùa lúa năm nay mơn mởn đồng xa Cầu mới đường đầy vết xe mậu dịch Nắng dọc nghĩa trang – mái trường ríu rít Quê tôi lại đón gió bình yên Tôi – người con của rừng núi Điện Biên Mảnh rau chôn giữa đồi A1 Chân chưa đi ra ngoài nửa bước Nhưng quê tôi đã đi khắp hoàn cầu Mang cả lòng người hoài vọng ước ao! Tháng 1/1057 Cầm Giang
53. RỪNG THIÊNG Bố mẹ bảo cái rừng này thiêng Người ta nói cái rừng này thiêng Có nhiều ma, nhiều đom đóm Đêm đi qua ai cũng nói rừng thiêng Nhiều lần em cũng thấy nó thiêng Nghĩ đến thấy lòng sờ sợ Anh hẹn em đêm nay đến đó Yêu anh em thấy nó chẳng thiêng. Châu Mai Sơn tháng 02/1957 Cầm Giang
54. SAO ANH KHÔNG LẤY Anh bộ đội ơi! Em cho trứng gà sao anh không lấy Vài quả trứng gà có đáng mấy Công anh bằng cái núi Đen Đim Hay sợ nhà nghèo em phải đi xin Trứng của gà nhà, nhà em giầu lắm Em có tám nghìn con trâu đen trắng Có trăm đồi cỏ để chăn bò Lúa ở nương từng đàn ngựa đi thồ Có tràn ruộng dài hai mươi cây số Có cả sông đánh hàng ngàn thuyền cá Quả ổi quả đào xếp to hơn núi Sam Sao Có lợn gà đếm nhiều hơn trăng sao Vải phủ lên kín Sông Đà không thiếu Quế trong rừng cho cả đàn voi kéo Mật ong nhiều hơn nước suối Mon Hay anh chê trứng gà nhà em không ngon Để em đi lấy thịt con nai con hoẵng Hay anh ăn thịt công, thịt vượn Gà rừng, lợn núi, sơn dương Ở nhà em cũng nuôi sẵn đầy vườn Sân nhà em nhiều mỏ vàng, mỏ kẽm Hay anh chê cái lòng em còn kém Lòng em như cây mía Mường Lay Như quả đào Bang Hán, như táo Mường Ngà Nhưng lòng em cũng như dao cạo nứa Như quả bầu có đàn khỉ vây quanh Em cầm dao hát tiếng hát Mường Chanh Em vác nỏ giây Mai Sơn tên Phủ Vạn Em đã theo anh đánh Tây nhiều trận Vạch rừng diệt phỉ biết bao phen Từ Mộc Châu, Nghĩa lộ đến Điện Biên Anh đã nói lòng em như nhà rộng Hay anh sợ mẹ cha mà không nhận Chính mẹ cha sai em lấy đem cho Cha mẹ yêu anh, yêu em nhiều đấy Anh bộ đội ơi sao anh không lấy Cầm đi không bố mẹ em mắng. Tây Bắc 12/1957 Cầm Giang