Bạn được Bi Gấu mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
4441 273
Kiếm tiền
Hoang0302 đã kiếm được 44410 đ
85139604_489610225046401_262454348968099840_n.png

Người Nam Bộ gặp mưa mà không có áo nón gì thì hay ghé các mái hiên nhà, hàng quán tránh mưa. Hành động đó người Nam Bộ gọi là "đục mưa", mà chính tả là "đụt mưa".

"Đụt" là tránh, nấp cho khỏi mưa nắng. Ngoài "đụt mưa" còn có "đụt nắng", nhưng ít dùng. Đại Nam Quấc âm Tự vị của Hùinh Tịnh Paulus Của còn ghi nhận "đụt bóng râm" là "núp (tức nấp) vào bóng râm".

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
87109604_488344921839598_7166238858491723776_n.jpg

Thành ngữ dùng để chỉ việc chuyên tâm, khổ công học tập để tham gia khoa cử, cũng dùng đảo lại là "nấu sử sôi kinh". Thành ngữ này xưa vốn dùng là "xôi kinh nấu sử" hoặc "nấu sử xôi kinh".

Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, câu 11, 12 viết: "Theo thầy nấu sử xôi kinh, Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao". Câu "Theo thầy nấu sử xôi kinh", chữ Nôm viết 蹺柴史經. Chữ đọc là "xôi", nghĩa chính là món xôi nấu bằng gạo nếp mà ta vẫn quen thuộc.

Truyện Lục Vân Tiên bản Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải giảng về bốn chữ "nấu sử xôi kinh" như sau: "Thành ngữ chỉ về sử khổ công học tập, học chăm mà kỹ nhiều lần cho thật chín như việc nấu cơm, đồ xôi. Kinh sử chỉ chung các kinh truyện và sách sử học trò thời xưa phải học để đi thi".

Trong Đại Nam Quấc âm Tự vị, Hùinh Tịnh Paulus Của cũng ghi nhận "Xôi kinh nấu sử" và giảng là "chuyên việc học hành". Nhưng Hùinh Tịnh Paulus Của không dùng chữ mà dùng chữ, ấy là do chữ Nôm chưa thống nhất cách viết, cùng một âm đọc nhưng có nhiều cách viết khác nhau. Và dù là hay thì cũng đều đọc là "xôi" và chỉ món ăn từ gạo nếp cả.

Cách dùng này dần dần biến đổi thành "nấu sử sôi kinh" hoặc "sôi kinh nấu sử", với ý học hành như đun như nấu cho sôi cả lên, tức là nhuần nhuyễn lắm, kỹ càng lắm. Đến Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì ghi nhận "nấu sử sôi kinh, cũng nói nấu sử xôi kinh" và cho "nấu sử xôi kinh" là cách dùng cũ, giảng nghĩa là "khổ công học tập để đi thi".

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
83643510_479181679422589_7390564596634877952_n.jpg

"Sáo" là từ Hán Việt, chữ Hán viết là 套, nghĩa là cái bao, cái vỏ, cái túi, cái gì khoác bên ngoài (bên ngoài cái khác) thì gọi là sáo, như "thủ sáo" là găng tay, bao tay. Từ nghĩa này, chữ "sáo" còn có nghĩa là khuôn mẫu, ta hay nói "khuôn sáo". Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng "Khách sáo" là "có tính chất xã giao, lịch sự bề ngoài, không thật lòng".

Trong sách "Cuộc sống ở trong ngôn ngữ", thầy Hoàng Tuệ có viết về từ "sáo" và giảng từ "sáo ngữ" như sau: "Sáo ngữ là những lời nhất định, dùng để" bọc "những ý nghĩ nhất định, tức là những lời xưa nay đã nghe nhiều người nói, đặc biệt là những lời chào mừng, tán tụng, đã có sẵn như thế, và cứ phải nhớ cho kỹ như thế mà nói lại, với nhiều vẻ khách tình, hơn là chân tình, thực tình".

Còn "sáo rỗng" nghĩa là cái bao rỗng, cái túi rỗng, ngoài lớp vỏ ra thì bên trong không có gì, nên "sáo rỗng" thường dùng để chỉ cái gì chỉ có vẻ ngoài mà không có nội dung, như "văn chương sáo rỗng", "lời nói sáo rỗng", thỉnh thoảng còn thấy người ta dùng "tư duy sáo rỗng", "hành động sáo rỗng".

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Sào Huyệt

85087861_483952655612158_1996923096992317440_n.jpg

Từ Hán Việt, chữ Hán viết 巢穴, bính âm là /cháoxué/, trong đó:

- Sào là cái ổ, cái tổ chim, như yến sào là tổ yến;

- Huyệt là cái hang thú.

"Sào huyệt" nghĩa là hang ổ, thường dùng để chỉ nơi tụ tập, ẩn náu của bọn bất lương, phường trộm cướp.

(Từ này dễ quá hén mọi người. Nói chớ thỉnh thoảng thấy mấy chỗ bán tổ yến ghi là "bán yến xào" mà "giựn dễ xợ")

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Cân Xứng

81618202_458465228160901_8264190678699868160_n.png

Từ Hán Việt Việt tạo*, chữ Hán viết là 斤稱, trong đó:

- Cân là đơn vị đo trọng lượng, xưa một cân bằng mười sáu lạng, nên mới có câu "kẻ tám lạng người nửa cân" để chỉ hai bên ngang ngửa nhau;

- Xứng là dụng cụ đo trọng lượng, giáp cốt văn vẽ hình một bàn tay xách con cá, ý chỉ việc đo lường xem nặng nhẹ thế nào.

"Xứng", vốn dùng là "xưng". Bài "Bảo kính cảnh giới số 45" của Nguyễn Trãi (trong Quốc Âm Thi Tập) có câu: "Mực thước thế gian dầu có phải, Cân xưng thiên hạ lấy đâu tày".

Còn "Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa" giảng "cân xưng: Vật gì nặng nhẹ biết ngay". "Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa" được xem là cuốn từ điển Hán Nôm cổ nhất của lịch sử tiếng Việt.

Nay ta quen dùng "xưng" trong các trường hợp mang nghĩa "gọi là", "gọi bằng" như "xưng hô", "danh xưng", và dùng "xứng" trong các trường hợp mang nghĩa "vừa", "hợp với", "vừa vặn" như "đối xứng", "tương xứng".

"Cân xứng" (hay nguyên từ là "cân xưng"), vốn mang nghĩa là đo lường nặng nhẹ, nay thường dùng theo nghĩa "tương đương và phù hợp với nhau" theo ghi nhận của Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên.

* Hán Việt Việt tạo tạm hiểu là mỗi chữ trong từ này có gốc Hán nhưng tiếng Hán không dùng, người Việt từ cái gốc Hán đó tự sáng tạo ra từ mà dùng và dùng theo âm Hán Việt.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Bức Bách

81401599_456031541737603_7869196890267451392_n.png

Từ ghép Hán Việt, chữ Hán viết là 逼迫, bính âm là /bīpò/, trong đó:

- Bức là bắt buộc, buộc phải, Thiều Chửu giảng "ở vào chỗ hai bên nó đè ép không cựa được nữa gọi là bức", như bức hôn, bức tử;

- Bách là đè ép, ép buộc, tình huống kề sát tận nơi, không còn khe hở nào nữa gọi là bách, như quẫn bách, cấp bách.

"Bức bách" là bắt ép, bắt buộc, giục giã, thôi thúc, đòi hỏi phải làm ngay.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Các Thành Ngữ Về Chuyện Ăn Của Người Việt

Một số quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao có liên quan đến việc ăn mà nhà nghiên cứu Trần Huiền Ân sưu tầm và đưa vào sách "Ăn, Uống, Nói, Cười & Khóc".

- Ăn cháo lươn: Trẻ con bị đánh, những lằn roi in trên mông trông giống như những con lươn, bị chế nhạo là ăn cháo lươn.

- Ăn dư cơm: Rảnh rỗi công việc đi chơi rong tán gẫu hoặc làm những việc không cần thiết, không phải của mình.

- Ăn gạo luộc: Ăn cơm lạt, không có thức ăn.

- Ăn lấy thảo: Ăn một ít có tính cách tượng trưng để đáp lại lòng thảo của người mời. - Lời khiêm tốn khi tặng quà: "Xin gửi ông bà chút ít ăn lấy thảo."

- Ăn ở không: Ăn rồi không có việc gì làm.

- Ăn quấy quá: Ăn sơ sài, vội vàng, lấy có.

- Ăn bánh liệng lá: Làm việc gì sai, hoặc không tốt, xong phi tang, xóa vết, không muốn ai biết.

- Ăn bánh trả tiền: Thanh toán sòng phẳng. Dùng để nói khi người đàn ông có quan hệ bất chính về nhục thể, nhưng chỉ nhất thời, không phải là tình cảm.

- Ăn Bắc mặc Kinh: Ca ngợi cách ăn mặc, người Bắc có món ăn ngon, người Huế (kinh) có y phục đẹp.

- Ăn bằng nói chắc: Trong giao tiếp, xử sự, cần phải chất phác, thẳng thắn.

- Ăn bòn ăn mót: Bòn là mình đã có còn kiếm chác thêm, mót là lượm lấy những gì còn sót hay bị thải bỏ. - Nói về hạng giàu có mà keo kiệt.

- Ăn bụi nằm bờ: Người không gia đình hoặc bất đắc dĩ phải xa nhà, sống lang thang, khổ cực.

- Ăn cá bỏ lờ: Phê phán những kẻ bạc ơn bạc nghĩa, xong việc là quên ngay người giúp.

- Ăn cướp cơm chim: Ăn chận, ăn xén tiền bạc của người nghèo.

- Ăn cháo báo cơm: Hà tiện, nấu cháo ăn, tưởng rằng đã no, sau đói bụng phải nấu cơm, thêm tốn. - Lợi bất cập hại do việc bủn xỉn.

- Ăn cháo đái bát: Kẻ bạc bẽo, ăn của người rồi nói xấu, phản phúc. - Hưởng xong phá cho hư, không để người khác hưởng.

- Ăn chẹt ăn gánh: Cách ăn quân trong bàn cờ gánh. - Người làm việc công dùng thủ đoạn bắt bí dân nghèo để ăn tiền.

- Ăn chung làm riêng: Một cách bắt đầu gây dựng cho con khi vừa cưới vợ, ăn chung với cha mẹ, phần tiền của làm được để riêng, chuẩn bị cho việc sau sẽ ăn riêng.

- Ăn chung ở chạ: Một vài gia đình sống chung một nhà, ồn ào, khó chịu.

- Ăn chực nằm chờ: Thời gian thất nghiệp, hoặc có việc liên can đến phải chờ đợi xin xỏ người khác giúp đỡ, tâm trạng không được thoải mái.

- Ăn dầm nằm dề: Ăn ở lâu tại nhà người, một nơi nào đó.

- Ăn dĩa gái dỗ: Tục lệ cũ ở thôn quê không cho con trai nhỏ ăn cơm bằng dĩa, sợ sau bị con gái quyến dụ.

- Ăn đều kêu sẵn: Lúc ăn chia đều thì lúc có việc kêu gọi được đáp ứng sẵn sàng. - Chia đều lợi lộc cho đàn em thì khi có việc cần dễ sai khiến.

- Ăn đói mặc rách: Thực trạng người nghèo khổ. - Bị ngược đãi, nuôi dưỡng thiếu thốn.

- Ăn già ăn non: Ăn nhiều, ăn ít. Trong cờ bạc có khi ăn nhiều mới nghỉ, có khi ăn chút ít thấy chắc nên nghỉ.

- Ăn gian nói dối: Dùng lời gian dối, phao vu cho người khác.

- Ăn gió nằm sương: Cảnh sống vất vả ngoài trời, như câu chữ Hán: Lộ túc phong san lục bách lý, đi xa 600 dặm phải ăn gió nằm sương.

- Ăn hại đái nát: Ăn uống tốn kém mà không làm được lợi ích gì.

- Ăn hơn hờn thiệt: Hờn dỗi bỏ bữa ăn hay không nhận phần chia chác thì bị thiệt thòi, nên nhận lấy là hơn.

- Ăn không ngồi rồi: Người không có việc gì làm, chỉ ăn ở không.

- Ăn mày cửa Phật: Cầu xin phước lộc ở chùa. - Những người dựa vào việc tu hành để sống.

- Ăn mày quen ngõ: Ăn mày xin được ở nhà ai thì thường đến chỗ đã quen. - Thói thường nhờ nhõi ai được thì ăn quen đến xin xỏ người ấy luôn.

- Ăn miếng trả miếng: Không chịu thua kém, không chịu nhịn khi bị bắt nạt, hăm dọa, sẵn sàng đối địch.

- Ăn no ngủ kỹ: Kẻ sung sướng, đời sống đầy đủ, không lo nghĩ gì. - Kẻ ham sung sướng, lười biếng, không chịu làm việc.

- Ăn ngược nói ngạo: Nói trái với lẽ thông thường, khó nghe.

- Ăn sóng nói gió: Ăn nói mạnh dạn, có phần cường điệu, như đang đối diện với sóng gió. - Cách nói lớn tiếng của những người đi biển.

- Ăn sống ăn tái: Cũng là cách ăn bừa bãi, không kể tốt xấu.

- Ăn sống nuốt tươi/ Ăn tươi nuốt sống: Nhanh chóng giành lấy phần lợi hơn cho mình. - Nói tươm tướp, lấn lướt, không cho ai nói lời nào.

- Ăn bớt bát, nói bớt lời: Nên ăn uống điều độ, nói năng chừng mực, không ăn bừa, nói càn.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
Chỉnh sửa cuối:
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Động Phòng

79776473_437965540210870_7404254195005521920_n.png

Từ cũ, giờ vẫn còn dùng nhưng chủ yếu dùng trong văn cảnh, chữ Hán và chữ Nôm đều viết là 洞房, trong đó:

- Động là cái hang sâu;

- Phòng là căn buồng.

Nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Thạch Giang giảng "động phòng" là từ để chỉ căn buồng sâu kín, như cái hang sâu vậy, ý nói phòng của vợ chồng mới cưới. "Truyện Kiều" viết "Động phòng dịu dặt chén mồi, Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa".

Ờ, ờm, nói chung "động" trong "động phòng" không phải là từ chỉ hành-động-mà-ai-cũng-tưởng-là-hành-động-gì-đó nha.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Lăng Loàn

79325861_436521780355246_3059677711749349376_n.png

Từ Hán Việt, chữ Hán viết là 凌亂, giản thể viết 凌乱, bính âm là /línglùan/, trong đó:

- Lăng là xâm phạm, như "lăng nhục", "xâm lăng";

- Loàn, thường đọc là "loạn", nghĩa là lộn xộn, rối rắm, mất trật tự.

Về mối quan hệ âm đọc giữa "loàn" với "loạn" còn có thể tìm thấy sự tương đồng ở nhiều trường hợp khác như "dùng - dụng", "loài - loại", "nhì - nhị", "vàn (muôn vàn) - vạn".

"Lăng loàn", từ điển Hoàng Phê giảng là động từ, nghĩa là có hành vi hỗn xược xúc phạm người trên, không chịu phục tùng khuôn phép (thường nói về phụ nữ trong quan hệ gia đình), như "con dâu lăng loàn với mẹ chồng", "thói lăng loàn", "ăn nói lăng loàn", "người vợ lăng loàn".

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Từ Địa Phương: Cái "Mái"

78498216_433167527357338_3560133979753414656_n.png

Từ điển Hoàng Phê giảng trong tiếng Việt chữ "mái" là danh từ thì có 3 từ, cụ thể:

- Mái (1) : Phần che phủ phía trên cùng của nhà, như "mái lợp lá", "mái ngói", "nhà mái bằng"; phần mặt đất có hình dốc thoai thoải, từ đỉnh trở xuống trông giống như mái nhà ở một số vật, như "mái đê", "mái núi"; phần tóc ở trên đầu, như "mái đầu xanh", "tóc rẽ mái".

- Mái (2) : Dụng cụ để bơi thuyền, làm bằng thanh gỗ dài, một tròn, một đầu dẹp và rộng bản, như "mái chèo" là loại dài lắp vào cọc, "mái dầm" là loại ngắn, cầm tay để bơi thuyền.

- Mái (3) : Phương ngữ chỉ cái chum. Hoàng Phê chỉ giải thích gọn như vậy thôi, không cho thêm thông tin gì.

Trong sách "Giúp đọc Nôm và Hán Việt", Trần Văn Kiệm giảng "mái" là "chum, từ miền Nam". Chữ Nôm gồm có bộ "thạch" 石 cho ý và chữ "mãi" 買 cho âm. Tức là vật này làm từ đất đá (đất nung) và có âm gần với âm "mãi". Các bạn xem chữ Nôm trên hình.

Ngoài ra còn có cách dùng "mái vú", "lu mái vú" nữa. Và trên thực tế thì cách gọi lu, mái, kiệu, thạp/khạp, vại, tĩn, bình, này nọ kia ấy thì đều chỉ những vật dụng khác nhau, phổ biến tùy theo địa phương. Nào giờ mình không biết (mấy) từ này thì nay mình biết thêm. Nói vậy thôi chứ tui cũng không chắc liệu biết thêm như vậy có ích gì không. Đọc chơi cho vui thôi.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
Chỉnh sửa cuối:
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Hi Sinh

76765616_431027717571319_8985799365440307200_n.jpg

Từ Hán việt, chữ Hán viết là 犧牲, giản thể viết 牺牲, bính âm là /xīshēng/, trong đó:

- Hy là con vật thuần sắc dùng để cúng tế;

- Sinh là con vật dùng để cúng tế nói chung, bất kể thuần hay không thuần sắc.

Từ điển Thiều Chửu giảng con vật nuôi thì gọi là "súc", dùng để cúng thì gọi là "sinh", lại giảng "Vua Thang cầu mưa, tự phục trước miếu thay làm con muông (tức là con thú, trong từ ghép muông thú - NNVC) để lễ, vì thế người ta gọi những người bỏ cả đời mình để làm cho đạt một sự gì là hy sinh."

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Phân Biệt Các Từ Ngộ

70214638_424007718273319_6309134222829289472_n.jpg

- Giác ngộ: Chữ "ngộ" này có nghĩa là hiểu ra, hiểu rõ, mở trí óc ra không mê muội nữa. Chữ Hán viết là 悟. "Giác ngộ" là tỉnh ra mà hiểu rõ. Đây chính là chữ "ngộ" trong cảm ngộ, chấp mê bất ngộ, đại ngộ, ngộ tính, tỉnh ngộ.

- Hội ngộ: Chữ "ngộ" này vốn có nghĩa là gặp nhau, hợp nhau. Đối đãi với nhau. Chữ Hán viết là 遇. "Hội ngộ" là gặp nhau, thường là không hẹn mà gặp giữa những người thân thiết. Đây cũng là chữ "ngộ" trong Bích câu kì ngộ, cảnh ngộ, đãi ngộ, hạnh ngộ, kì ngộ, tao ngộ, tri ngộ, tương ngộ.

- Ngộ nhận: Chữ "ngộ" này nghĩa là lầm, sai, lầm lỡ, làm hại. Chữ Hán viết là 誤. "Ngộ nhận" nghĩa là hiểu sai, hiểu lầm, nhận thức sai. Đây chính là chữ "ngộ" trong ngộ giải, ngộ sát, thác ngộ (lầm lẫn).

- Ngộ mị: Chữ "ngộ" này có nghĩa là thức, không ngủ. Chữ Hán viết là 寤. Chữ này nay hiếm dùng. "Ngộ mị" là thức và ngủ. Trong "Bình Ngô đại cáo", bản dịch của Ngô Tất Tố viết "Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi", thì bản chữ Hán của Nguyễn Trãi viết là 圖回之志, 寤寐不忘, tức "Đồ hồi chi chí, ngộ mị bất vong". "Ngộ mị bất vong" nghĩa là dù thức hay ngủ cũng không quên.

Và còn một số chữ "ngộ" ít phổ biến nữa tụi mình không kể ra đây. Trong tiếng Việt, những chữ "ngộ" này dù viết (bằng chữ Quốc ngữ) và đọc giống nhau nhưng về mặt ngữ nghĩa thì hoàn toàn không giống nhau.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Chi Tiết

75552891_419357615404996_8172669358028357632_n.png

Từ Hán việt, viết là 枝節, giản thể viết 枝节, bính âm là /zhījié/, trong đó:

- Chi là cành cây, như kim chi ngọc diệp là cành vàng lá ngọc;

- Tiết là đốt tre, cũng dùng để chỉ đốt cây, tức là cái lóng cây, đoạn giữa hai mắt, hai đầu khớp, như cốt tiết là đốt xương.

"Chi tiết" vốn là cành cây và đốt cây, ý chỉ những cái nhỏ nhặt, cái bộ phận trong cái toàn thể.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Lâm Ly

74167145_418031398870951_5318905113027280896_n.png

Từ Hán việt, viết là 淋漓, bính âm là /línlí/, trong đó:

- Lâm là ngâm nước, dầm nước, ướt đẫm, như "nhật sái vũ lâm" là dầm mưa dãi nắng;

- Ly là thấm ướt, thấm khắp, Từ điển Nguyễn Quốc Hùng giảng nước thấm vào đất thì gọi là ly.

"Lâm ly" (cũng viết "lâm li") là từ ghép vốn có nghĩa thấm ướt, ướt át, mở rộng nghĩa thành buồn rầu thấm thía. Từ điển Hoàng Phê giảng chuyện gì buồn thảm, gây thương cảm là "lâm ly", như tiếng khóc nghe lâm ly hay khúc nhạc lâm ly.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nghĩa Của Từ Tồi Tàn

74216832_413431359330955_187452219841314816_n.jpg

Từ Hán Việt, chữ Hán viết là 摧殘, giản thể viết 摧残, bính âm là /cuīcán/, trong đó:

- Tồi là bẻ gãy, hủy hoại, phá vỡ, làm thương tổn, từ điển Nguyễn Quốc Hùng giản "tồi bại" là "hư hỏng xấu xa";

- Tàn là hư hại, rách, sứt mẻ, hỏng, cũng có nghĩa là cái còn thừa lại ( "tàn bôi" là chén rượu thừa, ý nói tiệc đã kết thúc), giết ai, hủy hoại ai cũng gọi là tàn (như "cốt nhục tương tàn"), bị thiếu, khuyết mất cũng gọi là tàn (như "tàn tật").

"Tồi tàn" là từ ghép chỉ cái gì bị phá hư, bị hủy hoại, bị làm cho tan nát. "Truyện Kiều" viết: "Hạ từ van lạy suốt ngày, Điếc tai lân tuất phũ tay tồi tàn". Từ "tồi tàn" ở đây mang nghĩa bị làm cho tan nát, ý nói hai cha con nhà họ Vương bị bọn sai nha "đánh đập tàn nhẫn" (theo bản "Truyện Kiều" do Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải).

Về sau mở rộng nghĩa thành cái gì hư hỏng, đổ nát cũng gọi là "tồi tàn", như từ điển Hoàng Phê giảng "tồi tàn" nghĩa là "tồi* quá đáng đến mức thảm hại" (ăn mặc tồi tàn, căn nhà tồi tàn rách nát). Chúng ta thường dùng từ "tồi tàn" với nghĩa này.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Giải Nghĩa Từ Bỉ Ổi

74605521_408753789798712_4734330862559035392_n.png

Từ Hán Việt, viết là 鄙猥, bính âm là /bǐ wěi/, trong đó:

- Bỉ là thô tục, thô lỗ, hèn hạ, hèn mọn, đê tiện, nói chung là bảy bảy bốn chín cái nghĩa chỉ kẻ thô tục;

- Ổi là hèn hạ, thấp kém.

"Bỉ ổi" là từ để chỉ sự xấu xa, hèn hạ, đáng khinh, như hành động bỉ ổi, con người bỉ ổi, thủ đoạn bỉ ổi.

(Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa chứ ổi này không liên quan gì trái ổi)

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Giải Nghĩa Từ Trụy Lạc

74232777_407999189874172_7207280294661980160_n.png

Từ Hán Việt, viết là 墜落, giản thể viết 坠落, bính âm là /zhùiluò/, trong đó:

- Trụy là ngã xuống, rơi, rụng, đổ, mất, chìm xuống;

- Lạc là rơi rụng, sa xuống, "ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu" (梧桐一葉落, 天下共知秋) là một lá ngô đồng rụng, mọi người đều biết là mùa thu đến.

"Trụy lạc" nghĩa chung là rơi rụng, nên được dùng để chỉ sự sa ngã, như Từ điển Hoàng Phê giảng là "sa vào lối sống ăn chơi thấp hèn, xấu xa".

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Giải Nghĩa Từ Trắc Ẩn

65274997_348649185809173_8292249519656009728_n.png

Từ Hán Việt, viết là 惻隱, giản thể viết 恻隐, bính âm là /cèyǐn/, trong đó:

- Trắc là xót xa, bùi ngùi, đau lòng, thương xót trước cảnh khổ thì gọi là trắc, "Liêu trai chí dị" của Bồ Tùng Linh viết: "Quy kiến môn hộ tiêu điều, ý thậm bi trắc" (歸見門戶蕭條, 意甚悲惻), về thấy nhà cửa tiêu điều, trong lòng rất chua xót. ;

- Ẩn là không hiện ra, che đi, là không để cho người khác thấy hoặc biết, như chuyện còn chưa rõ, còn nhiều điều chưa thể hoặc chưa được tiết lộ gọi là "ẩn tình", ngoài ra chữ "ẩn" cũng có nghĩa là nỗi khốn khổ nữa.

"Trắc ẩn", theo từ điển Hoàng Phê nghĩa là thương xót trong lòng. Động lòng trắc ẩn nghĩa là có việc gì đó xảy ra, chạm vào lòng thương xót vốn có ở trong lòng.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Nguồn gốc của câu "Từ thời năm Thìn bão lụt.."

71591521_393366498004108_3894649646496088064_n.jpg

Người Nam bộ có câu cửa miệng rằng, "từ thời năm Thìn bão lụt", hoặc "hồi năm Thìn bão lụt", hoặc là "nước tràn như năm Thìn bão lụt". Hồi bé tui cứ tưởng đó chỉ là cách nói chung chung vì năm Thìn là năm rồng, mà rồng thì làm mưa. Té ra có một năm Thìn bão lụt thật.

Sách "Đồng bằng Sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa & Văn minh Miệt vườn" của Sơn Nam (NXB Trẻ, 2017, tr. 24-25) viết: "Hạn hán, mất mùa ít xảy ra, chẳng bao giờ gây thiệt hại lớn, đồng loạt cho nhiều vùng một lượt. Ôn lại trí nhớ, quanh quẩn có vụ bão lụt năm Thìn là biến cố hy hữu, xảy ra vào mùa nắng (Rằm (1) tháng 3 nông lịch, 1 tháng 5 năm 1904), trận" sóng thần "do động đất từ đáy biển khơi dậy lên".

Lần mò tư liệu thì thấy trận bão lụt này từ biển vào đất liền, nơi chịu trận đầu tiên là xã Tân Thành, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang bây giờ. Có tư liệu không kể đó là "sóng thần do động đất từ đáy biển khơi dậy lên" như Sơn Nam mà ghi là cơn bão này đi từ Cao Miên qua. Dù từ nguyên do gì thì dân gian vẫn còn lưu truyền nhiều câu ca dao, bài vè miêu tả cái sự kinh hoàng khiếp đảm của nó:

"Không ai mà rõ thiên cơ

Bước qua mười sáu giông chơi một hồi

Tưởng là một lát mà thôi

Ai dè đến tối nổi trôi cửa nhà.."

16 âm lịch vốn là ngày chánh con nước Rằm. Tuy nhiên tháng 3 là mùa nước kém nên chuyện nước dâng là không ai ngờ đến.

Từ Tiền Giang, bão lan ra khắp Nam bộ:

"Mỹ Tho, Cửa Tiểu ba đào

Bến Tre, Cần Giuộc, Vũng Tàu, Đồng Tranh

Cần Giờ, Bà Rịa chung quanh

Thảy đều hư hại rành rành chẳng sai

Vĩnh Long, Sa Đéc một vài

Cần Thơ cây ngã lầu đài vô can.."

Sài Gòn cũng không tránh khỏi:

"Bến Thành nóc chợ cũng bay

Đèn khí nó ngã nằm ngay cùng đường.."

Trận đó chết đến hàng ngàn người:

"Tại kinh Nước Mặn (2) chết nhiều

Ghe bầu, tàu khói (3) tấp xiêu lên bờ

Đứt neo gãy bánh (4) nằm trơ

Tàu khói lên bờ huống luận là ghe.."

"Gò Công nghe bão nặng nề

Bình Duân, Long Kiểng gần kề hải duyên.."

"Ghe bầu trôi tắp lên bờ

Thây ma trôi tới Cần Giờ quá đông.."

Về sau còn có câu ca dao này:

"Gặp em đây mới biết em còn

Hồi năm Thìn bão lụt anh khóc mòn con ngươi"

Để thấy một trận năm đó đi qua, kẻ còn người mất, lưu lạc tứ tán.

Đến năm Nhâm Thìn 1952 cũng có một trận bão nữa dù ít được sáng tác vè hay ca dao bằng trận năm 1904, nhưng mà nó hình thành chung tâm lý sợ năm Thìn của người Nam bộ. Có ý kiến bảo là năm 2000 bị đồn tận thế tối trời gì đó có nhiều lý do, nhưng cũng có lý do vì đó là năm Thìn. Cái này thì tui không chắc vì lúc đó tui còn nhỏ, chả nhớ được gì :))

* * *

(1) Sơn Nam viết 1/5/1904 là ngày Rằm, nhưng cũng có chỗ ghi là 16, nên mới có câu ca dao "Không ai mà rõ thiên cơ, Bước qua mười sáu giông chơi một hồi". Mà theo lịch vạn niên tui có thì hôm đó ngày 16 âm lịch.

(2) Kinh Nước Mặn thuộc Long An.

(3) Tàu khói là tàu có ống khói, tức là thuyền lớn. Người Nam bộ kêu thuyền lớn là tàu, thuyền nhỏ là ghe, nhỏ nữa là xuồng, rồi còn nhiều loại khác nữa.

(4) Gãy bánh là gãy bánh lái tàu ghe, không phải bánh xe.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 
136 ❤︎ Bài viết: 163 Tìm chủ đề
Giải Nghĩa Của Từ Xạo Ke

70776828_390485831625508_9189010915507306496_n.png

Hồi bữa tui coi một MV ca nhạc thiếu nhi, đầu tư công phu lắm, mỗi tội MV có một chi tiết làm tui hơi giật mình, rằng thoại trong MV có đoạn cô bé nhân vật chính, chắc chừng 5-6 tuổi, dùng từ "xạo ke".

Hồi năm 2018 tui đã giải thích nghĩa của từ này rồi, và từ độ biết nghĩa của nó đến nay tui hết dám dùng luôn á. Nay đăng lại từ này để ai chưa đọc thì đọc cho biết.

Đầu tiên là "xạo". Đại Nam quấc âm tự vị của Hùinh Tịnh Paulus Của giảng "xạo" là "rộn ràng". Xạo xự cũng là rộn ràng, đừng xạo xự nghĩa là đừng có rộn ràng. Nói xạo nghĩa là nói cho rộn bộ, nói cho qua việc, nói cho lớn lối mà không làm sự gì. Từ nghĩa này, tụi mình cho là "nói xạo" đã di nghĩa thành "nói dối", "nói quá sự thật". Từ điển Hoàng Phê thì bảo "xạo" là "không đứng đắn, bậy bạ".

Giờ đến "ke". Cũng trong Đại Nam quấc âm tự vị, Hùinh Tịnh Paulus Của giảng "ke" là "khớm, bợn trắng trắng hay đóng theo răng, dựa đàng tiểu, tiếng tục." Cái nghĩa bợn trắng trắng đóng theo khe răng hay chảy ra ngoài trong lúc ngủ (ngủ chảy ke) thì dễ hiểu rồi, nhưng còn cái "tiếng tục" mà Huỳnh Tịnh Của không giảng rõ kia lại là gì?

Đào ngược về một tài liệu xưa hơn là Từ Điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes thì có giảng "ke" là từ "chỉ bộ phận sinh dục đàn ông hay đàn bà". Ke chính là từ cũ của kẽ như kẽ nứt, kẽ hở, kẽ tay. "Ke" còn có một âm khác là "khe". Trong tiếng Việt xưa, "ke", "kẽ" hay "khe" đều là những từ tượng hình chỉ bộ phận sinh dục nữ.

Bữa đọc sách về ca dao, đoạn về những câu nhiếc móc kẻ giàu mà hà tiện, tui còn đọc được câu này:

"Thà nghèo một buổi hai ve,

Hơn giàu hà tiện ăn ke liếm l*."

(Chỗ l* là gì thì chắc mọi người thừa biết)

Từ những ý trên, mọi người có thể đoán được "xạo ke" là xạo gì rồi ấy. Nói chung, "xạo ke" là một từ tục có thể giờ đã mất nghĩa tục, chỉ còn cái nghĩa bình dân nên nhiều người vẫn nói với nhau. Dù có thể nó mất nghĩa tục, nhưng mà tui vẫn không thể không giật mình khi nghe trẻ con nói. Người mình hay có cái tật dùng từ mà không rõ nghĩa, cứ nói như một thói quen, đôi khi thật tai hại.

Nguồn: Ngày Ngày Viết Chữ
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back